Thứ Ba, 1 tháng 2, 2022

Những con người - Những bóng ma 2

Những con người
Những bóng ma 2

7. Một vị thuốc đắng, một vị thơ...
1. Thế đấy. Anh chép miệng cười. Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt. Anh bảo: “...nó vận vào người ’’lại rót rượu.
Đó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm. “Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đã cả năm rồi, anh lại cười, tay với điếu cày. Tiếng nước reo sòng sọc. Mùi thuốc lào hăng hắc xông lên. Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim. Tôi ngắm anh. Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào hoa.
Anh quả là một người hào hoa.
Chị đi đâu về. Tôi đứng dậy. Chị bảo “...à, chú đấy à!”. Rồi chị ra ngồi, tay rót nước. Tôi nhìn chị. Chị quả là một người đàn bà đẹp. So với người Hà Nội những năm đó, chị đỏm dáng. Có lẽ chị biết là mình đẹp.
Tôi đưa ly rượu lên môi, bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đã hẹn tôi rồi không đến một năm xưa. Tôi nhìn anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này. Tai tôi lại văng vẳng tiếng cười ròn rã của họa sĩ Hoàng lập Ngôn ‘‘… muốn thì đi với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có!” Ngồi trên chiếc ghế đẩu chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ. Anh ngâm một cách ngâm lạ lùng. Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ. Như hát chầu văn. Như rủ người nghe nhập đồng.
Quái lạ. Lời thơ lại vượt khỏi tầm trí tuệ. Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần thánh. Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở lớp thứ tám. Vâng, hiểu thì chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn. Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm. Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa. Nó thành những tác động tâm - sinh lý. Nhịp tim không còn đều đặn đẩy máu đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể bình thường. Nhịp thở không còn đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ gì. Còn lớp tám? Tôi phải nói thế nào? Tôi biết như kẻ có lòng tin vào Thượng Đế, nhưng làm sao nói đây?
Tôi lẩm nhẩm ‘‘… Ta soi. Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú. Ngủ say rồi đôi cá đòng đong”. Ở tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy lùi lại những vì sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt. Cúi xuống, cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi mình trong lạch nước, và an bình thay, đôi cá đòng đong còn nhỏ bé hơn nữa đã ngủ say rồi. Từ vô cùng lớn, chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ. Ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác đạp lùi tinh tú. Hình ảnh đó còn bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá lên cao. Hòn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do, lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lý kiếp người của Camus. Lăn đá là hình phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe - kẻ được bàn dân coi như một vì vua mong xây dựng một vương quốc có văn minh - nhận diện và tố cáo. Văn minh nằm ép dưới quyền lực. Còn luân lý, luân lý đã nhiều lần chùn bước trước sức mạnh trong lịch sử nhân loại.
Hình ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đòng dong ngủ say. Con người cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội quay về tìm an nhiên bằng giấc ngủ của đòng đong. May thay, đòng đong vẫn có đôi. Đó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải chăng Đông khác Tây là vậy? Nhưng thế thì sao “nó vận vào người” được nhỉ?
2. Buổi sáng hôm ấy lành lạnh gió. Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy tấm ảnh cũ ra nhìn. Ảnh có cụ Sìn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người đã khuất. Có anh. Có Duy. Có tôi. Những người vẫn còn. Có chị Băng, dĩ nhiên. Còn có T và L, hai cô gái nuôi của cụ Sìn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi. T kéo violon cho dàn nhạc giao hưởng. Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm. Còn L, cô dạy học ở Hải Phòng, nhưng nay đã lưu lạc đâu đâu bên Hòa Lan rồi. Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột xích. Chúng tôi đi đọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm. Tôi bảo “Chẳng biết các ông ấy gặp nhau thì thế nào nhỉ?”. Khi mời anh, Duy chỉ nói “...anh lên xem bức tranh cụ Sìn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô!”. Khi mời Văn Cao, tôi chỉ nói “...cụ Sìn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh thì thôi không đình đám nữa. Cụ yếu lắm rồi...”. Chúng tôi đều biết là từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp nhau nữa. Lý do? Tôi kêu lên “...miễn bàn!”. Cả nước hòa hợp hòa giải. Văn hóa thì thế. Một dúm tác phẩm. Dăm ba ông đứng đầu, ông nọ tránh không nhìn mặt ông kia. Con cháu sau này trông vào thì sẽ nghĩ gì? Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ “Cho tôi đi với!” rồi hồn nhiên tiếp ‘‘...cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi!”
Tôi không hề hỏi đến lúc là đến lúc nào. Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là nên, thế nào là không nên. Bữa ăn nhà cụ Sìn khá vui vẻ. T và L chạy lên chạy xuống. Cụ bà đi vào đi ra. Tôi vui trong bụng, chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ý các anh tránh nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện. Văn Cao thích làm dáng, đôi khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch. Còn anh, anh hồn nhiên. Cụ Sìn mang bức tranh cũ ra. Bức tranh không có khung, vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, đội mũ có đính sao. Cụ Sìn lại khà khà móm mém bảo “...lính Vệ quốc đẹp thế đấy!”. Anh mơ màng “...đẹp và trẻ. Có lẽ đẹp vì trẻ...”, mắt nhìn T và L đang cúi xuống thẹn thùng. Quả thế. Tôi cũng nhìn. Cô giáo ở Hai Phòng đằm thắm hơn. Cô nhìn lại rồi chạy vụt đi. Cô nhạc sĩ vĩ cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại mơ màng chút u uẩn than tro. Cô làm vẻ thản nhiên, nhìn về phía sân, nơi nước ao đã tràn lên mấp mé ven bờ.
Buổi trưa hôm đó qua đi, rất nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông. Cõi nhân duyên chập chờn oái oăm. Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này. Và chia với chúng tôi. Mỗi kẻ một vẻ đời. Làm lính. Làm thơ. Kéo đàn. Dạy học. Đến từ một bờ Đại Dương xa lắc bên kia. Lên từ Cảng, quê hương của người tài tình thõng một câu thơ nhập “ Sinh ra tôi đã có Hải Phòng...” cho bản trường ca Những người trên cửa biển dính dấp đến vụ quyền lực hãm và hiếp văn học vào năm 1956. Đè xuống rồi nằm lên dăm ba tờ báo để che bớt đi cái ê chề có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở phì phò, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời “...có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo gì!”. Chữ đéo không thừa. Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa. Con gái nhà lành thì dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ dẫu còn trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ còn lâu vẫn là một nước có rất nhiều nông nô. Nhưng chuyện đã xưa rồi. Bây giờ khác, người cày có ruộng và công bằng ra thì người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng một xã hội tươi đẹp. Có lẽ chính vì vậy là đã đến lúc các ông ấy nên gặp nhau? Tôi ngây thơ nghĩ thế. Còn anh, hồn nhiên như anh, chắc anh cũng nghĩ thế. Cụ Sìn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đã cao.
Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi. Hẳn vô tình. Giá mà cố ý nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Đêm hôm đó, tôi ngủ lại nhà cụ Sìn với Duy. Hai đưa lau sàn xi măng đã lên dầu mồ hôi sáng bóng rồi mắc màn. T và L cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.
Tiếng ễnh ương bờ ao. Vẫn gió. Gió xào xạc. Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu xanh biếc. Tiếng cụ Sìn ho. Tiếng đập muỗi. Tiếng thở dài nhè nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy. Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ còn là một hòn bi ve óng ánh màu hy vọng một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc tôi. Thú thật, tôi đã là một kẻ có niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn cố gắng tin và còn hy vọng nên mới viết được những giòng chữ này, dẫu rằng đôi khi bóng tối có lúc đã bao trùm cả đời tôi lẫn đời những người tôi yêu.
Hình như ai thò tay sang nắm lấy tay tôi. Tôi để yên, lòng ngậm ngùi, vờ ngủ. Cho đến nay tôi vẫn chưa biết bàn tay đó là tay L hay tay T. Tôi chỉ biết tờ mờ sáng L đã đi ra bến xe về Hải Phòng. Và sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Đại Dương bên kia. Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu: Em đi rón rén trời chưa sáng. Bước động ao bèo bỗng hóa sông.
3. Thuở đó anh biết tôi yêu thơ. Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp. Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng. Là như bị thôi miên. Là buông hết, và thả luôn đời mình vào cái mình yêu, hệt như những kẻ tử vì đạo. Cái đẹp, gộp luôn cả chân - thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, và mặc dầu tôi là người ngoại đạo, thỉnh thoảng lại mập mờ mang hình tượng Đức Chúa đóng đinh trên thánh giá cứu rỗi, sườn loang lổ máu một vết dao đâm ! Vì lòng tham tàn cộng thêm sự ngu muội.
Tôi đến chơi với anh như đến với cái đẹp. Người ta chặc lưỡi “...giao du phải cẩn thận.” Tôi bảo “Nếu phải xin phép thì cho tới một cái danh sách, những ai là người không nên giao du!”. Người ta trừng mắt. Tôi quay lưng đi. Người ta cho là tôi thách thức quyền lực. Tôi thì không. Vì tôi nghĩ, rất ngây thơ, là đã ‘‘đến lúc” vì bây giờ chỉ có ta, và ta phải “cùng nhau” góp tay vào xây lại một mảnh đất đã quá đọa đầy. Đòi hỏi của hai từ ghép “cùng nhau” là phải xóa đi lằn ranh dĩ vãng đã chia nhau ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng. Những mảng băng rời trôi mỗi mảng một hướng. Nước ơi, chỉ có tình của nước mới làm tan những mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia. Người ta lắc đầu nghi ngại. Tôi đến chơi với anh. Với Trần Dần, Lê Đạt. Với Đặng Đình Hưng. Người ta nhăn mặt “Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à?’’ Tôi giật mình. Thì ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đã trải và cái đẹp! Nhưng tôi đã thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh, và tôi xin trả lại một góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.
Anh biết tạng tôi, cái tạng con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời. Tôi không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà thò qua màn nắm lấy tay tôi ở chiếu bên. Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men Quê và Bốn câu thơ. Anh kể:
‘‘… Tên nàng cũng là Yến. Chúng mình lên đồi, mặt đất xanh rì, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn bà. Nắng đã bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa xa. Ngả mình nằm xuống thảm cỏ, nàng nhìn, cái nhìn như bảo ban. Bỗng nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu mình kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn cuồng nhiệt. Khi buông nàng ra, mình đọc “Một con bướm lửa đậu môi”. Nàng nắm hai tay mình kéo ra, miệng thầm thì “Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm’’. Nhìn lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, mình tiếp “Ba làn mây lửa về thăm’’. Nàng như say sóng, ôm choàng lấy mình để giữ thăng bằng trong một cơn bão biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay quơ lên, miệng thở dốc. Mình lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt. Nàng ngước mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm ‘‘Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang”.
Hai mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật. Nó có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác... Tôi tin lời anh. Anh hồn nhiên nhận mình là người may mắn. Như vậy cái gì có thể lại ‘‘vận vào người’’ anh?
4. Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới của nàng Thơ. Hiện tượng này nằm dưới tầng ý thức của chính anh. Thậm chí, nó nằm ngoài anh, và chính vì thế mà anh kể là thơ anh ‘‘.. vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc... mà tôi xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được. ’’
Vâng, nghe đâu anh chép được nguyên bài Lá Diêu Bông. Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi “Thơ mình được mấy bài?”. Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Đợi mùa, Cây tam cúc, Quả vườn ổi. Đó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết hát và biết im lặng. Tôi đáp “năm, sáu bài...”. Anh cười “...thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi!” và hồn nhiên nói tiếp ‘‘…à, em mới kể có năm thôi!”. Thật ra còn bài U gì anh làm gửi cho Đặng Đình Hưng. Bài Đợi mùa, ít người nhắc. Thú vị nhất là tiếng chim tu hú, thứ chim lớn hơn sáo, lông đen nhạt điểm trắng, đẻ trứng thì đẻ vào tổ sáo hay tổ chim ác là, và cuối Xuân là kêu để gọi Hè về:
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ
Dãy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậỵ nắng ăn mày đã quăng sau núi
Hàng tre nhà
yếm trả
Mẹ về
lều dột đón mưa đêm
Thì chị đi
mấy lối chân chim
Để Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi
Câu bốn và năm trong đoạn này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm đi, rồi nức nở nghẹn lại. Tôi xin trích thêm một đoạn:
Em bước vào đình
Ôm cột bốn người ôm
Em rẽ sang chùa
lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một, chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi lòa lõa thân trăng
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
Giữa câu bốn và năm trong đoạn này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng (đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có chữ nào). Và đây là đoạn cuối:
Có hôm Em lần xuống bếp
Cậy cháy sành vỡ toác chôn niêu
Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng
Tưởng như Mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa
Tưởng như Chị về
Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre
Bao giờ Chị về
tóc phủ vai Em chiều hương nhu
Bao giờ Mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru
Khấn thầm như gặp Chị
Mắt nứa cứa tay Em
vẫy đón đầu làng
Khấn thầm
như mẹ lỡ đò ngang
Miệng hé hạt na nhòa bến vắng
Cô tay tròn đẫn mía gie
Không
Bầu mẹ không tròn
Bưởi Chị không hoa
Đã hết năm tu hú gọi rừng già
Đã sang mùa
tu hú ngủ rừng xa
Hai câu cuối cùng, thơ là thơ biết hát. Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên hai lần. Còn thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần. Mời bạn tìm, xem sao.
Điều tôi thực sự muốn nói bằng cách nói trên: Thơ hay là Thơ có tấc động sinh lý lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim. Chính tác động đó ảnh hưởng đến tâm lý, tạo ra cái đa dạng của thất tình: buồn, vui bâng khuâng, bực dọc, phẫn nộ... Đã nói đến nhịp, là nói về nhạc. Thơ hay không phải chỉ một câu hay. Thơ hay, không phải một chữ hay. Trò kén chữ cho khéo là trò kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười cợt, xong lễ thì ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa. Thơ hay là thơ nhìn dưới góc độ một tổng thể. Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ. Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim yếu tố sinh lý gây lên thất tình. Thơ hay chính nó là Nhạc. Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu. Nhưng vần thì thật ra thừa, và điệu, rất sáo mòn, nhất là vần điệu của lục bát tứ tuyệt hay thất ngôn (nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ). Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó. Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam vì mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh. Thơ anh có Mẹ, có Chị. Những “Bầu Mẹ không tròn, bưởi Chị không hoa”. Cũng vì vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ làng. “Chị lỡ xe hồng. Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...”. Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, “mật vàng mọng rách vỏ nâu non”, Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng?
5. Năm 1982 là một năm đầy oan trái nghiệp nghiệt. Ngẫm lại, hình như những vết chém phi lý và vô nghĩa, những vết chém không làm sao tìm được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng của nó. Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của máu ứa ra từ những vết chém đó. Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong lao ngục. Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần cửa sắt chấn song.
Sau Tết năm Nhâm Tuất, tôi rời Sài Gòn sang Paris, ở nhà Tạ Trọng Hiệp vùng Gentilly. Nhà bị kẻ gian cậy cửa. Xe để dưới đường bị đánh cắp. Ngày đêm, tôi cứ phải trông chừng Hiệp đang bị đại nạn tình với T, nói đến cái chết rồi khóc, và dự trữ rất nhiều thuốc ngủ. Đến tháng sáu, tôi lại về Hà Nội sau khi dặn dò Hiệp là chớ chết dại. Chết dại là chết vì tình, chết khôn là chết với tình. Lời dặn đó ngây ngô: làm gì có chết khôn hay chết dại. Chết là hết, thế thôi.
Lần về này, tôi gần như tuyệt vọng: thế quyền đã “co cụm” lại sau Đại Hội IV, vẫn khăng khăng một thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đã trình bày về phương thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền. Chống lại niềm tuyệt vọng, thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân. Dễ nhất lại là lao vào tình yêu. Hay bất cứ gì đồng dạng với tình yêu. Anh cho tôi một món quà mừng cái tình yêu đó: tập thơ Về Kinh Bắc anh hì hục chép tay trên một quyển vở học trò. Tôi vào Sài Gòn trước khi bay sang Pháp. Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra. Tập thơ Về Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ “chống đối” ra nước ngoài. Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối gì cả: nhà xuất bản Văn Học đã in nó năm 1994. Còn bắt anh, họ bắt vì lý do gì rồi giam cầm anh một thời gian khá dài? Bán rượu? Hút thuốc phiện? “Hủ hóa” Việt Kiều? Trên Métro từ Luxembourg đến Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc. Báo loan tin anh bị tù. Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra. Cứ thế, tôi khóc. Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt. Duy có một người da đen đến chìa cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói “Bonne chance!”
Bonne chance. Năm ấy, tôi chẳng có một thứ may mắn nào cả. Về đến chốn ngụ cư, tôi tất bật lo việc “bảo lãnh gia đình”. Tôi xin giấy nhập cảnh Việt Nam. Lần này là cấm. Lý do? Không ai cho tôi biết. Đơn xin, không bao giờ có phép, cấm như thế sáu năm liền. Gia đình tôi qua. Thế là đi vay, làm một quán ăn. Tất cả mười hai nhân mạng, lấy gì mà sống. Thực tế sống ở nước ngoài khác hẳn với sự mơ mộng của thành phần tương đối “dư dả” thời xưa ở Sài Gòn. Các cô em nhăn mặt, qua đây mà phải đi hầu người ta trong quán ăn thì thà ở Việt Nam còn hơn. Vài năm sau, các cô ấy đều ăn nên làm ra với dịch vụ quán ăn. Nhưng lúc đó, các cô em tôi thì thào cho tôi nghe thấy “...qua đây bị tư bản bốc lột lao động...” và gọi tôi là ông giám đốc. Giám đốc đấy, nhưng lắm bữa trưa, tôi không có tiền ăn đến độ phải nhịn đói. Rồi sau đó, tôi phải ra tòa vì đã ký giấy bảo lãnh mà không cung ứng tiền chi tiêu cho đủ. Người trưởng thượng đâm đơn kiện lại là người ruột thịt: “Anh mang gia đình qua là cứu (sic) cả gia đình. Nhưng tôi, tôi bây giờ phải bảo vệ (sic) nó”. Bảo vệ thế nào? Cô em dâu đến đề nghị cho một món tiền cỡ ba chục ngàn đô thì xí xóa giấy bảo lãnh. Cậu em thì bảo cứ đưa cho cậu ấy quản lý toàn bộ quán ăn, tôi không được can dự, nhưng dĩ nhiên nợ nần vốn liếng thì cứ vẫn tôi thôi (!). A, thì ra thế! Tôi ở vào thế kẹt. Kẹt đủ điều: tôi không thời gian vì còn nghiệp vụ chuyên môn, chẳng một ai để tin tưởng phó thác, đầu óc căng cứng khủng hỏang. Kẹt cho nên phải chẹt. Chẹt mọi mặt, mang ra tòa gây áp lực chỉ là một phương án. Nhưng ông tòa xét thấy tôi nợ đầy đầu, đến điện thoại cũng bị cúp vì không có tiền trả, nên tha cho. Ngoài ra, nghiệp vụ chuyên môn bị xao lãng vì nào là chuyện quán ăn, nào là chuyện kiện tụng tòa án, đồng nghiệp tôi “điều đình” để tôi tự ý xin thôi việc. Lại nữa, người vợ mới cưới qua Paris, kẹt lại vì lao phổi. Thế là phải gửi gấm. Rồi bạn phản. Tình phụ. Chỉ một năm, bằng ấy cái họa. Mất nhà, mất nước, mất tình, nghề nghiệp bị đe dọa. Quán ăn phải thuê người làm, bị ăn cắp hết vì không lấy ai ra để trông coi. Lại nợ. Nợ chồng nợ chất. Nhưng ghê rợn hơn hết là sự trống rỗng.
Chính sự trống rỗng đó đã đưa tôi đến cạnh cái chết lúc ấy tôi đồng hóa với giải thoát. Tôi thức hàng đêm, nhìn ra ngoài trời tuyết trắng mênh mông, đầu óc tê điếng, vô cảm, và chỉ thấy trùng trùng băng giá, không yêu không ghét không hờn không giận. Chỉ trống rỗng. Cái trống tếch trống toác của thế gian không có một chút tình người. Tôi là tên tù nhân của cái ngục trống khủng khiếp không có cửa sắt chấn song. Lẽ sống lúc đó nhẹ tênh tênh, vậy thì tự do mà làm gì. Tôi nhịn đói hàng tuần, không thấy cần ăn, uống nước lạnh thôi là đủ. Sống chết lúc đó ở ngoài tôi. Soi gương, “kìa ai đó - tôi lạnh nhạt- chớ có phải tôi đâu”. Cho đến một hôm. Vâng, hôm đó người bạn gái gốc Chilê, kẻ đã dịch một đoạn thơ tôi ra tiếng Tây Ban Nha gửi đăng trong một tờ báo phe tả ở Salvador, đến nhà tôi với một bông hồng. Nhìn tôi, nàng nói “Không nhà thơ nào có thể chết được!” và cười rất tươi.
Nghe nàng nói, không hiểu sao tôi lại nghĩ ngay đến anh. Lúc đó, anh vẫn còn nằm trong tù ngục. Anh là nhà thơ. Anh không thể chết được. Còn tôi, câu nói của Cecilia đẩy tôi ra khỏi một cuộc tuần du đầy ác mộng. Tôi phải sống.
6. Có sống mới về thăm anh được. Năm 1988, giải tỏa lệnh cấm. Dĩ nhiên, Đại Hội VI đã Đổi Mới Tư Duy, và thấp thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy thì những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội. Tôi, con gà gáy trước khi trời sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng đã vội khập khiễng đi tìm rạng đông.
Tôi men ngách vào nhà anh, số 43 Lý Quốc Sư. Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu thì dẹp rồi. Cháu nội gọi ông, anh từ gác xép leo xuống. Anh đây. Anh gày gò, tóc bạc gần hết đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đã khuyết một cái. Anh ngẩn ngơ nhìn. Tôi ôm lấy anh. Chúng tôi ngồi nhìn nhau. Giữa chúng tôi là bốn năm tù của anh. Tôi nói  ‘‘…có điều gì khúc mắc anh cứ hỏi”. Anh bảo ‘‘…giá em về trước hai năm thì anh em mình chẳng được thế này đâu”. Tôi im lặng. Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực hư. Tôi hỏi “Tập thơ anh chép cho em, anh đã lấy lại rồi chứ?”. Anh cười, cái cười đau xót. Đó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù thì anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến. Nước mắt ứa ra, anh kể:
‘‘…đêm hôm đó, anh đang chập chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn. Mở cửa màn, con bướm chui vào. Anh linh cảm, anh biết, anh khấn. Bướm bay rồi đậu lên bàn thờ. Anh lại khấn “Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ thân con”. Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu âm dương cách trở”.
Nắm tay anh, tôi không muốn để anh mất mát thêm bất cứ gì. Sau, tặng tôi tập thơ Men Đá Vàng, anh viết “...để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc”. Đấy, cặp bài trùng oan nghiệp - hạnh phúc. Và hạnh phúc của nhà thơ lúc nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng, nhưng xa lơ xa lắc, kẻ bình thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt được.
Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc. Anh nghiêm mặt bảo “...cái vốn từ của cậu chưa đủ. Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều. Rồi đọc cô tổ Xuân Hương...'’ Tôi cãi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá, hay điển tích quá thì đều là “quá tải”. Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Đạt. Anh Đạt khéo kết chữ cũ cho ra mới. Còn anh Dần, anh đi tìm chữ mới, đang thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ. Anh quay hỏi “...nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào?” Anh Đạt lý giải. Còn anh Dần, anh nhìn tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, “cứ làm!”.
Cãi thế, nhưng tôi về tôi nghĩ. Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều. Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân Hương. Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắc Hành Thi Tập. Rồi tôi dịch lại hai trăm bài thơ Đường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi lại dùng thể lục bát. Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn cho sát lối Tập cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Điểm. Đấy, chỉ một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đã đổ mồ hôi như vậy. Chuyện này, tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe. Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ anh. Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa. Song có ân ái được với nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.
Hợp rồi tan. Tôi lại phải ra đi. Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe “...lại anh thêm dăm phút”. Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn. Và khi chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc. Tôi nhìn theo anh trong bóng đêm. Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm. Bóng anh mãi cũng xa dần rồi mất tăm. Lúc ấy tôi cũng khóc.
Chúng tôi là những kẻ mau nước mắt.
7. Nhưng cũng có một thời những giọt nước mắt chảy vào trong. Và rồi một thời khóc - cười là một. Hè năm 1990, bước vào Nội Bài thì người ta đã hờm sẵn. “Xin mời ông qua bên này!”. Vâng. Cuối cùng, “Ông hiểu cho. Ông không có phép nhập cảnh!”. Tôi hỏi ‘‘…thị thực nhập cảnh đây. Giấy mời đây. Chắc là lầm lẫn gì đó...”. “Vậy ông đợi, chúng tôi điện vào Hà Nội”. Trưa hừng hực nắng. Chiếc quạt máy vừa quay vù vù, vừa lắc đầu qua lắc đầu lại. Nhìn ra sân phi trường, chiếc máy bay Air-Thai vẫn nằm lì ở đó. Một tiếng đồng hồ qua. Rồi hai tiếng. Hai vị công an cấp tá lại ra. Các vị bắt chiếc cái quạt máy lắc đầu ‘‘ …Lệnh trên không cho phép. Ông thông cảm...”. Tôi nói “...cứ để tôi ở khách sạn của phi trường. Hôm nay là ngày nghỉ. Đợi đến thứ hai, ngày làm việc, tôi xin điện vào hỏi kỹ...”. Lại tiếp  ‘‘ …vậy, ông đợi...”. Một lát sau  ‘‘… Lệnh trên không cho!”. Chiếc máy bay Air-Thai không được phép cất cánh vẫn đó. Tôi hỏi “Lệnh trên là trên thế nào?”. Đáp “...trên là cao lắm, chúng tôi chỉ thừa hành”. Tôi cũng biết vậy, lắc đầu.
Tôi bước lên máy bay, được hai vị cấp tá xách hộ va-li đi hai bên. Cô chiêu đãi viên hàng không Thái hai tay chắp, cúi đầu reo như thông lệ “Welcome to Air -Thai!”, rồi đưa lên ghim một bông lan vào áo tôi. Cô kịp nhìn ra bông lan cô gài cho tôi khi tôi sáng nay rời Bangkok bay đi Hà Nội vẫn còn đó. Cô ngại ngần, ánh mắt tối đi một thoáng, nói nhỏ “I am sorry!”
Đến Bangkok, tôi phải đợi máy bay. Tôi quyết định ra bãi biển nằm, tránh cái hừng hực hè và mùi xăng dầu sùng sục xông vào mũi. Lúc đó, tôi thừa thời giờ để tìm nguyên do cái việc thô bạo kia ở Nội Bài. Phải, thời gian đó là chưa chẵn một năm từ khi bức tường Bá Linh xụp đổ. Và chỉ vài tháng sau những tiếng hò trên quảng trường Thiên An Môn. Rồi đám Việt Kiều ngây thơ chúng tôi lại ký Tâm Thư này nọ (mặc dầu riêng tôi, tôi không ký vì lý do Tâm Thư chưa đủ tính triệt để đáp ứng với thời cuộc lúc bấy giờ). Rõ ghét. Và tôi, cái con gà non ngông nghênh chưa sáng đã gáy, cho vào là lại tổ bực mình rách việc!
Vâng, tôi nghĩ là chỉ có thế. Lúc ấy, khóc - cười thành một. Tôi không còn hờn oán gì nữa, chỉ thấy tội nghiệp cho quyền lực.
Những cánh phượng vĩ vẫn đỏ rực dưới nắng vàng óng ánh mật ong. Đỏ như phượng vĩ Hà Nội. Biển vẫn xanh và sóng vẫn rì rào. Xanh như biển Việt Nam, quê hương tôi. Và rì rào như đòi quyền sống. Tôi thanh thản nhìn trời, nhìn nước. Bấy giờ, rõ ràng quê hương đích thực chính là lương tâm. Và mảnh đất lưu đày nào cũng là những mảnh đất không tôn trọng nhân phẩm và quyền con người. Thôi, từ biệt nhé, ảo vọng về trí tuệ và lòng thành tín trong guồng quay của thế quyền. Từ biệt nhé, giấc mơ nóng vội đổi đời. Tôi viết một bức thư dài gửi cho cái trục chính của guồng quay gọi là bộ Chính Trị, khẳng định tôi tin rằng dân chủ là tất yếu, và làn gió ấy sẽ rồi thổi đến quê hương tôi như điều không khiên cưỡng được.
Ngửng mặt nhìn những cụm mây trắng thong dong, tôi biết tôi là một người có tự do. Vấn đề đặt ra: tôi làm gì với sự tự do đó. Tôi, một người may mắn, không thể vô trách nhiệm.
8. Là một người có tự do, tôi lại càng hiểu thế nào là tù ngục. Những năm anh tù tội nằm trong trại giam lại ám ảnh tôi. Anh tội gì? Ai có quyền cướp sống dăm ba năm một đời người? Nhân danh ai, nhân danh gì? Và hẳn anh rồi không có tội nên anh mới được phục hồi “hội tịch” vào năm 89!
Phục hồi, chắc cũng trả cho tí tiền. Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng chuyện trò duy nhất với những tội nhân. Riêng anh, loại tội nhân có cái tội là chót làm nhà thơ.
Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay. Nhưng hình như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ. Đó là một điều đáng hãnh diện. Đồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan nghiệt - hạnh phúc.
Thôi im đi, tiếng hát ngọng nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc. Thôi im đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo. Hãy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của tình bạn, những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện... Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đã tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ĐĐ..., yêu vân vân và vân vân. Tôi mừng, ông ấy vẫn đó. Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân trở lại Hà Nội. Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con trai lớn của tôi.
Lại men cái ngách 43 Lý Quốc Sư. Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn còn một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng. Bây giờ, không ai réo tên nhau. Phải bấm chuông. Tôi hồi hộp. Cửa mở. Anh thò đầu nhìn, mắt nhắm mắt mở. Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây. Anh còm xuống. Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả. Anh cười, ở một cái tuổi nào đấy, cười làm sao thì cũng như hơi mếu máo. Anh ngồi xuống ghế salon bọc simili-cuir. Bàn kính. Nhà lát gạch hoa. Thế thì đâu rồi những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện? Thế thì đâu rồi cái điếu cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bấc vặn thật thấp li ti đốm cháy? Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm gì. Leo gác hai, anh đẩy cửa. Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ. Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào. Rồi dăm chiếc đóm. Tôi ngồi sụp xuống đất. Tôi bắt đầu nhận ra anh. Anh cười. Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.
Lần sau đến, tôi kể cho anh nghe ý định viết một vở kịch về quan họ. Lần ấy, có Thụy Kha, rất duyên và cực xông xáo vui chơi. Kha hẹn sẽ cùng nhau đi Bắc Ninh làm một chầu quan họ, dọa là “các em” bên đó “tình” lắm. Còn phần tổ chức “hành quân”, Kha la “...cứ để tôi”, Về, tôi hẹn đến đưa anh đi ăn cơm trưa với Việt ngày mai. Khi bố con tôi đến thì người nhà anh bảo anh ốm lắm. Chúng tôi lại leo gác hai. Trong phòng, anh co quắp trên chiếc chiếu giải trên sàn, mình đắp chăn. Tôi cúi xuống nhìn. Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn. Anh không nhận ra tôi.
Anh phải vào viện. Năm ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương. Anh bị xưng phổi sau cái chuyến đi “trình diễn” thơ ở Thái Bình thì phải. Mỗi chuyến đi thế, cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ. Lộc thơ chỉ có thế, và phải chờ những ngày cuối năm. Chúng tôi đến thì đã có dăm ba phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội. Anh lại khều tôi, miệng cười rất tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi “...trông được chứ nhỉ!”. Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, “Bác về là sẽ hỏi cô ta làm vợ”. Ngớ ra, Việt không hiểu nhìn tôi dò hỏi. Anh tiếp tục, rất chân thành, “Mais oui, je vais lui demander sa main... c’est sur”. Sau, con tôi cứ cười, bảo “...quả bác ấy là nhà thơ. Un poète-fou!”
Đúng đấy Việt ạ. Có nhà thơ nào không điên? Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn “ông ấy nỡm lắm. Già thế mà lên ti vi cứ nói tình yêu này, tình yêu kia... Nghe ngượng đỏ cả mặt!”. Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, vì anh ấy sống phút nào là chong mắt tìm một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái với nàng Thơ. Nỡm ư? Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta có tất cả nhưng không còn yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh rơi vào cái rọ đen - black hole - tất cả tình yêu và đam mê. Chúng ta có tất cả đấy, nhưng lại không còn gì ngoài cái hành trình của những người không tìm trong thiên hà mênh mang kia. Anh bạn đứng đắn ơi, trong hành trình đó anh cứ đi một mình. Chúng tôi xin ở lại.
Tôi đến chào anh một lần cuối trước khi bay vào Đà Nẵng. Lần ấy, chúng tôi tẩn mẩn đếm sổ văn hóa xem có ai và đã làm được những gì suốt ba mươi năm qua trong nền Thơ - Văn của chúng ta. Lần ấy là lần anh kêu thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi!”. Có lẽ. Huy Cận của Lửa Thiêng, trước khi làm quan thì cũng chỉ được dăm ba bài. Làm thơ, không thể làm quan. Không thể làm giàu. Làm quan làm giàu rồi, thơ chết. Nàng Thơ không ưa công đường. Không thích nhà cao cửa rộng, ngươi hầu kẻ hạ. Và nàng chúa ghét những kẻ nói khéo, nói láo, nói dai, nói ngoa, nói nhiều và nhất là loại nói-không-ai nghe. Nàng hay ghen. Yêu, thì Nàng phải là Cứu Cánh, là vợ cả. Không bao giờ Nàng chịu làm lẽ cho phương tiện danh lợi và quyền lực. Và ân ái với Nàng, bạn chớ chơi trò chơi “kiểu”. Kiểu hiện sinh, hiện thực, hiện đại hay thậm chí hậu hiện đại theo chữ nghĩa thời thượng. Trong 36 kiểu, xin hãy làm tình theo cách tự nhiên phát sinh từ bản năng mình. Với Nàng là chỉ có Thơ. Thế thôi.
Đếm, đếm đi đếm lại. Cuốn sổ văn hóa mỏng dần. Mỏng làm cho bật máu và chảy nước mắt. Tôi thấy dẫu anh bảo anh có lấy quá nhiều của thiên hạ, anh còn phải lấy nữa. Ngoài dăm ba vì sao lấp lánh, văn hóa của chúng ta mươi năm trở lại đây lại hụt hẫng vào cái rọ đen - cái black hole - ghê rợn kia trong một nền kinh tế thị trường mà lại oái oăm có định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu phải hô khẩu hiệu, tôi đả đảo cả hai, chỉ hoan hô một mình nàng Thơ.
9. Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu. Chẳng hạn loại khẩu hiệu như ‘‘…tất cả cho mai sau”, hoặc “…Tự do hay là chết”. Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc, tôi rất do dự khi đụng vào cái chết. Tôi linh cảm rằng sự sống quý hơn tất cả. Nó đèo bồng trên lưng tự do. Và càng tự do thì gánh nặng càng nhiều. Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm gì và sống ra sao với cái tự do đó. Cho những người theo đòi nghiên bút, làm gì là viết gì, sống ra sao đồng nghĩa với ý thức trách nhiệm thế nào với người và với mình.
Ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ. Anh viết kèm ‘‘…kể từ nay, tự do không còn là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết. Con người biết tự mình cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an. Chúng ta có quyền hy vọng...”. Anh ta kể ra hoài bão thực hiện một bộ tiểu thuyết về bức tường mà không còn sợ hãi gì nữa. Mười năm qua, anh vẫn chưa viết gì được. Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đã viết là viết trước ngày bức tường sụp đổ. Từ đó, anh chịu. Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được vài trang. Còn hai trăm trang kia, anh đã lặng lẽ viết trong nỗi lo âu. Lo và sợ. Đến độ vợ con anh cũng không hay biết. Tôi lại hỏi, tại sao, tại sao thế. Anh buồn bã trả lời “...ngày trước, tôi viết chống một cái gì để cho một cái gì khác chưa có. Nó thật rõ ràng. Bây giờ ư? Cái gì đó chưa có đã thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ nên tôi không còn định hướng viết cho cái gì được nữa. Có nhà xuất bản bảo tôi, hãy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết, vừa dễ bán. Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới. Tôi đã thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi. Tôi không muốn là một nhà văn vô trách nhiệm...”.
Nhưng trách nhiệm đó là gì? Có lẽ với anh là ca ngợi Tình Yêu chăng? Chỉ năm ngoái tôi mới được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại. Sách in lem nhem, bìa photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản Văn học in năm 1994. Tôi cầm cuốn sách, lòng ngậm ngùi. Những vần thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị tình phụ trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chu nghĩa?
Đó là những vần thơ tình rất đẹp. Tình yêu Kinh Bắc. Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành. Rồi anh đi liền bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng. Lỡ làng, bến tình không người đợi. Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu. Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lờ làng, xin Chị một quả ương, Chị lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả ương. Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng... Lỡ làng, quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi. Lỡ làng, em đứng nhìn theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái với nàng Thơ. Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ. Lỡ làng, là đời anh. Bởi anh biết yêu. Biết yêu là yêu đến cuồng dại, tôi viết tặng anh:
‘‘Hờ hững buốt căm, bờ sóng lụy
cuồng si thiêu rụi bến đa tình
Ba ngả sông về người bơi đứng
Cợt đám hoa bèo dạt đến quanh...’’ 
Để kết một cuốn sách đọc lâu rồi nên tôi đã quên tên, Albert Breton - một cột sống trong phái siêu thực - viết “Je vous souhaite d’être follement aimé.” (Xin chúc bạn được yêu đến cuồng dại). Được yêu thôi ư? Cũng tạm. Nhưng tôi, tôi chúc anh khác, chúc anh hơn vậy nhiều. Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại. Tôi cũng chúc tôi yêu, với chữ Yêu cùng một lúc hiểu như danh từ, trạng từ và nhất là như động từ. Vâng, yêu có bao giờ lại là tĩnh từ. Nhất quyết là phải thế chứ. Vì Yêu là trách nhiệm cứu rỗi của những con chữ có nghĩa. Những con chữ đẹp. Những con chữ có đời sống. Muốn đẻ ra chúng, thì có hề chi những cơn đau trở dạ. Thì có hề chi những lỡ làng.
Tôi nhớ đã hỏi anh Hoàng Cầm, tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa gì? Anh cười, có chút gì như là chua xót, “Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng... Tên nó vận vào người”.
Hoàng Cầm còn vận vào thành một vị thơ. Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng cũng xót xa nhất của dòng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20. Cơn mây mưa giữa nàng Thơ và Anh đã sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp -hạnh phúc như vết chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva. Nhưng hề chi, có hề chi.
Viết đến dòng này, đếm ra còn đúng bốn ngày nữa là chúng ta cùng bước qua ngưỡng cửa thế kỷ 21. Tôi lại chúc, anh Cầm, chúc anh yêu đến cuồng dại cả thiên niên thứ ba này, anh nhé.
8. Gấu chợ
1. Không biết thế nào mà ngay khi gặp anh tôi nghĩ đến loài gấu. Lạ, quả là lạ. Đi tìm xem gấu là gì trong tự điển. Là loài có vú. Gấu trắng sống trên Bắc Cực, ăn cá. Gấu nâu hoặc đen, ở lục địa Á và Mỹ, ăn hoa quả và rất thích mật ong. Chay tịnh thế, gấu vẫn nặng từ 3 đến 6 trăm kí, bề ngoài ục ịch nhưng lại rất nhanh, chạy có thể đến 7 hay 8 mươi cây số giờ. Gấu thuần hòa, nhưng khi nổi cơn thì phải coi chừng. Bình thường, gấu dễ thương, cho nên con trẻ chơi gấu bông, loại nhồi mút bán ở phi trường hay những nhà hàng đồ chơi. Có bé gái mua về chăm chút, ôm gấu khi đi ngủ, gọi gấu là em, là chị, thậm chí là mẹ...và hẳn vào độ dậy thì chắc cũng có nàng gọi gấu là người yêu, người tình, hoàng tử của lòng tôi. Ở Canada, gấu rất nhiều, độ hè gấu có thể lạc vào những thành phố gần rừng khi đi kiếm ăn, nếu thấy yêu cầu gọi số khẩn 911 báo ngay, nhân viên trách nhiệm sẽ đến bắn thuốc gây mê gấu rồi thả về rừng. Còn nếu bạn yêu thiên nhiên đi cắm trại thì cẩn thận. Thứ nhất, đừng để đồ ăn trong lều mình ngủ. Hãy để ra ngoài, gấu có tới chúng sẽ thôi không ăn bạn, để bạn yên, chỉ tha đồ ăn đi. Thứ hai, đang lững thững mà gặp gấu, chớ giơ chân giơ tay la thét. Tốt nhất là làm những tiếng kim khí, tỉ như lấy xoong đập vào nồi, lấy nồi đập vào chảo, và chớ phát những âm thanh bài bản có tính thơ phú, triết học, thậm chí chính trị, vì gấu thường ít quan tâm đến những tư duy trừu tượng, rất hiện thực và thuần bản nặng nhất là lúc đánh hơi thấy chất đường trong các loại đồ uống kiểu 7-up Coca hay Pepsi. Thứ ba, gặp gấu đừng leo lên cây tìm an toàn. Bạn chắc cũng như 90% loài người, cứ tưởng gấu không biết trèo. Bạn nhầm, nếu có môn điền kinh leo cây ở Thế Vận Hội cho muôn loài, hẳn gấu vào chung kết với khỉ, con người thì chắc sẽ lẹt đẹt đằng xa, chưa chắc qua đuợc vòng loại. Thứ tư, rất quan trọng, không bao giờ đứng giữa gấu mẹ và gấu con cho dẫu gấu mẹ có là một trang tuyệt sắc thiên kim vì bản năng mẹ gấu sẽ tấn công bạn tức thì để bảo vệ gấu con, mặc bạn nói gì thì nói, với ngôn ngữ nào cũng vậy.
Ơ mà này, thế thì tại sao tôi gặp anh lại nghĩ ngay đến loài gấu? Không tìm được lý lẽ trong kiến thức phổ thông, tôi quay sang truyền thống văn hóa. Nghĩ mãi, nào là mật gấu trị bệnh trật tay sái gân rất hay, tay gấu cực bổ, lớp da tay dầy để đối phó với loài ong rừng khi gấu đi tìm mật, ăn vào cường dương mà vẫn trường thọ. Vẫn không, không phải the. Hay là, a nó đây, cái thành ngữ hỗn như gấu, yếu tố duy lý độc nhất giải thích sự liên tưởng của tôi từ Lê Đạt đến loài gấu, và ngược lại.
2. Nếu hỗn thì quả anh hỗn thật. Ngay sau khi hòa bình lập lại, kỷ cương chưa ra làm sao, anh đã kêu ”Đem bục công an đặt giữa trái tim người/ Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước”. Anh kêu trong Nhân Văn số 1, mấy tháng sau khi Giai Phẩm mùa Xuân bị tịch hồi, trong đó anh hò ”bay thật cao, bay thật xa”, được Tố Hữu người phụ trách Tuyên Huấn của Đảng, khuyên đen, hỏi bay đi đâu, bay vào Nam à? Mặc dầu anh cũng trong ban Tuyên Huấn Trung Ương nguyên làm Thư Ký cho Trường Chinh, đảng viên trẻ năng nổ có tiếng là sâu xắc, và nhậy cảm. Nhưng chính cái nhậy cảm đó hại anh. Nếu là nhậy cảm để bắt gió quyền lực thì chắc chắn anh sẽ thăng quan tiến chức chẳng kém một ai, nhưng không, anh lại nhậy cảm với thơ. Chết chưa gặp Trần Dần đầu năm 50 trên chiến khu, hai anh đã bàn nhau đào mồ chôn thơ Tiền Chiến. Kẻ danh vọng nhất khi đó lại là Tố Hữu, thế mà các anh đè xuống chiếu thơ, phê tập Việt Bắc, cho thơ Tố Hữu là thơ sùng bái lãnh tụ, nói đến ai hay cái gì thì cái ai cái gì đó nhỏ đi, gây phản cảm. Và khi thơ Tố hữu trổi nét thì chỉ thuần vay mượn ca dao, không có một chút sáng tạo, vân vân. Khi đó, anh lại là phụ trách Thường Trực báo Văn Nghệ, thế có ghê không. Phan Khôi bảo với anh, Tố Hữu gọi bọn Giai Phẩm là lũ phản động! Thế mà, ông anh thân mến, ông anh vẫn cứ cười hềnh hệch trong đợt kiểm thảo sau Tết năm Mùi, không chịu lên án Trần Dần ngay cả khi anh Lành (tên tục Tố Hữu) bảo đã được thông báo ‘‘nội bộ” rằng Dần là người của địch. Mất cảnh giác đến thế là cùng!
Cái cười Lê Đạt. Người mới quen, ai cũng thấy anh cười hồn nhiên. Để ý, lâu mới biết đi kèm tiếng cười ấy đôi khi là những câu nói hóm và hỉnh, hóm vì rất thông minh, nhưng hỉnh bởi thế nào cũng có chất cường toan axít đâu đấy. Axít nên cái vị một khi trôi qua cổ có thổ cay, chua, thậm chí bỏng cổ rát lưỡi. Anh lại bô bô tính mình nó ba lơn như thế, trời sinh cả! Anh Đạt ơi, chính cái cười của anh hại anh, lắm lúc còn hại hơn cả những lời anh nói. Cứ hình dung xem những chiến tướng thơ Tiền Chiến như các vị Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận...xung quanh Tố Hữu đối phó với cái cười của anh thế nào. Họ nghĩ anh làm chính trị nhưng là kẻ ném đá dấu tay, lãnh đạo ngầm, thứ chất xám điều khiển sự manh nha của một quyền lực đối kháng có ý đồ cướp cờ chính thống. Đầu tiên, anh bị khai trừ khỏi Đảng, nhưng quyền lực chưa rút phép thông công, còn chờ gió lên để phất cờ. Anh vẫn tiếp tục công tác ở Hội Nhà Văn vì khi đó phe ta, phe XHCN sau báo cáo KrútSốp bên Liên Xô, đang có những biến động ở Hung, ở Ba Lan. Phương Bắc, người cầm lái vĩ đại họ Mao phát động phong trào Trăm Hoa Đua Nở, cho nhà văn nhà thơ đua tiếng, chẳng hiểu sẽ rẽ phải hay rẽ trái. Tình thế quốc tế như vậy cho nên quyền lực ở Hà Nội, sau sai lầm Cải Cách Ruộng Đất, vẫn chập chờn, và nhân thời cơ, Nhân Văn ra đời, sau đó Giai Phẩm mùa Xuân tái bản, rồi Giai Phẩm mùa Thu, mùa Đông...Hẳn khi đó, các anh hể hả trong lòng mong xây dựng một xã hội công bằng và nhân bản, xông lên đánh vào cái nền chuyên chính vô sản mới kết nhụy. Nhưng quyền lực hậu thuẫn các anh ở đâu? Các anh chẳng có cái nhậy cảm chính trị đó dồn hết tinh anh vào chữ nghĩa, loại quyền lực ảo, không hậu thuẫn, nóng vội tự mình lên thập tự dang tay ra chờ. Chỉ ít lâu sau. người ta mang búa đến đóng đinh, nhưng bắt chết một cách tinh vi hơn cái chết của đấng Cứu Thế. Các anh bị phân tán, kẻ nọ tố kẻ kia ở Thái Hà, rồi tự xỉ vả mình trong những bài kiểm thảo được phổ biến đến quần chúng và sau là bị gạt ra bên lề xã hội mà chẳng một ai dám thương tiếc.
Dăm tháng đã thay đổi đời anh từ trắng sang đen. Anh có cười đấy, nhưng những người sau này cười lâu nhất không phải là anh. Thật mà nói, oan nghiệt kia hóa ra chuyện Tái Ông mất ngựa. Nhưng mất mà không được gì, vẫn cứ là các chị. Chị Thúy, vợ anh. Chị Yến vợ Hoàng Cầm, chị Khuê vợ Trần Dần, chị Thoa vợ Phùng Cung... Lê Đạt có bài thơ  ‘‘Vợ Nhân Văn”, bao giờ thì anh công bố để trả nợ đây? Các chị cũng bị gạt lề vì cứ tiếp tục làm vợ các anh, trở thành thứ tội phạm liên quan, hạng hai, nhưng sống trong sự quẫn bách khí trời, đến thở cũng dè sẻn, chăng dám thở mạnh có thể khiến người đời chú ý. Riêng chị Thúy mới 19 lần xuân, một tài năng trên sân khấu kịch nghệ, đành phải bó thân...về với nỗi đau Lê Đạt.
3. Chị Thúy khi xưa sắc nước hương trời. Ngày tôi mới quen, chị đâu ngoài bốn mươi, dáng vẫn thướt tha nhưng mặt đôi lúc có thoáng nét thất thần. Mỗi khi từ giả Hà Nội, anh Đạt thường dặn, đến chào chị, chị ấy hay tủi thân. Tôi cảm nhận được sự trìu mến của anh đối chị, và sự thân tình của chị đối với tôi, bởi tủi thì ai lại hoài công đi tủi thân mình với người dưng nước lã.
Lần tôi về năm 02, đến chơi, thấy căn số 10 Hai Thượng Lãn Ông nay quả ít là 50 lần số mặt hàng năm 1982, khi tôi mới quen anh chị. Kinh tế thị trường có khác, còn định hướng thì vì cửa hàng quá chật nên mặt hàng nọ đè lên mặt hàng kia, nếu không có cái nét rất truyền thống là thông minh cần cù thì đố ai tìm ra chỗ này để giấy toa-lét (chứ không chùi...bằng nhật báo như xưa), chỗ kia xếp T-Shirt có in quả táo (giống NewYork) kèm hàng chữ I’Love V, giữa đống ngổn ngang khăn tắm, khăn tay, xà phòng bột, xà phòng thơm và trăm thứ linh tinh đố cả những người tự cho là mình nhiều tưởng tượng đếm nhẩm ra cho hết. Và đố có thưởng, trong phòng riêng ở tầng hai của nhà thơ Lê Đạt có gì? Sách dăm ba quyển trong một cái tủ con, dĩ nhiên. Chiếc màn mầu sữa ố nhầu nát xếp xó giường, cái gối kê đầu, vài chú bút bi lăn lóc trên chiếu, tách nước uống dở, và xung quanh, chất đến tận trần nhà...vẫn giấy toa-lét, xà phòng, T-Shirt, khăn mặt, khăn tay... Thân lắm, anh mới tiếp trong phòng riêng, chứ khách người dưng, thường cậu con anh đáp " ông ấy... đi vắng”, hoặc nếu không thì anh xuống tay vẫy, miệng cười, rủ ta đi đến đầu đường uống cốc cà-phê đi! Gấu ở chợ, có thích của ngọt như cà-phê đường cũng chẳng thể thoát qui luật thị trường, hàng hoá trao đối trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, dĩ nhiên anh mạnh thì vẫn lợi hơn anh yếu. Quả thế, mặt hàng nhiều, nhưng hầu như tất cả đều made in China, hàng nội cũng có nhưng hiếm vì cạnh tranh, bị hàng ngoại giết cả, trừ bia Hà Nội, và trừ... thơ Lê Đạt.
Chị Thúy hôm ấy xuống nhà, và ba chúng tôi ngồi quanh cái bàn nhỏ xíu nhân một buổi cửa hàng thưa khách, uống chè Lipton nhé, cho nó sang. Dạ, nhưng không có chè Thái Nguyên à? Có, nhưng tiếp khách xa thì phải Lipton. Anh Đạt cười cái cười của gấu trong nhà, lành và hơi ngường ngượng. Chị Thúy nâng tách, miệng bảo, mời chú rồi mắt bỗng long lanh, nói nửa tỉnh nửa mê, như nói chỉ cho mình nghe. ‘‘Đấy, tất tần tật cũng chỉ vì văn hay chữ tốt ấy mà. Ối giời, ông ấy tưởng thu được vào tay ông ấy cả, nhưng giời có mắt, thản nhân cũng mang một ít cho cả những người dốt nát như tôi... Đọc vài câu cho chú nghe nhé...” Ann quay mặt, buồn nhưng cố nén thờ dài, nhẫn nhục im lặng. Tất nhiên tôi cảm thấy hơi hướng cái thảm kịch vợ Nhân Văn, và đoán có lẽ từ ngày anh được phục hồi thì tao nhân mặc khách lại chào mời, có ai còn nhớ đến những nỗi tủi nhục mà các chị phải chịu đựng suốt một đời. Chị tiếp ‘‘cứ ăn hiền ở lành thì giời cho, chữ nghĩa cũng giời cho cả, thần thánh ốp vào tức văn hay chữ tốt ngay thôi... Bây giờ, mấy chị em chúng tôi có bà Khuê vợ Trần Dần, bà Băng vợ Văn Cao... Chúng tôi thỉnh thoảng gặp nhau rồi đọc thơ cho nhau nghe, có kém gì ai đâu!” Nhưng thần thánh ở đâu hở chị? Tôi hỏi giọng bỡn cợt để đổi cái không khí có chiều ngột ngạt. Chị chỉ tay, da diết, nói như rít ‘‘... Ở mọi nơi, ở Văn Miếu đàng kia, ở trên trời chứ còn ở đâu nữa! Mai tôi với mấy bà ấy ra Thanh Hoá đi lễ Mẫu, thế nào cũng phải hỏi lại, cho ra lẽ...Bây giờ tự do rồi, không tin thần tin thánh thì tin ai vào đây, hở chú!”.
Vâng, thưa chị. Bao nhiêu cái cấm đoán ấm ức trói buộc nay già néo đứt dây, đứt để đổ tuột vào sông vào biển những vị thần linh trên giấy báo Học Tập. Nay, ta quay về truyền thống và bản sắc với bà Chúa Liễu, ông Hoàng Mười, hội Phủ Giày hàng năm. Anh Đạt thì thào, Thúy dạo này yếu, hơi bị tâm thần. Rất có thể. Nhưng đâu chỉ vì yếu. Ta nghĩ xem. Này, anh Văn Cao được thưởng huy chương hạng ba (hay tư?). Rồi các anh Nhân Văn được phục hồi hội tịch, lãnh lương bù gần ba chục năm bị người ta bẻ bút. Sau, các anh đi Đại Hội bầu lại (lại...mãi từ cái ngày đánh Nhân Văn và Giai Phẩm) Tổng thư ký Hội Nhà Văn vẫn cứ là đồng chí Nguyễn Đình Thi, và dẫu có chút gì như “hàng thần lơ láo” nhưng các anh còn có cái hy vọng từ nay sẽ được sinh hoạt bình thường để in ra những điều các anh ấp ủ. Nhưng còn các chị vợ Nhân Văn, các chị được gì để cân bằng với những mất mát 30 năm liền sống bên rìa xã hội giữa sự xa lánh dè bỉu của cả ruột rà làng nước? Bài thơ Vợ Nhân Văn đâu anh Đạt? Hãy trả Cesar những cái gì thuộc về Cesar...Còn cát bụi? Nếu cái thuộc về Vợ Nhân Văn chỉ cát bụi thôi thì cũng phải trả lại cát bụi, để đời này (chứ chớ đợi đời sau) biết là đàng sau mọi sự nghiệp đều có những giọt nước mắt không cần tên tuổi.
4. Thú thật thơ Lê Đạt vào thời Nhân Văn Giai Phẩm là thơ chính trị. Chẳng hạn như Nhân câu chuyện mấy người tự tử. Một bình luận thời sự, sắc và thâm, nhưng tôi không cảm như thơ. Thời đó, có lẽ chỉ bài Cha tôi là thơ, sau phục hồi thì anh cho in lại năm 94 với những bóng chữ viết suốt thời gian anh đi đầy trên 36 phố phường trong lòng một Hà Nội lặng lẽ cưu mang những đứa con rơi của thời thế. Nhưng với Bóng Chữ thì thơ Lê Đạt kết tinh từ cô đơn tủi nhục thành thơ, và đó là câu chuyện Tái Ông mất ngựa tôi nhắc ở trên:
Chia xa rồi anh mới thay em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa may mùa
mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu Lâu
bóng chữ động chân cầu 
Chữ đắt, là điều nhận thấy tức thì trong thơ. Trắng đầy cong khung nhớ, khó lầm vào ai khác Lê Đạt. Và
Bầy em én
tin xuân
tròn mẩy áo
Hội kênh đầy
chân trắng ngần sông quê
Nắng mười tám
má bờ đê con gái
Cây ải cây ai
gió sãi
tóc buông thề
thì, mẩy áo, hội kênh, chân trắng ngấn sông quê, gió sải...là những hình tượng không đến từ sự ngẫu hứng dễ dãi mà là tìm tòi, cân đong từng chữ, và nhất là cấy ghép chúng với nhau. Cái mới trong thơ anh ở công phu cấy ghép đó. Thử đọc:
Ông lão trạm bơm
miệng o tròn
ria chóp nón
Ô trời
lòng cổ thụ bỗng tình tang
Máy kéo gặm xứ đồng tơ ơ cỏ
Nghé sắt buồn lưng sáo đá xon xon.
Đọc liền 2 câu đầu, rồi 3 câu sau. Rõ cấu trúc thơ trong bài này là thơ cổ. Nhưng tưởng như nhìn thấy mấy con sáo xon xon trên một chiếc máy kéo ví với con nghé sắt đang gặm cỏ...Lê Đạt, như anh thú, đúng là phu chữ.
Cái tuyệt nghệ công phu khuân chữ về ghép lên hoa trái mới trong ngôn ngữ thơ Việt Nam của Lê Đạt thật có một không hai. Mời kẻ yêu thơ nhẩm lại trong đầu những bài thơ sau:
Chim ức lửa
Rouge gorge! Rouge gorge!
Dân ca Pháp
Em vụt đến như mảnh tinh cầu vỡ
Ơi con chim ức lửa môi đòng
Thả đỏ đốt xứ đồng không anh nhớ
Một thoáng đào nhen mấy độ hồng
Sương khói Bích Câu chiều ai có giáng không.
Át cơ
Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ
Nhà số lẻ
phố trò chơi bỏ dở
Mộng anh hường
tim môi em bói đỏ
Giàn trầu già
Khua
những át cơ rơi...
Nhịu tình
Sự đằng ngà
tâm tuyết trắng dưa lê
Vườn truyện ngọt
Đàn từ ngon
âm hé cong mỏ hót
Lòng nhịu tình
ngôn ngữ loài chim
Đánh ngải
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh
Ca dao 
Mắt xưa xanh
mưa mành
sương liễu sóng
Mùa sang may
thu đánh ngải lông mày
Mây nổi trắng ao say
Ai ruốc mộng ban ngày  
Đệm
Bước đệm
đưa tình
xanh khúc phố
Nốt chân xuân
đàn cò lạ
phím lùa
Chập chững dương cầm
bè lạc
ngã tương tư
để cùng nhà thơ nhặt những tấm chữ:
Anh rình trắng nghìn trăng nghiêng ngõ mộng
Bước thị thơm chân chữ động em về
đặt vào cấu trúc Đường thi truyền thống, nhưng đố mà tìm được cái tứ thơ hương thắp gọi không đáp lửa, và hỏi, hồn ở nhà hay bát mộ đi xanh
Thanh minh
Lúa con gái
làm rùng rình nỗi gió
Lá hát tình
nắng tỏ
bạch đàn chanh
Nợ cũ khối xương rồng hoa trả đỏ
Hương thắp gọi ba lần
không đáp lửa
Hồn có nhà
hay bát mộ đi xanh 
A, Lê Đạt. Chữ anh quả tài tình. Anh đúng là một phu chữ tiên tiến, và chắc anh chả cần ai phong cho anh 4 chữ anh hùng lao động. Nhưng cẩn thận! Hỡi những nhà thơ, hãy cẩn thận: đừng bao giờ đứng giữa Lê Đạt và những con chữ. Cũng như, tôi đã nói, đừng đứng giữa gấu mẹ và gấu con. Mặc dầu gấu là gấu chợ.
5. Vụ việc Nhân Văn Giai Phẩm thế mà đã ngót nghét 50 năm. Trong một thiên niên đất nước chúng ta đầy biến động tang thương, cứ kể thêm một nỗi đau, lại thêm một lần ngậm ngùi, thêm những đêm mất ngủ. Nhưng thêm một cơ hội để ngẫm chuyện xưa hòng tránh cho ngày sau những u tối đớn đau, những trói buộc thắt cổ tương lai trong cái tròng của giặc nghèo và giặc dốt. Tôi từng nói với Lê Đạt, thế nào cũng phải một lần nói về cái tinh thần Nhân Văn cuối thập niên 50. Thật ra, cái tinh thần ấy nằm trong bài báo cáo của Nguyễn Mạnh Tường, đặt lại vấn đề "chính trị thống soái”, đòi hỏi ít nhiều tính dân chủ ở phân công để người nào việc nấy với trách nhiệm việc mình làm, và một xã hội pháp trị rạch rồi với một nền tư pháp cần phải có pháp luật nghiêm minh. Thật ra, cái tinh thần ấy là tinh thần của lớp nguời Tây học với giá trị nhân văn Âu Châu, trộn vào truyền thống Nho giáo, cái gốc của phương Đông đang chập chững chuyển mình bước vào hội nhập với thế giới. Và cho đến tận bây giờ, năm 2005, cái tinh thần vừa đề cập vẫn ăm ắp tính thời sự, thậm chí cấp bách hơn tronp sự sống còn ngày một ngặt nghèo của dân tộc, và như một sự đặng chẳng đừng, sẽ thành hiện thực.
Đấy là tinh thần. Trong bóng đêm o ép của những năm văn chương lưỡi gỗ uốn éo chốn cung đình, ngọn lửa Nhân Văn dẫu bị dập vùi nhưng tro than còn đủ sáng để hắt các anh lên vách như những chiếc bóng của hy vọng. Cho đến khi Bến Lạ của Đặng Đình Hưng, Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm, Cổng Tỉnh rồi Mùa Sạch của Trần Dần, Lá của Văn Cao, Xem Đêm của Phùng Cung... góp tiếng vào đời, những hy vọng kia đã đơm hoa nẩy nhụy. May thay! Nhưng đau khổ khốn nạn của các anh không vô ích. Chính bóng đêm Nhân Văn đã đội lên đầu các anh vòng hào quang của những kẻ tử vì đạo. Cái đạo văn chương, không chỉ đơn giản hạ bút xuống viết với cái vốn tài hoa trời cho là xong, mà còn… với những giọt nước mắt của tai ương mà ngày xưa, đã có Tố Như dặn dò, chữ tài liền với chữ tai một vần.
6. Chúng tôi đã gặp nhau 25 năm, đủ để có dịp lang thang bên dòng sông Seine, ngồi uống Cà-phê trước Odéon trên Boulevard St Germain. Đủ để tôi thấy Lê Đạt đúng một lần lãng mạng kiểu tình già Phan Khôi, đúng một lần say, chẳng biết say tình hay say rượu, ngồi sau cô bé đèo anh bằng mô tô ngã sóng xoài giữa Paris cho anh đo đường, rồi anh nôn thốc tháo cạnh miệng cái Métro trước cửa một rạp chiếu bóng. Đủ để nay về Hà Nội, cứ 5 giờ sáng tôi đến gọi cửa số 10 Hải Thượng Lãn Ông, rồi hai anh em đi quanh bờ hồ, một vòng, hai vòng... cứ mỗi vòng là chúng tôi đến gần hơn con mụ già định mệnh chúm chím như định gọi tên Đạt dạo này yếu. Có một thời gian anh bị mất ngủ, và điện thoại về, câu đầu tôi hỏi là dạo này anh ngủ được chưa? Hà hà, cũng được, được rồi!
Nhưng đừng tưởng Lê Đạt già. Tôi xin trích một cuộc phỏng vấn của báo Sinh Viên Việt Nam:
‘‘Phản đề’’ dành cho người Việt trẻ
Nhà thơ Lê Đạt, dù tuổi đã ngoài 70 vẫn là một người trẻ lạ lùng. Trẻ, ở trong tâm hồn và tính cách lẫn những cách tân trong thơ ca Việt -cho dù cuộc đời ông như chính nhà thơ thừa nhận là rất ‘‘ly kỳ’’ và chịu nhiều thăng trầm dâu bể. Trẻ, ở chính cái cách mà ông nhìn nhận rất ‘‘thiện chí’’ và cởi mở về lớp trẻ, về thế hệ trẻ hiện nay...
Báo Sinh viên Việt Nam (SVVN) đã có cuộc trò chuyện cùng ông trong một ngày đông cuối năm ở một ngôi nhà phố cổ Hà Nội về những câu chuyện của người Việt trẻ trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa đồng thời phát triển những giá trị truyền thống dân tộc. Và làm sao để loại bỏ được những lực cản khách quan và chủ quan, những ‘‘tảng đá’’ giáo điều đeo đẳng trên lưng, những mặc cảm nhỏ nhen, những kiến thức và tình cảm vụn vặt để những người Việt trẻ sẵn sàng cho một cuộc ‘‘leo núi’’ đỉnh cao như nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn từng ao ước. Câu chuyện bắt đầu từ khát vọng và ước mơ của những người trẻ.
SVVN: Tất nhiên tuổi trẻ ai cũng đầy mơ mộng và khát vọng, nhưng có nuôi được và biến nó thành thực tế không mới là chuyện đáng nói.... Trong thơ ông, tôi cũng đọc được: ‘‘Những ước mơ xưa/Như con chim gãy cánh/ Rũ đầu chết ngạt trong bùn/ Năm tháng mài mòn/ Bao nhiêu khát vọng’’...
LĐ: Tôi cho rằng để sự mơ mộng và khát vọng trở thành hiện thực phải đòi hỏi rất nhiều ở sự can đảm và kiên trì. Ở đó, không có "đất" cho sự thực dụng và những toan tính tầm thường, ở đó cũng không có cơ hội cho những người thiếu lòng đam mê và dũng cảm. Để nuôi khát vọng, nó đòi hỏi sự đam mê thành thật, thậm chí vác cả sự đam mê trên vai mà trèo đèo lội suối để biến nó thành sự thật. Với những người trẻ tuổi tôi có một lời khuyên chân thành: đừng bao giờ sống 50%, đừng bao giờ yêu 50% và cũng đừng bao giờ làm 50%. Sự nửa vời cũng là một trong những lý do để người trẻ phản bội lại ước mơ của mình....Tuổi trẻ mà không có khát vọng tức là chưa kịp trẻ họ đã già hay ngược lại là đã già ngay từ khi còn trẻ. Họ là những đứa trẻ chết già.
SVVN: Những khát vọng nào của tuổi trẻ đáng được biểu dương nhất?
LĐ: Có rất nhiều khát vọng đẹp, nhưng tôi thích nhất ở những người bạn trẻ tuổi là khát vọng lên đường, khát vọng đi tìm những miền đất mới những lĩnh vực mới. (Xã hội nên có những động thái tốt đẹp dành cho những người tìm đường). Và tôi nghĩ, càng có nhiều khát vọng lên đường, tuổi trẻ càng dễ phá bỏ được những định kiến, những cái cũ ở ngay trong chính bản thân họ cũng như xã hội bên ngoài...
SVVN: Ngoài chuyện thiếu khát vọng, sự dễ hài lòng và sống 50%, theo ông có những lực cần nào nữa kéo sự phát triển của người trẻ lại?
LĐ: Có những tính cách xấu lâu ngày biến thành những khuyết điểm của người Việt Nam, đó là không có ý thức về sự hoàn chỉnh, thói quen không có kỷ luật, không đi đến tận cùng cái mình đang có, dễ hài lòng và chấp nhận thực tại, căn bệnh tiểu nông, tiểu thủ công nghiệp manh mún giật gấu vá vai... Điều này dần đến một thói ứng xử xấu nữa là dễ tặc lưỡi cho qua. Một người già chép miệng hoặc tặc lưỡi cho qua đôi khi còn thông cảm được vì sự ‘‘lực bất tòng tâm’’ nhưng với một người trẻ thì rất nguy hiểm. Tại vì khi chép miệng là lúc anh bước từ một cõi thực tế sang một ‘‘cõi’’ ảo, một ‘‘cõi’’ đầu hàng, buông xuôi. Khoảng cách giữa chúng rất nhanh nhưng lâu dần nó cuốn anh đi rất xa. Nếu nói, điều tôi ghét nhất trong tính cách của người Việt là thói chép miệng, nghe thì có vẻ đơn giản nhưng thực ra khi anh chép miệng, phần nhân tính trong anh đã bị buông xuôi và anh đã dễ dàng ‘‘đồng hoá’’ với sự thất bại, với thói xấu.
SVVN: Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng lớp trẻ ngày nay có vẻ hơi ‘‘vô thần, vô đạo’’, thực ra thì theo ông, lớp trẻ có nên nuôi trong mình những ‘‘tín điều’’ không?
LĐ: Vô thần thì nên, nhưng vô đạo thì không nên. Con người nên có những tín điều nhưng không nên thờ thần tượng vì thần tượng là sự xuống cấp của tín điều. Nhìn lịch sử tiến triển của loài người mình phải đứng trên vai của quá khứ mới thấy được tương lai chứ núp bóng quá khứ thì tương lai không bao giờ thấy được.
SVVN: Vậy thì theo nhà thơ, lớp trẻ nên ‘‘núp bóng thần tượng’’, ‘‘đạp đổ thần tượng’’ hay ‘’đứng trên vai thần tượng’’?
LĐ: Bản thân của sự phát triển văn hoá là chống lại thần tượng. Nói như Trang Tử là ‘‘vứt trí bỏ thánh’’ để trở lại suy nghĩ của chính ta. Nói đạp đổ thần tượng thì nghe có vẻ hơi phạm thượng nhưng tôi nghĩ rằng không sai và nói gì thì nói, nếu được coi là thần tượng tức là họ đã ghi được dấu ấn giá trị trong lịch sử, hiện tại và tương lai nên để lớp trẻ khai phá. Tốt nhất, là đứng trên vai thần tượng vì ở trong hoàn cảnh đó, thần tượng đã làm được một việc có ích là giúp lớp trẻ có một cái nền cao ráo và vững chắc.
SVVN: Trước đây, nhà thơ Lưu Quang Vũ than ‘‘Tôi chán cả bạn bè/ Mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới’’. Gần đây, cả Văn Cầm Hải và Phan Huyền Thư đều nói đến "Những giấc mơ của lưỡi". Nhà thơ Dương Tường thì nhận xét "Có nhiều người nghĩ khác, nhưng ít ai sống tận cùng với cái khác của mình"...Một trong những điều mà giới trẻ tự chán mình là họ đang càng ngày càng cũ, càng nhạt? Ông có cảm thấy điều đó?
LĐ: Tôi chống lại sự nhàm chán nhưng không có nghĩa là tôi sống khác với tôi. Hãy sống thật với chính anh thì anh sẽ khác với những người khác chứ không phải ‘‘chủ trương’’ để sống khác. Vì nếu khi anh sống khác anh tức là anh không thật với chính mình. Còn nếu khi anh tự chán mình, chán bạn bè mình là lúc anh đang khao khát để thay đổi, khao khát sự ‘‘vận động” của lưỡi.
SVVN: Vậy ông ‘‘khuyến khích điều gì trong cách sống của giới trẻ’’!
LĐ: Tôi khuyến khích sự lao động cần cù và kiên trì của lớp trẻ, từ bỏ cách nghĩ cách làm việc "ngắn hạn", "ăn xổi" và bệnh "khoa trương", "ồn ào". Tập cho mình những tầm nhìn "dài hạn" và đi đến tận cùng cái "tư duy dài hạn" ấy. Trong cuộc sống, thư giãn hãy "bình thường tâm", đừng "phân thân" nhiều quá. "Khi đói ta ăn, khi mệt ta nghỉ" như lời dạy của một thiền sư, chứ đừng khi ăn lại nghĩ đến chuyện khác và khi nghỉ cũng nghĩ đến những chuyện khác.
SVVN: Và trong tâm hồn, trong thơ ca? Là một nhà thơ không ngừng cách tân thơ Việt, cuối cùng ông nghiệm ra điều gì quý giá nhất ở thơ ca?
LĐ: Thơ là mỹ học và đạo đức học. Cái đẹp trong câu thơ kêu gọi sự cao thượng. Và nên hiểu thơ ca cũng là một sự lao động ngôn ngữ đầy gian khổ chứ không chỉ là cảm xúc thẩm mỹ thuần túy (Chữ bầu nên nhà thơ). Nhà thơ, nhất là các nhà thơ trẻ hãy tập cho mình một cách sống gian khổ (chứ không phải cực khổ), một sự "ly kỳ" trong tinh thần. Nhưng đáng buồn nhất cho những nhà thơ ‘‘ly kỳ” trong đời thật nhưng lại tẻ nhạt trong đời chữ!
SVVN: Sự "ly kỳ" trong đời người, đời chữ của ông, nếu được nói bằng thơ..?
LĐ: Thơ ca, cuối cùng với tôi vẫn là cảm xúc mỹ học và cái đẹp của sự cao thượng. Tôi thích những câu thơ giàu cảm xúc: Vườn thức, một mùa hoa đi vắng/ Em ở đây mà em ở đâu/ Hay Tim lặng lạnh góc bồ đề mưa cũ/ Chim gõ mõ kiếp xưa, chưa rũ hết lụy tình...
SVVN: Điều cuối cùng, nhân dịp mùa xuân mới, mùa như các nhà thơ nói ‘‘ươm mầm, chồi xuân, lộc nõn...’’, nhà thơ có một lời chúc nào dành cho những người bạn trẻ?
LĐ: Tết ở ta có một tục lễ cổ truyền rất hay là xông đất. Tôi chúc các bạn trẻ đầu năm mới hãy ‘‘xông đất’’ nhiều hơn, ‘‘xông đất’’ nhiều lĩnh vực mới hơn nữa...
7.‘‘...Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn Tiền Chiến!” là lời Trần Dần khi anh vào thăm anh em Sông Hương mười lăm năm về trước. Anh sốt ruột, đợi và năm anh rời chân về nơi thiên cổ thì chắc anh vẫn còn đợi.
Chôn thơ Tiền Chiến, không dễ nhưng có Nhân Văn. Chôn thơ Nhân Văn cũng chẳng dễ, nhưng văn xuôi thì không khó. Đầu tiên, Dương Thu Hương mang cuốc xẻng tới dọn đất với tinh thần bất úy trong hành trình tiểu thuyết. Rồi Nguyễn Huy Thiệp đào một lỗ huyệt khá rộng với Truyện Ngắn. Sau, Phạm Thị Hoài đến cời đất, thắp hương. Và Nhật Tuấn, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thân...lục đục khua chuông gõ mõ trong nước. Đấy là chưa kể bên ngoài, dòng văn hải ngoại dẫu gì cũng đỡ ngột ngạt hơn, với tiểu thuyết Nguyễn Mộng Giác, bút ký Cao Xuân Huy, truyện ngắn Trần Vũ, Mai Ninh, Vũ Quỳnh Hương... Đồng thời, mươi năm gần đây, văn xuôi trong nước có thêm Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Viện... Truyện ngắn, sau Đỗ Phước Tiến và Nguyễn Thị Ám, nay xuất hiện Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu... Về thơ, chôn Nhân Văn khó nhưng có Thanh Thảo, Hoàng Hưng...Rồi Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Quốc Chánh, Nguyễn Hữu Hồng Minh...Ngoài nước cũng có chẳng hạn Khế lêm, Chân Phương, Đỗ K... Họ đi một hàng dài mặc T-Shirk quần zin, và rất mong ngày hạ huyệt với kèn saxo, đàn trống Yamaha và một cây Đại Huyền Cầm búng dây nổ rền rền thứ thanh âm của sấm chớp. Chỉ sợ chưa đến mùa giông. Nhưng đã đến lúc chúng ta nên thòng dây buộc áo quan tiễn vào lòng đất một thời đã qua. Và nếu thật sự làm được như vậy trong Thơ, thì chỉ khi đó những nhà thơ hậu Nhân Văn mới đáp đền mong đợi của những kẻ đi trước vẫn cứ còn sốt ruột đợi ba thước đất vùi mình. Để cho nàng Thơ tiếp tục bay cho cao bay cho xa, như ước vọng Lê Đạt trong Giai Phẩm Mùa Xuân Tết Bính Thân 50 năm xa xưa về trước.
9. Việt Nam, con ngươi từ những bóng ma
Tôi sinh ra đã luân lạc. Hai tháng vào cuộc trần gian, tôi từ Hải Hậu chạy đói và chạy loạn lên Nam Định. Năm sau, về Văn Ấp với mẹ, tôi sống trong gia đình ông bác trong vùng tự do, tập đi thì lững chững đuổi những cô bướm áo vàng sắc lụa, những chú chuồn kim thân xanh mầu biển, tập nói thì ngọng ngịu hát... ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng. Khi Tây càn tôi chìa khẩu súng bằng gỗ do ông anh họ đẽo cho qua lỗ châu mai căn hầm bắn ra, miệng kêu đùng đoành, khiến bà chị hốt hỏang bịt lấy miệng, cấu vào tay, mặt cắt không còn hạt máu, kêu nho nhỏ im đi kẻo chết. Kinh nghiệm kháng chiến chống Pháp của tôi chấm dứt bằng sự ám ảnh im đi kẻo chết, và chẳng biết thế nào, trên những bước truân chuyên một đời, tôi lúc nào cũng mang phản xạ chống lại cái ấm ức ngậm miệng mặc cho là không nói ra thường đồng nghĩa với cách ứng xử khôn ngoan để tồn tại. Mẹ tôi dinh tê khi cha tôi từ Cao Bằng xuôi về. Cha tôi bỏ giấc mơ kháng chiến sau khi chính phủ Bảo Đại được thành lập, về họp tác và đưa chúng tôi đến nơi nhiệm sở là quận Kiến Thụy. Năm ấy tôi lên năm, bắt đầu cảm nhận được có một cái gì đó chông chênh như những nỗi buồn vô cớ khi tôi nghe chị Thược hát. Chị thời đó đã nhón chân bước vào thời con gái, dịp nghỉ học về ở chơi với thầy me, cứ khi trời mưa là ra đứng dưới mái gianh, hát nho nhỏ ‘‘… ai có nghe tiếng hát hành quân xa...mà không nhớ thương người mẹ già, ngồi đan áo cho con’’...Quận Kiến Thụy bị Việt Minh tấn công. Không khí bất ổn đưa chúng tôi lên tỉnh Kiến An. Ngày đi, tôi tìm chị Thược trao cho chị cái hộp gỗ tôi thường bắt cào cào châu chấu bỏ vào. Tại sao, chị hỏi. Tôi lúng búng, đáp không biết. Nhưng chỉ khi chị nhận tôi mới thở phào để rồi mãi những năm sau tôi hiểu ra là mình đã trả một món nợ vô hình mình tự gán cho mình. Kiến An năm sau cũng lại bị đột kích. Gia đình chúng tôi lên Hải Phòng, và năm 54 chúng tôi di cư vào Sài Gòn trên một chiếc máy bay phải nằm bò trên sàn, lắc lư, ói mửa theo độ dập dình lên mây xuống gió. Chín năm sau, tôi lại lên máy bay, lần này có ghế ngồi, bay qua Thái Bình Dương. Và đến nay, tôi đã sống 42 năm ở nước ngoài. Nhưng tôi vẫn trăn trở với những món nợ. Một người bạn chí tình bảo, cậu có nợ là nợ nơi cưu mang cậu, để cậu có dịp học hành, làm người, cớ sao cậu cứ dằn vặt mình vì những chuyện trời ơi ở cái xứ sở đã từng đuổi cậu ra ngoài như một thằng tội phạm. Những chuyện trời ơi! Không. Cái ngôn ngữ tôi cưu mang như hành trang trong cả những giấc mơ dữ lẫn lành, điều cho phép tôi xác định mình trong 6 tỉ con người ở trên trái đất? Cái lịch sử đất nước khiến tôi, khi tự hào, khi buồn tủi, vẫn là một phần lịch sử của chính tôi? Tôi không đếm số năm để cân đo sức nặng của một ràng buộc. Cái hộp gỗ trao tay chị Thược chưa đáp đền được câu hát về những bà mẹ già chờ con, những người lính đã nằm xuống trong những cuộc hành quân mà điểm hẹn cuối cùng là chốn u linh. Được mất trong cuộc trần gian đều thành vô nghĩa cho kẻ đi nhưng lại vô cùng quan hệ đến kẻ ở. Nhưng tôi, là kẻ ở lại. Tôi, một người mắc nợ. Và lại là cái nợ tự gán nên dẫu biện bạch cách nào tôi cũng không thể trốn nợ cho được.
Tôi viết những dòng chữ này để trả nợ. Nợ những người đã nằm xuống. Nợ những người còn sống. Nợ những bóng ma chưa siêu thoát. Tất cả, tôi đã gặp trên nẻo đoạn trường những con đường xa. Cái nợ khi nhân cách hóa thành là nợ những khuôn mặt trên những con đường tình cờ. Và cái nợ cuối cùng là tôi nợ một người bạn trẻ, tên Nguyễn Bình Minh, hứa sẽ trả khi chúng tôi cùng đến một cái mốc năm tháng khó quên. Sắp tới ngày 30-04. Đếm, thế là đã 30 năm từ ngày Giải Phóng. Sờ lên, đầu tôi nay chập chờn lau trắng. Tôi còn bao nhiêu thời gian? Đã là lúc ngoảnh nhìn về sau. Nhưng để làm gì?
Tôi gặp Bình Minh trong chuyến về Huế cách đây dăm năm. Đi thăm lăng Minh Mạng, lơ ngơ thế nào tôi hụt mất chiếc thuyền máy cho khách tham quan đủng đỉnh rời bến mặc cho tôi vẫy tôi gọi. Một thanh niên lễ phép đề nghị chở tôi bằng Honda rượt thuyền. Leo lên sau, xe vù đi trên những con dốc ngoằn ngoèo, leo lên rồi trượt xuống, làm xiếc mà không khán giả, đùa với những tai họa của tình cờ. Thôi em, khỏi rượt thuyền. Xe ngừng. Tôi thở ra, buột miệng, đường xa thấy nỗi sau nay mà kinh. Bình Minh trầm trồ, a...anh cũng thuộc Kiều. Chuyện trò, tôi mới biết Bình Minh người Nam Đàn, Nghệ An. Bình Minh thốt, quê Bác đấy. Tôi mỉm cười, này cậu có biết cái câu sấm Trạng Trình gì có nơi... bò rống rồi Nam Đàn sinh thánh không? Anh hỏi thật hay lỡm? Tôi đáp, thật. Tôi hỏi, cậu ở Nghệ, vô đây làm chi? Bình Minh đáp, em đi học Quản Trị ở đại học Huế. Nói đến đó, Bình Minh chép miệng, thật ra thì em thích môn Sử, nhưng đất nước mình cần làm kinh tế tốt đã! Bình Minh hỏi lại, tôi đáp tôi giảng dậy Kinh Tế, nhưng chỉ “lý thuyết” chứ chẳng thể kiếm ra tiền ức tiền triệu để mà xây dựng đất nước đâu. Bình Minh có vẻ thất vọng. Tôi thấy thế, đành nói, thì ta trao đổi chuyện Sử vậy, đó cũng là điều tôi rất quan tâm. Mắt sáng lên, Bình Minh gật đầu. Tôi lấy Kiều:
Ngoảnh nhìn một cuộc vần xoay.
Đường xa thấy nỗi sau này mà kinh...
- Những ngày này ở Huế, sinh viên được nghỉ. Nếu anh muốn, Bình Minh vui vẻ, em sẽ hướng dẫn du lịch cho anh.
Ngoảnh nhìn...
Bình Minh đưa tôi đến đàn Nam Giao, nơi vua chúa nhà Nguyễn tế lễ đất trời cho mưa hòa nắng thuận. Trời mưa sụt sùi, nay nhìn lại những tấm ảnh chụp ngày đó mà tưởng chúng vẫn còn hoen ố nước, tiêu điều dưới bầu trời nặng trĩu mây đen. Khi đó tôi buột miệng: Ai vô xứ Huế thì vô... Nay, có đâu người sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang!. Bình Minh nói tiếp, rồi nửa đùa nửa thật, lập lại câu danh ngôn, rằng nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó... Tôi nhẫn nại nghe Bình Minh, hỏi lại “Thế cậu có đọc Hoàng Lê nhất thống chí chưa? Cậu có để ý khi Nguyễn Nhạc gặp vua Lê, hai người còn nói với nhau là nước tôi với nước ông... Nếu bảo nước Việt Nam là một, thì chỉ bắt đầu với Gia Long, tức là từ 1802. Kể cái thời gian 80 năm bị thực dân Pháp phân ra làm 3 Kỳ, sau là 10 năm kháng chiến chống Pháp, rồi 20 năm chia cắt từ hiệp định Genève đến 1975, thì thời gian cho nước Việt Nam là một quá ít ỏi...”. Bình Minh chau mày “...còn dân tộc, là một?”. “Cũng không! Việt Nam là một lãnh thổ đa sắc tộc. Nhưng chúng ta có một ngôn ngữ chung cho đa số là người Việt. Có chung một ngôn ngữ, tức chia chung một văn hóa. Thể hiện của văn hóa là những con người sinh nhai thế nào, sống với nhau ra sao, đồng thuận cơ bản về một thể chế xã hội, một hướng nhìn tương lai, và góp tay xây dựng tương lai đó! Nhìn dưới góc độ này thì chưa là một đâu…’’
Chúng tôi lên Honda. Bình Minh đưa tôi vào Thành Nội, mặt thoáng nét băn khoăn. Đã định thôi không nói chuyện lịch sử nữa, tôi lăng nhăng hỏi qua quít này nọ, nhưng Bình Minh đáp nhát gừng. Ngừng xe, Bình Minh chỉ, đây là Ngọ Môn. Nhìn lên, tôi nghe Bình Minh nói, chỗ này là nơi Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Nơi đó, nay sơn son thếp vàng như một cái cổng chùa Tàu. Chạnh nghĩ đến hôm đi thăm đền vua Đinh tuần trước ở Hoa Lư, chỗ nào cũng một kiểu, bôi đỏ loe đỏ loét...Tượng thì vẽ lại, một anh cán bộ phụ trách trùng tu những di tích lịch sử bảo, phát hiện họa sĩ vẽ râu, vẽ cả cho Dương Vân Nga rồi lại phải xóa, có ai biết là đàn bà đâu! Tôi nhìn những cột gỗ lim hai người ôm. Một cột, mối ăn thủng một đầu, vứt lăn lóc cạnh lối đi, lên nước bóng loáng sau cả nghìn năm trơ gan cùng tuế nguyệt. Những chiếc cột khác, nay đều sơn son thếp vàng, vẽ rồng vẽ phượng, và nhất là những đám mây cho rồng bay phượng múa. Bật miệng, tôi nói cứ để nguyên mới đẹp. Anh cán bộ cười: ‘‘để nguyên thì lấy đâu ra ngân sách, trên Ủy Ban nhân dân bảo thế, muốn có tiền thì phải vẽ ra chuyện mà làm chứ! Truyền thống bây giờ cực hợp thời, anh ạ!’’ Tay xoa cái cột mối ăn, tôi suỵt soạt tiếc rẻ. Anh cán bộ bảo, thích lấy về mà dùng, tôi đổi anh nửa con dê. Lúc đó tôi nhìn ra chân núi. Ở Hoa Lư, người ta nuôi dê, hàng đàn. Vấn đề là làm sao chuyên chở cái cột mối ăn có thể sẽ bị chẻ ra làm củi. Đành chịu!
Bình Minh vào mua vé tham quan. Đứng đợi, tôi ngẩn ngơ nhìn, như thấy lại Bảo Đại mặc hoàng bào, trân trối nhìn lá cờ quẻ Ly kéo xuống, và cờ đỏ sao vàng kéo lên. Trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu, một vương triều cáo chung. Gia Long, người đã mang Bá Đa Lộc vào đất nước mình, dặn Minh Mạng phải coi chừng bọn Tây Dương. Thế là cấm đạo, rồi phân tháp, rồi bế quan tỏa cảng. Chỉ 60 năm sau khi nhà Nguyễn nắm quyền, thực dân Pháp đã chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Cuộc xâm lăng tiếp tục đến 1884 thì Tự Đức không còn gì ngoài cái ảo tưởng trị vì của một ông vua chỉ còn cái ngai bằng gỗ sơn son thếp vàng. Khi Nhật biết sẽ bại trận, Bảo Đại được phép tuyên ngôn độc lập và xin trả lại Nam kỳ về một nước Việt Nam thống nhất. Nhưng chỉ một việc chuyển gạo miền Nam ra cứu 2 triệu người chết đói ở Bắc kỳ cũng không làm nổi. “Thôi, Bình Minh nói, Bảo Đại xuống cũng phải!”. Dĩ nhiên. Nhưng đừng quên công lao nhà Nguyễn. Từ thuở Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân, họ đâu ngồi yên, xua quân Nam tiến. Người Việt chúng ta cũng từng đi xâm lăng. Vương quốc Chăm bị tiêu diệt. Người Chân Lạp giạt xuống cực Nam, rồi về phía Tây, nơi này ta gọi là Campuchia. “Bây giờ lại có vấn đề ở Tây Nguyên đấy!” Bình Minh chép miệng.
Chúng tôi vào Thành Nội. Nhìn quanh, không mấy khác với Cấm Thành ở Bắc Kinh, chỉ nhỏ hơn, nghèo hơn. Nhưng khung cảnh chung quanh tuyệt vời. Tôi hỏi, nơi nào là nơi ở sông Hương mà Nguyễn Huệ chọn làm chỗ tiến công kinh thành Phú Xuân do tướng nhà Trịnh trấn thủ. Không ai biết. Bình Minh hớn hở “Tây Sơn mới là triều đại đã thống nhất đất nước, có phải không anh?”. Không. Nhưng chẳng lẽ cứ tiếp tục thế này, gì cũng không à? Lỡ rồi nên tôi tiếp, Nguyễn Lữ vào Gia Định nhưng không bao giờ ở lâu, hễ có chuyện đao binh là lại “zọt” về Quy Nhơn. Nhạc thì thích thú làm ông vua một cái thành nhỏ. Phần Huệ tham vọng lớn hơn, nhưng chỉ lên ngôi vua khi đại phá quân Thanh, về ngồi chưa kịp nóng ghế Hoàng Đế ở Phú Xuân đã vội ra người thiên cổ [2]. Cuộc khởi nghĩa nông dân là chuyện tào lao, vì dưới thời nào cũng sưu cao thuế nặng, bắt lính xung quân, bỏ con thơ vợ dại, đi đánh nhau thì đánh cho ông tướng bà chúa, làm gì có cái chuyện ý thức “giai cấp đấu tranh” đời sau tô vẽ ra [3]. Nói xong, tôi biết là Bình Minh bực bội. Không kìm được, Bình Minh hỏi “Sách vở em học, đều nói thế! Anh lấy chứng cớ gì mà cứ nói ngược?”.
Thế ai thống nhất đất nước? Bình Minh thắc mắc. Nếu gọi đất nước là từ Nam Quan đến mũi Cà Mau thì Gia Long là người làm cái việc thống nhất đầu thế kỷ 19, tôi đáp. Sau, thì sao? Bình Minh gặng hỏi. Khi ấy chúng tôi bước về phía sau Thành Nội. Tôi không đáp, lặng nhìn một bức tường đổ nát nằm chắn ngang, sạt hai đầu, trên lổn nhổn những lỗ đạn xoáy vỡ lớp ngoài để phơi ra lớp trong mầu trắng đục như xương người. Những viên đạn đó bắn ra trong cuộc tổng công kích và nổi dậy năm Mậu Thân, để lại cho những năm sau một Huế ngổn ngang thương tích. Không thấy tôi trả lời, Bình Minh vung tay, nói như đinh đóng cột:
- Sau, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giải phóng dân tộc, giành độc lập, và thống nhất đất nước!
Tôi nhìn vào cặp mắt Bình Minh trong sáng, lòng bỗng chớm ngậm ngùi. Em đã được học gì trong lịch sử cận đại thì tôi cũng biết. Ba mươi năm qua, không hiểu bao nhiêu lần câu trên được lập đi nhắc lại đến độ tiềm thức cũng mất phản xạ, não bộ thu và nuốt thông tin không cần lý lẽ để tiêu hóa, tất cả nhằm đưa ba vòng hoa vinh quang là độc lập - giải phóng- thống nhất lên bàn thờ Tổ Quốc như của thế chấp cho những kẻ cầm quyền, bất luận thực tiễn nay ở đâu, và tương lai mai mốt thế nào. Nguy hiểm hơn, ba vòng hoa kia ngụy hóa thành ba vòng kim cô, xiết vào đầu những kẻ nào suy nghĩ chệch đường phép tắc chính thống. Tôi nhỏ nhẹ:
- Không ai phủ nhận kiểu phẩy tay bảo Đảng không công lao. Nhưng bây giờ, đâu phải lúc tranh công luận tội, chẳng ích gì. Có lẽ điều phải quan tâm là thực chất và nội dung những điều em vừa nói và cái giá phải trả, với những sự kiện lịch sử nhìn từ nhiều chiều và có thể kiểm chứng được. Phải tránh ngộ nhận, những úp mở có ý đồ đánh lận con đen, những sự thật cắt xén kiểu gọt chân cho vừa giầy...
Độc lập?
Ngày xưa, tôi rất băn khoăn với những điều Bình Minh vừa mới đề cập tới. Trước khi hoạt động phản chiến với những người trong Hội Việt Kiều Yêu Nước ở Canada, tôi bỏ ra nhiều thời gian để tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhớ lại những trao đổi với bạn tôi, một người có suy tư độc lập tham gia phong trào thời đó, tôi kể:
- Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2-09-1945 là món tả pí lù, tôi phẩm bình, câu đầu lấy trong bản tuyên ngôn Mỹ, vài câu sau thì là tuyên ngôn nhân quyền của Cách Mạng Pháp, rồi 3 chữ Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc biểu trưng cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì lại từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên bên Tàu!
- À, bạn tôi chép miệng, quân Nhật đầu hàng, từ vĩ tuyến 16 trở ra quân Anh-Ấn đến giải giới. Còn miền Bắc là quân Tưởng Giới Thạch, có hậu thuẫn của Mỹ. Thế nên phải đánh bài ba lá, tuyên ngôn thế nào cho đẹp lòng tất cả thôi...Nhưng chuyện quan trọng hơn là Hiệp Đinh Sơ Bộ (HĐSB)!
-...?
- Mười tám vạn quân Trung Hoa Dân Quốc vào giải giới quân Nhật, theo chân là Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng Minh hội, đều là những đảng phái Quốc Gia chống Cộng, trong khi Việt Minh người ít, khí giới không có [4]! Các “vị” lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dương lo chuyện sống còn, giải tán Đảng, thành lập Chính Phủ Liên Hiệp và cố nhanh chóng hợp thức hóa Chính Phủ qua một cuộc bầu cử Quốc Hội để có cái thế chính danh mà điều đình. Cuối tháng 2, hiệp ước Hoa-Pháp ký kết, quân Tưởng rút để quân Pháp vào miền Bắc, các “vị” đành gấp rút ký HĐSB, bỏ hai chữ Quốc Gia độc lập thay vào bằng hai chữ tự do, còn quyết định về thể chế ở miền Nam thì sẽ thông qua một cuộc trưng cầu dân ý. Nhưng thật oái oăm, tự do trong HĐSB lại là tự do trong Liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp, khi đó chưa có quy chế, rất mù mờ [5]...Hồ Chí Minh và các “vị” tìm cách tranh thủ thêm khi ký kết một Hiệp Định Pháp-Việt chính thức ở Fontainebleau với Chính Phủ Pháp!
-...và lại bất thành!
- Phái đoàn Chính Phủ Việt Nam bỏ về trước. Hồ Chí Minh ở lại, ký được bản Tạm Ước, nội dung là một bước lùi so với HĐSB, chiều hướng là Việt Nam sẽ chẳng có quân đội và ngoại giao riêng trong Liên Hiệp Pháp [6]. Một hội nghị dự định sẽ họp ở Hà Nội vào tháng 2-1947 để chính thức hóa những thỏa hiệp trong Tạm Ước. Nhưng khi Hồ Chí Minh vừa lên đường sang Pháp, anh tu xuất D’Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông
Dương, đã đơn phương lập ra Chính Phủ một nước Nam Kỳ tự trị, tiến đánh Tây Nguyên và vùng thượng du Bắc Kỳ. Ở Pháp, mặc dầu đảng Cộng Sản Pháp trở thành chính đảng số một và liên minh với đảng Xã Hội để thành lập Chính Phủ phe tả, không có một dấu hiệu gì khả quan cho Việt Nam. Ai cũng biết chiến tranh rất khó tránh [7]!
- Sau là cuộc xung đột ở Hải Phòng, và lệnh Kháng Chiến Toàn Quốc vào ngày 19-12-1946. Khi đó, dân khí lên rất cao, dân ở mọi tầng lớp nơi nơi tản cư, tòng quân, về vùng tự do và các chiến khu, tiếp tục chiến đấu giành độc lập. Bốn năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp với những anh bộ đội cụ Hồ có thể là những năm đẹp nhất của cả dân tộc trong thế kỷ 20. Đẹp và lý tưởng vô cùng! Chỉ một điều đáng tiếc...
- …
-...là song song với cuộc kháng chiến chống thực dân, các “vị”lại ươm mầm cho một cuộc nội chiến. Trong cái thế đấu tranh chính trị đầu năm 46 giữa Việt Minh và những người Quốc Gia (Việt Cách và Việt Quốc), chuyện khủng bố từ cả hai bên đáng tiếc nhưng khó tránh. Nhưng sau đó, khi Quốc Gia đã bỏ chạy, Việt Minh truy kích và tiếp tục một cuộc tàn sát có thể nói là không mấy cần thiết! Số người chết có thể lên đến 4,5 vạn [8], ở chiến khu 3 của Việt Nam Quốc Dân Đảng, chiến khu Hòa Bình-Ninh Bình của Đại Việt Duy Dân, những thành viên của Đại Việt Quốc Dân đảng, nhóm đệ tứ Trốt-Kít, người của Việt Nam Quang Phục hội sau theo Việt Cách...Rất nhiều yếu nhân những đảng phái Quốc Gia bị thủ tiêu. Tạm kể, có Trương Tử Anh, Lý Đông A, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Phú Sổ, Khái Hưng...Tóm lại, phe Quốc Gia mất gần hết những lãnh tụ có bản lĩnh. Thực dân Pháp vỗ tay, vì sau, nếu có chính phủ Quốc Gia nào thì khả năng họ cũng chỉ làm bù nhìn, đúng như với Chính Phủ Bảo Đại thành lập ra cuối năm 1949 sau khi Pháp chấp nhận Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp với những điều kiện còn rộng rãi hơn HĐSB trên giấy tờ văn bản. Và Việt Minh, với lá cờ chống Pháp thu về tay, khi phất sẽ phất một mình, ai không theo tức không yêu nước, tức Việt gian, tức phản quốc, đúng sách lược Xứ Ủy Bắc Bộ đã vạch ra từ thời tiền khởi nghĩa, vào tháng 3-45, với “Đội Danh dự trừ gian” mà nhiệm vụ là đi ám sát...
Trả giá nào cho một chiến thắng?
Chúng tôi bước lên thềm điện Thái Hòa. Ngai vua, nay cũng lại sơn son thếp vàng, trơ trẽn nằm giữa một cái thảm đỏ xung quanh chăng dây chặn không để khách tham quan đến gần. Chiếc ngai nhỏ, chắc xưa các vị vua triều Nguyễn không cao lớn gì, vừa vặn với cái tầm nhìn không quá được tháp chuông chùa Thiên Mụ, chẳng bì được với Minh Trị Thiên Hoàng, kẻ kịp thời canh tân nước Nhật giữa thế kỷ 19. Bước vòng vòng theo chân một đám du khách, tôi nói cái ý ngộ nghĩnh đó rồi im lặng. Bình Minh có vẻ nóng ruột, tấp tểnh rủ ra ngoài, tôi trù chắc thế nào cũng hỏi thêm về nước Nhật canh tân. Nhưng tôi đoán nhầm. Nhìn sau không còn thấy ai, bấy giờ Bình Minh lấy giọng nghiêm trọng:
- Nhưng rồi đến chiến thắng Điện Biên, cả thế giới khâm phục ta! Rõ ràng là Pháp thua, phải ký Hiệp Định Genève nhé...
- Tôi cũng khâm phục, như nhiều người, dĩ nhiên! Nhưng chúng ta trả cái giá nào cho chiến thắng ấy?
- Cái gì mà không có giá của nó. Đúng là ta thiệt hại rất nhiều, nhưng Tướng Giáp đâu có dùng chiến thuật biển người kiểu các cố vấn Tàu đề nghị...
- Tôi không định chỉ đề cập đến cái giá trả bằng sinh mạng và thương tật của hàng vạn con người. Đúng là khi nghĩ đến những chiến sĩ đã hy sinh, dẫu có đau lòng nhưng chúng ta chấp nhận rằng chiến thắng nào mà chả dựng trên vô số những nấm mồ của những kẻ nằm xuống. Tôi định nói đến những chuyện khác, oái oăm hơn...Có 2 điều. Thứ nhất, chiến thắng ở Điện Biên Phủ (ĐBP) lẽ ra phải dẫn đến những thắng lợi ngoại giao ở Genève, nhưng thực ra Hiệp Định (HĐ) Genève lại là một thất bại khó chối cãi [9]. Tại sao? Bởi dẫu chiến thắng quân sự,Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa của các “vị” lại thất bại trên mặt ngoại giao vì nước ta mất không hẳn có độc lập. Từ đó, thứ hai là, cũng vì vậy, trong giai đoạn 53-56, Việt Nam phải tiến hành một cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), một mặt vì nhu cầu vận động nông dân đóng góp vào cuộc chiến đổi lấy giấc mơ muôn đời là người cầy có ruộng, mặt khác vì bị Trung Quốc và Liên Xô áp đặt mô hình XHCN thời đó. CCRĐ đã phá nát truyền thống đạo lý, gây ra những nứt rạn không hàn gắn được trong xã hội, nhất là ở nông thôn. Chuyện này dẫu dấu nhẹm trong một thời gian, sau này ai cũng biết!
Bình Minh lắc đầu chau mày:
- Sách em học lại viết rằng ngay sau khi ký kết, ngày 22-07-1954, Bác Hồ nói: "... ngoại giao ta đã thắng lợi to” cơ mà!
- Phải nhìn lại cái thế của ta trong bối cảnh toàn cục thế giới. Nhưng ngoài tinh thần anh dũng của bộ đội và tài năng của tướng Giáp, ta cần gì mới có thể đoạt được chiến thắng Điện Biên Phủ? Súng, đạn, lương thực...Và một hậu phương chắc chắn, là Trung Quốc, năm 49 đã về tay Đảng Cộng Sản và Mao Trạch Đông. Chúng ta không thể đánh giặc với tay không! Trước năm 50, với chính sách của Pignon, Pháp đã có ý đồ Việt Nam hóa chiến tranh. Đến năm 51-52, lực lượng người Việt trong quân đội cũng như Bảo Chính Đoàn, gọi là Quân Đội Quốc Gia, lên trên 220.000 người [10]. Đó là chưa kể số quân nhân Pháp, Marốc (Maroc), Sênêgan (Sénégal)...trong những binh chủng chính quy, được Mỹ trang bị vũ khí tối tân, với không quân và hải quân cũng như những lực lượng cơ động áp đảo hoàn toàn trên trời và dưới biển. Tháng 2 năm 50, ông Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh rồi Mạc Tư Khoa, đề nghị với những nước “anh em”(!) chính thức công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như một Quốc Gia, và giúp ta trong chiến tranh chống Pháp. Dĩ nhiên, cái giá phải trả là quay theo cái quĩ đạo của những nước Cộng Sản [11]. Đổi lại, là khí giới và, ở một mức nào đó, cả lương thực... Chỉ sau Chiến dịch Biên giới, thế giằng co với lực lượng quân đội Pháp mới có chiều thay đổi. Pháp thua, rồi trận cuối cùng là ĐBP Thế nhưng 9 năm máu xương kháng chiến ta lấy lại được gì? Một nửa đất nước với HĐ Genève. Chia cắt đất nước đau lòng lắm chứ. Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đề nghị chấp nhận một Việt Nam thống nhất sẽ tiếp tục ở lại trong Liên Hiệp Pháp [12, tức là quay lại khởi điểm 9 năm trước, ngày Hiệp Định Sơ Bộ ký kết vào 6-03- 1945. Nhưng quan muốn Pháp buông tay ở Đông Dương cho Mỹ nhảy vào
-...còn bối cảnh quốc tế anh có đề cập tới? Bình Minh ngắt.
- À, thế này: Đầu năm 1954 Liên Xô đề nghị giải quyết vấn đề Đông Dương. Khi đó, tại hội nghị Berlin, ngoại giao Pháp, Mỹ đồng ý sẽ bàn chuyện Đông Dương ở Geneve, có thêm: Trung Quốc và Ấn Độ tham gia.Thủ tướng Ấn kêu gọi hai bên ngưng chiến nhưng lực lượng đặc biệt của Pháp với 500 cố vấn Mỹ vẫn muốn thực hiện kế hoạch Navarre, bất ngờ bị pháo kích của Việt Minh, và kéo theo bước leo thang của Mỹ trong giúp đỡ về máy bay vận tải và ném bom. Để vận động dư luận và Thượng Viện, tổng thống Mỹ Eisenhower tuyên truyền chủ thuyết Domino. Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Dulles thậm chí còn ngỏ lời với Bộ Trưởng Pháp là Bidault về khả năng dùng bom nguyên tử ở Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, không chỉ các nuớc Xã hội chủ nghĩa, mà ngay cả các nước trung lập cũng muốn hội nghị Geneve khai mạc đúng hạn. Và thế là hội nghị Geneve được tổ chức từ 26-04 đến 21-07, với nghị trình đầu là chuyện Triều Tiên, sau đó mới đến Việt Nam vào ngày 8-05, đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Ngày 10-05, phó thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra quan điểm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đòi Pháp công nhận quyền độc lập và tự chủ của Việt Nam, nhưng cũng xác nhận sẵn sàng gia nhập Liên Hiệp Pháp. Khi ấy, hai khối mang tên Thế giới Tự Do và Xã Hội Chủ Nghĩa đã cắt đôi nước Triều Tiên, và thế là hai nước “anh em” Trung Quốc và Liên Xô ép một giải pháp tương tự với Việt Nam. Nhưng cắt Việt Nam ở đâu? Ta đòi vĩ tuyến 13, rồi lùi dần...Chu Ân Lai, người ngày xưa mai mối và dự lễ cưới của Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh [14], nay gặp lại ông Hồ ở Quảng Châu thuyết phục để vĩ tuyến 17 trở thành vết chém ngang lưng Tổ Quốc.
- Sao thời đó ta không đánh tiếp? Bình Minh gần, giọng ấm ức.
- Súng đạn là do ‘‘anh em” cung cấp thì thắng bại là có phần “anh em” quyết định! Khi đó, cái kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên cho thấy Mỹ đã đổ quân trực tiếp tham chiến, từ phía Nam đánh bật lên phía Bắc Triều Tiên, chắc ‘‘anh em” không muốn phiêu lưu thêm một bước!
-...và hai năm sau là Tổng Tuyển Cử theo như HĐ Genève!
- Chuyện này thì nói để mà ‘‘chơi” thôi! Hoa Kỳ không ký tuyên cáo chung, chỉ xác nhận là có ghi nhận văn bản này, trừ điểm số 13, tương tự như phái đoàn của chính phủ miền nam Việt Nam Ngô Đình Diệm. Ý đồ như thế thì trẻ con cũng có thể đoán ra. Nghe kể, khi ăn bữa ‘‘liên hoan” chia tay sau hội nghị  ‘‘đạt thắng lợi”, ngồi giữa hai vị trưởng đoàn của hai Chính Phủ miền Nam và miền Bắc, Chu Ân Lai hỏi ông miền Nam có đệ đơn xin vào Liên Hiệp Quốc không, và nếu có, Trung Quốc sẵn sàng ủng hộ. Ông miền Bắc, tức Phạm Văn Đồng, nghe mà chết sững... Chỉ tội cho tiếng sáo trên hồ Léman!
-???
- Một người họ Võ vấn tóc mặc áo the đến ngồi bờ hồ Léman gần nơi diễn ra Hội Nghị thổi sáo để nói cho nhân loại biết cái nỗi đau của vết chém ngang lưng. Bình Minh có nghe có biết nhà thơ Trần Dần không?
- Không! Nhưng Bình Minh sáng mắt lên, tiếp, nhưng em rất thích thơ...
- Ông Dần viết năm 56 bài thơ Nhất định thắng trong Giai Phẩm mùa Xuân khiến sau ông bị treo bút hơn 30 năm liền ấy mà...
- Em...chẳng biết gì cả. Anh nhớ được, đọc đi..
-...Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc.
 Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng máu nhỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A, cái lưỡi dao cùn!
Không đứt được mà đau
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi! Cả Nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem: có phải vết dao
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm nay rớm máu... 
Bình Minh bần thần, mím môi, im lặng. Chúng tôi ra khỏi Hoàng Thành, men con đường Cách Mạng Tháng Tám, rẽ phố Tống Duy Tân, bước cạnh một cái viện bảo tàng trên sân lổn nhổn đủ loại loại xe tăng, nào là T175, M 113..., ta đoạt được của Mỹ-Ngụy trong mặt trận Quảng Trị, Đông Hà...và chiến dịch Đại Thắng Mùa Xuân. Nghĩa là sau Genève 20 năm.
A, cái lưỡi dao cùn? Nhưng súng đạn hai bên lại rất hiện đại. Và khiến trên dưới bốn triệu người cả quân lẫn dân hai bên đã mạng vong trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước? Những bóng ma vẫn đâu đây. Của Huế Mậu Thân. Của An Lộc tử thủ. Của thành cổ Quảng Trị thương tích với gạch đá hoang tàn. Bóng ma họ Võ bên bờ hồ tuốt trời Tây, cây sáo cong queo nằm trong rẩy bụi vấy sương. Bóng ma Trần Dần, với vết sẹo cứa cổ rắp ranh trốn sổ đoạn trường, nhưng không thành nên lại một mình khập khễnh đi, không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ, suốt trên dưới bốn mươi năm. Tôi bước, đâu đó những bóng ma quây quanh, tai chợt nghe thấy tiếng sáo văng vẳng ven sông đệm cho những lời thơ của một người đã từng cứa cổ vì không chịu khuất phục. Bỗng Huế rải vào thế gian những bụi mưa, rất Hà Nội... Bình Minh buột miệng như để tự trấn an:
- Đình chiến để có thời gian xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa là một sách lược đúng, phải không anh?
Đất bằng sóng dậy!
Không đáp câu hỏi giọng có chớm chút hoài nghi, tôi chỉ một quán ven sông, rủ Bình Minh vào uống nước. Chọn một góc vắng nhìn ra cầu Tràng Tiền, chúng tôi nghe mưa nặng hột gõ như cười trên mái tôn. Nhìn dăm con đò ủ dột xuôi dòng để lại những vòng nước xoáy hờ bên mái chèo, tôi không biết nói gì cho người bạn trẻ yên lòng. Bình Minh hỏi lại, mắt bỗng dưng ánh lên nét lo lắng. Tôi đáp:
- Chỉ 5 năm, làm sao xây dựng gì ngay được trên cái nền một xã hội đã hàng ngàn năm phong kiến, lại mới thoát ách thực dân ? Trở lại cái vế thứ hai, là khi phải dựa vào hai nước ‘‘anh em” để chiến thắng ĐBP, ta không còn độc lập trong vấn đề xây dựng xã hội như ta mong muốn. Tài liệu do chính Đảng sau này khéo léo phổ biến khiến người dân có thể nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh không cưỡng nổi áp lực của Staline và Mao trong phương sách tiến hành những cải tạo xã hội kiểu XHCN giáo điều. Ngay 1953, Việt Nam ta đã phát động một chính sách điền địa bắt chước kiểu Mao bên Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc. Bắt đầu là 4 đợt Giảm Tô Giảm Tức, rồi sau là 5 đợt Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), chấm dứt vào 56, tức 2 năm sau Genève. Song song với CCRĐ là phong trào Chỉnh Đốn Tổ Chức (CĐTC), tiến hành với sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Quốc có kinh nghiệm là La Quí Ba về chính trị, Vi Quốc Thanh về quân sự và Kiều Hiểu Quang về CCRĐ. Chính sách thành phần-lý lịch ra đời, với giai cấp nông dân là đội quân chủ lực xây dựng XHCN. Các đội Cải Cách về nông thôn thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ, xâu chuỗi, tranh thủ bần nông cốt cán để phóng tay phát động đấu tranh chống giai cấp địa chủ, tàn dư phong kiến và (nhân tiện!) bọn Việt gian Quốc Dân đảng, bọn phản động, bọn làm ‘‘gián điệp” tay sai cho những thế lực ngoại xâm, vân vân...Rập khuôn Trung Quốc, ta cũng phải tìm cho bằng được 5% địa chủ cường hào, tịch thu của cải - gọi là quả thực - để phân phát cho bần nông. Nhất đội nhì Trời. Và quy thành phần, đem đấu tố, rồi mang trước Tòa Án Nhân dân mà kết tội, nhẹ thì tù đầy cải tạo, nặng thì tử hình. Ai không chịu tham gia, tức có liên quan thành phản, và thế là cũng có tội, bị cách ly với quần chúng cách mạng, bị ruồng bỏ. A, cái chi tiêu 5% khó làm sao! Và chỗ nào cũng thi đua đấu tố, cũng đạt thắng lợi, cũng nêu thành tích...nên địa phương nào không có, hay không đủ, địa chủ cường hào thì ‘‘đánh lên” thành phần. Tiếng hát vang vang ‘‘Nông dân là quân chủ lực”, lẫn trong tiếng trống ếch thiếu nhi, biến nông thôn thành nơi bần nông có kẻ ‘‘tố điêu”, có người  ‘‘ tố vấy”, rủ nhau hôi của, tranh cửa cướp nhà. Bấy giờ, không thiếu những chuyện vợ tố chồng, con tố cha, anh em, chú bác tố nhau, giết nhau. Làng xã Việt Nam, nền tảng truyền thống và đạo lý của xã hội, bị xới tung lên, chẻ nát ra, cùng với những con người không còn gì ngoài cái bản năng mà phần thú tính nghiền phần nhân tính ra thành những mảnh vỡ khó lòng hàn gắn lại [15]. Đồng thời, CĐTC được tiến hành, thực chất là Đảng của các  ‘‘vị” thanh trừng nội bộ để sắp xếp lại bộ máy quyền lực từ trên xuống dưới. Bao nhiêu đảng viên oan, bao nhiêu chết, bao nhiêu gia đình tan nát? Ông Võ Nguyên Giáp nói độ 8.000 người. Có kẻ bảo 20.000. Con số đích xác thì Đảng biết, nhưng 60 năm qua rồi vẫn cứ "bảo mật”. CCRĐ đưa đến những công phẫn ngay trong giai cấp nông dân chủ lực. Nạn nhân đấu tố là cường hào ác bá địa chủ thì đã đành, nhưng chỉ 5% và đã bị đấu. Nhưng còn chuyện quả thực chia không công bằng. Ruộng thấp ruộng cao ruộng xấu ruộng tốt phân cho bần cố cũng không công bằng. Hỏi ai đây? Nhưng cứ nhất Đội thì hỏi Trời cũng vô ích. Trời hạng nhì, vả lại qui thành phần thì qui thế nào? Tháng 9 năm 1956, Trung Ương Đảng họp để tổng kết thành quả CCRĐ. Đại Tướng Giáp, người anh hùng ĐBP, thay mặt Đảng ra nhận sai lầm trước nhân dân. Nhưng số nạn nhân là bao nhiêu ở miền Bắc? Không ai trong những kẻ có thẩm quyền nói gì cả. Cứ coi như nông thôn miền Bắc khi ấy độ 10, 12 triệu người, thế thì 5% số người chắc phải xấp xỉ 600,000 nạn nhân, với có thể khoảng 60,000 người bị sát hại? Lạy trời rằng không phải thế!
Nghe tôi bật miệng lậy trời, Bình Minh quay mặt dấu nỗi xúc động. Bây giờ, gió xào xạc thốc vào quán nước. Cô tiếp đãi viên kéo áo len lên che cổ, nhìn chúng tôi, đôi mắt long lanh như thấm nước mưa của Huế da diết, Huế đế đô ngày xưa, và Huế hôm nay nghèo nàn tức tửi những tiếng hò mất hút cuối một thời sắc hương phai nhạt. Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách! Tôi ngậm ngùi, cần chi phải nhắc sắc bất ba đào...trên cái đất nước ba đào này, chòng chành đến chóng mặt!
- Rồi sửa sai thế nào, anh?
- Sửa thì có Đội sửa sai về thay Đội cải cách. Sai có, và sửa thì ông Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng và Chủ nhiệm ủy ban Cải Cách thành Chủ Tịch Quốc Hội. Ông Hoàng Quốc Việt, phó chủ nhiệm đặc trách CCRĐ, đưa qua nắm Ban Kiểm Sát. Ông Lê Văn Lương, phó chủ nhiệm lo CĐTC, về nhậm chức Chủ tịch UBND Thành Phố Hà Nội. Riêng Hồ Viết Thắng, Ủy viên thường trực của Ủy ban CCRĐ thì có xuống, bị văng ra khỏi Trung Ương nhưng lại về trách nhiệm Ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước. Hồ Chí Minh thành Tổng Bí Thư Đảng, cứ như người vô can! Và sai gì thì sai, có sai là chỉ chấp hành sai chứ về  ‘‘cơ bản vẫn đúng”, đã ‘’cào bằng’’, chia bình quân ruộng đất cho nông dân canh tác trong giai đoạn đầu, và sẽ  ‘‘vào hợp tác” trong tương lai một xã hội đúng bài bản xã hội chủ nghĩa. Dân đùa, có sai có sửa, sai đâu sửa đấy, nhưng sai đấy sửa đâu!
- Vào hợp tác là thế nào? Bọn em sinh sau đẻ muộn, không biết là gì!
- Ban đầu, ở mức thấp cho mươi mười lăm gia đình, hợp tác với những tổ đổi công. Sau, ở mức cao hơn, là Hợp Tác Xã, lao động tính theo công điểm, và từ đó qui ra thu nhập của nông dân. Năm 60, hợp tác trong nông nghiệp được hoàn thành về cơ bản. Chỉ ít năm sau, sản lượng xuống, dân bắt đầu ăn độn. Không đổ cho thời tiết được, trong chiến tranh người ta bảo là vì bom Mỹ. Đâu cũng một giọng, chiến tranh là cách đổ tội để biện minh cho sự thất bại của những cải cách thời bình. Nhưng ngoài chiến tranh, cái nghiệp dĩ của dân tộc từ suốt mấy trăm năm nay, còn những chuyện khác...
- Chuyện gì?
- Sự thủ tiêu một xã hội dân sự. Với cái khẩu hiệu ‘‘chính trị là thống soái”, phương thức tổ chức một nền chuyên chính vô sản kiểu Lênin, lại kèm vào liều lượng Maoít xuất phát từ truyền thống, phong kiến Trung Quốc. Từ đó, xã hội được tổ chức theo kiểu một trại tập trung. Và như thế, lại cần đến chiến tranh, điều kiện ‘‘khách quan” để xây dựng một xã hội-trại lính!
Bình Minh chằm chằm nhìn, đợi tôi nói tiếp. Lúc ấy mưa tạnh hột. Trời bắt đầu tối dần, ánh đèn bên kia bờ sông Hương đã nhấp nháy thắp sáng. Cô tiếp đãi viên nhìn chúng tôi, vẻ muốn đóng cửa quán, thu xếp lăng quăng như giục chúng tôi đi. Nhìn Bình Minh, tôi nói khẽ.
- Ta đi...Tìm cái gì ăn. Em có biết quán cơm Âm Phủ không?
10. Việt Nam, (2) Miền Nam của tôi!
Ngồi sau Bình Minh, xe chúng tôi vừa qua cầu Tràng Tiền thì mưa thình linh nặng hột rồi xối xả trút xuống như để hả một cơn ấm ức. Gần khách sạn nơi tôi ở, tôi đề nghị Bình Minh ghé lại, vừa trú, vừa mượn thêm một chiếc áo mưa trước khi đi ăn. Ngồi trong phòng khách, chúng tôi đợi cho mưa ngớt nước, nghe tiếng gió rít qua những tàn cây và tiếng sấm động từ xa vọng lại. Bình Minh bất thình lình hỏi:
- Như em hiểu thì anh đi di cư vào Nam, rồi du học, nhưng lại ủng hộ miền Bắc. Rồi nghe anh vừa nói, thì miền Bắc có những điều anh không ưng...Tại sao anh...bỏ miền Nam?
Trời hỡi, tôi nào đâu có bỏ miền Nam của tôi! Chín năm sống ở Sài Gòn thuở thanh thiếu niên là quãng thời gian tôi lớn lên để biết yêu biết ghét, biết khinh biết trọng, biết hy vọng và bám vào tương lai bằng tất cả nhiệt huyết tuổi trẻ. Chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ‘‘thịnh” nhất là cho đến năm 1958, sau khi chính quyền Diệm dẹp xong Đại Việt và Quốc Dân Đảng ở miền Trung, rồi Bình Xuyên, Hòa Hảo và Cao Đài trong Nam.
Từ chối hiệp thương Nam-Bắc và để dân chúng tự do đi lại với lý do là miền Nam không ký vào HĐ Genève, chính quyền Diệm biết sẽ có chiến tranh nhưng chủ quan cho rằng có thể giữ được miền Nam bằng phương tiện quân sự với hậu thuẫn của Mỹ. về mặt chính trị, chính sách tố cộng và diệt cộng tung ra với những đoàn thể như Thanh Niên Cộng Hòa, Phụ Nữ Liên Đới làm nòng cốt trong dân chúng, ở nông thôn Diệm tổ chức Dân Vệ để giữ an ninh, có trang bị vũ khí thô sơ, nhưng không hiệu quả gì, nên giải pháp là phải gom dân. Lực lượng  ‘‘nằm vùng” của miền Bắc, khoảng đâu đó 60,000 người, bị cô lập với chính sách Khu Trù Mật, rồi Ấp Chiến Lược, và sau có nguy cơ bị tiêu diệt với Luật 9/59 đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật. Trong bối cảnh đó, chính quyền Diệm từng bước phô khuôn mặt độc tài. Cố vấn Ngô Đình Nhu, em Diệm, lý thuyết gia của Đảng cần Lao Nhân Vị (CLNV) mượn hai chữ nhân vị của Bertrand Mounier trong phong trào Công giáo Dân chủ Tây phương cấy ghép vào hai chữ cần lao. Hai chữ này nghe mang máng như lao động của Đảng Lao Động miền Bắc, thoái thân của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã giải tán năm 45 để phát huy sách lược Mặt Trận nhắm kết hợp được mọi thế lực dân tộc chống Pháp. Lý thuyết khập khiễng, nhưng Diệm-Nhu lại dùng Đảng CLNV như bàn đạp chống Cộng. Cuối cùng Đảng CLNV chỉ thành cách tiến thân quan trường của những kẻ qui phục Diệm-Nhu, vừa có tính địa phương, vừa nhuốm mầu sắc tôn giáo, tập trung vào miền Trung và Công giáo. Tập hợp “Bắc di cư”, một thành tố quan trọng của Lực Lượng Quốc Gia và là chỗ dựa ban đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa mất dần thế đứng. Bà cố vấn Trần Lệ Xuân xuất hiện như bóng ma những Thái Hậu thời phong kiến. Cái nhân đức nổi tiếng của “cụ” Diệm, buồn cười nhất là cụ nhận một số tướng lãnh làm “con nuôi” như Nguyễn Chánh Thi chẳng hạn, trở thành cách cụ điều khiển một quốc gia trong tinh thần gia đình gốc đạo, anh có, em có, em dâu có, với các loại con nuôi chia ra nắm quân những vùng chiến thuật, ai nấy vừa hiến mình phụng sự Chúa, và vừa chống Cộng! Kéo máy chém đi khắp nơi với cái luật 9/59, chính quyền Diệm-Nhu phá tan tành cơ sở Cộng Sản trong Nam, tạo ra phong trào hồi kết ở miền Bắc. Số người miền Nam tập kết năm 55, khoảng 80,000, nóng lòng quay về quê quán là một trong những nhân tố thúc đẩy mở rộng cuộc đấu tranh bằng võ lực. Trận thử lửa với sư đoàn 23 và vụ nổ bom trong căn cứ Biên Hòa bắt đầu một thử thách. Và sau, phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre. Năm 60, Mặt Trận Giải Phóng miền Nam được thành lập, với Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Thời gian đó, Diệm-Nhu đã đẩy tính cách “gia đình trị” đến mức khó chấp nhận. Năm sau, cuộc đảo chánh Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông chết sẩy như một cái bào thai còn non tháng, thiếu sửa soạn và hậu thuẫn chính trị ngoại giao.
Khi ấy, tôi ở với ông bố nuôi, nhà trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài phát thanh, nghe tiếng súng nổ ròn rã một chặp rồi theo gia đình lên trú nhà ông Vũ Quốc Thông tránh đạn bay bom nổ. Đó là lần đầu tôi nghe nói đến Mặt Trận Quốc Dân Đoàn Kết chống độc tài ở miền Nam với sự tham gia của nhà văn Nhất Linh, người đã tục bản Văn Hóa Ngày Nay cuối thập niên 50. Bố nuôi tôi thời ấy hợp tác với Bộ Trưởng Trần Chánh Thành, là Tổng Giám Đốc Thông Tin Báo Chí, trách nhiệm một guồng máy khiến nhà tôi tấp nập từ những người làm chính trị cho đến đủ loại văn nghệ sĩ. Sau cuộc đảo chính hụt, ông bị hạ xuống, trở thành Chủ Tịch Hội Đồng Kiểm Duyệt, dĩ nhiên vẫn là một vai trò quan trọng trong bộ máy tuyên truyền chống Cộng. Không hiểu thế nào mà bố nuôi tôi, kín tiếng với những đứa con đẻ, nhưng với tôi, đứa con nuôi, lại thỉnh thoảng gọi lên, nói cho nghe đủ điều về đủ mọi nhân vật. Nào Trần Kim Tuyến, Phan Quang Đán. Rồi Nguyễn Đức Quỳnh, Phan Huy Quát... Bên văn nghệ báo chí, Phạm Việt Tuyền, Văn Giang, Lý Thăng, anh Tám Xạc Ne (vốn họ hàng nhà bà Nhu), Phạm Duy, Nguyễn Mạnh Côn...Bố tôi dặn, phải có dũng, nhưng không thể thiếu trí, nhưng trên nền tảng là chữ nhân. Thở dài, ông chán nản, chúng nó chỉ có khôn vặt. Đến nay, chúng nó là những ai tôi cũng chưa kịp hỏi!
Người tôi có nhiều gắn bó là nhà thơ Trần Việt Hoài, anh ruột Tuệ Mai, hậu duệ của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải. Khi đó, chú Hoài viết Tro Tàn Điện Ngọc, một tập kịch thơ về thời chiến quốc, có Phạm Lãi với Tây Thi. Chú ở một mình trong một căn gác xép gần chợ Phú Nhuận, viết báo kiếm sống, và, có lẽ, tham gia vào cái việc chú gọi lơ lửng là hoạt động xã hội. Khi in cuốn kịch, chú tặng tôi, đề: Còn gì đâu sau dâu biển đổi đời. Sự nghiệp người rã tan như bọt sóng. Họa chăng khi sống cuộc đời hoạt động. Mòn tim gan, moi óc, ráo máu hồng. Ta được nhắp ly rượu mạnh say nồng. Của Đấng Toàn Năng vô hình tặng thưởng... Mà những kẻ yếu hèn không bao giờ dám hưởng. Ở cái tuổi 15, tôi mơ mộng ‘‘hoạt động”. Và trong bối cảnh ngày nào cũng nghe rằng Diệm-Nhu độc tài, gia đình trị, không đủ tài đức nên thế nào rồi cũng lại thua Cộng Sản. Và lần này mà thua thì đúng là theo Lạc Long quân ra biển Đông chứ đất liền làm gì còn chỗ sống. Rồi cái tuổi trẻ ăm ắp những giấc mơ phiêu lưu bất chấp thực tại, tôi ‘'thoát ly’’(trốn khỏi gia đình đi hoang), đi “hoạt động”, chèo kéo đám hơn tôi dăm ba tuổi thi rớt Trung Học Đệ Nhất Cấp nên phải vào “Dân Vệ”, mua (khi ăn cắp được tiền) hoặc trộm súng ống, đạn dược...(rất cải lương) đợi ngày khởi nghĩa! Chống độc tài đảng trị và gia đình trị nhà Ngô năm sau có thêm một yếu tố thôi thúc là cuộc đàn áp Phật giáo miền Trung của cậu Cẩn, em Diệm, ở Huế. Họ đạo Hố Nai tay dao tay mác lên Sài Gòn. Chùa Từ Đàm bị Cảnh Sát Dã Chiến vây. Rồi chùa Xá Lợi trong Sài Gòn. Tôi bỏ học. Làm cách mạng vừa bận vừa vui, nhưng nhất là vô cùng hồi hộp kiểu truyện trinh thám Đoan Hùng-Lệ Hằng... với hậu quả là tôi trượt khi đi thi Tú Tài toàn phần kỳ 1. “Nhà” cách mạng bị mẹ nuôi đến vây bắt, mang về nhà, nhốt lên gác khóa cửa lại, và bắt bỏ công đèn sách học thi kỳ 2, đỗ và sau đó thi vào dự bị y khoa.
Cuộc đàn áp Phật Giáo của chính quyền Diệm-Nhu chớm trổ nét thánh chiến quá khích là bước cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Dinh Độc Lập bị không kích. Sinh viên học sinh xuống đuờng. Trí thức lên tiếng phản đối. Người Mỹ bắt đầu buông tay Diệm-Nhu, và mặc dầu tung lực lượng cảnh sát dã chiến, công an mật vụ ra khủng bố, những cuộc chống đối chính quyền ngày một công khai trực diện. Đỉnh cao là ngày hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu trên một ngã ba góc đường Lê Văn Duyệt. Bấy giờ, tôi đã tham gia vào tổ chức những cuộc chặn xe gây tắc giao thông trên hai cây cầu nổi Sài Gòn vào Gia Định, rải truyền đơn, đi vận động học sinh trung học ở các trường như Cao Thắng, Võ Trường Toàn... chống nhà Ngô. Mật vụ lùng, tôi “rút vào bí mật”, trốn về vùng phụ cận, khi Gia Định, khi Thủ Đức... đinh ninh mình “làm cách mạng” cho đến khi bố nuôi tôi tìm được, mắng “Con ạ! mày là đứa manh động, tao đã xin họ nhắm mắt bỏ qua vì con còn vị thành niên. Thôi về mà đi học...”. Diệm đưa nhà văn Nhất Linh ra tòa, định xử tội để dọa dẫm, nhưng Nhất Linh tự sát, trăn trối chỉ để cho lịch sử phán quyết ông. Sinh viên chúng tôi tổ chức đưa đám Nhất Linh, và trên những con đường Sài Gòn, tuổi trẻ đã ngửng cao đầu mặc dầu nước mắt có ứa ra khóc một bậc trí giả đã sống và hành xử đủ trách nhiệm với đất nước và con người.
Nhận được một học bổng trong chương tình Colombo đi Canada, tôi bỏ y khoa, ai nấy trong gia đình thở phào bớt đi cái gánh lo một đứa con cứng cổ mà mẹ tôi cứ rên là to đầu mà dại. Phần tôi, đi là cái giấc mơ hải hồ, đồ chừng dăm năm sau sẽ về, có chi mà gọi là sông Dịch để tưởng ra tiếng sáo họ Cao với chén rượu tiễn Kinh Kha. Hai tháng sau khi tôi đặt chân đến Montreal, Diệm và Nhu bị đảo chánh và bắn chết mặc dầu đã xin đầu hàng một Hội đồng quân nhân cách mạng với những Big Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh... Họ là những kẻ đã được Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge bật đèn xanh và điệp viên CIA là Conein cho...tiền thưởng. Sự can thiệp của Mỹ vào nội tình Việt Nam rõ như ban ngày, và thời những tướng lãnh nhảy lên bàn độc được khai trương với tiếng giầy đinh chưa nện nhưng đã vang vang khắp phố phường. Thế rồi Hiến Chương Vũng Tàu với tướng Nguyễn Khánh như cọng rơm cháy, và sau, nền Đệ Nhị Cộng Hòa với đủ bầu bán Thượng, Hạ Viện rất Made in USA. Chiến tranh leo thang, với sự hiện diện của quân đội Mỹ và Đồng Minh, rồi tiếp theo đó là sự kiện vịnh Bắc Bộ, đưa đến phong tỏa Hải Phòng, đánh bom miền Bắc tháng 8- 65. Năm sau, vào tháng 3, hai Lữ Đoàn Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng. Thế giới lên tiếng: Đế Quốc Mỹ xâm lược một nước nhỏ ở bên kia Thái Bình Dương!
Miền Nam của tôi ơi! Những ngày lạnh lẽo xứ người, tôi mỗi ngày chúi mũi vào những trang báo, đọc toàn những tin tức vấy máu và sực mùi thuốc súng, với những hình ảnh tàn phá man dã, kiểu Trung úy Calley châm lửa đốt mái tranh một căn nhà ở Mỹ Lai. A, oái oăm thay, Mỹ Lai nôm na là (người) Mỹ đến, với súng M.16, tăng M. 113, F 101, C-30... Năm 66, Mỹ phát động chiến dịch ‘‘Tìm và Diệt” với 2 triệu cuộc hành quân, dùng pháo đài bay B 52 đánh bom. Năm 67, đã có 1 triệu tấn bom trút xuống miền Nam, 2 triệu xuống miền Bắc. Rồi chiến dịch Johnson City, trực thảng vận, và pháo 360,000 quả đạn, nhưng cứ 100 quả mới giết được 1 VC! Cũng năm đó, Mỹ dùng tăng đánh vào ‘‘Tam Giác Sắt” với 3 sư đoàn, xe san bằng thị xã Bến Xúc, đẩy 6000 dân vào cảnh màn trời chiếu đất. Thảm họa chùm lên mạng sống những người nông dân chất phác cùng một giòng máu với tôi, một kẻ may mắn ở bên ngoài, ngượng ngùng mỗi lần người bản địa chép miệng, giọng thương xót, xứ anh quả là tội nghiệp với một cuộc chiến chống tên khổng lồ không tim nhưng thừa bom đạn. Với vài người bạn, chúng tôi khai sinh giai phẩm Cảm Thông năm 64-65, ra được ba số, kêu gọi hòa bình, và thế là không chống Cộng, sau bị cái cộng đồng nhỏ bé tẩy chay, ở thành phố Quebec, tờ báo Đất Lạnh chuyển mình với một số du học sinh qua năm 65 nên có dịp chứng kiến sự vong bản của nền Đệ Nhị Cộng Hòa với những tướng lãnh đi giầy đinh, vai đeo sao, lưng giắt súng lục, chửi ĐM và hung hãn hô hào Bắc Tiến! Trong khi đó, Sài Gòn phồn vinh mặc cho số trẻ em bụi đời và các cô gái ăn sương tràn ngập vỉa hè, và OK Salem thành ngôn ngữ Việt, với sự tủi nhục khó mà tránh được ở tuổi chúng tôi, lứa tuổi mới hai mươi, không thể sống mà không tự hào ngước mặt nhìn trời.
Thế cho nên chúng tôi đọc 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đồng thuận vì chỉ mong hết chiến tranh, và hiểu như thế là đồng nghĩa với sự chấm dứt can thiệp của người Mỹ vào Việt Nam. Phần tôi, tôi hoạt động tiếp tay lực lượng thứ ba trong nước, nhắm mục đích lập lại hòa bình, xây dựng một miền Nam trung lập rồi từng bước thống nhất đất nước qua giải pháp chính trị. Nghe tôi kể đến đây, Bình Minh ngạc nhiêcn hởi:
- Mặt Trận là do Đảng lập ra mà, các anh không biết thế sao?
- Biết là có Đảng, nhưng cũng biết có những người trong Mặt Trận không là cộng sản...
Chọn Lựa nào?
Đi từ miền Nam, lại thuộc thành phần quốc gia có nòi, di cư và chống cộng, nên bức thư tôi báo cho cha đẻ cũng như bố nuôi tôi biết rằng tôi ủng hộ Lực lượng thứ ba và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam có lẽ là vết cắt bật máu đầu tiên giữa tôi và những người ruột thịt. Với cha đẻ, vết cắt đó không bao giờ lành, về nước năm 77, cứ mỗi lần tôi có mặt là cả gia đình tôi bỗng nhiên kiệm lời, có nói với nhau thì nói thầm, và tuy không nói ra nhưng tôi hiểu bấy giờ tôi là những kẻ phía bên kia -mang đủ tính tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo - và gia đình tôi nếu không thù thì cũng oán tôi, một thằng Việt Cộng, đúng là nuôi ong tay áo. Ba năm sau, khi thấy mấy cô em uống thuốc ngừa thai trước một chuyến vượt biên không thành, tôi làm một chuyện mà nếu như không làm tôi sẽ chẳng có thể nhìn mình trong gương mà không xấu hổ: tôi bảo lãnh cho tất cả những người trong gia đình đi chính thức để rồi ra mới biết là cái vết cắt kia sẽ ứa máu suốt đời. Với bố nuôi, tôi may mắn hơn. Trước ngày ông qua đời ở Cali, tôi có hỏi, vào địa vị ông năm 46, tôi chắc chắn đã theo kháng chiến, và lý do gì đã khiến ông chống lại miền Bắc. Bố tôi kể, ông được bộ phận công an của chính phủ cụ Hồ chỉ định ở lại Hà Nội để vận động và tổ chức thành phần nhân sĩ quốc gia tiếp tục chống thực dân Pháp trong khi mẹ nuôi tôi và 3 đứa con được đưa lên chiến khu Việt Bắc. Nhưng ông ngạc nhiên khi thấy những người ông liên lạc lôi kéo được cứ lần lượt hoặc bị Tây bắt hoặc bị thủ tiêu mờ ám. Đến khi ông anh con cô con cậu của ông là Nhượng Tống bị sát hại thì ông hiểu ra, rằng có thể ông là một miếng mồi, và chính ông cũng có thể bị thí chốt bất cứ lúc nào. Tìm cách đưa được vợ con về Hà Nội, ông đầu hàng Pháp hòng cứu mạng mình. Từ đó, ông thành đối thủ của những người xưa ông tin là đồng chí. Sau 75, ông không di tản dù có thể đi dễ dàng, ở lại đòi đối chất với Hoàng Đạo, người chịu trách nhiệm liên lạc với ông nhưng đã tìm cách hại ông, khi đó đã là một Thiếu Tướng công an tăm tiếng. Chính ông Trường Chinh nhắn qua bà Vũ Đình Hoè bảo ông đi đi, đối chất mà làm gì, và Trần Bạch Đằng ở Sài Gòn làm thủ tục cho ông lên đường qua Pháp một cách chính thức năm 80. Ông bảo tôi, con ạ, bố nào có được lựa chọn! Nhưng bố hiểu cái động cơ đã đưa con đến những lựa chọn của con. Rồi ông chép miệng, thủng thỉnh đọc, đã mang lấy nghiệp vào thân, thì đừng trách oán Trời gần Trời xa...
Tôi vẫn nghĩ, cái thế của những người như tôi thật mà nói không có chọn lựa nào khác là mong muốn hòa bình, chống mạnh hiếp yếu, và hy vọng góp phần xây một xã hội công bằng nhân ái. Tuổi chớm thanh xuân, ai lại chẳng mơ mộng một xã hội hướng đến công chính lý tưởng. Thuở đó, tình thật, cái kiến thức của tôi là kiến thức thuần sách vở, và lại là sách vở về chủ nghĩa Mác và sự dự tưởng một XHCN do phương Tây truyền đạt: tôi đọc Althusser, rồi Fromn, Marcuse, Sartre...tức là thể loại kinh điển của thế hệ tháng 5-68. Đó là thế hệ sinh viên của phong trào phản kháng (contestation) cậy đá lát đường khu Quartier Latin ở Paris ném vào xã hội tư bản Tây Âu, là thế hệ râu tóc để dài, miệng hô ‘‘Peace and Love’’, tay cầm hoa hồng, tay kia châm lửa đốt cờ hoa Hiệp Chủng Quốc chống chiến tranh Việt Nam ở Berkeley. Tuổi trẻ với Mác, và Che Guevara... là ngọn triều cách mạng lãng mạn ào lên như một con sóng hồn nhiên. Nhưng bèo bọt. Sự bèo bọt nằm ngay trong cái hồn nhiên bây giờ nghĩ lại thấy sao mà ngây ngô kỳ lạ. Trong không khí bồng bột đó, phong trào ở Canada là sự tự phát của những sinh viên, từ lòng yêu quê hương và viễn cảnh một cuộc chiến tang thương, về sau ít nhiều được hỗ trợ về mặt thông tin của phong trào bên Pháp đã có kinh nghiệm thời giành độc lập năm 45-46. Riêng tôi, tôi quen anh Phương, đến từ Paris, làm việc trong phòng thí nghiệm Sinh Hóa ở Đại Học Montreal. Sau này, anh bị chính phủ Canada trục xuất. Khi bị dẫn độ về Sài Gòn thì anh trốn được, qua Chili làm việc trong ban cố vấn của Thủ Tướng Allende, và bị bắn chết khi Pinochet đảo chính. Anh cho tôi mượn cuốn Thời dựng Đảng của Thép Mới. Đọc xong, thấy tôi thòm thèm, anh đưa tập Luận Cương của Lê-nin. Tôi không nhớ đã nói gì, nhưng anh bảo tôi thiếu kiến thức cơ bản, phải học từ đầu. Anh giúi vào tay cuốn Tư Bản Luận. Tôi đọc, không hiểu, phải tìm bản tiếng Pháp và từng bước lần mò gỡ những gút chỉ rối rắm, nhưng ngay cho đến nay, tôi thú thật với Bình Minh, rằng tôi chẳng thấy kinh điển Mácxít dính gì để những thể loại thực tiễn XHCN.
- Thực tiễn?
- Ở Liên Xô, những nước Đông Âu, và Trung Quốc, tôi chỉ thấy những tổ chức chính quyền chuyên chính, với tầng lớp nomenklatura độc quyền đặc lợi! Lý tưởng cộng sản đầy tính nhân đạo, nhưng con đường thực hiện thì ngược lại toàn là tù đầy, máu me và nước mắt...
- Nhưng tại sao anh vẫn tiếp tục ủng hộ?
- Đầu tiên, tôi chỉ chống sự xâm lược của Mỹ trong chiến tranh. Ai có thể ngồi yên khi biết số lượng bom Mỹ rơi trên quê hương mình gấp năm ba lần tổng số bom thả trong suốt Thế Chiến thứ II? Sau 75, tôi hão huyền hy vọng Cách Mạng Việt Nam có thể khác, với những con người tôi thành tâm cảm phục. Bởi đất nước đã trải một cuộc tang thương khủng khiếp, nên tôi tin khó mà chỉ vì đặc quyền đặc lợi tầng lớp lãnh đạo có thể nhắm mắt không đặt ra câu hỏi người dân hy sinh giành độc lập thống nhất để làm gì? Không lẽ để tiếp tục nghèo, dốt, và lại oằn người dưới những cái ách mới? Sau Đại Hội V năm 81, tôi tự nhủ, dẫu gì đi nữa thì tôi cứ giữ sự ủng hộ cơ bản thêm 10 năm. Phải nói, khi nước ta bước vào thời Đổi Mới, tôi đã nuôi nhiều hy vọng. Nhưng ủng hộ đối với tôi không là thái độ ngậm miệng mà là phát biểu “đúng nơi đúng lúc đúng người”. Nhưng thế nào là đúng, mà đúng đến ba lần. Tôi sau lại mắc tội trời chưa sáng đã gáy!
- Tội gì lạ vậy anh?
- Bình Minh có biết truyện Lục Súc tranh công hậu hiện đại nhưng đậm đà bản sắc tiếu lâm dân tộc không?
-???
Tôi kể:

- Thời hậu hiện đại, xã hội loài người là xã hội đại đồng nhưng súc sinh còn đang ở giai đoạn quá độ lên XHCN. Và như loài người thuở trước, mọi sinh vật đều tìm cách vào đội ngũ tiên phong là Đảng Cộng Sản. Sau khi đã sinh hoạt Đoàn, nay có 6 đối tượng kết nạp Đảng, là Bò, Chó, Gà, Ngựa, Lợn và không biết ai giới thiệu mà lại có một chú Rệp. Bò qua kỳ kiểm tra lý lịch và năng lực cuối với các đồng chí “bên trên”, đi ra, vẻ thiểu não. Sao vậy? Bò kể, các đồng chí bảo tôi ngu như bò nên không kết nạp, mặc dầu tôi hiền lành, lại cung ứng thịt cho các đồng chí! Con Lợn ưỡn đít, nói, tôi cũng cung ứng thịt. Nhìn Chó, Lợn thủng thỉnh, khi có riềng có mẻ thì thành giả cầy, rồi ục ịch bước vào phòng làm việc. Lát sau, nó uể oải đi ra. Sao vậy? Các đồng chí bảo, đúng là cũng lành, cũng cống hiến thịt, nhưng lại chê tôi là bẩn như lợn. Cả bọn bật cười. Gà ngẫm nghĩ, gà cũng có thịt gà, không ai chê ngu chê bẩn. Phen này, cờ đã đến tay, gà vươn cổ, gáy rồi bước vào. Lát sau, nó cụp đuôi đi ra. Sao vậy? Các đồng chí bảo, đúng là cỗ bàn gì thì cũng có thịt gà, lại không ngu, không bẩn. Thế thì mắc tội gì - đám súc sinh hỏi, giọng lo lắng. Gà thở ra, tôi bị phê là có cái tật là trời chưa sáng đã gáy! Cả bọn đăm chiêu. Ngựa gật gù: tớ cũng cung cấp thịt, không mang tiếng bẩn và ngu, chẳng gáy báo sáng cho ai, lại thêm cái việc chở các đồng chí trên lưng rong ruổi khi đèo lúc suối...Ngựa bước vào, nhưng lát sau, Ngựa ra vẻ buồn bã. Sao vậy? Các đồng chí phán, được cả, nhưng tớ có cú đá hậu, khó tin. Bay giờ, Chó vểnh tai, khệnh khạng, nói như đinh đóng cột: tớ không biết đá, tuy không chở được các đồng chí trên lưng đi tham quan nhưng lại biết giữ nhà giữ cửa, là món đánh chén đậm đà bản sắc dân tộc, lại có tiếng là bạn thân nhất của loài người, chắc đảng đến tay tớ chứ còn vào ai. Chó vào, nhưng khi ra, tai cụp, đuôi cụp. Sao vậy? Các đồng chí bảo dù tớ có tất cả phẩm chất đảng viên đấy, tớ vẫn còn khuyết điểm. Khuyết điểm gì? Tớ có cái thói hay sủa bậy, và tật ăn cứt. Chó đáp rồi kêu ư ử! Chỉ còn Rệp. Mi thì vô phương, cả bọn la lên. Lạnh lùng, Rệp không nhìn ai, bước vào phòng và chỉ năm phút sau đi ra, đường bệ mặt vênh lên trời. Đám súc sinh ngạc nhiên. Rệp tuyên bố mình đã được kết nạp. Sao vậy? Rệp ngắn gọn: các đồng chí bảo trong tớ có máu công nông!
Bình Minh phá lên cười. Bên ngoài, trời thôi mưa. Đêm lừng lững chùm lên Huế một bức màn nhung kéo che sân khấu một vở tuồng đến hồi kết. Bình Minh đứng lên, dí dỏm:
- Tối nay đi ăn, nhất định em không ăn thịt gà, dẫu chẳng biết anh gáy sáng ra sao!
Xã hội mới?
Hai mươi năm trước tôi có ghé quán cơm này, khi quán về đêm thắp bằng đèn măng-xông, bàn kê xiêu vẹo, ghế đẩu chông chênh, ông chủ quán hò vợ rồi ra tiếp khách, mặt lạnh lẽo, chỉ gật, không nói, cứ như một bóng ma hiện về. Và từ quán trên lưng đồi nhìn xuống, chỉ có đêm, đêm mịt mùng. Nhưng nay, có khác, tôi thực sự không nhận ra, và không chắc đó là quán cơm Âm Phủ. Bây giờ quán mắc điện, ghế cao có chỗ tựa, bàn phủ ni-lông sặc sỡ kẻ những ô đỏ xen kẽ những ô trắng, hai cô tiếp đãi xinh như Huế thơ mộng, mắt kẻ đen, miệng chào khách khiến chẳng một đấng trượng phu nào có cái gan dạ bỏ đi. Và nhìn ra tít tắp là cầu Tràng Tiền chiếu đèn mầu, cứ dăm phút mầu đổi từ xanh ra vàng, vàng ra đỏ, đỏ ra trắng. Tôi kể, lòng bỗng ngậm ngùi nhớ những bóng ma xưa, nhưng Bình Minh tươi tắn, đùa với giọng Huế:
- Đấy, chừ anh thấy, răng là tiến bộ chứ hỉ!
Tôi cười, gọi cơm hến, món nhà nghèo dân dã, mong tìm lại hương vị ngày trước. Vừa ăn vừa suỵt xoạt vì cay, tôi nghe Bình Minh hỏi:
- Nẫy anh nói gì về cái xã hội dân sự và xã hội- trại lính vậy?
- Cải Cách Ruộng Đất có thể là một trong những lý do giải thích có đến gần một triệu người di cư từ Bắc vào Nam, sau miền Nam lấy đó như một chiêu bài để đề ra “quốc sách” chống Cộng. Mặt khác, vào năm 56, vẫn có người hy vọng sẽ có Tổng Tuyển Cử thống nhất đất nước. Trước tình hình phải nhận sai lầm và sửa sai trong Cải Cách Ruộng Đất, Đảng có nới tay một chút. Nguyễn Mạnh Tường đề nghị nhận định lại Quan điểm Lãnh Đạo trong một báo cáo đọc tại Mặt Trận Tổ Quốc, nêu sự quan trọng của một nền pháp lý có tính chuyên môn và không chỉ là dụng cụ thể hiện lãnh đạo chính trị. Phan Khôi viết ‘‘Phê bình Lãnh Đạo Văn Nghệ” đăng trên Giai Phẩm mùa Xuân số 1, ra và bị tịch hồi. Cũng năm đó, Đại Hội 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô công bố Bản Báo Cáo của Krút-Sốp, trong đó cái xã hội-nhà tù kiểu Xtalin bị vạch trần với những trại Tập Trung Cải Tạo và con số 20 triệu nạn nhân. Bản Báo Cáo đó có tác động nổ một quả bom trong thế giới những nước XHCN. Biến động ở Ba Lan. Rồi Hung Ga Ri. Bên Trung Quốc, Mao nhảy một bước lùi, phát động phong trào Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ta theo sau, và những người không chấp nhận mọi điều trên cõi đời này cứ phải có ‘‘đảng lãnh đạo” nhân dịp đó cất lời. Tờ báo tư nhân Nhân Văn xuất hiện, với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng cầm, Phan Khôi...Có sự cộng tác của nhiều nhân sĩ và trí thức uy tín như Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trương Tửu..., báo gầy nên một phong trào: Giai Phẩm mùa Xuân tái bản, rồi Giai Phẩm mùa Thu, mùa Đông. Phía lớp trẻ, tờ Đất Mới của sinh viên Đại Học Hà Nội ra đời. Nói chung, phong trào chỉ xin với Đảng là cứ theo cho đúng Hiến Pháp năm 46, xây dựng một xã hội pháp chế chứ không rập theo mô hình chuyên chính Xtalin, trả lại cái quyền việc ai nấy làm. chẳng hạn như người làm văn nghệ trách nhiệm và lãnh đạo văn nghệ chứ thôi đừng để ông chính ủy mang ‘‘chính trị” thống soái ra chỉ trỏ sai trái...
- Chỉ xin thế thôi sao...
- Ừ, chỉ thế mà các vị đó đều bị ghép đủ thứ tội. Sáu tháng sau, Mao lùi một nhưng tiến ba bước, từ hữu sang tả, và Việt Nam ta nhảy theo trong điệu múa  ‘‘ môi hở răng lạnh’’. Tháng 12 năm 1956, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về chế độ báo chí. Ủy ban hành chính Hà Nội sau đó ra thông báo Nhân Văn, Giai Phẩm bị cấm. Cuối tháng 2-1957, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn Giai Phẩm với 500 đại biểu trong Đại hội Văn Nghệ toàn quốc lần 2. Đảng cho thành lập Hội Nhà Văn, cho ra báo Văn, nhưng cái đám trí thức tiểu tư sản đã ‘‘bị nhiễm độc”, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng dám quan điểm khác với Học Tập là tờ báo lý luận của Đảng, rồi cho đăng những ‘‘Lời Mẹ dặn” của Phùng Quán, ‘‘Hãy đi mãi” của Trần Dần hay ‘‘Ông Năm Chuột” của Phan Khôi...Lại đóng cửa báo Văn! Và đấu tranh tư tưởng với 272 văn nghệ sĩ đảng viên, rồi 304 cán bộ văn hóa văn nghệ ở Thái Hà. Một số được tập thể ‘‘chiếu cố giúp cải tạo” trong những buổi học tập mà kỹ thuật đấu địa chủ lại lôi ra áp dụng. Những kẻ hạ sinh Nhân Văn và Giai Phẩm và những người cộng tác tất tật thành phản động, phản cách mạng, Trốt-kít, gián điệp... Nhiều người bị rút Đảng tịch, Hội tịch [16]... Nguyễn Hữu Đang, người trách nhiệm tổ chức cho ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập ở Ba Đình, bị 18 năm tù, có xét xử. Phùng Cung 12 năm, không xét xử. Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm... không đi tù, chỉ đi ‘‘lao động cải tạo”, nhưng bị rút hội tịch, treo bút 30 năm, cuối cùng chỉ được ‘‘hồi tịch” thời kỳ hậu Đổi Mới, nghĩa là khi đầu bạc răng long. Trí thức như vậy đeo xiềng khóa miệng ngay sau khi Đảng biết không có Tổng Tuyển Cử: truyền thông là khâu Nhà Nước quản lý, và dĩ nhiên Đảng lãnh đạo! Thế có nghĩa là Đảng quyết cái gì nhân dân cần và phải biết, cái gì không, cái gì cho, và cái gì cấm nói, cấm bàn bạc, cấm có ý kiến riêng tư không có tính ‘‘tập thể”. Oái oăm thay, cái giá trị “tập thể” này lại do một thiểu số dăm ba người trong Tuyên Huấn Tuyên Giáo quyết định. Và nhân danh nó như thứ quyền năng của Thượng Đế mà đại diện là những ông Trời con bắt sống bắt chết này, người ta gây mê cho cả một đất nước...
- Những ông Trời con? Bình Minh vung tay, hỏi, họ là những ai?
-...là những ông Trời con con thôi, hệt những tay kiêu binh cung Vua Lê phủ Chúa Trịnh vừa học được dăm chữ Mác-Lênin ở Thăng Long, sau khi đã bươn trải qua bước thành phần -lý lịch, được xác định là giai cấp ‘‘cơ bản” trong tiến trình lịch sử biện chứng ‘‘rất” loài người tiến bộ!
- Em vẫn chưa nghe anh nói thêm về cái anh gọi là xã hội-trại lính? Bình Minh ngước lên nhìn.
- Năm 58, cuộc cải tạo công thương nghiệp ở những thành phố được tiến hành. Khi ấy, những xí nghiệp công nghiệp của tư sản thật ra đã chuyển hết khỏi miền Bắc, còn lại chỉ có tiểu thương, tiểu công nghệ là chủ yếu. Cải tạo là đưa đến hợp tác, bắt đầu là năm, bẩy gia đình, từng bước đi vào quy mô lớn dần lên, đến cấp phường, quận, thành phố rồi quốc doanh. Tóm lại, cả công, thương và nông nghiệp, phải vào ‘‘hợp tác”, tức là sản xuất trao đổi hàng hóa ở mức tập thể, thủ tiêu kinh tế tư nhân. Chẳng khác gì trong nông nghiệp, cải tạo đưa đến tình trạng cha chung không ai khóc, thiếu động cơ kích thích kinh tế, đưa đến trì trệ trong sản xuất, phẩm lẫn lượng có chiều hướng đi xuống, hàng hóa sản vật khan hiếm dần. Chỉ một, hai năm sau khi Đảng tuyên bố ‘‘hợp tác” cơ bản đã hoàn thành thì dân bắt đầu ăn độn, nghèo đi trông thấy, và tệ nạn lạm quyền cầu lợi của đảng viên sớm hiện hình. Nhưng buồn cười, và cười ra nước mắt, là tháng 4-1960, Hồ Chí Minh viết [17]: "Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và việc chúng ta là thành viên của đại gia đình xã hội chủ nghĩa thế giới là sự thực hiện Luận cương của Lê-nin về khả năng một nước thuộc địa lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa’’.
Trong guồng quyền lực, Lê Duẩn, Xứ ủy Nam bộ trước tập kết, nay là Bí thư thứ nhất của Trung Ương Đảng, hợp với Lê Đức Thọ đã thay thế Lê Văn Lương trong vai trò Trưởng ban Tổ Chức, chưa hoàn toàn nắm quyền lực như ý muốn vì còn phải chia sẻ với những nhân vật dầu phạm sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất nhưng vẫn bám chốt như Chinh, Lương, Việt... Thế là có cái nghị quyết 15 của Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam, cho phép giải phóng miền Nam bằng đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị [18], trong khi đó Ngô Đình Diệm ban hành luật 10/59 kéo máy chém đi khắp nơi diệt Cộng. Nghị quyết 15 này củng cố quyền lực Duẩn-Thọ, và Ban Tổ Chức từng bước trở thành cái nôi của quyền lực, từ đó cho mãi đến tận ngày nay. Có tiếng đồn là cả Hồ Chí Minh lẫn Võ Nguyên Giáp đều không đồng tình, nhưng nếu thế, rõ ràng họ cũng đã không có thực quyền trong thời gian người ta khai đường 559, sau thành đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại. Năm năm sau ĐBP, bóng dáng ma quái của chiến tranh lại lẩn quất, vì hai điểm cơ bản:
1- Mâu thuẫn và tranh đoạt quyền lực nội bộ ở những cấp cao nhất trong Đảng; và
2- Khó khăn, lúng túng, và sai lầm trong việc xây dựng xã hội XHCN. Cộng thêm vào là mặt khác, những người miền Nam tập kết mất kiên nhẫn, nóng lòng muốn quay trở về quê hương gốc gác. Thế là Đồng Khởi ở Bến Tre năm 60. Khẩu hiệu mới gồm 2 khâu: vừa giải phóng miền Nam vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Khâu Giải Phóng lọt, vì khi đó những mâu thuẫn giữa hai nước ‘‘anh em” đã có, Trung Quốc của Mao không ‘‘xét lại” và chịu chung sống hòa bình với Đế quốc Mỹ theo đường lối Liên Xô dưới thời Krút-sốp. Việt Nam ta muốn giải phóng miền Nam với một nền kinh tế non trẻ thiếu cả ăn lẫn mặc thì làm thế nào đây? Vừa xin vũ khí, vừa xin viện trợ lương thực, tất cả là vì nghĩa vụ quốc tế. Nói cho hình tượng là ta bán máu lấy ăn, máu đổ vì mục đích cao cả Giải Phóng và Thống Nhất đất nước, đối đầu với Đế Quốc trong cuộc Cách Mạng Thế Giới. Mao vui lòng cho ít khí giới qui ước và tiếp tế gạo, đường, mắm muối... nhưng còn Krút-Sốp? Khí giới hiện đại chống Mỹ cứu nước thì Liên Xô sản suất, thế mới gay go. Ông Chí Phèo cào mặt chống Bá Kiến ở Washington không thiếu mẹo kiểu Trạng Quỳnh, linh động phát ra năm 63 cái Nghị Quyết 9 lươn lẹo đầy những mảng vừa trắng vừa đen [19] trong cái bước chông chênh ‘‘giữa hai đường lối”, một đỉnh cao trong nghệ thuật nước đôi trên trường quốc tế …
- Vừa Chí Phèo, lại vừa Trạng... Bình Minh nhăn mặt.
- Thế là sau chiến thắng ĐBP, ta không thống nhất được đất nước, không thực sự độc lập nên bị ép buộc đặt bút ký vào cái HĐ Genève chia cắt Tổ Quốc ở vĩ tuyến 17. ở miền Bắc, Đảng và Nhà Nước bóp chết nền kinh tế tư nhân nhưng lại mù lòa giáo điều trong những bước xây dựng xã hội XHCN, khoá miệng trí thức sau phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, và ngay năm 61 ban hành Nghị quyết 49/NQ/TVQH do Trường Chinh ký [20], hợp pháp hóa việc có thể bắt nhốt bất cứ ai vào những Trại Tập Trung Cải Tạo mà không cần xét xử. Như thế, Đảng vuốt mắt xã hội dân sự, đắp mặt liệm bằng vải đỏ, và đóng áo quan rồi đào sâu chôn chặt!
Bình Minh chép miệng:
- Thế thì em hiểu cái bước đầu dẫn đến xã hội-trại lính...
- Bây giờ, lại chiến tranh. Bắt đầu là cuộc nội chiến đã khai mào từ 46. Năm 63, trận Ấp Bắc. Chiến tranh đặc biệt kết thúc với trận Bình Gia năm 65. Mỹ leo thang, đưa quân vào, tất cả là 3 triệu lượt người, số cao nhất lên đến hơn nửa triệu trong Chiến tranh cục bộ. Với 24 tiểu đoàn thiết giáp (2750 tăng), 83 tiểu đoàn pháo binh (1412 khẩu pháo), 5 tuần dương hạm, 5 tàu có sân bay, 65 tàu chiến cộng thêm 700.000 lính ‘‘ngụy” và đồng minh Nam Hàn, Thái.., Mỹ phong tỏa Hải Phòng, ném bom trên 3 nước Đông Dương, xử dụng trong toàn cuộc chiến gần 8 triệu tấn bom đạn, tức 3,8 lần số xử dụng trong Thế Chiến 2, và 12 lần số xử dụng trong chiến tranh Triều Tiên. Riêng miền Nam, Mỹ rải 45,269 tấn chất độc hóa học, và 33,800 tấn bom lửa Napan (10 lần hơn chiến tranh Triều Tiên, 25 lần hơn Thế Chiến 2). Nhưng bất ngờ, cuộc Tổng công kích và nổi dậy Mậu Thân năm 68 khiến Mỹ chựng lại, phong trào phản chiến ở Mỹ lan như lửa cháy, và thế giới lên án, khiến Mỹ phải chấp nhận hòa đàm ở Paris [21].
Nhưng chiến tranh tạo ra cái xã hội thời chiến ở miền Bắc. An ninh là quan trọng, nên phải xiết cho chặt mọi kiểm soát với chính sách hộ khẩu. Lương thực được viện trợ phải phân, phải phát với tem, phiếu... Dân xả xú-páp: Gì cũng quản, gì cũng phân, đến phân cũng quản! Con người bị nô lệ đầu tiên bởi cái dạ dầy. Nó cần 13 kilô gạo, chút đường, chút dầu, chút mỡ. Nó được ăn, nhưng phải cung cấp cho thần chiến tranh những đứa con cứ ‘‘Bác bảo đi là đi, đánh là đánh” với ‘‘Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nó không được mắc chứng lập trường dao động, miệng nói ra là phải phục vụ cho chiến thắng để Giải Phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Mỹ cút Ngụy nhào. Và nó nói, tất cả, đồng điệu. Nói mãi, nó nghĩ, cũng đúng một khuôn, tức là nghĩ những điều ‘‘trên cho nghĩ” vì trên đã nghĩ hộ, đã nghĩ hết cho rồi. Trong cái xã hội khẩu phần với bộ đồng phục của đói nghèo từ ăn mặc đến suy tư, xã hội thời chiến chỗ nào thì cũng là một trại lính trong đó con người muốn tồn tại thì phải tin vào một cái gì đó có tính thần thánh. Đấy, một cuộc chiến thần thánh với cứu cánh "Giải Phóng Dân tộc” để cho hơn bốn triệu người hy sinh là vậy...
Nói đến đây, tôi nghẹn lời. Tôi buồn bã, xin Bình Minh chở tôi về khách sạn. Trên con đường từ quán Âm Phủ quay lên Huế dương gian chập choạng sống dưới ánh điện về đêm, tôi không nói thêm được một lời. Hình ảnh những kẻ chết trận. Rồi nỗi niềm của những người sống sót. Tất cả chụp xuống tôi như chiếc lưới quăng ra mắc tôi vào, mặc cho vùng vẫy, mặc cho van nài, để tra tấn, hành hạ với một câu tra vấn. Chỉ một câu, này, thế trách nhiệm của tôi còn sống hôm nay là gì? Có phải chỉ để kể lể cái quá khứ đầy bất hạnh kia không? Tại sao lại kể với Bình Minh? Không đáp được. Khi chia tay, Bình Minh nói khẽ trước khi rồ ga xe:
- Đêm nay chắc em mất ngủ!
11. Việt Nam, (3) Tâm sự của kẻ bên lề
Đứng bên lề đường, tôi nhìn theo Bình Minh cho đến khi xe rẽ ở cuối đường. Mưa lại rơi. Vuốt nước mưa trên mặt, tôi tự hỏi, lên phòng khách sạn hay đi một vòng quanh quanh đây? Tôi biết tôi cũng sẽ mất ngủ, thôi thì đi, dọc Lê Lợi về phía Đập Đá, men cái công viên nay ngổn ngang những bức tượng hiện đại được thành phố cho trưng để Huế ngày nay hết là Huế cổ kính của một thời quá vãng. Xích lô ngừng, xe không anh? Đi vào công viên, bên những gốc cây được bóng tối đồng lõa che đậy, đò không anh? Không, xin cám ơn. Tôi cần được cô đơn. Vì chưa đáp câu hỏi, tôi gợi lại những bóng ma quá khứ để làm gì?
Tôi nhớ đến một người quen, sinh và lớn lên ở Huế đây, hiện cũng lưu lạc như tôi, mỗi năm cứ đến mùa tuyết lại kêu, chừ sao mà lạnh. Ông ta nay đâu trên 70, trước khi đến định cư nơi tôi ở thì là sĩ quan cấp tá Sư đoàn 1 bộ binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ở cùng chung cư, một tòa building có cả trăm hộ, ông khoái chí khi biết tôi là người đồng hương, lân la thăm hỏi, và năm sau ông gọi tôi là tri kỷ. Ông có một thói quen rất lạ. Sáng nào ông cũng dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, rồi ốp vào người bộ quân phục, đeo lon, đội mũ, để cát-sét nghe quốc ca, hãnh diện đưa tay ngang mũ chào quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ choán hết một bức tường nơi ông dùng để tiếp khách. Chào cờ xong, ông thay đồ xi-vin, rồi đi làm. Việc của ông là đỡ đần bệnh nhân già yếu và khiêng xác trong một nhà thương. Ông từng chiến trận, không sợ máu me và xác người, lại lực lưỡng nên công việc ổn định. Hai năm sau, ông thay lon. Tôi hỏi ông đáp ‘‘Tri kỷ hè, tui lên Trung Tá là đúng, thời gian công vụ zậy mà chưa chết trận, thằng nào cũng rứa, lên lon cả”. Ba năm sau, ông tự cho mình lên lon Đại Tá. Không may, đó là năm ông phải khiêng xác bà qua đời vì bạo bệnh. Hai đứa con ông ở xa, nay ông một mình thui thủi, nhưng cứ sáng nào cũng chào cờ, và năm năm sau ông vào Salvation Array, nơi bán đồ phế thãi của quân đội, mua lon Thiếu Tướng. Ngày hôm đó, ông thết cơm, ngập ngừng “...tri kỷ hà, tui lên tới mức này là hết cỡ tui rồi. Muốn lên cao hơn thì khó lắm, tui ra Thủ Đức, chớ không được huấn luyện chính qui như ở trường võ bị Đà Lạt!”. Đấy, ông sống như vậy. Quá khứ lôi ông về phía sau, lúc đó ông chào cờ, mang lon, yêu và ghét, nhưng ông sống thật. Còn ở nhà thương, ông đã chết, ở thì hiện tại, là một bóng ma trên nhân gian, thản nhiên làm công việc vô hồn như nó chẳng hề dính dáng gì đến ông, con người chỉ hãnh diện vào đúng 7 giờ mỗi buổi sáng, với mũ áo cấp bậc, ảo với đời nhưng lại thật với chính ông. Cái quá khứ kéo cho đời sống ngược về thời gian trước cả quá khứ sao nó chua chát đau đớn đến vậy?
Tôi nào muốn đánh thức những bóng ma để cướp đi sự sống ở hôm nay, và nhất là sự sống cho một tương lai. Liệu tôi phải nói ra sao để Bình Minh hiểu như thế? A, chiến tranh! Nói về chiến tranh nhưng là để biết cái trân quý của hòa bình. Hiểu chiến tranh, mới ý thức được hòa bình là gì, can gì, và phải cưu mang như thế nào để đừng bao giờ rơi trở lại vào vực bờ chiến tranh. Tôi ngẫm lại những lời đã nói ra. Chúng có là ngoa ngôn không? Không, tôi chỉ nói những sự kiện của Lịch Sử tôi cố gắng gạn lọc một cách trung thực để hiểu ra những gút thắt dân tộc tôi vào một loạt oan khiên. Sự kiện cần, nhưng chưa đủ. Vì tôi chưa nói đến Lịch Sử như một đỉnh cao và đồng thời là một vực thẳm. Trên đỉnh cao tức cạnh là vực bờ. Càng cao thì nhìn xuống càng thấy đáy sâu, càng chẳng thể nghe tiếng rên của những thương tích không lành, càng chẳng hiểu ra thân phận của những kẻ bị cơn lốc lịch sử dập vùi. Tôi chưa nói đến những người làm lịch sử. Họ là những người cô đơn trong tiếng hát chiến thắng, hát càng hùng dũng thì nỗi tuyệt vọng càng đớn đau. Chỉ người làm ra lịch sử mới là người thấu hiểu cái tang thương của lịch sử. Đổi đời, là tạo điều kiện toan tính cho những hạnh phúc về sau. Nhưng hạnh phúc là một cái gì không thể toan tính như một bài toán máy móc. Vì thế cuộc đổi đời càng lớn thì đằng sau càng ẩn dấu những nỗi tuyệt vọng kinh hoàng. Và tôi chưa có một lời về những kẻ đi giải phóng. Họ là những người có cái đam mê lấp biển vá trời. Họ đèo trong người nghị lực siêu nhân, xếp xã hội vào những ô cửa họ tưởng tượng ra, và sắp đặt thế nào cho hiện thực chui vào nằm yên như một tĩnh vật. Nhưng hiện thực của con người trong cõi vô thường làm sao như thế được. Và kìm kẹp có thế nào chăng nữa thì chẳng qua đều là tác động của niềm tuyệt vọng. Ý thức càng vót nhọn hòng bắn rơi những niềm tuyệt vọng xung quanh thì chính niềm tuyệt vọng càng bị đào xuống ngày một sâu, cuối cùng hun hút không còn thấy đáy. Bởi hỡi ơi, niềm tuyệt vọng đã dấu mình trong đường bay của ý thức, để trái tim con người còn chút sự sống tru lên thảm thiết tiếng tru cuối của con sói nằm trên mộ địa đồng loại. Mọi cánh cửa lịch sử mở ra đều đèo bồng giấc mơ vấy máu những con người. Tôi xin một câu cuối gửi những người đi giải phóng cho những kẻ bị kìm kẹp, rằng vinh quang càng huy hoàng thì trách nhiệm càng ghê gớm. Và ghê gớm hơn cả là câu hỏi chính mình có tạo ra hay không những kìm kẹp mới clro những kẻ vừa được giải phóng.
Mưa mỗi lúc một nặng hột. Về khuya, đèn xanh đỏ tráng lệ chiếu cầu Tràng Tiền đã tắt, trả Huế về với ánh đêm tự nhiên yên dịu. Tôi quay bước, đến đường Lê Lợi thì, lạ chưa, mắt tôi thấy rõ ràng một ông lão đạp xích lô chở một chiếc quan tài trên có cắm ba cây nhang cháy đỏ. Đi sau, một bà lão vừa bước vừa vỗ tay cười, hét toang lên, con ơi, mi dại dột sao để miếng đạn pháo kích nó cắt ngang đầu, hả mi! Ông lão lầm lũi co chân tiếp tục đạp, ngoái lại nói, mụ chi mà dị rứa, chừ thời bình rồi mụ, đừng la để cho người ta ngủ chớ! Tất cả thoáng hiện, rồi thoáng biến, nhưng tiếng vỗ tay thì cứ văng vẳng, và tiếng cười, sao mà thê thiết tới vậy. Thời bình rồi mụ! Lời ông lão xoáy vào như nhắc nhở tôi, rằng chiến tranh đã qua. Ngày mai, gặp Bình Minh, tôi sẽ nói chuyện với em về hòa bình, vì em không cần chiến tranh mang sự chết ra để biện minh cho cuộc sống. Bây giờ, xin Huế hãy ngủ ngon. Cả tôi nữa, một kẻ bên lề trong quê hương mình, tôi hãy ngủ qua đêm, ngủ cho ngon. Trời sẽ sáng, tất nhiên là phải vậy.
Hoà bình rồi, anh em ta ơi!
...là tiếng thét tướng lên vào 22 giờ 11 phút, giờ Montreal, ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong hội quán của Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada. Mấy hôm trước, tối tối là hai ba chục người, toàn sinh viên du học tuổi trên đôi mươi, tụ tập nhìn lên chiếc bản đồ Việt Nam treo trên tường, chăm chú nghe một anh tay cầm cái thước chỉ ‘‘địch” triệt thoái bỏ Ban Mê Thuột, quân ‘‘ta” đã đi đến đây, qua Nha Trang nhưng không chiếm, tiến thẳng tới Bình Long. Một chị người miền Nam, xưa ruộng nhà, như chị khoe, thẳng cánh cò bay, la ‘‘đả” quá phải không cà? Dương Văn Minh đầu hàng rồi, vặn BBC nghe coi... Rồi, ta đã vào dinh Độc Lập. Sướng quá! Hoà bình rồi anh em ta ơi!
Khi “Việt Nam hóa” chiến tranh, Đế quốc Mỹ rắp tâm đổi mầu da trên xác chết chứ chưa hẳn có ý đồ bỏ Việt Nam. Peace with Honor - hoà bình trong danh dự - chỉ là một cách nhập nhằng ngôn từ, và Kissinger nói với Nixon rằng chỉ 3 tháng sau khi được tái cử Tổng Thống, sẽ chẳng còn ai quan tâm đến Việt Nam nữa [22], Mỹ muốn làm gì cứ việc làm, bất chấp HĐ Paris ký năm 73. Nhưng đùng một cái vụ Watergate nổ ra, chuyện hạ bệ Nixon thành thời sự, và những người Mỹ chống chiến tranh nhân thời cơ làm áp lực cắt viện trợ cho chính quyền miền Nam Nguyễn Văn Thiệu. Đòi đâu 7 trăm triệu đôla để “tiếp tục chiến đấu”, Thiệu cũng Chí Phèo chẳng kém ai, và cái lệnh triệt thoái khỏi Ban Mê Thuột ngày 14-03-75 để dẫn đến thất thủ trên toàn miền Nam trong một chớp mắt phải chăng là tác động theo phương thức cào mặt trước một Bá Kiến bên kia Thái Bình Dương đang lúng túng không biết xoay trở ra sao? Hai tuần sau, Quảng Trị, An Lộc rồi Huế thất thủ. Ngày 30-03, Đà Nẵng rụng như một trái sâu, cho phép miền Bắc mở ra chiến dịch Hồ Chí Minh tốc chiến tốc thắng, thời cơ rơi từ trên trời xuống cho tướng Giáp. Trừ một số nhỏ như tướng Trưởng, tướng Phú, tướng Đảo... phần đông lớp tướng tá lãnh đạo miền Nam khi ấy thật ra không có ý thức chính trị và đã mất hết ý chí tranh đấu, chỉ lăm le bỏ cho đầy túi rồi tháo chạy. Vì vậy, mặc dầu với một quân lực có đầy đủ trang bị và đã chứng tỏ khả năng cũng như sự anh dũng mới 2 năm trước với những trận chiến ác liệt ở Quảng Trị, An Lộc, Đông Hà..., chính đám tướng lãnh này đã phản bội, hành xử một cách vô trách nhiệm với dân và quân miền Nam, để một nửa đất nước rơi xuống như trái sung rụng cuối cái mùa đôla hết còn xanh tươi tùm lum che mầu máu đỏ. Về giới chính trị, họ bị chính sách Mỹ vô hiệu hóa ngay sau thời ông Diệm, đảng phái gọi là có nhưng thiếu ảnh hưởng quần chúng, chỉ tụ lại trong giới trí thức salon, để mặc đám dễ sai bảo làm bù nhìn cho Tòa Đại Sứ Mỹ mà không chống lại được. Mặt khác, chính sách Mặt Trận trong miền Nam chứng tỏ cũng hữu hiệu như ở miền Bắc thời 45-46, kết hợp được những người thuộc Lực lượng thứ ba và thành phần tiến bộ trong Công giáo cũng như Phật giáo. Nói cho cùng, miền Nam thất thủ trước tiên là một thất bại chính trị của những người không cộng sản trong tình huống phải chung sống với cái Đế Quốc Mỹ quá tin vào một giải pháp thuần quân sự kiểu lấy thịt đè người. Nhưng xin đừng quay lại chê trách những người lính Việt Nam Cộng Hoà. Họ đã chiến đấu dũng cảm, và như lời nhà thơ Cao Tần, cho cả hai bên, thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng, trong một cuộc chiến không tùy thuộc ở họ. Nhân đây, tôi xin phép ghi lại một bài thơ mà kẻ gọi tôi là tri kỷ chép trên con đường triệt thoái của quân lực Cộng Hoà từ Ban Mê Thuột tháng 3 năm 75:
Dựa M-16, ta ngồi, bên em mười sáu
Bốt-đờ-sô đỏ bùn đất cao nguyên
Ngày triệt thoát lẫn vào đêm. Quằn quại.
Pháo tầm xa khạc nhổ những lời nguyền Tính thí mạng cùi, hề, còn chục băng đạn cuối
Súng trên tay. Sao bỗng nặng? Hỡi người nơi đạn bay, ai thương em mười sáu
tuổi trăng, hề, đành hạ súng. Em ơi!
Thơ của ai vậy, tôi hỏi. Một người lính vô danh, tri kỷ ạ!
Hòa bình rồi. Tướng Trần Văn Trà tiếp quản Sài Gòn tuyên bố, người Việt Nam không có ai thắng hay bại, chỉ có quân xâm lược Mỹ bại mà thôi. Mỹ để lại Việt Nam sau 1973 hơn 1 triệu vũ khí nặng lẫn nhẹ, 46,000 xe bọc thép và tăng, hơn 1000 máy bay và trực thăng. Quân đội miền Nam hạ súng không vì lý do nào khác hơn là tuyệt đại đa số mong muốn hòa bình, bởi máu nào không đỏ, da nào không vàng. Quân Mỹ tử trận 57,000 người, bị thương 150,000, mắc bệnh ghiền ma túy 100.000 người, vứt lại 50.000 con lai, nhưng mang theo trí nhớ cuộc bại trận đầu tiên trong lịch sử của họ.
Hòa bình rồi, và những vấn đề của hòa bình ló mặt. Chỉ dăm tháng sau ngày 30-04-75, mọi lực lượng được thu về một mối, và điều này đưa đến con đường xóa sạch những cái gì gọi là lực lượng thứ ba. Sự chuyển tiếp vội vã được biện minh bằng cái ước mơ thống nhất không phải người dân miền Nam coi như là một tất yếu, ít là trên mặt tâm lý. Đất nước thống nhất chỉ một năm sau ngày giải phóng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chỉ là thống nhất một thể chế và quyền lực chính trị áp đặt trên toàn lãnh thổ. Thống nhất đất nước, lẽ ra phải là, thống nhất được lòng người đồng thuận với nhau về một tương lai. Và tôi làm thơ, có câu ‘‘đời hôm nay tự nhiên thành đường mật, chỉ chạm khẽ đầu răng đã ngọt lịm môi hồng... ” thì anh phụ trách báo Hội đòi...nói ra cho rõ ý mới đăng được! Bệnh tuyên huấn lây rất nhanh.
Khi gặp Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoàng Lương năm 76, tôi ngây thơ phát biểu rằng Việt Nam ta nên xin đặt quan hệ ngoại giao với Mỹ, ông Lương đáp, chúng ta chiến thắng, không ‘‘xin” ai, nhưng có ai ‘‘xin” đặt quan hệ với ta thì ta sẽ ‘‘xét”, với điều kiện tiên quyết là phải thanh toán cái khoản 4 tỉ đôla hứa hẹn bồi thường chiến tranh trong HĐ Paris. Bệnh kiêu binh cũng lây, cũng rất nhanh. Kết cuộc, ta mất cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ ngay năm 1977 dưới thời Tổng Thống Mỹ Carter. Chẳng những trên bình diện ngoại giao mà ngay cả trong phương sách tìm một thế đứng độc lập về chính trị và kinh tế, ta không thể bảo rằng ta không mất đi một thời cơ đáng tiếc[23]. Khi được vị tướng tài ba lừng danh ĐBP tiếp tại Hà Nội năm 77, tôi ngỡ ngàng trước câu hỏi, liệu 15, 20 năm ta có bắt kịp Tây Phương không, bụng nghĩ, chết cha, lãnh đạo ta lấy căn cứ gì mà có thể tưởng tượng đến cái vận tốc phát triển siêu âm ấy. Và vài năm sau, khi ông Thứ Trưởng Ngoại Giao của Đảng là Võ Đông Giang vỗ vai, bảo chú biết không, so trữ lượng dầu hỏa Trung Đông với trữ lượng Việt Nam ta có ven biển, thì là lấy cái tem dán lên đít con voi, thì tôi, chuyên gia kinh tế về Tài Nguyên, chỉ còn biết cười, cười ra nước mắt. Bệnh nói như Trạng truyền nhiễm chẳng kém gì thổ tả, dịch hạch.
- Hòa bình rồi! về thôi, về để xây dựng! Tôi nhắc lời ước mơ xưa của những kẻ như tôi với Bình Minh đã đến khách sạn đón tôi từ sớm.
- Thế sao anh không về? Bình Minh ngạc nhiên, anh ở trong phong trào những người Việt yêu nước mà...
- Không dễ... Đại sứ quán phán, tùy trường hợp! Và cũng có người về. Một cặp qui cố hương với hai đứa con, công tác ở Đại Học trong TPHồ Chí Minh, về vì được một người bà con có chức có quyền ‘‘bảo đảm”. Hai năm sau, họ vượt biên. Lý do nói ra nghe rất tức cười: họ đi mua thịt phân phối trong cơ quan theo kiểu xã hội-trại lính, khi nào cũng bị thịt bạc nhạc, mỡ quá ăn không nổi! Và họ dị ứng với câu đất nước ta còn nghèo để biện minh cho tất tật, cứ nói nghèo là xí xóa hết!
-...nhưng nói thế là nói cho có. Chắc họ có nhiều lý do...
- Bỏ quê hương, bỏ thân thích để ra biển, đi thì 6,7 phần chết 3,4 phần sống, chắc đâu phải là để đùa.
- Tại sao? Ai bắt đi?
- Đáp câu hỏi tại sao, chúng có thể nói đến một số biến cố bề mặt gọi gọn là hiện tượng. Chuyện này để nói sau vì dễ thôi, nhưng cái cần đề cập ngay là ‘‘bản chất” xã hội cũa những hiện tượng cá biệt. Quyền lực mới trong xã hội sau 75 đã không biết phân biệt thời chiến - thời bình, cái gì là ta - cái gì là địch, quá khứ - tương lai...
Chiến tranh là một cơn cuồng nộ, kẻ thù ta nhận ra, nhìn thấy, và rất dễ xác định ta - địch, thế nào là thua, thế nào là thắng. Những con người trong chiến tranh hành xử theo bàn năng sinh tồn. Có hai loại; sinh tồn của bản thân và sinh tồn của chủng loại. Vì vậy, có những anh hùng hy sinh cho đồng đội, chết vì nhiệm vụ, mang thân ra chắn lỗ châu mai hoặc chặn cho xe kéo pháo thôi trợt dốc cao. Nhưng cũng có những kẻ giật lùi để đồng đội xông lên phía trước, giả lạc đơn vị trốn trong rừng sâu, cò kè từng hóp nước cho đến miếng lương khô, nhưng có dịp là tuyên hô tinh thần tiến công, gương liệt sĩ, và niềm tin sắt đá toàn thắng ắt về ta. Trong chiến tranh, khi dừng quân người lính mơ về một thời bình, những dự định cho tương lai, một mái nhà êm ấm, người vợ trẻ, đứa con thơ, bà mẹ già và đàn em dại... Hoà bình khác, nhưng lại có thể học rất nhiều từ chiến tranh. Địch xưa nay cứ là bọn xâm lăng đế quốc và bè lũ tay sai bây giờ không còn. Chỉ có ta. Và những kẻ đã hạ súng. Ta thì có người tử tế, có kẻ giá áo túi cơm. Và những giấc mơ thời chiến từng bước đụng mặt với hiện thực, mái nhà không cứ lúc nào cũng ấm êm như từng
tưởng tượng, vợ trẻ con thơ ăn gì uống gì, mẹ già nay ốm mai đau thuốc thang làm sao, còn đàn em dại nay ngu ngơ công ăn việc làm chẳng có...Chỉ còn ta với ta... sống thế nào với nhau đây!
Bình Minh thở dài:
- Em không biết, khó cực kỳ...Chúng ta không có kinh nghiệm!
- Nhưng chúng ta lại lắm mẹo Trạng để đối phó với tình thế mới! Xin nhắc, khi tiếp quản Sài Gòn, ai cũng nghe tuyên bố, chỉ có đế quốc Mỹ bại trận, tất cả mọi người Việt Nam đều thắng trận. Đầu tháng 5-75, Ủy ban quân quản ra thông cáo kêu gọi trình diện:
1- binh sĩ và hạ sĩ quan cấp thấp đi học tập chính trị 3 ngày;
2- sĩ quan và viên chức cấp trung học tập 10 ngày;
3- sĩ quan và viên chức cao cấp cũng như lãnh đạo những đảng phái chính trị học tập 30 ngày.
Tin vào sự khoan hồng và chỉ mong quay về một cuộc sống an bình khi hết chiến tranh, “ngụy” ra tình diện, nhưng học 10 ngày thì hóa ra 2,3 năm. Còn 30 ngày, thành 5,6 cho đến 12,13 năm. Vợ chờ chồng, con chờ cha, và nay ai nấy đều hiểu không chỉ có Mỹ là kẻ chiến bại, nói vậy mà không phải vậy. Cách Mạng ta hô, không có tắm máu. Đúng thế. Cách Mạng ta bảo không có chuyện ngục tù mà chỉ học tập cải tạo. Thì cứ cho là đúng đi, nhưng không học không được! Đó là cái mẹo đầu, nhân danh an ninh khi vãn hồi hòa bình.
Và cái lo trước mắt là khôi phục kinh tế. Kẹt là ngoài một 16 tấn vàng tiếp thu được từ chính quyền “ngụy”, ta chẳng biết phải làm gì. Kinh nghiệm xây dựng ở miền Bắc không có bao nhiêu trong thời chiến, và nếu có, cũng không thể gọi là những thành công. Thế thì thắng nhưng trắng tay ư? So với những người đã tự nguyện bỏ súng bỏ đạn, đám ngụy quân ngụy quyền và bọn liên quan ăn bơ thừa sữa cặn đế quốc, chẳng nhẽ cứ để chúng ăn trên ngồi chốc à? Mẹo thứ nhì, không có thì ăn cướp. Thế là ngay ba năm sau Giải Phóng, đổi tiền rồi cải tạo tư sản ở miền Nam [24]. Sau, phát động chính sách đi kinh tế mới, cửa nhà bỏ lại... Dân sợ. Tương lai ra sao đây? Chính sách lý lịch-thành phần lại tung tăng giấy tờ, con cái “Ngụy” thì học hành thế nào? Ngụy cha, ngụy anh đi học tập. Ba tháng. Rồi ba năm, vẫn mút mùa. Ngụy học chăm đến độ không ngờ, học thêm có kẻ 5,7,11,12 năm [25]. Cán bộ quản giáo vui và mừng chia quả thực thăm nuôi. Vợ con ngụy cứ rút lần rút mòn chút của để dành ra ăn, người còn thanh xuân đi bước nữa, kẻ có vàng thì chạy ngược chạy xuôi tìm một chuyến vượt biên. Ban đầu, 12 lạng một đầu người, mua tàu 2,3 lốc, mua bến, mua bãi. Số 12 lạng cào sạch, giá từ từ xuống 10, rồi 8, 6... Người bán bến bán bãi đút vàng vào túi nhưng trên đài trên báo ra rả kết tội kẻ thí mạng ra đi là tham bơ thừa sữa cặn của Mỹ mà vượt biên...
- Ai lấy vàng? Bình Minh ngỡ ngàng.
- Thì dân gian đã bảo con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc cướp ngày là quan chứ còn ai vào đấy nữa! Cái thúc đẩy thêm cho chuyện vượt biên là gì Bình Minh có biết không? Đây là mẹo thứ hai...
Thấy Bình Minh ngước nhìn chờ đợi, tôi tiếp:
-...là cái việc làm nghĩa vụ quốc tế đi “giải phóng” nước anh em Campuchia đang bị họa diệt chủng gây ra bởi những Pol Pot, những Ieng Sary, đám hình nộm đỏ nặn từ hồng thư của người cầm lái vĩ đại Mao Trạch Đông... Thế là đi nghĩa vụ quân sự, sau ba năm tưởng đã có hòa bình! Đảng bách chiến bách thắng chạy trốn về phía trước bằng cách lao vào chiến tranh. Thêm một lần, không biết làm sao tổ chức một xã hội thời bình nên những người nắm quyền lực nhắm mắt làm theo đúng cái quán tính độc nhất họ biết là chiến tranh. Lần này, Đảng là tác nhân, có viện trợ Liên Xô, ý đồ là làm vướng chân anh Trung Quốc lúc ấy đã ve vãn được con “hổ giấy” sau chuyến đi thăm Bắc Kinh của Nixon năm 1972. Cuộc viễn chinh của một dân tộc có cái tiếng tốt là xưa nay chống xâm lăng khiến thế giới lên tiếng phản đối, và người “anh em” chơi trò răng cắn môi, xua quân qua biên giới, dạy Việt Nam “một bài học”! Thuở đó Võ Đông Giang hỏi, Pol Pot chúng nó diệt chủng, ta đánh qua, thế giới có ủng hộ ta không? Tôi đáp, không. Ta đánh qua, nhưng 3 tuần sau rút, thế giới có ủng hộ ta không? Tôi đáp, không. Thì 3 ngày sau ta rút, khả năng là có với số trực thăng lấy được của Mỹ-Ngụy! Vậy cứ làm, rút ngay, không tuyên bố gì. Tôi lại đáp, cũng không! Bởi rồi, ai cũng biết, Lê Đức Thọ thời đó vẫn mơ màng cái Liên Bang Đông Dương thực dân Pháp đề ra từ tháng 3 năm 45, nhưng lần này với Việt Nam anh hùng có ý đồ làm tiểu bá trong khu vực. Nhưng thôi, những chuyện đã chót làm, nhắc lại làm gì. Chuyện đáng để nhớ là chuyện con người...
Chuyện người vượt biên, người học tập.
Anh 28 tuổi, đại úy Biệt Động quân, một vợ ba con, xưa đi Thủ Đức vì thi trượt Tú Tài 2, ra trình diện rồi sau đi học tập ở Long Khánh. Học tập bình thường, cho đến một hôm anh nổi máu anh hùng, bênh “họa sĩ”. Vị này tài cao, mới 12 tuổi, bị cải tạo vì lấy bút bi tô râu cho anh xích lô máy vẽ trên bìa tập vở 100 trang của học trò thời ngụy, khéo tay đến độ trông giống bác Hồ. Sau 3 năm cải tạo,  “họa sĩ” được xuất trại, nhưng gia đình đã vượt biên, lếch thếch trở lại xin nhập trại vì không biết đi đâu về đâu, nhưng trưởng trại không cho. Anh giận, làm một bài nhân nghĩa, bị kỷ luật, đưa ra Vĩnh Phú vì được xếp vào hạng ngoan cố chống đối. Từ ngày đi Bắc, anh bặt tin chị và các cháu. Năm năm sau, anh được xuất trại nhân ngày 2- 09, mua vé xe Thống Nhất, về đến ga xe lửa ngày 7- 09, lủi thủi cuốc bộ về chợ Cầu Kho, nơi anh cư ngụ ngày trước. Sáng hôm đó, anh đến đầu hẻm nhà, nhìn từ xa anh thấy trong nhà anh có bóng đàn ông. Anh sững lại. Thôi thì thôi, để mặc mây trôi, nhưng anh muốn thấy mấy đứa con đã. Ngồi ở gốc cây lề đường sát hẻm, anh rình. Con anh lớn lên, anh không nhận ra đứa nào. Vợ anh, anh thấy, nhưng không dám gọi, thu mình lại, cúi mặt xuống. Còn người đàn ông lạ mặt, ông ta mặc sắc phục công an, đi xe Honda. Anh cứ ngồi, một lúc sau bỗng có con chó chạy ra, mũi hít hà, rồi rúc vào chân anh kêu hinh hích. A, ra con chó của anh, nó cũng đã già, nhưng chưa mất khứu giác nên nhận ra chủ cũ. Anh vuốt lưng nó, lông rụng ra từng mảng. Anh hỏi, chó ơi, mấy đứa nhỏ đâu. Nó chỉ kêu hinh hích. Đến tối, anh đi tìm một góc chợ ngủ qua đêm. Con chó vẫn theo anh, vẫn chỉ biết kêu hinh hích. Sáng sau, anh quay lại từ sớm, hy vọng con anh đi học, ra khỏi nhà là anh nhận được chúng. Và anh nhất định chỉ nhìn từ xa, thế thôi. Nhưng ông công an dắt Honda ra, đạp ga xe, rồi vợ anh ngồi lên yên sau. Anh lại cúi đầu giấu mặt. Con anh, chúng đâu? Con chó già vẫn cứ kêu hinh hích. Anh nhìn quanh. Hàng xóm nơi anh ở mặt quen không còn ai, và dẫu còn, người ta cũng chẵng thể nhận ra anh, vì anh nay chỉ còn là đống rẻ xã hội vứt ra lề đường đầy bụi gió. Anh ngồi ở gốc cây thêm một ngày. Sáng ba ngày sau, người ta vớt được xác một người, tay ôm một con chó già. Miệng chó há hốc nhưng không còn kêu gì để an ủi người chủ cũ nay đã thành xác một kẻ chết trôi không danh tánh.
Chị con gái nhà lành Hà Nội, di cư vào Nam, 38 tuổi, là Dược Sĩ. Lấy chồng sớm, chị có 2 đứa con gái, đứa lớn 18, đứa kia 15. Anh là y sĩ, học tập về, đi vượt biên, hai năm nay không tin tức. Ba mẹ con quyết định đi. Có người đến dụ, thu xếp cho “đi bán chính thức”. Mất nửa số tiền dành dụm, vừa đến bãi thì bị bắt. Thời vận chưa đến, biết làm sao. Chị đi xem bói ở Thủ Đức với một bà đồng nổi tiếng. Bà vừa thấy mặt đợi chị đặt quẻ là phán ngay, tháng tới, qua ngày rằm thì sẽ chót lọt. Hậu vận tốt, bà cười, phất thì sau này nhớ tôi nhé! Thánh dậy, thế thì cố, lần này là lần thứ 5 rồi. Và quả thế, bến xuôi, bãi cũng xuôi. Lên thuyền thì nêm hơn trăm mạng người, khoang trên, khoang dưới, như cá mòi. Tài công hớn hở, bể lặng, cứ gió thế này thuyền trôi cũng đến Mã Lai. Bến bờ nào cứ đến thôi là cũng được. Một ngày qua đi, nắng cháy da, gió mặn chát và sóng xa bập bềnh. Hai ngày, máy thuyền ho khan như tức ngực, hực lên hóc phải xương kêu cùng cục, dầu không biết ở đâu chảy ra thành một vệt nâu đen lấp loáng trên sóng. Anh tài phụ nhảy xuống, lặn xem cái chân vịt ra sao. Ngày thứ ba, thuyền xuôi theo gió, máy hư không sửa được. Chị nhìn hai đứa con, trấn an, sắp đến rồi, các con ạ!
Ngày thứ tư, thuyền nhân dặn nhau, dè sẻn nước uống. Rồi thình lình trên khoang có tiếng la. Có thuyền cứu mình, bà con ơi! Chiếc thuyền lạ cập vào, tiếng chân nhảy qua, và tiếng thét, tiếng chân chạy rồi tiếng súng. Một bọn người lực lưỡng như quỷ nhà trời rơi xuống, quát tháo, moi móc tìm tiền tìm vàng. Tìm xong, chúng nhìn quanh, chọn đàn bà con gái kéo ra sau khoang. Chị nghe đứa chị lạy lục. Đứa em rú lên đau đớn. Chị nhảy tới thì một đứa nắm tóc chị giật lại, tiện chân đá thốc vào bụng dưới, mồm sổ ra một tràng thanh âm nghe như nguyền rủa. Chị gào lên, lại xô vào, nhưng một đứa khác quật báng súng vào đầu chị, miệng toác ra hềnh hệch. Trước khi chị ngất đi, chị còn thấy chiếc răng vàng cửa miệng nó lóng lánh, lóng lánh... Chị tỉnh lại, đầu băng bó nhưng máu thấm đẫm bông băng vẫn ứa ra nhễu xuống. Câu đầu chị hỏi, con tôi đâu? Hải tặc bắt đứa gái lớn đem đi, đứa nhỏ bỏ lại, nằm co quắp rên rỉ, nỗi đau đớn tủi hổ khiến nó như mất hồn, cứ lịm dần đi. Thấy người bây giờ là nó sợ. Nó chui vào lòng chị, gọi mẹ như con nít lên năm lên bẩy, được hai ngày thì nó lìa cái cõi đời khốn khổ trên chiếc thuyền chết máy lênh đênh trong lòng một đại dương không đủ rộng để cưu mang cuộc đời nó nhỏ nhoi. Chị sống, dạt vào bờ, được những kẻ đồng thuyền dìu vào trại định cư. Nhưng chị mất trí, lang thang trên bãi biển trắng xóa, miệng cứ đúng một câu hát, trên đời người trổ nhánh hoang vu, hát xong chị gọi tên con, nhìn quanh rồi lại hát, vẫn cứ đúng một câu...
- Thôi, anh... Bình Minh xúc động đưa tay lên bóp trán.
Chúng tôi im lặng. Nhìn ra ngoài sân khách sạn nơi tôi ở, tàn cây ngang tầm mắt chớm nắng xanh mướt. Buổi sáng trong vắt, đẩy cho trời lên cao với tiếng chim hót ríu rít bay ngang. Tôi đứng lên, rủ Bình Minh tản bộ. Đi cạnh, thình lình Bình Minh nói:
- Vậy mà khi em học cấp một, cô giáo cứ nói những người vượt biên là những kẻ phản quốc đó anh!
- Từ khi chiến tranh Campuchia nổ ra, số người vượt biên tăng, phần lớn đi đường biển. Theo một ước lượng, số bỏ mạng trên biển cả có thể lên đến 400.000 người. Những gia đình tan vỡ vì học tập cải tạo thì không tính được là bao nhiêu. Khi Trung Quốc đánh vào Cao Bằng-Lạng Sơn, chính quyền lại “mời” người Việt gốc Hoa hồi hương, dĩ nhiên phải để nhà cửa của cải lại. Có những người ở Việt Nam đến ba đời, vẫn phải lên đường dù một chữ Hoa bẻ đôi cũng không biết. Lại thêm một dịp hôi của, ta bắt ngay thời cơ! Thế là ba bốn năm sau Giải Phóng, lại chiến tranh. Xã hội-trại lính tiếp tục, vẫn tem phiếu, hộ khẩu, sổ gạo, sổ vải...và đầy kẻ thù, trên là bọn Bành Trướng, dưới là Khmer-đỏ Pol Pot diệt chủng. Và nhất là vô số những oan hồn!
- Có khác thế được không anh? Bình Minh hỏi, giọng e dè.
- Có thể được chứ! Hai lần có thể khác được, nhưng lần nào ta cũng lao vào cái lối đoạn trường như có ma đưa lối quỉ dẫn đường... Lần đầu, nếu không có cái nghị quyết 9 và con đường 559, thì không có chiến tranh. Miền Nam khi đó cũng như Nam Hàn thời 1955, đã có chút công nghiệp, và với những con người không thua kém ai, biết đâu ta cũng có khả năng làm ra xe hơi như Huyndai, TV như Samsung. Còn miền Bắc, có thể chí ít thì cũng có bom nguyên tử như Bắc Hàn tuyên bố, dẫu chuyện đó chẳng phải là điều làm cho dân hạnh phúc. Nói thế, mục đích để nhấn mạnh rằng không giải phóng miền Nam bằng võ trang thì nhân lực hai miền dồn vào việc xây dựng, và chắc chắn là xã hội Việt Nam hôm nay không thể trì trệ ở cái mức là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Lần thứ hai, là ngay sau 75. Nếu ta bình thường được quan hệ ngoại giao với Mỹ và những nước Tây Âu năm 77, Mỹ giúp hàn gắn vết thương chiến tranh, và không có chuyện cấm vận. Trong khi đó, nếu ta thực sự thi hành chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc thì làm gì có những trại tập trung học tập cải tạo, có vượt biên hàng mấy trăm nghìn người, và thậm chí cái chiến tranh với Campuchia và Trung Quốc cũng có thể tránh được. Thời gian năm 75, miền Nam có thua gì Thái Lan. Trong điều kiện hòa bình, chí ít thì ta cũng phát triển như Thái, mà bây giờ ta cần 15, 20 năm mới đuổi kịp cái mức Thái ngày hôm nay...Nhưng em biết rồi, Đảng lại đưa quân sang Campuchia “giải phóng”, đẩy đất nước vào chiến tranh biên giới, rồi bị cấm vận và cô lập, không biết làm gì khác hơn năm 59 là lại lập lại mô hình xã hội-trại lính...
- Thế là phí mất 15, 20 năm. Và bao nhiêu oan trái đau khổ vô ích! Nhục nhã thật...
Bình Minh thở ra sóng sượt, buồn so, mặt cứ cúi gầm xuống. Tôi quàng vai Bình Minh, nói với giọng cố làm vui:
- Vài ba mươi năm có hề chi, lịch sử là con đường dài trước mặt!
Tôi nói như để an ủi Bình Minh, nhưng chính ra cũng là để an ủi mình. Con đường dài đi làm sao khi những oan khiên mới hôm trước vẫn không thôi thúc được những tấm lòng người ngày hôm nay sống cho tử tế hơn ngay cả với những kẻ đã khuất. Bên cạnh những tượng đài Liệt Sĩ, có bao giờ những người có trách nhiệm lịch sử nghĩ đến dựng những tượng đài cho những kẻ chết oan như một cách xin họ tha cho những lỗi lầm phải trả giá bằng hàng triệu sinh mạng qua đổi dời, từ Cải Cách Ruộng Đất đến di cư, từ Giải Phóng đến di tản, từ Chiến tranh Biên giới và Cải tạo Tư Sản đến vượt biên. Có lẽ đã đến lúc những người có trách nhiệm cao nhất trong guồng quyền lực có thể nghĩ đến một cuộc đại lễ giải oan cho toàn dân tộc. Tất cả chúng ta sẽ thành khẩn cầu cho những kẻ chết oan, chết dại, chết vô ích, chết trên rừng, trong địa đạo, chiến hào, dưới biển thẳm...siêu thoát. Nếu không hòa hợp hòa giải được với những người đã xuôi tay nằm xuống thi ai tin gì vào lời tuyên bố người Việt sống dù ở đâu cũng là da là thịt của Tổ Quốc.
Thân thích của những kẻ chết oan ấy lưu lạc năm châu bốn biển. Nay họ không còn bị gọi là những kẻ phản quốc như cô giáo năm xưa não bộ bị guồng máy tuyên truyền nhào nặn nữa. Bây giờ, mới có nghị quyết 36 năm 2004, điệp khúc đầy yêu thương lập lại cho cái khúc ruột ngàn dậm của Tổ Quốc đó, bởi nó ăn nhịn để dành gửi về cho người thân trong nước độ 3 tỉ rưỡi đôla mỗi năm, và về du lịch, ăn tiêu quà cáp, tính vào thì tất cả có thể lên đến 6 tỉ [26]tức là 15% cho đến 20% tổng sản lượng nội địa. Đó là viện trợ không hoàn trả, từ những tấm lòng Việt Nam hải ngoại, rơi từ trời xuống và giúp cho Đảng quyền bính cũng dễ thở hơn, chứ không như tài trợ quốc tế, có lợi nhuận và điều kiện. Xin mở một cái ngoặc dài để nêu ra một nghịch lý oái oăm: Năm vừa qua, BBC đưa tin về Hội Nghị của nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam [27] đã kết thúc ngày 2-12-2004 tại Hà Nội. Các nhà tài trợ quốc tế cam kết sẽ cung cấp 3.4 tỉ đôla viện trợ phát triển cho Việt Nam, tăng so với 2.8 tỉ năm ngoái. Nhật là nước tài trợ quan trọng nhất, với 902 triệu đôla. Sau đến Pháp, với 444 triệu, rồi Anh, với 177 triệu Euro. Trong số tiền tài trợ, 30% là viện trợ không hoàn trả, 70% là tiền cho vay với tỉ số lợi nhuận đặc biệt. Và họ khuyến cáo là phải tăng cạnh tranh, chống tham nhũng trước khi hội nhập vào WTO. Ông Deepak Khanna, đại diện của Tổ chức tài chính quốc tế IFC ở Việt Nam, phát biểu:  ‘‘Một loạt các cuộc điều tra đã khẳng định Việt Nam là điểm đến hấp dẫn đối với đầu tư. Chuyển đổi những mong ước này thành hiện thực đòi hỏi có sự cộng tác chật chẽ hơn nữa giữa chính phủ và doanh nghiệp. Còn rất nhiều việc cần làm để tinh giản thủ tục, kiềm chế tham nhũng, cải thiện cơ sở hạ tầng và tạo ra sân chơi bình đẳng đối với các doanh nghiệp nhà nước.’’ Đại sứ Đan Mạch, Lysholt Hansen, nhấn mạnh:  ‘‘Cần ưu tiên cải thiện tính minh bạch trong quản lý tài chính công, phân bổ nguồn lực, mua sắm, kiểm toán, và thanh tra, quản lý khu vực công, vấn đề thu phí cho các dịch vụ công, cũng như vai trò thiết yếu của việc tự do báo chí trong đấu tranh chống tham nhũng.’’
Nghịch lý bây giờ rõ mồn một: Việt Kiều tài trợ (không hoàn lại) gấp 3,4 lần các nhà tài trợ quốc tế nói trên, nhưng lại chẳng có lời ăn tiếng nói gì trong khi đất nước vẫn là đất nước mình, còn gia đình thân thích, còn con còn cháu, nhưng trơ mắt bó tay nhìn những đảo điển, không tập hợp nổi số ‘‘vốn” bằng 15-20% sản lượng nội địa mỗi năm gửi về tạo thế đòn bẩy, và chí ít thì cũng nói được dăm lời nói có trọng lượng của lương tâm và trí tuệ. Nhưng không, những chuyên gia tài chánh và trí thức Việt Kiều ngậm tăm, chăm chỉ làm công cho các công ty tư bản Tây-Mỹ, mũ ni che tai, tập trung sức lực tìm thăng tiến cho riêng mình. Những ‘‘chính khách” hải ngoại lập chính phủ lưu vong, phát ngôn ‘‘suông” kêu gào chống này chống nọ trên internet, lời nhẹ còn hơn gió bay vèo đi trên mạng, tăm hơi nằm trong Recycle Bin đợi bấm nút Delete! Khốn khổ thay cho trí tuệ Việt Nam! Đau đớn thay cho con người Việt Nam lưu lạc, cái khúc ruột ngàn dậm, cái khúc ruột thừa, đáng ra phải có được một chức năng xứng đáng hơn trong sinh thể của Tổ Quốc?
12. Việt Nam, (4) Đường cùng
Sa lầy vào chiến tranh trên đất Chùa Tháp, mất hậu thuẫn quốc tế, phải đối phó với nguy cơ phương Bắc, bị cô lập và cấm vận kinh tế trong khi đó cải tạo xã hội ở miền Nam theo mô hình XHCN khó khăn trầm trọng: hợp tác xã nông nghiệp kiểu “đánh kẻng” để nông dân đi làm như với miền Bắc đầu những năm 60 lại lập lại thêm một lần sự thất bại không thể phủ nhận được cuối thập niên 70. Sau Giải Phóng, sản lượng nông nghiệp trong Nam xuống trầm trọng, cái cảnh ăn độn bo-bo bắt đầu đập vào mắt, rõ ràng động cơ kinh tế là củ cà rốt chứ không thể tạo ra bằng cái gậy giơ cao đánh xuống (với ý chí điên rồ đem bỏ toàn bộ nhân dân vào một cái nhà tù khổ sai ‘‘vĩ đại” chấn chỉnh bằng roi vọt). Đầu những năm 80, Đảng đành chấp nhận 5 thành phần kinh tế và cho khoán sản phẩm, một kinh nghiệm làm chui ở Vĩnh Phúc năm 66 khi cải cách nông nghiệp trên miền Bắc thất bại. Trước, sự thất bại ta đổ tội cho chiến tranh. Nay, cũng vậy.
- Tại sao Đảng lại lập lại trong miền Nam những thất bại cải cách kinh tế ở miền Bắc? Bình Minh ngạc nhiên.
Tôi không biết làm thế nào để trả lời Bình Minh cho thật ngắn gọn. Hình ảnh đất nước lại chập chờn khơi lại chuyến tôi về Hà Nội 25 năm về trước. Thuở đó, Hà Nội xơ xác, điện lắm hôm bị cúp ngày 2,3 lần khi có điện thì cái máy suyệc-vôn-tơ (survolteur) kêu sè sè. Tối tối, tôi thả bộ dọc đường Trần Hưng Đạo, xót xa nhìn những ngọn đèn dầu lạc le lói chiếu những cái hòm gỗ con con để dăm bao thuốc lá bán lẻ cho khách qua đường. Đầu ngõ, những cái bảng nguệch ngoạc  ‘’Nhận đan len, nuôi thỏ” hay ‘‘Qui-Gai-Xốp”, ba chữ có âm điệu Liên Xô mãi sau chúng tôi mới hiểu ra là bánh bít-qui, bánh gai...Dân Hà Nội nghèo. Nhưng điều khiến tôi ngỡ ngàng là cái thói nói chuyện đất nuớc mà cứ thì thào vào tai, mắt nhìn ra sau như sợ có người nghe. Lắc đầu, tôi ban đầu cho rằng đó là do cái thói quen bảo mật trong thời chiến, nhưng sau tôi hiểu, nó đến từ một sự sợ hãi lơ lửng đe dọa những phát ngôn lỡ ra không đúng lập trường, sai đường lối chính sách, và lung tung vô tổ chức. Nhưng khi tập thể bóp chết tư duy mọi cá nhân thì cái tập thể đó phải chăng đang mê muội lên đồng, tự thắt họng, trong cuộc hiến tế dâng xác mình cho thần chuyên chế? Thời đó là thời Đại Hội V. Nghe đâu ông Võ Nguyên Giáp có thể sẽ thành Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng thay ông Phạm Văn Đồng. Nhưng ông Giáp đòi làm cho rõ ràng hai chuyện chồng chéo là Đảng lãnh đạo và Nhà Nuớc quản lý, tức yêu cầu có một hình thức phân quyền nào đó mặc dầu lãnh đạo hay quản lý thì nhất định cứ phải là đảng viên trước đã. Hai ông Duẩn-Thọ điều ngay ông Giáp từ Ủy Ban Khoa học Kỹ thuật, một trong ba dòng thác cách mạng, sang phụ trách Sinh đẻ có Kế Hoạch.
Thôi thì, cứ từ từ. Thuở đó, tôi giao tiếp với ông Phan Đình Diệu và ông Nguyễn Khắc Viện. Hai vị này ‘‘điều trần”, và phần tôi, tôi được (hay bị) ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Cơ Thạch và (về sau) ông Võ Văn Kiệt khuyến khích đề đạt những góp ý về vấn đề xây dựng kinh tế. Viết gửi Hội Đồng Bộ Trưởng thời đó, tôi đề xuất quan điểm xã hội như một hệ thống ‘‘mở’’, trong đó thông tin luân chuyển và có tính phản hồi, tức một hệ thống sinh động chứ không bó vào quán tính ù lì. Trên phương diện kinh tế, tôi xin đẩy mạnh ‘‘khoán” đến việc sử dụng cơ cấu giá thị trường như đòn bẩy kích thích, và giới hạn sự tham gia của Nhà Nước vào những chính sách vĩ mô liên quan đến y tế, giáo dục, quân sự, và những ngành công nghiệp cần tập trung... Về mặt vi mô, tôi cho rằng Nhà Nước phải giới hạn nền kinh tế quốc doanh vào nhiều lắm là 60% từng ngành, mở rộng tham gia cho nhiều thành phần kinh tế, và làm sao để các xí nghiệp quốc doanh cạnh tranh một cách công bằng trên cơ sở qui luật thị trường chứ không dùng ưu tiên chính trị để chèn ép những xí nghiệp thuộc những thành phần kinh tế (tu nhân) khác [28]...Đấy là cái tội trời chưa sáng đã gáy của tôi đầu thập niên 80! Từ 82, tôi phải đợi 6 năm sau mới có giấy phép nhập cảnh Việt Nam, đơn của một người như tôi xin về đóng góp xây đựng quê hương mình phải có chữ ký chấp thuận của đến ba vị lãnh đạo là các ông Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt và Nguyễn Cơ Thạch!
Bình Minh ngắt, giọng nghiêm trang, quay lại vấn đề hệ trọng hơn:
- Nhưng anh chưa đáp câu hỏi, tại sao lại lập lại những thất bại...
- Tại cái câu của Lê-nin, là cướp chính quyền dễ, nhưng giữ được chính quyền mới khó! Dưới thời thực dân phong kiến, bộ máy quản lý nông thôn ở mức xã có xã trưởng, hương tuần... cộng lại đến 10, 20 người là nhiều. Nhưng với giải phóng, rất nhiều chức tước, mọc ra nhan nhản với nào là Ủy Ban nhân dân, Xã đội, công an...và thường là phình ra gấp 5, 7, thậm chí 10 lần bộ máy ngày trước. Giữ chính quyền đồng nghĩa là nuôi được và cho cái bộ máy mới này những đặc lợi. Người cầy thực ra không có ruộng, đất là sở hữu tập thể, và nông dân bán sức lao động. Đất đai có hạn, người ngày một đông, thu nhập thấp rồi sưu cao thuế nặng. Trên giấy tờ, thuế nông nghiệp Trung Ương chỉ 15-20%. Nhưng còn tỉnh, còn huyện, còn các thứ quĩ đảm phụ nào là y tế, trường học, phụ lão... cho nên khi đến tay người cầy chỉ còn độ 20-25%. Một lần tôi đi tham quan và có dịp hỏi riêng một vị tiên chỉ ở một cái xã ngoại thành Hà Nội, nếu Nhà Nước ở các cấp chỉ thu độ 40% thuế các loại, nông dân ta có làm hăng hơn không? Cụ tiên chỉ sụp xuống, kêu nếu ông lo được thế thì làng tôi xin vái ông làm Thành Hoàng. Tôi vội đỡ cụ dậy, ngậm ngùi nói “... Cụ ơi, cháu cũng là dân như cụ thôi, làm gì được!”. Trong khi đó, nông nghiệp là khâu các nước tiên tiến phải có chính sách bù lỗ mới giữ được nông dân canh tác thì ở nước ta thuế má như vậy, tôi kêu lên những người lãnh đạo. Kêu thôi, nhưng chính trị thống soái, và Đảng vẫn giữ bộ máy cồng kềnh của chính quyền để đảm bảo cho sự tồn tại của mình! Ở trung tâm xã hội kiểu XHCN thời đó, quyền lực tập trung vào bộ máy giữ chính quyền, kinh tế chỉ là chóp băng bề mặt, và sâu dưới đáy là văn hóa kềm giữ bằng cách bóp chết thông tin khiến trí tuệ không oxy chết ngạt... Và rêu rao kẻ thù bên ngoài với khả năng chiến tranh là cái gậy thần đưa toàn dân vào cái thế cúi đầu ngậm miệng trước giặc trong ! Đó là thời mà một ông bạn tôi, con nhà nòi Cách mạng thuộc thế hệ có đào tạo và có thể là lớp kế thừa, khi thấy người ta giữ chính quyền mà bỏ cho dân đói, đã để lại vợ và hai con đi vượt biên! Và từ lúc có lao động thế nào đi nữa thì ăn cũng chẳng đủ no, chỉ sau hai năm khoán hộ, miền Nam thoát khỏi cảnh ăn độn bobo, đã có khả năng chỉ viện lương thực cho miền Bắc xưa nay vốn hiếm không tự túc được.
- Thì bây giờ cũng đầy giặc trong, giặc chỉ chuyển từ nông nghiệp qua những dự án xây dựng hạ tầng cơ sở và khâu gia công trong công nghiệp nhẹ, phải không anh? Bình Minh thở dài, quay mặt như tránh câu trả lời.
- Bây giờ có khác, ta sẽ có dịp nói sau, nhưng cái gì thì cùng cũng tắc biến...
Đổi Mới hay là Chết!
Cùng tắc biến, nếu không mang tính hiện thực thì cũng là một câu mở cửa về phía tương lai. Nhưng biến tắc thông trong Kinh Dịch thì chẳng chắc. Đại hội VI, với các vị lãnh đạo tối thượng nay trở thành cố vấn, để ông Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng Bí Thư Đảng. Chiến tranh Campuchia là chuyện quá khứ. Quan hệ với Trung Quốc đỡ căng, về phía Liên Xô,Glatsnost và Perestroiska với Gorbachov báo hiệu một cách nhìn mới trên phương diện tổ chức chính trị. Việt Nam tung khẩu hiệu đổi mới tư duy, bước đầu là cởi trói cho văn nghệ sĩ, điều tướng Trần Độ ấp ủ từ Đại hội V, nhưng sau bị Trưởng ban Tổ Chức Lê Đức Thọ gạt đi [29]. Thật ra, cái nhu cầu cởi trói đã có từ năm 1979, gần như lập lại nhu cầu thời Nhân Văn-Giai Phẩm 25 năm về trước. Để tuyên xưng lòng can đảm và tình yêu sự trung thực cũng như trí tuệ của những người dám nhắc nhở những điều bức thiết, không có gì hơn là trích lại Đề Cương Đề Dẫn thảo luận ở Hội Nghị Đảng Viên bàn về Sáng tác Văn học 1979 [30] do Hội Nhà Văn chủ trì:
‘‘...Cho đến cuộc cách mạng tư sản thì sự khẳng định cá nhân con người trở nên quyết liệt nhất, sự ‘‘giải phóng’’, ‘‘làm chủ’’ của cá nhân trở nên rực rỡ nhất, nhưng dần dần cũng trở nên cực đoan nhất, sự đối lập của cá nhân với xã hội cũng trở nên triệt để nhất, mỗi một cá nhân đối lập quyết liệt, triệt để với toàn thể xã hội. Và tấn bi kịch kéo dài suốt lịch sử đến đây trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ con người tự thấy năng lực của nó to lớn đến thế, chưa bao giờ nó làm chủ được những lực lượng vật chất khổng lồ đến thế, thì đồng thời cũng chưa bao giờ nó cũng trở nên bơ vơ, cô đơn đến thế. Sự tha hoá của con người đạt đến mức cùng cực. Cuối cùng nó rơi vào trong cái vực thẳm của chính nó. Chúng ta đã từng thấy tình trạng bi đát cùng cực này được phản ánh như thế nào trong nền văn học tư sản, dưới mọi màu sắc. Đó là tình trạng của con người trong cái đêm trước của buổi bình minh chủ nghĩa xã hội.
Bài toán đó, tất nhiên, cũng đặt ra đối với chúng ta khi chúng ta bước vào chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm riêng của đất nước ta. Từ sản xuất nhỏ đi thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta đang giải đáp bài toán này như thế nào? Bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta "bỏ qua", chúng ta tránh cho con người chúng ta phải rơi vào tấn thảm kịch mà xã hội tư sản đã lâm vào. Song, cái công việc khẳng định toàn diện của cá nhân, phát triển đến cao nhất mọi năng lực của mỗi con người, giải phóng mọi sức mạnh và cá tính sáng tạo phong phú, độc đáo của từng con người, thì từ con người của nền sản xuất nhỏ đi lên phải chăng chúng ta nhất thiết phải làm, hơn nữa phải làm rất mạnh, rất nhiều, rất toàn diện.
Bước lên vũ đài lịch sử, một trong nhiệm vụ to lớn và đẹp đẽ nhất của chủ nghĩa xã hội, về mặt con người, là nó phải - và chỉ có nó mới làm được công việc này - chấm dứt cuộc xung đột lâu dài giữa con người và xã hội đó, trả con người trở lại với toàn xã hội, với tập thể, đưa con người thống nhất trở lại với tập thể. Nhưng đây là một sự thống nhất có chất lượng hoàn toàn mới mẻ, một sự thống nhất không xóa nhòa cá nhân, một sự thống nhất trong đó mỗi cá nhân không phải là một đơn vị vô danh, mù mờ, không màu sắc; trái lại mỗi cá nhân đều long lanh những sắc màu riêng độc đáo nhất, được tự do phát triển và do đó năng lực sáng tạo to lớn của mỗi cá nhân đều đạt đến chỗ cao nhất. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thật sự là chủ nghĩa xã hội chân chính nếu nó đảm bảo sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Và mỗi một con người chỉ thật sự là con người xã hội chủ nghĩa khi được phát triển đến cao nhất bản sắc của riêng nó, nó lại hoà hợp với toàn xã hội ở mức độ rất cao... Xã hội, có thể nói, lần đầu tiên thực sự là xã hội loài người. Đó là một bài toán cực kỳ khó khăn, cũng cực kỳ lý thú, đẹp đẽ mà chủ nghĩa xã hội phải trả lời. Nhìn từ góc độ ấy chúng ta dễ nhận rõ cuộc đấu tranh xây dựng con người trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa về cơ bản là cuộc đấu tranh xây dựng mối quan hệ mới về chất giữa cá nhân và xã hội, giữa từng con người và tập thể.
Những lời đẹp đẽ vừa kể phải chăng chỉ là tô vẽ về một xã hội huyễn vọng lý tưởng? Nhưng có xã hội nào không còn huyễn tưởng mà đáng để cho những con người sống là mong vượt lên trên giới hạn của cá nhân mình để cùng đồng loại tiến đến một cái gì tốt đẹp hơn? Sau Đại hội, cuộc cởi trói cắt rốn đã khai sinh một số những tác phẩm văn học có chất [31]  với những tên tuổi như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Nhật Tuấn... Đùng một cái, biến cố Thiên An Môn ở Trung Quốc, rồi sự sụp đổ như những lá bài Tây xếp lá này dựa vào lá kia làm bức thành XHCN của Liên Xô và những nước Đông Âu cứ lả tả ngả xuống. Thế là co lại [32]. Thế là quay ngoắt sang ‘‘chiến lược” dựa vào Trung Quốc để chống âm mưu ‘‘diễn biến hòa bình” của Đế quốc Mỹ, hoảng sợ đẩy nhanh cuộc thương lượng bình thường hóa quan hệ Việt-Trung qua cách đem bán đứng Campuchia trong cuộc hội nghị cấp cao ở Thành Đô và bị đánh lừa một cách bi hài! Than ơi, lại mẹo Trạng, nhưng lần này thì Trạng hết thiêng, cái láu lỉnh ứng biến vô nguyên tắc không thể thay được một cách nhìn có bề sâu và có chiều dài [33]. Nhân dân lấy Kiều, Trăm năm trong cõi người ta. Co vào rồi lại bung ra, mấy hồi!
- Nhưng có khác được không? Bình Minh lại hỏi.
- Trung Quốc từ 1976 của Đặng Tiểu Bình bắt chuột, mèo đen hay mèo trắng đều được. Nhưng ngoài chuyện kinh tế bắt chuột thì Đặng xua xe tăng vào Thiên An Môn bắt sinh viên Bắc Kinh biểu tình đòi nới ra cái không gian chính trị ngột ngạt của một chế độ toàn trị. Việt Nam co lại theo con đường đó, tức tốc giải tán 2 đảng Xã Hội và Dân Chủ, mặc dầu thật ra 2 đảng này cũng chỉ là loại sản phẩm phụ của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Về mặt tư tưởng, người ta khuyên nhau, ai ơi chớ có huyên thuyên, đa thê thì đặng đa nguyên thì đừng. Ông Trần Xuân Bách là Ủy viên ban Bí thư chỉ tương đối cởi mở chứ chưa kịp đa nguyên đã bị hất ngay ra khỏi vòng quyền bính. Còn tôi, phận mỏng, vừa về đến Nội Bài hè năm 90 thì được mời ra khỏi phi trường ngay, có hai vị đại tá công an sách hộ vali đưa đến tận cửa máy bay Air Thai chờ tôi nên không được cất cánh, mặc dầu tôi có Visa và cả giấy mời về ‘‘đóng góp” với Ủy Ban Vật Giá. Ơ hay, tôi có đa nguyên hoặc định diễn biến hòa bình hay không? Đúng là năm 89 tôi có phát biểu với một cấp lãnh đạo nghe đâu sắp với đến chức Tổng Bí Thư Đảng rằng chẳng nên giải tán 2 cái đảng vệ tinh nói trên. Chắc “Đảng” cho là tôi có cú đá hậu của Ngựa bộc tệch trong truyện Lục Súc tranh công chăng? Và trâu bò húc nhau, thôi thì để cứ để cái thằng tôi ruồi muỗi hóa ra đệm bông đấu đá (proxy fight), nhân tiện thành  ‘‘điển hình” làm gương răn đe cho bọn trí thức lắm điều!
Còn câu Bình Minh hỏi có khác được không thì có khả năng lắm chứ. Quan hệ Mỹ-Trung khi đó căng, Việt Nam thì vào cuộc đổi mới trễ vẫn đang kiệt quệ, còn bị cấm vận và khá cô lập. Thời cơ lúc ấy là cởi mở với phương Tây, hòa nhập về kinh tế, nới không gian chính trị, để thế giới thấy Việt Nam không cứng ngắc giáo điều và nhắm mắt làm chư hầu một Trung Quốc đang tìm cách bành trướng bá quyền. Chỉ 6 năm sau, Việt Nam làm thế thật, tức là co vào rồi lại bung ra, nhưng không còn cái thế tạo ra một thứ Nam Tư ở Á châu, quá muộn và mất hậu thuẫn của nhiều nước, kể cả nước láng giềng mình bội ước. Dĩ nhiên nói thế không có nghĩa là giải pháp vừa kể không có vấn đề, và cái chính là vấn đề nội bộ các vị lãnh đạo. Đa số họ không nắm vững tình hình địa dư chính trị vùng cũng như xu hướng của thế giới, vừa đa nghi vừa bào thủ, co lại bảo vệ những điều đã đạt được, tức là quyền lực của họ. Trí nhớ họ khi đó chắc kém: họ quên Chu Ân Lai ép cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17 năm 54, Mao Trạch Đông đầu thập niên 60 thúc họ đánh Mỹ, sau khi gặp Tổng Thống Mỹ Nixon năm 72 lại khuyên họ là thôi, con hổ giấy có móng có vuốt, đánh nhau với nó làm gì!
Đổi mới hay là chết? Người Việt lại tiếu với nhau, không chết, vẫn ngắc ngoải như cũ, rồi cười. Quái thật, cái gì cũng cười được, người mình có cái thói lạ!
Giải phóng dân tộc
Khi chúng tôi đến Bến Ngự, chợ bắt đầu tàn. Hàng quán đóng cửa, chỉ còn những người bán rong đang thu xếp quang gánh. Men dòng sông An Cựu, chúng tôi vừa đi vừa hỏi, lát sau tìm được nơi xưa kia cụ Phan Bội Châu đã bị Pháp giam lỏng hàng chục năm. Trong vườn nhà ông già bến Ngự, bức tượng đồng, tác phẩm của nhà điêu khắc Lê thành Nhơn, trơ vơ giữa phong rêu thách thức, chòm râu trên chiếc cằm bạnh ra oai phong, sắc đồng xanh han rỉ khiến vầng trán ông nhăn lên những nếp suy tư hằn theo tháng năm dâu bể. Không có lấy một nén hương thắp lên, chúng tôi chỉ còn biết im lặng, và tưởng nhớ.
- Cụ sống giờ này không biết cụ nghĩ chi, hả anh?
-... khỏi cái ách thực dân rồi, chắc cụ sẽ nghĩ đến xây dựng đất nước, như tất cả chúng ta! Sinh thời, cụ ít khi đề cập đến chuyện này, và nếu có, thì cụ theo Tân Thư. Đồng thời với cụ là Tây Hồ Phan Chu Trinh. Tây Hồ tranh đấu giải phóng qua cái sách ‘‘hưng dân trí”. Giải Phóng Dân Tộc như vậy đối với Tây Hồ là một vấn đề văn hóa.
- Trong những bài giảng Lịch Sử, Giải Phóng Dân Tộc cứ được nhắc đi nhắc lại là công lao của Đảng...
- Giải Phóng Dân Tộc phải là giải phóng người người khỏi giặc dốt và giặc nghèo. Thật ra, nghèo vì dốt, cho nên giặc dốt là cái thứ giặc ghê gớm nhất. Từ những năm 50, Đảng đã bưng vào Việt Nam cái mô hình văn hóa tư tưởng vừa Xtalin vừa Mao-ít, tức là thứ văn hóa lưỡi gỗ với trí tuệ giáo điều đóng khung trong sáu tấm ván thiên, phản ánh một xã hội toàn trị, nói ra viết ra thì lập trường giai cấp là câu đầu miệng. Trong một môi trường văn hóa như vậy, trí tuệ bị xơ cứng, và nỗi sợ khiến con người đâm ra vong thân - tha hóa, nghĩa là mất mình, và trở thành một kẻ khác, một con người xa lạ với chính mình. Đầu thập niên 80, tôi cảm nhận thấy ở Việt Nam trong mỗi người có đến hai, ba con người: con người ở cơ quan, vâng dạ, miệng lề lối, lấm lét tìm cách nếu không thể tiến thân thì khép nép cầu an; con người trong vòng gia đình bè bạn, bất lực như bị hoạn, yếm thế, thì thầm, lúc nào nói thật thì ngoái cổ ra đằng sau sợ có người nghe; và con người trong xã hội phố phường, rất sĩ diện rất mẽ, sống hời hợt với sự giả tạo bề ngoài. Tóm lại, đó là con người bị xé làm 3 mảnh, song song tồn tại dưới 3 khuôn mặt, gì cũng thật nhưng gì cũng ảo, và cái tập hợp những con người như vậy thật ra không có một chất keo gắn bó họ vào cái chúng ta gọi là xã hội XHCN, nghịch lý thay phi xã hội hóa con người, biến họ thành những cá nhân yếu đuối, trí trá với mọi người và với cả chính mình, sống với cái ám ảnh lúc nào cũng có thể trở thành tên tội phạm của quyền lực quơ trên đầu lưỡi dao ‘‘tập thể”...
- Thế hệ cha em, thì thế thật! Bình Minh chép miệng.
- Và biến con người ra nông nỗi ấy thì giải phóng là cái gì? Tất cả là vì cái xã hội toàn trị cả!
- Nó là cái gì mà ghê thế anh?
Nó là gì [34]? Xã hội là tập hợp của các hệ thống kinh tế, văn hóa và chính trị. Trong chế độ toàn trị chỉ tồn tại có một hệ thống, đấy là chính trị. Hệ thống chính trị đã nuốt chửng những hệ thống khác, xóa xã hội dân sự, tất cả đã bị khuất phục bởi Nhà Nước, tức Đảng cầm quyền. Tất cả các mặt của đời sống xã hội bị trộn lộn làm một. Đặc điểm quan trọng nhất của chế độ toàn trị là sự hợp nhất một cách tuyệt đối tất cả các lĩnh vực của đời sống. Chế độ toàn trị cố gắng xóa nhòa ranh giới giữa cá nhân, gia đình, xã hội, nhà nước, lãnh tụ, đảng, quần chúng. Văn hóa tinh thần, bao gồm văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức thậm chí cả khoa học đều bị hệ tư tưởng Đảng toàn trị ngốn nghiến. Công cụ quan trọng nhất để biến xã hội thành đám đông vô tổ chức, thành các cá nhân ‘‘hạt nhân”, là khủng bố. Sau khi mất hết các mối liên hệ theo chiều ngang giữa người với người, các cá nhân trở thành đơn độc, trở thành một mình đối diện với Đảng-Nhà Nước, dĩ nhiên là hoàn toàn bất lực. Đặc điểm của chế độ toàn trị là ngoài hệ thống chính trị ra, tất cả các hệ thống khác của đời sống xã hội đều không tồn tại. Chúng đã bị trộn lộn vào làm một, được một hệ tư tưởng duy nhất cố kết, và được chỉ huy và kiểm soát từ một trung tâm. Từ đó, có thể rút ra một nguyên tắc, là chế độ này không có mối liên hệ phản hồi giữa quyết định của chính quyền và phản ứng của xã hội.
Hệ thống chính trị của chế độ toàn trị bao gồm bộ máy chính trị quan liêu và một loạt phương tiện (tuyên huấn, công an mật, v.v.) để đảm bảo cho nó tiếp tục nắm giữ quyền lực. Phương tiện quan trọng nhất là của hệ thống chính trị này là tính độc đảng, và phù hợp với nó là tư tưởng nhất nguyên. Sau khi đã tiêu diệt các đảng phái khác, sau khi đã hợp nhất bộ máy đảng với bộ máy nhà nước và đàn áp sinh hoạt có tính chất tự trị trong nội bộ đảng, chính đảng toàn trị này trở thành trụ cột của bộ máy nhà nước với bộ máy quản lý nằm trong tay những nhân vật chóp bu của Đảng. Trong hệ thống toàn trị, đảng chính là con đường cho người ta thăng tiến vì nó nắm toàn quyền trong việc chỉ định các chức vụ từ lớn đến bé. Chỉ có đảng viên mới được giữ các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước, trong các đơn vị sản xuất, trong quân đội, trong lĩnh vực ngoại giao và tất cả các lĩnh vực khác. Giai cấp cầm quyền này (ở Liên Xô gọi là "nomenklatura") tồn tại không phải trên cơ sở, sở hữu tài sản mà là trên cơ sở nắm giữ quyền lực. Nếu trong các xã hội tư bản, theo Karl Marx phân tích, thu nhập của một người trong giai cấp bóc lột phụ thuộc trực tiếp vào số tài sản mà hắn sở hữu thì trong chế độ toàn trị thu nhập phụ thuộc vào mức độ tham gia của hắn vào bộ máy quyền lực và nhất là vào quyền lực mà hắn nắm giữ [35].
Trong chế độ toàn trị, công tác tư tưởng đúng hàng đầu, có nhiệm vụ thực hiện:
(1) Chức năng hợp thức hóa chế độ hiện thời, thường xuyên biện giải cho việc nắm quyền của đảng và lãnh tụ, tán dương quá khứ, vẽ ra tương lai tươi sáng mà đảng và lãnh tụ đang toàn tâm toàn ý xây dựng, gán ghép những qui luật qua đó mà dường như chế độ là diễn trình tất yếu. Hòn đá tảng trong hệ tư tưởng toàn trị là lời khẳng định rằng chế độ xã hội hiện thời được thiết lập là do qui luật tất yếu của lịch sử và tự nhiên. Trong trường hợp chủ nghĩa cộng sản thì đấy là chiến thắng tất yếu của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản, và chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định sẽ thay thế chế độ tư bản. Theo qui luật biện chứng duy vật sử quan, chủ nghĩa toàn trị xuất hiện là do nhu cầu của lịch sử (chủ nghĩa cộng sản), hoặc do nhu cầu sinh học (chủ nghĩa phát xít). Nó chỉ thực hiện ý chí của lịch sử hay tự nhiên khi tiến hành tiêu diệt "các giai cấp bóc lột" hay các "chủng tộc hạ đẳng" vì một chế độ hoàn thiện hơn mà thôi;
 (2) Chức năng thứ hai là động viên quần chúng thực hiện các nhiệm vụ do chế độ đặt ra. Chế độ toàn trị cố gắng giữ cho quần chúng luôn ở trong tình trạng khích động vì khi tình trạng căng thẳng xã hội giam thì sẽ xuất hiện vấn đề tự do chính trị. Vì vậy chế độ toàn trị luôn luôn giữ vững và hướng dẫn tính tích cực quần chúng bằng cách tìm ra những kẻ thù mới, chuẩn bị chiến tranh hay các phong trào, có khi là phong trào thực hiện những kế hoạch kinh tế vĩ đại. Việc động viên quần chúng dĩ nhiên là được thực hiện từ trên xuống bằng biện pháp cưỡng ép hoặc lừa mị tư tưởng;
 (3) Chúc năng thứ ba, là "làm tê liệt về đạo đức", nhằm biến một người được giáo dục theo truyền thống đạo lý biến thành công cụ trong tay chế độ toàn trị. Để buộc những người này thực hiện các kế hoạch của chế độ thì cần phải cung cấp cho họ một tập hợp các tiêu chuẩn đạo đức mới. Từ đó, hệ tư tưởng toàn trị gần giống với tôn giáo, có xu hướng không chỉ cải biến hiện thực khách quan mà cải biến cả bản chất con người.
Xtalin từng tuyên bố: "Chủ nghĩa Marx là tôn giáo của giai cấp, là biểu tượng của đức tin". Còn cương lĩnh của đảng là "biểu tượng chính trị của niềm tin". Hệ tư tưởng toàn trị đã trở thành một cái gì đó giống như tôn giáo của nhà nước với những giáo lý đặc biệt, những cuốn kinh, những vị thánh, những tông đồ, những lãnh tụ không bao giờ sai lạc, và các buổi lễ trọng cờ quạt.... Hệ tư tưởng toàn trị biện hộ cho tham vọng giải quyết được mọi vấn đề vì nó xác định nó chính là chân lý cuối cùng. Nhưng rõ ràng rằng khi tuyên bố là chân lý tuyệt đối trong chính trị, nó đã tiêu diệt tính đa nguyên của các quan điểm, tiêu diệt tự do lựa chọn. Tuyên bố chân lý tuyệt đối trong chính trị nhất định sẽ dẫn đến phủ nhận tự do, phủ nhận dân chủ.
- Nhưng nói gì thì nói, Việt Nam ta cũng phân quyền, có Đảng, Nhà Nước và Quốc Hội... Bình Minh phản đối, mặt đỏ lên.
- Ta thì gì mà chẳng có, nhưng đôi khi chỉ danh mà không thực. Tôi nhẹ giọng, biết không thể một sớm một chiều mà nói hết được.
Thấy tôi ngần ngại, Bình Minh nhếch một nụ cười vẻ giục giã. Tôi tiếp:
- Một đặc điểm nữa của hệ thống chính trị trong chế độ toàn trị là việc hợp nhất cả ba nhánh chính quyền là lập pháp, hành pháp và tư pháp vào tay một nhóm ưu tú của đảng. Nhóm đương quyền của Đảng chọn ra thành phần của quốc hội giả hiệu lập pháp, ủng hộ mọi việc làm và thông qua mọi điều luật mà bộ máy quan liêu của đảng cần. Bộ máy hành pháp quan liêu này lại chuyển các ý nguyện của Đảng thành nghị quyết, nghị định của chính phủ, cũng gồm toàn các quan chức đảng viên. Đảng cũng kiểm soát công tác của tòa án, nhiều khi viết sẵn cho các quan tòa các bản án, đấy là nói khi Đảng cảm thấy cần có tòa án. Một đặc điểm nữa của chế độ toàn trị là việc bất bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật.
- Như vậy nghĩa là ba nhánh quyền lực chỉ là những mắt xích dây xiềng... của Đảng, cũng giống như các tổ chức như Mặt Trận Tổ Quốc, Đoàn Thanh niên, Phụ Nữ, Công Đoàn... Bình Minh thốt lên như khám phá ra được điều gì lý thú.
- Nếu các cuộc cách mạng tư sản tuyên cáo quyền bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật thì cách mạng Bolsevich tuyên cáo sự bất bình đẳng và tước quyền công dân của "những kẻ bóc lột". Ngay trong Hiến pháp đầu tiên được ban bố năm 1918 ở Liên Xô đã nói rằng những người sống "không phải bằng lao động", những người buôn bán, các doanh nhân, giới tăng lữ bị tước tất cả các quyền công dân. Và không chỉ người chủ mà tất cả các thành viên của gia đình họ đều bị tước hết quyền y như thế. Cho đến giữa những năm 1930, những người có gốc gác "tư sản" vẫn không được vào đại học, không được tham gia công đoàn, bị hạn chế trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Tòa án bị bộ máy đảng và bộ máy đàn áp kiểm soát một cách toàn diện và triệt để, tòa án chỉ có mỗi một việc là thi hành chỉ thị của đảng mà thôi. Năm 1921 Lê-nin đã từng tuyên bố: "tòa án của chúng ta mang tính giai cấp, chống lại bọn tư bản". Như vậy là trong chế độ toàn trị không có chuyện bình đẳng của tất cả các công dân trước pháp luật và tòa án, không có chuyện nhà nước đối xử một cách bình đẳng với các công dân mà không phụ thuộc vào nguồn gốc, thành phần giai cấp, xã hội, tôn giáo, chủng tộc, quan điểm chính trị.... Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền XHCN. Trong khi đó thành phần lãnh đạo và lãnh tụ của các chế độ toàn trị lại đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Pháp luật nhà nước không có hiệu lực đối với đảng và các đảng viên. Quyền lực của lãnh tụ và nhóm đầu sỏ cầm quyền là vô giới hạn vì không có lực lượng nào có thể ngăn cản và buộc họ phải tuân thủ pháp luật gì cả.
Thấy Bình Minh ngơ ngẩn nhìn lên bức tượng cụ Phan Bội Châu như còn hoài nghi, tôi nhẹ nhàng:
- Nếu xã hội hiện là kiểu toàn trị như vừa trình bày thì quả là Đảng... khó mà bảo đã giải phóng những con người Việt Nam trong cuộc dâu biển 60 năm qua. Cứ nhìn thành quả mỏng mảnh của nền văn học hiện thực XHCN trong 40 năm trời thì khắc biết [36]. Khi văn hóa bị xiềng bị xích, làm gì có con người giải phóng. Và không giải phóng được những con người thì hòng nói gì đến Giải Phóng Dân Tộc!
Chúng tôi rời khu vườn nhà ông già Bến Ngự. Lối ra cỏ hoang mới được phát quang, nhưng bàn tay thu vén chắc khá vội vàng, đất xới lên mầu đen đủi như số phận những cái ta gọi là văn hóa và lịch sử trong một nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN trước ngưỡng cửa cuộc hội nhập toàn cầu. Bình Minh mời tôi ăn bữa tối "gia đình", với Hoàng Oanh, người yêu của Bình Minh từ ngày ra Huế đi học. Giọng có chút ngượng ngập, Bình Minh cười:
- Nhà Oanh bán bánh bèo, bánh khóai...nên ăn uống giản tiện lắm. Em chạy bàn, còn Oanh đổ bánh, phần anh, anh nói cho bọn em nghe về chuyện kinh tế, anh hỉ!
Hội nhập kinh tế:?!
Quán ở tầng chệt, sáu bàn, ngay sau là bếp. Tầng trên là nơi gia đình Hoàng Oanh ở, có mẹ và hai người anh lớn, một người nay đi làm xa. Nghe đâu cha Oanh đã hy sinh bên Campuchia, mấy mẹ con bỏ xứ Quảng về quê mẹ làm ăn từ khi Oanh lên năm. Bà mẹ Oanh đon đả:
- Mời chú vô, mấy em nói về chú, nghe nói chú giảng dạy Kinh Tế phải không hà?
Tôi chưa kịp đáp, Oanh chen vào:
- Nhờ anh chỉ dạy, em cuối năm nay ra trường quản trị kinh doanh, nhiều thắc mắc lắm hè. Em xin nói trước, em người Quảng Nam hay cãi... nghen, có chi anh bỏ qua! Anh Minh nói, chuyện trò với anh học được...
Tôi ngắt lời Oanh:
- Tôi không làm nghiệp vụ giảng dạy chi hết, trao đổi bình đẳng chứ nếu không thì ta nói chuyện nắng mưa ở Huế thôi!
Ngồi ăn, tôi nghe mẹ Hoàng Oanh phân biệt bánh khoái và bánh xèo, nhưng thú thật không nắm được gì. Nhưng bánh bèo ở đây thì tuyệt vời, và ngôn ngữ chịu, không thể chuyển cái ngon đến đầu lưỡi, có giỏi cũng chỉ khêu gợi được sự tò mò của thứ vị giác được chưng cất bằng tưởng tượng. Bất ngờ, Hoàng Oanh hỏi:
- Nghe anh Minh kể thì dường như anh chống chế độ?
A, cô em người Quảng khai pháo, và bắn là bắn tới đích chứ không vòng vo. Tôi chựng lại một giây, nhưng lại rất thích cái thái độ rất ngay thẳng của Oanh. Nhìn Bình Minh không giấu được chút ngỡ ngàng, tôi cả cười:
- Trời, cô em, hỏi chi đâu mà khó dữ! Nói theo, thì không hoàn toàn thành khẩn, và dẫu bây giờ có nói nhưng chẳng mấy ai tin. Nhưng nói chống, thì rất chung chung. Theo gì, chống gì và nếu có, chống ra sao mới là vấn đề...
- Thế anh chống cái gì...

- Chống những điều đang đục ruỗng hiện tại khiến tương lai xã hội đâm ra chênh vênh. Và không chống bằng bạo lực hay kêu gọi bạo lực, mà bằng lý lẽ của mình, nhưng đồng thời vẫn chấp nhận lắng nghe lý lẽ người khác và sửa đổi khi thấy mình sai! Em nghe vậy có được không?
 Nhoẻn miệng, Oanh hạ một câu:
- Tức là “diễn biến hòa bình”...
- Em không thấy đất nước ta chiến tranh quá nhiều rồi ư?
Câu hỏi ngược khiến Oanh bật cười thành tiếng, dịu giọng:
- Em chọc anh một chút thôi! Bây giờ ta nói chuyện tích cực trước. Từ ngày đổi mới, về kinh tế Việt Nam mình bung ra, tỉ lệ tăng trưởng hàng chục năm cứ từ 6 tới 8%, sau chỉ sau Trung Quốc, và sẽ thành một con Rồng châu Á, anh có đồng ý không?
- Những con số vừa kể tự nó không nói lên được gì nhiều đâu. Nhưng trên căn bản so sánh với những nước cùng mức độ phát triển, có lẽ ta sẽ có một hình ảnh sát sao hơn. Dựa trên bảng những số liệu [37] thống kê, chúng ta có thể so sánh Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc (TQ) từ thời bung ra năm 1985-86 cho đến năm 2000.
Về GDP/đầu người: Việt Nam tăng 2 lần, Thái tăng 3 lần, TQ tăng 4.3 lần. Về đầu tư, Việt Nam tăng từ 11% lên 20.1% GDP, Thái từ 23% lên 27.2% GDP, TQ từ 29.8% lên 36.1%.
Nhưng quan trọng hơn là tính cơ cấu: một nước có phát triển sẽ chuyển từ nông nghiệp qua công nghiệp và rồi dịch vụ như thường thấy.
Từ 1975-2000,
- Về phân bố lao động vào nông nghiệp ở Việt Nam bất biến ở mức 70-73% của tổng lực lao động, trong khi đó giảm từ 75.3% đến 51.3% ở Thái, va từ 76.3% đến 47.4% ở TQ.
- Về phân bố lao động vào công nghiệp, Việt Nam giảm từ 13.6% xuống 12.6%, trong khi Thái tăng từ 8.1 % lên 17.7%, và TQ tăng từ 12.1% lên 20.4%.
- Về phân bố lao động trong khâu dịch vụ, Việt Nam ở mức 14-16%, trong khi Thái thì 31% và TQ, 32.3% của tổng lực lao động.
Cơ cấu kinh tế phản ánh rõ trong khâu xuất khẩu: năm 2000, 45.7% xuất của Việt Nam là nông thực phẩm, Thái là 33.7%, và TQ chỉ 8.6%. Cán cân ngoại thương thặng dư ở Thái từ 1985, chưa bao giờ thiếu hụt ở TQ trong 25 năm vừa qua, nhưng với Việt Nam, cán cân này luôn luôn âm, có nghĩa là số nợ nước ngoài ngày một tăng. Còn số nợ năm 2000 của Việt Nam là 22.5 tỉ đôla, xấp xỉ tổng sản lượng nội địa, tức ở mức báo động.
- Nói vậy, tức là nước ta với Kinh Tế Thị Trường có định hướng XHCN không tạo ra được một cơ cấu mới à? Hoàng Oanh hỏi, giọng ngạc nhiên.
- Vào đầu thập niên 90, mở cửa nền kinh tế là một bắt buộc, và dĩ nhiên quy luật thị trường  ‘‘thuận mua vừa bán” là quy luật chung chứ ai ép được ai! Nhưng Kinh Tế Thị Trường không giải quyết được một số vấn đề cơ bản: thứ nhất, có những loại sản phẩm xã hội không thể điều chỉnh băng giá, nhất là cho một Quốc Gia nghèo đang phát triển như Giáo Dục, Y Tế xã hội, Môi Trường... Thứ nhì, cơ chế thị trường không thể bảo đảm được một sự phân bố lợi tức xã hội hài hòa, và phân hóa giàu-nghèo, phân hóa lợi tức giữa thành thị-nông thôn, giữa các vùng địa dư [38]… có cơ nguy tạo ra những bất bình đẳng dẫn đến những hậu quả xã hội và chính trị khó lường. Khi nghe đến cụm từ  ‘‘có định hướng XHCN”, chúng ta có thể lầm tưởng chính quyền có những chính sách thích ứng về sự phân bố lợi tức hoặc những sản phẩm xã hội không thể ‘‘tư hóa” được. Sự thật thì không phải thế: với cái định hướng vừa nói, chính quyền chỉ có mục đích giữ khâu xí nghiệp quốc doanh, thậm chí làm nó phình ra, và bất chấp nó có hay không hiệu năng kinh tế cần thiết để tồn tại.
Bình Minh lo lắng:
- Nhưng gần đây thì sao, anh?
- GDP giảm tốc độ tăng, từ hơn 9 % xuống mức thấp nhất là 4,8 % năm 1998, nhưng năm 2004 tốc độ tăng phục hồi và đạt mức 7,5 %. Như vậy là 3 năm qua, kinh tế đạt mức tăng trên 7 % một năm. Mức tăng trên cơ bản là do đầu tư của nhà nước. Năm 2004, đầu tư lên trên 35 % GDP khoảng gần 16 tỷ USD, một tỷ lệ đầu tư ở mức cao nhất thế giới hiện nay, nhưng lại tràn lan, thiếu chất lượng và hiệu quả. Nhưng đầu tư tràn lan để tạo cơ hội tham nhũng. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, tham nhũng tăng chính là con đẻ của việc nhà nước đầu tư tùy tiện bất chấp hiệu quả kinh tế thực sự.
Đầu tư của nhà nước đã nằm trong chiến lược kích cầu một cách vô trách nhiệm. Ngân sách thu không cung cấp đủ thì ngân hàng cấp vốn.
Vốn của ngân hàng cấp cho quốc doanh qua tín dụng tăng năm 2003 hơn 30 %. Việc tăng tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước và các công trình xây dựng là đầu mối của lạm phát đột biến vào năm 2004, ở mức 9,5 %. Đầu tư vào khu vực nhà nước trước năm 1997 ở mức dưới 50 % tổng mức vốn đầu tư xã hội. Sau năm 1997, đầu tư vào khu vực nhà nước tăng mạnh và đưa tỷ lệ trên lên cao, năm cao nhất là 58.7 %, và hiện nay, 80% tín dụng đổ vào những xí nghiệp quốc doanh. Đầu tư của tư nhân dù tăng nhanh với chính sách mở rộng hiện nay vẫn chỉ chiếm 26 % tổng đầu tư xã hội. Về đầu tư của nước ngoài, tỷ lệ vốn đổ vào đã giảm từ cao điểm 30 % xuống khoảng 17 % hiện nay.
Chính sách tín dụng nhằm kích đầu tư dẫn đến tình trạng lạm phát: theo dự báo thì 2 tháng đầu năm 2005 giá sẽ tăng khoảng 3,5% (bằng cả năm 2003), mở màn cho lạm phát tiếp tục cao năm nay, và sẽ làm giảm mức thu nhập của tuyệt đại đa số dân chúng lao động Việt Nam. Lương sẽ điều chỉnh tăng 10 % năm nay, xem ra nhanh hơn một chút so với lạm phát 9,5 % năm 2004, nhưng không bù được việc giá lương thực, thực phẩm trong năm đã tăng 17 %, mà đây là chi phí chính của dân chúng. Để kìm được độ tăng giá dưới 10 %, nhà nước đã phải bù lỗ 10.000 tỷ (khoảng 640 triệu USD) trong năm 2004, giải pháp mang một hình thái chẳng có tính chất gì của nền kinh tế thị trường như rêu rao.
Một hiện tượng mất quân bình đáng lưu tâm là khâu ngoại thương. Xuất khẩu đạt 26 tỷ USD, tăng gần 29 % so với năm trước. Tuy nhiên nhập khẩu là 31,5 tỷ, cũng tăng mạnh đưa thiếu hụt cán cân thương mại với nước ngoài 5,5 tỷ USD, bằng 21 % xuất khẩu và lên tới hơn 12 % GDP. Đây là những tỷ lệ thiếu hụt rất lớn chứng tỏ sự mất quân bình trầm trọng trong nền kinh tế. Thiếu hụt cán cân thương mại phản ánh tính yếu kém, thiếu khả năng cạnh tranh của của nền kinh tế [39]. Hiện nay thiếu hụt cán cân ngoại thương chưa tạo vấn đề vì được bù đắp bởi đầu tư nước ngoài và kiều hối. Kiều hối gửi về qua hệ thống chính thức lên tới 3.4 tỷ USD năm 2004 nhưng thực tế có thể nhiều hơn. Số tiền này lấp vào thiếu hụt cán cân ngoại thương, nhưng đồng thời nó cũng có tác hại làm đồng Việt Nam cao giá và tạo sự ỷ lại của những người làm chính sách kinh tế. Vì có thể thu hút được khoản ngoại tệ không làm mà có này, họ thiếu quan tâm giải quyết yếu kém của ngoại thương mà một phần không nhỏ là do vấn đề tỷ giá mất quân bình kéo dài suốt từ năm 1990 đến nay. Riêng về tỷ giá hối xuất, thời điểm cho cơ hội giải quyết thuận lợi là khi giá cả trong nước gần như không tăng. Thời điểm đó nay qua rồi, bây giờ lạm phát cao, việc xử lý tỷ giá có khả năng tạo lạm phát phi mã.
Chính sách phát triển kinh tế có cả chất lẫn lượng không phải chỉ nhằm tăng GDP mà còn cần tăng công ăn việc làm cho dân chúng. Điều này hết sức quan trọng để làm giảm phân hóa giầu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Năm 1990, tỷ lệ dân nông thôn khoảng 80 % và thành thị là 20 %. Năm 2003, tỷ lệ dân nông thôn là 74 % và thành phố là 26 %. Ở Trung Quốc, hiện nay đã có 40 % dân sống ở thành thị, đó là vì việc làm ở đó tăng. Ngược lại, ở Việt Nam, số lao động có việc làm thêm hàng năm ở thành thị rất thấp, năm 2004 chỉ có thêm 360,800 việc làm. Tổng số lao động tăng thêm năm 2004 là 1,131 triệu, nhưng con số này không nói lên gì nhiều vì lao động tăng ở nông thôn có thể chủ yếu là thất nghiệp trá hình. Ngay cả con số hơn 1,1 triệu việc làm mới cũng vẫn thấp so với chỉ tiêu 1,5 triệu lao động dự trù sẽ tăng theo như Quốc hội quyết định cho năm 2004.
Kinh tế Việt Nam có khởi sắc, nhưng cũng đầy những mất quân bình cơ cấu, cần điều chỉnh để đưa vào quĩ đạo phát triển không chỉ lượng mà phải có chất và có tính bền vững. Việc chạy theo tăng tốc GDP qua đầu tư tràn lan tạo tình trạng thiếu hiệu quả, gian giảo, và tham nhũng. Nếu sự mất quân bình tiếp tục tăng thì một lúc nào đó chỉ có một cuộc khủng hoảng lớn và kéo dài mới giải quyết được nó. Đó là chưa kể đến tình trạng phân hóa về lợi tức và mức sống ngày càng lớn giữa thành thị và nông thôn [39], sẽ đưa đến nguy cơ bất ổn xã hội trầm trọng [40]
Đi về đâu?
Nhìn về phía Bình Minh rồi quay lại, Hoàng Oanh dịu giọng nhỏ nhẹ nói với tôi:
- Tóm lại....
- Nhìn lên bề mặt, kinh tế Việt Nam tóm lại không phải là phương diện cho phép lạc quan: gần 20 năm từ thời kỳ Đổi Mới, cơ cấu kinh tế vĩ mô vần: (41) là một nền kinh tế chủ yếu sản xuất hàng hạ đẳng (nông nghiệp, tài nguyên...với ti lệ thặng dư thấp); (42) lượng lao động do thất nghiệp hoặc lãng công quá cao ở nông thôn (60% năm 2000); (43) nhập siêu liên tục, hàng nhập là hàng tiêu dùng, và hàng công nghiệp nhẹ (vải vóc) dùng trong những doanh nghiệp sử dụng lao động rẻ để xuất khẩu (tức là, trên thực tế, Việt Nam gián tiếp xuất khẩu lao động mà thôi); (44) khâu quốc doanh, với những hoạt động được quyền lực bao che quá lớn so với khâu tư doanh, đầu tư tràn lan, vì chính đầu tư vào những công trình tầm cỡ mới cho phép ăn hớt, tức là tham nhũng ở mức độ cao (có thể lên 40% dự chỉ theo Ngân hàng Thế giới); (45) năng xuất kinh tế vì thế rất kém, thiếu sức cạnh tranh, và sẽ đặt ra vấn đề trong quá trình hội nhập.
Ghê gớm hơn, là cho đến nay, khi nhảy từ nền kinh tế kế hoạch tập trung qua cái ta gọi là nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN, chính quyền đánh bóng một cụm từ mù mờ để che đi cái thực tế đã nói, là dùng khâu quốc doanh để biển lận, có lẽ mục đích là tạo ra một tầng lớp nay người ta gọi là tư bản đỏ. Lớp người này tập hợp trong những tập đoàn có mầu sắc địa phương và mang hơi hướm phân chia quyền lực trong Đảng, tích lũy tiền biển thủ từ những công trình và đề án có tài trợ dưới dạng đi vay tư bản nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Dĩ nhiên tiền đó thất thoát ra ngoài, hoặc biến thành đầu cơ trong bất động sản kiểu gà què Việt Nam ăn quẩn cối say, khiến giá đất ở phố cổ Hà Nội trong một nước nghèo cao ngang với giá đất khu trung tâm Tokyo, NewYork... là một nghịch lý khiến ai có chút kiến thức kinh tế cũng lắc đầu. Có thế, con gái ông Chủ Tịch Quốc Hội mới có thể chi 75 ngàn đôla US cho một buổi tối sinh nhật như báo chí loan tin. Có thế, cậu quý tử con ông thứ trưởng phân quota may mặc mới quát công an, mày không biết bố tao là ai à! Có đất, thu địa tô. Có quyền, thu quyền tô. Nhưng quyền không bền, nên phải chụp giựt khiến quyền tô rất cao, có thể lên đến 30 - 40% những món nợ “quốc gia”. Ai trả nợ, tôi hỏi? Một nhân vật trong tầng lớp tư bản đỏ tiếp tôi trong một buổi tối tôi được đãi ăn cơm tây với dao nĩa bằng vàng thản nhiên đáp, con cháu sau này! Cuộc đánh cướp thời này là cướp cả những thế hệ chưa kịp sinh ra nhưng đã mắc nợ. Có kẻ trong đám mới giầu lên lại hão huyễn đưa ra cái viễn tưởng rằng những thay đổi tích cực như tinh thần dân chủ, đạo lý và công chính sẽ từng bước được khôi phục với “giai cấp tư bản”. Xin thưa rằng không, không thể có chuyện này: tiến bộ theo xu hướng dân chủ xưa nay chưa bao giờ đến từ những ông chủ đất, và cái giai cấp tư bản hoàn thành nhiệm vụ mang nền dân chủ - nhân quyền đến nhân loại ở phương Tây là những kẻ chống lại quyền lợi những ông chủ đất đứng đằng sau những chế độ quân chủ phong kiến [46]. Kinh Tế Thị Trường nhưng quốc doanh chơi luật quyền lực chính trị. Định hướng XHCN chẳng qua là cách Đảng khẳng định vai trò độc tôn và độc quyền thống soái tài sản quốc gia.
Việt Nam không hề có một sách lược phát triển nào trong 30 năm qua. Chính quyền hài lòng với những tỷ lệ tăng trưởng GDP nào là 6, 7 hay 8% và cho thế là đạt được những thành tựu lớn! Thực ra, vấn đề phát triển, ổn định và hội nhập phức tạp hơn. Nhìn quanh, từ Nam Hàn, Đài Loan, Ấn Độ... cho đến những nền kinh tế của những quốc gia- đô thị như Singapore, Hong Kong, người ta đều tìm được những ưu thế kinh tế đặc biệt để len vào tìm chỗ đứng trong nền kinh tế toàn cầu. Nam Hàn từ thập niên 70 đã thành số 1 hay 2 trong công nghiệp đóng tàu. Đài Loan thúc đẩy phát triển công nghiệp điện tử, Ấn Độ khởi động công nghiệp “chất xám”, Hong Kong và Singapore thì tập trung vào dịch vụ, ngân hàng, tài chính trong vùng, v..v...Hội nhập ở mức độ vùng kinh tế hay ở mức độ toàn cầu đều có nghĩa là có phân công kinh tế, và sự phân công đó liên hệ đến, và dựa trên, ưu thế tuơng đối một nền kinh tế này đối với những nền kinh tế khác. Ưu thế của Việt Nam là gì? Hỏi, chúng ta sẽ chỉ nghe đi nghe lại bài người Việt thông minh cần cù chịu đựng, nhưng ít ra nay cũng không còn đèo vào câu đất nước chúng ta được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng bạc biển!
- Không sách lược, Bình Minh đắn đo, nhưng....
- Không sách lược, nhưng Việt Nam chẳng thiếu khẩu hiệu: dân giầu nước mạnh, ấm no hạnh phúc, sống nếp sống văn minh với truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc... Đồng thời, những khâu lẽ ra không phải là hàng hóa trao tay qua cơ chế thị trường như giáo dục, y tế... được ‘‘xã hội hóa’’ ở cái nghĩa là Nhà Nước phủi tay, để xã hội lo: như một bước lùi trong lịch sử những định chế về giáo dục [47] chẳng hạn, thế hệ bây giờ có thể mua luận án, bằng giả, đút lót các cô các thầy để kiếm chút danh hờ...Và thế là đâu đâu cũng đầy những tiến sĩ, phó tiến sĩ, giáo sư...in trên danh thiếp [48]. Như vậy, ta đi về đâu khi trong thiên niên kỷ này thế giới đang chuyển sang kinh tế trí thức? Vấn đề đào tạo con người trong những xã hội đang tìm cách vượt thoát nghèo dốt trong bối cảnh hiện nay là vấn đề hàng đầu. Và những con người trong xã hội chúng ta bây giờ ra sao? Đọc báo trong nước, rõ là đạo lý suy thoái! Xã hội chúng ta nay đầy rẫy những anh Xuân tóc đỏ, chị Xuân tóc hung, những bà Phán Phom tóc muối tiêu, nhân vật của một Vũ Trọng Phụng đã nằm xuống quá sớm nên hụt mất cái thời buổi đầy chất liệu. Hình như con người bây giờ không còn ý thức xã hội, sống chết mặc bay, ai nấy lo làm ‘’giàu’’ vinh thân phì gia, hành xử theo một thứ chủ nghĩa thực dụng thô thiển hời hợt để biện minh tất cả, nhưng thật là chỉ cho cá nhân mình. Luật chơi trở nên trò chèn ép, mánh mung, ăn cắp ăn trộm vặt. Trong cái phồn vinh giả tạo đô thị, người ta quên đói nghèo của đồng bào đồng loại, thản nhiên trước những cảnh gái quê lên thành phố chầu chực để những người đàn ông Đài Loan chọn làm con hầu mang đi, và thế có khác gì bán thân hòng đem lại chút tiền nuôi mẹ, nuôi em? Sự ô nhục của một dân tộc bây giờ được đánh đồng với một trận đá bóng, đội nhà thua trước một đội nước ngoài, và chỉ thế là người ta kêu, than, vật vã vì “danh dự tổ quốc”!
Tại sao? Phải chăng thất bại hiển nhiên nhất của một chế độ là sự thất bại trong xây dựng con người? Trồng cây, 10 năm. Trồng người, 100 năm. Cây xanh ta chặt, môi trường ô nhiễm, lũ lụt hàng năm ven Trường Sơn, sẽ lấy gì để hy vọng một chính sách phát triển bền vững. Còn đám trẻ vừa đến tuổi hát đồng dao trong phố phường bụi bậm hay trên ruộng đồng ngày một chật vì người mỗi lúc một đông, ta bớt ngay những hy vọng một cuộc sống có ăn có học, có tình người với nhau, có một hiện tại ổn định và một tương lai để chia chung! Có phải người Việt Nam chúng ta kém trí tuệ, thiếu khả năng? Không. Cộng đồng người Việt lưu lạc ở hải ngoại chứng minh rằng người Việt có những thành tựu không thua kém bất cứ một cộng đồng di dân khác. Tuổi trẻ Việt Nam ở nước ngoài có thể nói rằng khá thành công trong các trường Đại Học, các doanh nghiệp công, tư...Như vậy, lý luận đơn giản cho thấy thì ra chỉ trong nước mới có những vấn đề con người ở mức độ báo động.
Hoàng Oanh lo âu, ngước mắt:
- Giờ phải làm chi anh?
Tôi không biết nên trả lời thế nào! Chẳng lẽ tôi lại nói, bỏ điều 4 trong Hiến Pháp. Hay nới ra những cái nghiêm cấm trong điều 30 và 33 [49]  để cởi trói tư duy và cho thông tin báo chí có nhiều tự do hơn. Chẳng lẽ tôi nhắc lại lời ông Đặng Quốc Bảo, yêu cầu trong nội bộ Đảng CSVN có đối trọng [50], tức ít nhất đảng viên có quyền suy tư và hành động chính trị theo một phương hướng khác với sự áp đặt nhân danh một tập thể hạt nhân độc đoán không dung hợp bất cứ gì khác mình? Hay chẳng lẽ tôi cũng lên tiếng tố cáo cái xã hội đen nay là con do Đảng sinh thành [51]... Những điều hiển nhiên này, nói ra đâu cần có tôi.
Phải chăng đã đến lúc phải nghĩ lại là xã hội Việt Nam ta cần có những thay đổi nào để tạo ra cơ sở thuận lợi ngõ hầu hội nhập vào thế giới. Ngày nay, diễn trình tiến hóa của lịch sử không còn rập theo cách vận động dựa trên hình thái đấu tranh giai cấp. Hai mươi năm vừa qua, những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ kỹ thuật thông tin và tự động cho phép nhìn thấy một viễn cảnh trong đó lao động, kể cả lao động chất xám, có khả năng được thay thế bằng những phương tiện máy móc hiện đại. Giai cấp công nhân ở những nước tiền tiến ngày một teo tóp lại, đồng thời ý thức giai cấp cũng như cuộc tranh đấu theo mẫu hình công đoàn bị đẩy lùi từ sau chiến tranh lạnh. Hiện nay, 500 tập đoàn tư bản kiểm soát 2/3 tổng sản lượng kỹ nghệ thế giới, và dẫu có cạnh tranh nhưng cũng biết kết hợp để chiếm độc quyền đặc lợi. Từ 15 năm qua, nhiều consortium tài lực đã hình thành, hoạt động đa dạng, đa ngành, mang tính toàn cầu, với những cơ quan có chức năng quốc tế (như World Bank, IMF, WTO...) đứng hậu thuẫn và đảm bảo một thứ pháp chế đứng trên và chi phối những quyền lợi quốc gia cá biệt. Công nghiệp mức trung và nhẹ cần sử dụng nhiều lao động được chuyển giao từng bước cho những nước đang phát triển, nhưng trong điều kiện thế giới thừa lao động với chất lượng và tay nghề có thể nhanh chóng đào tạo, công nhân không thể tạo ra những áp lực đáng kể với những xí nghiệp đa quốc gia với vốn tư bản khổng lồ và có thể chuyển dịch bất cứ lúc nào đến những nơi ít biến động. Cho nên, nền chuyên chính một giai cấp công nhân vô sản có rất nhiều khả năng là sự không tưởng cuối cùng của nhân loại. Xã hội toàn trị chuyên chính chắc chắn sẽ tiêu ma. Nhưng trong thiên niên kỷ này, yếu tố nào sẽ là yếu tố vận động lịch sử? Thế giới mai sau sẽ tập trung vào những đơn vị văn hóa-chính trị-kinh tế siêu quốc gia? Hay sẽ tách thành những xã hội nhỏ có khả năng co cụm tồn tại với những đặc thù và bản sắc cá biệt? Dù với khả năng nào đi nữa, xu hướng trên thế giới là tiến tới những xã hội dân chủ dựa trên nền tảng một số quyền cá nhân bất khả xâm phạm. Trong hướng đó, có lẽ Việt Nam chúng ta phải động não tìm ra những viên gạch xây từ đầu nền tảng cho một cơ sở dân chủ - xã hội phù hợp với truyền thống lịch sử và văn hóa của chúng ta [52]. Muốn thế, đầu tiên con người phải trở lại làm người với nhau để cấu thành một xã hội. Và xã hội phải thiết lập lại định chế dân sự với những quyền công dân cơ bản [53].
Bình Minh giục:
-... Nhưng anh ơi, phải làm chi đây anh? Có người nói dân chủ là dẫn đến năm bè bảy mối, chia rẽ xung đột, rồi lại bạo loạn, như bên Phi Châu...
- Không phải thế! Loạn là do xã hội không pháp chế luật lệ. Những nước dân chủ trên trái đất này loạn hết à? Nhưng quá tình tiến đến một xã hội dân chủ thì quả có những yếu tố bất ổn. Đó là vì người Việt Nam chưa hề biết thế nào là tự do bởi hàng trăm năm nay chúng ta phải sống qua chế độ phong kiến, thực dân, rồi hai cuộc chiến dài, và sau đó là thời gian mò mẫm xây dựng xã hội theo một mô hình chẳng mấy thích hợp sau giải phóng. Vì không tự do, nên mỗi người chúng ta đều ít ý thức cá nhân, nhất là cá nhân như một phân từ xã hội, biết tôn trọng những cá nhân khác. Và chưa có thói quen cũng như tinh thần đối thoại với nhau nên ta dễ sa đà vào những thuộc tính bầy đàn phe phái thường dẫn đến những hành xử quá khích, thậm chí bạo lực. Vì vậy, cần một cái khung để thực hiện quá trình dân chủ. Nhưng dân chủ là gì? Đâu phải dân chủ là chỉ là đi bầu cử ra người đại diện định kỳ cho mình! Trước hết, dân chủ là một giá trị tinh thần trên cơ sở đó con người đồng thuận xây dựng với nhau một xã hội. Tinh thần dân chủ đòi hỏi mỗi cá nhân - tự do và có những quyền con người bất khả xâm phạm - đều tôn trọng những cá nhân khác, cũng tự do và cũng có những quyền cơ bản như mình. Với tinh thần đó, xã hội dân chủ tất nhiên là sự kết hợp của những con người cố tự do và có những quyền con người bình đẳng với nhau...
Hoàng Oanh mất kiên nhẫn, xin lỗi ngắt lời, hỏi thẳng một câu rất thực tiễn:
- Cụ thể là thế nào? Anh nghĩ Đảng sẽ nới tay chia quyền cho người khác à? Ban phát như thế thì Đảng được gì?
- Cứ nghĩ Đảng là một khối thuần nhất thì nay không đúng. Trong Đảng, quyền lực đã khai sinh ra một lớp tư sản và một giai tầng trung lưu thành thị. Họ đã có tư hữu, dĩ nhiên muốn bảo vệ tài sản, và muốn cho bền vững thì cách hay nhất là mở rộng và triệt để hợp pháp hóa quyền tư hữu kể cả “những phương tiện sản xuất”. Họ sẽ không chống lại xu hướng dân chủ. Ngoài họ, trong Đảng có những đảng viên thật lòng yêu quê hương đồng bào và nhận ra rằng cuộc Cách Mạng mà họ đã dâng hiến cả cuộc đời không thể mang lại điều họ mong ước, là cơm no áo ấm và công bằng xã hội cho mọi tầng lớp. Họ cũng mong có thay đổi, và trước ngọn triều toàn cầu, họ biết là không có cách gì khác là phải dứt khoát với một ý thức hệ không hiện thực và không có chỗ dựa. Nhưng quan trọng hơn cả là giới trẻ, những người tay chưa vấy tì vết thế cuộc, có khả năng trí tuệ giữa một thế giới khó có thể bưng bít thông tin, sẽ đặt lại những vấn đề cơ bản. Trước ba thế lực vừa nói, Đảng sẽ chẳng ban phát gì mà chỉ chuyển mình động não để có thể tiếp tục tồn tại lâu dài nếu chính là Đảng vẽ ra cái khung cho quá trình dân chủ hóa xã hội. Chẳng hạn, bước đầu Đảng dân chủ hóa chính mình, không tiếp tục tập quyền vào Bộ Chính Trị, chấp nhận sự đa cực với những ý kiến khác biệt công bố trước truyền thông, báo chí của các ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương về những vấn đề có tầm cỡ chính sách...
Bình Minh khoát tay:
- Ở Cấp cao thì khó lắm. Đã leo lên đến chỗ ấy, mấy ai muốn thay đổi!
- Ấy, em đừng đánh giá thấp những thay đổi từ bên trên. Em quên Đại Hội VI Đổi Mới rồi sao. Nay, dư luận bàn ra tán vào cụm từ Dân Chủ Cơ Sở do đương kim Tổng Bí Thư Đảng phát biểu. Nếu dân chủ từ cơ sở nghĩa là ngay ở cấp xã, dân bầu ra Hội Đồng Nhân Dân Xã nhưng không theo cái kiểu Đảng cử Dân bầu nữa, và cứ thế từng bước đi lên những cấp chính quyền cao hơn thì chậm nhưng chắc, và sẽ mở đường cho những diễn trình thay đổi linh động sau này. Còn không bầu cử, nhân sự cầm quyền ù lì không thay đổi bất chấp dân nghĩ thế nào, sống ra sao, nhưng hễ có động tịnh gì thì mang công an ra trấn áp thì rồi sẽ loạn. Và loạn to...
Hoàng Oanh thở dài:
- Quê cha em ở Điện Bàn, nông dân mất đất, thưa kiện cả chục năm nay...vẫn mấy ổng cũ xì, nên con kiến đi kiện củ khoai, anh à!
- Ở Nam Đàn quê em cũng rứa, Bình Minh buột miệng... Đúng, giá mà cứ ba năm, bốn năm dân được đi bầu cho những người mình tin tưởng thì thiệt là đỡ khổ cho những kẻ thấp cổ bé miệng. Đó là dân chủ nhưng hơi chút là các ổng lại kể công giành độc lập, thống nhất đất nước và giải phóng dân tộc. Hết ý, các ổng đem cả bác Hồ quê em ra dọa thế là không như lời bác dậy...
Tôi buồn bã, nói nhỏ:
- Về ba chữ độc lập, thống nhất và giải phóng dân tộc thì ta đã trao đổi với nhau nhiều rồi. Đó là chuyện tuyên truyền mãi nên nghe như thật, chẳng một ai nghĩ đến thực chất nội dung. Nhưng xương máu đã đổ trên mọi miền đất nước, là giá đã trả cả bên này lẫn bên kia, và là công lao của những người đã nằm xuống mà chúng ta sẽ không bao giờ quên. Còn ai đó mang bác Hồ ra răn đe, thì các em có thể dẫn lời bác năm 46, độc lập mà dân cứ đói cứ khổ thì độc lập làm gì? Rồi các em xin họ đừng sử dụng những tiêu ngữ Độc Lập- Thống Nhất-Giải Phóng để tự tâng công nhằm chụp lên đầu mọi công dân một vòng kim cô xiết lại không cho ai có cái quyền tư duy tự do trên những vấn nạn của một xã hội đang chông chênh trên vực bờ hủy diệt...
- Nhưng rút tỉa gì trong câu chuyện đây? Bình Minh đăm đăm nhìn.
Nhìn ánh đèn chiếu cầu Tràng Tiền lịm tắt, tôi từ tốn:
- Ta rút tỉa gì được từ câu chuyện đã nói với nhau sau khi lược lại lịch sử 60 năm vừa trôi qua? Xin nói ngay, không ảo tưởng có thể sở hữu gì về một thứ chân lý bất khả tranh cãi nào đó, tôi chỉ thành tâm mong đặt vấn đề để cùng đào xới mong cho tương lai đất nước chúng ta đã quá u thiệt thời gian khổ tươi sáng hơn. Tôi nghĩ, thành quả lớn lao nhất của người Việt Nam chúng ta là đã toàn vẹn lãnh thổ và xóa được những chia cắt đất nước do Thực Dân và Đế Quốc áp đặt. Đổi lại, máu và nước mắt của quân dân Nam, Bắc đã thấm vào đất vào sông vào biển ông cha ta để lại. Trên cây thánh giá cứu chuộc trong thiên niên trước, người Việt Nam chịu đóng đinh suốt từ 1945 cho đến 1975, đòi hỏi quyền độc lập và phất ngọn cờ giải phóng khỏi ách kềm kẹp của những dân tộc bị áp bức. Nhân loại đã tri ơn sự hy sinh này, và từng hướng về xem người Việt Nam chúng ta bước xuống thập giá để phục sinh như thế nào. Cuộc phục sinh đó mang ý nghĩa Độc Lập- Tự Do- Hạnh Phúc vẫn còn viết trên tất cả những văn bản công quyền. Độc lập chính trị của một quốc gia, dẫu tương đối trong tương quan toàn cầu ngày nay, tỉ lệ thuận với cái chúng ta quen gọi là dân giầu-nước mạnh. Nhưng làm sao để dân giầu đây? Dân có thể nào giầu lên được khi xã hội khép cứng tư duy mọi thành viên vào một khuôn phép chính thống chỉ còn biết bám vào mục tiêu ổn định quyền lực? Có lẽ chúng ta phải vượt qua sự Thống Nhất hiểu là thống nhất quyền lực chính trị bằng quan điểm rằng Thống Nhất là tìm ra sự đồng thuận tổng hợp mọi mặt về một tương lai đất nước chăng? Nhưng muốn thế, mọi công dân phải tự do -hiểu trên bình diện cá nhân- với những quyền hạn và nghĩa vụ xã hội. Nói cho cùng, Tự Do là cái đích của công cuộc Giải Phóng con người, và là điểm xuất phát đi đến Hạnh Phúc. Bước xuống thập giá, cuộc phục sinh không thể thực hiện khi con người tay chân đóng đinh lại bị áp chế, để quyền lực nặn ra và bóp lại cho nhỏ như nhau, tất cả nhân danh một lý tưởng xã hội chủ nghĩa chắc chắn bất khả thi trong thiên niên kỷ này. Nay, là lúc phải làm một cuộc đại lễ sám hối cho những người sống và giải oan cho những bóng ma chưa siêu thoát trên mọi miền, ở mọi phía. Và từ đó, người Việt Nam ở hiện tại nắm tay nhau đồng tâm xây đắp tương lai đất nước trên cơ sở đồng thuận về một xã hội thực sự văn minh và nhân bản. Một xã hội, dù muốn hay không, cũng như mọi xã hội trên trái đất nhỏ bé này, phải hội nhập vào cộng đồng thế giới...
Bình Minh quay nhìn ra ngoài trời. Hoàng Oanh rót nước cho tôi, nén thở dài, cười làm vui nhưng không giấu được chút ánh buồn đọng cuối mắt. Đã khuya, tôi cám ơn gia đình Oanh và xin kiếu từ. Mai tôi ra trường bay Phú Bài, vào Sài Gòn mấy bữa rồi bay trở lại miền đất tuyết đã cưu mang tôi mấy chục năm nay. Nói câu tạm biệt, nhưng trong lòng, tôi nghĩ sẽ chẳng có dịp nào như thế này, ăn một bữa rất Huế, và nói những chuyện rất Việt Nam. Phần tôi, tôi thật không ngờ gặp và chuyện trò được với hai người bạn trẻ có những trăn trở khác với nỗi lo sinh kế ta thường nghe như câu đầu cửa miệng trên khắp nẻo đường đất nước. Những điều tôi trao đổi, tôi chẳng biết chúng có mang lại được gì cho những người sơ ngộ, nhưng thôi, biết thế nào hơn...
Tôi không muốn Bình Minh đèo tôi về khách sạn. Đêm cuối cùng, tôi xin được một mình với Huế. Men bờ sông, tôi bước về phía cầu Bạch Mã, qua trước cổng Thành Nội nay vắng lặng không một bóng người. Nhưng thật lạ, khi ngước nhìn cửa Ngọ Môn, bỗng dưng tôi hân hoan một điều gì chưa hẳn định hình, như gió đêm chợt đến chợt đi, đùa vào nhân gian cái cảm nhận của những đổi thay tất nhiên như qui luật của sự sống. Nhưng niềm hân hoan đó mơ hồ, như đêm mơ hồ, như những ngày ở Huế cố đô, mơ hồ và ám ảnh... Sáng hôm sau tôi lấy xe của Việt Nam Airlines ra Phú Bài từ lúc tinh mơ. Và, ơ kìa, tôi không ngờ, Bình Minh và Hoàng Oanh đèo nhau ra sân bay tiễn tôi. Huế như thế không phụ bạc. Còn nhân tình. Và từ đó thì còn tất cả. Lần đầu trên quê hương tôi vẫy tay thực tâm hẹn một ngày về với những người ở lại.
Nắng trong lòng
Bình Minh và Hoàng Oanh thân mến
...Câu chuyện ngày nào giữa chúng ta xoay quanh những bài học rút tỉa từ cuộc bể dâu trên đất nước vẫn còn chút dở dang. Như tất cả, lúc nào tôi cũng xao xuyến trước những tấm gương ái quốc, và yêu mến những biên giới quê hương như vòng tay người mẹ ôm tròn che chở đàn con. Trong lòng tôi, những biên giới cũng được dựng lên, không phải biên giới của hận thù mà chỉ là lằn mức địa lý văn hóa trong đó con người chia chung cho nhau một đời sống thân ái. Đời sống Việt Nam đã dạy chúng ta những bài học đau đớn nhưng vĩ đại. Dạy biết từ một tấm lòng nhỏ nhen đến một tâm hồn cao cả. Dạy từ mưu toan giết chết hằng vạn người của những tên hề mím môi cắn miệng trong những tuồng tích mà làng mạc rừng núi thành đấu trường, và phố thị hóa ra sân khấu. Chiến tranh phải kết thúc, nhưng phe nào thắng thì cuối cùng con người cũng bại. Thương tích bên ngoài tưởng lành, nhưng ở trong sâu, còn những nỗi đau vẫn âm thầm mưng độc.
Nhưng dù sao, mọi sự đã là thế. Lịch sử lỡ như thế, không đảo ngược được, và tôi cũng lỡ để một bàn chân trong cơn xung động. Lịch sử mang niềm đau của tất cả. Cá nhân lại có cái xót xa quằn quại riêng trong sự bất hạnh chung. Với những biến đổi vô thường, làm sao có được một tổng hợp đích xác về thân phận con người. Mỗi dự tưởng về hạnh phúc con người đều là nguồn cội vực sâu. Luôn luôn có một ngộ nhận về tráng của thân phận. Dự tưởng càng lớn, thì càng xa, càng tách khỏi con người. Và tất nhiên, càng tách khỏi con người thì càng đào cho vực thêm sâu. Đến lúc đạt được đỉnh cao, trời hỡi, cũng là lúc kề cận nhất với vực sâu hun hút để nghe cho rõ tiếng tru thất thanh của con người trượt dốc.
...Tôi đã nói quá nhiều về quá khứ. Và những bóng ma. Trên muốn ngóc ngách của quê hương này, bao nhiêu là linh hồn chưa nuốt hết oan khiên vẫn còn đợi giờ siêu thoát. Bao nhiêu là những tà ma gây ra nghiệp quả còn đọa đầy ở sáu tầng địa ngục. Bao nhiêu là những con người sinh thành từ những bóng ma còn lẩn quẩn đòi những món nợ trần gian. Dầu nói về quá khứ và những bóng ma, nhưng thật tâm tôi nghĩ đó là cách tốt nhất để nói đến tương lai và những con người. Trên một đất nước, của hai em, của tôi, của những người sống trong nước, của những kẻ ở hải ngoại nhưng vẫn đau đáu một lòng với quê hương. Sau 30 năm chiến tranh, đất nước đó có đến 3 thế hệ cầm súng, và cả hai phía đều mang trong tâm thức những quán tính hằn vết oán hận mưng độc từ những nỗi đau chưa dứt, những ngộ nhận đúng- sai không ngày xét xử, những mất mát không có đền bù, những nỗi oan còn rỉ máu nhưng vẫn chưa công minh phán quyết. Kẻ cầm trịch hô khúc ruột ngàn dặm - là da là thịt của Tổ Quốc - hãy khép lại quá khứ. Nhưng những lời nói suông không đánh tráo được sự bất hạnh khủng khiếp của những ngày qua. Quá khứ chỉ khép lại khi tương lai mở ra. Tất cả oán hận kia có thể xả ra và quên đi, tức là thực sự có hoà hợp hòa giải dân tộc, khi chúng ta cùng thấy và cùng nhau xây dựng tương lai để hiểu rằng những thương tích trong quá khứ kia là bàn đạp để con em chúng ta bước vào một ngày mai tươi sáng hơn. Trách nhiệm Lịch Sử này là trách nhiệm chung. Những kẻ nào thui chột tương lai dưới bất cứ một thứ danh nghĩa nào, một tập hợp quyền lực nào, đều là những kẻ phản quốc. Ngẫm lại, bao nhiêu trăm năm qua, chúng ta lúc nào cũng có một kẻ thù để chống lại. Sự tồn tại của chúng ta không đến từ sự khẳng định chính mình. Nó đến từ sự phủ định những kẻ xâm lăng. Chừng mực nào, bất hạnh khởi đi từ đó. Trong thế giới ở thiên niên kỷ này, xâm lăng mang hình thái mới, kẻ thù còn, nhưng không dễ nhận diện. Và cũng không thể đơn giản nghĩ rằng chỉ những người khác mới là kẻ thù. Khi chỉ còn lại chính ta đang chiến đấu với bóng mình ở bên kia mặt gương, sự bất hạnh đó biến thành hiểm họa tự giết mình. Do đó, nó ghê gớm hơn, và không kịp thời nhận diện thì làm thế nào tránh được những oan nghiệt bể dâu? Bây giờ, đã là lúc chúng ta phải khẳng định chính mình để tồn tại. Và một cách xứng đáng, để đền bù cho những bất hạnh đã phải trả trong những năm tháng tang thương trong quá khứ.
Chưa bao giờ tôi có thể điên dại để tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn. Nhiều lần, tôi đã mong được thấy những giá trị hão huyền bén rễ sâu xa trong tâm não tôi được thải ra ngoài như thứ ô tạp cần gạn lọc. Tôi không phải là kẻ dễ mất niềm tin, nhưng trong tôi, tuyệt vọng lắm khi làm mùa độc nếu như tôi không còn cái may mắn gặp gỡ cùng tuổi trẻ. Với tuổi trẻ, tôi gầy lại lửa nuôi dưỡng hy vọng, và trước những con mắt trong sáng vây quanh, lòng ái ngại biến tôi thành một bóng tối nhỏ nhoi. Với những trái tim quí báu đó, có thật tôi đã đóng góp một điều gì tốt đẹp? Nhưng, tôi ơi, khi đã lỡ có cơ duyên thì những tình cảm kia phải được đền bồi. Thu mình ngậm miệng từ đó hết cơ hội tự giải oan. Đó là sự liêm sỉ tối thiểu.
Tôi rất buồn bã khi tuổi trẻ ồn ào kêu la quốc nhục khi thua một trận bóng đá với đội nước ngoài nhưng lại dửng dưng im tiếng khi những người con gái Việt Nam phải bán thân ra chợ buôn người mong tìm được một người chồng để đi Đài Loan, Mã Lai... Tôi hoảng sợ khi nhìn thấy những tâm hồn đẹp đẽ quanh đây bị cuốn hút vào những suy tư thực dụng hời hợt, những hành xử ích kỷ không còn gì là đạo lý xã hội, và những chọn lựa trào lưu. Những chọn lựa đó thường có vẻ đẹp bề mặt nhưng không can dự gì với ý thức. Hay nếu có, chỉ là loại ý thức để những con vẹt hót lại. Trong cách thế đó, chọn lựa chỉ đồng nghĩa với sự tự hủy và cùng nhau kéo theo những cái chết thanh xuân. Đáng ra, chúng ta hãy chọn lựa giành điều kiện làm người với nhau và cho nhau. Khi vì chọn lựa đó mà phải làm tên tử tội, ta chỉ là tên tử tội của định mệnh riêng tư. Không mơ mộng trên xương máu đồng loại. Không hát những tiếng hát cổ vũ sự sinh nở của hận thù. Gắng che chở cho tâm hồn. Phải biết sáu mươi năm qua cỏ dại và nấm hoang đã mọc quá nhiều trên đó.
Những ngày mệt mỏi tôi lắng mình trôi về bên một dòng sông, cạnh Huế, thành phố của quá vãng. Trên bề mặt nay yên tĩnh dẫu xưa thừa thãi tang thương, thành phố có những cơn sóng ngầm và những ngọn lửa ủ dưới tro than từng tạo phong ba đã làm bật rễ những triều đại thuở trước. Nhưng mỗi lần có cơ hội trở lại đời sống bình thường, thành phố lại mang khuôn mặt thơ mộng và nhẹ nhàng của những ngọn gió hờ trong thành cổ. Cơ hội đó nay không nhiều. Trong những hoàn cảnh nghiệt ngã, người ta không còn nhìn nhau bằng con mắt cũ. Thấp thoáng dưới những trũng mắt năm xưa những bình phong dựng lên từ e ngại. Ngờ vực là phải. Thời đại của đố kỵ, tỵ hiềm đã hình thành từ bao giờ mà không hay. Nhưng không phải chỉ riêng nơi đây. Nơi nơi đều thế. Tôi đã qua nhiều thành phố, cuối cùng mới vỡ lẽ ra, mỗi nơi đều đã thành hình những sân khấu và những đấu trường bỏ túi. Tuồng tích được biên diễn cẩn mật. Mỗi người tự xé mình thàng những mảnh rời để đóng dăm ba vai trò. Đám giả hình múa những đường gươm vừa quyết liệt vừa chu đáo. Nhiều đêm trở về, xương sống bỗng buốt lạnh, bởi đâu đây, luôn luôn sẵn sàng những nhát dao không minh bạch. Có cái gì gần như những vết ố trên một phía của mặt đời, nơi bóng tối che đi những chọn lựa vô liêm nhưng tròn lẳn để tuột theo triền dốc bờ con vực. Không, con người có thể làm những chọn lựa góc cạnh. Trong cuộc sống nhiễu nhương nơi đây, sống đã là một cách chọn lựa. Nhưng đừng dại dẫn mình đến một pháp trường bất xứng mặc dù ai cũng đã có một lần sẵn sàng phủi tay với cuộc đời. Cho nên, những chọn lựa nhỏ nhặt chỉ làm hao mòn tâm hồn ta thôi. Hãy đủ sức giương cung, chọn mũi tên định mệnh, và lao trong gió tự do đến một mục đích tương xứng.
Khi ta gặp nhau, Huế vào độ lập thu. Thoang thỏang trong thành cổ thơm tho một mùa sen hóa kiếp trên ao. Sau khi đến ăn bữa cơm ‘‘gia đình’’ nhà Hoàng Oanh, khi chia tay một mình tôi đi dưới cổng thành, lòng bất ngờ có những nỗi hân hoan kỳ lạ. Một điều gì gần như niềm hy vọng mới nhú lên. Tôi bỗng chắc chắn rằng tuổi trẻ quanh đây, qua những bất hạnh quá đủ, sẽ tạo dựng được cái mùa muộn màng của sự thật. Những lời chân thật. Những ước mơ chân thật. Và từ đó, những phát biểu mới sẽ là những đường gươm sắc bén chém rụng huyền thoại. Từng bước đi tới, tuổi trẻ tự cưu mang lấy mình. Không nương nhờ nữa. Mỗi người là hy vọng của chính mình. Giải thoát quyết liệt khỏi mọi khối nam châm phù thủy bấy lâu đã làm rêu phong sợ hãi trên đời ta, tức là bóc trần những sự thật tối tăm xưa nay được che chở an toàn. Những nhầm lẫn xưa nay không bị truy tố. Lần giở lịch sử ông cha để lại, con cháu thôi không trách móc, chỉ thương xót trong tịch lặng. Sự tịch lặng phủ lên những vết thương của đất, của trời, của những con tim thương tích không lành, của một ngày mai không đến. Đó là cõi vô âm của mọi chủ thuyết, mọi triết lý, mọi tham vọng đổi đời. Nếu cần một thanh âm tỉnh thức, thì xin một tiếng chim theo bước gập ghềnh của những cuộc đời không tiếng nói. Nhưng tuổi trẻ sẽ làm như thế với lòng độ lượng chứ không phải vì thiếu can đảm. Tuổi trẻ hiểu trong khuôn khổ xã hội nào cũng có người tốt người xấu. Tuổi trẻ tin vào khả năng hướng thiện của bất cứ ai, không chà đạp như quá khứ từng sai phạm, không nhỏ nhoi hồi tố những cái án có thể quên đi. Tất cả vì tương lai. Tuổi trẻ là những đứa con quá tình cảm, chẳng nỡ buộc tội những người của quá khứ, nhưng vẫn phải lên đường. Vì bản năng tồn sinh của những cuộc đời đáng sống.
Nhưng đã muộn chưa? Chúng ta đang chênh vênh trên con dốc hủy diệt? Cái gia đình chung đã có lắm điều tồi tệ. Đúng thế. Nhớ lại lời nói khi xưa với Bình Minh, vài ba mươi năm có hề chi, lịch sử là con đường dài trước mặt, tôi đoan chắc rằng tôi chỉ nói lên một sự thật giản đơn. Những điều tồi tệ đã làm đều có thể đảo ngược trong tương lai, nếu chúng ta thực sự muốn cưu mang tương lai. Chúng ta được thương xót, được vỗ tay từ khắp nơi, rồi cũng bị dè bỉu khen chê. Với tình cảm nhân loại, sự đãi ngộ của chúng ta như thế cũng đã quá nhiều. Không có ai có thể làm gì khác hơn thế. Không có ai thay ta để định đoạt vận mệnh ta. Việc chúng ta, ta phải sắn tay lên. Hãy bắt đầu phá bỏ đấu trường. Phá bỏ sân khấu. Tuồng tích không còn gì làm ngạc nhiên. Với kinh nghiệm thương đau, chúng ta đều hiểu rõ hạnh phúc ở đâu. Trên con đường chúng ta đã đi qua tuyệt nhiên không có.
Điều tôi muốn nói để trả món nợ với tuổi trẻ hai em là chưa muộn nếu chúng ta lên đường từ một quá khứ cùng hiểu ra và để tránh được những bước hững chân mai sau. Và dù thế nào chúng ta cũng phải đi. Chỉ xin được đi những bước vững chắc, với ý thức tìm về quê quán là con người, ở cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Như những đứa con nhân loại, chúng ta còn sẽ vượt qua bao nhiêu sa mạc, bao nhiêu đại dương. Trên bước đường trong mênh mông, chúng ta đang cần chút nước cho hành trình. Những thiệt thòi đã đủ lớn nên ta không thể để cả một giống nòi bị hụt hơi vì vô vọng. Và mỗi bước tôi đi, tôi sẽ ngước lên chào bình minh, đợi một tiếng hoàng oanh hót cho mặt trời lên, để nắng vào lòng, ngước mặt nhìn trời thật sáng.
7- 3- 2005 -- 17- 4- 2005
Chú thích:
Một số những trạm tham khảo trong bài viết là: AMVC: amvc.free.fr; BBC: www.bbc.co,uk/vietnamese; Diễn Đàn: zdfree.free.fr/diendan/; Talawas:www.talawas.org; Thông Luận: www.thongluan.org; Hợp Lưu: www.hopluu.net
[1] Trần Trọng Kim,Việt Nam Sử Lược, Saigon, NXB Tân Việt, 1956, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1971.
[2]Tạ Trí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam (1771-1802), NXB An Tiêm, 1991.
[3] George Dutton, Rethinking the Tây sơn era, UCLA working paper, 2004.
[4] Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism 1925-1945, Cornell University Press, Ithaca(USA), 1982.
[5] Devillers Philippe, Histoire du Việt Nam de 1940-1952, Edition du Seuil, Paris 1952 và Võ nguyên Giáp, Những chặng đường Lịch Sử, NXB Văn Học, Hà Nội, 1977
[6] Devillers Philippe, Paris-Saigon-Hanoi (1944-1947), Edition Gallimard-Julliard, Paris, 1988.
[7] Salan Raoul, Fin d’un Empire, Edition Presse de la Cité, Paris, 1970.
[8] Goscha Christopher và Benoit de Tréglodé, The Birth of a Party-State: Việt Nam since 1945, edition Les Indes Savantes, Paris, 2004. Tham khảo chương 4, Shaw McHale, Freedom, Violence, and the Struggle... và nhất là chương 10, François Guillermont, Au coeur de la fracture vietnamienne. Tiến sĩ Guillermont dựa trên nhiều tài liệu Nhà XB Công an Nhân Dân (NXBCAND) của các Bộ Công An, Bộ Nội vụ Việt Nam (cục Cảnh Vệ, cục Tình báo) cũng như hồi ký của những nhân vật chỉ đạo công an và tình báo như Lê Giản, Lê văn Viễn... Đặc biệt trong thời gian 45-54, xin tham khảo Công an Thành Phố Hà Nội, Những chặng đường lịch sử, NXB CAND, 1990.
[9] Dương Trung Quốc, ‘‘Tư tưởng coi thường Hiệp Định Genève là một sai lầm”, VietnamNet, 21-07-2004.
[10] Devillers Philippe (sđd, 1988).
[11] Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, NXB Quân đội Nhân Dân, Hà Nội, 2001.
[12] Về HĐ Genève, tạm chia diễn biến ra 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (8/5 - 23/6): Đây là giai đoạn các bên trình bày lập trường của mình về cách giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Thay mặt đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đã trình bày lập trường 8 điểm tại hội nghị:
1- Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.
2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi 3 nước Đông Dương trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân, đạt thỏa thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số khu vực hạn chế.
3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm thành lập Chính phủ duy nhất cho mỗi nước.
4- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó.
5- Ba nước Đông Dương thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hóa của Pháp tại mỗi nước. Sau khi Chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hóa được giải quyết theo đúng các nguyên tắc bình đẳng và củng cố.
6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.
7- Trao đổi tù binh.
8- Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự.
[9] Dương Trung Quốc, ‘‘Tư tưởng coi thường Hiệp Định Genève là một sai lầm”, VietnamNet, 21-07-2004.
[10] Devillers Philippe (sđd, 1988).
[11] Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, NXB Quân đội Nhân Dân, Hà Nội, 2001.
[12] Về HĐ Genève, tạm chia diễn biến ra 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (8/5 - 23/6): Đây là giai đoạn các bên trình bày lập trường của mình về cách giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Thay mặt đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đã trình bày lập trường 8 điểm tại hội nghị:
1- Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.
2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi 3 nước Đông Dương trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân, đạt thỏa thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số khu vực hạn chế.
3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm thành lập Chính phủ duy nhất cho mỗi nước.
4- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó.
5- Ba nước Đông Dương thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hóa của Pháp tại mỗi nước. Sau khi Chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hóa được giải quyết theo đúng các nguyên tắc bình đẳng và củng cố.
6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.
7- Trao đổi tù binh.
8- Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự.
Giai đọan 2 (24/6 - 20/7): Trưởng đoàn Pháp và Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đàm phán trực tiếp để giải quyết các vấn đề cụ thể. Đoàn đại biểu VNDCCH kiên trì đấu tranh cho mấy vấn đề cơ bản bao gồm: quyền tham gia hội nghị của các đại biểu chính phủ kháng chiến Lào và chính phủ kháng chiến Campuchia; chọn vĩ tuyến để khẳng định giới tuyến quân sự thạm thời ở Việt Nam và thời hạn tổ chức tổng tuyển cử tự do thống nhất nước ta. Hai vấn đề chủ chốt phía sau mãi đến gần lúc Hội nghị kết thúc mới được giải quyết. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève về Đông Dương bắt đầu được ký kết với nhiều văn kiện, chủ yếu là:
1- Ba hiệp định đình chỉ chiến sự tại 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia;
2- Bản tuyên bố riêng ngày 21/7/1954 của Mỹ tại Hội nghị Genève, đã không ký vào HĐ;
3- Bản tuyên bố của chính phủ Pháp ngày 21/7/1954 trong đó nêu rõ Pháp sẵn sàng rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào, Campuchia theo lời yêu cầu của chính phủ những nước có liên quan trong một thời gian do các bên thỏa thuận;
4- Những hiệp định về Việt Nam với nội dung:
i- Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam
ii- Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương;
iii- Vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt Việt Nam làm hai miền. Pháp rút quân về phía nam vĩ tuyến đó;
iii- Tổng tuyển cử tự do trong cả nước sau hai năm để thống nhất nước Việt Nam.
[13] Devilliers P (sđd, 1988).
[14] Hoàng Tranh, Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc, Diễn Đàn, 121.09-2002.
[15] Xin tham khảo Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên, nửa thế kỷ trước: vấy máu Cải Cách Ruộng Đất, Thông Luận, 01-2003; Dương Thu Hương, Những thiên đường mù, 1987 ; Lê Lựu, Chuyện Làng Cuội, 1991; Tô Hoài, Chuyện ba người (chưa xuất bản), Trần Dần, Ghi 1954-1960, td mémoire, Paris 2001.
[16] Xem Lê Đạt, Nói về Nhân Văn Giai Phẩm, phỏng vấn do Thụy Khuê thực hiện, Hợp Lưu, 81, 2005, và Trần Dần (sđd, 2001). [17] Hồ Chí Minh Toàn Tập, NXB Sự Thật, 1976.
[18] Trần Văn Trà, Hòa Bình hay Chiến Tranh, NXB QĐND, Hà Nội, 2003.
[19] Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Văn Nghệ, California, 1977.
[20] Nguyễn Minh Cần (sđđ, 2003)
[21] Mann.R (sđd)
[22] Tham khảo Mann. R (sđd), Kissinger H, Years of Upheaval, Boston:Little, Brown, 1982, và Nixon R, No more Việt Nam, NewYork:Abor House, 1985.
[23] Trần Quang Cơ, Quan hệ Việt-Mỹ: 1977, thời cơ bỏ lỡ, Diễn Đàn, 136,
Paris, 2004.
[24] Đoàn Thêm, Những ngày muốn quên (1975-1983), Tổ Hợp XB Miền Đông Hoa Kỳ, 1992
[25] Tạ Chí Đại Trường, Một khoảng Việt Nam Cộng Hòa nối dài, NXB Thanh Văn, California, 1993.
[26]Ngô Nhân Dụng, Tại sao nhiều người Việt giàu thế, Talawas, 2004.
[27] BBC, 2-12-2004, Lê Quỳnh, Ban Việt Ngữ.
[28] Nguyễn Mạnh Hùng, vấn đề ổn định, Hợp lý hóa và Phát Triển Kinh Tế nước ta (Đề trình gửi Ông Phạm Văn Đồng, Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng ), 1982 (tài liệu riêng). [29] Trần Độ, Hồi Ký (1955-1996), Talawas 2003. Tập2, chương 3, đề cập đến Nghị Quyết 5 (1987) cởi trói:
Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng. Trong lịch sử Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được độc lập, tự do và đã mang lại quyền tự do sáng tác chân chính cho văn nghệ sĩ. Bản chất quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội... Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình), và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của công luận và sự phê bình. Đảng và Nhà nước khuyến khích thảo luận, tranh luận công khai để tìm ra chân lý. Cần tạo một không khí hồ hởi trong sáng tác, khêu gợi nhiều cảm hứng sáng tạo cao đẹp trong các văn nghệ sĩ....Nhưng đây mới nới nửa vòng thì hai năm sau vắt lên cổ văn nghệ sĩ! Và sau đó họ tự kiểm duyệt đến độ còn gay gắt hơn thời trước!
[30] Đề Cương Đề Dẫn thảo luận ở Hội Nghị Đảng Viên bàn về Sáng tác Văn học 1979, Talawas, 2004.
[31] Nam Dao, Trách nhiệm nhà văn giữa lối đi lầy vết, Phỏng vấn do Mai Ninh thực hiện, Hợp Lưu, 80, 2004
[32] Thành quả về văn học, trừ thời kháng chiến chống Pháp, không được như mong mỏi (xem ghi chú 30 và 35 ở dưới), lý do chính là lập trường thắt họng văn chương và quan điểm sáng tác theo hiện thực XHCN. Xin tham khảo Phan Huy Đường, vẫy gọi nhau làm người: Gặp gỡ cuối năm, khi lập trường thắt họng văn chương, http://amvc.free.fr. Xem thêm cước chú 35 ở dưới.
[33] Trần Quang Cơ, Hồi ký (trích Hồi Ức và Suy Nghĩ), Diễn Đàn, 2003
[34] Nadegda Kutznetsova, Nhà Nước Toàn Trị (Nguyên Trường dịch), Talawas, 2004.
[35] Chính sự tồn tại của giai cấp quan liêu nắm quyền lực chính trị này là nguyên nhàn sinh ra hiện tượng sùng bái lãnh tụ. Lãnh tụ toàn trị được gán cho những tính chất siêu phàm: không bao giờ sai, biết hết, có khả năng suy nghĩ cho tất cà mọi người...Sự chuyên chính của một đảng nhất định sẽ dẫn tới một hệ tư tưởng chính thức buộc mọi người phải công nhận và xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống. Hệ tư tưởng toàn trị trước hết là phương tiện tranh thủ quần chúng đê củng cố quyền lực của bộ máy đảng, phản ánh chủ yếu quyền lợi vật chất của tầng lớp nắm quyền lực chính trị và xuyên tạc các mối quan hệ xã hội, che dấu bản chất thật sự của chính xã hội đó. Chính tầng lớp chóp bu nắm quyền đứng trên học thuyết của mình và chẳng có mối quan hệ gì với nó cả. Những lãnh tụ toàn trị đều biết rằng để nô dịch tất cả các phong trào quần chúng họ đều cần huyền thoại. Mussolini, thủ lãnh phát-xít Ý, đã phát biểu về quan hệ của lãnh tụ toàn trị và tầng lớp ưu tú đối với hệ tư tưởng - huyền thoại mà nó tuyên truyền như sau: "Chúng tôi tạo ra huyền thoại; huyền thoại là niềm tin, là lòng nhiệt tình; nó không phải là hiện thực, nó là động lực và hy vọng, là niềm tin và lòng dũng cảm’’. Nhưng huyền thoại là phương tiện tư tưởng làm sợi dây sỏ mũi đám đông. Hành động của các viên chức quan liêu của đảng thường thường không được quyết định bởi hệ tư tưởng chính thức mà được quyết định bởi mục tiêu củng cố và phát triển quyền lực của mình.
[36] Dã Tượng, Văn học, Nội lực, trong-ngoài và một vài tra vấn... với nhà văn Nguyên Ngọc, Hợp Lưu, 2003.
[37] Tham khảo Phụ Lục đính kèm dưới đây.
[38] Tham khảo P Đ Chí và TB Nam (chủ biên) Đánh Thức con Rồng ngủ quên, Kinh Tế Việt Nam đi vào thế kỷ 21, bài 24: về chênh lệch thu nhập theo Vùng và giữa Thành Thị- Nông Thôn, Nguyễn Mạnh Hùng, NXB TP Hồ Chí Minh, Vapec, và Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, 2001.
[39] Vũ Quang Việt, Kinh Tế Việt Nam năm 2004, Diễn Đàn 2-2005.
Xin trích: Nền kinh tế hiện nay chủ yếu là phát triển sản xuất hàng hóa theo đơn đặt hàng không đòi hỏi công nghệ cao phục vụ thị trường nước ngoài do đó xuất khẩu tăng nhanh, nhưng ngược lại nhập khẩu tăng mạnh hơn vì nhu cầu nhập nguyên liệu, máy móc làm hàng xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng cũng như đầu tư của nhà nước. Đồng Việt Nam lại ở mức giá cao so với đồng Mỹ trong nhiều năm qua nên có tính khuyến khích nhập khẩu. Việt Nam là một trường hợp khá ngoại lệ so với nhiều nước khác ở khu vực. Kinh tế dựa vào ngoại thương nhưng họ thì cán cân ngoại thương thừa còn Việt Nam thì cán cân ngày càng thiếu hụt cao. Trần Văn Thọ trong Thời Đại Mới số 3, www.thoidai.org, đã nếu lên một lý do, đó là sự thiếu gắn bó giữa sản xuất xuất khẩu và sản xuất nguyên liệu phục vự sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là trong hai ngành may mặc và xe máy. Theo điều tra các công ty có vốn nước ngoài, 75 % nguyên vật liệu và phụ tùng là nhập từ nước ngoài, các công ty có 100 % vốn nước ngoài thì nhập khẩu gần như 100 %. Thống kê cho thấy hầu hết hàng nhập là có mục đích sản xuất (được ưu tiên mức thuế thấp), không phải hàng tiêu dùng, nhưng thực chất là để tiêu dùng, thí dụ như việc sản xuất xe máy cho thấy, linh kiện nhập để sản xuất xe máy chủ yếu nhập nhằm mục sản xuất hàng tiêu dùng trong nước. Lắp ráp ô tô, hàng điện tử cũng thế. Chính vì thế, với hối suất thấp, với mức thuế ưu đãi, nhập khẩu tiếp tục cao. Thống kê không nói lên điều này vì những linh kiện này được xếp vào nguyên liệu sản xuất, còn gần như không có nhập hàng xe máy và thành phẩm điện từ tiêu dùng.
[40] Xem cước chú 37.
[41] Trần Quế Đệ -Xuân Đào, ‘‘Điều tra Nông Dân Trung Quốc”, Talawas, 2005(một tài liệu quan trọng).
[42] Một cái nhìn về viễn cảnh chính trị ở Việt Nam, BBC 2005, thực hiện phỏng vấn M Gainsbourg về cuốn sách “Changing Political Economy of Việt Nam: the case of HoChiMinh City”, Routledge Curzson, 2003 và tóm tắt bài “Political Change in Việt Nam in search of the midle class challenge to the State”, Asian Survey, 2002.
[43] Xin tham khảo tham luận của GS Hoàng Tụy, và GS Bùi Trọng Liễu, trong Hồ Sơ Tài liệu Diễn Đàn, http://zdfree.free.fr/die../dossiers/dossiers.html
[44] Đặng Quốc Bảo, Năm khuyết tật lớn của ĐCSVN, Diễn Đàn, 2004.
Xin trích: Than ôi, nền giáo dục của chúng ta bị băng hoại. Có 4 nhược điểm cơ bản của giáo dục mà không thoát được. Đảng không lãnh đạo thoát được thì ảnh hưởng đến toàn bộ lớp trẻ chúng ta đào tạo. Thứ nhất là nền giáo dục tạo nên sản phẩm giả và lưu hành sản phẩm giả từ cấp cơ sở đến ông tiến sĩ, đến ông giáo sư, lưu hành và trộn lẫn với nhau. Cuối cùng thì chết thằng thật. Không phải không có thằng thật. Trộn lẫn như vậy thì thằng giả chi phối. Hiện nay có bao nhiêu tiến sĩ giả, giáo sư giả. Ông Vũ Đình Cự nói với tôi: theo tôi ước lượng vào khoảng 70 %. Tôi không có số liệu cụ thể về chuyện này. Nhưng nhiều người có trách nhiệm nói về hiện tượng đáng lo ngại. Đua nhau và theo 2 hướng: một là, mua danh; hai là để kiếm chút địa vị và biến nó trở thành một thứ hàng hóa để lưu hành. Tất cả chuyện này trộn lẫn với nhau. Hiện tượng thứ hai: Hệ thống giáo dục trở thành thị trường không lành mạnh. Tất cả các thành phần của giáo dục trở thành một thứ hàng hóa mang giao bán, tất cả các kỳ thi, các chứng chỉ. Mười năm rồi nhưng tất cà các hiện tượng này chưa được khắc phục, mỗi ngày một nghiêm trọng hơn. Hiện tượng thứ ba: hệ thống thầy giáo rất thiêng liêng, tuy không phải là tất cả, nhưng có xu hướng là người kinh doanh, mà kinh doanh rất tàn nhẫn, đào tạo theo mẫu và không có trách nhiệm. Cho nên báo chí đưa ra đầu vào rất khó, nhưng đầu ra rất dễ. Đào tạo thế thôi, tức là một giáo trình có thể tồn tại 10 năm, 15 năm mà không thay đổi. Tôi có thằng cháu được vào Bách Khoa một cách ưu tiên, nhưng nó không vào, nó đi ra nước ngoài để học. Một cậu ở Bách Khoa nói với tôi: may mắn là cháu đi học, bởi vì tôi là Hiệu phó phụ trách về giáo dục thì thấy không kiểm soát được, vì có tiền là có điểm thôi... Hiện tượng thứ tư: nội hàm của trí thức thì nội hàm hiện đại rất yếu, mà kiến thức cổ cách đây 50 năm. Đây là lực lượng gọi là con người, mạnh nhất phải vươn lên để dẫn đầu khu vực. Nhưng con người nằm trong hệ thống đào tạo thì đang khủng hoảng giống như thầy phù thủy triệu âm binh nhưng không điều khiển được âm binh. Nền giáo dục của ta có điều khiển được không? Hệ quả tai hại không phải là con người Việt Nam đang thiếu trí tuệ. Hệ thống điều hành làm cho nó tê liệt đi. Nhưng nếu cùng con người ấy cho ra ngoài thì nó nên người. Nhưng than ôi, ngay ra nước ngoài cũng thế.
[45] Điều 4
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Điều 30
Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục.
Điều 33
Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
[46] Trích Đặng Quốc Bảo: Kinh nghiệm cổ kim đông tây và kinh nghiệm của cả nhân loại có một điểm: mọi sự độc quyền đều dẫn đến tha hóa, bất kể dưới dạng nào. Trong đó kể cả Đảng ta. Tất cả mọi sự độc quyền đều vắng bóng dân chủ. Nhưng cũng có ở một thời điểm lịch sử nhất định phải có một sự độc quyền nhất định thì mới có thể thay đổi được tình huống. Nhưng sự độc quyền ấy nếu kéo dài ra vĩnh cửu thì nhất định dẫn đến tha hóa. Đây là bài toán ta phải lý giải được. Tôi nghĩ rằng sớm muộn sự xuất hiện những lực lượng đối trọng ở dạng này, dạng khác nhất định sẽ diễn ra, đó là cái tất yếu, nhưng là lúc nào thôi, là đối trọng lành mạnh, chứ không phải là đối trọng ác ý. Mọi sự độc quyền đều dẫn đến chuyên chế. Đây là vấn đề hết sức lớn, ta có thừa nhận không. Tôi có kiến nghị cụ thể như thế này, trước hết trong nội bộ Đảng tạo nên một không khí có đối trọng. (...)
[47] Trích Đặng Quốc Bảo: vấn đề thứ tư của Đảng có nguy cơ rất lớn, tức là trong Đảng hình thành một tầng lớp giầu có và có lợi ích riêng. Ngành nào cũng thế, địa phương nào cũng thế. Xã hội hiện nay có 2 lực lượng. Một là lực lượng xã hội đen (Năm Cam cũng như Lã Thị Kim Oanh là một biểu hiện của xã hội đen, đang mọc lên như nấm), chúng ta thấy được một chừng mực nào. Nhưng xã hội đen này lại nằm ngay trong nội bộ của chúng ta - không phải là tất cả -nhưng ngành nào cũng có và ở ngành quan trọng.
[48] Tham khảo Phan Đình Diệu. Một số suy nghĩ về tiếp tục con đường đổi mới của đất nước ta, 2004, Hồ Sơ Tài Liệu Diễn Đàn, http://zdfree.free. fr/dien dan/dossiers/. Trích:... tôi xin mạnh dạn đề xuất của vài biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đổi mới đã đi được một chặng đường dài của đất nước ta: 1. Phát triển đầy đủ kinh tế thị trường và hoàn thiện cơ chế thị trường theo thông lệ quốc tế cho nền kinh tế nước ta. Có lẽ ở đây điều mấu chốt chỉ còn ở một số vấn đề như thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân và thực hiện quyền bình đẳng kinh doanh của mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ các đặc quyền (phi lý) của các doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và trí thức, hoàn chình sớm hệ thống luật pháp về kinh tế theo chuẩn mực của kinh tế thị trường. Có các giải pháp minh bạch hóa và chống tham nhũng cùng các tiêu cực khác; 2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ. Trong nhiều năm qua ta đã xây dựng được một hệ thống luật pháp khá đầy đủ về tổ chức Nhà nước, về các luật dân sự và hình sự. Vấn đề quan trọng nhất ở đây là thật sự tôn trọng các quyền tự do dân chủ mà Hiến pháp và pháp luật đã qui định, đặc biệt là các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí, tự do lập hội, tự do ứng cử và bầu cử, là những quyền dân sự rất nhậy cảm, thước đo dễ nhận thấy của một xã hội dân chủ. Nếu các quyền này được thật sự tôn trọng, và một xã hội dân sự được phát triển, thì tôi tin rằng xu hướng đồng thuận xã hội sẽ được xác lập và tăng cường, đời sống văn hóa tinh thần của đất nước ta sẽ được đơm hoa kết quả, góp phần không nhỏ vào cuộc sống văn minh của đất nước. Như vậy, về bản chất, Nhà nước ta sẽ trở thành một Nhà nước xã hội chủ nghĩa dân chủ; 3. Còn một vấn đề khó nói nhất là về vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong gần hai thập niên qua, ở cương vị lãnh đạo, Đảng ta đã giữ được cho đất nước ổn định để thực hiện giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Đến nay, sự nghiệp đổi mới đòi hỏi những nội dung mới và chất lượng mới, để tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo của mình thì bản thân Đảng phải có những đổi mới cơ bản, rõ ràng lý luận về chủ nghĩa cộng sản và về chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lênin không còn thích hợp với đòi hỏi mới của cuộc sống nữa. Nhiều Đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ và ở nhiều nước khác trong thời gian qua đã chuyển thành các Đảng xã hội dân chủ, và sau một thời gian “khủng hoảng” đã trở lại là một lực lượng chính trị quan trọng trong sự phát triển mới. Tôi hy vọng là Đảng sẽ tự biến đổi thành một Đảng xã hội dân chủ để lãnh đạo nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ, như vậy thì cả vấn đề giữ quyền lãnh đạo cho Đảng và tạo ra một nền dân chủ của xã hội đều được giải quyết một cách trọn vẹn, và do đó. nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc tế. Nếu không được như vậy, tức là Đảng vẫn kiên giữ nguyên như hiện nay, thì vì quyền lợi của dân tộc. Đảng phải tôn trọng quyền dân chủ, kể cả quyền lập đảng, của xã hội, và ta sẽ có một chế độ đa đảng hoạt động trong phạm vi luật pháp.Trước sau gì thì một nền dân chủ cũng phải là đa nguyên thôi, vì đa nguyên luôn luôn là điều kiện cần của dân chủ, đó là điều mà cả về lý luận lẫn thực tiễn ta không có cách gì có thể bác bỏ được.
[49] Tham khảo Lê Chí Quang. Góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992, Thư gửi Ban Soạn Thảo và Sửa Đổi Hiến Pháp Quốc Hội nước Việt Nam, 2001. Trích: Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị của LHQ ngày 24/9/1982. Tuy nhiên, việc ký kết này chỉ nhằm làm hài lòng các quốc gia phương Tây, để xin viện trợ của nước ngoài. Thực tế, ở VN, người dân chưa hề được biết khái niệm nhân quyền đích thực. Họ chỉ được tuyên truyền về sự đối lập với các giá trị phổ quát của nhân quyền phương Tây, các điều kiện và quan điểm khác nhau về nhân quyền, nhằm biện minh cho sự duy trì vĩnh viễn một học thuyết, một chế độ đã lỗi thời, phản tiến bộ. Đừng giả dối, chỉ cố tô vẽ những lời hoa mỹ vào Hiến pháp nhưng thực tế thì luôn dùng bạo lực và nhà tù để đàn áp những người khác chính kiến. Quyền chính trị nhiều khi còn mang những giá trị lớn lao hơn là những quyền về kinh tế. Cùng với quyền kinh tế, quyền chính trị tại mỗi quốc gia cho phép ta đánh giá chất lượng toàn bộ hệ thống xã hội, nó xác định bản chất chế độ chính trị đó là dân chủ hay độc tài. Một nền dân chủ chân chính đòi hỏi phải khắc phục những quan niệm giáo điều, đố kỵ về bản chất tôn giáo và nhu cầu tồn tại tất yếu của nó trong xã hội. Cũng như tính tất yếu của tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo phải là hiện thân cuộc sống.
Điều 69 viết: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp,lập hội,biểu tình theo quy định của pháp luật." Mệnh đề theo quy định của pháp luật rất dễ bị chính quyền sử dụng như là chiếc khóa, khóa chặt tất cả các quyền ở trên rồi. Chính vì vậy nên điều 12 của luật báo chí thẳng thừng quy định chỉ có nhà nước mới có quyền được xuất bản báo chí. Bên cạnh đó, điều 88 và điều 226 của bộ Luật Hình sự lại hùn thêm vào để tước nốt quyền được nhận và trao đổi thông tin. (Thế mới đúng quy định của pháp luật chứ!). Cho nên, Điều 69 cần được sửa là: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được nhận và trao đổi thông tin bằng bất cứ hình thức nào; có quyền hội họp; lập hội; quyền được thành lập đảng phái của mình; quyền được biểu tình, đình công "Về tự do tư tưởng: So với Công Ước Quốc Tế mà ta tham gia ký kết, điều 70 của Hiến pháp 1992 đã bỏ mất dòng chữ "mọi người đều có quyền tự do tư tưởng...". Nói chung trong toàn bộ bản Hiến pháp 1992, mấy chữ tự do tư tưởng được xem là huý kỵ. Một cách trắng trợn, Đảng buộc toàn dân tộc phải là nô lệ tư tưởng của Đảng. Điều này cần được sửa lại là: "Công dân có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, và tôn giáo; có quyền không theo hoặc theo một tôn giáo do mình lựa chọn; tự do bày tỏ, hoặc tuyên truyền về tôn giáo cho từng cá nhân hoặc nơi đông người. Các tôn giáo được bình đằng trước pháp luật. Nơi thừa tự của tín ngưỡng và tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Quyền này chỉ bị hạn chế khi nó xâm phạm đến các quyền tự do cơ bản khác của công dân, hoặc các quy định về an toàn sức khỏe, trật tự công cộng.

"Về điều 72: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt giam, bị giam giữ bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt giam, giam giữ truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh". Theo đúng như điều này thì Nghị định 31/CP ban hành ngày 14/4/1997 là hoàn toàn vi hiến. Yêu cầu xin hủy bỏ ngay nghị định 31/CP, đồng thời thả ngay những người bị xử lý sai và truy tố những người ra các quyết định vi phạm Hiến pháp.
7/3/2005
Nam Dao
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...