Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2024
Nhánh rong phiêu bạt
Chương 1
-Lỗ vốn ngất ngư, mấy anh nuôi gà. Hôm nọ ông Phán Mi bảo rằng
thằng rể của ông ấy cho mang ra chợ bán mấy con gà. Người ta trả hai trăm rưởi
một con, nuôi ròng rã bốn tháng trời. Mà nào chúng nó có chịu ăn cơm rơi nhà
mình? Phải cho ăn đồ ăn hóa học và cho ăn suốt ngày đêm. Lại còn phải mua rau
xà lách cho chúng ăn nữa cơ. Thôi thôi, cứ ta về ta tắm ao ta là hơn cả.
Cái nguýt của mụ kéo nửa vòng tròn.
— Hiệu Minh Châu hay Măng Non?
«Con lạy Trời lạy Phật cho gia đình con tai qua nạn khỏi. Con
lạy Trời lạy Phật. Má ơi!» Những hình thù bụi bờ, rẫy sắn ruộng mía nhòa dần
trước mắt nó. Đôi mắt nó đã đọng đầy nước mắt.
— Hay bún bò, bánh bèo Huế ở dưới Nhà giây thép?
— Nó nói nó có học Đệ Thất.
Thúy xinh đẹp đã là một điều đáng ghét, bây giờ phát giác ra
rằng Thúy có học khá, — khá hơn Bích Liễu, — thì Thúy càng trở nên đáng ghét
hơn. Đó là tâm lý của bà Đức Lợi.
— Ở nhà quê họ hô bài chòi. Em tả thằng hô bài chòi.
Bích Liễu tỏ dáng e ngại vì không biết tụi nó có thật u mê
như mình không.
— Sao chị lại lấy jupe, của em cho nó?
Trong khi chủ khách trao đổi những câu xã giao thường lệ thì ở
bên phòng ăn Thúy lo bưng túi bụi. Vừa bưng vừa nghĩ vẩn vơ đến một thứ lễ mới:
lễ sinh nhật. Từ nhỏ tới lớn, Thúy chưa hề nghe ai nói tới sinh nhật mà trong
gia đinh chỉ biết ngày kỵ tức là ngày chết của ông bà. Thúy hỏi chị bếp:
— Ứ ! Ứ! Đợi tao nói cho nghe. Áo đầm xin ở
Saïgon. Ừ, nó có bà cô lấy chồng Tàu ở Chợ lớn. Nhà bà cô giàu. Lâu lâu gởi ra
cho áo cũ của con bả.
Con Mực nằm trước hiên gừ gừ mấy tiếng. Cái cửa ngõ bằng
thanh gỗ ghép xộc xệch có chằng dây thép gai bị đẩy vẹt ra: dì Tám về. Con Mực
đứng dậy vẩy đuôi mừng. Dì bước vào vừa lên tiếng:
— Dì có nghe ở phía nào không?
Bà Đức Lợi vẫn không quay lại. Thúy bỏ giẻ lau đứng dậy, bước
ra cổng ngõ. Người đàn bà lạ mặt chồm tới hỏi:
Con cọp được chuyển vào đặt ở giữa xa lông. Cái miệng đỏ như
máu và hàm răng nhe ra. Nhưng dáng bộ không hung dữ như trong trí tưởng tượng của
Thúy. Nó chỉ đang đi tới trong một tư thế khoan thai. Tiếp theo, những người
lính bỏ xuống những giỏ lớn đựng đầy thịt nai tươi và khô, sừng nai, những giỏ
cam, giỏ chuối, giỏ măng và những giỏ có đựng nhiều gói không biết chứa gì
trong đó. Cả nhà tíu tít khiến Thúy thấy mình đứng dư ra đó. Không thể đưa tay
ra nhấc dùm những cái giỏ đầy ụ nặng trịch kia. Nó thành ra bơ vơ buồn bã, cảm
thấm thía nổi buồn của kẻ xa lạ. Ông đại úy thỉnh thoảng quét ngang qua nó một
cái nhìn xoi mói khiến nó càng áy náy thêm. Không thể bước ra vòng tay chào như
trong những cuốn sách Luân lý hay dạy vậy. Bởi không có một khoảng thời gian trống
nào để nó chen cái chào của nó vào. Bởi ông đại úy không có một phút đứng yên.
Ông bước tới, giơ tay, trở lui, ra lệnh, quát tháo, nhăn mặt, cười. Nó yên tâm
khi có tiếng chị bếp gọi nó xuống bếp sai bỏ thêm lò than mới, sai đổ đầy ấm nước,
sai mang dao thớt cho chị thái thịt.
— Nó đi đâu kệ nó, miễn là nó đi ra khỏi nhà mình.
Đến bến xe Lam, thím Sáu đẩy Thúy leo lên một chiếc xe còn trống
và thím leo lên ngồi cạnh. Kề bên Thúy là một người đàn ông đứng tuổi đang đưa
cánh tay níu lấy một thanh sắt chạy dọc theo trần xe. Cái áo sơ mi trắng cũ đã
đổi sang màu vàng và tiết ra mùi mồ hôi nồng nặc. Thúy bị ngồi ép chặt quá khiến
cặp đùi chừng như giẹp lại. Trước mặt Thúy có ba người đàn bà bán cá đang loay
hoay xếp những chiếc đòn gánh xuống sàn xe. Thúy đoán là bán cá vì mùi tanh nồng
phảng phất trong xe. Những người đàn bà thật bạo ngược. Cứ tự tiện xoay trở, gõ
đòn gánh lốc cốc vào mắt cá, vào cổ chân người khác.
— Tại sao đó chớ, tao hồi giờ đâu có nói sai?
Sự xay bột cho nó một kinh nghiệm về mọi công việc ở đời. Kéo
cái giằng xay chỉ nặng có vòng đầu, rồi sau đó thì nó cứ theo cái trớn mà vận
chuyển. Thật nhẹ nhàng. Nhưng đứng đẩy chừng mười phút thì mỏi chân, hai mươi
phút thì rã gối, một giờ thì bải hoải tứ chi. Nó tự nhủ: «May là từ xưa tới giờ
mình chưa rầy oan chị ở».
Một hôm nó ngủ dậy với một sự mệt mỏi dã dượi. Nó uể oải đổ gạo
vào cối, uể oải kéo giằng xay. Thớt cối đá nghe sao nặng hơn mọi ngày và dù đem
hết sức lực để đẩy tới và kéo lui mà chừng như nó chạy rất chậm. Cái trớn nhiều
lúc bị đứt ngang, bắt buộc nó phải gia thêm sức để hoặc kéo lui hoặc đẩy tới.
Xay được ba nhả thì mồ hôi nó tuôn ra ướt dầm nhơm nhớp nơi cổ, nơi lưng. Hơi
thở gấp và nhịp tim đập cũng gấp. Có lúc nó chợt cảm thấy một luồng lạnh chạy
nhanh theo cột xương sống chạy tỏa ra hai vai. Sức nặng của người nó đè lên tay
nắm của cái giằng xay, càng lúc càng đè nặng hơn… Trí óc hoang mang không còn
nhận thức sáng suốt đâu là cái đèn dầu hiu hắt, đâu là cái lò tráng bánh. Mọi vật
chập chờn trước mắt, quay cuồng xung quanh và tới một lằn mức vô hình nào đó
thì nó mất hết cảm giác. Người nó như chợt nhẹ hẩng đi. Nó nghe mơ hồ một tiếng
«rầm». Và sau đó nó không còn biết gì nữa.
— Rau muống đâu có bổ, con? Má đã hầm xương xúp cho con ăn,
xương xúp bổ và ngon hơn. Bát xương xúp để phần cho con đó. Đợi một lát cho bớt
nóng rồi con ăn.
Con heo được lật nằm qua phía kia. Bốn cái chân cùng chắp
ngay đơ như đang dự một cuộc tế lễ long trọng. Thím Sáu lại ngồi sà xuống quan
sát. Cũng lại cái bụng. Cũng lại cái cổ. Tới đây thì thím có vẻ lúng túng. Miệng
cứ lẩm nhẩm: «Uở lạ. Lạ quá.» Chú hỏi:
Nước vàng đục trải lênh láng khắp nơi trông thật dễ sợ. Nước
chảy len qua những khe hở cửa rào, của bụi cây, nước mang những đám bọt lớn màu
vàng, những cành cây, chà khô. Trông chú lò dò từng bước thật tội nghiệp. Chẳng
biết chỗ chân sắp bước tới là đất liền hay lỗ hũng. Nhiều lần chú loạng choạng
tưởng cả gánh cả chú đều ngã ùm xuống nước. Sự mệt nhọc làm thím hết rủa sả, hết
rầy la. May mà cơn mưa đã tạnh.
— Đó, bà con nghĩ coi. Vậy mà cũng cứ cãi tui đó. Để nước nó
chảy tuồng luông trong nhà thì đố khỏi vách không ngã sập xuống hết. Rồi đố khỏi
nước không mang cột mang kèo đi hết. Chồng con vậy đó. Trời ơi!
Chuyến xe hàng không làm cho nó chú ý nữa. Thì cũng những người
lạ mặt ngồi trước mặt, ngồi bên cạnh. Lần trước đi xe Lam ba bánh theo thím Sáu
thì cũng vậy, cũng những người lạ mặt ngồi trước mặt, ngồi bên cạnh. Phải dùng
tới xe đò thì đủ biết con đường xa. Nó không buồn hỏi mấy trăm cây số. Chỉ có
dì Tám tự động nói cho nó biết rằng: đường dài đâu một trăm cây. Cũng gần mà. Gần
hay xa, năm chục hay một trăm cây số đối với nó không thành vấn đề. Năm trăm
cây số, chín trăm cây số, may ra mới có sự khác biệt. Điều nó lo lắng là không
biết nó sẽ sống như thế nào giữa những người như thế nào. Chú Sáu thím Sáu dù
sao cũng là người dễ thương. Chú hiền lành và thím tuy có dữ hơn chú nhưng chưa
phải là người đanh ác. Cuộc sống cực nhọc về thể xác, — Thúy rùng mình nhớ lại
cái giằng xay trên đó nó đã tựa cả sức nặng của cái cơ thể rã rời của nó, —
nhưng nó có phần thoải mái vì tinh thần. Chú Sáu sẵn sàng nuôi nó làm con nếu
nó muốn. Thím cùng không mong có một đứa con xinh xắn và ngoan hơn nó. Tuổi quá
ba mươi bảy, lấy chồng mười chín năm rồi mà chưa có con thì coi như không luôn.
Đến chiều thì Thúy biết tên cái đám đông bao quanh nó đó. Tất
cả đều là con của bác Tư. Người con trai đầu tên là Giàu, mười bảy tuổi, tóc lè
phè trước trán, áo ca rô quần túm, ngồi trong nhà mà mang gương đen. Miệng luôn
luôn phì phèo Salem. Người con trai thứ hai, mười lăm tuổi tên Tiền, cũng áo ca
rô quần cao bồi và cũng phì phèo thuốc lá. Người con trai thứ ba, mười hai tuổi
tên Của, mặc quần đùi may ô và cũng phì phèo thuốc lá. Đứa con gái lên mười tuổi
tên là Lượm thì mũi cũng huếch lên như người mẹ. Đứa con gái út lên bảy tháng
thì chưa được đặt tên. Cả nhà cứ kêu bằng ‘‘em bé’’.
Bữa khác thì: Đù mẹ thằng Hai Ròm, bữa nay nó vớt hết của tao
một mối. Có con mẹ nhà quê đi thăm con ở trại Phan Năm, láng quáng lính quính
không biết ngỏ. Tao đòi một trăm, mụ năn nỉ tám chục. Tao làm bộ chê ít nhưng cứ
đạp lai rai theo sau ngó chừng. Đù mẹ, quẹo qua cua, một cái xe vận tải ầm ầm
chạy tới, làm nghẽn đường. Ở bên kia, thằng Hai Ròm vớt con mẹ đạp đi tuốt. Đù
mẹ bữa nay nhằm ngày gì mà xui. Đạp không quá ba trăm thước, ăn ngon lành tám
chục. Đù mẹ, mà cũng tại mình ham.
Chị đàn bà đứng chặm nước mắt.
TRẬN đòn nặng hơn Thúy tưởng. Bởi người ta không tin là nó
nói thật. Bởi người ta nghĩ, — một cách rất hợp lý, — là nó thấy nhiều tiền
trong cái gói đó, nó tham, đem giấu đi ở một chỗ nào rồi nó nói dối. Một đứa nhỏ
cùi đày như nó mà nói chuyện nhân đạo thì không ai có thể tin được. Chỉ có tham
lam và nói dối là dễ tin mà thôi. Vậy thì trận đòn bắt đầu là để tra khảo.
Ông thầy hé hé con mắt nhìn thái độ của bác Tư gái thì thấy
bác ra hiệu cho bác Tư trai bằng cách chỉa một ngón tay trỏ chọt chọt nhiều lần
về mình. Miệng thì thầm cái gì đó, ông không dám hé to mắt để coi nên không hiểu
rõ. Nhưng ông đủ thông minh để đoán tâm lý của họ. Ông nói:
Thân chủ ném đồng tiền xuống mặt vải. Ông thầy lấy ngón tay
mò. Rồi lại thu tiền giao cho thân chủ bảo gieo nữa. Cô Ngà lại ném xuống và
ông thầy lại lấy tay mò. Phải bốn lần như vậy, ông thầy mới thu tiền về, trầm
ngâm suy nghĩ. Thân chủ hồi hộp chong mắt nhìn thầy và lần nào Thúy cũng thấy hồi
hộp Ịây. Thầy đằng hắng một tiếng lớn làm thân chủ giật mình rồi mới khề khà
bình giải lời Thánh dạy.
Thúy liu riu lại đứng ở chỗ ông cảnh sát chỉ. Trong khi đó
thì mấy người lính kia đang coi giấy tờ của anh Bỉnh và anh Lược, ông cảnh sát
lại gần.
Một cô bé học sinh nhỏ hơn nó chợt đi qua cạnh nó. Cô bé mặc
jupe trắng, xếp li thẳng, xòe ra đều đặn và trắng muốt, và nhẹ mỏng như cánh
tràng của một cái hoa. Đôi bắp chân thon. Bàn chân nhỏ mang giày da láng màu trắng.
Sơ mi ngắn tay bằng thứ hàng mỏng và xốp cũng một màu trắng tinh. Thúy có cảm
tưởng thứ hàng mỏng đó vừa che được nắng mà vừa hứng được gió hoặc tạo được ra
gió. Da ở cánh tay, da ở bắp chân tha hồ mà hưởng gió mát. Trên đầu đội một cái
mũ rộng vành cũng màu trắng. Cô học sinh trong sạch, tươi mát như một đóa hoa
còn ướt sương.
Tiếng nó mất hút khi chạy quá góc nhà. Thúy lửng thửng bước
đi. Cái còi lại đặt lên miệng thổi te te. Tuy thu vào được có năm đồng nhưng nó
thấy vui. Hai đứa nhỏ ngây thơ, cãi nhau đó rồi lại chơi thân với nhau đó. Cả
ngày, cười đó rồi khóc đó, khóc xong trở sang cười.
Thúy quay bước đi về ngã Trần nguyên Hãn. Đôi mắt gườm gườm,
làn môi mỏng bẹt của thằng gầy cứ hiển hiện ra trước mắt. Rồi nó sẽ trả thù nữa,
sẽ trả thù mãi cho dù những người khác không ai tin là nó có thể thắng nổi thằng
mập. Nhưng mà nó cứ trả thù, cứ nhào tới đánh. Bị xước da, u đầu, tét trán cũng
không cần. Dẫu có bị đánh mười thoi cũng hi vọng đấm lại nó được hai. Sự gan dạ,
lòng tin tưởng thật đã mãnh liệt. Nó bất chấp sự chênh lệch rõ ràng của sức
vóc. Cái gì làm cho thằng đó không sợ đau. Niềm kiêu hãnh? Lòng tự ái? Ừ, có lẽ
khi tự ái nổi lên nó không thấy đau nữa thật. Nó chỉ nghĩ tới: phải đánh cho
trúng, phải đấm cho đau, phải thắng thằng đó. Chỉ có những ý nghĩ đó trong đầu,
nó không kịp thấy sợ nữa.
Thúy xếp gọn một tờ bỏ tủi, tờ kia cầm ngửa trên tay. “Hãy bắt
đầu sự học bằng bảng kê động từ bất quy này. Khi đã thuộc hết thì có thể học một
cuốn từ điển Anh Việt. Cứ học đã, tới đâu chưa biết”, nó thầm nhủ với nó như vậy.
Khi em bé trở lại thối tiền, cuộc đối thoại lại tiếp tục. Cô
dược sĩ hỏi trước:
Khi Trâm rót đầy Bireley’s vào cái cốc đặt trước mặt Thúy, nó
nói:
— Ví dụ hai người chung nhau mua một đống củi, một mớ xoài, một con cá thu to Đem chia làm hai phần thì thế nào cũng có phần hơn phần kém. Kém một chút thôi, nhưng phần nào hơn phần nào kém, cả hai đều biết. Và trong thâm tâm ai cũng muốn phần hơn về mình. Vậy thì khi nhận phần, con hãy nhận phần kém đó. Người kia sẽ hả dạ, sẽ vui, sẽ giữ cảm tình với con, sẽ thích gặp con lần thứ hai, lần thứ ba. Mà hỏi con có thua thiệt gì nhiều đâu? Cái phần lấn hơn, — nếu nói về món ăn, — chỉ đủ cho con nuốt thêm một miếng. Đâu có béo bổ gì bao lăm? Đâu có đáng để cho con tranh giành hay mưu toan tính toán trong óc?
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Hoa Kỳ biến thể
Hoa Kỳ biến thể Hoa Kỳ từ trước đến giờ vẫn là quán quân cho các lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng và phát triển cho toàn cầu...
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg-mtkJrKK_-MpQJZUfTAYdG3uge_q700e6Z051X12vyD9GjrLzv2FU1kAsehwkPKayqbtZCPb3F21o7TuVdc3xQDOci2CHy7h8ccQIwdDbMHg1V3a0Sl34c02h0tvI7D7j6UOA5yTUrYV8WW-Oc2OH7f8nMgKDlKVX-ZK8iv782mJnFWeHvNSRpKZa8PAE/w177-h200/voDinh.jpg)
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét