Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021

Bên kia chiếc cầu 2

Bên kia chiếc cầu 2

Chương 6

− Con của ông Bá Huê, tên Hộ đó, mấy hôm nay không còn thấy nó nữa.

− Hắn đi đâu?

− Giang không biết. Nghe đâu mấy người làm công trong nhà Bá Huê nói hắn đã theo gia nhập “đội mã tà”.

− Ghê gớm vậy! Cả nhà Bá Huê chắc đều theo Pháp. Như thế là làng này sẽ khổ.

Thảo Giang cắn một cọng lúa non trên miệng, đôi mắt mơ màng:

− Nhưng vắng mặt tên Hộ, Giang cảm thấy nhẹ nhõm, không sợ bị đe dọa nữa. Không còn bị hắn rình rập trước nhà, hay ngó chăm chăm mỗi khi đi ngang cầu… Chao ơi! Cái đôi mắt của hắn, đôi mắt khủng khiếp làm sao! Hắn đúng là ác quỷ.

− Nói mà không sợ tội à? Hắn là con của Bá Hộ giàu sang thế lực, ông làng ông xã còn phải sợ. Bao nhiêu kẻ ước ao vào nhà đó mà không được…

Thảo Giang lộ vẻ giận hờn:

− Đến anh Sơn mà còn nói như vậy. Nếu anh Sơn sợ hắn, sao cái hôm gặp hắn trong vườn, anh Sơn dám đánh hắn?

Sơn cười:

− Ừ, thì… tại… vì…

− Sao anh Sơn dám đấm vào mũi hắn?

Sơn nhìn Thảo Giang. Cái đôi mắt dòng sông bây giờ đang là ngọn thác. Sơn nghe tiếng nước chảy ào ạt làm rung động cả lòng. Sơn khẽ nói:

− Vì… vì tôi… thương Thảo Giang.

Cọng lúa non trên môi đã đứt. Thảo Giang nói run run:

− Anh Sơn nói… nghe ngộ quá!...

Một thoáng im lặng trải qua. Rồi Sơn rút ở thắt lưng cây dùi sắt, đưa ra cho Thảo Giang thấy:

− Cây dùi này, chính ra tôi đã mài để… trị tội tên Hộ. Tôi ghét hắn, tôi thù hắn.

Thảo Giang thở ra:

− Nhưng hắn đã đi rồi. Anh Sơn cũng đừng hành động nông nổi mà chịu tù tội.

− Đúng. Ta còn nhiều việc phải lo. Ta phải rỉ tai từng người để họ giúp đỡ nghĩa quân. Căn cứ Tân Hòa đang bị tấn công.

− Nhưng chắc nghĩa quân sẽ giữ được đất.

Sơn vuốt ve mũi dùi, lẩm bẩm:

− Có ngày ta sẽ theo nghĩa quân, theo ông Trương Công Định.

Hơi sắt lạnh khiến lòng Sơn nao nao. Thảo Giang lặng lẽ vấn tóc lên, lấy chiếc khăn trùm lên đầu, rồi ngồi nghe tiếng chim chóc xao xác gọi nhau ở một bụi cây. Chiều đã xuống trên cánh đồng. Không còn ai ở ngoài ruộng. Chỉ có ở đây hai tấm lòng chờ đợi. Chân trời phía đông vẫn là một màu xanh. Nhìn ra phía tây, mặt trời đã sắp lẩn vào những rặng tre. Tia nắng chót cố vương lại trên cỏ lúa, phản chiếu trên mặt ruộng lênh láng nước. Sơn nhìn và nhớ đến cánh ruộng phèn mình đã đi qua. Hôm nay chắc sáu người nghĩa quân đã vượt khỏi Tân An. Thẳng đường ấy, có lẽ họ sẽ về Gia Định.

Bỗng có tiếng mõ nổi lên dồn dập lẫn với tiếng trống làng. Hai đứa giật mình, nhìn nhau, và cùng hướng về phía xóm nhà. Một vùng khói tỏa mù mịt. Việc gì đã xảy ra? Thảo Giang kêu lên hoảng hốt:

− Anh Sơn! Cháy nhà!

− Mau lên. Chúng ta về coi thử.

Hai đứa chạy trên đê. Khi lên mặt đường đất, đã thấy đàng xa có một người đàn ông chạy đến, dáng vội vã như lẩn trốn. Lúc đến gần hai đứa nhận ra đó là một người lạ mặt. Người ấy đứng lại, nhìn quanh như để tìm đường. Sơn hỏi:

− Ông! Việc gì vậy? Ông ở đâu đến?

Người lạ thở hổn hển:

− Cậu bé! Chỉ dùm tôi đường… ra sông.

Sơn nói:

− Nhưng ông là ai?

Người lạ đáp liều:

− Tôi là người ở Tân Hòa tới, bị vây… Tôi muốn thoát ra sông.

Sơn chỉ:

− Muốn đi ra sông , có hai đường, hoặc ông đi theo rạch nước đàng kia, hoặc qua cầu băng qua vườn. Nhưng muốn qua cầu, ông phải đi ngược trở lại phía xóm. Còn muốn đi đường rạch, ông… ông có xuồng không?

Người lạ bối rối:

− Không, không… Cám ơn cậu bé.

Ông ta chạy đi. Sơn ngơ ngẩn nhìn theo. Cái bóng chạy lảo đảo trên đê. Sơn nhớ sực, bảo Thảo Giang:

− Chạy về mau, Thảo Giang! Chắc ở nhà ta đang nguy.

Mặt trời đã lặn. Trong bóng mờ của khoảng ngày sót lại, màu đỏ rực của lửa từ thôn xóm nổi bật lên thật khủng khiếp. Thảo Giang đang cuống quít đôi chân. Cô bé run lẩy bẩy. Sơn phải nắm lấy tay Thảo Giang để cô bé khỏi vấp ngã. Cả thôn xóm rừng rực khói lửa. Đến ngõ nhà Sơn, Giang nói:

− Anh Sơn vô nhà đi! Giang chạy về nhà Giang, coi mẹ Giang làm sao.

Rồi Thảo Giang vuột khỏi tay Sơn, cắm đầu chạy. Sơn hoảng hốt gọi:

− Thảo Giang!

Cái dáng mảnh khảnh đã lẩn vào đám người đang lố nhố chạy ra. Sơn đành quẹo vào ngõ. Căn nhà của Sơn vẫn bình an. Mẹ Sơn đang thu góp áo quần vào một cái túi vải. Thấy Sơn, bà nói lớn:

− Sơn ơi! Cháy nhà! Đánh nhau!... Có giặc tới…

− Mẹ nói giặc nào?

Mẹ Sơn lắp bắp:

− Có một đoàn nghĩa quân… đông lắm… chạy qua làng. Giặc đuổi theo… Giặc Tây chứ còn giặc nào nữa. Chúng đốt xóm, muốn cho nghĩa quân chết cháy.

Sơn hồi hộp:

− Mẹ… có thấy nghĩa quân?

− Có! Họ đi ngang đây, và lẩn vào thôn xóm. Đông lắm! Một số hình như đã ra rạch. Còn một số kẹt ở đây khi quân Pháp đến kịp. Cầu trời phù hộ cho họ…

− Cháy lớn quá! Mẹ đi ra đi mẹ! Mẹ hãy chạy theo dân làng.

Sơn dắt tay mẹ, xách túi vải. Khi bước ra ngưỡng cửa, Sơn đứng lại nhìn ống sáo trúc treo trên vách. Sơn với lấy ống sáo, giắt vào lưng. Nếu nhỡ căn nhà này bị cháy, Sơn vẫn còn giữ được kỷ vật của Đại.

Khi ra đến đám người chạy nạn, Sơn bảo mẹ:

− Mẹ chạy theo với họ, ra chỗ đồng trống. Con đi chữa cháy nhé mẹ!

Rồi trao túi vải cho mẹ, Sơn len đám đông lố nhố, chạy về phía có ngọn lửa. Mắt mũi Sơn cay xé vì khói ồ ạt bay vào. Tiếng kêu khóc vang dậy cả xóm làng.

Nhà Thảo Giang ngùn ngụt khói… Sơn chạy vào. Trên nền đất, Thảo Giang đang kêu gào bên cái thi thể bất động của mẹ. Một lỗ tròn sâu hoáy trên đầu của bà, từ đó máu tuôn ra lúc nào đã đông đặc lại. Nỗi kinh hoàng chưa tan, Sơn đã thấy tấm phên tre phía sau bốc lửa. Lửa lan lên mái tranh, tàn đen bay tỏa đầy không khí, Sơn hét lên:

− Thảo Giang! Chạy đi!

Nhưng Thảo Giang không nghe thấy gì cả. Sơn kéo Thảo Giang đứng dậy, nói:

- Nhà sắp đỗ, chạy mau!

− Mẹ Giang chết rồi! Mẹ ơi!...

Sơn nắm tay Thảo Giang lôi bừa đi. Thảo Giang lả người như một tàu lá úa. Ngôi nhà mong manh, sau khi hai đứa vừa ra khỏi, bốc cháy dữ dội. Sơn nhìn lại, nghe quặn thắt con tim. Mắt cứng khô, nhưng mưa bão đổ đầy lòng.

Trên đường, một bóng người quen quen chạy ngang: em gái của Đại. Sơn gọi:

− Cô Lam!

Người con gái dừng chân, nét mặt còn đầy vẻ sợ hãi… Sơn nói nhanh:

− Cô có gặp mẹ tôi không?

− Bác đã chạy với gia đình em.

Sơn nói nhanh:

− Cô Lam! Nhờ cô một chuyện… Cô rán chạy nhanh lên, nói với dân làng đừng đi bằng đường rạch. Giặc đuổi kịp thì khổ… Có một đường ngắn nhất là đi qua cầu, vô vườn Bá Huê, chạy thẳng. Cô gặp mẹ tôi, nói mẹ tôi chạy đi, rán giữ mình, đừng lo cho tôi.

− Còn anh Sơn?

− Tôi ở lại làng, giúp nghĩa quân.

− Nhưng…

− Chạy đi, cô Lam!

Lam không kịp nói gì nữa, đám người đã xô đẩy cô gái chạy đi. Thảo Giang nức nghẹn:

− Cho Giang ở lại làng với. Mẹ chết rồi! Mẹ ơi!...

Trong ánh lửa ghê rợn, đoàn người dân quê đã chạy xa, trông như làn sóng chập chùng… Có tiếng hò reo đàng sau. Sơn kéo Thảo Giang nép vào một lùm cây. Tiếng chân rầm rập trên đường chạy lại gần. Một toán người lạ mặt đứng dừng lại. Sơn và Thảo Giang nín thở. Toán người nhìn những căn nhà cháy, chỉ trỏ và nói với nhau bằng những tiếng khó hiểu. Sơn hồi hộp… Đúng là giặc Tây rồi. Họ cao lớn và ăn mặc cũng khác. Sơn nắm chặt tay Thảo Giang. Bàn tay cô bé lạnh ngắt. Đôi mắt đang rực lên tia căm thù.

Toán lính Pháp đi ngược trở lại đường cũ. Sơn và Thảo Giang rời lùm cây, nhưng chỉ dám len lỏi trong những vườn tược, theo đường tắt về ngõ sau nhà Sơn.

° ° °

Những bóng người bí mật ở trong mảnh vườn nhỏ làm hai đứa dừng lại, nín thở. Những cây mác đưa lên trời nhọn hoắc. Sơn đến gần, nhận ra đó là những người nghĩa quân. Họ đã chọn căn nhà khuất sau cây cối làm nơi trú ẩn. Sơn thì thầm:

− Nghĩa quân, Thảo Giang ạ.

Rồi kéo Thảo Giang lại gần. Một cành khô gãy dưới chân Thảo Giang làm mấy người bên trong giật mình. Họ cúi rạp xuống, những ngọn mác chĩa về phía có tiếng động. Sơn lên tiếng:

− Thưa các anh, cho em vào vườn.

Một người hỏi:

− Ai đó?

− Em là chủ nhà này. Xin cho em vào.

Những ngọn mác hạ xuống. Sơn nắm lấy tay Thảo Giang, vẹt những cành lá bước tới. Những người nghĩa quân đứng dậy, Sơn nói:

− Em là Sơn.

− Còn ai kia?

− Dạ, Thảo Giang, em gái của em.

Nhận ra dáng nhỏ nhắn của hai đứa, mấy người nghĩa quân an tâm. Người ban nãy nói:

− Hai em vào nhà đi! Yên lặng nghen!

Sơn và Thảo Giang đứng sựng lại ở ngưỡng cửa. Trong nhà, có một toán người ngồi sẵn ở đó. Họ ngồi trong bóng tối. Dường như những câu trao đổi ngoài vườn họ đã nghe, nên một người cất tiếng:

− Vô đi, hai em.

Tiếng nói ấm áp lạ thường. Sơn vững dạ, dắt Thảo Giang bước vào. Tiếng nói lại vang lên:

− Chúng tôi mượn căn nhà này để nghỉ chân, hai em bằng lòng không?

Sơn đáp:

− Xin các anh cứ tự nhiên, quân Pháp đã đi rồi.

− Sao em biết?

− Chính em đã nhìn thấy.

Giọng nói đó tiếp tục:

− Vậy thì chúng ta đốt đèn lên, nhưng chỉ đủ sáng, và đóng hết cửa lại.

Ngọn đèn dầu được thắp lên. Một toán người ra trước nhà đứng gác. Bên trong chỉ còn lại bốn người. Họ nhìn đăm đăm vào Sơn và Thảo Giang. Nét kinh hoàng còn in rõ trên gương mặt cô bé, đọng lại trên đôi mắt ướt sũng. Họ có vẻ ái ngại. Sơn nói:

− Em là Sơn, đây là Thảo Giang.

Một người nói:

− Anh biết rồi! Cha mẹ các em đâu?

Thảo Giang òa lên khóc. Sơn đáp:

− Mẹ chúng em đã chạy theo dân làng. Cha theo nghĩa quân hồi mùa đông Nhâm Tuất.

Rồi siết chặt tay Thảo Giang, Sơn bảo:

− Đừng khóc, Thảo Giang.

Mọi người im lặng. Sơn đưa mắt nhìn lần lượt bốn người. Có ba người còn trẻ, giống như người dẫn đường toán nghĩa quân đi qua Tân An, và một người đứng tuổi. Sơn hỏi:

− Các anh có phải ở Tân Hòa tới?

Người trẻ nhất trố mắt ngạc nhiên:

− Sao em biết?

− Có một nghĩa quân chạy lạc đã nói như vậy.

− Các em có ghét chúng tôi không?

Sơn lắc đầu:

− Cha em theo nghĩa quân, làm sao chúng em ghét được? Em cũng thích theo các anh nữa.

− Theo chúng tôi cực khổ lắm!

− Em đã mười tám tuổi. Em biết đánh võ…

Sơn rút cây dùi trong thắt lưng ra, giọng rắn lại:

− Và em có cọng sắt này.

Người trẻ tuổi xúc động:

- Em đáng mến lắm! Sơn phải không?

Sơn nhắc lại:

− Dạ. Còn em gái em là Thảo Giang.

− Tên hay lắm! Còn anh, cứ gọi anh là Nam.

Sơn đưa mắt nhìn người kế cận. Như cũng thương mến hai đứa bé mới lớn, người thanh niên nói:

− Cứ gọi anh là Phô.

Người thứ ba:

− Cứ gọi anh là Biên.

Và người đứng tuổi nhất bây giờ mới lên tiếng:

− Cứ gọi anh là Chương.

Sơn nói:

− Chú trạc bằng cha cháu, xin cho chúng cháu gọi là chú.

Người đàn ông cười:

− Cứ gọi là anh. Vì bốn người chúng tôi là anh em.

Sơn lạ lùng:

− Giọng nói của anh hơi khác…

Chương lại cười:

− Vâng. Anh là người Quảng Ngãi, còn các chú đây là người Gò Công.

− Quảng Ngãi ở đâu hở anh?

− Tận miền ngoài, gần đến kinh đô. Em lấy làm lạ phải không? Bốn bể đã thành anh em. Anh không sinh trưởng ở đây, nhưng mất nước cũng đau đớn lắm.

− Các anh biết ông Trương Công Định không?

Nam nói:

− Biết chứ! Ông Trương Công Định là lãnh tụ nghĩa quân ở Tân Hòa, tức là Gò Công đó!

− Anh… anh biết mặt ông ấy không?

− Biết.

Sơn nôn nao:

− Ông ấy… người ra sao?

Nam vỗ vai Sơn, cười:

− Giống như Sơn vậy.

− Ông ấy bao nhiêu tuổi?

Biên pha trò:

− Tuổi của ông ấy là tuổi của sáu người chúng ta cộng lại, chia cho sáu.

Không khí bỗng nhiên trở nên vui vẻ. Sơn chưa thỏa mãn những thắc mắc trong lòng, nhưng đã cảm thấy rằng con người “thần tượng” bàng bạc ở mọi nơi, trong mọi hình dáng, trong mọi lứa tuổi. Trong lòng người!

Chương 7

Một nắm rơm được đùn thêm vào lò. Khói tỏa lên làm nước mắt Sơn chảy ra. Trên bếp lửa, nước bắt đầu sôi, lôi cuốn những hạt gạo rang vàng chạy theo đường vòng tròn.

Tiếng nói cất lên sau lưng Sơn:

− Em dậy sớm vậy Sơn?

Sơn đưa tay quẹt nước mắt, cười với người mới có mặt:

− Dạ, em dậy đã lâu. Em rang gạo nấu nước cho Giang nó uống.

− Cô Giang sao thế?

− Thưa anh, suốt đêm nó bị nóng sốt, nói sảng luôn. Em không ngủ được, phải ngồi dưới chân giường.

Người đàn ông tên Chương ái ngại:

− Cô ấy bệnh à?

− Dạ. Chắc là hôm qua thấy cảnh loạn lạc nó sợ hãi đó anh!

Chương ngồi xuống bên Sơn. Một lát, người ấy cũng dụi mắt, nói:

− Đun lửa bằng rơm là phải khóc suốt cả buổi Sơn nhỉ?

− Dạ. Em con trai, nên mẹ em ít cho nấu nướng. Mẹ em “khóc” thay cho em.

− Thế còn cô bé Giang?

Sơn cười:

− Nó còn dại lắm, chỉ biết thêu thùa. Mẹ em cưng nó hết sức.

− Con gái dễ xúc động. Chắc bà chạy đi, cô ấy nhớ nên sinh bệnh.

Sơn nhắm mắt lại, tưởng như trước mắt còn rõ rệt cái cảnh mẹ Thảo Giang nằm in lìm trên vũng máu. Hai má Sơn ướt đẫm lệ. Sơn đưa tay chùi ngang. Rơm rạ cháy lùng bùng trong lò, khói vẫn xông lên…

− Sao hôm qua hai em không chạy theo mẹ?

− Hai đứa em còn ở ngoài ruộng, lúc về đã thấy đoàn người tị nạn chạy xa. Chúng em tìm mẹ không thấy. Chắc mẹ đã qua sông.

Chương lắc đầu:

− Thật tội nghiệp. Anh đã đi qua nhiều nơi, thấy ở đâu cũng một lòng như vậy. Dân chúng hễ thấy có giặc Tây đến, là bỏ làng mà đi theo nghĩa quân. Có nơi quyết không để cho giặc có gạo mà ăn, nổi lửa đốt rụi cả cánh đồng.

Sơn đứng lên, nói:

− Anh ra ngoài vườn cho khỏe. Nước sôi lâu rồi.

Hai người ra khỏi nhà bếp. Sơn vươn vai cho những khớp xương kêu răng rắc, nói:

− Cái làng nhỏ bé của em cũng một lòng như vậy.

Chương cười trầm ấm:

− Em còn nhỏ, mà nói nhiều câu thật cương quyết.

− Chúng em biết chuyện dân ta kháng chiến từ sau khi thầy đồ của chúng em mất. Hình như thầy em có biết ông Trương Công Định. Nhưng em chưa kịp nghe thầy em tả ông ấy…

Chương có vẻ chú tâm vào câu chuyện lắm. Sơn bùi ngùi:

− … thì thầy em qua đời.

Chương thở dài, giọng cảm động:

− Thầy đồ của em tên gì?

− Cả làng chỉ một mình thầy là có học. Ai cũng gọi thầy là thầy đồ Hưng.

Chương lẩm bẩm:

− Thầy đồ Hưng…

− Anh có quen thầy đồ Hưng không? Thầy em già lắm, khi chết thọ bảy mươi tuổi.

Chương lắc đầu:

− Không. Anh chỉ quen với thầy Đồ Chiểu. Hai người là bạn thân. Nhưng anh theo nghĩa quân, còn bạn anh vì mù mắt nên không xông pha như anh được. Nghe em nhắc thầy em, anh lại nhớ bạn mình. Người tật nguyền yêu nước có cái khí giới riêng của họ.

Rồi Chương cúi xuống, lẩm bẩm một mình:

− “Ngoài cật một manh áo vải, trong tay một ngọn tầm vông. Gươm đeo bằng lưỡi dao phay, hỏa mai bằng rơm con cúi…”

Sơn lạ lùng hỏi:

− Anh nói gì vậy?

− Không. Anh đang nhớ những lời thơ mà bạn anh thường đọc.

Sơn thở dài, quay vào bếp, trút nước gạo ra chén. Khi trở ra, thấy Chương đang vịn tay trên cành cây, mắt nhìn đăm chiêu qua những kẽ lá. Sơn khe khẽ bước lên nhà, vào bên giường Thảo Giang. Cô bé nằm ngủ thiêm thiếp, thở mệt nhọc như người bệnh đã lâu ngày. Sơn đặt chén nước xuống, gọi nhỏ:

− Thảo Giang! Dậy đi Thảo Giang!

Đôi mắt đầy kinh hoàng he hé mở ra. Cái tròng trắng đã đỏ ngầu. Trán Thảo Giang nóng như lửa đốt. Thảo Giang mấp máy môi:

− Mẹ! Mẹ đâu rồi?

Sơn trấn tĩnh cô bé:

− Mẹ đã chạy theo dân làng, yên ổn rồi!

− Không! Mẹ đã chết rồi sao? Con thấy rõ mẹ nằm trên đất. Phải người ta bắn mẹ bằng súng không?... Đầu mẹ tan nát… Mẹ ơi!...

Thảo Giang bật khóc nức nở. Sơn tê tái quỳ sững ở chân giường. Nam đứng ở cửa buồng hỏi:

− Cô ấy nói gì lạ vậy Sơn?

Sơn trót đã nói dối, phải nói dối luôn để khỏi mất lòng tin ở những người nghĩa quân, nên cố gắng giải thích:

− Em gái em nó bệnh, nói sảng anh à.

Rồi quay qua Thảo Giang, Sơn bảo:

− Giang! Uống miếng nước gạo nè em. Đêm qua em mơ thấy gì mà nói kỳ lạ vậy?

Thảo Giang giương đôi mắt lờ đờ mệt mỏi, nói líu ríu:

− Mẹ có chạy thoát không? Sao tôi thấy mẹ nằm sóng soài trên đất? Lửa đỏ ngụt trời, ghê rợn quá! Cho em qua sông, theo nghĩa quân với! Em muốn gặp cha… Cha em đã bỏ làng mà đi. Chắc cha em đã chiếm lại được nhiều đất. Nhưng mẹ chết rồi cha ơi!... Cha chưa có con trai…

Sơn hoảng hốt:

− Giang! Nói bậy không thôi! Uống nước gạo đi, cho hạ bớt nhiệt.

Cô bé vẫn thều thào:

− Cha chưa có con trai… Con rạch cũng chưa có tên… Cái làng này sẽ tiêu tan. Em muốn đi qua cầu, vào vườn Bá Huê, qua đồng phèn thiếu nước…

Sơn nâng đầu Thảo Giang lên, cố gắng đút cho Thảo Giang từng ngụm nước gạo. Nam đến gần, hỏi nhỏ:

− Sao cô Giang biết những nơi đó?

Sơn đáp:

− Chúng em đã có qua một lần, nhưng chỉ đến ruộng phèn, rồi phải quay trở lại.

Sơn lấy tấm bản đồ ra, nói:

− Mấy người nghĩa quân cho em mảnh giấy này.

Nam nhìn chăm chú, rồi reo lên:

− Bọn anh cũng có.

Sơn chỉ tay vào tấm bản đồ:

− Em biết rồi! Qua khỏi làng em bằng ngõ vườn Bá Huê, các anh sẽ tới sông Vàm Cỏ mau nhất. Rồi các anh đi Tân An, phải không?

Nam gật đầu:

− Sáng nay bọn anh sẽ đi.

Sơn giật mình:

− Ngay sáng nay?

− Không chần chờ gì được. Quân Pháp đã đến đây, chắc chúng chưa đi đâu xa.

− Các anh đi bằng ngã cầu?

− Phải.

Sơn bàng hoàng, nhìn lại Thảo Giang. Đôi mi mắt đang khép kín dòng sông. Sơn vụt chạy ra vườn sau, gọi:

− Anh Chương! Anh Chương! Phải sáng nay anh bỏ làng này mà đi không?

Chương quay lại:

− Ai nói với em thế?

− Anh Nam.

− Không phải bọn anh bỏ làng, mà là rút đi để kiểm điểm quân số, tu bổ lại binh đội, để tiếp tục chống Pháp. Sơn muốn theo bọn anh không?

Sơn ngơ ngác:

− Theo các anh?...

Chương cười:

− Thì em đã nói em sẽ theo nghĩa quân?

− Dạ, nhưng mà…

Sơn ấp úng:

− … Thảo Giang đang bệnh, làm sao đi?

Sơn buồn bã sờ lên cọng sắt giắt nơi lưng. Ta yêu cái dùi này lắm! Bao ngày qua ta đã mài cho nhọn, đợi dịp làm quân thù vỡ mật. Nhưng ta cũng yêu quý Thảo Giang vậy. Thảo Giang đã ở lại xóm làng này với ta, thì tại sao ta muốn bỏ Thảo Giang mà đi?

Thấy Sơn im lặng, Chương hỏi:

− Nghĩ gì đó, Sơn? Em có đi theo bọn anh không? Còn cô bé Giang?

Sơn cúi đầu:

− Chắc em phải ở lại. Thảo Giang như thế làm sao đi được? Theo các anh nó sẽ làm vướng chân.

− Rồi lỡ quân Pháp đến?

− Em sẽ giả làm kẻ ngu đần.

Chương ái ngại nói:

− Anh thấy không yên lòng chút nào.

− Các anh cứ đi. Em lỡ dịp này, sẽ còn dịp khác theo nghĩa quân, miễn là… em không xa Thảo Giang.

Nói xong câu ấy, Sơn cảm thấy bồi hồi. Chương vô tình, đâu biết được sự liên hệ xa xôi mà rất đỗi khắng khít của Sơn với Thảo Giang, chỉ ngỡ đó là tình máu mủ. Sơn nói cương quyết hơn:

− Xin anh đừng lo cho chúng em. Vườn nhà còn cây trái, hũ gạo còn đầy, chúng em sống chờ dân làng về. Biết đâu… có ngày em sẽ gặp ông Trương Công Định…

Chương siết vai Sơn trong cánh tay rắn chắc của mình, nói:

− Căn cứ Gò Công vỡ, ông ấy chỉ còn đám tàn binh. Nhưng… chắc ông ấy sẽ qua đây.

Đám người bên trong đã sửa soạn xong khí giới và hành trang. Chương trở vào, kiểm điểm mọi thứ. Bọn họ sắp lên đường! Sơn đứng lặng trước những người nghĩa quân oai dũng. Cái hình ảnh mà ta mơ ước là đây. Ta cũng dễ dàng trở thành như họ. Nhưng tại sao, ta đã lỡ mất nhiều dịp để làm nghĩa quân? Đêm bác Chiêu rời sông nhỏ, Đại bơi xuồng một mình đi lập cuộc đời mới – Buổi chiều sáu người nghĩa quân vượt qua vườn Bá Huê – Đến nay, buổi sáng các anh Chương, Nam… dẫn bạn bè ra đi. Đã ba lần không đi theo được. Cái gì đã giữ ta lại? Người mẹ góa? Mảnh vườn xác xơ? Cánh đồng lúa thơm ngát? Cô bé yêu thương mà ta đã tưởng như hai cuộc đời gắn chặt? Hay vì sự ra đi khỏi nơi chôn nhau cắt rốn là đồng nghĩa với sự lưu đày?...

… Sơn cũng đứng lặng như thế, khi theo chân đoàn nghĩa quân ra bờ rạch. Đoàn người dừng chân lại. Một khoảng thời gian bùi ngùi khiến người ta nghe rõ tiếng lau lách khua động dưới chân. Chương cảm động đặt tay lên vai Sơn, nói:

- Cám ơn hai em đã cho bọn anh tá túc một đêm. Anh mong sẽ gặp em một ngày không xa, trong đoàn nghĩa quân của anh…

Nam tiếp lời:

− Và của anh.

Biên cố gắng vui vẻ:

− Của anh nữa.

Sơn cúi đầu, chỉ biết dạ nhỏ. Chương ra hiệu cho bạn bè lên cầu. Bỗng Sơn vừa nghĩ ra một điều gì. Sơn nhanh gót bước theo, kêu:

− Anh Chương! Khoan đi!

Chương dừng lại, ngạc nhiên:

− Chuyện gì vậy, Sơn?

− Anh… anh làm ơn cho em xin một ít… thuốc súng.

Chương trố mắt:

− Sao em biết?

Sơn ấp úng:

− Xin lỗi anh… vì đêm hôm qua em thức coi chừng Thảo Giang, tình cờ nghe anh nhắc đến bao thuốc súng. Xin anh cho em một ít để phòng khi cần dùng.

Chương bảo một người bạn đưa bao thuốc súng cho Sơn, rồi nói:

− Cẩn thận nghe Sơn! Cái này bọn anh cướp được của Pháp đó!

− Cám ơn anh.

Đoàn người rầm rập bước qua cầu. Khu vườn bên kia không còn ai canh giữ nữa, đã trở thành một ngõ vườn hoang. Sơn đứng đó, nhìn mãi… cho đến khi người cuối cùng lẩn màu áo vào màu cây xanh, Sơn quay lưng trở về. Ở đầu cầu, Sơn dừng lại, mở bao thuốc súng, rắc đầy những tấm ván, rắc xuống chân cầu, rồi chạy đi tìm hai mẩu đá lửa. Sơn quẹt lửa châm vào một nùi cỏ khô đã bó chặt. Nằm bên kia con đường đất, Sơn quăng mạnh nùi cỏ khô vào. Thuốc súng gặp lửa nổ bùng, lóe sáng ngời. Sơn nhắm mắt lại, nghe những tiếng kỳ lạ như sấm chớp, như mưa rơi, như tiếng kêu than của chiều loạn lạc chưa quên… Khi những tiếng ấy không còn, Sơn mở mắt ra, nhìn qua chiếc cầu. Chiếc cầu đã cháy nám đen phân nửa, và quỵ xuống con rạch. Sơn thở phào, nhìn dòng nước vẫn lặng lờ xuôi chảy sau phút dao động, không biết lòng mình buồn hay vui.

Sơn thất thểu bước về. Đường đất mới hôm nào vui rộn tiếng chân, bây giờ như ôm chặt nỗi buồn. Làng xóm vắng ngắt không còn một ai. Ai sẽ trở về? Hay giặc sẽ tới? Đoàn người di chuyển bằng chân, khỏi lo bị rượt đuổi. Cây cầu đã gãy. Trên bến sông, thuyền cũng không còn một chiếc. Sơn mỉm cười một mình, nụ cười giống như cái khóc mếu. Từ phút này, Sơn vừa là kẻ chiến thắng, vừa là kẻ bại trận, vừa là một kẻ cô đơn.

Sơn bước vào nhà, càng mủi lòng thêm khi nhìn thấy khung cửi của mẹ. Trong buồng, Thảo Giang vẫn ngủ thiêm thiếp. Sơn ngồi bệt xuống đất, rút cái dùi và ống sáo trúc ra. Tẩn mẩn, Sơn đặt hai vật đó cạnh nhau. Ống sáo dài hơn cái dùi một khúc. Nghĩ đến bài sáo chiều nào xa lắc nghe Đại thổi buồn não ruột, Sơn ngậm ngùi thương cho mình đang ở lại một khung cảnh quạnh hiu. Cái dùi! Chí vẫy vùng - Ống sáo! Đời ủy mị. Sơn cúi xuống ôm đầu, nghe trí óc rỗng tuếch.

− Anh Sơn!

Tiếng Thảo Giang yếu ớt, loãng như nước. Sơn chưa ngẩng lên, Thảo Giang gọi nữa:

− Anh Sơn! Anh khóc đó phải không?

Sơn nhìn gương mặt Thảo Giang bằng đôi mắt khô, lắc đầu:

− Anh đâu có khóc.

− Họ đi rồi phải không?

Sơn gật đầu:

− Ừ, họ đi rồi… Thảo Giang ngủ đi!

Cô bé giương đôi mắt đỏ hoe:

− Sao anh Sơn không đi theo họ?

− Anh đi theo họ, bỏ Thảo Giang ở lại sao?

Thảo Giang nhắm mắt lại, lẩm bẩm:

− Hai đứa mình đâu phải là anh em thật.

Sơn đưa tay sờ lên trán Thảo Giang nóng hực, nói nhỏ:

− Nhưng anh thương Thảo Giang hơn cả tình anh em.

Đôi mắt mở ra, long lanh giọt lệ. Màu mắt đã thành màu chiều tắt nắng.

− Anh Sơn lại ngắm cái dùi, phải không?

− Ừ, anh đang suy nghĩ làm sao để giấu cái dùi này, rủi giặc đến chúng vẫn không biết được là mình thủ khí giới.

− Dễ quá! Cái ống tre kia, anh bỏ cái dùi vào.

Sơn cầm ống sáo trúc lên, gật gù. Rồi Sơn nhét cái dùi vào ống sáo. Thảo Giang rút trong lưng ra một chiếc khăn xanh, nói:

− Cái khăn này, từ ngày để chế bác Đồ, Giang không quàng cổ nữa. Anh cột vào đầu dùi đi!

Sơn xé nửa chiếc khăn theo chiều dọc, rồi cột một đầu dùi thật chặt. Sơn cho đầu nhọn vào ống sáo, thắt nốt sợi vải xanh bên ngoài ống sáo thành một cái nơ. Thảo Giang ngắm nghía, gượng cười:

− Đố ai mà biết trong ống trúc có một vật rất bén. Anh Sơn giắt vào lưng đi!

Sơn làm theo như vậy, rồi đứng thẳng người lên, hỏi:

− Anh có giống người thổi sáo không?

− Người thổi sáo nào?

− Trương Chi.

− Không. Anh cao lớn, vạm vỡ… Anh oai như một nghĩa quân.

Sơn thích thú:

− Anh có giống ông Trương Công Định không?

− Hơn thế nữa.

Thảo Giang cười mệt nhọc, gương mặt đỏ hồng như người đang ở trong bếp. Sơn lo lắng:

− Thảo Giang mệt lắm. phải không?

Cô bé lắc đầu;

− Giang không cảm thấy gì hết. Mới rồi, Giang lại thấy mẹ Giang về đứng ở đầu giường.

− Thảo Giang đã mê sảng rồi!

− Mẹ Giang khóc, đòi đem Giang đi theo. Mẹ chết ghê khiếp quá! Anh Sơn ơi! Giang muốn đi qua cầu, vào vườn Bá Huê, qua đồng phèn thiếu nước.

Sơn quỳ xuống, nói:

− Thảo Giang! Em có tỉnh không?

− Làng nhỏ này sẽ tiêu tan… Con rạch chưa có tên. Chưa ai đặt tên cho nó, thì mình đặt tên vậy. Giống như sông Vàm Cỏ… Thảo Giang!

Sơn không biết phải làm gì, tưởng như mình cũng lênh đênh trong cơn khủng hoảng của Thảo Giang. Đôi mắt cô bé lờ đờ mất thần. Sơn biết gọi ai, nhờ ai? Sơn chạy ra nhà ngoài. Ánh nắng buổi sáng chiếu vào cửa, in một mình chiếc bóng khung cửi cô độc. Sơn đã thành kẻ tuyệt vọng. Sơn muốn gọi một ai đó. Sơn muốn làng thôn có kẻ trở về… Một cái bóng in trên nền đất. Có phải mẹ đã trở lại không? Có phải anh Chương không? Sơn ngước lên, mở to đôi mắt. Bộ quân phục quen quen hôm qua Sơn đã thấy trên đường làng. Cái bóng người to lớn. Gương mặt trắng đỏ và đôi mắt xanh lơ làm Sơn đứng sựng, chết điếng…

Chương 8

− Có thật chúng mày ở đây một mình không?

− Nếu các ông không tin, các ông cứ lục soát. Cha mẹ chúng tôi đã chết. Chúng tôi mồ côi.

Tên lính người Việt quay lại nói với bọn người đàng sau một tràng tiếng Pháp. Gã chỉ huy gật đầu. Tên người Việt duy nhất lại hỏi:

− Sao chúng mày không chạy đi?

Sơn lắc đầu:

− Đêm hôm qua, cầu bị quân Pháp phá sập, chúng tôi hết đường chạy. Chúng tôi cũng không biết phải chạy đi đâu.

Gã người Việt đến gần Sơn, vuốt ve:

− Em có thấy nghĩa quân chạy đường nào không?

Sơn ngơ ngác:

− Nghĩa quân … là ai?

− Là mấy thằng mặc áo đen, chống lại quân Pháp và chống lại vua đó!

Sơn lắc đầu khờ khạo:

− Tôi không biết.

Gã người Việt xô Sơn xuống ghế, gằn giọng:

− Không biết. Vậy lúc đánh nhau, chú mày làm gì?

Sơn chỉ tay vào buồng, nói:

− Em gái của tôi bệnh cả tuần nay, tôi mải lo nấu thuốc cho nó.

Gã nọ chỉ tay vào khung cửi, hỏi:

− Cái này của ai?

− Dạ của em tôi. Nó dệt vải…

Gã người Việt quay lại dịch những lời của Sơn cho bọn lính Pháp. Họ gật gù với nhau, ra vẻ tin lời Sơn. Sơn ngồi im, cố gắng tạo nét mặt đần độn. Một tên lính Pháp đến lục soát khắp người Sơn. Hắn cầm ống sáo trúc có cột dây nơ xanh lên, cười khẩy rồi trả lại Sơn. Không có một cái gì khả nghi ở đây. Ngôi làng nhỏ chỉ còn hai đứa bé. Bọn họ từ từ tản mát ra, ngồi nghỉ. Sơn được tự do vào buồng thăm Thảo Giang. Thảo Giang đã thức dậy và ngơ ngác nhìn những bóng người đồ sộ đi qua đi lại trong nhà. Sơn cúi xuống, nói khẽ:

− Lính Pháp đó! Đừng nói nhảm nữa nghen!

Thảo Giang kinh ngạc, lắp bắp:

− Ai? Lính Pháp à? Chúng đã giết mẹ tôi.

Sơn bụm miệng Thảo Giang lại:

− Ngủ đi, Thảo Giang! Đừng để chúng nghi ngờ. Ta vẫn là anh em nhé!

Rồi đắp chăn lên tận ngực Thảo Giang, Sơn đi ra, nói với gã người Việt:

− Bếp ở phía sau, mấy ông cứ tự tiện nấu ăn.

Gã nọ nói líu lo với mấy tên lính da trắng. Bọn họ soạn đồ đạc ra, và theo Sơn đi vào bếp. Sơn chỉ cho họ đống rơm, ra dấu cho họ biết cách đun bếp. Khi rơm đã cháy lớn, khói bốc lên làm ai cũng ràn rụa nước mắt, Sơn đứng im trên nền đất, tay mân mê ống sáo trúc. Sơn thật sự là kẻ bại trận rồi! Khí giới trong tay nhưng chẳng làm gì được. Anh Chương, anh Nam ơi! Anh Biên, anh Phô ơi! Nếu không vướng bận Thảo Giang, Sơn đã theo các anh đi đến tận đâu rồi! Bọn người này sẽ ở lại đây bao lâu? Những ngày sắp tới sẽ nặng nề biết bao!

Sơn trót đóng vai ngu muội, đành ở trong nhà bếp giúp lính nấu bữa cơm trưa. Loay hoay mãi, bữa cơm cũng xong. Một tên lính ở lại canh nồi cơm, còn mấy tên kia kéo ra vườn hái hết cây trái. Sơn thản nhiên làm dấu hiệu để nói chuyện với tên lính Pháp. Lúc Sơn cởi áo ra để lau mồ hôi trên mình, bất chợt một mảnh giấy trong thắt lưng rơi xuống. Sơn giật mình. Đó là tấm bản đồ người nghĩa quân đã cho. Sơn lẹ làng đưa chân hất mảnh giấy vào đống rơm, rồi cúi xuống lượm bó rơm đó đun vào bếp lửa sắp tàn.

Tên lính Pháp đưa tay toan ngăn lại, nhưng không kịp. Lửa đã bén vào rơm, vào mảnh giấy, cháy bùng lên rồi tắt thật mau. Tất cả đã thành tro. Sơn nghe tim đập mạnh. Và khi nhìn sang, thấy đôi mắt của tên lính Pháp xanh rực như hai hòn bi.

Gã chỉ huy được báo cáo tin ấy. Tin được chuyển xuống tên người Việt. Hắn gọi Sơn vào ngay, chất vấn:

− Chú mày đốt miếng giấy gì đó?

Sơn chối:

− Miếng giấy nào? Tôi có biết gì đâu!

Tên lính Pháp líu lo với gã người Việt. Gã này nổi nóng nắm chặt cánh tay Sơn, quát:

− Ranh con, nói thật đi! Mày có bản đồ phải không?

− Bản đồ là gì?

− Giả dại với tao không được đâu. Mày là do thám của tụi nghĩa quân phải không?

− Không! Không! Tôi có biết gì đâu!... Tôi là dân làng này, sống với em gái tôi. Tôi không biết nghĩa quân, không biết bản đồ là cái gì hết.

Có tiếng xôn xao trước cửa. Một người Việt khác xuất hiện, mặc quân phục giống như lính Tây. Gã bên trong lên tiếng:

− Vô trong này, anh Hộ! Có chuyện nhờ anh rồi.

Sơn sững người nhìn kẻ mới bước vào. Đúng là tên Hộ, tên lính “mã tà” của giặc. Hộ oang oang giọng:

− Chuyện gì? Chuyện gì? Nghĩa quân hả?

− Anh nhìn giùm tôi tên này, có đúng là dân làng này không?

Hộ nhìn mặt Sơn, hơi ngờ ngợ, rồi gật đầu. Tên kia hơi dịu giọng:

− Nó ở nhà này một mình với em gái. Nhưng tôi nghi nó là tay trong của tụi nghĩa quân. Mới hồi nãy nó liệng một tấm bản đồ vào lửa để phi tang.

Hộ cười hề hề:

− Có em gái nó à? Em gái đâu?

Hộ bước vào buồng, và gặp ngay Thảo Giang. Hắn lùi lại, rồi quay ra chỉ vào mặt Sơn:

− Nó nói láo! Không phải em gái nó đâu! Cô nhỏ này là Thảo Giang, là…

Sơn la lên:

− Nó là em tôi mà!

Hộ gằn giọng:

− Tao nhận ra mày rồi! Mày là cái thằng nhãi đã đánh tao trong vườn, rồi bỏ chạy, lặn xuống nước. Tao thù mày từ đó tới nay. Mày là cái gì của Thảo Giang?

Sơn cúi gầm mặt, tức tối. Hộ cười khẩy:

− Không cần mày trả lời, tao cũng biết rồi. Tao thương Thảo Giang, nhưng cha nó theo nghĩa quân. Cả mày nữa, để mày sống mày cũng theo tụi nó nốt.

Gã kia ngăn lại:

− Khoan! Đừng nóng, anh Hộ. Nếu nó là người của nghĩa quân, chúng ta phải khai thác nó để biết bọn kia chạy đi đâu, làm cái gì?

− Tôi muốn giết nó.

− Thù riêng của anh sẽ tính sau. Bây giờ tôi muốn biết có cái gì trong tấm bản đồ của nó.

Sơn lắc đầu:

− Tôi đã nói không có bản đồ gì hết.

Gã nọ cười nham hiểm:

− Có hay không, đánh cho đau rồi mày sẽ khai.

Những cái đá liên tiếp quật Sơn ngã xuống nền nhà. Sơn choáng váng. Gót giầy cứng của tên Hộ giáng lên đầu Sơn những cú đau điếng. Sơn cắn răng chịu trận. Con hổ đã sa lưới, cựa quậy càng thêm đau. Sơn nhắm mắt lại. Trong trận vũ bão đổ lên mình, Sơn tưởng tượng có đoàn nghĩa quân chạy qua làng. Họ đứng lại trước cửa, và xông vào giải cứu Sơn bằng những giáo mác của họ. Nước non thênh thang, mịt mù quá! Họ đã qua rồi, không trở lại đâu! Sơn mím chặt đôi môi, tự nhủ mình sẽ không tiết lộ điều gì hết. Đã không theo chân được đoàn nghĩa quân, thì cũng không bắc cầu cho giặc qua sông đuổi họ. Sau một cái đá làm tối tăm mặt mày, Sơn nghe tiếng Thảo Giang rú lên trong buồng:

− Làm gì vậy? Ai đã giết mẹ tôi? Cho tôi theo với, gặp cha tôi với! Mấy anh nghĩa quân ơi!...

Tiếng kêu mịt mờ, xa xăm, nhưng đã làm cho trận vũ bão dừng lại. Gã người Việt nhìn vào buồng, thắc mắc:

− Con bé nói cái gì?

Hộ sáng đôi mắt lên:

− Nó nói mẹ nó chết, cha nó theo nghĩa quân. Anh Tư, chắc nó biết đường đi của nghĩa quân.

Gã tên Tư, quay lại thông dịch với đám lính Pháp. Họ trao đổi với nhau những câu líu lo. Sơn nằm gục dưới đất, đầu vẫn còn tỉnh táo nhưng linh cảm cho thấy con đường đang đi đã tới một ngõ cụt.

Sau một câu nói dõng dạc của gã chỉ huy, tên Tư bảo tên Hộ:

− Ổng ra lệnh đem con bé Giang ra tra hỏi.

Sơn giật mình nhìn lên. Trong đôi mắt hoa mờ vì mấy cú đá, Sơn thấy tên Hộ lôi Thảo Giang từ trong buồng ra.

Thảo Giang bị đặt ngồi trên ghế. Tên Tư ngon ngọt hỏi:

− Nè, cô bé, biết nghĩa quân đi trốn bằng ngõ nào không? Nói đi, tôi thưởng cho!

Thảo Giang mở to đôi mắt lên, nói xa xăm:

− Cái gì? Ai hỏi gì vậy? Mệt quá!

Tên Tư cúi xuống gần:

− Nghĩa quân đi đường nào? Nói đi!

− Hở? Nghĩa quân gì?

− Cha của cô đó!

− Cha tôi hả? Cha đi xuồng ra biển đông, đem súng về giết mẹ… Mẹ chết, máu trong đầu chảy ra. Anh Sơn ơi! Sợ quá!...

Hộ nhăn mặt:

− Nó điên chắc?

Tên Tư giơ tay tát mạnh Thảo Giang. Chiếc thân yếu ớt ngã xuống.

Sơn kêu lên:

− Em tôi bệnh, nó nói sảng. Các ông đừng làm nó sợ.

Hộ nói:

− Con bé nóng lắm, anh Tư!

− Nhưng ít ra nó cũng còn trí óc để khai sự thật. Tôi có cách bắt tụi nó phải khai. Anh Hộ, anh biết tụi nó không phải anh em ruột?

− Con bé Giang không có anh em gì hết. Còn thằng nhãi này là người yêu của nó.

Tên Tư gật đầu, rồi quay qua nói một tràng với đám lính phía sau. Hai tên lính to lớn tiến đến, lôi Sơn ra đường. Tên Tư và tên Hộ xốc Thảo Giang dậy, đi theo.

Dưới ánh nắng chói rực của buổi trưa, Sơn bị trói gọn bỏ nằm trên đường đất. Thảo Giang bị bắt ngồi dưới một gốc cây. Gã chỉ huy người Pháp cho Thảo Giang uống một viên thuốc giải nhiệt, rồi ngồi ở đó, ra lệnh cho Tư và Hộ đánh đập Sơn. Thảo Giang kinh hoàng nhắm mắt lại, rên rỉ:

− Sao đánh anh tôi? Ác độc quá!...

Hộ nói:

− Thì Thảo Giang nói đi, nghĩa quân đi ngõ nào? Có bao nhiêu đứa? Chúng nó sẽ về đâu?

Thảo Giang ứa nước mắt:

− Tôi là dân quê dốt nát, làm sao biết được chuyện ấy?

− Đừng có cứng đầu nghen cô bé! Nói đi, rồi ta cho thằng Sơn được yên thân.

Sau tiếng rú thảm thiết của Sơn. Thảo Giang bật khóc:

− Trời ơi! Đừng đánh nữa! Nghĩa quân đi theo… ngả…

Tiếng nói yếu ớt im bặt. Tên Hộ trố mắt nhìn, rồi nói:

− Nó ngất xỉu rồi!

Ở đàng kia, Sơn cũng rũ mềm người.

Chương 9

Nắng quái đổ đầy mặt, đâm vào đôi mắt. Sơn tỉnh dậy, nghe cơ thể tê dại. Chiều rực lửa trên cây cỏ, trên đường đất. Ở đàng kia, vẫn còn thấy rõ lắm, cây cầu quỵ xuống dòng sông. Kẻ chiến thắng đang nằm chờ chết. Không gian ngăn cách ở dòng nước kia. Thời gian đằng đẵng như một đời người. Buổi chiều khói lửa thiêu đốt xóm nhà, chỉ cách buổi chiều nay bằng một ngày ngắn, nhưng sao lê thê quá!

− Cho tôi đến gần anh tôi đi! Anh tôi sắp chết rồi sao?

Giọng nói u uất ở trong cõi nào? Dưới lùm cây? Bên rạch nước? Hay ngoài đồng thơm lúa? Sơn nhướng mắt nhìn lại. Cái bóng Thảo Giang xơ xác, vật vờ. Mái tóc xổ ra, lòa xòa trên trán, trên vai, trên lưng. Thảo Giang ngồi xuống trước mặt Sơn. Đôi mắt đỏ hoe nhòa nhạt lệ.

− Anh Sơn ơi! Anh có tỉnh không?

Nước mắt Thảo Giang rớt xuống mặt Sơn. Sơn lắp bắp:

− Thảo Giang đó phải không? Thảo Giang đã khai với chúng nó hết rồi… phải không?

Thảo Giang lắc đầu. Sơn thở phào. Nhưng trong đôi mắt dòng sông kia đang dạt dào sóng. Sơn nhìn kỹ Thảo Giang. Cô bé vẫn còn hiện diện bên ta đây mà! Trong cơn mê vừa rồi Sơn thấy rõ ràng Thảo Giang đã chết. Thảo Giang bị đánh đập, cô bé khai hết những điều bí mật. Nghĩa quân qua cầu, vượt khu vườn của Bá Huê, ra cánh ruộng phèn, tới sông Vàm Cỏ, đi thuyền qua Tân An rồi về Gia Định. Nghĩa quân có khoảng hai chục người, một số khác đã trốn đi trước. Dẫn đầu nghĩa quân có anh Chương, anh Nam, anh Biên và anh Phô. Mấy người kia tên gì không biết. Họ đã đi sáng nay, qua chiếc cầu đó, rạch nước cạn, và anh Sơn rải thuốc súng làm sập cầu. Cho tôi sống! Cho anh Sơn tôi sống! Chúng tôi thương nhau. Chúng tôi quen nhau từ thuở nhỏ. Đuổi theo nghĩa quân đi! Họ đã vượt sông lớn. Để cho chúng tôi ở lại làng. Để cho chúng tôi được sống. Chúng tôi đặt tên cho rạch, sửa tên cho làng. Chúng tôi bắc lại cầu, xây lại nhà, sinh con đẻ cái, sống đời dân quê hiền lành… Thảo Giang nói nhiều lắm! Tiếng nói như kim nhọn xóc vào tai, đâm vào óc. Quân giặc khoái trá đuổi theo nghĩa quân. Sơn uất ức rút cây dùi ra đâm vào tim Thảo Giang, Thảo Giang chết. Mắt nhắm kín gói chặt ước mơ…

Thảo Giang khóc sụt sùi khi nhìn những vết bầm trên mặt Sơn, những chỗ da thịt rướm máu trên tay, trên chân Sơn. Tiếng khóc làm se lòng người. Sơn nói:

− Đừng khóc Thảo Giang! Đừng khai gì hết. Chúng ta sẽ chết ở đây. Thảo Giang chịu không?

Thảo Giang gật đầu. Sơn lại thều thào:

− Thảo Giang sợ chết không?

Thảo Giang lắc đầu, nước mắt chảy như mưa. Sơn thở dài:

− Nói gì đi, Thảo Giang! Sao cứ gật đầu, lắc đầu? Chúng ta sẽ chết ở đây mà!...

Thảo Giang đưa tay gạt nước mắt:

− Giang phải nói gì?

− Thì… thì Thảo Giang nói là…

Đàng kia gã chỉ huy người Pháp đang nói một tràng dài với Tư, Tư bước đến gần Sơn và Thảo Giang, kéo Thảo Giang đứng dậy, nói dõng dạc:

− Một lần chót, tôi hỏi cô bé có khai hay không? Hay là đợi thằng nhãi kia phải chết?

Thảo Giang nghẹn ngào:

− Tôi biết khai gì bây giờ?

Hộ đến bên cạnh, cười gằn:

− Khai đi Thảo Giang. Tụi nghĩa quân đi ngả nào, về đâu?

− Nếu tôi khai, các ông có tha anh tôi không?

− Có! Tha cả nó và Thảo Giang. Hai người sẽ được đi theo chúng tôi, đuổi theo nghĩa quân. Khi chiến thắng, muốn gì cũng có. Muốn về làng cũng được, mà muốn qua Tây khai mỏ cũng được, tha hồ sướng cái thân.

Thảo Giang quay mặt đi như không muốn để những lời xuẩn ngốc kia lọt vào tai. Hộ nói tiếp:

− Còn nếu khai bậy, tìm không được dấu nghĩa quân, cô và nó sẽ bị giết chết.

Thảo Giang đứng thẳng người lên, nói:

− Tôi sẽ khai đúng sự thật.

Hộ cười khoái trá:

− Có thế chứ! Thảo Giang vẽ lại cái bản đồ cho chúng tôi nghen!

− Khỏi cần vẽ, anh tôi còn một tấm bản đồ nữa.

Hai tên phản quốc trố mắt:

− Ở đâu?

Thảo Giang quỳ xuống bên Sơn. Sơn cũng ngạc nhiên vô cùng. Nhưng Sơn chưa kịp nói gì, thì Thảo Giang rút ống sáo trúc trong thắt lưng của Sơn ra. Giọng cô bé xúc động:

− Trong này, tấm bản đồ chỉ đường đi của nghĩa quân đây!...

Bàn tay nhỏ nhắn run rẩy mở dải nơ xanh. Sơn kinh ngạc, nín thở. Trước những đôi mắt vui mừng của đám người trước mặt, Thảo Giang rút cây dùi ra khỏi vỏ sáo trúc. Tia nắng quái cuối cùng biến mất sau rặng tre! Cây dùi giơ lên cao, và đâm mạnh vào bụng Thảo Giang.

Sơn há hốc miệng, không thốt lên được một lời. Tên Hộ, tên Tư lùi lại, kinh hãi. Đám lính đàng sau xôn xao. Gã chỉ huy người Pháp sững người bàng hoàng.

Thân hình mảnh khảnh của Thảo Giang quỵ xuống trước mặt Sơn. Cánh tay đưa ra, chới với như muốn nắm lấy hai tay Sơn đang bị trói quặt phía sau lưng. Sơn nghẹn cả hơi thở. Sơn cứng miệng như người câm. Sơn ù cả hai tai. Sơn không còn cảm giác đau đớn. Chỉ còn thấy trên má Thảo Giang, giòng lệ đã khô lại. Hai mi mở lớn. Giòng sông in bóng xanh ngắt như một thời thơ ấu, rồi đổi thành màu trắng tang thương. Cọng cỏ chỉ đã trôi theo giòng nước.

° ° °

Trước mắt Sơn, những đôi chân bước lại. Hộ cúi xuống, nắm cổ tay Thảo Giang lên. Sau mấy giây im lặng, hắn quay lại nói với Tư:

− Chết rồi!

Và đứng lên nói một câu ngắn với gã lính chỉ huy. Gã này ra lệnh cho đám lính lui ra, tụ tập trước sân nhà. Sơn bị bỏ mặc dưới đất, mở mắt lớn nhìn thi thể Thảo Giang im lìm. Thảo Giang vẫn còn hiện diện bên Sơn đây mà! Có gì khác với Thảo Giang chiều nào đi lên xóm trên, khăn xanh phất phơ trên cổ? Thảo Giang vẫn còn đó bằng mái tóc, bằng đôi mắt, bằng đôi môi ngây thơ. Sơn đâu có giết Thảo Giang như trong giấc mơ ban chiều! Nhưng cũng cái dùi ấy, nó đã làm linh hồn Thảo Giang bay đi mất rồi! Sao ta vẫn chưa chết? Sao ta không ngất đi để được thấy Thảo Giang trong mơ, hát hò trên đồng lúa? Sao ta không khóc được như khi nhìn thấy hình hài của thầy đồ? Cái chết là cái gì, đau đớn hay tuyệt vời? Cái chết là chấm dứt hay là một bắt đầu? Có ai đang trả lời ta đó? Tiếng của bóng đêm đang đổ xuống hay tiếng của giòng sông chuyển mình? Đêm nay nước sẽ lên, đẩy cây cầu đứng dậy. Rùng rợn quá!... Nhưng bây giờ thì nước đã cạn, như nước mắt của ta. Ta nghe lau lách kêu rêu, nghe bìm bịp than thở. Ta sẽ chết đêm nay? Một cái cắn lưỡi, một cái dập đầu…? Sơn quay lại nhìn về phía con rạch. Tiếng động phía đó không phải là ảo giác, mà là sự thật. Đêm đã xuống thật bình yên. Có mấy bóng người nhấp nhô bên vệ đường, nấp sau cây cỏ. Mấy cái bóng đó di động thật nhẹ nhàng, từ phía cầu tới trước ngôi nhà có đám lính Pháp đang tụ tập. Họ đang làm gì? Chỉ có đêm tối biết được. Nhưng họ đang lui lại. Sau một tiếng hô nhỏ, một vùng đã lóe sáng ánh lửa. Khói tỏa mù mịt. Sơn ngửi được mùi thuốc súng, vội vã lăn xuống hố cỏ. Đám lính đàng kia xôn xao, nhưng họ chưa kịp nhận định điều gì, mấy mũi tên lửa đã bắn vùn vụt vào nhà. Căn nhà tranh bốc cháy ngùn ngụt.

Gã chỉ huy chạy được ra ngoài, miệng gào to những lời truyền lệnh. Một bóng người ở bên vệ đường chạy lên, dùng ngọn mác đâm gã nọ ngã gục. Rồi những người khác xáp vào đánh cận chiến với đám lính Pháp. Trong lửa cháy ngùn ngụt, Sơn chỉ còn nghe tiếng hò reo, tiếng la hét rợn óc…

Lửa tàn dần. Căn nhà bị thiêu rụi. Trên mặt đất la liệt những xác người. Đêm trở lại đen tối, yên lặng như không biết những tàn khốc nơi đây. Một bóng đen bước lại gần Sơn. Gương mặt rắn rỏi cúi xuống. Bàn tay tháo gỡ sợi dây trói cho Sơn, nâng Sơn ngồi dậy. Đêm tối làm mờ nét mặt. Nhưng giọng nói quen thuộc cất lên:

− Sơn! Em tỉnh chưa?

Sơn reo to:

− Anh Chương!

− Chương đây!

Sơn đưa tay sờ thấy áo quần Chương ướt sũng. Sơn bùi ngùi:

− Anh đã lội qua rạch?

− Phải. Bọn anh chỉ có mấy người.

− Tại sao anh trở lại?

− Đến sông Vàm Cỏ, anh nôn nao không yên. Toán nghĩa quân hôm trước trở lại, cho hay là họ đã mở đường về Biên Hòa an toàn. Anh cảm thấy bỏ các em ở đây là không phải, nên anh trở lại làng.

Sơn mở to đôi mắt nhìn người nghĩa quân đáng mến:

− Anh tốt với chúng em quá! Nhưng Thảo Giang đi theo chỉ làm bận chân…

− Thảo Giang đâu?

− Thảo Giang bây giờ chỉ muốn ở lại làng. Nó không đòi theo nghĩa quân nữa. Nhưng xin anh, cho linh hồn Thảo Giang theo với.

Chương hoảng hốt:

- Sơn! Em còn bình tĩnh không?

Sơn nói say sưa:

- Cái cọng sắt, em mài thành cái dùi, chờ ngày theo ông Trương Công Định. Cái dùi lận trong lưng, đợi lúc đâm vào tim giặc, lấy lại đất đai. Nhưng em chưa làm gì được, cái dùi đã đâm vào người Thảo Giang… Vì Thảo Giang không muốn cho giặc qua bên kia cầu, đuổi theo các anh. Em đã hiểu lời của anh rồi, anh Chương ơi! Người yêu nước tật nguyền có cái khí giới riêng của họ. Thì Thảo Giang, con gái yếu đuối cũng có khí giới của Thảo Giang.

Sơn lê bước tới bên xác Thảo Giang. Trong đêm tối, chỉ có cây dùi sắt và đôi mắt màu trắng dã sáng lên. Sơn nói:

− Đây nè! Anh Chương! Thảo Giang đây! Không phải là em gái của Sơn. Nhưng chúng em thương nhau hơn cả anh em ruột.

Chương xúc động, bước tới. Đôi mắt Sơn khô khan, giương to nhìn bóng đêm. Nhưng đôi mắt của Chương nhòa lệ. Chương nắm lấy bàn tay lạnh giá của Thảo Giang, tưởng như trong đời chưa có lần chứng kiến cảnh đau lòng như vậy. Sơn nói xa xăm:

− Chúng em chỉ là hai đứa bé còn sót lại của làng. Từ khi thầy đồ mất, chúng em mơ được thấy ông Trương Công Định. Nhưng Thảo Giang đã bỏ mơ ước mà đi.

Chương siết chặt tay Sơn, nói:

− Không! Các em không phải là trẻ nhỏ, mà là hai người đã lớn. Anh khâm phục các em. Anh là người… mà em muốn gặp đây, Sơn!

Trong đêm tối, Chương đứng lên, sừng sững. Con người quen thuộc! Mà cũng là con người thần tượng của Sơn, của Thảo Giang! Không có hào quang vây quanh, không có cẩm bào, không có kiếm báu. Chỉ có ngọn tầm vông, chỉ có tre nhọn làm giáo mác. Và có con tim yêu nước chứa trong manh áo vải thường dân.

Chương 10

Chúng ta không còn là trẻ nhỏ, mà là hai người đã lớn. Phải không Thảo Giang? Đã lớn mới dám yêu nước bằng máu trong tim, bằng cả linh hồn và thể xác. Sơn đã lớn, ở xóm làng này, bên cạnh con rạch nhỏ. Cũng nơi đây, Thảo Giang đã lớn. Con rạch nhỏ chưa có tên. Sơn vẫn còn muốn gọi nó là “dòng sông”. Con rạch nhỏ chảy ra dòng sông lớn, sẽ mang cùng một tên : Sông Vàm Cỏ! Là gì Thảo Giang biết không? Là… Thảo Giang đó! Chỉ một câu giản dị như thế thôi, sao cũng khiến Thảo Giang cảm động?

Buổi sáng đã thức dậy bên dòng sông. Mặt trời mở mắt nhìn lau lách. Thảo Giang nhỉ, ở đây buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối đều dễ thương cả. Dễ thương như gương mặt Thảo Giang trưa nào ngồi trên cỏ xanh, xõa tóc đầy lưng, chiều nào đi ngang cầu phất phơ khăn xanh trên cổ. Sơn tưởng làm dân đen, cuộc đời chỉ có màu nâu, màu đen như áo. Nhưng đến lúc tưởng nhớ, mới thấy thời thơ ấu của ta toàn một màu xanh. Màu xanh của dòng sông, của mắt Thảo Giang, của cỏ, của lúa, của giải khăn trên cổ Thảo Giang, và trên cây dùi sắt oan nghiệt của chúng ta.

Cây dùi sắt! Sơn đã mài nó từ ngày biết thương Thảo Giang. Đáng lẽ Sơn phải dùng nó để hạ cái tên nham nhở trong vườn, nó trở thành khí giới của Sơn mang trong người chờ ngày theo nghĩa quân. Đáng lẽ Sơn phải dùng nó để moi tim giặc, nó trở thành khí giới cho Thảo Giang bày tỏ tình người. Sơn thù ghét nó, nhưng cũng thương nó biết bao! Sơn đã chôn theo cùng với Thảo Giang và cây sáo trúc. Sơn đã thấy, đời vẫy vùng có khi cũng đồng nghĩa với cảnh quạnh hiu. Thảo Giang hiểu gì không? Nghe gì không? Cái hình hài nằm dưới nấm đất nhỏ nhắn kia, bên dòng sông của chúng ta, cạnh cây cầu đã gãy?

Nắng lên đầy xóm thôn tiêu điều. Ở trên mặt nước, nắng làm hiện rõ bóng của chiếc cầu nám đen, cô độc. Ở đây, mỗi một cảnh vật đối với Sơn đã trở thành một di tích nát lòng. Thảo Giang nghe gì không? Tiếng nước! Tiếng nước dưới con rạch, bên chiếc cầu. Tiếng nước kêu gọi Sơn, như đã kêu gọi Thảo Giang đó! Từ khi thầy đồ mất, Sơn bỏ lỡ nhiếu dịp để làm nghĩa quân – Đêm bác Chiêu rời sông, Đại một mình bơi xuồng khua nước ra đi – Buổi chiều sáu người vượt qua vườn Bá Huê – Buổi sáng anh Chương dẫn bạn bè qua cầu, Sơn rắc thuốc súng phá cầu cho giặc khỏi đuổi theo… Đã ba lần không đi theo được. Cái gì đã giữ Sơn lại? Phải là Thảo Giang không? Không phải đâu! Tình làng nước. Tình ruộng vườn. Tình người trong một xóm. Có ai vui sướng khi rời khỏi lũy tre xanh của mình hở Thảo Giang? Sự ra đi là sự lưu đày – đúng như vậy! Cái đoàn người chập chùng, tơi tả, trong đó có mẹ của Sơn, có bà con mình, phải bỏ làng mà đi, đúng là bị lưu đày. Nhưng Thảo Giang ơi! Ta có thể bị lưu đày khỏi quê hương ta, còn tình yêu nước vẫn không thể rời khỏi tâm hồn ta được. Thảo Giang chắc đã nghĩ đến điều đó trước Sơn. Nghĩ như thế nên Thảo Giang mới làm cho bọn phản quốc kinh hãi, làm cho bọn xâm lăng rởn óc, làm cho anh Chương tuôn lệ.

Và riêng Sơn, cho đến sáng nay, khi nấm đất đã lấp đầy cho Thảo Giang, đã nhận ra một điều rõ rệt. Điều đó đã có trong lòng Sơn rồi – từ lâu – nhưng nó bàng bạc lắm, mông lung lắm. Từ lúc Sơn còn là tên mục đồng, cho đến ngày tập tễnh làm thơ phú ở nhà thầy đồ, cho đến ngày vừa làm tên học trò vừa làm người nông dân cầy cấy ngoài đồng… Mà Sơn không nói ra. Cũng không biết gì để nói ra. Đến nay đã biết rõ. Là tình yêu! Sơn yêu Thảo Giang! Sơn dám nói như thế. Không sợ ai nghe. Mà nói với người dưới mộ cũng không sợ lúng túng, không sợ phải ái ngại như khi nhìn Thảo Giang bâng khuâng cắn đứt cọng lúa non. Sơn nói bằng ý nghĩ, không nói bằng lời. Ý nghĩ đó bay quyện vào gió, hòa với linh hồn Thảo Giang phảng phất đâu đây, nhưng cũng đâm vào mắt Sơn, làm Sơn đau nhói. Nỗi buồn lấp đầy mắt, tràn đầy tim. Thảo Giang nằm đó, gần gũi lắm nhưng sẽ xa xôi lắm. Tình yêu! Sơn muốn lặp lại ngàn lần cho Thảo Giang nghe thấy. Nhưng Thảo Giang ơi! Tình yêu đã bắt đầu và đã chấm dứt. Bắt đầu thật dễ thương. Như Thảo Giang ngàn đời dễ thương nằm dưới nấm đất nhỏ. Ở đây nhìn giùm Sơn buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối; ngửi giùm Sơn hương lúa, nghe giùm Sơn tiếng chim. Quê hương đẹp và thơm không đâu bằng.

Khi đứng bên này con rạch, khu vườn Bá Huê bên kia là một màu xanh bí ẩn. Sơn biết khi qua phía bên kia cầu, thì làng xóm bên này trở nên xa lắc lơ và mịt mờ như thời thơ ấu. Sơn sắp qua bên đó, Thảo Giang ạ! Đứng ở đây nhìn qua đó là tương lai. Ở bên kia trông lại bên này là quá khứ. Điều gì đau xót quá! Nhưng cám ơn Thảo Giang, đã cho Sơn một thời lãng mạn.

Buổi sáng thức dậy đã lâu. Nắng đã đi ra đồng. Người thủ lãnh bước xuống giòng nước. Anh Chương đó! Thần tượng Trương Công Định của chúng ta đó! Anh Chương sẽ về vùng “đám lá tối trời” để lập cơ nghiệp, nối tiếp ước mơ. Đoàn người lội qua con rạch. Sơn lội qua theo. Nghe như nước ngấm sâu vào da thịt, vào đến trái tim. Nghe êm ái như đang đi trong đôi mắt dòng sông của Thảo Giang. Nghe nhức xót tê dại như những lằn roi kỷ niệm quất vào người. Sơn nhìn lui. Thảo Giang dễ thương ngóng mắt trông theo bằng giải khăn xanh phất phơ trên mộ cỏ.
Tân Định - Sài Gòn 9/1974 
Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...