Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

Chính danh gọi Tễu

Chính danh gọi Tễu...

1. Chính danh gọi Tễu,
Đấy là một gã đặc biệt. Đặc biệt người, đặc biệt thơ. Cứ nhìn cách gã đặt tên cho những đứa con tinh thần của gã-các tập thơ là đủ thấy: Lời thề cỏ may I-II-III, rồi Cỏ may thi tập ; Phồn thi I-II và tới đây là Phồn thi III, để hoàn tất thành Phồn tập.
Tôi thì nhất quyết gọi gã là Tễu. Đơn giản bởi tôi thấy gã đã tự họa chân dung mình khá ấn tượng trong bài thơ Tễu:
Cởi trần đống khố múa chơi
Hát rằng, giữa đất và trời có ta
Đất là mẹ, trời là cha
Chính danh là Tễu, tự là Thảo Dân...
Còn tên khai sinh do cha mẹ đặt cho là Phạm Công Trứ - Tiến sĩ Luật - Nhà thơ - Nhà báo.  
Thật khốn khổ cho cái thân gã, sinh ra lớn lên đã phải mang vác những tên tuổi lớn trên thân xác cực kỳ quê mùa của mình.
Thoạt đầu là cái tên. Công Trứ, khiến người ta nhớ đến danh nhân Nguyễn Công Trứ- Doanh điền sứ, nhà thơ và nhà khẩn hoang lỗi lạc của đất Việt thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19. Có lẽ cha mẹ gã, những nông dân của vùng đất biển bồi Hải Hậu (Nam Định) vốn là những người hiểu biết nên lấy tên Công Trứ  đặt cho gã, một để tỏ lòng kính trọng với danh nhân Nguyễn Công Trứ, người đã có công sáng lập ra hai huyện nguyên là vùng đất mới bồi, Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn  (Ninh Bình), hơn nữa, cũng là sự kỳ vọng vào tương lai của gã. Hẳn sau này, nếu tài danh không mấy nổi thì gã cũng có cớ để biện bạch rằng, vị danh nhân kia họ Nguyễn, còn gã họ Phạm.
Khốn nỗi, chẳng hiểu gã có biết rằng, trong lịch sử xa xưa, còn có một người trùng danh tính với gã, song lại rất nổi tiếng, ấy là Phạm Công Trứ, một nhà chính trị danh tiếng, nhà sử học thời Lê, đầu thế kỷ 17. Ông này sinh năm 1600, quê Liêu Xuyên, Đường Hào (Hưng Yên), đậu tiến sĩ năm 1628, làm quan to trải các chức Đô ngự sử, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Lại, Tham tụng phủ Chúa, tước Yến quận công, người từng được nhà vua giao trọng trách cùng với cộng sự đương triều sửa chữa và duyệt bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư .
Thôi rồi, gã hết đường biện bạch nếu chẳng may sự nghiệp không thành. May thay, gã không hổ danh đội tên danh sĩ, danh nhân, dù thân xác quê mùa, trí tuệ chú Tễu. đã từng đứng trên bục giảng của giảng đường đại học mà cao giọng giảng luật học, cũng tiến sĩ và thơ phú như ai, lại thêm cái danh nhà báo, dẫu chẳng dám so sánh với tiền nhân, thì cũng có thể tự hào mà đứng trong trời đất này!...
Tôi biết Phạm Công Trứ khi đã nổi danh với bài thơ Lời thề cỏ may, sau cả khi lấy bằng Phó tiến sĩ Luật từ Liên Xô về, làm việc tại Báo Pháp luật, và còn độc thân. Trứ tuổi Quý Tỵ, tôi tuổi Đinh Dậu, hơn kém những 4 tuổi, song chơi ngang hàng, xưng hô ông-tôi thân mật. Chúng tôi biết nhau nhờ cùng là cộng tác viên của Báo Nông nghiệp Việt Nam. Biết thì thế, song chơi được với nhau lại qua trung gian là Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh  (khi ấy là Phó Tổng biên tập Báo NNVN). Tiếng là thân, nhưng không gần. Cứ ai việc nấy, lâu lâu gặp nhau do hẹn hò hoặc tình cờ thì vẫn có chuyện để mà nói. Ngồi với nhau, lúc tại công sở, khi nhâm nhi tách cà-phê nơi quán xá, đủ độ thân để thật lòng chuyện nghề, chuyện thơ văn, chuyện gia đình, chuyện đời... Khi nghe nhau nói, lúc hăng lên cùng tranh nhau nói, một bộc trực to tát, một uyển chuyển nhỏ nhẹ hơn, và chưa bao giờ bất đồng hoặc gay gắt đến phát cáu, đến mức một ai đó phải bỏ đi trước. 
Song le, nhắc đến Phạm Công Trứ, thì phải nói đến thơ của gã. Thơ lại dăm bảy loại, Phạm Công Trứ chỉ gắn với thơ lục bát thôi. Thế quả có thiệt cho gã, bởi thơ không lục bát gã cũng có ối bài hay, song người đời đã nghĩ thế, cho là thế, nên đành vậy, thanh minh mà làm gì.
Như một định mệnh, Phạm Công Trứ đến với người yêu thơ bằng lục bát Lời thề cỏ may, rồi cứ đà tiếp mạch nguồn tuôn chảy. Hễ đụng đến lục bát là ngòi bút của gã trơn tru, tung tẩy, uyển chuyển làm sao. Tôi biết, với ngần ấy tập thơ, Phạm Công Trứ đã được nhiều nhà phê bình thơ để mắt, săm soi, và trong số đó, đáng kể là Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Vũ Nho và Chu Văn Sơn. Khen chê đủ mùi, có cả chuyện bảo gã ngồi vào chiếu của Nguyễn Bính. Dẫu vậy thì có sao đâu.
Quả thật, Phạm Công Trứ sở trường về thơ lục bát. Song le, khốn nạn thay cho gã, ngay cái tên đã đội danh nhân lên đầu, đến nghiệp thơ cũng không thoát khỏi kiếp con rùa vào chùa đội hạc ra đình đội bia , phải đội các bậc cao thủ  tiền bối thơ lục bát là Nguyễn Du, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Bính. Là kẻ hậu sinh, dẫu chỉ bén gót các bậc danh tài tiền bối cũng chẳng có gì xấu hổ. Xét hiện tại, trong làng thi ca Việt mình, chiếu thơ lục bát có mấy người thành danh thì trong số ấy cũng có tên gã. Bốn người ngồi bốn góc: Nguyễn Duy-Lê Đình Cánh-Phạm Công Trứ-Đồng Đức Bốn, mỗi người riêng một vẻ hay.
Chơi với Phạm Công Trứ, cũng thích nhiều bài thơ của gã, tôi đã tự chọn và bình dăm ba bài, đăng báo chỗ này chỗ nọ. Lẽ dĩ nhiên, cũng na ná những bài viết của làng phê bình ta, khen một tý và chê một tý, rồi cộng thêm tham số hy vọng bằng kết quả bài thơ (tập thơ). Tôi không thông báo, cũng chẳng kể công gì với gã, song gã để ý và gom góp đủ cả. Lại còn tuyên bố, khi làm tuyển các bài giới thiệu phê bình thơ gã, thì gã sẽ chọn lựa đưa vào. Không rõ đến bao giờ gã mới làm cái tuyển đó? A ha, gã đã vậy thì sợ gì mà không biếm họa chân dung gã?
Tôi từng viết một bài tạp văn Sân trăng (in trong tập Lên núi tầm mai - NXB Văn học-2005 ), lấy cảm hứng từ mấy câu thơ của gã: " ... Vợ thì mặt khó đăm đăm/ Con thì ọ oẹ đái dầm cả đêm/ Mình thì ngồi xuống đứng lên/ Trăng thì cứ vãy đầy thêm như trêu ". Tôi gán chàng thi sĩ trong tạp văn ấy vào gã, và còn rủa khéo, bảo gã hãy bỏ cái chốn phồn hoa đô hội mà về quê cày cuốc cấy hái, để rồi tha hồ ngắm trăng. Gã biết, không giận bạn, mà lại cười hiền.
Thoạt trông tướng gã quê quê, lại thêm ẩm ương thơ phú, nhiều người lo không biết gã làm gì ra tiền để nuôi vợ con (một vợ, hai con - đủ cả nếp tẻ). Đùng một cái, gã mua đất xây nhà lầu ở Cầu Giấy. Xây nhà rồi, lại còn bắt chước người xưa đặt tên chữ nữa. Thảo am thì quyết không phải rồi, thế thì phải là hiên, hoặc các, lâu chi đó. Kể từ đấy, nhiều bài thơ, gã đề bên dưới là Quan Hoa các, hoặc giả Nghênh Phong hiên, hay Vọng Nguyệt lâu...cho thêm phần nho nhã. Vậy mà Tễu, một kẻ đặc quê mùa và láu cá lại được ra đời từ đấy.
Đa phần người yêu thơ, biết đến Phạm Công Trứ là nhờ Lời thế cỏ may. Hẳn tự thân gã cũng nghĩ vậy, thế nên mới có chuyện gã lấy tên một bài đặt cho cả tập, rồi không những một mà cả ba tập, lại còn thành tên tuyển. Tôi biết, trong cuộc đời, đã có bao nhiêu cô gái sướt mướt chùi nước mắt, bao kẻ ngậm ngùi nhớ về cái thuở "ngồi gỡ lời thề cỏ may". Song chuyện gió trăng ấy chỉ là những phút thăng hoa ban đầu dễ làm người ta lầm tưởng, thực ra, không mấy hợp cái tạng của gã. Gã là folklore, gã tưng tửng mang mình ra mà tự trào để rồi bông lơn, trêu ghẹo, châm chọc cả  làng, cả tổng, cả thiên hạ.(Đâu kém cạnh gì các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương cùng quê với gã). Tôi lại cho rằng, sự nghiệp thi ca của gã là ở trâu với cỏ, là ở Bờm với Cuội, là ở Tễu kia.
Tễu sinh ra ở quê, đích thị nông dân. Ở quê, Tễu là đệ nhất, đếch sợ bố con thằng nào. Vậy nên, Tễu mới "cởi trần đóng khố múa chơi". Hãy xem cái chú Tễu của gã tự bạch: "Đất là mẹ, trời là cha/ Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân/ Gia tài độc một chữ cần/ Trọng thực thường lấy chữ ăn làm đầu / Bạn thì những chó cùng trâu...". Nhưng đâu chỉ lầm lụi, hèn mọn, cần lao,Tễu bình thường cam phận là thế: "Ra trận đành phận tốt đầu/ Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng", song lúc máu yêng hùng nổi lên thì nhất là bét nhé: "Kéo cày đã cực chai lỳ/ Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta". Gì thì gì, Tễu vẫn biết và trở về với thân phận giáo trò của mình.
Đấy là Tễu gốc. Biến tướng sang Tễu II , Tễu ta không còn chính hiệu nông dân nữa, mà đã nhuốm màu thị dân rồi. Nghĩ phận mình bèo bọt, cỏ rả "Độc một mảnh vải che thân/ Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi", Tễu đâu tài cán như Trạng tiên tri mà biết, chỉ là chó ngáp phải ruồi, há miệng chờ sung may sung rụng thôi: "Ai ngờ dân dã lên ngôi/ Thế rồi Tễu cùng được ngồi máy bay". Tễu ta ngồi máy bay, nhòm xuống nhân gian thấy dân làng mình cấy cày vất vả, mới ô hay biết phận mình bấy lâu là thế. Rồi trải đất Tàu trời Tây, diễn trò đồng áng, thảo dân ma lanh hết xứ gà trống đến xứ sương mù, trở về quê, chợt thấy mình không còn là nông dân nữa. Vậy không là nông dân thì là ai? Là thị dân chứ còn gì. Nhưng muốn thành thị dân thì cũng phải có điều kiện gì chứ? Đơn giản thôi, thì cứ  "sống lâu ở phố/ hóa thành thị dân ".
Thế là thành Tễu III, thị dân, kiêm nghệ sĩ. Tễu-thị dân khác hẳn với Tễu-nhà quê hồi mới bén mảng ra phố "Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân".  Thêm nữa, sau lần đầu xuất ngoại, Tễu ta quen mui. Bây giờ xuất ngoại với Tễu không còn là may, đã thành chuyện cơm bữa. Tễu biểu diễn chuyên nghiệp, mặc thì quen với gi-lê, mũ phớt, ăn thì quen xúc-xích, dăm-bông, màn-thầu, sủi-cảo, nói năng thì gút-bai, nỉ-hảo... Đấy là trước đám đông Tây Tàu bộ tịch thế thôi, chứ hễ xong việc trở về, Tễu ta chỉ dễ chịu khi là chính mình, với khố áo, với tre trúc ngõ quê, với ao bèo sân đình, với ối a điệu chèo và câu dân ca não buồn giã bạn đếm trăng.
Tễu ta đành lột xác, song chớ trêu thay, nỗi ám ảnh nông dân bám lấy Tễu, lẽo đẽo theo đi mọi lúc mọi nơi, trung thành và nhẫn nại. Kỳ thực, bước ra với đời thì cũng bộ tịch thế thôi, chứ sâu thẳm cõi lòng, nếp văn hóa làng quê Việt luôn ẩn chứa "Này nước tre trúc lung linh/ Này mây lồng bóng thủy đình gần xa". Kỳ cùng cho đến một ngày kia, con cháu Tễu tiễn đưa Tễu về nằm lại nghĩa địa làng bằng một đám rước ra trò!... Song trước khi sắp đặt sẵn cho Tễu một kết cục bi hài, hãy xem Tễu ta sống ở phố thế nào, ăn ở với dân khối phố, đối xử với kẻ phường ra sao?
Tễu ta, thị dân: "Thị dân trong mặc/ Váy áo ngắn dần/ Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/ Nhà ống mái tôn/ Thị dân phát ngôn/ Cám ơn! Hân hạnh/ Thích coi phim ảnh/ Thuê đĩa xi-đi/ Muốn uống cà phê/ Quán vườn mờ ảo/ Rất chăm đi dạo/ Vì ngại bụng to/ Cần gọi xích lô/ Thì ra đầu phố/ Thuê một tốp thợ/ Cứ đến chợ người/ Cả đến khóc cười/ Cũng có dịch vụ...". Mọi việc dễ ợt, như là lẽ đương nhiên. Ở quê khó hơn nhiều.
 Quanh đi quẩn lại, Tễu thấy mình chỉ có thể về quê, đánh bạn với trâu. Đấy là con vật luôn gần gũi, thân mật với mình, buồn vui chia xẻ cùng mình. Tễu nhận mình là Thảo Dân. Trâu lại là bạn của thảo dân: "Từ ngày về với thảo dân/ Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn/ Trưa hè nước bỏng như đun/ Chiều đông sương muối rét run từng hồi/ Vụ năm cho chí vụ mười/ Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn/ Lòng riêng thoáng chút lăn tăn/ Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời”
Xin được nhắc lại, gã biết tuốt song giả ngây giả ngô, tưng tửng, chất chưởng, chẳng ngại gì và cũng không ngán ai. Thấy chướng tai gai mắt là phê, là trào lộng. Bây giờ thì gã quen với cái giọng điệu này rồi. Châm chọc, chê bai rồi gã cười. Cười chán cười chê, cười đến trào nước mắt. Rồi gã giật mình, tỉnh ngộ. Lại buồn, lại hoài cổ, hoài quê... Thân phận gã đâu khác thân phận Tễu kia chứ?!
Khi ngồi với vài ba bạn bè thân mật, lúc ngồi riêng với tôi, Phạm Công Trứ không tiếc lời khen chúng bạn, rằng ông này nhàn, cậu kia thì sướng, tay nọ khôn ngoan...chỉ riêng gã là khổ. Cơ khổ. Rằng cái mặt gã... ý muốn nói là khó coi, khó chơi, hãm tài...! Có phải vậy không? Có lần tôi giở trò chữ nghĩa suy luận, mang tên gã ra chiết tự mà đoán: Trứ , có nghĩa là sự rõ ràng, còn chỉ sự soạn thuật, làm văn, làm sách (theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh), chữ này bao gồm chữ giả và bộ thảo đầu. Giả ở đây là chỉ người (như học giả, hiền giả), còn bộ thảo chỉ cây cỏ. Vậy là kẻ đội tên Trứ muốn thành  giả (như tác giả thi ca chẳng hạn) là phải nhập vào cây cỏ. Chẳng trách, thoạt đầu gã thành danh là nhờ cỏ may. Rồi để nổi tiếng hơn lên, gã phải gắn với trâu, với cỏ, rồi hóa thân vào Bờm, vào Cuội, vào Tễu, toàn những loại gần gũi thân thuộc với thôn xóm, với chuyện cỏ rơm và công việc nông phu.
Phạm Công Trứ nghe. Gã gật gù cười ra chiều tán đồng, lại như nghi ngờ. Thì cũng là chuyện vui thôi mà. Định viết thêm về gã, song thấy chẳng hơn gì gã tự bạch rất ngắn gọn: "Đúng là/ Hồn gửi ngõ quê/ Xác chôn hẻm phố/ Chưa giây phút thăng thiên/ Đã đôi lần thất thố/ Nhờ câu thơ làm tin/ Lấy đức năng thắng số/ Sớm muộn trời gọi mình/ Việc chi mà lo sợ".
Không những thế, ở phần V bài Thơ phú giao duyên , gã thẳng thắn tự giễu cợt mình: "Nửa kim nửa cổ/ Dăm câu trần tình/ Vừa thơ, vừa phú/ Chắp nhặt linh tinh/ Nếu có điều gì/  Xin được lượng thứ/ Hoặc nữa: chấp chi / Hắn-Phạm Công Trứ!".
Gã đã chơi bài ngửa, trắng phớ trước bàn dân thiên hạ.Trước tiên, gã lấy bản thân ra mà châm biếm cái đã (kiểu như cụ Tú Xương, người cùng quê Nam Định với gã, tự rủa mình là kẻ cao lâu thường ăn quỵt, thổ đĩ lại chơi lường, rồi mới xỏ đổng thiên hạ ; hoặc như bạn thơ cùng thời là Trần Đăng Khoa, trước khi chê cả làng văn chương thì hạ mình tự nhận là kẻ vô tích sự). Đến ngay cái thân mình cũng chẳng buồn nương tay, thề thì thương xót và nương nhẹ  ai đây?!...
2. Tự là Thảo Dân
Có một dạo Phạm Công Trứ  được giao phụ trách chuyên tở Pháp luật cuối tháng. Trong đó có nhiều chuyên mục, khó nhất là một chuyện mục ửa báo nửa văn, chuyện pháp luật, xã hội, đời sống, hầm bà làng, độ dưới nghìn từ. Bí bài, Phạm Công Trứ cầu cứu đến tôi. Chẳng là, ngày ấy, tôi là Phó trưởng ban Văn hóa xã hội Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), nội dung công việc hàng ngày liên quan đến các vấn đề văn hóa-xã hội, đời sống-pháp luật mà Phạm Công Trứ  đang cần. Các thể loại ngắn như tản văn, tạp bút, câu chuyện là nghề của tôi. Vậy là tôi nhận lời giữ mục cho Phạm Công Trứ cầm cự vài năm. Lẽ dĩ nhiên, còn có thêm bài viết của người khác để chuyên mục đa dạng, nhiều giọng điệu, đỡ nhàm, và phòng khi tôi quá bận việc hoặc bí đề tài... Nhân đây, tôi cũng phải cảm ơn Phạm Công Trứ, bởi nhờ giữ mục cho tờ báo của gã, tôi buộc phải vắt óc để viết bài đặng kịp ngày ra báo. Những bài viết tạp bút, tản văn đó, sau này tôi nhuận sắc được tập sách khá dày dặn sạch sẽ (Lên núi tầm mai, NXB Văn học, 2005).
  Vì cộng tác cùng nhau, nên tôi và Phạm Công Trứ hay gặp gỡ, chuyện trò. Đây cũng là thời kỳ Phạm Công Trứ sung sức nhất. Cùng với các tác phẩm thơ xuất bản Phạm Công Trứ tặng, tôi còn được nghe gã đọc thơ và chiếm phiếm về thi ca mình và làng thơ nói chung nên tôi có nhiều tư liệu để viết phần đầu chân dung ông (Chính danh gọi Tễu). Sau này, tôi đăng bài viết chân dung Phạm Công Trứ trên mạng xã hội (blogtiengviet.net), nhiều người vào dọc, thích thú, cảm nhận và còn cung cấp thêm một số chuyện mà họ biết hoặc nghe nói về gã. Ví như, một người sống ở Vũng Tàu, bảo là rất thích câu thơ hay của Phạm Công Trứ “Mướp tàn sen cũng đi tu/ Lá tre đã thả một mùa heo may/ Con sông không ốm mà gày/ Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn”. Khi ấy tôi mới giật mình tự trách  sao mình lại bỏ sót câu thơ rất gợi này. Lại có người thóc mách chuyện thời Phạm Công Trứ sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh ngành Luật, vì chuyện cơm áo đã cùng người ta buôn hàng này nọ, rồi cả chuyện nuôi chó Nhật theo phong trào, mua phải một con bị mùa mắt, bán lỗ vốn, xót tiền cay đắng than giễu chỉ vào con chó mà rằng “Giời ơi là giời, sao giời không để tao mù lại bắt mày mù cho khổ thân tao”. Có người lại kể chuyện Trần Đăng Khoa (khi ấy đang là sinh viên Trường viết văn Gorky) trêu Phạm Công Trứ xuất khẩu thành thi rằng: “Đã Nguyễn Công rồi... lại Phạm Công/ Tưởng là Thi sĩ hóa ra không/ Sang Tây nghiên cứu không mang sách/ Đầy bụng si ngực với si mông”. Ôi, ngày ấy, nhãng học đi buôn là chuyện của nhiều người chứ đâu mình Trứ. Nghĩ mà thương gã một thì tủi cho trí thức xứ ta mười. bươn chải kiếm ăn một thời nghèo khó.
Trở lại, chuyện thơ ca Phạm Công Trứ, những thứ làm nên một tên tuổi làng Lục bát Việt Nam hiện đại.
Tôi nhớ, có một dạo, đâu như quãng những năm đầu thế kỷ 21, sau những thành công ở thể loại thơ lục bát ngắn (chủ yếu in trong Phồn thi), Phạm Công Trứ có vẻ chán, và ông bắt đầu thử sức mình ở dạng dài hơi, mà điển hình là Làng phố giao duyên. Có thể gọi đây là trường ca. Mà gã Thảo Dân này cũng chẳng cần di đâu xa, cứ lấy nguyên mẫu là cái làng quê lão thuộc vùng Hải Hậu, Nam Định ra mà tả, mà kể, mà giễu cợt, mà thương nhớ xót xa,... thì đã thành thơ rồi. Cũng như cái làng Đại Hoàng thời Nam Cao hoa thân thành làng Vũ Đại, đại diện cho làng quê Bắc bộ Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, thì nay làng quê của Phạm Công Trứ ở chốn Hải Hậu có thể thay mặt cho làng quê xứ Việt mình buổi cựa mình, đổi mới vươn lên thoát nghèo. Bề bộn và nham nhở lắm, biết bao chuyện dở khóc dở cười với hiện trang “làng nửa phố, phố nửa làng”,... Làng phố giao đuyên của Phạm Công Trứ ra đời tròng hoản cảnh ấy,...
Chẳng cần phải kiếm tìm ở đâu vì tất cả có sẵn trong li ti huyết mạch của gã “chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân” này rồi. Thì đây: “Từ trong bụng mẹ sinh ra/ Chẳng dòng quý tộc chỉ là thường dân/ Thường dân thân tự lập thân/ Chẳng mơ có được quý nhân độ trì”....Mặc dù, già nửa đời người, những Tây học, tiến sĩ, triết gia này nọ, sống ở phố, làm báo đi đây đó khắp thế gian, nhưng sểnh ra cái, gã lại hiện nguyên hình là một tay nhà quê, với cỏ rả, bùn đất đồng áng: “Cỏ may, sao lại cỏ may/ Không hương, không sắc dựng đầy bờ đê/ Nhớ đồng, nhằm biển anh về/ Gỡ cỏ sống lại lời thề ngày xưa”, rồi chuồn chuồn bươm bướm từ thuở trẻ trâu: “Rón rén là rón rén ơi/ Chú chuồn ớt mới đậu rồi, tóm ngay/ Rón rén là rón rén này/ Nàng bướm trắng lại vút bay mất rồi”...
Rồi cũng Tự bạch, Trích ngang đủ kiểu, song khi cần phải tự hào thì gã chẳng có gì, ngoài cái mà gã gọi bằng tên chữ nghĩa mỹ miều, ấy là hồn quê: “Hồn quê vi vút phiêu diêu / ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên/ Nghèo là nghèo bạc, nghèo tiền/ Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo”. Rõ là buồn cười, nhưng gã đâu có ngại ai cười chê là nhà quê, thậm chí còn thấy hả hê, hào hứng rất chi là cùn: “Tắm truồng thú của trẻ quê/ Ra phố là hết đam mê tắm truồng/ Về quê tìm lại cội nguồn/ Hòa cùng lũ trẻ “diễn tuồng” trên sông”...Lấy các mỹ từ “hồn quê”, “hồn hậu”  ra để biện minh cho vẻ chất phác, thật thà, và cả những thứ “thiếu văn minh” như tắm truồng là trò láu cá của gã....
Là trường ca thì cũng phải có chương hồi chứ, nên gã đành bày đặt băm chặt ra cho đủ (nào những Mở, Ngày xưa, Tự bạch, Trích ngang, Làng, Đáng sinh thành, Viết cho con, Phố, Hà Thành hồi cổ, Hai khúc sông Tô, Làng trong phố, Phố nửa làng... và kết thúc ở Khép). Và một khi là trường ca thì kiểu gì phải kể chuyện rồi. Mà kể thì khó tránh khỏi “con cà con kê”, “ngồi lê đôi mách”, thế nên, dù có chữ nghĩa đến mấy, tác giả cũng dễ sa đà, sơ sẩy, câu độn chữ thừa. Phạm Công Trú không phải là một ngoại lệ. Ở trường ca Làng phố giao duyên, ngươi ta bắt gặp một Phạm Công Trứ kể lể, nhưng bằng một giọng điệu hóm hỉnh nên bớt nhàm. Thêm nữa, Phạm Công Trứ là người lắm chiêu trò, nhiều khi hóa thân thành gã dân quê mượn đồng dao mà kể. Ví như: “... Ngày xưa/ Kéo cưa lừa xẻ/ Chẳng hám cơm Vua / Chỉ mong được thua/ Về bú tí mẹ (!)/ Ngày xưa/ Mặc quần thủng đít/ Chi chi chành chành/ Quả ổi quả chanh/ Gốc na gốc mít/ Ríu ra ríu rít/ Ngày xưa/ Đung đưa hoa bìm/ Lim dim hoa khế/ Sao mẹ đi chợ lâu thế?/ Ngày xưa/ Đi trốn / Đi tìm/ Đống rơm, đống rạ/ Góc bếp, cánh cửa / He hé mắt nhìn/ "ù oà", "ù ập"/ Thế là ú tim!/ Ngày xưa rất bướm/ Ngày xưa rất hoa/ Nào thuyền gấp giấy/ Nào trâu lá đa/ Ngày xưa rất bạn/ Ngày xưa rất ta/ Lăn tăn cỏ chỉ/ Rung rung cỏ gà/ Ngày xưa rất sâu/ Ngày xưa rất xa/ Quanh quanh bể nước/ Men men thềm nhà...”.
Rồi nữa, Phạm Công Trứ kể chuyện,  lúc mượn giọng điệu phú, khi lai lối hát văn biền ngẫu, miên man, khiến người ta mất phương hướng, lạc lối mà sa vào trận đồ chữ nghĩa của mình:  “Tháng chín bước sang tháng mười/ Cốm mới thơm mùi mời gọi/ Rải đồng chim ngói từng đàn/ Thôn xóm bước vào mùa cưới/ Cô dâu nửa khóc nửa cười/ Chú rể mong trời chóng tối/ Lúa chiêm cấy hái xong xuôi/ Tết Ta cũng vừa kịp tới/ Nhà nhà gói bánh, đồ xôi/ Giồng nêu, quét lại tường mới/ Sân đình náo nức cờ người/ Ao làng om thòm diễn rối/ Thôn nữ váy ngắn nhún đu/ Các cụ ngước nhìn không nói,... / Cảnh quê bao đời tiếp nối/ Trâu bò gặm cỏ triền đê/ Lông mượt vo ve ruồi muỗi/ Nối đuôi từng đàn chiều về/ Thậm thịch chìm vào ngõ tối/ Mục đồng tóc gió vàng hoe/ Sáo trúc lưng trâu nhẹ thổi/ Bập bùng ánh lửa bên hè/ Mùi cơm quyện vào mùi khói/ Lấp ló trên đầu ngọn tre/ Trăng non cong hình lưỡi hái/ Dưới trăng trai gái nguyện thề/ Thầm thì bãi dâu, ruộng cói/ Vi vu suốt cả đêm quê/ Sáo diều rót vào tận cửa/ Làm tắt những tiếng ve ve/ Xua tan một ngày nắng lửa / Đuổi nhau đom đóm nhập nhoè/ Ôm nhau ếch nhái sấp ngửa/ Cót két gió vặn thân tre/ Tưởng tiếng dân nghèo than thở/ Lấp loáng cánh dơi đi về/Mèo hoang từng hồi nức nở/ Lửa chài thấp thoáng ven đê/ Bờ bụi nhọc nhằn tiếng c/ Kẽo kẹt bên sông vó bè/ Ma trơi trên cồn nhảy múa/ Say rượu giọng ai lè nhè/ Vu vơ đôi tiếng chó sủa/ Đều đều mẹ kể con nghe/ Cái thời ngày xưa ngày xửa./ Bến sông trăng ném thia lia/Thôn xóm chìm vào giấc ngủ/ Ngoài ngõ sương giăng đầm đìa/ Trong nhà tiếng người nói mớ/ Mảnh mai tiếng hạc về khuya/ Chém màn đêm thành hai nửa/ Thoạt tưởng tinh cầu đang rơi / Sau ngỡ bình vàng chợt vỡ…”.
Quả thật, đọc những khúc như thế, người ta sây sẩm mặt mày như bị thôi miên mà lạc lối trong trận đồ chữ nghĩa giăng mắc. Những khúc miên man li bì như vậy không hiếm trong trường ca này, nó gây nên cảm giác bất bình thường, ru rín, mê dụ, như tự kỷ ám thị mà không biết lối thoát ra. Về tình thần, ví như lối hát hầu đồng trong tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt  ở Phủ Giầy, Đền Trần và một số đền phủ khác... Nói theo ngôn ngữ hiện đại, Phạm Công Trứ mượn các dạng thức dân gian đặng “thao túng tâm lý” khiến người đọc bị mê dụ dẫn dắt. Song như thế cũng đáng, bởi bức tranh quê mà gã họa nên bằng ngôn từ, nhạc điệu mê đắm lòng người. Tôi nghĩ, đó là điểm mạnh, khác biệt riêng có của Phạm Công Trứ.
Về cấu trúc, trường ca Làng phố giao duyên không có gì mới. Từ mấy chục năm trước, nhà thơ Trần Đăng Khoa, khi đang còn tuổi thiếu niên, viết trường ca Khúc hát người anh hùng, tác giả đã dùng ngôn ngữ thơ để kể trong không gian truyện, và để thâu tóm chủ để tư tưởng của từng khúc, từng chương, đồng thời làm cọc tiêu, điểm nối và thay đổi tiết tấu đã sử dụng những khúc hát theo thể lục bát đầy tài tình. Ở đây, trường ca Làng phố giao duyên của Phạm Công Trứ, ta cũng bắt gặp thủ pháp này, tuy ý thức không rõ ràng. Bởi các khúc lục bát của Phạm Công Trứ đa  phần là để thay đổi tiết tấu chứ không giữ vai trò cô đọng ý từ và sâu chuỗi mạch thơ. Có điều, khi sáng tác Làng phố giao duyên, Phạm Công Trứ đã bước vào tuổi trưởng lão, nên ngôn ngữ  thơ kể chuyện già giặn, ma mãnh, với nhiều chiều trò, như đã phân tích,...
Vậy những khúc lục bát ra sao?
“Không sắc lại cũng không hương/ Chân cắm xuống đất, ngọn dương lên trời/ Nhỏ nhoi cọng cỏ, kiếp người/ Vẫn mong đứng thẳng dù đời đạp lên” ; “Người quê nhân hậu bao đời/ Đền miếu cho cả cõi người âm ty/ Ai bảo đã chết còn gì/ Họ rằng xác chết hồn thì thăng hoa” ; “Hồn quê vi vút phiêu diêu / ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên/ Nghèo là nghèo bạc, nghèo tiền/ Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo”; “Khe khẽ là khe khẽ thôi/ Xin người chầm chậm để tôi theo cùng/ Hiếm hoi một giấc phiêu bồng/ Nữa rồi tỉnh dậy lại không có gì!”; “Ghé vai vào cuộc chiến tranh/ Tổ tiên đã trải, cha anh đã tường/ Mịt mù đạn lửa chiến trường/ Vững lòng bởi có “đồng hương”… đồng hành”; “Mỗi người chỉ có một quê/ Khi đi để nhớ, khi về có nơi/ Hài hoà như đất với trời/ Như sông với biển, như người với nhau” ; “... Tóc giờ sắp trắng như mây/ Bao giờ cho đến cái ngày… hơn xưa?” ; “Làng quê nguồn cội bao đời/ Ông bà cha mẹ nằm ngoài tha ma/  Nay người mai đến lượt ta/ Bao giờ trời gọi ấy là… phải vâng”.
Vậy thì qua trường ca này, Phạm Công Trứ có đóng góp vgì về nghệ thuật? Ý tưởng, nội dung thì quá rõ. Một thời kỳ chuyển đổi từ làng quê canh tác nông nghiệp lạc hâu lên làng phố sản xuất hàng hóa thương mại mại dịch vụ và trong quá trình chuyển mình ấy, làng quê và người quê đã bị phố hóa, rồi người quê lên ở phố lại mang theo nếp sông quê, biến phố nhuốm màu làng. Thương và cũng bực mình lắm thay bởi cái sự chuyển đổi còn dang dở. Ý tưởng thế, được Phạm Công Trứ chuyển tải trong trường ca này và thơ ca của mình những năm gần đây. Tuy nhiên, cấu trúc còn rối và thiếu liền mạch, nếu đem tách ra từng trường đoạn, từng khúc, nhìn nhận như  một bài thơ độc lập, lại thấy nhuyễn và hay. Điều ấy, cho thấy, xét về tổng thể, Phạm Công Trứ chưa thật cao tay ấn, còn vụng trong bài binh bố trận và điều khiển quân tướng chữ nghĩa của mình.
Điều đáng ghi nhận ở gã phù thủy Phạm Công Trứ là qua trường ca Làng phố giao duyên, cùng một số bài thơ khác, dấu ấn về LÀNG rất đậm nét, mặc dù gã không xướng tên một làng quê cụ thể nào. Ấy là cái tài của gã, biến cai riêng thành cái chung, nâng cái cụ thể lên thành khái quát  Mà điều ấy, thật không dễ chút nào và nhà thơ nào cũng làm được?!
3. Nhuốm màu thiền lão.
Ở vào cái tuổi chấp chới thất thập niên lão, Phạm Công Trứ  lượng sức mình, chẳng thể dương oai tự kiêu “nhà quê khí huyết tràn trề/ tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân” được nữa,  nên bế quan luyện công đặng nâng cao tuổi thọ, kéo dài tuổi thi. Mấy năm liền, không thấy gã ọ ẹ ở đâu,  thơ phú nơi nào. Sống thì chắc rồi nhưng sống ra sao thì chẳng rõ. Hỏi thăm vài ba người thân với gã thì họ bảo “Vẫn sống nhăn răng đấy dưng mà yếm thế lắm”.  Hỏi tiếp “Thế thơ phú gì không?”. Lại bảo “Chắc là có đấy. Lão này còn ngọ nguậy thì còn thơ. Bắt lão ấy cai thơ khéo lão thăng luôn”.
Rồi một hôm, thấy Phạm Công Trứ ngồi thù lù nơi phòng khách Hội Nhà văn, số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Quần áo, mũ len khăn cổ xùm xụp, thêm một cái gậy chống bên cạnh và thẻ xe buýt dây đeo trước ngực. Giá gặp ngoài đường dễ ngỡ lão hành khất. Râu tóc bờm xờm bạc cả, riêng ánh mắt thì vẫn ánh lên sư minh triết pha chút tinh nghịch vốn có. Ngẫm, thế là ổn rồi, gã chính danh gọi Tễu tự là Thảo Dân ơi.
Thơ gã lại đăng lác đác đây đó. Tôi biên tập một bài viết bình thơ Nguyễn Bính gửi đến Tạp chí Nhà văn & cuộc sống. Đọc mà ngờ ngợ, tên tác giả bài viết lạ hoắc. Hỏi ra, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tổng biên tập cười toét miệng “Lão Phạm Công Trứ đấy. Tớ bắt đề tên thật rồi”. Tôi ngớ người “Thảo nào, giọng văn quen quen...”. Thời gian sau, mỗi lần đến Hội Nhà văn, gã đều ghé vào Tạp chí chuyện phiếm. Đã bỏ được chiếc gậy chống, chuyện cũng rôm rả hơn. Lại hiện nguyên hình một gã tiến sĩ nửa nhà quê, độ lượng và từng trải, thật thà mà tinh ranh,...
Thực ra, suốt quãng thời gian bế quan, hay tự kỷ gì đấy, gã vẫn làm thơ đều. Có điều, điềm tĩnh, thâm trầm hơn về cách nhìn nhận cuộc sống, và giọng điệu đã hạ tông, nhưng vẫn lộ rõ sự tinh quái, hóm hỉnh vốn có. Về ngôn ngữ, vẫn nguyên đó một Phạm Công Trứ biến hóa, giàu thanh sắc, hình ảnh, nhạc điệu,... Riêng về thơ lục bát, gã không lẫn bất cứ một ai trong số các thủ về thể thơ này (như Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh, Trần Đăng Khoa, Đồng Đức Bốn). Cùng giàu chất uy-mua, nhưng ở Nguyễn Duy quãng thời gian sau là chủ ý bông đùa và đẩy lên thành nghệ thuật; Còn Lê Đình Cánh thì chủ thể luôn đứng hẳn một phía để rồi quan sát, tủm tỉm cười mà cảm thông đôi chút;  Riêng  Phạm Công Trứ là sự tự thân, tự giễu, lấy chính mình làm đối tượng rồi ra chuyện người nên có sự đồng cảm, chia sẻ,...
Chẳng hiểu do rỗi rãi hay ý thức phân định, gã lẩn thẩn sắp xếp thơ mình theo từng chủ đề: Cỏ, Lão, Linh, Luật, Mùa, Nhi, Triết... và kỳ công viết luận giải cho từng phần. Hẳn diễn lại trò xưa trong cách chơi chữ đặt tên như thời Cỏ may, Phồn thi...? Kể cũng thú vị. Song ở đây, tôi chỉ chọn mấy chữ L của gã để bàn thôi.
Thơ Luật, thực ra là cái cách Phạm Công Trứ quan sát sự vật, hiện tương, thói đời... và rút ra bài học, mà nên thơ :“Để tồn tại phải luôn thích ứng/ Ấy là quy luật của muôn đời/ Khủng long tuyệt diệt vì to lớn/ Kiến giun bé nhỏ mãi sinh sôi” (Luật đời);  “Sông có khúc / Người có thời/ Xong thì đi chỗ khác chơi/ Nếu không muốn bị ông giời nhấc ra” (Luật chơi); “Nếu đời là một cuộc chơi/ Ai người làm luật, ai người cầm cân?/ Ai người gác cổng, dọn sân/ Ai chờ vào cuộc ai dần bắn ra?” (Một cuộc chơi); “Chữ “quan”  có một cái ô/ Giương ra là để che cho nhiều mồm/ Mồm ăn, mồm nói, mồm hôn/ Mồm tụng kinh sách, mồm chôn sống người” (Chữ quan); “Sinh ra vốn đã có rồi/ Ấy là quyền của ông Giời ban cho/ Cung đình mấy cụ Tân Nho/ Phán rằng có cái còn to hơn Giời!” (Quyền tự nhiên); “Học hàm là phó giáo sư/ Học vị tiến sĩ cũng như bao người / Gặp em thành kẻ dở hơi/ Trăng lên lẳng lặng ra ngồi bờ đê…” (Dở hơi) v.v...
Phạm Công Trứ triết luận thế đấy. Với gã, quy luật của cuộc sống, nhìn ra chúng để mà sống, chấp nhận và chia sẻ và ứng xử cho phải đạo. Diễn đạt nôm na mà tinh quái làm sao.
Thơ Lão của Phạm Công Trí, cứ theo luận giải của gã thì mệt lắm, viện dẫn Đông Tây Kim Cổ đủ cả, nhưng  là gã lấy tuổi tác (Thọ lão) ra để bàn. Tóm lại, ở vào tuổi cao, người ta từ ý thức về bản thân nên nhìn nhận cuộc đời có khác đi,...: “Ngày nào ngồi sau lưng cha/ Cha đùa thường bảo: “Cu là cái đuôi!”/ Thoắt thôi con đã đôi mươi/ Sau lưng giờ lại một người là cha/ Trạnh lòng song chẳng nói ra:/ “Biết đâu nó nghĩ mình là... cái đuôi?” (Đuôi); “ Tuổi trẻ dễ nhớ dễ quên/ Hồi hưu mới thấm cái duyên bạn già/ Vùi ba thước đất thành ma/ Tìm đâu ra bạn để mà… cãi nhau!” (Bạn già); “Hồi bé sợ nhất là ma/ Lớn lên thì sợ người ta hơn mình/ Lấy vợ sợ vợ kém xinh/ Lấy chồng thì sợ chồng rình đấm cho/ Con sợ láo, vợ sợ hư/ Giờ thì sợ chết mà chưa thành gì/ Thôi thì cứ vô tư đi/ Sợ thì cứ sợ, ta thì cứ ta” (Sợ); “Phải có cái gì để đọc/ Phải có cái gì để nghe.../ Hãi nhất là không gì cả/ Thiu thiu là bị bóng đè/ Chỉ mong một đêm an giấc/ Thế mà cũng khó người ơi,...” (Hãi); “Vẫn biết thân là cõi tạm/ Bạc tiền là của phù vân/ Thế mà vẫn “tham” vẫn “hận”/ Thế mà vẫn “si” vẫn “sân”/ Vẫn biết đời là bể khổ/ Trốn sao khỏi kiếp luân hồi/ Thế mà vẫn “con xin Bụt”/ Thế mà vẫn “lậy Chúa tôi”/ Vẫn biết sống là để chết/ Trời gọi chẳng thể chạy làng/ Thế mà vẫn tập vẫn luyện/ Thế mà vẫn thuốc vẫn thang/ Vẫn biết thơ là thơ thẩn/ No-ben còn chẳng ăn ai/ Thế mà vẫn ra thi tập/ Thế mà vẫn muốn khen tài/ Vẫn biết ừ thì vẫn biết/ Thế mà vẫn cứ thế mà/ Càng sống lại càng nặng “nghiệp”/ Cả làng đâu phải riêng ta!” (Vẫn biết); “Tr. ơi!... lạnh toát cả người/ Tên mình ai gọi từ nơi vô hình/ Chắc là dở chứng thần kinh?/ Vừa mới ngả mình lại đã... Tr. ơi!/ Lần trước còn ngỡ xa xôi/ Lần này gần gặn ngay nơi đầu giường/ Phía đầu giường nửa sương, nửa gió/ Chỗ cuối giường nửa tỏ, nửa mờ/ Mình thì nửa tỉnh nửa mơ/ Vô hình trời gọi hay ngờ rằng ai/ Bần thần dụi mắt, bứt tai/ Buông ra một tiếng thở dài... rồi im” (Tiếng gọi), v.v...
Thơ Lão là một cái nhìn kha minh triết về sự vận động của vật chất, con người và bản thân. Nhận thức rồi để biết sợ, biết trân trong cuộc sống, những mình đang có,... Với Phạm Công Trứ, Thiền là một cách chấp nhận,...
Thơ Linh, Phạm Công Trứ luận giải, thực ra là gã định gọi là thơ Thiền, tức thiền thi, song ngai người ta suy luận này nọ nên tránh đi. Thế nhưng, tôi nghĩ, chẳng việc gì phải ngại ai, mà đã ngại thì sao Thiền được. Song thôi, hãy xem gã luận giải sao? “Tâm linh là một khái niệm rộng, biểu hiện như là một thế giới - thế giới tâm linh. Linh cảm, linh giác, linh nghiệm, phiêu linh… đều thuộc họ nhà “linh”, đậm chất huyền hoặc. Hiện nay, tâm linh được xem như một khoa học, rất được giới học giả quan tâm và cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Quan điểm hai thế giới (vật chất và tinh thần) dưới cái nhìn duy vật cổ điển đang dần nhường chỗ cho quan điểm ba thế giới (vật chất, tinh thần và tâm linh). Tâm linh có họ hàng gần gũi với tinh thần nhưng không đồng nhất với tinh thần...”
Thơ Linh của gã đây: “Hạt ngọc cuộn tròn ôm lá sen/ Bí ẩn nào như bí ẩn đêm/ Đừng tiếc ngày về tan mất ngọc/ Sớm mai sen ngọc lại ngời lên” (Sen ngọc); “Chờ cho dương thế lịm say/ Gác Quan-Hoa mới thoảng bay hương quỳnh/ Cõi quỳnh trắng, mộng quỳnh trinh/ Chỉ vành trăng khuyết nghiêng mình tiễn hoa!” (Quỳnh hoa);  “Ngại lấm bụi trần nơi dương thế/ Dạ hoa hương chỉ thoảng về đêm/ Trắng trinh khai nở đen huyền bí/ Thưởng hoa đâu cứ phải cần đèn.” (Dạ hoa); “Đêm mùa hè ngắn/ Đời quỳnh hoa ngắn hơn/ Khép rồi búp trắng/ Lặn rồi trăng đơn/ Hoa dẫu tạ tàn không cánh rụng/ Xác hoa tự hoá chẳng mồ chôn/ Trăng – hoa/ lặn - nở/ vô-thường-mộng/ Phù thế người ơi!/ Một/ Đoá/Hồn.” (Một đóa hồn); “”Vô ngã” là chân ngã/ “Vô ngôn” là chân ngôn/ Nếu như biết mình dại/ Thì nghĩa là đã khôn?” (Ngộ) ; “Đã coi trời đất là nhà/ Ai chủ ai khách phân ra làm gì/ Đã tin sống gửi thác về/ Trắng tay thì có khác chi tay đầy” (Khác gì); “"bây giờ và ở đây"/ An lạc nằm trong mấy chữ này/ Đọc chi muôn quyển, đi muôn dặm/ “Ngay bây giờ và ở chính đây”/ Thở/ Chấm hết!” (Lạc);...v.v...
Thú thật, cứ sa đà vào Thơ Linh của Phạm Công Trứ, dễ có cảm giác mình được hóa thân thành chàng quý tử họ Giả (Giả Bảo Ngọc) vui vầy cùng đám tiểu thư khuê các nơi Vinh phủ, Ninh phủ uống rượu vịnh thơ trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Ai ngờ, gã tiến sĩ luật nặng chất nông phu này thơ thanh thoát đến thế. Linh hay Thiền gì đó hơi nhạt màu Phật song đậm phong vị  Lão. Mải mê, khéo rồi có ngày gã đắc đạo mà thành Tiên cũng nên?!...
Thay cho lời kết:
Mai sau,... Người ta  thấy, khi trên hè phố thủ đô, lúc chốn ngõ quê vùng Hải Hậu, Nam Đinh đây đó, một ông già râu tóc bạc phơ, ăn vận nửa quê nửa tinh, chân đi chậm rãi với cây ba-tông trong tay, ánh mắt nhìn còn tinh ranh, hay ngó nghiêng, miệng lẩm nhẩm gì đó nghe như đọc thơ. Người đi đường chi chỏ, phỏng đoán, bảo lão già này hâm đơ hay sao ấy. Chẳng hiểu lão có nghe được lời thiên hạ hay không nhưng chỉ cười, nụ cười độ lượng, cất tiếng nghêu ngao:  “Nước nước nước/ Non non non/ Thoảng nghe trong gió như còn tiếng kêu/ Đói đói đói/ Nghèo nghèo nghèo/ Áo cơm nặng nợ bám theo đến giờ/ Mộng mộng mộng/ Mơ mơ mơ/ Ai là kẻ sĩ ngóng chờ No-ben/ Yếu yếu yếu/ Hèn hèn hèn/ Nghe đi nghe lại dần quen mất rồi/ Bác bác bác/ Tôi tôi tôi/ Tôi đi hỏi bác bác thời hỏi ai/ Nhanh như chớp mắt đời người/ Ngắn như một tiếng thở dài,”...
Lai có người vẻ tỏ tường: “Lão ấy là một nhà thơ nổi tiếng đấy”,...
Nguyễn Chu Nhạc
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tinh thần hiện pháp lạc trú trong thơ đương đại Việt Nam

Tinh thần hiện pháp lạc trú trong thơ đương đại Việt Nam Có thể nhận thấy, ngày nay các nhà thơ đương đại thể hiện trong thơ những bàn luậ...