Thứ Ba, 1 tháng 2, 2022

Những con người - Những bóng ma 1

Những con người
Những bóng ma 1

Tựa
Nam Dao tên thật là Nguyễn Mạnh Hùng. Sinh năm 1944 tại Nam Định.
Hiện là Giáo sư Kinh tế học Đại học Laval, Canada, giảng dạy và nghiên cứu tại nhiều Đại học có tiếng, như Havard, Paris - Sorbonne, Toulouse, Montpellier, Paris 10, CEPREMAP, National Australian University, University of New Southwales.
Ông đã có trên 40 công trình nghiên cứu in trên những tờ báo chuyên môn có uy tín cao trong ngành, được giải bài nghiên cứu xuất sắc nhất của tờ Asian Pacific Economic Review năm 1999, thành viên Ban tuyển chọn của Hội Đồng Nghiên cứu Khoa Học Nhân Văn của Canada về Kinh tế học và của nhiều Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế tại Canada và Pháp.
Ông là tác giả của hàng chục tiểu thuyết, kịch, ký, tập truyện, thơ… sáng tác bằng tiếng Việt, nhiều lần về Việt Nam và quen biết với các văn nghệ sĩ trong nước, có sách in tại các nhà xuất bản Việt Nam như Trăng thuê ảo ảnh (tập truyện, Nxb Hội Nhà văn, 2004), Đất Trời (tiểu thuyết lịch sử, Nxb Đà Nẵng, 2007), và lần này là Trăng nguyên sơ (tiểu thuyết, Nxb Lao động, 2008).

Tôi viết những bài bút ký này để trả nợ. Tôi nợ những người đã nằm xuống. Nguyễn Tuân, Văn Cao, Trần Dần, Phùng Cung ngoài Bắc. Rồi Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn trong Nam. Tôi nợ những người đang sống: Hoàng Cầm và Lê Đạt. Đó là những nhà văn, nhà thơ tôi được gặp trên bước tình cờ của nhân duyên. Tôi nợ, bởi từ mỗi con người ấy, tôi đều cảm và thấm cái truân chuyên của nghiệp viết. Vì viết thế nào được khi con chữ không có đời sống. Viết thế nào được khi người viết không thể nghiệm cuộc tồn sinh để rồi phà sinh khí qua những con chữ vào những trang giấy trắng vô tri để tái tạo lại phận người.
Nhưng cái nợ lớn nhất đằng đẵng ám ảnh là những điều tôi nợ tương lai. Tức là nợ thế hệ đến sau, nợ tuổi trẻ, nợ những người mang tên một Bình Minh hẹn nắng mới, một Hoàng Oanh đợi tiếng sơn ca. Để trả nợ, tôi không có cách gì khác hơn là gọi lên con người từ những bóng ma, để quá khứ tiếp sức truyền sinh cho hiện tại bằng những dấu chân. Những dấu chân đưa lối để tuổi trẻ có khả năng đến một tương lai tốt và đẹp hơn so với một thời quá vãng. Đối với tôi, trong những dấu chân kia có vết bước của những người mà tôi có duyên phận gặp gỡ. Viết ra, tôi không hề có ý vạch lại những lối mòn; ngược lại, tôi chỉ ao ước chuyển những cái dấu chân tôi trân trọng cho những con người cầm đuốc chạy về phía trước.
Cách tôi trả nợ, có người bảo, đó chỉ là cách tôi công bằng với chính mình. Tôi không tin rằng chỉ vậy. Tôi ước ao giữ được công bằng với những con người từ những bóng ma. nhưng không khoan nhượng thỏa hiệp bất cứ gì với những bóng ma ma trong con người. Đó là một lời tâm nguyện, vì tôi tin con người Việt Nam một khi thoát khỏi những bóng ma ám ảnh sẽ chẳng thể nào lại đi giật lùi so với nhân loại.
Nam Dao
1- Bác Nguyễn
1. Chợp mắt, đã đâu đó đúng 18 năm, thưa bác. Đấy là kể từ cái ngày bác nhắm mắt, và thôi chẳng mở ra một lần để tiếp tục nhìn gió. Và cát. Và những hạt bụi một thời. Những hạt bụi bay vào làm cộm mắt, nước chảy, cứ như khóc, tay đưa lên quệt cho nó chảy vào trong theo kiểu nói của Văn Cao. Nuốt nước mắt, a cái ngôn ngữ tuyệt vời ông cha để lại. Nhưng Giời ơi, ai lại khéo dư nước mắt, thưa bác! Ấy thế mà khi nghe cái tin bác lẳng lặng ra đi, kẻ hậu sinh này cũng đã ngậm ngùi rơi lệ. Vào một cái quán rượu trên Avenue du Parc ở Montreal, hắn ngồi một mình, uống liên miên, rồi động lòng khóc hu hu trong một cái góc khuất. Cho đến nay, hắn vẫn còn tự hỏi, hắn khóc cho một người tài hoa vừa vượt cái biên hữu hạn, di tản khỏi cuộc thế chẳng mấy vui, hay hắn khóc vì thương thân mình? Hắn nghĩ đến Một trăm cách cười rất Nguyễn Tuân, kê giấy viết thành một trăm cách khóc. Thưa bác, tiểu tử đây đã tìm ra đủ số trăm để phúng viếng. Khóc rưng rức, tỉ tê, tức tưởi, khóc trong lòng, khóc ủ ê, ti tỉ, rấm rứt, i ỉ, ấm ức, khóc gào, khóc toáng, khóc thét...Nhưng thảm nhất, là khóc như cười. Thanh âm ằng ặc, như bị chẹn những con người, những bóng ma họng khiến khóc thành cười, không mấy ai phân biệt được trừ người khóc.
2. Thuở thiếu thời, tôi đã biết bác Nguyễn không chỉ qua Vang Bóng Một Thời, Mái Tóc Chị Hoài, hay Chùa Đàn, mà còn những dịp cha hoặc mẹ nuôi tôi chuyện trò nhắc lại dăm ba kỷ niệm có cái tên nghe rất xa xôi là kỷ niệm ngoài Bắc của đám Bắc Kỳ di cư 54. Cha nuôi tôi, vốn là bạn thân bác Nguyễn, kể ”... bác ấy dẫn mẹ mày đi bắt tao ở chỗ hút thuốc phiện, nhưng đứng trốn đằng xa. Khi tao biết, tao cầm cái cán ô chỉ vào trán, bảo, lần sau thì ông giết mày, bác ấy chỉ cười hề hề!”. Còn mẹ nuôi tôi, là chị dâu của bà giáo Thảo, tức Bồ phu nhân, và chính là chị Hoài có mái tóc đi vào văn học sử qua cái ngồi bút chao ôi đến là tài tình của bác Nguyễn. Phu nhân khiến tôi không hiểu sao cứ mường tượng ra Dương Quí Phi, cao lớn nhưng thướt tha, răng đen chứ không chịu cạo trắng mặc dầu rất tân thời, và có cái cười má lúm đồng tiền nghiêng thành đổ nước. Dĩ nhiên, ai mà biết được mặt giai nhân trong huyền thoại, rồi thành có đổ nước có nghiêng thì cũng vì các vị tu mi chẳng qua là loại anh hùng bất quá mỹ nhân quan. Ôi, tôi dễ thông cảm, và vô cùng thông cảm các vị. Tôi không anh hùng mà cũng thế!
Về Sài Gòn sau 14 năm xa cách, tôi sao vẫn thấy có điều gì hình như là thê lương mặc dầu nắng vẫn thế, nóng rừng rực, ập xuống từ trời cao và xanh. Ngay cả với những người ruột thịt, một khoảng cách vô hình nào đó ngăn không cho vượt qua. Đứa con đi hoang trở về như đứa a tòng với những kẻ chiến thắng, buộc một thành phố vào cái cảnh bị chiếm đóng, tà áo dài đủ mầu đủ sắc thướt tha vờn gió mới ngày nào đâm phạm tội Mỹ-Ngụy và nay được thay bằng đồ bộ, áo ngắn trắng quần bà ba đen, đồng phục một thời hộ khẩu thành nếp mới với sổ gạo, sổ đường... và những buổi họp lúc tối trời với ủy ban nhân dân phường để nghe phổ biến chính sách xây dựng xã hội XHCN. Bây giờ, làm thế nào đây để lấp cái khoảng cách kia? Nghe và hùa theo những than vãn? Vô ích, đã không thay đổi được gì mà e chừng có ngày còn vạ miệng! Vả lại, đó là những ngày đầu một cuộc đổi đời, chiến tranh đã chấm dứt, chính mình đây cũng đang mơ một bình minh tươi đẹp, đặt bước trở lại quê hương là mong góp tay vào xây dựng lại, không thể nâng tầm những sự ma xát giao thời lên mức sống còn. Nhưng phải chinh phục lại tình ruột thịt máu mủ thôi. Hãy bắt đầu bằng biến mọi sự thể giao thời thành chuyện tiếu lâm. Và tôi đã chọc cười, mua vui, làm cho ai nấy thấy nhẹ đi. Và mong là hiểu dẫu tôi không nói nên lời, tôi đâu có được là tên VC đeo trên cành đu đủ nhe răng ra cắn cấu cuộc đời.
Những người thân bị cái cười chặn lại, không nói được cái chuyện độc nhất ám ảnh là ra đi. Ông anh con chú con bác với tôi có lẽ được nhắn nhủ, yêu cầu cho nói chuyện riêng, chuyện đứng đắn. Anh rủ tôi lên sân thượng. Nhìn qua phía bên kia là nhà ga xe lửa trước khi bị phá đi đê xây công viên hiện nay, anh thình lình ôm lấy tôi khóc rú lên, nghẹn ngào ”...chú ơi, chú làm sao thì làm, mang gia đình đi đi, báo hiếu ông bà...”. À, chuyện đứng đắn là thế. Tôi đẩy nhẹ anh ra, nhìn vào cái mặt mếu máo nhưng trên không có giọt nước mắt nào. Muốn cười, nhưng tôi không cười được, chỉ ngại ngùng nói nhỏ, nhưng nói thật, “...thưa anh, em có quyền hành gì đâu!”. Nhưng thật kỳ lạ, một người duy nhất hiểu được tấm lòng tôi là một người đàn bà. Bà ít, hay có thể chưa bao giờ, cắp sách đến trường. Nhưng bà có một trí nhớ tuyệt vời, thơ văn thuộc làu làu, chẳng phải thơ cổ thời cụ Chu Mạnh Trinh vốn là hàng ông phía bên ngoại của bà, mà cả thơ tiền chiến, nào Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Đoàn Phú Tứ...Bà là mẹ nuôi tôi, tính khí rất  ‘‘đàn ông”, góp chuyện ngang hàng với đám tao nhân mặc khách của cha nuôi tôi, nên học kiểu truyền khẩu rất nhiều, và vanh vách kể những thứ giai thoại làng văn chỉ người trong  ‘‘cuộc” mới biết. Trong khi cha nuôi tôi cứ nắm tay tôi cấu, cái cấu vừa có niềm bực dọc nhưng lại đầy xót thương, và dặn tôi phải cẩn thận thì bà lẳng lặng quan sát, và một hôm, thình lình bà nói lớn ‘‘tao hiểu mày rồi!”. Hiểu thế nào, tôi đang ngơ ngẩn, thì bà phá lên cười, cái cười có chất đồng bóng, tiếp  ‘‘... con ạ! Mày là cái thằng Kiều Phong ấy mà”. Ơ, Kiều Phong, hắn là ai? Tôi hỏi, bà đáp, thì cái thằng rợ trong Lục Mạch Thần Kiếm ấy mà! Phải nói khi ấy kiến thức ‘‘chưởng” tôi chẳng có gì, và vài năm sau tôi mới biết Kiều Phong họ Tiêu, con Tiêu Viễn Sơn, người cao lớn, râu rậm, võ giỏi nhưng nhân hậu, chết vì đứng làm con đệm hòa giải giữa võ lâm Trung Thổ và các hiệp khách gốc Khất Đan. Tôi nhỏ con, vốn là nhát, không có (hay nói cho sang, ít) râu, chưa muốn chết nên chỉ xin hai chữ nhân hậu, nhưng thế mới khó, nhận chỉ sợ mình lại hợm mình.
Ở Sài Gòn được vài ngày, Kiều Phong đi Hà Nội dự Hội Nghị Toán Học Toàn Quốc năm 1977, và trước khi lên đường thì cha mẹ nuôi đã sửa soạn một gói quà nhỏ, dặn con đến thăm hai bác hộ chúng tao. Cha nuôi tôi viết vài chữ cho Nguyễn Tuân, thì cũng lại những nhung nhớ, những kỷ niệm...Phần tôi, có cái gì như một vinh hạnh. Chưởng tôi chưa đọc, nhưng văn bác Nguyễn vừa ngông nghênh, vừa tài tử, lại vừa nhuốm mùi khinh bạc thì Kiều Phong đã thưởng ngoạn rồi.
3. Hà Nội vào độ nồm, oi ả khó mà tưởng tượng được. Trời hầm hập chĩu hơi, nặng như xà xuống, đe dọa. Mùa bão, nhác nhìn những con chim, con người không có cái tinh nhậy của loài lông vũ ngước mắt lo lắng đợi giông gió. Rồi bão ập về. Cây đổ. Ngói bay. Tất cả tớn tác. Đấy, lần đầu tôi về Hà Nội là vậy. Và cũng là lần đầu tôi tiếp xúc với một xã hội phe XHCN, với nhiều háo hức, và cũng không ít âu lo.
Một buổi tối, sau công việc, tôi nhờ một người anh họ đèo xe đưa tôi đến nhà Nguyễn Tuân trên phố Trần Hưng Đạo. Chỉ vài ngày, tôi đã không còn lạ chuyện phải cúp điện, cái nghèo, và sự tất bật với miếng ăn ở Hà Nội tem phiếu. Hà Nội ta xơ xác, vì Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, tựa một bài phiếm ký của bác Nguyễn trong những ngày chiến tranh ác liệt. Thế cho nên tôi lần mò trong bóng tối leo hai nhịp cầu thang lên nhà bác như một sự rất bình thường. Và hồi hộp gõ cửa. Tiếng dép nhựa quét sèn xẹt trên đá lát, rồi tiếng hỏi ai đấy, thanh âm đèo thời gian mà thanh xuân ở phía đằng sau. Tôi xưng lai lịch, nói rằng có quà miền Nam, nhìn qua cánh cửa vừa hé ra. Nguyễn Tuân đầu bạc, tóc dài chấm đến gần vai, râu lún phún, mắt hấp háy sau cặp kiếng lão, tay dang ra mời vào rồi thủng thỉnh bước.
Tay gạt gói quà sang một bên, bác Nguyễn mở bức thư cha nuôi tôi, đọc chăm chú như không có khách. Rồi bác im lặng châm trà. Lát sau, bác hỏi, giọng trầm như đặc lại, ông Nguyên bà Thống khỏe mạnh cả chứ. Tôi gật, dạ thưa bác, bố mẹ cháu vẫn thường. Đẩy hai chén nước trà về phía chúng tôi, bác nhìn ông anh họ tôi, trầm ngâm rồi thốt lên, nhà Nước nên để cho hai ông bà ấy đi ngoại quốc đoàn tụ với con cái chứ giữ ở Sài Gòn làm gì. Câu nói bất ngờ khiến tôi ngạc nhiên, chưa biết ứng xử thế nào, lúng búng:
- Thưa bác, cháu có nghe...
Chưa dứt lời, bác Nguyễn dơ tay lên chặn, buông thõng:
- Tôi với anh chẳng họ hàng hang hốc, có gì mà bác với cháu!
Tôi điếng người. Kiều Phong bị lão quái đánh một chưởng đỡ không đặng, ngực tức, hơi thở ngưng ở đan điền, máu nóng dồn lên mà không thổ ra được, huyệt Bách Hội như có kiến bò vào đốt lấy đốt để. Vận khí, tay bắt quyết Bình Tĩnh, tôi mặc ông anh họ cũng choáng người vì sức ép của chưởng phong đang... thưa với bác, em nó là người dưới, xưng hô thế là...vân vân. Được, tiểu tử đây tuổi mới ngoại tam tuần, xưa nay đi không đổi họ, đến chẳng giấu tên, mặt mũi dẫu có khó coi nhưng đâu có mang cái tạng yêu cho roi cho vọt mà lão quái xuất chưởng Đoạn Tình như vậy. Một lời nói ra, tứ mã nan truy, bốn con ngựa cũng chịu, theo không kịp nữa là. Tay thò ra phía sau, tôi kín đáo bấm vào huyệt Ngọc Chẫm, hít hơi theo thủ pháp Cửu Âm Chân Kinh (sau này luyện sách Kim Dung tôi mới tìm thấy tên), từng bước điều hòa kinh mạch, sửa soạn thế phản công. Nhỏ nhẹ, tôi hỏi:
- Thưa...cụ, cụ vẫn viết lách đều chứ ạ!
Lão quái gật gù, ờ thì vẫn viết! Mượn đà, tôi vuốt gió phẩy chỉ phong, giả như vô tình, hỏi, nghe đâu như nhà văn ở đây đều được nhà Nước trả lương cho viết, phải không ạ? Lão quái gật gù, ờ có thế! Tôi xuỵt xoạt bỏ nhỏ, cái lịch sử nước ta nó kinh hoàng và thương đau loại hạng nhất thế giới, chất liệu văn chương đầy rẫy...Lão quái gật gù, giọng trưởng thượng, đúng đấy! A, thế này thì vào thế rồi. Không ngần ngừ, tôi thình lình vận 10 thành công lực, phát:
- Được nhân dân nuôi cho ăn cho viết, thế bao giờ cụ đoạt giải Nobel cho đất nước này có chút mặt mũi trên văn đàn thế giới? Không viết mà chỉ lách thì hy vọng gì?
Chuyện viết và lách, tôi học được từ cái giai thoại sau. Trong một buổi họp của Hội Nhà Văn, thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi bác Nguyễn, dạo này có viết lách gì không? Bác đáp, viết khó vì phải lách, mà lách thì lại khó, khó lắm. Bác ngước mắt nhìn tôi, vẻ như bảo, đúng là trẻ con. Thế thì phải bồi thêm Loạn Đả chưởng thôi, vận chỉ lực tôi điểm:
- Giá mà cái Chùa Đàn của cụ không phải kèm vào mấy chục trang bắt anh chàng nghệ sĩ giác ngộ cách mạng thì chẳng biết chừng là có giải cũng nên...
Nghe câu tôi nói, bác Nguvễn hình như tái mặt, ngả người ra dựa vào lưng ghế. Lát sau, bác chậm rãi:
- Nói dễ, nhưng muốn làm được...khó lắm!
Đáp đòn Đoạn Tình của bác, tôi, con ngựa non háu đá thỏa mãn, hít hơi rồi lịch sự kiếu về nhưng bác Nguyễn giữ lại. Lôi trong tủ chè một chai Johnny Walker đã vơi ra, bác bảo, uống một tí đã. Thế rồi bác thò tay mò gầm bàn khách, lấy hai cái ly chạm bạc ra, để một trước mặt tôi, một trước mặt bác, coi ông anh họ tôi như không có đấy. Bác lăng lặng rót rượu, thầm thì:
- Nhuận bút cho Phở đấy. Ở Liên Xô họ dịch tùy bút Phở, khi mình qua thì họ định trả bằng rúp, nhưng mình bảo, rúp không lấy mà rượu thì lấy, hà hà...
Nhìn bác, quả là chướng. Tội nghiệp cho ông anh họ, lúng túng chẳng biết cư xử thế nào, ngượng ngập nói mình kiêng không uống được rượu. Lão quái lại thản nhiên gật gù. Khinh bạc đến thế thì... tôi phải đối phó. Đẩy chén rượu đến trước mặt ông anh, tôi bảo, anh thử đi, rượu Tây đấy. Thế rồi chúng tôi im lặng. Và xin kiếu.
Xuống đến dưới nhà, chúng tôi dắt xe men ngõ ra đường. Ngõ khá sâu, có lẽ đến 2 trăm thước, đèn đóm tối om. Tôi ngước lên nhìn. Tầng ba, trên lan can, bác Nguyễn ra đứng nhìn theo cho đến khi chúng tôi đi khuất. Chính cái hình ảnh ấy làm tôi mủi lòng, và thú thật, có chút ân hận trong cách hành xử của mình. Về Sài Gòn, tôi kể lại cho cha mẹ nuôi tôi nghe, cố biến chuyện gặp bác Nguyễn thành một chuyện vui, nhưng khá gượng gạo. Cha nuôi tôi bảo, từ ngày xửa ngày xưa, lúc nào bác ấy cũng làm dáng lập dị. Nhưng còn con, mày ăn nói thế thì ác miệng quá, con ạ!
4. Cũng phải đến 4 năm sau tôi mới lại gặp lại bác Nguyễn. Trước đấy, tôi có về Hà Nội, nhưng ngại gặp bác. Một phần, tôi hơi xấu hổ vì cư xử có gì như quá mức, một phần tôi cứ sợ như trong Hương Cuội, bác là kẹo mạch nha cuộn quanh hòn cuội trắng, ngọt ngào tài hoa đấy nhưng vô ý cắn vào là có thể gẫy răng như chơi. Đầu đông năm 81, tôi ở khách sạn Hoàn Kiếm. Sáng sớm một ngày Chủ Nhật, cô tiếp viên gọi lên phòng báo có người đến tìm. Ai đấy cô? A, tiếng cười khúc khích, tìm anh thì chỉ các cô, có cái cô nào ấy, tóc búi cao... Ấy ư, thật à, và tôi vuốt tóc chỉnh trang nhan sắc, vội vã đi xuống. Phòng khách chỉ có một ông cụ ngồi quay lưng về phía chút nắng hanh len qua song cửa, mái tóc búi củ hành chóa sắc bạch kim. Cô tiếp viên lại khúc khích, tay chỉ, người đẹp đấy! Ô, hóa ra bác Nguyễn. Bác đứng dậy, tươi cười, về đây sao không đến thăm mình, hả? Lúng túng, tôi đáp, thưa... Không nhẽ lại xưng cháu? Thế là tôi bỏ lửng, thành ba cái chấm... trống không. Tôi hỏi thăm, dạo này... Gọi bác bằng gì đây. Bác? Cụ? Thôi, cứ để bác Nguyễn cũng thành ba cái chấm, như tôi, nghĩa là...trống không, chứ lỡ miệng lại có thể bị thêm một chưởng, lần này Kiều Phong đã nhụt chí đấu tranh, chắc chỉ còn ngậm bồ hòn làm ngọt!
Bác rủ đi ăn bánh cuốn với mình. Thế là một già một trẻ khệnh khạng bước như hai kẻ nhàn du, một lát sau thì đến phố Yết Kiêu, ngay dưới nhà Văn Cao. Bác Nguyễn chào bà hàng, nheo mắt, khủng khỉnh, bà cho hai suất, như lệ thường. Không hỏi, bà hàng cười, đẩy đến trước mặt chúng tôi hai cái ly nhỏ, rút gầm bàn một cút rượu trắng, vừa rót vừa nói, thưa cụ cứ xem rượu sủi tăm thì biết, rượu chào khách đấy. Bác Nguyễn cười, râu mép bần bật thứ thanh âm khô mà ấm một lời cám ơn. Bà hàng đổ bánh, hỏi, cậu đây người ở đâu? Tôi chưa kịp đáp thì bác Nguyễn bảo, bên Tây đấy, tận Canada. Bà hàng hấp háy nhìn tôi từ đầu chí chân, ngỡ ngàng, thôi cụ đừng lỡm nhà cháu, Tây gì mà đi dép Bình Trị Thiên, lại mặc cái áo zết bộ đội thế này? Bác Nguyễn phá lên cười sằng sặc, đáp với giọng giễu cợt, thì về đây phải nhập gia tùy tục, ăn vận như thế mới Hà Nội mình chứ. Mà này, bác tiếp, thế nhưng cũng biết nước mắm ăn bánh cuốn mà không có cà cuống là không đậm đà bản sắc dân tộc, vậy xin bà mỗi chén một giọt cho nó thơm. Ở đây, tả cái ngon của bánh cuốn nhân thịt nóng hôi hổi chấm với nước mắm có bột ngọt chấm đầu cây tăm và giọt cà cuống thứ thật chứ không là cà cuống hóa học Thái Lan, tôi xin để hai ông Thạch Lam và Vũ Bằng làm hộ. Tôi chỉ nhắc, hình như lời của cụ Tản Đà, ăn muốn ngon thì người cùng ngồi ăn cũng phải thế nào mới ngon. Như thế, chắc là tôi không bao giờ quên bữa điểm tâm sáng này. Ăn xong, bác Nguyễn lại chỉ cút rượu, cười khà khà, uống cho nó sạch miệng. Khi đứng dậy, tôi xin phép bác rồi thò tay móc túi. Bác trừng mắt, cái này để tôi, tôi mời... Rồi bác thủng thỉnh, xách cái can lên, ngoái bảo bà hàng, bà ghi sổ cho, như lệ thường.
Chúng tôi lên nhà Văn Cao. Lại uống. Bác Nguyễn nói, chính Văn Cao báo bác tồi về đây tuần trước. Thật kẹt. Với người nghệ sĩ đủ ngón cầm kỳ thi họa này tôi cứ anh anh em em. Bác Nguyễn ở đấy, xưng hô thế nào cho tiện. Thế là chúng tôi tiếp tục là... trống không lơ lửng. Khi về, tôi ngại ngùng nói về chuyện xưng hô và hai chén rượu với ba người 4 năm về trước. Bác cười hóm hỉnh, gọi tôi là ông và xưng tôi, bảo, tôi là bạn với bố ông còn được nữa là làm bạn với ông!
Còn chuyện không mời ông anh họ tôi uống rượu thì bác cười ngặt nghẽo:
- Cái anh chàng đó mình gặp ở Mạc Tư Khoa thời Liên Xô họ mời, làm cố vấn thứ nhất cho Sứ Quán, cứ xoa chân bóp tay nhưng lại bắt ne bắt nét mình cho đúng... thể thức ngoại giao. Ngay cái chuyện nhận rượu thay rúp như tiền bản quyền dịch Phở mà cũng khó dễ, đòi gọi đến ông Phạm Văn Đồng để xin phép...
Bác lại cười. Cái cười tinh quái, nhưng hồn nhiên, chỉ nghịch ngợm! Sau này tôi mới biết uống rượu Tây của bác không dễ. Nghe đâu cũng chỉ vì kéo một đệ tam nhân đến đòi rượu mà không được nên Nguyễn Sáng, một họa sĩ tài danh, không chơi với bác nữa.
5. Trở thành một thứ tiểu đồng hầu rượu bác Nguyễn có cái thú là nghe bác kể chuyện. Bác dí dỏm, biết ngưng câu chuyện ở đúng chỗ, chờ người nghe vừa đủ nóng ruột là tiếp, nhưng lưng chừng, khiêu dụ, úp mở khiến cả người kể lẫn kẻ nghe nhập cuộc - cái cuộc lên đồng ngôn ngữ bắt buộc ít nhất là có hai tác nhân để phát và thu - và nhất là sau thì cười, cười hể hả, cười đủ một trăm cách Nguyễn Tuân.
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, chắc không? Tôi đùa cái tít bài bút ký của bác. Nguyễn Tuân khề khà: Chắc quá đi chứ lị. Cái trận gọi là Điện Biên Phủ trên không ấy, loa gọi dân sơ tán. Đi, đi đi, nó bom thế này ở lại thì chết. Mình bảo mình, sống thế này đủ quá rồi, đi là phải bỏ những thói hư tật xấu ở lại, như một rượu, như một chè... và còn cái món thứ ba (giọng hóm) thì thôi, quen nhịn mất rồi (cười), cho nên mình ở lại. Cứ báo động là mình leo lên nóc nhà trên cao, ôm chai rượu, ngất ngưởng ngắm thành phố đang tối om bổng sáng lòa, đạn phòng không như pháo bông xanh lè, đỏ rực, thi nhau chớp lên nhoang nhoáng, chạy đuổi nhau như chúng giỡn thành những vệt quanh co ngoằn ngoèo định mệnh. Trời Hà Nội lúc ấy đẹp, đẹp vô cùng.
Tôi nghe đến dấy chặn bác lại, hỏi, thế bác không sợ gì cho thân bác, không nghĩ đến cái chết đang tràn ngập 36 phố phường, B52 chứ có phải chơi đâu, lại nghe có cả bom bi khi nổ bắn ra hàng chục ngàn mảnh.
‘‘Ôi dào, mặc nó, chuyện nó nổ cứ nổ, chuyện mình ngồi ngắm nó cứ ngắm, duyên phận mà đến thì gặp nhau. Ấy thế mà khi nghe cái đài mình kè kè ở bên cạnh báo bom rơi vào Khâm Thiên thì mình nhói lòng buốt ruột, nhắm mắt lại, và mình nghe tiếng hát của cô Diệp, bà Kim hát những bài hát ả đào một thời xa xưa. Lạ thật, mình tự hỏi, sao lại đau những cái, đã không còn mà dửng dưng trước bao nhiêu điều đang bị hủy hoại đi. Mất và còn. Những điều đáng mất, những điều đáng còn? Ôi chao, sao mà phức tạp đến vậy. Lúc đó, thèm một quả bom rơi ngay vào đầu để khỏi bắt nó nghĩ thêm những điều rối như tơ vò...
Còn rượu, thưa bác, văn nhân nói chuyện rượu có ông kêu đất say cũng lăn quay ra cười. Bác Nguyễn bắt vào, nhấp môi, ề à: Ờ, tài hoa sinh ra đủ chuyện như ông trời, khi say mặt cũng đỏ gay, ấy là uống rượu ta, chứ rượu Tây uống đến say thì mặt lại tái nhợt... Để tôi kể cho mà nghe. Thế này, này. Hàng năm, cứ ngày cát-tó-zuy-ê – (14 Juillet =14 tháng 7) có người đùa gọi là ngày cắt tóc phi-dê, tức ngày kỷ niệm Cách Mạng Pháp - là mình được Tòa Đại Sứ Pháp trên phố Trần Hưng Đạo gửi cho một cái giấy mời, có lẽ vì rằng mình cũng bi bô dăm ba câu, kiểu c’est la faute de Voltaire!(Đấy là lỗi của Voltaire) Cho nó "văn hóa’. Và năm nào cũng vậy, mấy anh công an chặn ngoài cổng, đưa giấy mời ra thì các anh ấy làm phận sự lắc đầu, cứ phải vẫy đến khi ông Tùy Viên văn hóa ra bắt tay thì công an Ta mới để Tây dắt mình vào...Merci, c’est bien gentil! Trong sân tòa Đại Sứ, họ bày ê hề, nào là thịt nguội, xúc xích, ba tê, phó-mát đủ loại. Nhưng tuổi mình, ăn không được mấy nên mình cứ sà vào mấy chai vang đỏ, nhấm nháp hết loại này đến loại kia. Cụng ly và nói Vive la révolution - cách mạng muôn năm - thế là mình được lòng cả công chức Tây lẫn công an Ta, cả hai đều vơ hai chữ cách mạng vào cho mình. Năm ngoái, sợ quá chén, đến khi ngà ngà thì mình ngưng, tự nhủ phải giữ thể thống quốc gia nên thôi cụng ly, thôi hô khẩu hiệu, và khi đi về nhà vẫn còn nói được Au revoir, Monsieur l’embassadeur, à l’an prochain (Xin chào Đại sứ, hẹn gặp lại vào năm sau). Ấy thế mà đi được dăm chục thước trên hè phố, vừa đến ngay trước cửa Sở Công An Thành Phố thì mình xây xẩm mặt mày, bèn ngồi thụp xuống bên hè đường. Thế là một anh công an ra hỏi, mình khai chóng mặt có lẽ vừa mới uống rượu Tây và vừa hô cách mạng muôn năm. Anh ta tưởng mình xỏ xiên, gọi thủ trưởng ra giải quyết, nhưng anh này lại biết mình, liền đưa mình về nhà, cũng gần đấy. Vừa mở cửa, bà nhà mình nói giỗi, say gì mà mặt lại xanh lè tái nhợt thế kia. Mình đáp, rượu đỏ của Tây ngày Cách Mạng Pháp cắt tóc phi-dê, nó thế. Còn rượu Ta trắng tệch trắng toạc, ngày Cách Mạng Ta, uống dẫu đỏ mặt nhưng lại không say được, bà ạ!
Đấy, văn chương truyền khẩu theo thủ pháp đa nghĩa, ám chỉ, và ẩn dụ đâu cứ đợi thời Đổi Mới  ‘‘cởi trói” mới lộ diện trong chốn võ lâm.
6. Cha mẹ nuôi tôi thế là đi. Qua Pháp, rồi Cali, một cuộc đoàn tụ với những người ở xa. Và chia ly với những người ở lại. Ở cuối đời, thế là hết. Căn hộ xưa phố Tô Hiến Thành ở Hà Nội nay công an quản lý. Di cư, cái nhà hai tầng trong hẻm số 54 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi nay, vượt biên đoàn tụ thì căn nhà trên Phan Kế Bính, ai muốn ở thì ở có tiếc chăng là bao nhiêu kỷ niệm những độ đổi đời. Gặp đứa con đi hoang cha mẹ tôi tới tấp hỏi ai còn ai mất, và tất nhiên là có ra thăm bác Nguyễn không. Dạ có, tôi đáp. Bác vẫn khoẻ mạnh. Đưa những bức ảnh ngày tôi  ‘‘lên xe hoa” ra cho cha mẹ nuôi tôi xem, tôi chỉ đây bác Tuân đây này. Cha nuôi tôi nghiêm mặt hỏi  ‘‘cưới hỏi thế có phép tắc gì không?”. Tôi thưa, dạ không, cứ làm đại! Ông lắc đầu, bật miệng, hỏng rồi. Đến khi tôi đưa ông đọc bản đề trình của tôi lên Hội Đồng Bộ Trưởng về Ổn Định và Phát Triển Kinh Tế Việt Nam thì ông bực tức kêu, thế thì hỏng thật, hỏng hết rồi. Sau đó, ông mắng tôi ‘‘cái Cộng Sản trong đầu con là thứ do mấy thằng trí thức Tây Âu có truyền thống nhân văn tương tượng ra, không có thật, và khác một trời một vực với cái Cộng Sản phương Đông kiểu Mao. Con viết thế này, đề nghị toàn những chuyện động chạm đến cơ sở nền chuyên chính của họ thì làm sao có đứa nào nó ngửi cho được! Hỏng hết rồi con ạ!”
Vâng, hỏng thật. Và không hỏng cũng chẳng được. Có những sự việc tôi chưa bao giờ kể lại cho cha tôi nghe. Chẳng hạn như khi tôi đi ăn mỳ ở Chợ Cũ Sài Gòn. Ăn chưa hết, một bầy con nít xô vào tranh mỳ thừa nước cạn, và tôi về khách sạn, nước mắt ròng ròng, thề rằng sẽ bao giờ cũng đứng về phía những kẻ đói ăn. Chẳng hạn như khi tôi ở Hà Nội, có một người con một vị tai to mặt lớn trong Học Viện Quân Sự đến tỉ tê, cái kho vũ khí Long Bình cướp được của Mỹ để lâu ngày nó hỏng, mà mình không dùng, nhưng biết đâu những nước Trung Đông lại chẳng cần. Anh lại thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, và có cái hộ chiếu Canada muốn đi đâu thì đi... Lắc đầu, tôi làm như không hiểu, lơ đi, ngu ngơ nói chuyện xây dựng một nền kinh tế đa thành phần và những thứ... vân vân... trên đầu lưỡi bọn  ‘‘tư sản mại bản”. Chẳng hạn như khi tôi lên lớp về Kinh Tế cho cán bộ giảng viên của Đại Học trong Thành Phố Hồ Chí Minh thì ngay bàn đầu có một cô học viên xinh xắn, mặt mũi son phấn điểm trang, và áo quần thì mầu sắc chứ chẳng phải đồng phục áo trắng quần bà ba đen như mọi người. Lên máy bay ra Hà Nội vào thời ấy cực khó, nhưng cô ta lại ngồi ngay ghế bên cạnh tôi. Đến sân bay Gia Lâm, cơ quan tiếp tôi không ra đón. Cô học viên thì lên xe Volga, cho thầy đi ghé, và thỏ thẻ mời thầy ngày chủ nhật nghỉ thì đến nhà em chơi! Tôi đến, biết cha cô là một vị Trung Úy, và được cô ta dẫn đi tham quan khi thì chùa Trấn Quốc, khi thì đền Ngọc Sơn...Chỉ có thế mà vị quản lý tôi, cấp Thứ Trưởng, vỗ tay reo  ‘‘nhất cậu, cơ quan bọn mình là ‘‘nhà trai” đấy nhé, nào lên kế hoạch đi!” Bỏ mẹ, tôi kêu thầm, thế này là thế nào. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên. Vả lại, đến tay cô ấy mình cũng chẳng dám cầm, nữa là...Thế là tôi đánh trống lảng. Ông Thứ Trưởng cáu, nói gần như quát,  ‘‘cậu đi chơi với con gái nhà người ta nay cả Hà Nội biết, không lấy là họ mang tiếng. Cậu có biết nhà người ta là nhà nào không, cũng gốc Nam Định mình...” Ấy chết, tôi lúng búng, ‘‘thưa anh đi chơi đúng hai lần, chỉ chùa Trấn Quốc với đền Ngọc Sơn thôi, để còn “tìm hiểu” đã chứ!”. Tìm hiểu chứ chớ ‘‘quất ngựa truy phong nhé’’. Ông cấp Thứ Trưởng này là công an, chớ đùa. Nhưng tẩu vi vẫn là thượng sách. Làm thế nào đây? Anh bạn mới quen là nhạc sĩ Hồng Đăng tài hoa nhưng phận có hơi mất mầu vì nắng gió bàn, cứ lăng quăng túc tắc với tớ thì... ắt ‘‘nhà gái” sẽ giẫy ra, khỏi phải chạy. Thế là tôi theo bạn vào Xưởng Phim thăm những diễn viên, nào Thanh Quí, Phương Thanh, Kim Thanh... Rồi đi uống cà phê, gặp anh em Nhân Văn Giai Phẩm, chẳng còn có vẻ sợ chuyện ‘‘quan trên trông xuống người ta trông vào”, nhưng cũng xin nói ngay là chẳng có làm cái gì mất mỹ tục để có thể mang tội hủ hóa trụy lạc...
Nhưng anh hùng bất quá mỹ nhân quan, bắt đầu là đùa nhưng sau đâm hóa thật. Cái nhìn của nàng có bóng tối, và chính niềm u uẩn đó khiến tôi sau này lao vào một chuỗi những đêm mầu đen có lúc tưởng mình không còn ngày thấy ánh sáng. A, cái ải mỹ nhân! Ôi chao, vực sâu chưa rơi thì vẫn gọi mời, và gió thốc từ đáy vực tăng tốc độ hụt hẫng đến chóng mặt hôn mê. Bạn tôi, Nguyễn Duy, từ Sài Gòn ra. Nào, tôi lấy vợ! Nhất định chẳng hỏi phép tắc ai, chuyện cá nhân mà lị! Thiệp cưới, không có giấy cạc-tông ở giữa một thủ đô xơ xác, Đăng chạy mua (xin?) những cái tấm làm phiếu sách của thư viện. Báo hỉ, phải mầu chứ không lẽ lại đen thùi lùi. Mực in mầu đỏ thì báo Nhân Dân độc quyền. Duy đi cầu cứu Nguyễn Văn Bổng ở Hội Nhà Văn; Bổng viết, giới thiệu đồng chí...Tổng Biên Tập báo...về nước cưới vợ (!), xin các cơ quan hữu trách tích cực giúp đỡ. Nhà in báo Nhân Dân in xong, người đầu tiên Duy mang bó thiệp cưới buộc bằng lạt đến mời là bác Nguyễn. Bác nheo mắt, nói với Duy, tao nghĩ thế là nó lấy phải công an đấy, bảo nó thế! Ừ thì thế, thế thì phải thế. Lê Đạt vỗ đùi, cười bỗ bã, chú mày thế là mang về cho anh em chút dưỡng khí để thở. Trịnh Công Sơn không ra được Hà Nội, hẹn về Sài Gòn làm thêm ‘‘đám” nữa cho anh em trong này. Trần Dần viết tặng 5,6 trang thơ, chữ như kiến bò, kêu nợ tình nợ bạn nợ thơ, nợ cosmic bao giờ cho xong trong cái hỉ khúc xíc thằng. Đặng Đình Hưng thì ghi thanh xuân = hạnh phúc và chép một đoạn có câu ghé bến cắn một quả vả mầu xanh chưa chín... mãi hàng chục năm sau mới xuất hiện trong Bến Lạ. Còn Hoàng Cầm, lại chạnh nhớ những mối tình với Chị, lãng đãng nhắc thuở ấy mây Em tìm núi Chị, ngửa mặt hường hoa khép gió xanh...
Chỉ ảnh bác Nguyễn đi ăn cưới, cha nuôi tôi lẩm nhẩm một mình, trông hắn thế là vẫn khỏe. Như sực tỉnh, ông nhìn tôi, nhắc lại,... ‘‘thế là hỏng, hỏng thật rồi! Con chưa sự nghiệp gì, bất quá có cái nghề kiếm ăn, vừa bỏ qua một cái dịp để thi thố...” Tôi thật không hiểu, hỏi, thì ông đáp, sự nghiệp là làm được cái gì cho người khác, đồng loại, đồng bào. Rồi ông thở dài  ‘‘...con có tí kiến thức kinh tế, nhưng chỉ chữ với nghĩa, việc thật là kinh bang tế thế thì bây giờ chẳng làm được nữa, hỏng rồi! ” Mấy ngày sau, trước khi tôi lên đường bay về Canada, cha nuôi tôi vỗ vai, bảo, hóa ra con cũng là giống nòi tình. Vậy thì sau này nhớ câu chuyện về bác Nguyễn. Ông thủng thỉnh: ‘‘Xưa bác ấy đưa tao xem cái truyện bác viết về một anh đánh giậm, ngày nào như ngày nấy, đều đặn sáng trưa nơi đồng không mông quạnh, đều đặn đến nỗi chỉ nhìn bóng anh trên mặt nước là biết mấy giờ, như một cái kim đồng hồ mà không cần răng cưa, trục quay, giây cót. Tao đọc, chê là bất cập nhân tình, viết thế không được! Tao bảo, con người là người, ác có thiện có, nhưng ở cực nào thì cũng không thể kéo xuống để thành ra và là bất cứ một thứ dụng cụ vô tri vô cảm nào, dẫu nó tinh vi cách mấy cũng vậy. Sau, chẳng biết bác làm gì với cái truyện ấy, bác vốn ngang như cua, tính thì kênh kiệu. Nhưng con có hiểu tao nói gì không? Điều này mới quan trọng..”.
7. Mắc chứng ung thư ác tính, những ngày cuối cùng của cha nuôi tôi có thể ước chừng. Tôi lại bay sang Cali. Những ngày đầu hạ ở quận Cam có thoáng ngậm ngùi, mặc dầu trời rất cao, rất xanh, và nắng trải lên mạ vàng cây cỏ. Cha tôi cho tôi cuốn Kim Cang Kinh. Ông bảo, cụ Nguyễn Du khi xưa đọc nó hơn ba nghìn lần. Cười móm mém, ông tiếp, chữ không của nhà Phật tao hiểu là tự do, và cái làm mất tự do là nỗi sợ. Nhưng tại sao lại sợ nếu như ý thức được không có gì là có, cũng không có gì là không, vì đến cái ngã cũng không thì có cái gì gọi là có... Rồi ông chậm rãi, mắt hấp háy nhìn lên đỉnh cây chao trong gió sớm, đọc Sống không tham, tham gì? Chết chẳng sợ, sợ gì? Sống chết thì cũng thế! Vậy tham gì sợ gì.
Hai tháng sau, cha nuôi tôi ra đi, khi tôi đã xa cách ông đúng 6 giờ chim bay với vận tốc Boeing trong những chuyến bay xuyên lục địa. Đúng năm giờ sáng, tôi được báo tin qua điện thoại, thức dậy ngẩn ngơ ngồi dựa vào vách, một lát thì mơ màng. Ông đến đứng sau gọi. Tôi quay lại, ông cười, lại cái cười móm mém, nhưng mắt hóm hinh, hỏi  ‘‘mày tưởng tao chết hả con...” Tai tôi vang lên câu kệ tử sinh đồng nhất thể, hà úy hựu hà khinh... 

Năm sau, tháng 7 năm 1987, tôi được tin bác Nguyễn cũng theo bạn mình sang cõi khác. Chợ Hà Nội sạch hoa. Bao nhiêu hoa những kẻ biết ơn chữ đã mua hết để mang viếng bác, người tài tử đã thổi vào ngôn ngữ mảnh đất này những nét hào hoa kênh kiệu Vang Bóng Một Thời trước Tổng Khởi Nghĩa chống Pháp. Đó là một thời Ta. Cha nuôi tôi có kể, bác ấy cứ ấp ủ viết thêm Vang Bóng Một Thời Tây. Còn thời Mỹ, bác Nguyễn thở ra, thôi để cho thế hệ sau chứ mình thì già mất rồi. Ôi chao, thật tiếc, thời Tây cho đến nay vẫn chưa kịp vang bóng, nói chi đến thời Mỹ, dư âm nếu còn vang vọng thì cũng chỉ độc là tiếng nổ của đủ loại súng bom mang thử nghiệm trên những xác người. Khi bác ra người thiên cổ, Nguyễn Minh Châu kể, một hôm râu tóc run rẩy, nước mắt tràn ra trên má trên môi, bác vừa khóc vừa nói ‘‘... mình tồn tại được cho tới nay là bởi biết sợ!’’ Thương làm sao, cái nghiệp nhà văn An Nam, sống đã khổ như chó, mà lại là những con chó lấm lét cụp đuôi biết sợ trong một góc nhà!

Nhưng chết thì sao? Những vòng hoa của bao nhiêu kẻ ngưỡng vọng không phải là một niền an ủi lớn à? Tôi hỏi Bửu Chi, người có mặt ở Hà Nội khi bác Nguyễn mất, lúc anh sang Pháp làm triển lãm hè năm 88. Không đáp, Bửu Chi kể, ông ấy nằm ở nhà xác chờ các thứ cơ quan như Hội Nhà Văn, Hội Liên Hiệp Nghệ Thuật... họp để bàn giao xem nơi nào làm chủ lễ tang, kinh phí đào ở đâu ra, tri trả thế nào... Ba ngày liền phải chờ, trời thì nóng, Hà Nội mất điện liên tục nên xác ông ấy bắt đầu trương lên, chuột nó vào gặm cái tai trái cắn nát ra, da mặt đã xám lại. Để trang điểm cho ông, người ta lấy phấn viết bảng nhà trường ghiền ra bôi lên mặt. Còn môi ông, người ta thoa son, son loen ra cằm nhếch nhác, trông chẳng khác gì hề trong những vở chèo. À, thì chết như vậy, hỏi có não lòng, hở Trời!
8. Về Hà Nội, việc đầu là tôi đến thắp hương vái bác Nguyễn. Vẫn căn phòng với giá sách bám bụi như xưa. Nhưng thôi, đâu rồi cái giáng gù gù, mái tóc bạc xõa đến gần vai, và nhất là cái nhìn hóm hỉnh đèo nụ cười nửa miệng. Nay, có khác là cái bàn thờ đặt ngay lối vào phòng. Nay, chỉ còn bức ảnh bác lặng lẽ trang nghiêm đặt trước một bát nhang đầy tro rải xuống nhắc chuyện về nơi cát bụi. Bác gái bật diêm cho tôi châm hương, thì thào, ông nhà tôi đi sau ông bạn già đúng một năm, đôi lúc không còn tỉnh là hỏi tôi có tin gì từ bên Mỹ không...Còn tôi, tôi chắp tay vái, tai văng vẳng câu ‘‘mình tồn tại được cho tới nay bởi biết sợ”.
Như bác Nguyễn mà phải sợ thì hỏi có ai mà không sợ? Nhà văn Kim Lân kể, trong một buổi họp hành gì ở Hội Nhà Văn, bác Nguyễn bực dọc kêu với đồng nghiệp rằng gì cũng sợ, nhưng ngẫm lại thì chẳng biết sợ cái gì! Bác nói, rồi uể oải chống batoong đi ra. Nhưng lần này, lần đi cuối, chắc bác chẳng cần cái sợ theo chân. Sống chết thì cũng thế, vậy sợ gì tham gì, chắc chắn người bạn già của bác cũng đã đọc cho bác nghe rồi. Nói chuyện với anh Lân, ngày đưa bác đi Văn Điển quả bao nhiêu hoa ở Hà Nội đều là hoa tiễn bác. Và từ thời đám tang cụ Hồ, chỉ lần này dân Hà Nội mới lại tự động xuống đường đưa đám một người. Lại một người không quyền cao chức cả mà chỉ mang danh phận nhà văn. Ai dám bảo bạc là dân nào?
Danh phận nhà văn? Trí thức phương Đông xưa  ‘‘trung quân”, và nay tiếp tục phò chính thống như một cái nếp tiềm thức bao che một loài vi khuẩn mang tên vong nô. Thỉnh thoảng mới có một Nguyễn Hữu Chinh, một Cao Bá Quát, hay một Hồ Xuân Hương, những người dám nổi loạn. Ngoài ra, phần đông họ ngâm vịnh cho sướng miệng, đánh tráo nghĩa bằng chữ, và thường mang giấc mơ tiến vi quan, dẫu cho quan thì nhất thời nhưng dân vạn đại vẫn cứ vạn đại là loài thấp cổ bé miệng. Nhưng may thay, chính những kẻ thấp cổ bé miệng đó mới đồng thanh tương ứng với những người cầm bút nói thay được ước vọng ngàn đời của họ để âm vang của những con chữ có nghĩa sẽ truyền qua vách vực thời gian...
Bác Nguyễn, thế là đâu đó đúng 18 năm bác đã thành người thiên cổ. Năm kia, phúng bác dăm câu thơ. Năm nay, chép lại một đoạn,
Viết toạc trời xanh
 chữ người tử tù
Những chữ ngoằn ngoèo
 rạch mây nhỏ máu
Ô này,
 một thời từng vũng...
Vũng nào vang bóng chốn thiên thu?
gửi bác với tấm lòng kẻ hậu sinh này ngày xưa đã đi tìm một trăm cách khóc để khóc bác.
2. Những con voi không đẻ được
Tưởng nhớ Văn Cao
Bài này viết khi anh đang nằm bệnh, đã tưởng khó qua. Anh lành bệnh, và in tập thơ Lá (nxb Tác phẩm mới, 1988), viết ‘‘Voi đã đẻ, gửi đứa con để anh nuôi’’. Rồi năm 95, anh cũng đã về với cát bụi. Và cát bụi mệt nhoài, trong hoàn cảnh những người làm văn hóa của thế hệ anh.
1. Ra khỏi nhà anh Lê Đạt, nắng Hà Nội hầm hập. Nắng đến rát mắt, nắng sáng lóa, nắng lên đỉnh ngọn tre ở nhà quê. Nắng đổ xuống làm ướt nhem nhép nhựa đường lòng phố thành thị. Cả Hà Nội ngủ trưa thì phải. Chỉ còn vài kẻ gò người đạp xe đạp. Mồ hôi ứa ra ướt đẫm nách áo, lưng áo. Dăm ba đưa trẻ ngơ ngác bước ven những căn nhà cũ, bẩn, nhưng vẫn còn chút bóng mát của những cái liếp tre, liếp nứa treo hờ hững. Cái nóng từ mặt đường nứt nẻ, lỗ chỗ, đến những bức tường gạch xám xịt, loang lổ cứ bốc hơi độ khó hít thở một cách tự nhiên.
Nắng quá, anh ơi. Lấy tờ báo mà che đầu, khéo cảm đấy. Nhanh nhanh đi anh, bà chị em bà ấy đợi. Này, rẽ trái trên phố Lương Văn Can trước mắt kia kìa. Nắng ráo, ráo cả cổ. Giá mà có một cốc nước chanh. Thật lạnh, là hết xẩy. Hết xẩy là làm sao cậu? Là hết ý của Hà Nội ta đó. À, ra thế, hay nhỉ! Thế anh có biết cái hết ý “hiện đại” của dân gian không? Mình đóng cửa đọc sách lâu rồi, chịu không biết! Thế kể nhé “...Tiền là tiên là phật. Là sức bật của loài người. Là nụ cười của tuổi trẻ. Là sức khỏe của cụ già. Là cái đà của danh vọng. Là cái lọng của nịnh thần. Là cán cân của công lý. Tiền là... hết ý
Thế là cùng cười. Tôi nhìn sang anh, vẫn có một cái gì thật đôn hậu trong cái con người đầy sóng gió này. Anh cũng đưa mắt nhìn lại. Nụ cười không còn cái xuề xòa của một câu chuyện vui, hình như mắt đầu hơi mếu. Chúng tôi bỗng dưng trở nên trầm ngâm. Và bước nhanh hơn. Eo ơi! Vẫn cứ nắng. Nắng bốc lửa. Nắng xém tóc. Cứ thế này, trở thành Xuân tóc đỏ tất. Nắng bốc hơi, nắng thui, nắng và ẩm, nắng làm ri rỉ mồ hôi. Nắng quá.
Chúng tôi bước vội vào căn nhà, số... phố... Đây là một hiệu ăn sắp khai trương. Ông bà chủ là họ hàng gì đó với chủ cái gác ở Lý Quốc Sư, cái gác ăn kiểu Âu nổi tiếng. Tôi nói bâng quơ “ Kiểu Âu nhưng cách Hà Nội đấy’’.  Món ăn Âu đã biến hóa, được thêm thắt bằng cái mùi vị rất ta. Nhất định là có cả nước mắm. Anh Đạt hóm hỉnh “ Ta có cách của Ta’’.
Chị tôi vẫn chưa đến. Nói gẫu một lúc. Trời vẫn nóng. Bà chủ bảo con dội nước lên cái vách tường hửng nắng, kêu “Cứ như nung như nấu thế này thì ăn uống gì được’’ Những chiếc quạt giấy kêu phành phạch. “Không có điện hả bà? Có quạt điện bây giờ thì tốt quá!”. “Cúp điện chú ạ! Chú chịu khó’’. Anh Đạt cười rộng lượng, quạt đi cậu, quạt này là quạt “cải tiến’’. Ôi chao ơi, hai chữ “cải tiến ” nó lại làm lộn ruột đến độ nóng mặt lên. Anh Đạt nhìn tôi dò hỏi. Số là, anh ạ, một buổi tối em với Nguyễn Duy từ Thủ Đức về Sài Gòn, thấy những đốm đỏ rơi lả tả xuống mặt xa lộ, lạ quá kêu lên, gì kia kìa, ma à? Duy nó cười “ Xe than “cải tiến” đấy. Than hồng bò lổm ngốm trên đường là cách của ta. Được huy chương sáng tạo của Thành Phố mang tên Bác đấy nhé. Đằng ấy xem có nơi nào trên thế giới có được chiếc xe này không? Thật là cực kỳ...’’
Chị Băng vừa bước vào vừa kêu “Nóng quá, em nhỉ? Khi thấy anh Đạt, chị sửng sốt“ À anh, chào anh...” rồi hỏi “Để xe đạp ngoài cửa có sao không bà?” Bà chủ đon đả “Dạ, khóa thì không sao! Nhưng tôi bảo cháu nó nom cho. Thời buổi này cứ sểnh ra là mất ngay... ”. Chị Băng ngồi xuống, tay cầm lấy cái quạt giấy tôi đưa chị. Chị có vẻ hơi sượng sùng “Có lẽ đến hai mươi năm không gặp lại anh’’. Anh Đạt cười “Vâng, trên hai mươi năm, từ năm năm chín đến bây giờ...’’ Chị Băng cười, nét mặt có hơi đăm chiêu. Đấy, chị tôi, một người đàn bà rất đẹp. Lại con tư sản, thứ thiệt. Chị yêu ông anh tôi, một chiến sĩ cách mạng. Ông ấy thì thật đủ thứ tài. Đã từng lên võ đài đánh bốc. Đã hoạt động thời Tây, nằm ở nội thành, trên cái bến cảng vào ra của miền Bắc. Đã lên chiến khu khi cụ Hồ kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trêu chị, hỏi có phải chỉ vì thế mà chị lấy anh không, chị hiền hậu cười mỉm mà không đáp...
Chúng tôi gọi một số món ăn thử. Chị Băng vui vẻ “ Nếu ăn được, bà chủ ạ, chúng tôi sẽ đặt cưới để khai trương hiệu cho bà đấy”. Quí hóa quá, ông bà với chú đây giúp cho thì thật là quí hóa quá. Nào, xin mời. À, cái món xúp cua này ngon chị ạ. Thế có phải thật là Tây nó ăn như thế không? Em chịu. Đấy anh, em gắp cho anh bồ câu quay này... Ăn được không? Được đấy, nhưng nóng. Nóng quá. Thiếu quạt bà chủ ơi. Thôi, chị cầm lấy cái quạt này đi. Để em lấy báo làm quạt.
Hà Nội ơi, cái nóng tháng bảy sao mà ngột ngạt thế này! Này, đừng gấp tư, cứ mở ra, gấp hai rồi cầm cho chắc. Báo này mà làm quạt thì nhất rồi, quạt mát lắm. Cậu còn trẻ, quạt đi nào. Nóng này, quạt lên làm gió này... Đó cũng là biện chứng.
Thưa chị, anh đi công tác ở Cộng hòa Dân chủ Đức? Vâng, nhưng mà đi chơi thôi chứ có công tác công tiếc gì đâu! Lần đầu được ra nước ngoài đấy anh ạ. Nhà tôi đi cũng được hai tuần rồi. A, còn cái chuyện Quốc ca! Chẳng hiểu cho anh ấy đi, rồi về người ta có đổi không nhỉ? Tôi cũng không biết. Anh Đạt trầm ngâm, chuyện bụng đói thì chẳng lo... Vả lại Quốc ca là của cả nhân dân, của một giai đoạn lịch sử và thuộc vào lịch sử... Cứ ra nghị quyết mà đổi được đâu. Ôi thôi, rỗi hơi anh ạ! Nghị quyết kiểu này thì mặc nghị quyết. Nhà nước có cái việc họp việc bàn việc ra nghị quyết, nhân dân có cái việc của nhân dân. Nhiều cái phải lo ngay. Cứ bữa tối bữa sáng mà lo cho đủ cũng đã chết mệt rồi... Trước hôm nhà tôi đi, tôi bàn để cho tôi đi vay vốn, ông ấy ra ngoài mua ít hàng về. Dễ gì mà xuất ngoại. Các anh “ ấy ” cũng đã nhận cho vay, bán xong rồi chia. Con cháu tôi nó làm cả một thư mục những cái mua được, bán được. Thế nhưng mà ông ấy gắt nhắng lên, không chịu. Ông ấy bảo đi là đi cho tất cả anh em, ai lại làm con buôn đi buôn lậu. Gàn thật... Tôi buột miệng, chẳng phải gàn đâu, chị Băng ơi, sao chị lẩm cẩm thế! Chú không biết, chị không lo thì ai lo? Cái ăn, cái uống... Chú ạ, khổ lắm! Lại sợ nữa. Chị nói, cho nên anh ấy chỉ vẽ thôi. Vẽ nghệch ngoạc cho báo Văn Nghệ. Vẽ thì khó bắt tội. Người ta có ưa gì anh ấy. Rồi quay sang anh Đạt, chị nói như xin lỗi “ Viết lách là tôi lo ngay ngáy, chỉ sợ... chuyện cũ lôi ra...”. Anh Đạt thở dài, lặng lẽ. Tôi ồn ào nói vào “ Chị hay can thiệp quá, can thiệp vào đến cả tâm thức của anh ấy...”. Rồi tôi nói đi nói lại, chị Băng ơi, chị đừng bắt anh ấy cũng phải sợ như chị, cứ để anh ấy tự do...Chú nói dễ lắm, nhưng còn các cháu nữa, còn cả nhà... chú ạ, khổ lắm, chú không biết hết đâu...
Tôi cứ kêu trời, trời ơi đất ơi, một người có tài như anh, thì phải để anh ấy viết văn, làm thơ, làm nhạc, vẽ... Cả trăm năm mới kết được một thứ tinh hoa, không còn làm được gì thì phí phạm biết bao nhiêu cho mai sau? Cái lỗ trũng đen ngòm trong nền văn hóa, ít hay nhiều, lớn hay bé đều là những cái ta đáng lẽ có thể lấp đầy được cả! Tại sao ta cứ phải làm tội lấy mình? Rồi tôi bắt chị Băng hứa. Chị hứa với em nhé, hãy để cho anh ấy tự do. Đừng kìm hãm, giằng cái cọ anh đang vẽ, giữ cái bút anh đang cầm...Chị hứa đi...Chị Băng cúi xuống, ứa nước mắt. Tiếc lắm chú ơi. Anh Đạt nhỏ nhẹ:
- Anh ấy là voi. Voi đẻ thì cần mười năm để thai nghén... Chúng tôi xin đợi.
2. Tháng tám năm đó, Văn Cao ở Cộng hòa Dân chủ Đức về. Tôi đến nhà anh. Chúng tôi ôm lấy nhau. Anh vẫn râu vẫn tóc. Vẫn cái giọng nói hơi ê a, cái cười nửa xuề xòa nửa làm ra xuề xòa. Anh châm đèn, rít một điếu thuốc, mắt như đê mê trong một khắc thời gian ở giữa cái không và cái có. Chị Băng giữ tôi lại ăn cơm, kể lại chuyện cái đám cưới ngộ nghĩnh đó. Vui không? Vui lắm anh ạ! Nhất là có cụ Tuân! Thiếp cưới in ở nhà in báo Nhân Dân, đỏ chét, buộc lạt mang về. Nguyễn Duy rủ, đến ông cụ ngay. Em bảo, ông ấy “ kiểu cách ” chết. Không sao đâu! Thế là đến, mở lạt, cộc lốc “ Thưa cụ, đám cưới “ tự phát ”, chẳng phép tắc quái gì cả. Cụ là người đầu tiên được mời, mời ở cái nghĩa là ép buộc cụ để nhậu cho vui... ‘’ “ À, ha ha...được, được rồi...’’ Anh Văn hồn nhiên “ Vui thế mà mình lại vắng mặt, phí quá...’’ “ Ta làm lại vậy, anh nhé ‘’.
Hai hôm sau, rủ rê nhau lại nhà anh Lân và chị Sâm. Nào uống thêm một bữa. Uống mừng. Còn kể chuyện bên Đức nữa. Nào, rủ cụ Tuân. Uống rượu Tây nhé. Anh Văn ơi, chẳng biết mừng gì đây? Hay là mình uống để mừng một ngày vẫn còn sống, còn thở, còn tin rằng mình vẫn ít nhất còn chút ích lợi, dù đó chỉ là cái tình với nhau? Hay là mình uống để chôn đi những hoài bão, ao ước, quên đi cái chuyện “ Đời đi qua như một tiếng thở dài, ta chôn cả khát khao vào bụng vợ ”? Nhưng cứ phải uống. Mỗi người say cho mỗi người! Mọi người say cho mỗi người! Zô, zô đi anh, một trăm phần trăm! Zô à? Tại sao lại zô? Zô là “ vào cuộc
Vào cuộc, xin mời anh một trăm phần trăm. Vào cuộc đi, con voi khổng lồ phải thai nghén mười năm. Sau Thiên Thai, sau Suối Mơ sau Những người trên cửa biển. Sau cú đấm, nặng chì của võ sĩ Văn Cao tuổi thanh xuân. Sau Tiến quân ca, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam. Sau bức vẽ Đặng Thái Mai u uẩn lắng đọng. Sau... rất nhiều. Nhưng đã từ một thủa xa xưa rồi, con voi phục xuống nằm im nhăn nhó.
Ốm nghén quả là khó chịu. Bụng cồn cào axít. Muốn ăn, ăn cả vôi, cả đất. Những quả nhót đỏ chua lè. Một bốc sung chát, thật chát. Ăn nữa, ăn sống cả mướp đắng. Nếu có mạt cưa, cũng ăn. Ăn xong, ta hát. Hát khản cổ. Hát những bài hát mang niềm tức tưởi của con người cổ sơ mới tìm được lửa ở họng núi lửa nhưng không biết cách mạng lửa về được bản làng. Hát những bài hát thèm muốn biển rộng, thèm muốn trời cao, thèm cơn gió lồng lộng ở chốn thinh không. Hát nữa, hát mãi với tiếng đàn còn lại. Văn Cao xoài người ra như ôm lấy cây đàn để cùng đàn lắng mình vào âm hưởng một thế giới chưa có thực. Chiếc đàn piano đó, chị Sâm vẫn dùng để dạy đàn cho mấy lớp em, lớp cháu. Văn cao ngửng đầu lên, dướn thẳng người. Những nốt nhạc nhảy nhót đến chín bậc thinh không. Văn Cao cúi xuống, những nốt nhạc chìm dần vào những vực sâu tưởng sẽ mất hút. Văn Cao gục xuống, tiếng đàn nghẹn lại tăm tích mơ hồ. Mắt anh đầy nước mắt. Bỗng Văn Cao vùng dậy râu tóc dựng đứng. Râu tóc ấy đã bạc phơ, song cái xanh của con người trong anh, dẫu có lẫn chút bóng đen của đêm tối, thì vẫn xanh. Tối hôm ấy, khi nắm tay Văn Cao, tôi thấy ươn ướt. Thì ra Văn Cao đánh đàn thế nào mà ngón tay ứa máu.
Khi đèo xe đạp anh về nhà, tôi vòng tay ra sau quàng lấy anh. Anh chỉ mặc một cái áo mỏng. Tôi đau xót chạm vào xương vào da của anh. Cẩn thận anh Văn ơi, anh ngã xuống thì chúng tôi đau khổ lắm. Còn nhiều người yêu anh, anh ạ.
3. Xổ bụi
Tôi sinh ra dưới một ngôi sao trái nết nên đời có đôi phần vất vả. Nhưng chị Liên, bà chị kết nghĩa của tôi, còn vất vả ít là gấp năm gấp bảy lần. Trái nết nên khó dậy, riết thành trắc nết lêu lổng, mẹ tôi gửi tôi nhà "hai bác” năm tôi mười hai tuổi. Thuở đó, cha tôi đi làm xa, mẹ tôi một mình than khổ ơi là khổ, nhà không có đàn ông! Phần tôi, thật là thú vị. Trên ”hai bác” có mấy đứa loai choai cùng tuổi. Rồi mỗi nơi một chốc, mẹ hỏi ở đâu, tôi đáp con ở trên nhà hai bác, bác hỏi đi đâu, tôi thưa con về dưới nhà cha mẹ con. Cứ như thế, cuộc lêu lổng dẫu danh bất chính nhưng ngôn lại thuận.
Hai năm sau ngày tôi làm con nuôi hai bác tôi gặp chị lần đầu. Chị mang đứa con trai bé tí về nhà. Khi ấy tôi mới biết chị cũng là con nuôi và mù mờ nghe chị vào Nam vài ba năm trước cuộc di cư năm 54. Nhà bố mẹ nuôi lúc nào cũng tấp nập khách ra khách vào. Bố nuôi tôi lúc đó là Chủ tịch Hội Đồng Kiểm Duyệt thời Trần Chánh Thành còn làm Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa Thông Tin trong nền đệ nhất Cộng Hòa của miền Nam. Khách có hai loại. Loại nòi tình chữ nghĩa, làm văn làm báo, nhớ không xuể. Có Đái đức Tuấn, Lê văn Trương. Có Nguyễn mạnh Côn, những con người đang hoàn thành Đem tâm tình viết Lịch Sử. Có Vũ hoàng Chương Đỗ băng Đoàn, Bùi khánh Đản. Đám trẻ, Thanh Tâm Tuyền, thỉnh thoảng đến thăm bác Kha, cha anh gần như trú ngụ thường xuyên trong nhà. Rồi Dương Hùng Cường, Mai Thảo, Doãn quốc Sĩ, Nguyễn sĩ Tế, Trần thanh Hiệp... Nhà báo, có Phạm việt Tuyền, Lý Thắng, Văn Giang. Ký giả, nào Lô Răng, Anh Tám Xạc Ne. Loại chính trị, không ít. Phan huy Quát, ‘‘bác’’ Quỳnh, Vũ quốc Thông, thậm chí Trần kim Tuyến... Họ đến thế giới “trên gác” nơi bố tôi tiếp khách, xì xào to nhỏ, và thường là im bặt khi bọn trẻ con chúng tôi, thế giới “dưới nhà” bưng nước, rót trà. Họ giả tảng lơ đãng, rít thuốc lào, nhìn như giục như đuổi, và chúng tối chỉ quay lưng là họ lại tụm đầu vào, lại nghiêm trọng hạ giọng, khi chép miệng, lúc thở dài. Khách về, tôi để ý bố tôi xếp lại giấy tờ hồ sơ vào một cái tủ gỗ, cửa kéo dọc xuống như một bức mành, và khóa lại, tiếng nghe một cái cách, đến là kích thích. Ngày nọ qua ngày kia, sự tò mò khổ còn hơn là cơn ngứa mà không được gãi. Tôi vê kẹo cao-su, nhét vào lỗ khóa, và đi đánh chìa. Đợi cả nhà đi vắng, tôi mở tủ ôm chồng hồ sơ ngoài có chữ Mật, leo lên trần nhà tìm một nơi có ánh sáng hắt vào. Năm 58, tôi đã đọc trên những tờ pơ-luya mỏng tanh Con ngựa già của chúa Trịnh, vừa uất ức vừa ngậm ngùi. Tôi đã rưng rưng nước mắt lẩm nhẩm Tôi vẫn đi, không thấy phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ. Tôi đã hít cho căng lồng ngực lập đi nhắc lại bút giấy tôi ai cướp giật đi, tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

Vâng, tôi đã tiếp cận Nhân Văn-Giai Phẩm như thế, trên trần nhà tranh tối tranh sáng, trong cái nóng hừng hực của mùa hè Sài Gòn. Vài tháng sau, cụ Hoàng văn Chí đem xuất bản Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc. Lúc ấy, tôi mới biết rằng tôi đã đọc văn Phùng Cung, thơ Trần Dần và Phùng Quán... Chuyện đánh chìa khóa đọc hồ sơ Mật rồi cũng lộ. Bố nuôi tôi không đánh không mắng, chỉ bảo, giọng buồn buồn “... có những cái tao cho là ở tuổi con, con chưa cần biết...’’ rồi dặn, cứ giữ cái chìa, muốn thì đàng hoàng mở tủ, và đừng bao giờ hành xử như quân bất lương trộm cắp.
Trưa hôm ấy, tôi mang cái chìa khóa ra cầu Bông. Nhìn dòng nước lờ lờ triền sông Thị Nghè, tôi lẳng nó xuống, một lần, và mãi mãi.
Chị Liên là một nhân vật tiểu thuyết. Từ Cao Bằng về ở với bố mẹ nuôi tôi lúc đâu cũng mười hai, mười ba tuổi, chị đột nhiên một mình bỏ vào Nam. Vài năm sau, chị lấy anh, dòng dõi đích tôn Phan Thanh Giản, nay là một gia đình đại điền chủ. Thời gặp chị, phải nói, chị là người đàn bà có nhan sắc. Về bản lãnh, vứt ra đường đời từ thơ ấu, chị không cắp sách đến trường, cứ than, chị thất học, cậu ạ! Nhưng những điều chị học, không có trường dạy. Cực kỳ thông mẫn, chị cảm nhận một cách lạ lùng những mảnh đời oan trái. Năm tôi mười lăm, tôi nghe chị hỏi “Tại sao sinh ra? Tại sao rồi chết đi... Phi lý! ” Đó là câu hỏi rất “hiện sinh” đầu những năm 60. Rồi chị quậy cuộc hiện sinh không thương tiếc, không giới hạn, ràng buộc. Chữ Tây chỉ bonjour bonsoir giắt bụng, chị leo máy bay đi Thụy Sĩ. Không có Visa, chị vẫn trốn sang Pháp, đến bằng được kinh kỳ nơi có cà phê Les Deux Margot ở St-Germain, xem cái bàn Jean P Sartre vẫn ngồi nó hình dáng ra làm sao? Mà lỡ gặp người ta ở đấy? Có thể lắm chứ! Cuộc hàn huyên của triết gia Tây phương đắt giá với cô công chúa dị thường Giao Chỉ. Không thể phi lý hơn thế được sao?
Dĩ nhiên, chị yêu tiểu thuyết. Chị ái mộ văn nhân. Trên hai mươi năm qua, chị sống ở Cali, nhưng cứ gần đây một hai năm chị lại về Sài Gòn, về Hà Nội. Mỗi lần chị gọi điện thoại, và tôi lại xin chị, chị về đến 47 Lý Quốc sư, thăm anh Hoàng Cầm hộ em. Lần nào chị cũng vui vẻ nhận lời. Mỗi lần chị qua lại Mỹ, chị chịu khó mang theo từng chai rượu làng Vân anh Cầm gửi cho tôi, lắm khi giữ cả năm mới có dịp trao tận tay, tươi cười bảo, quà của ông anh cậu. Cứ mỗi lần như vậy, tôi rưng rưng ngậm ngùi. Một phần là vì anh Cầm, một phần vì tấm lòng chị đã cưu mang thêm một tình bạn giữa hai người đàn ông, một già tuổi đã hôn hoàng, một trẻ thì cũng đang chập choạng lớp xế trưa. Cưu mang, bất cứ cái gì đi thì cũng nặng!
Thế nhưng lần cuối, tôi cũng nhắc lại bằng ấy lời. Chị ngập ngừng rồi nhỏ nhẹ, lần này chị chẳng chiều cậu được. Tôi ngạc nhiên, gặng hỏi. Chị nói quanh, rồi lát sau, bảo chị gửi cho cậu quyển sách. Đọc rồi cậu sẽ hiểu.
Đó là quyển Ghi 1954 - 1960, của Trần Dần [1]. 
Tôi gặp Trần Dần khoảng tháng 11 năm 81. Đó là thuở tôi gồng mình chống lại tan vỡ của những huyễn tưởng. Bắt đầu, từ giải phóng đất nước, đến xây dựng một xã hội công bằng. Rồi từng bước một nhích vào thế giới hiện đại, đỡ nghèo, đỡ khổ, và nhất là băng bó cho lành vết thương nội chiến. Nhưng phía dưới những con nắng là bọt xà phòng cả. Bọt xà phòng phản chiếu hình ảnh những trại cải tạo. Học tập một tuần một rồi ba tháng, và nay đã sáu năm. Những đứa em gái tôi tuổi hai mươi lấm lét uống thuốc ngừa thai sẵn sàng vượt biển. Các em ơi, sao vậy? Bày phân chết, ba phần sống, không sợ à? Cướp biển hãm hiếp, giết chóc. Trời nổi cơn, sóng cuộn, nước nhận người vào đáy đại dương. Vả lại, cứ như nhà thơ kia hát, “(nếu em?) có vết bẩn trong hồn, vết nhơ trên má. Thì tình yêu Tổ Quốc chữa cho lành’’ (thơ Chế Lan Viên). Nhưng ai có cái quyền phán xét bảo vết này bẩn, vết kia là nhơ, ha Trời! Tình yêu Tổ Quốc không nhốt ai để chữa cho lành, kẻ đi nhốt nhởn nhơ hộ mình nhân đạo chỉ mong cải tạo đám lầm lối lạc đường, người ở tù ấm ức khẩu hiệu hòa hợp hòa giải dân tộc nghe như tiếng gọi hồn oan. 
Ghê rợn hơn, chính quyền non trẻ (từ 1945, hay 55, sao cứ vẫn non trẻ? ), “ vừa học vừa làm, sai thì sửa...”, mà có sai thì, chẳng phải “cấp trên” mà do “cấp dưới” không (hoặc chưa) thông nghị quyết (thường rất chung chung). Đảng dẫm lên chân nhà nước, cơ quan nào cũng có một vị đảng ủy, từ cấp Bộ trở xuống. Tôi có ‘‘làm việc” với một vị Trưởng ban Ngoại Giao của Đảng, nghĩa là ngang cơ và lắm khi còn quan trọng hơn Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch thời bấy giờ. Đó là Đảng, mà Đảng thì phải vận động quần chúng, nhất là quần chúng như tôi, nhân sĩ ngờ nghệch sống xa quê hương. Ôm vai tôi (để gần quần chúng), vị ấy bảo, “Chú là tiến sĩ kinh tế thật đấy, lại chuyên môn về tài nguyên, nhưng chú chưa biết cái này đâu!” Ghé vào tai tôi, ông thì thào “Chú biết không, dầu lửa của ta ở thềm lục địa ấy mà. Này nhé, trữ lượng ở Trung Đông ai cũng bảo là lớn nhất thế giới, phải không?” Tôi gật đầu, ông xiết tay, mắt tóe lửa, say sưa “...thế mà nó chỉ như con tem! So với trữ lượng của ta thì là lấy tem dán lên đít con voi!’’ Ông phá lên cười, nước bọt bắn vào mặt tôi, răng vàng xịt khói thuốc lào Vĩnh Bảo. Một tay vẫn xiết vai tôi, tay kia ông quơ cái điếu cầy (rất quần chúng), hồn nhiên phán, thế thì còn sợ cái  ‘‘đếch” gì! Vâng thưa anh, mừng thật. Chúng nó (bọn đế quốc, dĩ nhiên) mù cả, đi sờ voi mà chẳng biết đâu vào đâu. Chỉ có ta mới biết chỗ nào là đít con voi, dán tem lên mông, và đợi voi ỉa ra dầu. Dầu thô, màu đo đỏ, công nông ra phết. Lỡ có mùi, ừ thì “cũng tốt thôi”!
Đít voi trên bong bóng bọt xà phòng cho phép tiến mạnh, tiến nhanh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa mà không qua giai đoạn tư bản, chỉ hai mươi, ba mươi năm ta sẽ kịp, và tất nhiên là vượt bọn Mỹ. Người người hồ hởi, nhắc đi nhắc lại, vẽ vời ra viễn tượng một tương lai rực rỡ. Nhưng tôi không thể nói như thế khi gặp anh Dần. Tôi không nói gì cả. Buổi trưa hôm ấy, nắng hanh và trời lên cao đến không còn đó. Anh dựa lưng vào tường nơi quán nước cửa nhà Dương Tường, nâng chiếc điếu cầy rít sòng sọc, miệng chiêu ngụm nước chè, mắt nhắm, đầu khẽ ngật ra đằng sau. Khò khè ho khan, anh mở mắt ra rồi lại nhắm lại.
Tường vỗ vai tôi, nhón nhén bảo, cậu này cũng là bạn của Nguyễn Hữu Hiệu đấy. Lúc ấy anh mới mở mắt nhìn tôi tròng trọc. Cặp mắt anh sáng, sáng lạ lùng. Và long lanh rừng rực đam mê, ánh đỏ lè, như mắt cọp. Từ đấy, nghĩ đến anh, tôi cứ liên tưởng đến một con cọp. Một con cọp ngủ ngày, thình lình thức dậy, quắc mắt. Kỷ niệm leo lên trần nhà trốn hai mươi năm về trước bỗng ùa về. ‘‘Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc. Đất hôm nay tầm tã mưa phùn. Bỗng nhói ngang lưng máu nhỏ xuống bùn. Lưng tôi có tên nào chém trộm? A, cái lưỡi dao cùn. Không đứt được mà đau!’’
Anh lửng lơ, “Có tin gì của Hiệu không? “Dạ, Hiệu đã đi Mỹ! Nghe đâu gặp cả Henry Miller, tác giả sách Hiệu đã dịch...”. Anh mỉm cười, cái cười méo mó vui buồn, lại nhắm mắt lại. Con cọp nhắm mắt nhưng không ngủ, chòm râu bạc thỉnh thoảng lại nhếch lên như từ phản xạ. Khuôn mặt anh tạc đá, thứ nham thạch lạnh mặt trên, bốc lửa phía dưới. Gò má u lên nhô thành một khối hoạn nạn, liệu dưới sâu còn một hỏa sơn nào âm ỉ chực phun ra chất bỏng cuộc đời? Anh xua tay, quán nước không phải là chỗ nói. Người ta thuở đó có thói quen thầm thì với nhau, ghé vào tai, và thường là cứ ngoái lại, nhìn ra sau, miệng rì rầm như khấn vái những điều làm như ma quỷ đang rình mò đợi lỡ lời nói to là xẻo lưỡi.
Vào độ cuối đông, Hà Nội thu mình khép gió. Những tàn cây trụi lá co ro trơ xương chống đỡ cơn may hiu hắt lạnh, mênh mang nhớ, rưng rức đau nỗi niềm không tên gọi, có đây rồi lại vụt mất, chập chờn kéo hiện tại nhập vào một tiền kiếp không thể ngày một tiêu ma dấu vết. Trần Dần chống gậy, lao chao bước, vứt lại một “thôi nhé”, đi không quay dầu lại. Tấm áo cánh trắng xóa ngõ Phan Huy Chú, chiếc mũ len sùm sụp, anh một mình lê cho về đến phố Vũ Lợi, chẳng gần, cũng chẳng xa, để vào lòng tôi một nỗi man mác.
A, cái lưỡi dao cùn, không dứt được mà đau!
Tôi chạnh nghĩ đến đợt anh bị “quân kỷ’’ Ba tháng tù. Chị Khuê đang có mang cháu đầu lòng. “Tổ chức” không vun vào việc “xây dựng’’. Chị công giáo, gia đình lại di cư vào Nam hết. Anh viết đơn xin giải ngũ. Và đơn xin ra khỏi Đảng. Trong lao lung, anh ngẫm, tại sao? Tại sao đám quan lại văn nghệ hò nhau đánh bài “Nhất định thắng’’. Có phải ta đầu hàng giai cấp? Hay là năm trước, ta đã cùng Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Tử Phác... đệ trình “Đề nghị cho một chính sách văn hoá ” yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về văn nghệ sĩ... Hay là trước đấy, ta quá nặng lời phê bình “ Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu’’. Ta bảo, một, thơ Tố Hữu không có cách nhìn mới nào rõ rệt. Hùa với Lê Đạt, ta cũng nhận xét rằng Tố Hữu nói những chuyện mới mà không hiện tại, lại đẩy lùi vào quá khứ. Hai, là thơ lười biếng, chính trị công thức, kiểu  ‘‘cụ Hồ sáng soi”, hoặc “Chúng bay chỉ một đường ra. Một là tiêu diệt hai là tù binh”, chỗ nào có hay thì lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao. Ba, cách nhìn Tố Hữu thật nhỏ bé quá. Nhìn vấn đề gì, vấn đề ấy thu hẹp lại. Yêu ai, người ấy nhỏ đi. Nhìn lãnh tụ, hình thức gượng gạo “Chòm râu mát rượi hòa bình”, sau lại biến ra đạo sĩ nhàn tản “ung dung yên ngựa bên đường nói reo’’. Sau cùng, cách nhìn Tố Hữu bao phủ lên vấn đề một cái buồn yếu đuối, và  ‘‘chất tiểu tư sản là cái chính của tập thơ Việt Bắc’’. Trời ơi, Tố Hữu là ủy viên Trung Ương phụ trách Văn Hóa Văn Nghệ! Thế thời...
Thế thời, thế thời phải thế, cái kiếp phải lột quần đánh trên sân Văn Miếu, có khác gì Ngô thời Nhậm xưa. Đêm thăm thẳm. Tôi thui thủi mơ màng. Ván cờ, tốt chúng qua sông, lơ láo nhập cung, lách ca lách cách những chân lý mới, như tính tổ chức, tính giai cấp, quần chúng... rối lủng củng nào những chính sách, những quan hệ...tít mù quay như chiếc đèn cù. Tôi, con pháo tịt ngòi, ngửng đầu tìm lửa, sờ soạng một ván chiêm bao, tay lại quơ vào lưỡi dao cạo.
Trần Dần cứa cổ.
Ôi, không đứt được mà đau! A, cái lưỡi dao cùn. 
Lưỡi dao cùn để lại một vết sẹo. Vết thương trông tưởng lành nhưng ba mươi năm máu nhiễu vào trong, giọt rơi tí tách đánh nhịp tháng năm một trái tim bị chấn thương đời. Trần Dần thở phào, “Không có gì chống lại được với cái kim đồng hồ’’. Tôi nghe, im lặng. Những buổi đến với anh, thật khác khi thăm Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Văn Cao. Có “rượu”, anh chỉ nhấp. Không ham vui, ăn ít nói ít, mắt trừng trừng, anh thỉnh thoảng câu đực câu cái, đôi khi đúng một chữ. Thường, tôi dựa xe đạp cạnh cái cửa sổ có chấn song, ngồi đối diện anh nơi có chút ánh sáng hắt vào, trước cái khay có để ấm chè, cái điếu cày và một ngọn đèn hoa kỳ le lói cháy.
Tôi kể, đêm qua tôi chiêm bao. Nhìn đồng hồ, chiếc kim dạ quang quay ngược chiều đẩy mọi sự về phía đằng sau. Hoảng hốt, tôi chổm dậy, nhìn lên tường. Chiếc đồng hồ treo cũng vậy. Nó câm, không cứ tích ta tích tắc, nhưng kim cũng quay ngược, mỗi lúc mỗi nhanh. Tôi tung cửa lao ra đường. Hà Nội giữa trưa không một bóng người. Ven theo hồ, tôi cắm cổ chạy về phía Bưu Điện. Nhìn lên cái đồng hồ lừng lững ngất ngưởng, tôi nhướng mắt, ô hay, hai cái kim đồng hồ quay, cũng ngược, và quay mỗi lúc một nhanh, như chong chóng. Cứ thế này tôi thầm nhủ, chắc trở lại thời nhà Tiền Lê trong một khắc. Đúng thế thật mặt đất chao nghiêng, tiếng người ơi ới thứ thổ ngữ tôi không thật hiểu. Thêm dăm phút, tôi chắc mẩm, chắc là đến thời Hồng Bàng mất. Nhưng hai chiếc kim bỗng tuột ra, bay lên, mỗi lúc một cao, tít lắp cuối trời. Mặt đồng hồ trơ ra. Mấy giờ rồi? Tôi nhìn xuống cườm tay. Hai chiếc kim dạ quang trên chiếc đồng hồ tay của tôi cũng biến đâu mất. Ghé nó ở cạnh tai, tôi lắng nghe. Tích tắc, tích tắc. Nó vẫn sống. Nhưng chiều quay đẩy thời gian về đằng sau hay kéo ta lên phía trước? Tôi réo lên hỏi. Tiếng tôi kêu lạc lõng. Mặt hồ Hoàn Kiếm lăn tăn bọt. Tôi chắc là Rùa thần sắp lên. Tôi đợi. Thình lình một bọn người áo vàng ập đến túm lấy lưng, hò nhau, nó đây, bắt được nó rồi. Tôi vùng vẫy. Tại sao? Tôi làm gì mà bắt. Tôi sợ. Phía dưới cơ thể bỗng nóng lên, rồi ướt nhơm nhớp... Tôi hét cho đến khi tỉnh dậy.
Anh Dần nghe, nhếch mép, được, viết nó ra. Tôi không đáp. Kim quay ngược, lúc này là đến kỷ Hồng Bàng rồi. Anh thì thào, thời “vỡ kỷ", mảnh văng tứ phía. Anh nhắm mắt. Cọp ngủ ngày, chiêm bao cái chiêm bao của cọp. Tôi khẽ khàng đứng lên. Anh mở mắt. Thì ra cọp giả ngủ, đang rình. Rình một tứ thơ chăng? Anh đọc hai câu thơ anh tặng tôi:
Tôi đã hát những lạc quan không hát
Bây giờ tôi hát lạc quan đen
(thơ Trần Dần). 
Năm 82, Hoàng Cầm viết trên tập “Về Kinh Bắc ” anh tặng tôi”... là một năm đầy hạnh phúc và cũng đầy oan nghiệt’’.
Hạnh phúc? Tôi muốn hát lạc quan xanh. Nhưng hiện thực màu tro nghiệt ngã. Phản chiến, bị chính quyền Thiệu cấm về miền Nam, rồi Canada trục xuất... nhưng tôi chưa hề bi quan, tôi vẫn giữ trong tôi một ngọn lửa. Phải chấm dứt chiến tranh đã. Rồi về để xây dựng, bắt đầu lại, tất cả. Nghĩa là từ từng người, với từng người. Hàn gắn cho nhau những vết thương chưa đóng miệng, cùng nhau xua những cơn ác mộng vẫn rình đêm về để đánh úp, và chân thành nói với nhau bằng lẽ phải, với con tim. Nhưng về, tôi chỉ thấy sự sợ, sự nghĩ một đằng nói một nẻo, sự có hai ba nhân cách trong một con người. Và con người tư riêng hình như bị cắt khỏi con người xã hội, cái thằng lúc nào cũng phải đối phó, phải tranh thủ, phải ngụy trang bằng nụ cười và ém dao dưới áo đề phòng mọi kẻ khác, già cho đến trẻ, từ hàng xóm đến cán bộ cùng cơ quan. Hồng Đăng, nhạc sĩ nghèo, xoay thế nào mời tôi được bữa cơm có một phần tư con gà luộc. Gọi bọn cháu, con Ly và thằng Phương, chúng đáp: ‘‘... Chúng cháu ăn cả rồi!”. Cuối bữa, dọn bát đĩa đi rửa. Tôi thấy Phương lúi húi ra bươi đất gốc cây cuối vườn. Làm gì vậy cháu? Nó lấm lét “...cháu chôn xương gà! Không thì hàng xóm họ biết...’’
Hạnh phúc cũng có, nhưng phải may. Tôi gặp và kết bạn được với những người đáng yêu và đáng tin. Đầu tiên là Hồng Đăng, rồi từ Hồng Đăng, tôi gặp các anh Nhân Văn-Giai Phẩm. Thuở ấy, Tạ Trọng Hiệp ở Paris tiễn tôi ra phi trường Charles de Gaule đi chuyến bay Air France về Sài Gòn. Anh dặn dò giao tiếp phải cẩn thận. Anh kể kinh nghiệm của anh. Đinh Trọng Hiếu, cũng đã từng về nước, cười khuyên phải “khép lại mà đi” (marcher les fesses serrées), dạng háng ra là phiền. Thì tôi cũng biết vậy. Nhưng làm sao đây? Nếu không đánh cho tan cái sự sợ, người đâm thành ngợm cả, thì tiền đồ một xã hội đa phần hóa ngợm sẽ ra sao? Mới vừa giao tiếp với Nhân Văn-Giai Phẩm, đã có người đến  ‘‘nhắn ”, quan hệ không được tốt. Tôi đáp, dạ, xin cứ cho tôi một danh sách những người không nên quan hệ, tôi sẽ tuân thủ. Thách thức như vậy, quả là tôi là một người không biết điều. Không biết điều, nhưng tôi biết sợ. Như đứa bé sợ ma trong bóng đêm giữa nghĩa địa hoang vu, chống lại cái sự sợ không có cách gì khác là vừa đái, vừa hát, hát càng to càng đỡ sợ. Cứ thế, tôi đã hát những lạc quan không hát.
Tôi đã hát, với Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Văn Cao. Và rồi với các anh. Có “Gấu chợ’’ giữa bề bộn khăn, màn, giấy vệ sinh, xà phòng, ở một căn nhà phía dưới là tạp hóa trên phố Hải Thượng Lãn ông, Lê Đạt gấu (với các vị chức trách), nhưng mẫn cảm và trí tuệ. Anh đùa bảo, cậu cứ về chơi, mang cho chúng tớ một ít không khí để thở, thế là “đóng góp” rồi. Tôi đọc những bài thơ gom lại trong Bóng Chữ xưa làm tôi ngỡ ngàng. Có “Phượng bặt hơi”, nhà khu Trung Tự, thuở ấy vừa mới có tin con trai “sắp” được giải Chopin. Đặng Đình Hưng dán trên tường một Bến Lạ những thơ. Bến lạ và đẹp, lạ như phong cách hào hoa của anh, và đẹp nghiêng ngả xa vắng những giấc mơ nửa chừng, cũng của anh, mang mang day dứt. Có “Hạc nội’’ lâng lâng một nỗi mây ngàn, rượu Đình Bảng mang ngâm mơ, ngâm mận. Phần anh, anh cũng ngâm, ngâm thơ. Giọng ngâm của anh nửa như hát cung văn, nửa như than van khóc lóc, tức tửi nghẹn ngào. Còn thơ, là thơ Hoàng Cầm của Về Kinh Bắc, của Men Đá Vàng, với những Cây tam cúc, Quả vườn ổi, Lá diêu bông. Có “Én trái mùa”, mang chút hơi xuân ngơ ngác xót lại buổi đầu đông, se sẽ buồn, se sẽ hát, se sẽ nhớ. Dương Tường dịu dàng, quý bạn, hấp háy nhìn làm vẻ vô tư qua cặp kính cận dầy bằng nửa gang tay. Và các chị, Thúy của Đạt, Khuê của Dần, Yến của Cầm. Lấy nhau, họ đều có vấn đề với tổ chức vì “quan hệ xã hội phức tạp” cả. Trường họp Trinh và Tường, chắc không. Còn Đặng Đình Hưng, anh ở một mình, chuyện riêng tư với vợ là bà Thái thị Liên, anh không nhắc. Có nhắc, anh nhắc Đặng Thái Sơn, ôm vai tôi, dặn ra ngoài nhớ tìm cháu, chú cháu gặp nhau cho tôi vui.
Thuở ấy, Cọp ngày đang loay hoay với Lễ Zàng Sao, với các Tư mã, Tư mã gãy, Tư mã ổi... và nỗi buồn “vỡ kỷ ” cùng những hạt bụi anh xổ vào bao la. Xổ bụi, đó là cách trối trăn với đồng loại. Bóng anh hắt hiu khập khiễng cuối ngõ, khiến gió cũng chẳng nỡ lòng thổi, nắng chẳng nỡ lòng lên. Nỗi ấy, có tên bơ vơ. Tôi đọc Cổng Tỉnh những ngày cuối năm 81:
... Có phố nào xanh
 Hoa lay hằng dậu tím?
Có phố mờ chờ tha thiết tự ngày xưa
 Để tôi phải bơ vơ
 Bơ vơ?
Tôi?
... Tôi cô đơn trời xanh cô đơn trời tím
 Cô đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô
... Cô đơn lòng ngõ rỗng trăng chênh
Cô đơn sân ga tầu chạy tốc hành
Không đỗ lại các cuộc đời xé lẻ...
Tôi thấm câu anh hỏi “Tôi có thời cay đắng, nào kịp cay đắng đâu? Sao đã cho tôi những phố xào xạc? Sao đã ghi tôi vào mép sổ buồn rầu?“ Anh hỏi, nhưng hỏi ai? Ai đáp? Mà dẫu có đáp, tin được gì
Khi thế kỷ còn rung chuông lừa bịp
Những canh gà báo trượt rạng đông
Con rắn lưỡi cắn người như cắn ngóe
Khi xe tăng chửa đi cấy đi cày
Như một lũ tội nhân cần cải tạo
Khi con thò lò ngày đêm hai mặt đói meo
Còn quay lít trên kiếp người hạ giá...
“Hãy đi mãi, Văn, 1957)
Bài thơ này anh viết, hai mươi bốn năm sau tôi mới được đọc. A, thì ra hai mươi bốn năm chẳng thay đổi được gì à? Phạm thị Hoài ghi đây là chương kết của Trường ca Đi! Đây Việt Bắc. Năm 90, Trường ca được xuất bản ở Hà Nội với tên Bài thơ Việt Bắc, song toàn bộ chương Hãy đi mãi bị cắt bỏ. Trên tập thơ tác giả đem tặng người “biên tập” cho mình, anh Dần viết:
Gửi Vân Long,
Người biên tập lại Đi! Đây Việt Bắc!
Thông minh và công phu!
Song tôi vẫn phản đối mọi kiểm duyệt... (Ghi, trang 451)
Hai tuần sau khi nhận được Ghi chị Liên gửi, tôi đọc kỹ, và rất kỹ những trang, những đoạn chị đánh dấu, khi thì bằng bút bi đỏ, khi thì bút “phớt” vàng. Tôi điện thoại cho chị.
- A, cậu đấy à (giọng chị làm ra vui)...
- Cám ơn chị, em đã nhận được tập sách chị gửi!...
- Cậu đọc chơi cho vui thôi...
- Không em đọc thật, chứ không đọc chơi. Nhất là những chỗ chị cố đánh dấu...
Chị nói quấy quá:
- Ừ, chị có cái tật gạch xanh, gạch đỏ vào sách. Lẽ ra phải mua gửi cậu quyển sách mới, đằng này...
Tôi ngắt:
- Thế mới quý! Em vừa đọc được sách, vừa đọc được cả tâm tình người đã đọc sách trước em, mà lại là chị...
- Thế cậu thấy thế nào?
- Buồn...
- Chị cũng buồn!
- Nhưng em tin rằng một phần nào, em buồn như chị buồn. Còn một phần em buồn, chắc khác với nỗi buồn của chị...
Chị Liên ngạc nhiên, hỏi giống là giống thế nào, khác thì khác thế nào? Tôi nhẩn nha, gợi cho chị nói. Dĩ nhiên, chị lập lại, bằng lời, những nét gạch đỏ, gạch vàng trên những trang Ghi của Trần Dần. Thì ra, chị ấm ức, những người chị coi là thần tượng, đã “đầu hàng’’
Ngày 8-1-1958, Trần Dần ghi “Một ngón tay, Nhân Văn cũng không có! Non năm nay, họ đã nằm ẹp cả xuống, vắt tay lên trán, suy nghĩ như các nhà hiền triết cả rồi... Họ đang tranh nhau đi vào con đường cầu an... Tôi biết họ chỉ duy nhất một điều, là mong “Thánh Đế hồi tâm’’. Nhưng hình như Thánh đế bị bọn quan hoạn lừa phỉnh... Bơm to, vu cáo, ton hót lừa trên, dối dưới, các thứ thủ đoạn, tinh vi thì không tinh vi gì đâu. Song không hiểu sao con mắt Đảng, con mắt to thế mà chưa nhìn thấy chuyện? ” (Ghi, trang 187 -88 ).

Đó là thời Hội Nhà Văn bị đánh. Hội thành lập tháng 4-57 sau Đại Hội lần II, trong đó Tổng bí thư Trường Chinh công khai đập Nhân Văn-Giai Phẩm, sau khi Nhân Văn ra được năm số và Giai Phẩm ba số. Tô Hoài làm tổng thư ký Hội, xuất bản báo Văn do Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng phụ trách. Khi đó, guồng máy quyền lực đã thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, chỉ đạo bởi Nguyễn Đình Thi (và đằng sau là Tố Hữu, phụ trách công tác Văn hóa-Văn nghệ của Trung Ương đảng). Bối cảnh chính trị là thời hậu Cải cách ruộng đất. Chân rết “Xứ ủy Bắc bộ", đứng đầu là Trường Chinh, đang từng bước mất chân đứng với Lê Duẩn, “Xứ ủy Trung bộ" (và ảnh hưởng không ít đến Nam bộ), đang xông vào hất cẳng, lợi dụng những sai lầm “tả khuynh’’ của Cải cách ruộng đất. Hội Nhà Văn (đàng sau là Xứ ủy Bắc bộ?) bị Hội Liên Hiệp tấn công, gán cho là cánh tay nối dài của Nhân Văn-Giai Phẩm. Văn, có Lời mẹ dặn của Phùng Quán, Hãy đi mãi của Trần Dần, sống được bảy tháng, cho đến đầu năm 1958 khi đăng trong số 36 Ông năm chuội của Phan Khôi thì bị đình bản.
Không khí thời gian đó là không khí khủng bố. Một số nhà văn thấp thỏm sẽ phải ra “biên chế”, tham dự những lớp “đấu tranh tư tưởng” và cuối cùng Hội Liên Hiệp tổng kết cuộc đấu tranh thắng lợi với Nhân Văn-Giai Phẩm vào tháng 6 - 58. Tháng 7, Nguyễn Đình Thi thành Tổng thư ký Hội Nhà Văn, thông báo kỷ luật các văn nghệ sĩ đã tham gia Nhân Văn-Giai Phẩm. Trần Dần bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn, sau phải đi lao động cải tạo tại công trường Chí Linh cùng Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, v.v...
Hai tháng trước đó, con người nói chung, và nhà văn “phản cách mạng” nói riêng, hoàn toàn “mất giá” dưới tất cả những thứ áp lực, từ miếng ăn đến tư tưởng. Thậm chí, tội kết có cả tội làm gián điệp, tội âm mưu lật đổ Trung ương bằng phương pháp hòa bình (thì ra diễn biến hòa bình thời nay cũng chỉ là lập lại một “truyền thống”!) Đó là trường họp của Nguyễn Hữu Đang và Thụy An (Ghi, trang 254). Phùng Cung có những phản ứng không khoan nhượng, khi học tập “hỗn” đến bị đuổi khỏi lớp (Ghi, trang 253), chửi “mẹ nó, nhục lắm. Mình xin về nhà có được không nhỉ?” Trần Dần khuyên, rằng nên “đầu hàng”, “họ” là “chân lý ”, không nên xin ra khỏi biên chế, lúc này việc cũng có thể bị coi là một sự tiến công của “tư tưởng thù địch’’. Tháng 5 - 58, Hội Nhà Văn “để cho” nhà văn tự kiểm thảo sáng tác. Ai cũng phải tự phê. Về mình, Trần Dần tự kết tội là “...giặc - bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản, v.v...”, và rồi anh dí dỏm “...tôi sáng tác thêm vài chữ để miêu tả chân tướng mình, cho nó hết lòng một thể’’ (Ghi,trang 257).
Trong không khí khủng khoảng tâm thần tập thể, cá nhân thành một con kiến, không có tư thế chống đỡ gì khi bị “đưa” lên mũi nhọn, và đàn áp tinh vi là làm thế nào “chia để trị", tìm ra những mâu thuẫn, buộc nhau vào cái thế anh nọ “đổ vấy”, “tố điêu’’ anh kia. Hoàng Cầm lắm tội, nghiện thuốc phiện, lại bị ra tòa về việc chung sống với chị Yến, thú với Văn Cao “mình dát, bị đánh quá, mụ đi như “con đồng”, họ hỏi đâu thì cứ phun ra tuồn tuột, không nghĩ gì cả nữa” (Ghi, trang 265). Văn Cao, chắc có Tiến Quân Ca là cái lá chắn, bảo “Tao chỉ có tội chống Tố Hữu, chứ tao có chống Đảng đâu?’’ Trần Dần tổng kết “... tình hình nay là một thứ hỗn tạp mới:
- chủ nghĩa xét lại, khuynh hướng bôi đen đang bị đánh tan tác,
- bên sự đầu hàng thực sự đó đây có kẻ trá hàng,
- chủ nghĩa giáo điều, khuynh hướng bôi hồ đang nhăm nhe ngóc dậy. Đó đây có ló mặt chủ nghĩa cơ hội, thính mũi và vô tài.
Văn học đang có cái nguy cơ hạ giá trị, nguy cơ ca ngợi một chiều, chạy theo sự cần thiết trước mắt, nguy cơ bôi bác và nhất là nguy cơ tràn ngập tác phẩm xoàng, phỉnh nịnh đảng. Còn cái nguy cơ xét lại đã bị đẩy lùi tới cái mức không thể nào phản công lại dù dưới hình thức tinh vi nào. Có chăng, chỉ là lẩn lút nổ bằng mồm dăm quả mìn muỗi còn vương sót lại trên chiến trường, không tài nào thu dọn hết! Có vậy thôi!“. Vì thế, Trần Dần nghĩ, thì thôi, cải tạo chân thực, nhưng không chủ nghĩa cơ hội, lập công giả dối, hay buông tay thả mặc. Anh vẫn tin “chủ nghĩa nhân đạo không cho phép đè nén, lăng nhục ai, dù người đó có tội nặng... Dùng sự sỉ nhục để cải tạo người ta, không thể là một phương pháp cách mạng: vì nó hết sức phản khoa học, phản trí thức...” (Ghi, trang 268-269).
Hai mươi năm sau khi viết những dòng chữ trên, anh đúng một nửa, sai một nửa. Văn học (miền Bắc) hạ giá không phải là nguy cơ mà là một hiện thực, rất não lòng. Còn xã hội. Con người. Điều anh tin là một huyễn hão: chủ nghĩa nhân đạo đẻ thiếu tháng trên những văn kiện và nghị quyết, tã lót máu me, và tiếng khóc đứa bé đẻ non lịm đi chẳng khác gì một tiếng mèo văng vẳng trong đêm vô vọng. 
- Chị ạ, quyền lực dọa dẫm bằng cắt cái miếng ăn, cấm không được lấy người mình yêu, bắt phê, tự phê, kiểm thảo tư tưởng, rồi chiêu dụ, lấy người nọ đánh kẻ kia... Hóa ra, ở đằng sau, có thể nào vẫn hai thế lực “đàng trong” và “đàng ngoài’’ húc nhau, Nhân Văn-Giai Phẩm chỉ là con muỗi tế thần? Thành thử, khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống...
Chị Liên ngắt:
- Sống! Sống thế nào, mới quan trọng!
- Một mặt lý tưởng, mặt khác lại có phần ngây thơ nên khi vạch cái mặt trái của Cải cách ruộng đất, bêu cái tính cơ hội của bọn quan lại bàn giấy, phải chăng phe Lê Duẩn “đàng trong” ngầm ủng hộ Nhân Văn-Giai Phẩm để phá phe Trường Chinh “đàng ngoài”? Nhưng đến khi một thế lực đã chiếm được tiên cơ, họ phải giữ quyền lực, và họ co lại hệt như “đàng ngoài”, quay đánh vào tính “vô chính phủ” của những kẻ đã phản kháng... Lịch sử lập lại tấn tuồng nhàm chán nhiều lần. Hệt như sau này, Mao dùng Hồng vệ binh nắm được quyền lực, rồi cũng chính Mao ra tay diệt Hồng vệ binh. Dưới lớp son khẩu hiệu, quyền lực thời tàn dư phong kiến chỉ có thể mang thuộc tính của những ông Thành Hoàng giơ roi cầm vọt, và dùng hàng đàn chó, hàng đàn cừu, loại sai đi cắn và loại dễ bảo... Cọp ngày, Gấu chợ, Hạc nội, Phượng bặt hơi là... hàng mỹ thuật xa xỉ trong một xã hội phải “cào bằng”, ngôn ngữ quá độ phải đậm đà tính cày sâu cuốc bẫm tiêu biểu nền nông nghiệp mang truyền thống cha ông. Truyền thống, nghĩa là cứ con trâu đi trước cái cày theo sau, trên những thửa ruộng bón bằng phân tự mãn chèn vào là hò hét vinh quang đến độ bệnh hoạn.
Chị Liên xen vào, giọng cao lên:
- Nhưng cậu nói thế nào thì nói... Ai cũng phải biết chết. Chị thì chị chết chứ không chịu nhục!
Tôi khựng lại. Quả bà chị tôi đủ cái gan chết chứ không chịu nhục. Chị bỏ nhà đi giang hồ từ tuổi ấu thơ, lặn lội, đấu tranh và thành người bằng ý chí nghị lực, giữa những lựa chọn trắng - đen, sai - đúng, thật - giả lúc nào cũng rình rập thách đố. Tôi thở dài, tay sờ lên cổ:
- Vâng... anh Dần đã cứa cổ bằng dao cạo một lần, khi chị Khuê có mang cháu đầu lòng. Nếu anh ấy chết được lần ấy, bỏ vợ bỏ con, thế có gọi là “biết ” chết không? Chết như vậy, cứu vớt được ai và thay đổi được gì?
Chị Liên im lặng. Ở đầu dây, tựa hồ một tiếng nấc. A, cái lưỡi dao cùn, không đứt được mà đau...
- Cứ giả dụ cái lưỡi dao ấy không cùn. Nó rạch toang cần cổ, máu nhiễu xuống có vòi, anh dẫy lên, hét, kiểu Nguyễn văn Trỗi, chính chúng bay là giặc, chẳng hạn! Miền Nam sẽ tung hô anh, kẻ chết vì tự do và chính nghĩa, đặt anh lên hàng thánh tử vì đạo! Còn Miền Bắc, chắc giới văn nghệ sĩ lặng đi, và sợ, trở nên dễ “cải tạo” đến độ không hô vẫn theo, không dạy vẫn ngoan, đánh đĩ “thoải mái”! Đấy, chết thì như thế! Còn sống thế nào? Trời sinh làm giặc bút, thì viết. Muốn mỗi con chữ là một tiếng gào thất thanh, không thể viết gì ngoài cái thống khổ, sự ruồng bỏ, phản bội... O ép vật chất may còn qua được, nhưng tinh thần thì, ôi thôi! Đầu những năm 60, Hoàng Cầm viết được Về Kinh Bắc. Trần Dần hoàn thành Cổng Tỉnh, rồi Đêm núm sen. Những Bóng Chữ của Lê Đạt và Bến Lạ của Đặng Đình Hưng không biết có phải cũng từ những ngày ấy không?
Chị Liên vẫn im lặng, Tiếng điện thoại viễn liên vo ve như muỗi ngày. Tôi tiếp:
- Vậy giả dụ tất cả những lưỡi dao không cùn, nó cắt, xoẹt một cái, đứt cổ và chúng ta có thêm dăm vị á thánh, anh hùng, chết vì cái nọ cái kia. Nhưng đổi lại chúng ta mất đi những tác phẩm đã cứu vớt phần nào được ba mươi năm văn nghệ bị trói khuỷu, tay ê buốt mãi đâm mang cái hình dạng tê liệt thương tật của cả một tập thể “những nhà văn” chỉ giỏi ê a “chống Mỹ cứu nước”, hát bài hát hy sinh, anh dũng... để tiếp tay gây ra một cuộc hủy diệt, số tử vong lên đến số triệu đếm đủ ngón một bàn tay... Không, trăm phần không. Không ai có cái quyền bắt người khác làm anh hùng! Và cái chết, dẫu chết thế nào, vì cái gì cao đẹp đến đâu chăng nữa, cũng không thể đánh đổi lấy sự sống. Nhất lại là sống để tiếp tục nhả tơ nuôi đời.
Như anh Dần, 1961, nhả tiểu thuyết Đêm Núm Sen. Năm 1963, Zờ Zoạc (thơ). Năm 1964, Mùa Sạch (thơ). 1965 là thời gian sung sức, hai tác phẩm Một Ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết) và Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết). Năm 1967, Con Trắng (thơ hồi ký). Năm của Tết Mậu Thân 1968,177 Cảnh (hùng ca lụa). Không biết sao anh đợi 6 năm sau, đến 1974 mới ra Động đất tâm thần (nhật ký thơ). Rồi 1978, Thơ không lời - Mây không lời (thơ, họa). Liền sau đó là 1979 với Bộ tam Thiên Thanh - 77 - Ngày Ngày, 1980 với Bộ tam 36 - Thở dài - Tư Mã dâng sao. Ba năm sau, anh bệnh. Nhưng đến 1987, anh viết Thơ Mini. Anh viết, cứ viết. Biết bao giờ in? Há chi! Không cần, viết là nghiệp. Cứ thế, anh viết gần ba mươi năm. Một mình. Không độc giả! Rồi năm 88, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm... được phục hồi hội tịch Hội Nhà Văn. Tác Phẩm Mới xuất bản Bài thơ Việt Bắc (bỏ chương Hãy Đi Mãi, đã nói trên). Sau là Cổng Tỉnh năm 94, được trao giải thưởng năm 95. Anh mất năm 97. Đến 98, tập Mùa Sạch được nhà xuất bản Văn Học cho ra mắt. Trả lời Nguyễn Quang Lập, hỏi qua thời Nhân Văn, anh tự thấy anh được cái gì nhiều nhất? Trần Dần đáp, được cái hoạn nạn. Do cái hoạn nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm trong ba mươi năm.
Đó là thời anh đi Huế gặp anh em làm báo Sông Hương. Hoàng Phu Ngọc Tường hỏi, sau khi anh nhận ‘‘hội tịch”:
- Thưa anh, con người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại càng phải có nhân cách. Theo anh, nhân cách nhà văn quan trọng nhất ở chỗ nào?
Trần Dần đáp:
- Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta (Ghi, trang 439). Sau đó, Trần Dần vào Sài Gòn. Và đó là dịp tôi gặp anh lần cuối. 
Gặp những người tôi gắn bó, lần nào tôi cũng tự nhủ, ai biết đâu những bất trắc và tình cờ, với thời gian thì không chừng lần nào cũng có thể là lần cuối. Đó là cách tôi sửa soạn tâm thế sẵn sàng nhếch mép cười trước mọi được - thua, mất - còn, đời người ai cũng có. Lần gặp các anh sau dịp Tết Dương Lịch năm 82 cũng vậy. Chúng tôi “hội sao” ở nhà Dương Tường một buổi xế chiều. Gió mùa Đông bắc vi vút qua những cành bàng trơ lá dọc con lộ Lý Thường Kiệt, đẩy cái se se băng giá ngấm qua những chiếc áo len mỏng mảnh chụp xuống con người khiến dáng dấp co ro tội nghiệp đến xót lòng. Các “tư mã” lục tục, người trước, kẻ sau, gặp thì cười, nhưng là cái cười của những cuộc chia tay ai cũng tránh nói thành lời. Quà cho tôi là những bài thơ các anh chép tặng. Thơ Đặng Đình Hưng thơm mùi ổi, bốn câu. Thơ Lê Đạt, dập dờn bóng chữ, bốn câu. Thơ Hoàng Cầm, thê thiết quan họ, bốn câu. Thơ Dương Tường, gập ghềnh lyrique, tám câu. Riêng Trần Dần, bốn trang thơ, viết chữ như kiến bò ngang bò dọc, rồi vẽ vẽ, viết viết, đọc trên, mũi tên chỉ xuống, sang trang mũi tên lại bay lộn về. Ghim vào tim với những nỗi đau “vỡ kỷ”, những hạt bụi “xổ” vào bao la, với nhân duyên và những sợi tơ hồng đứt đoạn trong niềm đau “mạt kỷ” thuở lễ hội Zàng sao...Ôi tài hoa, bao nhiêu đây quanh tôi là tài hoa. Và tài hoa, khốn khổ thay cũng là hoạn nạn, bao nhiêu là hoạn nạn. Tôi thầm hỏi, này sông này núi, ai trấn ai yểm gì mà cái đất nước này cứ phải chôn sâu vùi chặt những đứa con ưu tú nhất? Cớ sao những gì là tinh hoa trí tuệ cứ muốn đời phải chống trả với cái vung tay thô bạo của thứ quyền lực nhất thời?

Năm 82, Hoàng Cầm lại bị bắt. Tội danh là bán rượu chui! Oan nghiệt ló mặt nhìn bằng cặp mắt những con chuột nhắt chui ra lúc đêm đổ xuống thế gian. Bán rượu chui đâu phải chỉ một Hoàng Cầm? Lẽ nào là vì anh giao du với tôi, Việt kiều, tức là người nước ngoài (ngoài nước?). Thời gian đó tôi ở Paris. Tin anh bị bắt tôi đọc trong tờ Le Monde giữa một tiệm ăn Việt Nam khu Quartier Latin. Nước mắt tôi ứa ra, không cầm lại được. Tôi bắt Métro trạm St Michel, nhìn xế qua là bồn nước có những con sư tử há miệng phun có vòi. Có lẽ dáng điệu tôi lúc ấy thảm thương lắm. Đến độ một người da đen nghèo khổ vỗ vai, một kẻ sans abri (không gia cư) có lẽ, đưa cho tôi điếu thuốc anh đang hút dở. A, con người với nhau. Thật may, cũng có chút tình! Tôi lẳng lặng rít một hơi, rồi trả lại. Sau Hoàng Cầm, còn ai nữa? Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt... Tôi lại còn giao du cả với Nguyễn Tuân, Văn Cao, Bùi Xuân Phái... toàn thuộc diện Nhân Văn xưa có vấn đề... Tối hôm đó, tôi ghép thơ các Tư Mã tặng, để báo đền chút tình tri ngộ. Tiện đây tôi xin chép lại:
Một chùm sao nhấp nháy những âu lo
 Về tụ lại lễ Zàng Sao giữa hạ
Nơi đã đặt tên và chỗ định số dăm chàng Tư mã
Nhễ nhại trăng khuya nhiễu xuống ngân hà
Thuở Bích Câu vọng câu tao ngộ
Chuyển tần số lòng những ánh sao sa
Chở đá đến một vùng chưa tiếng nói
Đốt lửa lòng lên đuổi mù sa
Ai khép gió giữa hai mùa vội vã
Trời quê hương xao xác một canh gà
Tiếng chó sủa
Tiếng huýt sáo một người đi chơi đêm về đánh thứ.
 Mắt lũ ánh buồn kẻ ở xa
Bờ ao mẹ nắng trở mình, sáo tắm
Rỉa cánh gầy xổ bụi giữa bao la
Xin đợi nhé mùa chim mây vỡ tổ
Đầu ăng ten sẽ lại tin nhà. 
Khâu lý lịch chữ, Lễ Zàng Sao, Tư Mã, nhấp nháy âu lo là clignetitude, chữ Trần Dần bịa. Tiếng huýt sáo, mắt lũ ánh buồn là Dương Tường. Mùa vội vã và bờ ao mẹ, Đặng Đình Hưng từ “bao giờ về trong khoanh mọt cái ao - ngôi giặt áo cả ngày’’.  Nắng trở mình khép gió, chữ Hoàng Cầm. Rỉa cánh, xổ bụi, lại Trần Dần. Mùa chim mây vỡ tổ, và ăng ten, là chữ Lê Đạt. Những chữ này lý lịch như thế chẳng hiểu chúng có được ba đời bần cố nông hay không? 
Về Hà Nội hè năm 88, tôi sững sờ, không biết là buồn hay vui khi nạn nhân Nhân Văn-Giai Phẩm đều “được”, và đều “nhân” phục hồi hộ tịch. Văn Cao trước đấy được Huân chương hạng tư, hân hoan càvát vét-tông đi chụp ảnh, với Hải - Không quân, vì là tác giả của những bài hát biểu trưng những binh chủng này. Đó là cái rớt sau khi Tổng bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” văn nghệ sĩ năm 87 và Trung Ương thông qua nghị quyết do Trần Độ, Trưởng ban Văn hoá Văn Nghệ, soạn thảo. Nhưng chỉ năm sau Đời Mới đã khựng lại. Trần Độ mất chức. Linh thụt lùi và Đỗ Mười xông lên. Tôi trách Văn Cao. Tôi bảo, tiếng tăm anh chỉ mất đi chứ thêm được gì với cái Huân chương đó. Anh giả say mắng tôi là quân khiêu khích - agent provocateur - rồi giơ tay dọa đánh. Thái bá Vân, chuyên gia và là nhà phê bình Mỹ Thuật có ở đó, đứng dậy chìa mặt cho Văn Cao, kêu, anh muốn đánh thì cứ đánh tôi. Thao, con trưởng anh cũng nhổm lên, bảo tôi chú đừng chấp bố cháu. Không đóng được kịch đánh (trước một khán giả có thể là kẻ đi theo “bảo vệ” (!) tôi) anh đành đuổi vậy. Thật ngộ nghĩnh, chị Băng vợ anh can thiệp. Xấu gì ở Văn Cao cũng đổ cho “bà” Băng là sai. Hôm ấy, hành xử rất tư cách, chị quát anh. Phần tôi, tôi xin với bạn bè có mặt là quên đi, để giữ “huyền thoại” Văn Cao. Bởi huyền thoại cũng cần: có tí gì để hãnh diện để vênh vang, cũng là một cách giữ cho mình tồn tại giữa một cơn hỗn mang đạo lý.
Gặp nạn nhân vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, tôi bớt gay gắt, nhưng cũng chẳng giấu gì cách mình suy nghĩ. Không khác với trường họp Văn Cao, tôi nghĩ nhận hội tịch là phá đi một cái huyền thoại, không phải về những con người, nhưng là huyền thoại về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, ngọn lửa dẫu ai có giang tay dập sao vẫn cứ âm ỉ ba mươi năm nay trong lòng người. Vâng, tôi nói thế, dẫu các anh có thể không vui. Phần Trần Dần, anh buồn, im lặng. Con cọp ngày khật khừ, nhướng lên, ánh mắt không rừng rực như cọp nhớ rừng. Với thời gian, anh thành cọp nhà, cọp phố Vũ Lợi, cọp chống gậy đi dọc Yết Kiêu, đến Trần Hưng Đạo rẽ trái, và lững thững bước về phía Bờ Hồ. Vài ngày sau anh bay ra Huế.
Chúng tôi gặp lại nhau ở Sài Gòn giữa một buổi trưa nắng gắt. Anh đợi, ngồi rìa một cái quán bên đường, vẫn cái tư thế cọp ngồi chống mắt nhìn đời, chập chùng xe qua xe lại nhả khói khét mùi xăng nhớt. Cọp nheo mắt chóa nắng lừng lững chống gậy đứng lên. Lần ấy là lần đầu anh vào miền Nam. A, cái lưỡi dao cùn. Nó chẳng phải chỉ cứa cổ người. Nó chém ngang lưng Tổ Quốc. Không đứt được thật, miền Nam vẫn đó. Nhưng mà đau, nỗi đau còn đó, lưng rướm máu, nay vết sẹo mới tấy da non, xin chớ ai động mạnh. Chúng tôi lại hẹn hò.
Tối hôm sau, liên hoan trên gác ba nhà Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Duy mới đi Liên Xô và Đông Âu về, đang đánh tiết canh vịt dưới bếp. Đã hẹn, nhưng sao mãi chưa thấy Trịnh Công Sơn. Khoảng bảy giờ, có tiếng chân, tiếng người. Sơn đi trước, Lữ Quỳnh đang xốc Bùi Giáng theo sau. A, hay thật là hay. Con đười ươi Tề Thiên tối nay gặn cọp ngày. Năm 24 tuổi và đầu một đời thơ, Giáng hạ bút Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt. Ồ thưa em ta thấy mộng không thường. Năm xấp xỉ 20, Dần “chôn tiền chiến”, và trong Dạ Đài, bản tuyên ngôn Tượng Trưng, anh gầm:
Không thể rung cảm chúng ta nữa cái văn chương cổ tích chỉ có một chiều chỉ nhắc gợi một cõi đất một tâm tình... Sau cái thế giới hiện trên hàng chữ, phải ẩn giấu muôn nghìn thể giới, cả thế giới đương thành và đương hủy...Bọn lãng mạn, sau khi chùi xong nước mắt lại lảm nhảm nói chuyện những nàng tiên.
... Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đương kể những câu chuyện cổ tích cho người đứng tuổi nghe. Phải gây nên cả hai không khí hoang đường và hiện thực...Chúng ta cũng không thể tách lập được hẳn thực hư, và chia đôi địa trấn bằng một bờ sao rõ rệt... Làm sao mà giải quyết được sự mâu thuẫn phi thường đó?
Chúng ta chỉ có một con đường đi để thoát khỏi mê đồ. Chúng ta chỉ có thể dung hợp được thực và hư bằng hình tượng... Thế nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là của cái thế giới âu sầu đây nữa.
Thế ra anh cũng mộng không thường! Anh bổ những nhát cuốc đào mồ “tiền chiến”.... cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh, của bọn lãng mạn chẳng làm chúng ta quên, vì chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng bênh của bản thanh âm hoàn vũ. Thế nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động. Và với anh, nghĩa là một bài thơ... không được dùng lý trí không được dùng cảm tình, nghĩa là không được chỉ dùng có một quan năng tách bạch của chúng ta - dù quan năng nào đi nữa. Hãy đem tất cả linh hồn, hãy mở tất cả cửa ngách của tâm tư mà lý hội. Trận gió sẽ lên: tức khắc và đột nhiên, vì thơ đã không cần lý luận.
Chẳng biết đười ươi Tề Thiên đã đọc Dạ Đài hay chưa? Chỉ thấy đười ươi huyếch miệng cười khan và sáp lại, mắt hấp háy. Cọp bất động, nhưng nhìn đười ươi chằm chằm. Anh em xếp cho đười ươi ngồi trước mặt cọp. Sơn tươi tỉnh “... anh Giáng, hứa không được phá nghen!’’ Móm mém, Giáng cười, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Chưa đụng vào đũa, Giáng bi bô chỉ trỏ vào Dần, và nói, tay vung lên, miệng say sưa. Chẳng ai hiểu gì! Vì anh nói một thứ tiếng lai tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp, nghĩa là thứ tiếng riêng của Bùi Giáng, lộn nhộn đủ loại ngữ ngôn. Lạ thật, Dần gật gù. Thình lình, Giáng đứng lên ghế, tiếp tục nói, như diễn thuyết. Sơn ra bên cạnh, kéo Giáng ngồi xuống, nhắc “...phá quá cha nội! Hứa gì quên rồi ư...’’ Giáng cười khì khì, giả ngồi yên. Sơn vừa về chỗ, Giáng lại đứng dậy. Con đười ươi Tề Thiên nghiêng ngả, kêu chí choét, lại nói. Lúc ấy Dần giơ tay. Giáng ngừng ngay, mắt trố lên nhìn. Con cọp giọng trìu mến thốt “...người ta bảo Bùi Giáng giả điên! ” Giáng lại kêu chí choét, như giục, còn gì nữa? Dần im lặng. Giáng vùng đứng lên ghế, rồi giả xiêu giả vẹo. Lữ Quỳnh phải chạy lại đỡ. Con đười ươi Tề Thiên cứ thế, diễn màn độc thoại, nhưng vô ngôn, có lẽ dành riêng cho cọp. Lữ Quỳnh và tôi, mỗi người một bên, dìu Giáng xuống thang, ra đường gọi xe xích lô. Đẩy Giáng lên, chúng tôi trả tiền xe. Vừa quay lại thì Giáng đã nhảy tót xuống xích lô, tay chìa ra, miệng kì kèo “tau" không đi xe, mi chia “tau’’ một nửa tiền xe hỉ!’’. Rồi Giáng lẩn trong bóng đêm trên đường xưa là Công Lý, nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, vạt áo bà ba trắng vụt biến vụt hiện như một linh hồn lạc lõng. Lừ Quỳnh kể, người nghe lo cho Giáng. Sơn cười “...già ấy tỉnh, khôn thấy mồ tổ, đừng lo!’’.
Hai bữa sau, tôi lại lên đường. Nhưng sao chưa đi mà đã nhớ! Lại tự nhủ, lần cuối, nhưng miệng cứ hẹn sẽ gặp lại, còn gặp lại, dẫu trời mang mang, đất mang mang, vì đại dương bây giờ, lời Nguyễn Tuân, chỉ còn là cái ao ếch một đêm mưa.
Tư trụ sở báo Văn Nghệ số 43 Đồng Khởi, Nguyễn Duy, Hồng Đáng và tôi ghé lên căn gác nơi Trần Dần nghỉ trưa nhà Hồng Văn, một nhà báo hưu non, đang ở tạm. Trần Dần nằm, mắt nhắm nghiền, tay vẫn nắm chiếc gậy hôm nọ tôi xin anh. Khi đó, anh nói “...Bửu Chi mới cho” và tôi đành “ thế thì anh giữ làm kỷ niệm!’’ Nhìn anh, tôi thì thào với Đăng, “...thôi để ông ấy ngủ!”, dẫu tôi biết anh chỉ nhắm mắt. Anh thừa biết tôi đến chào anh. Nhưng cả anh lẫn tôi, chúng ta nào có ai biết đấy là lần cuối.
Tám năm sau, tôi ghé Bolsa gặp Trịnh Cung. Câu đầu Cung nói, là “Anh Dần mới mất, mình vừa nhận được tin!” Về nhà Hoàng Khởi Phong, tôi dìm nỗi đau xé lòng trên phiến máy điện toán, viết về con cọp ngày vừa chia tay cả phố thị lẫn rừng xanh. Bản viết đó, rõ ràng tôi gõ “Save”, nhưng nó lại trôi tuột vào hư không vì máy hỏng. Hoàng Khởi Phong loay hoay chữa nhưng vô phương. Dầu có “Save”, ai làm thế nào cứu vãn được cái mất mát chính, là anh. Vâng, mất mát đó vô cùng lớn cho tất cả những kẻ lòng còn gắn bó với chữ nghĩa và quê hương.
Một chuỗi biến cố kể từ cuộc đàn áp ở Thiên An Môn đến sự sụp đổ bức tường Bá Linh khiến tôi lại chẳng được Visa để “quy cố hương” thăm hỏi các anh sau năm 90. Thế là Đặng Đình Hưng đi. Rồi Bùi Xuân Phái, Văn Cao. Và Trần Dần năm 97. Nghe tin Lê Đạt “được” qua Paris, tôi vội bay đến hàn huyên. Chúng tôi có vài ngày với nhau nơi nhà một người bạn nhà văn Đỗ K. đã mượn cho ở. Sáng nào chúng tôi cũng ra uống cà phê trên St-Germain. Nhìn ra phía trước là Métro Odéon, quay về phía sau, sao chúng tôi vẫn lại chỉ thấy Bờ Hồ trong cơn mưa bụi. Lê Đạt bảo “...Dần mất thế là hơn nửa năm rồi! Nhanh thật, cứ như mới hôm qua...’’.  Vâng, mới hôm qua. Những cái mặt đồng hồ trơ trẽn không kim trong giấc mơ ở Hà Nội ngày nào lại hiển hiện trước mắt tôi. Ở Paris, kim đồng hồ là một hiện thực. Vòng quay của kim một chiều, và chiều đó là chiều quay đánh dấu những tiến bộ trong một số địa hạt nhất định. Như khoa học. Kỹ thuật. Như công, thương nghiệp. Dưới một mức, là quyền con người. Nhưng dẫu sao, nó cũng nhích lên, trong một thế giới thông tin mở, không chậm chạp, ù lì, chai cứng đến độ mất hết sức sống. Lê Đạt nhắc kỷ niệm xưa, giọng tiếc nuối “...Dần nó có tư cách “chưởng môn”! Còn mình thì không, cứ bông lơn ba lăng nhăng...’’ Tôi lại hình dung ra con cọp ngày, mắt rừng rực, quyết liệt tuyên ngôn, rằng cái kho chữ là tài sản quý nhất của một dân tộc. Anh nhếch mép, râu rung rinh đùa hỏi tôi, cái môn kinh tế học của cậu nó có dạy thế không? Không hả, anh cười, thế thì “ hỏng’’. Những phút ấy thật hiếm. Đùa xong, anh lại trầm ngâm.
Tôi hỏi Lê Đạt, đã đến lúc anh viết về Nhân Văn-Giai Phẩm như những chứng nhân và nạn nhân chưa? Đạt bảo, Hoàng Cầm nói và thu cát xét, dễ có đến cả chục cuộn băng. Còn mình, anh cười, mình chưa ghi chép gì cả. Tôi bàn, viết về Nhân Văn-Giai Phẩm là viết về một giai đoạn và một tinh thần văn học. Anh gật gù, thế cậu thấy cái gì gọi là tinh thần Nhân Văn? Câu anh hỏi, tôi chưa đáp, khất đến hôm nay. Xin thưa gọn: tính nhân bản cộng với tinh thần sáng tạo. Và như phương tiện vận chuyển xã hội đến lý tưởng mà chung quyết là hạnh phúc con người, văn chương hành động dấn thân, can đảm phê phán hiện thực. Tệ quan liêu, chủ nghĩa tô hồng cơ hội, và bản chất phi nhân giữa thập kỷ 50 là đối tượng. Nghĩ kỹ lại, đến nay là thiên niên kỷ thứ 21, tình hình xã hội cũng chưa khác là bao, thậm chí so với thời đã qua thì nhiều vấn đề cấp bách hơn, trong đó sự mất niềm tin vào tương lai đến độ tuyệt vọng là căn bệnh ung thư bộ não đã vào giai đoạn cuối cùng.

Tương quan giữa quyền lực và văn hóa trong xã hội có một số thuộc tính khó chối cãi được. Năm 87, ông Nguyễn văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, thừa nhận hiện thực “bị trói”, và trói bằng những vòng kim cô xiết lại nới ra tùy theo nhu cầu chính trị. Đùng một cái, từ 87 đến 91, liên tiếp một số tác phẩm sáng giá ra đời. Tướng về hưu, Thiên sứ, Những Thiên Đường mù, Nỗi buồn chiến tranh, Đi về nơi hoang dã, Những mảnh đời đen trắng, Bến không chồng... Và những khuôn mặt mới như Dương thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm thị Hoài, Bảo Ninh, Nhật Tuấn... làm nổi lên một không khí sáng tác, mạnh dạn hơn, chất lượng có, và gây nên được cái hy vọng lấp dần khoảng trống của thứ văn học khẩu hiệu, xoàng xĩnh, có tính dịch vụ tuyên huấn, ủy lạo, động viên thi công thúc chiến. Rồi cũng đùng một cái, Linh co lại, Đỗ Mười lên. Đùng một cái, sáng tác lại khuôn phép ngậm miệng. Và ở giai đoạn bỏ bao cấp xã hội chủ nghĩa quá độ tiến lên (tiểu) tư bản thủ công đỏ và đen, văn hóa trong nước tràn lan trăm chuyện xe cắn chó, chưởng rẻ tiền, tình Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan... Đất nước chúng ta có phải chăng đang phá sản ở mọi mặt? Kinh tế tụt hậu, nợ cứ nợ, thế hệ sau (?) trả. Con người hạ giá, xuất khẩu làm tôi mọi khắp nơi, ô-sin vinh quang với nhiệm vụ quốc tế. Còn văn hóa, ta chỉ còn độc cái món thi hoa hậu, hoa hậu từ làng tới huyện, từ huyện tới tỉnh, từ tỉnh tới vùng, từ vùng tới thành phố, rồi từ thành phố đến toàn quốc. Giáo dục, ôi thôi, cả nước “lãng” học nhưng tiến sĩ, phó tiến sĩ nhan nhản đầy đường. Tiếng báo động chục năm vang như tiếng sấm, sấm động nam bang theo cách nói một sứ giả đại quốc đến thăm viếng ta trong huyền thoại Trạng Quỳnh. Nhưng các vị lãnh đạo nay đang hy sinh cho tiền đồ hay hy sinh tiền đồ? Họ kiên quyết ngồi yên, không động đậy, bằng chân như vại, rủng rỉnh ngựa xe. Mặc dầu có 25 triệu (tức là 60% lực lượng lao động ) người thất nghiệp, theo thống kê của Ngân Hàng Thế giới năm 2002. Thế thì trăm ngàn ô-sin, triệu gái mãi dâm, là tất yếu, là... ‘‘quy luật”, thứ quy luật mới.
Chưa bao giờ, tinh thần nhân văn cần như lúc này! Gió ơi, đừng nghe lời khuyên chớ đừng rung cây! Gió hãy lên! Cho cây đổi mùa thay lá. Vì sông mấy khúc nhưng rồi nước cũng chảy, mây mấy tầng nhưng rồi chim cũng bay... 
Nhà văn Phạm thị Hoài, người biên tập và hiệu đính GHI, nói rõ “Với chúng ta, đó là những văn liệu và tư liệu vô giá về một giai đoạn văn chương và lịch sử cho đến nay vẫn xếp sổ, nếu quả còn có sổ...” Ghi trở nên một hình phạt, Trần Dần viết, nhưng “kết quả của hình phạt với một người lại có thể là quà tặng không ngờ tới bao nhiêu người khác’’ Điều này rất đúng. Nhưng nó đòi hỏi người khác, tức là chúng ta, một cách đọc để hiểu.
Chị tôi, chị Liên, đã đọc. Chị cũng hiểu, là Trần Dần đã từng đầu hàng, Hoàng Cầm thế này, Lê Đạt thế kia... ai cũng có lúc nhụt chí, yếu xìu, hèn đi, quy thuận và thậm chí đôi khi van lơn chạy “tội’’. Chị buồn vì đèn tắt, nến tàn và dăm cây nhang cháy đến gốc không còn cái mùi ngất ngây gây mê trên bàn thờ nơi thần tượng vừa sụp đổ. Vâng, nếu là thần tượng, thì có thế thật. Nhưng nạn nhân vụ Nhân Văn-Giai Phẩm là những con người. Và nhất là những nhà văn. Họ có thành thần tượng, là do chúng ta nặn lên cho chính chúng ta. Nhu cầu tế lễ không phải là lạ, từ ngày con người tìm ra lửa, biết tầm quan trọng của quá khứ, và đẻ ra huyền thoại như một trong những phương cách nhằm xác định bản thể mình.
Họ là những nhà văn. Lập lại lời Trần Dần, nhân cách của họ là văn cách. Điều sau, đòi hỏi họ có tác phẩm. Chính cái sự rất người là yếu, hèn... đẻ từ hoạn nạn mới cho phép họ viết về cái rất người của những con người. Giả như họ chỉ anh hùng (rơm), kiên cường, móc mắt mình như Thụy An (rồi chết), thì bất quá họ để lại cũng chỉ một hai câu, đại loại kiểu “bay là giặc!”, “không thành gì thì thành nhân”, hoặc “thà làm quỷ xứ tự do (miền Nam xưa, USA bây giờ?) còn hơn làm vương đất độc tài toàn trị (miền Bắc xưa, Nga mafia bây giờ?)”. Trời ơi! Đất nước ta đã có quá nhiều anh hùng. Họ là những kẻ đã nằm xuống rồi, và cho sống dậy chắc gì họ chẳng không hối tiếc?
Cách đây bốn năm, tôi lại về Hà Nội. Tôi đến thắp hương cho Trần Dần, cho Văn Cao... Như những năm xưa, tôi đến thắp hương cho Nguyễn Tuân, cho Bùi Xuân Phái... Tôi có cảm giác họ vẫn đâu đây, như những người muôn năm cũ, lẩn quẩn trong tâm tư những kẻ nòi tình gắn bó vào chữ, vào nghĩa, và vào cả cái định mệnh khốn khổ của những người làm nghệ thuật nhưng không có tự do. Đâu đó, tôi nghe tiếng Nguyễn Tuân rủ rỉ, nước mắt tràn trề trên những sợi râu bạc, kêu khẽ... Sợ! Tôi tồn tại được là vì tôi biết sợ!
Tôi cũng thế, nghĩa là tôi từng sợ, từng hèn, từng yếu,... có lắm lúc buông trôi, nhưng cũng có đôi khi nổi loạn! Và tôi hỏi chị Liên, còn chị? Tôi kể, tôi mơ thấy ông Dần ngồi trên vạch phấn, một bên là thiên đường, một bên là địa ngục. Cạnh ông, một rổ đá, cục nào cục nấy to bằng nắm tay. Ai đi qua, ông cũng chìa cho một cục, miệng bảo “Không từng sợ, không từng hèn... thì cứ ném đá cho tôi chết thêm một lần!”
Làm gì có kẻ chết được hai lần!
Nói đến cái chết. Và chôn. Trong dịp chuyện trò với anh em biên tập Sông Hương, Trần Dần kêu “...Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.’’
Những ai đã chôn Trần Dần? Chưa chôn? Vì anh chưa chết, thế hệ trẻ ơi!
Vài tháng sau khi tôi đọc GHI, một hôm tiếng điện thoại viễn liên reng lên. Cầm máy nghe, lại chị Liên. Chắc chị mới từ Hà Nội bay về Caii. Chị kể chuyện, con cà con kê, rồi bảo, có một món quà bất ngờ cho cậu. Tôi hỏi. Giọng dịu dàng, chị nhỏ nhẹ:
- Chị mang quà anh Hoàng Cầm gửi. Vẫn như mọi bận, một lít rượu làng Vân. Để hôm nào chị qua chỗ cậu chị mang sang!
Cám ơn chị, đến thăm anh Cầm là chị đã hiểu. Chị cứ kêu chị thất học, nhưng chị học chữ dễ khiến lắm người quên mất nghĩa. Và cái học trường đời, chữ cần một, nghĩa cần đến mười, mới thành người được. Chai làng Vân chị mang qua cho em lần trước vẫn còn một nửa. Tối nay, em sẽ uống, một ly cho chị. Một ly cho những huyền thoại chúng ta cùng nhau gìn giữ, không phải để phong thánh ai rồi nhang đèn điếu đóm, mà là từ đó ta lại khởi đi một cuộc lên đường sáng tạo. Còn lại, em uống để nhớ món quà Nhân Văn trao cho những thế hệ sau.
Rượu làng Vân, rượu tình rượu nghĩa. Cũng những chén rượu đó tôi nhắp môi vào, hai mươi năm trước, nghe anh Cầm nghẹn lời, hạ giọng ‘‘Chỉ mình ta...Ta say ta đạp lùi tinh tú. Ngủ yên rồi đôi cá đòng đong”. Trên nền đất nện, một cái bàn mộc, dăm chiếc ghế chân lay, xộc xệch bao nỗi đời nên may mà có rượu chui, thơ chui. Như thơ các anh, những nhà thơ không được có độc giả, sao dám mãi cứ thi gan nhả chữ vào vực thẳm để tiếng vọng xô từ vách đá là tiếng thở dài lẫn trong tiếng nguyền rủa. Thế đấy, nhưng Trần Dần vẫn cười khẩy, thách thức “tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn, trừ tiếng chửi "sống không sáng tạo”. Như rượu làng Vân, cũng phải chui. Quốc lủi, khác rượu quốc doanh ở chỗ nó thật, không dối trá, không lên gân hô khẩu hiệu. Nó thoang thoảng hương nồng chất nếp than, để lại đầu lưỡi buốt bong vị cay của hoạn nạn. Uống vào, bỗng dưng sẽ thấy con chữ ở dạng nào cũng đèo trên mình chữ tâm của người viết, chữ tình trong kiếp nhân sinh. Và nhất là trách nhiệm, với mọi người, kể cả những người muốn năm cũ.
Chú thích:
[1] Trần Dần. Ghi (1954-1960), Biên tập và Hiệu đính: Phạm thị Hoài, Xuất bản: td memoire, Paris. 2001.
4. Đỉnh ảo, một đời thơ
Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ của mai này đụng độ mà không chết, dẫn tôi đi tìm Bùi Giáng. Không về ghé sông Mao phá phách chơi, chẳng chia nốt nỗi sầu cùng gái điếm, và bụng dạ nào để nghĩ đến đốt tiền mua một thoáng ngày vui. Đó là Sài Gòn đầu thập niên 80. Quần đen, áo bà ba. Nón cối gắn sao đỏ. Áo vàng thấp thoáng góc phố, mắt cay nghiệt rình rập, mặt lạnh như tiền. Như thế, dẫu là thánh cũng chẳng thể không mang mặc cảm phạm tội. Một thứ tội danh chưa biết nhưng có thể ụp xuống đầu bất cứ lúc nào, thậm chí ngay bây giờ, hoặc mai, hay mốt. Tội hay không, hên sui may rủi như lắc xâm xin quẻ, tung đồng chinh sấp ngửa cầu một quẻ hào dịch ê a niềm hy vọng từ miệng người thầy bói mù đang lén lút hành nghề dị đoan mê tín.
Chúng tôi đạp xe dưới nắng chang chang. Qua cầu Bông. Tìm, hỏi. Rồi hỏi, tìm. Không, không thấy. Vòng qua Tân Bình, cũng không. Mấy bữa rồi ông đi mất tiêu. Qua chợ Trương Minh Giảng, lại hỏi, cái ông ấy mà, râu tóc trắng xóa, con mắt rực màu tinh quái, áo vá chằng vá đụp thùng thình, thỉnh thoảng la hét gầm gừ, vai bị, tay gậy, nghe đâu dạo này lại có một chú tiểu đồng con lẽo đẽo theo sau. Ờ, mới thấy bữa trước, giờ chắc ổng zìa Sè Gòn rồi. Chỗ nào? Trời biết, ổng như thần thánh, lúc biến lúc hiện... Chịu, thôi thì thôi, để mặc mây bay, chưa bén duyên thì gửi lòng yêu theo cơn gió lửng. Nào, đạp xe về, chỗ đám văn nghệ sĩ trú, số 160 Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Nguyễn Bắc Sơn ra chợ trời, tối hôm đó mang về một cuốn sách mất bìa, tơi tả buộc kiểu bó giò bằng hai sợi dây thun, thiếu 48 trang đầu, bảo... ta cho chú mày cuốn sách gối đầu giường. Tôi rón rén nhẹ tay mở ra, phía trên trang bên phải có chữ Tư Tưởng Hiện Đại (TTHĐ), bên trái thì M. Heidegger, cứ thế giở, đến W. Faulkner, A. Camus. Đến trang 478, tiếp Phụ Trương Thần Thoại Hy Lạp, với cước chú rất tếu: ‘‘...vì muốn hướng câu chuyện theo những viễn tượng nào đó được phơi mở nhiều trong tác phẩm của Homère -Euripide - Sophocle nên tôi kể chuyện Thần Thoại nghe ra có khác trong sách vở”...
Tếu thế, và thế được là rất ngông nghênh, nhưng ngông nghênh duyên dáng nên chẳng để ai mất lòng (trừ những học giả hàn lâm, nghiêm túc chỉ thuần trích, dịch, ghi chú, liệt kê sách biên khảo với số trang chính xác...để... làm tài liệu). Giở trang bìa sau nát bét, mọt nhá đã bươm tả, giấy nhăn nheo vàng ố, thấy ghi Giấy phép số 2715/XB cấp ngày 10-11-62, không có tên Nhà Xuất Bản. Trang trong ghi Lời Cuối Tập, rằng:
Vì điều kiện ấn loát quá khó khăn, nên ông chủ nhà in muốn chia cuốn sách ra làm hai tập. Tập thứ nhì sẽ in xong sau Tết Nguyên Đán. Độc giả thông cảm cho. Đa tạ. (Ký) Năm Của- Năm Cao-Năm Lửa-Năm Giáng.
Nhưng Tết năm nào? In thế, ông chủ nhà in hẳn chịu chơi và rất chiều tác giả, để tên ký cũng cợt nhả, không phép tắc qui củ, bất cần nhân thế, cái thế nhân thường giữ cho bề ngoài có nét đứng đắn đến độ ảo não âu sầu! Tay nào viết cuốn này vậy? Nguyễn Bắc Sơn phá lên cười, thì Bùi Giáng chứ còn ai vào đấy được! À, và nếu ông chủ nhà in là ông Thanh Tuệ thì nhân đây tôi xin gửi ông một lời chào. Quả ông có con mắt xanh, chắc ông in năm 63, thời đệ nhất Cộng Hòa, mai hậu sách sử gọi là thời Tiền Ngụy để khỏi lẫn với thời sau 90.
Có sách, phải đọc. Thật kỳ lạ! Dĩ nhiên có các vị M. Heidegger, W. Faulkner, A. Camus nhưng tất cả qua cái lăng kính Bùi Giáng, trộn vào nào là Thu Trang, Kim Cương, Thúy Kiều, Brigitte Bardot và Marilyn Monroe, nhuần nhuyễn tồn hoạt với nhau trong một tồn sinh mà tại thể tạo ý nghĩa cho tồn thể. Nhưng tại thể là gì? Là Dasein trong ngôn ngữ Hết-Đe-Ghè,...là thực tại người?...là cái thể đứng ra để đón mời tồn thể. Nếu không có thực-tại-người-tại-thể thì tồn thể sẽ thiên thu mất ý nghĩa, sẽ chỉ còn là lù-lù-vật-thể-lai-rai (Tựa thứ hai cho M.Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại). Vậy Dasein là, Bùi Giáng cao giọng nghịch ngợm (TTHĐ, tr. 104), là Da (nghĩa thịt da) mà vì Sein (chỉ cái vú trong Pháp ngữ). Thế là nữ lưu các vị ở trên, Bùi Giáng ký dưới cứ rên hừ hừ. Thơ kiểu lục bát thì tỉnh bơ ký BG và Tố Như, còn sang đường luật thì là văn xuôi, tuyên bố ngôn ngữ là ngôi nhà của tồn thể và cứ thế quậy cho... nát nhừ những nghĩa cùng ngôn, thò tay xem cái lò tôn (đọc lái kiểu Bùi Giáng, là tồn lo, là...) là gì. Tóm lại, đọc để hiểu tư tưởng Bùi Giáng quả là bất khả, nhưng có những thoáng thiên tài nhấp nháy ánh sao sa, và những phút giây khiến vỗ đùi cười phá lên vì không thể nhịn mà được. Tỉ dụ:
Những ánh sao sa:
Khoa học giết người...khoa học ngây thơ được phép không ngờ...đã hồn nhiên gây bóng tối. Triết học giết người...và ít ai hiểu rằng sở dĩ khoa học giết được nhiều con người đến thế là chính bởi triết học khốn nạn đã dọn đường, chính triết học hư tà đã phạm tội trước tiên... Sự lầm lẫn tai hại của các triết gia-học giả đã tàn phá triết học thi ca suốt bao nhiêu thế kỷ, và dẫn con người thời đại này tới đầu hàng cơ giới duy lý duy vật một cách nhục nhã. (trích Tựa thứ hai, sách dẫn ở trên).
...Luận lý học là tạo phẩm lai rai của nhà trường, của học giả. Triết nhân nếu cố sử dụng luận lý học thì bao giờ cũng sử dụng với những hậu ý, coi luận lý học như một phương cách tạm thời giúp ta đạt được một cái-gì-khác lung linh hơn...Từ bao nhiêu thế kỷ tư tưởng của tinh anh đã hao mòn trong vòng vây của luận lý. Người ta đo tư tưởng theo tiêu chuẩn lệch lạc. Buộc cá phải bò trên bãi cát? Buộc chim phải lội dưới dòng sông?...Tất cả vấn đề là: làm thế nào cho xoang điệu hào hoa đừng bị đánh chìm bởi luận lý cò kè đo đếm, bớt một thêm hai. (trích Tựa thứ hai, sách dẫn ở trên).
...Sau nghìn thế kỷ của ba trăm năm điêu tàn sa mạc, con người Trí Thức Trưởng Giả Da Vàng... vừa thống thiết tự xưng  ‘‘ta Đông phương da vàng” vừa lém luốc dòm dỏ theo đuôi  ‘‘em Tây phương tiến bộ văn minh da trắng”...Đông phương đã tiếp tục ngủ vùi giữa những trầm thống thất thanh kia. Và lúc xực tỉnh ra thì chỉ biết thống thiết chạy theo đuôi một cái đuôi hút heo tan nát, vừa chạy theo đuôi vừa gào to lên rằng mình vớ chộp được một cái đầu thật bự! (Trích Tựa cho Mùa Xuân Hương Sắc, An Tiêm, 1990, tái bản lần 1).
Vỗ đùi mà cười phá lên:
Nhưng tinh hoa của tư tưởng tồn sinh chính là ở chỗ chập chờn -tồn hoạt, hắt hiu -tồn động, lây lất- tồn lung. Luôn luôn phải xin mở những dấu ngoặc để nói chuyện đầu Ngô đuôi Sở, là cố công cố gắng để đi sát nhịp với tồn sinh... Và nói chuyện đầu Ngô đuôi Sở xong, thì xin phép đóng dấu ngoặc lại, để xuống dòng bàn đến chuyện đầu Sở đuôi Ngô khác. Bởi vì nếu không tiếp tục bàn chuyện khác cũng đầu Ngô đuôi Sở thì ta sẽ rơi vào cái lỗi của hệ thống ngu si dập dìu những Waelhens những Jean Wahl những Sartre cứ lục tục nối đuôi nhau - nhưng không nối đuôi được đẹp đẽ như chuồn chuồn – để tết dệt hàng hàng những lách lau bá láp (TTHĐ, tr 103).
Cuộc  ‘‘cách mạng’’ tư tưởng của học thuyết Sartre chỉ mà đường cho tư duy xuống dốc (ta hết sức tàn nhẫn mặc dầu ta yêu Sartre gần bằng Trang Phượng. Và mến Sartre hơn bao kẻ hương nguyện. Và không muốn quên cái công của Sartre - không phải công với triết học mà là công với dế mèn - nhưng, không thể nào không đập ngươi vì bổn phận đối với lá cỏ cồn mà ta yêu quí. Đập ngươi, ta rất đau lòng). Chủ nghĩa hiện sinh theo điệu Sartre sẽ sớm chầy bắt tay với duy - vật và suy - tư -khoa - học - máy móc.  (TTHĐ.tr. 147).
Tại sao một đêm ăn trộm bằng ba năm làm? Những bọn cầm bút phê bình cha-chú, ru rú rúc rào, lấp lơ giả vờ đứng- đắn- ta- đây để bổ nhào đè lưng kẻ làm vườn mồ hôi nhuễ nhoại- vâng- những bọn đó nên suy gẫm kỹ một cái câu này. (TTHĐ.tr.183)
TTHĐ, tr. 364:
- ‘‘I' ve seed de fisst en de last’’. Dilsey said, ‘‘Never you mind me”.
- ‘‘First en last whut?’’ Frony said.
- ‘‘Never you mind”. Dilsey said. ‘‘I seed de beginnin. en no I sees de endin”
Bùi Giána dịch (giọng Quảng):
- Tôa đỏa thêy ké đòa ké cuếi.
- Chớế ngeại chi têoa, Chớế lôô chi cho têao.
- Đêầư cuếi ké chi?
- Chớế lôô ngeại chi chô têao hếếc.
Tết năm con khỉ cách đây hai giáp, tôi đến thăm Trịnh Công Sơn và gia đình thì Bùi Giáng đã ở đó, áo trắng (sạch sẽ, chắc để đi ăn Tết), nhưng mặt mũi thâm tím. Sơn vỗ vai tôi, bảo tên này cũng làm thơ. Giáng cười móm mém, vờn vờn đi kiểu hát bội, vòng quanh tôi hai vòng mắt chằm chằm nhìn tôi như một con vật lạc loài nơi phố thị. Đập đập lên vai, sờ sờ nắn nắn, Giáng làm điệu bộ đánh hơi, ước giá, miệng kêu khìn khịt, mắt hấp háy tinh quái. Thình lình, Giáng thò tay trái ra bắt, hố hố, “Đười ươi thi sĩ, đích danh tại hạ!” rồi đưa tay lên trán chào kiểu nhà binh. Năm Dao hỉ! Giáng ré lên, chỉ trỏ cười, huyên thuyên nói thứ ngôn ngữ pha Anh Pháp Đức Việt và ba lăng nhăng đủ loại âm thanh, nói liền năm bẩy phút, không cho ai cắt lời, chẳng cần ai hiểu. Tôi ngớ ra, lúng túng nhìn Giáng, chỉ biết cười cười. Sơn kêu, ông nội này phá quá trời quá đất. Giáng mặc, cứ tiếp tục, thình lình lăn cù xuống đất, lộn ngược đầu, xoay vòng vòng, lăn từ trong nhà ra sân, rồi lại từ sân lăn vào, tiếng da thịt đụng xuống nền đất bình bịch. Tôi kinh hoảng. Hình như cả nhà Sơn đã quen với cái cảnh này, chẳng ai lộ vẻ ngạc nhiên. Sơn đủng đỉnh, chút chả hết cơn, không sao đâu... Mươi phút sau, Giáng thôi ngọ nguậy, nằm thở hồng hộc. Một lát, Giáng lồm cồm ngồi lên, mặt mũi tươi rói, có vẻ không nhớ gì những giây phút vừa qua. Phải chăng, tôi tự hỏi, Giáng vừa tìm lại một thứ quân bình giữa cái thể và cái trí chừng như cái nọ làm lệch cái kia. Bất ngờ, anh nhìn chằm chằm vào mắt tôi, giọng Quảng đặc sệt, dịu dàng: “Có sống như thơ thì mới làm thơ được!”.
Thơ Bùi Giáng. Phải nói, nhiều người đã xưng tụng thơ Giáng. Cũng nhiều người, nhăn mặt kêu, thơ đang hay bỗng trửng giỡn, mất hay. Nhưng nói gì thì nói, ai cũng nhận rằng Bùi Giáng là một nhà thơ. Và là một huyền thoại sống.
Tôi biết một đêm ăn trộm bằng ba năm làm, không chơi trò ru rú rúc rào, nhưng xin thưa với Đười Ươi thi sĩ những bài thơ của anh mà tôi trân trọng. Trong tập Mưa Nguồn (1963), bài Người đi đâu, với
Trời vi vút én liệng vòng hớt hả.
Đi đi em nguồn dậy mộng chiêm bao.
Về thao thức canh chầy tìm trở lại.
Bốn chân trời người đứng ở nơi nao.
Rồi bài Phương Hà, nhất là đoạn:
Trời tuổi trẻ bụi nào về vây hãm.
Giữa mịt mờ trăng nước lạnh liên miên.
Hoài vọng uổng bên nỗi đời thê thảm.
Hờn núi sông anh lạc xứ xa miền.
Trong Mắt Buồn, hai dòng như chuỗi hạt trai, rằng:
Bây giờ riêng đối diện tôi.
Còn hai con mắt khóc người một con.
Cuối cùng, Mai Sau Em về, trác tuyệt bất ngờ là hai câu:
Em về mấy thế kỷ sau.
Nhìn trăng có thấy nguyên mầu ấy không. 
Đến tập Lá Hoa Cồn (cũng 1963), tôi yêu lục bát Bùi Giáng, và nhận ra anh là đứa em cuối cùng của Tố Như Tử (chứ chẳng phải Nguyễn- Bính- ca- dao hay Phạm- Thiên- Thư- vô -thanh - vì- không- đủ -đoạn- trường). Với Dệt Áo, hãy nghe:
Áo vàng xin dệt cho em.
Tơ vàng ai lựa sợi mềm tay đan.
Mai sau để lại hoe vàng.
Cầm nghe có thịt da nàng ở trong. 
Còn Sa Mạc Phát Tiết, đoạn cuối khiến châu thân lạnh toát rợn người:
Thưa em trời chẳng cho gần.
Đường vô hạn trắng tử phần ban trưa.
Đêm vần vũ bạc phau xưa.
Hồn sa mạc phát tiết mưa ra ngoài. 
Bây giờ, lần dở Ngàn Thu Rớt Hột (lại cũng 1963) và nghe Bùi Giáng lên cơn tếu trong Gởi thôn nữ Vĩnh Trinh, kêu ca:
Tấm quần em rách đường tơ.
Cỏ trong mình mẩy bâng quơ mọc nhiều, 
rồi sau lại hỏi:
Bây giờ em đứng nơi đâu.
Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao.
Chưa hết, làm xong mấy khổ lục bát, Giáng tái bút:
Gắng thu xếp gấp rồi vào. Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không. Trong này thiên hạ rất đông. Ăn mặc thật đẹp nhưng trông không mặn mà bằng em.
Anh viết cứ như thật! Em nào chịu cho nổi cơ chứ?
Đến Màu Hoa Trên Ngàn (lại lại 1963), Bùi Giáng vẫn cứ phong độ, thơ trào ra, có tệ thì thi thoảng xuống mức thường thường bậc trung nhưng chỗ này chỗ kia vẫn lấp lánh những ánh sao băng kỳ diệu. Em về mấy thế kỷ sau lại được lập lại (sau đó thêm một lần nữa thì phải) trong bài Em Về Ra Sao. Xin chép:
Em về mấy thế kỷ sau.
Hồn ngân tiết điệu câu chào vọng qua.
Em đi lòng độ giang hà.
Cỏ mùa thu mọc chớm già chợt non.
A, cái tứ thơ lạ, em về nhưng lại mấy thế kỷ sau, tại sao hở em?
Chỉ nội một năm 1963, Bùi Giáng ra thêm Màu Hoa Trên Ngàn, tức là 5 tập thơ. Thêm vào, Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại I và II, rồi Sao Gọi Là Không Có Triết Học Heidegger, là hai cuốn sách lý luận biên khảo. Và chỉ một năm thôi, là thừa cho một đời văn: anh đã để dấu ấn Bùi Giáng trong văn học và thi ca. Từ 1955 đến 1975, Giáng viết khoảng 46 (47?) tác phẩm, đủ thể loại, từ sách Giáo Khoa đến Dịch Thuật. Sau 75, anh không sung sức như trước, nhưng thơ anh thấm thía trạnh lòng hơn, và cũng hoài nghi hơn, đôi khi có chút ủy mị chua xót, nhưng gì thì gì, vẫn ngộ nghĩnh. Tôi chép ba bài tôi cảm:
Bao giờ
Bằng bút chì đen
Tôi chép bài thơ
Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng
Tôi chép bài thơ
Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng
Tôi đốt bài thơ
Từng phút từng giờ
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi không
Một đời
Một đời đâu chốn đâu nơi
Đâu người đi kẻ ở đời đâu đâu
Em đi từ tỉnh mộng đầu
Một mình anh ở mang sầu trăm năm
Em từ vô tận xa xăm
Trùng lai chất vấn: từ trăm năm nào?
Gió
Gió qua đồi núi cheo leo
Gió chào em Mọi bên đèo đầu truông
Giữa đèo rốt cuộc một muôn
Bên giòng suối mát cởi truồng ngồi chơi
Nhân vì có việc qua đồi
Thay em xinh đẹp tôi ngồi ngắm em
Thế rồi công việc bỏ quên
Chỉ còn có biết ngắm em thôi mà
Về sau khắp bến giang hà
Nơi nào cũng thấy ngọc ngà đèo truông 
Phải nói, bài Bao Giờ hay, có chất Apollinaire, một nhà thơ người Pháp, Giáng trân trọng. Bài Một Đời trung trung, được câu chót, bất ngờ, nâng cấp bài thơ lên một tầng siêu hình. Bài chót, Gió, mới đọc thì thường, quá thường, loại thơ kể chuyện. Nhưng không hiểu sao nó ám ảnh. Em Mọi man sơ nay thay những kiều nữ môi son má phấn Kim Cương, Malyn MốngLồ, Bizít Bàđô? Sao thế nhỉ? Thơ lại thơi thới, hân hoan, giản dị, thực thà, ngộ nghĩnh và trẻ thơ. Nhất là vào những phút cuối đời! Sao trẻ thơ được thế nhỉ?
Sống như thơ thì mới làm thơ được!
Nhưng sống thế nào là sống như thơ, anh Giáng? Khà khà, là sống, thế thôi. Sống như anh là lang thang phiêu bạt, không cứ sơ để cứ bàng hoàng nỗi niềm cố quận. Chẳng danh chẳng lợi, ôi chuyện phù hoa. Không quá khứ không vị lai, tại thể phải ngay đây, chốn này, tức thì, quyết liệt từng giây từng phút tồn lưu. Chân thành với cả hư vô và hữu thể, tránh màu mè uốn éo giả dạng này kia. Thôi ảo vọng, nhận mặt cuộc phù sinh như bạn đời chăn gối, và gối chăn là sao trời là huyễn mộng ta gắn cho cô em cái tên để thành hiện thực mầu nhiệm lung linh...

Thế thôi sao? Quay hỏi tiểu đồng, sao mặt mũi ổng thâm tím thế? Tiểu đồng đáp, ổng zô hẻm, lộn đầu trồng cây chuối chổng đít lên trời đi bằng tay, bên trên hẻm có căng biểu ngữ nền đỏ chữ vàng, kẻ “Không có gì quý bằng độc lập tự do...”. Công an kêu, ổng tỉnh bơ. Nó chặn nó uýnh, uýnh xong ổng lại lộn đầu chổng đít đi ra. Nó biểu, chống chính quyền hả. Ông cười. Lại bị uýnh, lần này lết không nổi. Người bầm dập, mang về bóp thuốc, chưa khỏi thời ổng lại tới con hẻm, bắt đền, đòi quyền sống. Sống thế, cũng là sống như thơ à? Tức phải trung thực. Phải tự do, tự do tuyệt đối, bất kể bất cứ quyền lực nào vây bủa o ép, sẵn sàng sống chết đổi lấy một thứ giá trị người đời cho là trừu tượng viển vông...
Có phải có thế thì mới sống với và bằng những con chữ mà không mang thân phận mang kẻ bất lực chăn chiếu đang gượng leo lên giường rồi quay mặt không dám nhìn bà sồn sồn quyền thế nằm ngửa dạng chân? Khi Tố Hữu leo đến tuyệt đỉnh quyền lực, anh em văn nghệ kể, Bùi Giáng đến trước số 160 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, giữa trưa réo, ông Lành ơi, ông làm chi mà chúng nó đày đọa văn chương thế này? Nghe Giáng gào thét, ai nấy im lặng. Người đứng, đứng yên. Người ngồi, ngồi yên. Nhột và ngột. Giả tảng không hiểu, nhưng chẳng ai dám nhìn vào mặt ai. Chẳng ai xuống mở cổng mời ông vào, rót cho ông chén nước, mặc để ông cứ gào, ông gào như thế chóng chầy chắc sẽ rách toạc cuống cổ.
Một buổi tối năm 88, Trịnh Công Sơn đưa tôi đến chỗ cõi tạm Bùi Giáng, trong một khu vườn nhà cháu ông, một người tôi cũng quen biết. Chúng tôi mới mon men vào, đèn bỗng tắt ngúm. Sơn khe khẽ gọi, anh Giáng ơi, Sơn đây. Đèn lại bật. Sơn hả? Bùi Giáng đẩy cửa, tươm tất, sạch sẽ, thậm chí đỏm dáng, áo quần râu tóc trắng tinh. Chiếc màn buông quanh chiếu, cũng trắng, và thoang thoảng trong không gian là mùi hương mới đốt. Bùi Giáng không điên như người đời tưởng. Anh điên cách của anh, có chọn lựa và rất ý thức. Anh dịch lời Pascal, người ta vốn điên, điên một cách thiết yếu đến nỗi không điên cũng là điên theo một lối khác. Và nói cho cùng, Nietzsche điên, Heidegger điên, Holderlin điên... Trang điên, Lão điên, Thích Ca cũng diên... Thì anh, kẻ nòi tình đến sau, muốn về nơi họ chắc không điên chẳng được. Và khi anh tỉnh, rất uyên bác với một trí nhớ kinh điển khủng khiếp, thì ai mới là những người điên nhỉ? Năm đó, lần cuối tôi gặp anh là dịp ta cùng gặp Trần Dần. Cũng lần cuối.
Trở về chuyện Bùi Giáng, huyền thoại sống. Thiên hạ bốn phương cần huyền thoại vì phải chăng sống như thơ là một nhu cầu hằng tưởng nhưng bất khả đạt? Vì trung thực là một tất yếu của cuộc tồn sinh? Tự do, sự sống còn của tồn thể? Và nghịch ngợm, hóm hỉnh, hân hoan là cái hạnh phúc tồn hoạt. Nhưng những cái tồn (nọ, kia) theo chữ Bùi Giáng, ít người biết anh định nói chi. Ngược lại, người người biết anh sống cái gì và sống ra sao. Và có thế anh mới thành huyền thoại. Với bài thơ Gió và cô em Mọi, anh hoàn nguyên chất trẻ thơ. Anh thật may: trung niên thi sĩ gầm gừ tác phong mãnh hổ đã hoá thân ra đứa trẻ lúc cuối đời là giấc mơ của Nietzsche. Hình ảnh Bùi Giáng áo quần chằng đụp đủ mầu như một lão đạo sư nghễu nghện trên đỉnh ảo một đời thơ không là huyền thoại.
Anh thực sự có đó khi xưa, và vẫn đây trong tâm tưởng tôi bây giờ, với nụ cười móm mém hiền hòa, ánh mắt tinh quái nhưng dịu dàng. Câu anh thốt, sống như thơ thì mới làm thơ được, vẫn đâu đó theo tôi đằng đẵng một thời.
Cứ nhớ bạn, lại mất ngủ. Nhớ anh, lại nhớ Sơn và căn vườn treo phố Duy Tân. Nhớ ánh nắng xế trưa hoe vàng đậu trên những tàn lá cây me dưới cái màu xanh ngăn ngắt của trời cao độ lượng. Bây giờ, đêm ở đây. Tôi lục lại dăm tấm ảnh, mấy bức thư còn ấp chút hương xưa một thời quá vãng. Một mảnh giấy nhỏ xíu mầu vàng rơi xuống. Không phải lá muà thu, dẫu ngoài kia, trời đã lạnh và rừng phong cạnh nhà đang chuyển sang màu đỏ.
Mảnh giấy đèo bồng hai hàng chữ nguệch ngoạc:
Người đâu gặp Búi Giáng Bùi
Hỏi thiên thu, gió, buồn vui những gì?
Chữ anh hay chữ Sơn. Chắc chắn không phải chữ tôi, xấu chứ không được đẹp như vậy. Thơ anh hay thơ Sơn. Hay thơ tôi. Không nhớ được. Hề chi, hề chi. Có hề chi vàng những rong rêu...Không- anh không- Sơn không- tôi thì là chúng ta vậy.
Xin chào, anh Bùi Giáng. Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau. Rồi sẽ một ngày tái ngộ, hẳn thế. Với anh, với bạn bè và những kẻ nòi tình.
5. Trịnh Công Sơn như cánh vạc bay
Chương 5. Lỡ làng, nước đục bụi trong  (mất trang 77 đến trang 84)
6. (Mất 4 trang) 
Này, biển sống đừng xô ta. “ Ta xô biển lại sóng về đâu’’ Có phải về hư vô. Không chắc. Nhưng mà đau, bởi cái bám víu vào như mảnh ván mỏng bập bềnh giữa vô bờ sương khói.
Tôi ơi hỡi, tôi ơi! Bạn đâu rồi?
Có phải bạn vẫn đấy, nhìn vào vạt nắng mái tường bên, ngậm ngùi “... bây giờ mình chỉ viết về nắng...’’ Nghe tâm sự, khung rêu tươi lên vàng óng một nụ cười thơ. Có phải bạn nhẹ nhàng “ hạnh phúc là lúc chờ, êm ắng như buổi trưa, lặng đi rửa mình để rước vào phần hồn những nụ hôn của cuộc đời sửa soạn bước chân vào lễ hội". Nghe tâm sự, văng vẳng đâu đây tiếng chuông nhà thờ bay từ đầu dốc Phú Cam xuống bến Ngự, mang theo tiếng thì thầm của những thiên thần cứ còn quyến luyến chốn trần ai.
Đừng, đừng tuyệt vọng! Vạt nắng vẫn đó. Khung rêu vẫn óng ả. Và tiếng chuông nhà thờ sẽ còn ngân nga ít ra là vài trăm năm nữa.
7
22H55.
Thỉnh quân thí vấn đông lưu thủy
 Biệt ý dữ chi thùy đoạn trường

Này, thêm một bôi. Hỏi bạn về đâu dòng nước chảy. Xứ của Thái Bạch? Lý quân đang khề khà, quay nhắn, ngắn dài này nỗi biệt ly ơi!
8
8h40 ngày 02-04-2001
Chịu. Giấc ngủ đêm qua chập chờ. Thức dậy, thấy hững đi. Tự nhủ, mơ, phải mơ. Những giấc mơ mắt mở khó dần với tháng năm. Thôi thì nhắm lại.
16h40
Nhớ những buổi “ngồi đồng” với Sơn. Mỗi người một góc, loay hoay với mình. Hứng thì ngưng, đọc cho nhau một đôi câu:
Nhan sắc, vẽ vời
Lý tưởng, viển vông
Chợt rụng rời giữa có và không
Mày xanh
Mi biếc
Môi hồng
Tỉnh ra sóng đã bềnh bồng cuộn trôi
Tôi ơi hỡi,
tôi ơi! 
Sơn kêu, tôi ơi là “tới’’ Ta thì muôn đời“ ‘‘đáng ghét’’. Rồi thì có “tôi ơi đừng tuyệt vọng!’’ Sơn lại dụ, moi dạy toa viết nhạc, đánh đàn. Có thế mới chở thơ đi được. Tôi chịu (lần này không phải tội chịu).
Dịch xong hai trăm bài thơ Đường, tôi có dịp bảo “thơ Sơn có những hình ảnh Đường thi không có...’’ Bạn vui mồm hỏi, thí dụ đi. Này nhé “Tóc em, từng sợi nhỏ. Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh’’.  Rồi, “Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô dạt trời chiều’’. Còn nữa, muốn biết không? Thôi. Uống. Chuyện xong rồi, uống đã. Con chữ đã ở đấy. Nó là cỏ mong manh, lá mong manh, sống mong manh, tay gối mong manh, chết mong manh, tình mong manh. Nó là đời bềnh bồng, môi rồ dại, là một vòng tiều tụy, là phố xá thênh thang, là hạ trắng, nắng thủy tinh. Là nhiêu đêm thấy ta là thác đổ. Là phôi pha.
Sơn ngậm ngùi, moa qua Canada kiếm một chỗ vắng người, ngồi viết về cuộc đời chính mình, nghệ thuật của mình. Sẽ có những chương sách chỉ một dòng chữ. Thậm chí, những chương sách bỏ cho giấy trắng tinh thì mới truyền đạt được ý thật của mình... Lần cuối gặp nhau, tôi hỏi, viết chưa? Anh lắc đầu. Tôi gặng, bao giờ? Sơn mím môi không đáp. Tôi nghĩ anh chưa viết. Bởi vì, ôi hệ lụy của tài danh, nó cướp của anh những phút anh cần chỉ có một mình anh. Đêm tân niên 1999, khi những người kiều nữ môi hồng má đỏ đã thôi í a hát ca khúc Trịnh Công Sơn, khi những nhà tư sản mới vừa kiếm ra tiền đang co tay quệt miệng sau lúc cạn ly XO và chúc anh vạn sự như ý, anh ngồi với tôi, cau có “moa khổ quá! Thôi, thây kệ...’’
Thây kệ, thây kệ.
Phải chăng bạn tôi đang kiệt sức trong vòng vây bủa phù hoa. Anh biết nó quá rõ, đã từng viết “ Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá".
9
18h10
Bờ cỏ xuyên tuyết nhú ra mầm xanh báo Xuân đang về, chậm nhưng chắc, và không thể khác đi được. Mở điện thư, từ khắp nơi bạn bè anh báo cái tin anh đã khép lại những hẹn hò. Mai mốt, anh sẽ lên Gò Dừa nằm cạnh mạ anh, như đứa con ngoan quay về ngủ yên trong vòng tay mẹ.
Sơn ơi, hãy yên nghỉ. Thực sự yên nghỉ, sống thế là trọn vẹn với mình với người lắm rồi. Thây kệ, những kẻ còn lại nếu chỉ thấy có thiếu vắng khi bạn ra đi thì thây kệ. Họ chẳng muốn hiểu vì.... ‘‘không ai muốn làm một tên tuyệt vọng. Nhưng tôi (Sơn) nguyện làm tên tuyệt vọng. Bởi nhiều sớm mai khi tôi thức dậy không thấy được hoa quả khai sinh trong trái tim người... Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường. Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là người bạn. Đôi khi tôi là người tình. Chúng tôi cùng vẽ lại chân dung của nhân loại. Vẽ lại con tim khối óc. Trên những trang giấy tinh khôi chúng tôi không bao giờ thấy bóng dáng những đường kiếm mưu đồ, những vết dao khắc nghiệt. Chúng tôi vẽ lại những đất đai, trên một đời sống không còn bạo lực...’’
Sơn viết thêm.. ‘‘Tin vào niềm tuyệt vọng có nghĩa là tin vào chính mình. Tin vào cuộc đời vốn không thể khác. Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng.
Tôi đã đến với Sơn lần cuối như một tên nòi tình tuyệt vọng đi tìm một kẻ tuyệt vọng khác. Thời gian đó, tôi đang thai nghén vở kịch Treo đầu dây Quan Họ, lời hạ màn viết dành cho Sơn. Cuối cùng, rồi một lúc cũng sẽ phải hạ màn, cho rằng hài hay bi kịch.
Anh ghi dăm chữ, có lẽ chẳng phải cho riêng tôi mà là cho tất cả những người bạn anh. Tôi xin phép chép lại, lời cuối gửi đến những tên tuyệt vọng nhưng cứ còn yêu thương cuộc sống:
‘‘May thay trong đời người vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có, nhưng không nhiều.
Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một con hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa.
Cuối cùng, không có gì khác hơn là sống và chết. Sống làm thế nào cho tràn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi hư không. Phải đi đến tận cùng hai cõi sống chết để làm tan biến tất cả những giấc mộng đời không thực’’.
 Cám ơn Sơn, bạn quý. Ngày mai này bạn lên đường vào cõi thênh thang không hẹn hò trói buộc. Ơ kìa, cỏ sáng mới nhú ra khỏi tuyết đã xanh mơn mởn. Còn cây táo bạn trồng cách đây mười năm, chỉ ba tuần nữa sẽ cũng đâm hoa. Bạn ơi, may thay, như vốn không thể khác được.
6. Phùng Cung, thơ và người
Kính viếng Phùng Cung và Phùng Hà Phủ
Năm 14 tuổi, tôi đọc Con Ngựa già của Chúa Trịnh. Đọc lén vì bản thảo nằm trong một cái tủ cha tôi khóa kỹ, thỉnh thoảng mở ra rồi thận trọng nhét vào một cái hồ sơ trên có đề chữ mật. Chữ này đầy mãnh lực, hấp dẫn đến đỗi quên ăn quên chơi ngay ở tuổi tôi đang lớn. Tôi đánh được chìa, mở tủ lấy hồ sơ, leo lên trần nhà. Ghé vào những khoảng sáng hắt qua kèo cột, tôi say sưa đọc, mồ hôi nhễ nhại trong cái hừng hực nóng của mùa hè Sài Gòn đổ lửa. Năm sau, cụ Hoàng văn Chí in Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc. Tôi lại đọc lại, lần này đàng hoàng đọc. Nhưng tôi chưa thật hiểu thế nào là ẩn dụ, tuy bụng vẫn quặn thắt đau cái nỗi đau của con ngựa chiến đứt ruột chạy vòng cuối, cái vòng khốn nạn của thứ định mệnh oái oăm.
Lần đầu tôi đọc Phùng Cung khi ông ta vừa 30 tuổi, về Cải Cách Ruộng Đất, ông Võ Nguyên Giáp đã công khai nhận sai xót, và như một hình thức kỷ luật, ông Trường Chinh thôi chức Tổng Bí Thư Đảng Lao Động. Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm đã yên ắng. Tuy thế, người ta vẫn xử lý nội bộ, định tội, bắt đi ‘‘thực tế”, bỏ tù và vô hiệu hóa những người dám đòi lại quyền lãnh đạo văn chương-nghệ thuật về tay chính những kẻ làm văn chương-nghệ thuật mà không chịu uốn cong ngòi bút phục vụ những tiêu chí thuần chính trị, những khẩu hiệu vô hồn, những ý đồ được khôn khéo che đậy bằng thứ ngôn từ uốn éo như rắn hổ mang chui ra từ những chiếc lồng khi nghe tiếng kèn phù thủy. Năm sau, tình hình miền Nam sôi sục. Những người tập kết xốn xang tung hô khẩu hiệu giải phóng miền Nam, bộ xe-pháo Duẩn-Thọ phất cờ, trong khi mâu thuẫn giữa Trung Quốc mao-ít và Liên Xô xét-lại đã hóa ra công khai. Với miền Nam, giải phóng thế nào đây? Chiến tranh cách mạng kiểu Bắc Kinh hay vận động chính trị trong bối cảnh chung sống hòa bình Mốt-cơ-va? Đột nhiên, cái gọi là “xét lại chống Đảng” được xì xào như một mối nguy cơ, và nhân đấy đám thân Tàu tiếp tục cuộc “chỉnh đốn tổ chức” đã phải bỏ lưng chừng trong đợt sửa sai Cải Cách Ruộng Đất. Những mối thâm thù lại có cơ tác quái, và mọi thứ bạo lực từ những động cơ ngu muội tô hồng bằng bạo lực Cách Mạng được xử dụng nhằm thanh trừng nội bộ, xoán chiếm quyền lực mông muội. Tiểu tư sản-trí thức thành thị- cái anh tạch tạch sè- thình lình thành đối tượng đấu tranh của giai cấp nông dân (được nâng cấp thành liên minh công-nông). Vào năm 1961, người ta bắt Phùng Cung khi chị Thoa-vợ anh- có 2 đứa con còn cắp nách.
Tại sao?
Hơn bốn mươi năm sau khi đọc Con Ngựa già của Chúa Trịnh, đầu tôi vẫn cứ một câu tại sao? Phùng Cung xưa phụ trách nhà in, không ‘‘chính trị” như Nguyễn Hữu Đang, uy tín như Phan Khôi, và cũng không là chiến tướng như những Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán...Trừ Đang và Thụy An, tất cả đều đi thực tế, một cách cải tạo không phải là gay gắt nhất. Sau thực tế thì về Hà Nội nhưng bị treo bút, cô lập. Khổ nhất là bị cô lập, không ai dám ‘‘dây với hủi”, kể cả những người trong gia đình!

Năm 1999, tôi có dịp hỏi một nhân chứng ruột thịt của Phùng Cung. Con anh, là Phùng hà Phủ, đến thăm tôi vào dịp Giáng Sinh. Phủ kể, ‘‘...thời Cải Cách Ruộng Đất, ông nội cháu lo vì có thể bị qui là địa chủ cường hào, và quả là sau ông bị đấu tố rồi đưa lên giam trên Thái Nguyên. Bố cháu lên thăm, nhưng đến nơi thì mộ ông cháu mới đắp, trên chỉ có một ngọn sắn lá đã héo để đánh dấu, đất còn ướt...”. Phủ châm thuốc lá, rít một hơi, thở dài  ‘‘thế mà trước đó bố cháu cứ tin rằng có một bày con đi kháng chiến thì sẽ chẳng đến nỗi nào!”. Nói qua quít để an ủi, tôi bâng quơ ‘‘chắc ông ấy hận lắm...”. Cời thanh củi cho cháy bùng lên trong lò sưởi, Phủ khe khẽ lắc đầu. Lát sau, Phủ trầm ngầm ‘‘Bố cháu hận thì không, nhưng buồn thì có. Buồn đến độ bố cháu chẳng còn muốn gặp ai... Sau, bố cháu kể, oan thì có oan, sai thì có sai, nhưng thời đó chuyện ấy đầy rẫy, cải cách rồi sửa sai...”. Nghe Phủ thì thào, tôi thốt nhiên chột dạ. Tôi nhớ đến lời những lãnh tụ nhắn nhủ, cứ vừa làm vừa học, rút kinh nghiệm, hễ thấy sai thì sửa. Trời ơi, nhưng sai mà gây ra án mạng, cướp sống những cuộc đời vùi vào ba tấc đất oan khiên mất rồi thì sửa làm sao? Nhưng sai mà phá tan nát cái cấu trúc cơ bản làng xã, kích thích lòng tham lam và hận thù khiến nhân nghĩa lộn lạo, thì sửa làm sao?
Sửa thế nào được khi những con rắn giáo ba đầu sáu tay lẩn vào ước mơ và dùng ngôn từ để ngóc đầu nhe răng phun nọc! 
Phùng Cung chỉ buồn? Anh tiếp tục công tác trong cơ quan hội Văn Nghệ. Đến khi Nhân Văn ra đời, anh đợi đến số 4, tháng 10, năm 1956 mới đưa in Con Ngựa già của Chúa Trịnh. ‘‘Thế thì 5 năm sau, tức vào năm 1961, người ta lại bắt bố cháu đi tù? Và tù liền 12 năm? Tại sao?”
Phủ không trả lời, chỉ thở dài. Nhưng sao tôi nghe đâu đây như có tiếng ngựa hí? Không, ở xứ này giờ đây là mùa Đông, ngoài trời lạnh -20 độ C, nước chỉ dăm phút là đóng đá. Gió rít lên, lửa trong lò sưởi chập chờn, tuyết bay bám vào cửa kính vẽ mơ hồ những đoá hoa trước lúc hóa băng.
Tại sao?
Lại tiếng ngựa, nó hí, vó đạp lộp cộp xuống mặt đất co cứng. Con Kim Bông chăng? Chắc nó đang “cao đầu phóng vĩ”, cái thế con Thiên lý mã lệnh xông xáo trận mạc ven sông Gianh. Mà nào đâu sông Gianh, nay hòa bình lập lại rồi. Đây là Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Như vậy thì Kim Bông đang hàm ân thánh đế, ở mã đài, để bọn mã phu dăm bảy đứa chải bờm tỉa lông. Rồi một ngày:
"...khi mã phu buông tay; lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng cái lá đa che ngang hai bên mắt, khiến nó có thể nhìn thẳng phía trước mà thôi. Rồi mã phu đẩy nó lùi lại, đứng vào giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng, ủa lạ quá chừng, những cái gì mà đẹp thế này? Ta sẽ làm gì đây? Nó rùng mình, thấy hãnh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước. Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái,cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được thì dây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống...Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho Chúa”.
(Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh)
Phủ tiếp, giọng trầm hẳn xuống, Bố cháu ra tù khi hai anh em cháu đâu mười một, mười hai. Một hôm, cả nhà cháu đi bộ trên lề phố Trần Hưng Đạo, khúc gần Bà Triệu, thì có tiếng gọi, Cung ơi, Cung. Mọi người quay lại. Bác Dần đứng lề bên kia vẫy. Bố cháu chưa kịp phản ứng thì mẹ cháu giằng lấy tay, miệng van vỉ, em lạy anh, đi thôi...Em và các con đã khổ lắm rồi...Đi thôi, anh ơi! Ra tù, bố cháu cách ly với bạn bè, chỉ chuyện áo cơm cũng đã khổ sở. Đập đinh, rồi làm bánh. Và khi có việc thì nề, mộc...Thế mà công an họ cứ đến ‘‘làm việc”, khủng bố tinh thần đến độ mẹ cháu bảo thà là ở trong tù còn hơn... 
Tại sao? Hay là...tại
“Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán. Nhưng chẳng bao lâu,những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừa dòn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò Chúa đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lý mã”
(Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh).
Chức vị nào trong Hội? Hội Nhà Văn hay hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật? Ông Nguyễn đình Thi? Hay là ông Tố Hữu? Hay cả hai. Hoặc lại ông Tô Hoài, con dế mèn phiêu lưu nó phình to hơn chính người ông, như Phùng Cung từng nhắc lại sau này trong một truyện ngắn? Tôi không biết. Và nay, có những người đã nằm xuống. Nghĩa từ là nghĩa tận. Tôi chép bài thơ Bụi sao rơi, rất Phùng Cung, gửi viếng họ:
Đèn bên sông
Hay bụi - sao rơi
Mà hiu hắt cơ hồ muốn tắt
Có phải bóng hình người
Đã khuất
Mộng công hầu chưa đạt
Nay lại lần về mượn cửa
tái sinh. 
Cơn bão tuyết đêm qua đánh tan những đám mây khiến sáng dậy mặt trời nở ra rực rỡ. Dưới ánh nắng tươi vàng, hai chú cháu đi dạo trên những con đường tuyết phủ trinh bạch, chưa một vết chân, chưa có gì thừa thãi, dẫu một lời, dẫu một hơi thở. Chúng tôi bước trong giấc mơ nguyên thủy, khi lời nói còn âm điệu tiếng chim ban sơ. Phủ ngừng chân, buột miệng ‘‘...tiếc là bố cháu chưa gặp chú!’’. Chép miệng, tôi ngần ngừ, duyên phận cả. Phủ kể, bố cháu một hôm nắm tay cháu, cao hứng đọc thơ cho cháu nghe. Bố bảo họ Phùng nhà ta chẳng có gì, chỉ có cái này, tay đưa cháu một tập bản thảo, toàn chữ là chữ. Cháu còn ngơ ngác thì bố cháu đập tay lên vai cười, “...có cái này là có đóng góp cho đời... Con phải biết hãnh diện!’’
Tôi nói, Phủ nhớ, đọc một bài đi. Phủ rưng rưng:
...mồ hôi Mẹ
Tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt
 Con níu giọt mồ hôi
 Đứng dậy làm người
Tôi lặng đi, lần đầu nhớ một người chưa gặp. Lát sau, nhìn Phủ, máu mủ của cái con người ấy, tôi thành thực “...Chú gặp bố cháu rồi đấy. Gặp ở cái thế Đứng. Đứng dậy làm người”. Vừa dứt lời, tôi ứa nước mắt. Vâng, dẫu nước mắt là cái chẳng một ai dám tưởng mình có thừa! 
Vào đầu thập niên 80 tôi có hỏi nhưng không một ai biết gì ngoài Con Ngựa già của Chúa Trịnh. Như vậy, chẳng phải những Truyện Ngắn viết từ 56 đến 59 nhưng không phổ biến đã là cái đẩy Phùng Cung vào cảnh tù tội. Thế thì Tại sao? Nói đến chức vị thôi, làm sao có thể gây thâm thù đến độ đày đọa nhau đến thế? Bỗng đâu tiếng chân ngựa lại chậm rãi lộp cộp. Có phải vẫn Kim Bông, con ngựa Mã lệnh mang danh Thiên lý nay kéo xe...
‘‘...Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ao ước thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi  ‘‘Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!” Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại đứng tự hỏi: ‘‘Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ quả đồi lại nhỏ bằng con đường ta đi là nghĩa làm sao?’’ Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một đường thẳng, Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu lại, và một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt cho nó nhìn được một chiều,”
(Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh).
Anh Cung, chịu anh! Quả đồi cũng thẳng, mầu trời xanh cũng thẳng nốt, và tất cả đều nhỏ bé lại bằng con đường ta đi. Anh nói thế là chạm nọc rồi, và lại nói gần năm mươi năm trước như một lời tiên tri, ở thời điểm có kẻ lu loa rất ‘‘khoa học” là có sức người sỏi đá cũng thành cơm!
Ôi cái thân trâu ngựa! Kim Bông hỡi Kim Bông! Con ngựa chiến đi kéo xe, “trước hơi thơ cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như cố để giữ lấy cái thế  ‘‘cao đầu phóng vĩ’’
(Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh).
Cái thế đó còn gọi là cái thế có kẻ ao ước làm một tên hát rong, un chantre mà Tố Hữu kể cho Phùng Quán nghe vào lúc thất thế cuối đời. Chantre, là kiểu Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn. Và đến nay tôi vẫn chưa hình dung ra nổi sự tương đồng giữa Sơn và nguyên Ủy viên Bộ Chính Trị ĐCSVN Tố Hữu. Ô hay, tôi ơi, đừng tuyệt vọng!
Đến giữa những năm 90 người ta mới biết có Xem Đêm, và câu chuyện cảm động: Nguyễn Hữu Đang mang hết tiền dành dụm chắt bóp cùng Phùng Quán tìm cách in thơ Phùng Cung. Phủ nói, cháu có tâm nguyện in cho bố cháu một tuyển tập. Dẫu có đọc, nhưng đọc chút ít, tôi khuyên, thơ không cần nhiều, nhưng phải hay. Một đời thơ chỉ 5, 10 bài là đủ. Phải đến khi Phủ chuyển cho tôi, tôi mới biết dòng thơ Phùng Cung có cái chất long lanh của những hạt sương đậu trên cánh lá non xanh một sáng tinh mơ của vạn vật. Mời nhau cùng nghe:
Lá súng lát mặt ao
đốm ngọc
Con sộp phàm vồ hão
Bóng hoa lay
Lá tre rụng
Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch
Tiếng cuốc bèo da diết
Gọi Ngày Mai
Đố con sộp là con gì? Tôi mở Từ Điển Tiếng Việt do Trung Tâm Ngôn Ngữ ở Hà Nội in năm 1992, nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng có viết tay trân trọng giới thiệu, là quyển từ điển đầu tiên ở nước ta do một tập thể cán bộ ngôn ngữ học biên soạn trên cơ sở tư liệu tương đối đầy đủ. Tra xem sao:
Sộp t (kng.) Sang, tỏ ra nhiều tiền và hào phóng. Khách sộp, Vớ được món sộp.
Thế thì con sộp là cái quái gì? Từ điển im như hến. Vậy xin mách, sộp, danh từ, là một loại cá sống trong ao. Còn phàm. Dễ thôi. Con Mực phàm ăn vồ hão cục xương. Nhà thơ phàm danh vồ hão những con chữ trống trơn. Thế mà sao Nhà Nước ta không mời Phùng Cung vào làm Từ Điển nhỉ?
Nhưng thôi, cho tôi quay về với thơ, không chơi trò chiết tự nữa. Đầu tiên, phải nể cái kho chữ Phùng Cung. Chữ thôn dã, nhưng anh nâng lên thành một vẻ đẹp hồn nhiên, chẳng khác cái duyên thầm không tô son điểm phấn, mà sao nét cười quanh vành nón cứ vấn víu lòng ai. Xin kể: Đêm về khuya. Trăng ngà màu thiên lý. Tiếng gọi đò. Căng chỉ sang sông. Hay là Gió bạc cánh. Chưa hết vòng kim cổ. Làng cách làng. Từng quãng - phong dao. Hoặc Chó sủa làng xa. Sủa hơn xóc ốc. Sáo diều ai hóc - gió ven sông. Quay lại câu trúc thơ, dẫu câu có cắt ra 3 hay 4 chữ, ta vẫn dễ dàng nhận ra gốc gác Đường thi. Nhưng trong thơ Phùng Cung, ngôn ngữ và hình ảnh thuần ca dao, nâng cái đẹp chân quê lên mức hết sức trang trọng với mặt ao đốm ngọc, hoàng hôn đỏ gạch. Và không chỉ có cái đẹp hình thức, nhà thơ đột nhiên để tiếng cuốc bèo da diết gọi Ngày Mai nói thay cho lòng mình, tức là chuyển đi cái nội dung mà thơ hay văn, bất kể hình thức nào, cũng cần có để sống còn với thời gian.
Anh Cung, tiếng cuốc trong thơ anh chắc cũng đau đáu cái nỗi đau con quốc quốc của Bà Huyện Thanh Quan. Nhưng chỗ tụ lửa trong tâm hồn anh, tôi đồ, vẫn là Ngày Mai anh viết hoa. Và anh vẫy gọi. Da diết gọi.
Nhưng Ngày Mai ở đâu? Và bao giờ, hở anh? 
Lần cuối về Hà Nội, tôi đến thăm anh Hoàng Cầm và báo tin Phùng hà Phủ đã qua đời. Phủ đi làm về, ghé quán bia với bạn, bỗng ngật người đi hôn mê, đưa vào cấp cứu nhưng không qua được bàn tay tử thần. Rủ nhau xuống chia buồn với chị Thoa, nhưng mấy ngày sau anh Cầm lại bị ngã gẫy xương chậu, nằm bẹp. Thế là chịu. Thôi thì cứ ngày ngày đến chia sẻ với anh Cầm, mong anh có được chút niềm vui trong những ngày nằm bệnh. Chuyện trò, anh lại kể. Con người Phùng Cung là một con người của những thái cực. Xưa, Trần Dần nhận biết anh ấy là loại tử vì đạo, im lặng thì có nhưng đầu hàng thì không. Một vai, anh ấy âm thầm gánh cái nặng của anh em, giọng ‘‘kiểm thảo” vẫn cứ ngoan cố lửng lơ, đúng là theo kiểu cao đầu phóng vĩ của một con ngựa chiến không chịu thành gia súc cho nhà Chúa. Khi anh ấy bị đưa đi quản thúc trên Bất Bạt, chị Thoa lên thăm nuôi, nhưng anh ấy nhất định không nhận chị Thoa là vợ, không cho nhìn mặt, trả lại tiếp tế và khăng khăng một mực là mình không còn liên hệ gì với thế giới bên ngoài. Lần đầu, chị khóc sướt mướt. Đành về, rồi ít lâu sau chị lại lên. Anh Cung vẫn thế. Quản giáo vặn, lý lịch anh khai là đã kết hôn, thế là khai man. Anh đáp, thời ấy Đảng không đồng ý cho tôi lấy vì cô ấy thuộc giai cấp phong kiến, mà tôi thì mê mẩn, mất lập trường giai cấp. Nay tôi tỉnh ngộ, nhận có chung sống ngày trước, nhưng từ bây giờ tôi xin chấp hành...Thế thì anh lợi dụng hủ hóa, thêm một tội, quản giáo gằn giọng. Ừ thì thêm một tội. Thêm một chứ mười tôi cũng chịu...Chị Thoa lại về, để tiếp tế lại chia chác cho anh em tù. Và chị cứ lên. Anh tiếp tục ruồng rẫy. Ba lần, bốn lần...
Tôi thở dài, có lẽ là anh Cung mong chị quên anh ấy đi, chứ đã mang cái án miệng là phản động, là chống Đảng, bôi bác lãnh đạo như anh ấy thì biết ngày nào ra! Vả lại, chị Thoa khi ấy còn trẻ... Anh Cầm chép miệng, chắc vậy! Nhưng chị Thoa vẫn cứ đều đặn lên thăm nuôi, cho đến một ngày, hơn hai năm sau, hai vợ chồng mới lại nhìn lại nhau... Và chị Thoa sống cảnh chia ly như vậy suốt 12 năm đằng đẵng!
Tại sao? Tôi muốn hỏi lại, một lần cuối, tại sao?
Đọc Xem Đêm, tôi nói với anh Cầm, tôi chưa hề thấy Phùng Cung mang thù hận vào thơ. Anh buồn và xót xa. Nhưng anh vẫn nhân hậu. Anh vẫn trong trẻo. Thậm chí độ lượng. Anh Cầm giơ tay xoa mặt, mắt đờ đẫn nhìn vào khoảng không choãi về phía nơi quá khứ còn nương náu. Tại sao ư? Đó là câu chuyện của những con ngựa cung đình. Chúng không thể để dăm con ngựa chiến tồn tại để phủ nhận chính chúng. Còn Vua Chúa, thói thường là họ yên tâm với những con ngựa đã thuần, leo lên lưng, ra roi, nắm bờm và chờ tiếng hí đã rập khuôn rắp mẫu. Nhưng có hoạn nạn, anh Cầm cao giọng, thì Cung nó mới có thơ hay như vậy! Anh cười, thế là bội thu đấy. Anh tiếp tục cười, nhưng tôi nghe có gì như tiếng nấc ừng ực... 
Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, thực lòng tôi chưa bao giờ quan tâm đến cái thuyết Tài Mệnh tương đố, bảo Cung có tài nên trời xanh ghen với má hồng đánh ghen. Tôi cho rằng Phùng Cung trả giá chẳng phải vì anh thâm thù chuyện cha anh bị đấu tố mà hóa ra ‘‘chống phá Cách Mạng”. Tôi tin Phùng Cung trả giá chỉ vì anh níu giọt mồ hôi Mẹ, đứng dậy Làm Người. Và ở cái tư thế làm người, anh không muốn nhìn một chiều kiểu con ngựa cung đình có hai chiếc lá chắn che mắt, chỉ thấy con đường ta đi nhỏ bé trước mặt, thẳng tắp cho đến độ màu xanh da trời cũng thẳng. Vì thế, anh không đành tâm để Vua Chúa cưỡi lên lưng khiến anh làm con ngựa tôi đòi. Anh chẳng thể cuống cuồng nhai danh vọng trộn với thóc và mật ngọt trước khi chạy những vòng đua nịnh hót. Và anh lại chẳng như Hữu Loan xuôi ra Thanh Hóa, như Nguyên Hồng bỏ lên Bắc Giang, đi cho khuất mắt những con ngựa cung đình rắp ranh bổng lộc. Anh sờ sờ ở Hà Nội, nơi ngựa cung đình nhởn nhơ nhưng chưa an tâm. Đợi dịp, chúng xúm lại, hóa thân thành giống biết sủa biết cắn và biết đẩy anh vào cái thân phận tội đồ.
Trong tù, anh chỉ còn thơ. Và trăng.
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh
Sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ.

Ra tù sau 12 năm, giam ở Hỏa Lò, rồi Bất Bạt, Yên Bình, Phong Quang, anh còn gia đình. Và bè bạn. Và nhất là anh có một Di cảo Thơ-Văn anh đã dặn dò Phủ “... Có cái này là có đóng góp cho đời... Con phải biết hãnh diện!”.
Không phải chi có Phủ hãnh diện, những ai theo gót anh cũng hãnh diện, anh Cung ạ! Cuốn sách Phùng Cung 11 Truyện Ngắn, Tập thơ Trăng Ngục, Thơ Xem Đêm được in và phát hành ở hải ngoại chẳng phải là cách tưởng niệm anh, một nhà văn ở cái nghĩa đúng nhất, hay sao.
7/3/2005
Nam Dao
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...