Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2024
Vết hằn năm tháng
NHỮNG BÍ MẬT CỦA ANH ĐỖ CÚC
Tôi cố bắt chước Đỗ Cúc nhưng không biết nên bắt đầu như thế
nào. Tôi lưu ý đến Đỗ Cúc, đến từng cử chỉ nhỏ nhặt của anh, hóa ra tôi được biết
nhiều chi tiết về anh, những chi tiết có lẽ không dính dáng gì hết đến tài văn
chương của anh. Ví dụ cái lọ mực được cột vòng một sợi dây thép. Sợi ây uốn
khoanh lò xo và tận cùng ở đầu bằng cái nút. Khi anh mở nút mực, cái lò xo rún
rẩy làm rung rinh cái nút, trông nhí nhảnh như những đóa hoa ở mũ các ông kép
hát bội. Tôi xấu hổ nhìn cái nút mực bằng giấy cuốn tròn lại của tôi. Đó không
biết là cái nút giả thứ mấy sau khi cái nút thật bị lạc mất. Ví dụ cây bút chì
anh cột bằng sợi dây nhợ dài dính vào nút áo. Khi viết, sợi dây kéo lằng nhằng.
Có lần thầy bất chợt kêu anh lên bảng. Anh vội vàng không kịp bỏ bút vào túi áo
khiến nó nhảy tung tăng theo bước chân của anh. Tôi cũng bắt chước anh cột cái
bút chì vào một sợi dây và tròng vào khuy áo. Tôi bắt chước nhiều thứ nữa của
anh, chẳng hạn lấy giấy cuộn xung quanh một đoạn tre ngắn để làm cái bút mực,
chẳng hạn lấy nhiều giấy bản bồi cứng để làm cái bìa đóng ra ngoài mọi quyển
sách, chẳng hạn sưu tầm những con tem thư để dành trong một cái hộp. Nhưng về
phương diện văn chương thì tuyện nhiên tôi vẫn chẳng tiến bộ chút nào hết.
Chợt tiếng một anh la lên “Thầy đến! Thầy đến!”. Chúng tôi lật
đật chạy ùa theo của sau, tháo ra sân. Sự điều tra tác giả bức thư được tiến
hành âm thầm. Tác giả không ký tên mình, không ghi tên của người nhận thư,
nhưng cứ so cái giọng văn trong thư thì anh em đều chắc mười mươi là Đỗ Cúc.
Ngoài Cúc ra, chúng tôi không đứa nào có thể sản xuất được một phần năm bức thư
văn hoa ấy. So nét bút thì cũng đúng là Đỗ Cúc. Anh có nét chữ đều đặn, nét đậm,
nét lợt phân minh, khuôn chữ dài và nằm nghiêng. Thằng Sự nói giọng quả quyết.
Đỗ tiểu học xong, chúng tôi phân tán mỗi người một nơi. Lên
trung học, văn tôi cũng không tiến bộ chút nào nhưng được cái may là trong lớp
không ai có tài như anh Cúc nên tôi đỡ bị khổ. Thế rồi cuộc đời cứ lặng lẽ chuyển
vần, tôi lớn lên, tôi đi làm, tôi cưới vợ. Vợ tôi là một cô bạn gái cùng lớp nhất
với tôi năm đó, cô Trâm con gái ông Án sát. Chúng tôi ngẫu nhiên gặp lại nhau ở
Huế và nhiều sự ngẫu nhiên khác tiếp theo, cộng lại, đưa đến kết quả là chúng
tôi cưới nhau. Ba năm sau, lại một ngẫu nhiên nữa đến với tôi, đó là tôi gặp lại
anh Đỗ Cúc. Lúc bấy giờ tôi được đổi về làm việc ở thành phố Đà Nẵng. Một chiều
thứ bảy rỗi rãi tôi thả bộ đi dọc theo đại lộ Quang Trung. Một người đàn ông
lùi lũi đi ngược chiều lại tôi. Trông dáng đi quen quen và vẻ mặt thì không lạ.
Tôi moi óc cố nhớ. Cuộc đời đã đẩy tôi vào giữa nhiều khuôn mặt quá khiến tôi lẫn
lộn khi bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi đứng dừng lại để giúp cho trí nhớ
dễ tập trung. Người đàn ông ấy lại đi gần tôi, ngước nhìn lên, nhìn hơi lâu và
dáng ngập ngừng như cũng nhớ ra tôi. Óc tôi chợt như có một tia sáng lóe ra và
miệng tôi vụt kêu lên không kịp giữ lại:
Nhìn xuống đồng hồ thấy đã trễ giờ cơm, tôi đứng dậy xin cáo
từ anh. Tôi cho anh biết địa chỉ của tôi và anh hẹn chủ nhật sau sẽ dến thăm.
Sáu tiếng “lạy chú ạ” vang lên, lẫn lộn, tiễn tôi ra cổng. Anh tươi cười giữa
khúc “nhạc” quen thuộc ấy, vẻ hãnh diện, chừng như bằng lòng về sự sản xuất
phong phú của mình. Anh nói:
Buổi chiều, tôi không ra ngồi ở phòng khách nữa, nhưng tôi vẫn
không dám đi đâu xa. Tôi chỉ lảng vảng hoặc ở nhà ngang hoặc nằm ở phòng đọc
sách. Mỗi một tiếng giày sạo sạo ở cổng, tiếng còi ô tô, tiếng xe gắn máy nổ đều
làm tôi lắng tai ngóng chờ.
Nguyệt lấy chồng vào mùa hè. Hai cây phượng trước cổng nhà
nàng hoa nở đầy cành, trông xa như những cánh tay quằn quại dưới sức nặng của
những lễ vật màu đỏ. Chúng như cùng vào hùa với gia đình Nguyệt để tưng bừng
đón mừng ngày cưới. Long ghét những cây phượng từ đó. Ngày xưa khi yêu nhau,
hai người thường đi dưới bóng phượng. Phượng và ve thì ở Huế không thiếu. Nhìn
những xác phượng rơi đầy ở sân một ngôi trường vắng lặng giữa mùa nghỉ hè, cả
hai cùng nghĩ đến xác pháo của ngày cưới. Ngày cưới của hai người cố nhiên, vì
con đường đi đến hạnh phúc bằng phẳng, rộng rãi, nhiều bóng mát như con đường
Phan Chu Trinh, trên đó hai người đang chầm chậm đi. Thế mà Phú đã hiện đến, bất
ngờ. Và Phú được chọn là người ở lại.
Giọng Long trầm trầm:
Long đổi ghế xa lông. Bức màn đã vén cao, anh nhìn thấy một
cái nôi nhỏ đặt ở góc phòng. Bên cạnh là cái bàn thấp, trên sắp rất nhiều lon,
lọ thủy tinh, chai sữa, bình thủy. Một tấm chăn hoa trải trên giường Nguyệt.
Nguyệt nói: Hai năm rồi, chóng quá. Anh vẫn không thay đổi. Chỉ có em…
Thủy nhanh miệng trả lời:
- Thì các con phải lựa lấy. Một là chịu ăn không ngon, hai là
tìm về một bà dì ghẻ để được ăn ngon. Ai thích ăn ngon?
- Ba không cho lũ con đi cải lương lần nào hết. Lũ con Chi,
con Vinh đi luôn với mợ nó.
Người ta đến để ký biên bản, ký vào bản chiết tính số bài chấm,
lấy giấy lộ trình. Có người đến tìm một khuôn mặt quen, nói vài câu chuyện bâng
quơ để ngày mai lên tàu giã biệt. Đó đây từng nhóm giám khảo độ năm, bảy người
tụ họp lại theo trung tâm để làm giấy chứng chỉ cho thí sinh đậu. Sự sống còn
nhen nhúm thành từng ổ nhỏ như vậy qua tiếng rao tên họ, ngày và nơi sinh của
người thí sinh may mắn. Sự sống còn biểu lộ bằng tiếng cười, bằng những tia mắt
nhìn trao đổi, bởi ở mỗi nhóm như thế thường có một vài nữ giám khảo. Những chủ
tịch, phó chủ tịch, thư ký trung tâm làm việc khắc khổ hơn với những nét mặt
đăm chiêu. Ông chánh chủ khảo đi đi lại lại, nghiêm khắc với mọi người và nghi
ngờ mọi người
Ở từ chiếc loa phóng thanh mắc ở tường một công sở gần đó,
vang lại một bản nhạc vá chắp. Giọng lên xuống đều đặn đến có thể đoán trước được
nhịp nhàng một cách buồn nản như một tiếng võng đưa. Thật hỏng cả buổi chiều.
Chàng xếp cặp giấy, lững thững đi trở lại phòng họp, tiến đến một nhóm bạn đang
viết giấy chứng chỉ. Cô Kim Toàn dừng lại giữa hai giòng chữ, ngẩng đầu hỏi:
Một tên phụ huynh học sinh làm chàng bàng hoàng: “Trương Kỳ
Phùng”. Chàng nhìn nơi sinh, trú quán: An Thạch, Tuy An. Đúng là tên của người
bạn học ngày xưa. Cả một quá khứ bừng sống mạnh mẽ, thoáng chốc như một cây cổ
thụ bị chặt ngã nay vụt đứng dậy cả lá cành. Chàng thấy rõ ràng Trương Kỳ Phùng
ôm sách đi học lớp năm, lớp tư, mặt gầy gầy với hàng lông mi rất dài. Nhà anh
làm hàng xáo, tráng bánh tráng. Cả một xóm Thiện Đức chỉ có hai nghề: dệt tơ lụa
và tráng bánh tráng. Trưa trưa, nghe tiếng giũ tơ lụa đập bành bạch trên sông.
Cả ngày, nghe tiếng cối xay kẽo kẹt, cối giã thập thình. Cứ mỗi chiều, khi ôm
sách đi học về là đã thấy mẹ của Phùng ngồi sa một quầy hàng xén vụn vặt: dầu
phộng, nước mắm, thuốc giấy, kẹo đường, ớt tỏi….bà ngồi trong một cái lều nhỏ,
dựng ngay trước cổng nhà Phùng. Cha Phùng đu đưa trên một cái võng, cột vào hai
gốc tre, nằm lui đàng sau. Trước lều, phía bên kia đường cái, lúc nào cũng có
năm bảy người ngồi chồm hổm nói chuyện. Câu chuyện thường lấy những người đi chợ
vừa bước qua làm chủ đề, nên quanh năm không hết chuyện. Câu chuyện lại dễ nhảy
từ mục này sang mục khác không cần chuyển tiếp, nên ngồi ở đây là có thể biết hầu
hết tình hình trong xóm. Ở vùng này lại có bảy, tám tay cờ bạc chuyên nghiệp
nên tin tức lại càng thêm dồi dào. Những người cờ bạc chuyên nghiệp không mấy
ai là không lém miệng. Có lẽ vì sống quen trong khung cảnh đó, nên Phùng ăn nói
hoạt bát và có óc lý tài. Lúc nào gặp anh là y như thấy anh đang dự vào một cuộc
mua bán đổi chác nào đó. Có lần anh đổi cái cán viết mới của anh để lấy cái cán
viết cũ của một người bạn và bắt bù ba cắc. Rồi cũng cái cán viết cũ đó, nhưng
anh đem thay ngòi mới vào, rồi đem xuống lớp Đồng ấu gạ bán cho một đứa khác lấy
hai cắc. Sách vở cũng là món hàng buôn. Đổi sách mới lấy sách cũ, bán sách cũ
mua sách mới, rồi bắt bù tiền, nạp tiền cọc, nài thêm, rút bớt, trừ hoa hồng,
ăn lãi hai phân, năm phân vân vân, anh tung hoành trong các chương mục thương mại
như một võ tướng hữu đột tả xung.
Một phiếu thí sinh khác mang hai dòng chữ: “Tên cha: Hồ Đình
Chiến (c). Tên mẹ: Nguyễn Thị Ngọc Cẩm”. Lại cũng là tên một bạn quen. Tên người
vợ xác định tên người chồng, vì có thể có nhiều Hồ Đình Chiến, nhưng không thể
có nhiều Ngọc Cẩm ở một miền nhà quê. Ở nhà quê, người đàn ông chuộng trang sức
cho cái tên của mình hơn đàn bà. Vào thời đại của Ngọc Cẩm, hầu như không có một
người đàn bà nào dám ngang nhiên mang một tên kép trên thẻ căn cước. Chỉ có Ngọc
Cẩm. Chị không đẹp nhưng nhà giàu, quanh năm chỉ đi đến nhà tá điền thu lúa, đậu,
thu đường, thu bông. Chị được đọc báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn và tiểu thuyết
của Lê Văn Trương. Chị thuộc lòng mười bài “Khuê phụ thán” của Thượng Tân Thị
và nhiều bài Đường Luật trong “Vườn thơ phụ nữ”. Và chị cũng cảm tác ra thơ nữa.
Giữa một miền ruộng sạ, đất thổ khô cằn của xứ Đồng Tranh, Đồng Nghệ mà người
dân chỉ biết vui với hạt đậu phộng, đậu xanh, tai bông, lóng mía, muỗng đường,
chị chỉ biết sống mơ màng một mình với “Vườn thơ phụ nữ”. Người văn minh ở thị
thành, ở phương xa lạc bước tới có thể hiểu được tâm hồn chị chỉ là mấy anh phắc
tơ nhà ga và vài giáo viên trường Tiểu học La Hai. Họ nghe tiếng chị, đến nói
chuyện với chị vài lần, được ăn vài bữa cơm ngon có tráng miệng kẹo đậu phộng,
rồi rút êm đi cưới vợ nơi khác hết. Chị không đẹp. Khi quá lứa, chị đành phải lấy
anh Hồ Đình Chiến người làng, nhà trung lưu, có học khá, nhưng xấu trai và
không biết nói chuyện văn thơ. Như những đám lúa thổ, hết mùa lúa sạ lại chen
mùa rắc đậu, cuộc đời của hai vợ chồng lẳng lặng cho trôi theo mùa tiết, đều đặn,
nhịp nhàng và chán nản bằng phẳng như cánh đồng rộng trước nhà. Chiến thay mặt
vợ đi thu lúa gặt, đi đòi lúa thiếu. Những chuyện vặt vãnh như cho vay lúa non,
cho nuôi heo rẻ mà bình thường vợ anh và bố mẹ vợ anh vẫn làm một cách thong thả
dễ dàng, nay sang đến tay anh thì chúng ngang nhiên mang một tính chất khoa học
hợp lý rất đỗi chi li lẩm cẩm. Cái gì anh cũng ghi cũng chép, cũng chiết tính,
cũng phỏng trù. Cuốn sổ nào cũng đầy ắp những chữ những số, khiến nhiều lúc anh
sa lầy lúng túng trong đó.
Đó là câu hát độc nhất Bửu hát từ ngày anh đến chiếm cái giường
sát cạnh. Không thuộc quá ba câu của một bài hát, hình như người thầy giáo nào
cũng vậy. Đó có thể là một mặc cảm trí thức. Nhưng do tâm trạng nào mà Bửu chỉ
hát câu “người ơi nếu một mai...” thì Doãn không tìm hiểu. Vì anh hát vào những
lúc bất ngờ và rất mâu thuẫn: khi đi về cởi áo sơ mi, khi cột dây giày, khi ngủ
trưa dậy mà chưa muốn bước xuống giường, khi uống xong 15 giọt thuốc chữa đau
gan. Dường như anh không bận tâm rung cảm theo ý nghĩa của câu hát. Có lẽ câu
hát chỉ có giá trị làm cho mồm đỡ nhạt, cũng như khi người ta không nghiện mà
hút thuốc. Câu hát cũng làm sạch hơi thở như khi người ta nhai kẹo cao su.
Nhưng chiều hôm nay giọng hát trầm trầm uể oải và sai giọng ấy, mỗi lần nghe đến
là Doãn tưởng như mình đang dự vào buổi chiều cuối cùng của trái đất khi nhân
loại bị phóng xạ nguyên tử đang cầu kinh. Buổi tối, ánh đèn nê ông sáng không
làm cho không khí đỡ cô đơn hơn. Phòng số 1 do các giám khảo có tuổi chiếm đóng
nên tắt đèn sớm. Họ chỉ biết làm việc ăn ngủ điều độ rồi về với gia đình. Những
chiếc vali lớn nai nịt sẵn sàng xếp cạnh giường nằm. Đi 15 ngày, nhưng cụ bị đầy
đủ như phải viễn du liên lục địa. Quà mua đem theo về cũng vừa chu đáo vừa cồng
kềnh: những lọ mắm cá thu lổn ngổn, những tảng miếng song thần to bằng bức
tranh sơn dầu. Phòng II đa số là thanh niên. Hành lý rất gọn. Có người chỉ mang
một cái xắc kiểu PAA hay Air France. Y như đi dự một cuộc tranh giải thể thao
liên tỉnh. Tâm hồn cũng gọn như hành lý. Không có nhiều quá khứ lôi kéo, họ
thong dong đi lại như một con chim chuyền cành. Trái lại, đối với những người
như Doãn thì quá khứ chen lẫn với hiện tại. Trong những ngày lưu lại đây, kỷ niệm
thường dồn dập trở về. Ngẫu nhiên mà ngôi trường chàng nghỉ trọ hôm nay là ngôi
trường Trung học mà mười lăm năm trước chàng đã học, thỉnh thoảng ngồi nhìn vẩn
vơ qua từng khung cửa kính, chàng thấy lại gương mặt và dáng đi đứng của từng vị
thầy cũ của mình: thầy Lê với bộ râu bướng bỉnh, thầy Thái với đôi kính trắng,
thầy Cảnh mỗi lần cười thì mặt đỏ và mắt nhắm tít lại, thầy Trường nhanh nhẹn
như một con sóc. Cuộc đời chảy êm đềm trong một xã hội quá trật tự. Giáo sư Cao
đẳng tiểu học là một địa vị đáng được thèm ước. Suốt cả mười tỉnh miền đông bằng
chỉ có một trường Cao đẳng tiểu học công lập này thôi. Sự học hiếm hoi, quý giá
như vậy, nên nếp sinh hoạt ở thành phố xoay quanh việc buôn bán. Các vị giáo sư
gần như độc tôn trên thị trường chữ nghĩa. Giới trí thức còn lại là mấy ông
phán tòa Sứ, trán và gò má bóng nhẵn mỗi buổi chiều tụ họp ở nhà xéc để đọc
báo, thọc bida hay đánh ten nít. Tách rời ra khỏi giới doanh thương thực tế, ồn
ào, thủ đoạn, những người trí thức ở tỉnh nhỏ sống lẻ loi, uể oải như những cây
còm nằm yên vị trong từng chiếc chậu kiểng. Không ai cạnh tranh với họ hết, nên
họ khỏi phải lo cạnh tranh với ai.
Từ bữa ăn trưa đến hai giờ chiều, Doãn không làm được gì hết.
Ý nghĩ cũng bị cắt vụn từng mẩu rời rạc. Ông Cai trường xếp chăn màn, bó giường
và quét tước phòng học. Những tờ giấy báo vất ngổn ngang; những mẩu tàn thuốc,
di tích cuối cùng của sự sinh hoạt rộn ràng của bao nhiêu giám khảo giờ bị dồn
vào một góc. Dãy thùng nước, chậu thau đặt dài dọc hành lang cũng đã thu dọn mất.
Sự gọn gàng có pha chút ít tàn nhẫn. Giá ông cai thẫn thờ uể oải bỏ bê công việc
mà ngồi nhớ đến sự ồn ào vui vẻ của mấy người trước so với niềm cô đơn im lặng
hôm nay!
Tiếng loa phóng thanh mời hành khách ra phi đạo. Thu Hà xách
chiếc giỏ đi cạnh Doãn. Mái tóc bồng trong gió. Màu áo tối làm cho vai nàng
thêm mảnh. Doãn xót xa nghĩ: “Giã từ Thu Hà! Ngày này năm sau, cô còn đi cạnh
tôi nữa đâu.”
Sự lẩn quẩn của từng ấy người trong khoảng quá hẹp, dù vậy, vẫn
không bực mình ông thầy tế tự là Năm Nhiều. Một người cậu nào khác sẽ ghét hết
sức bốn đứa nhỏ đang lườm lườm hoặc lén lút nhìn mấy dĩa thức ăn bày trên bàn.
Chúng không có kỹ thuật ngụy trang nên sự thèm ăn được biểu hiện một cách lộ liễu,
có thể gọi là trắng trợn nữa. Năm Nhiều làm như không để ý đến sự biểu diễn khiếm
nhã đó. Anh xoa đầu một đứa và cất giọng ôn tồn nói:
Những bữa có giỗ thì nhà Năm Nhiều tấp nập khỏi phải nói. Anh
lục đục nấu nướng đầu tắt mặt tối cho dù nhà anh có dư đàn bà để lo việc ấy. Một
người chị lấy chồng ở mãi Thái Long dẫn về ba đứa con. Một người em lấy chồng ở
xóm Đường dẫn về bốn đứa. Một đứa cháu gái rọi bằng cậu lấy chồng ở Xuân Đài
cũng cố nách hai đứa con về. Cộng với mẹ anh và nhà chị Của thì quả nhà này dư
đàn bà để làm một bữa cỗ linh đình. Nhưng họ chỉ được sai bảo vặt. Việc nấu nước,
xắt thịt, đơm dĩa, anh đều tự đảm nhiệm hết. Xong, lại cũng chính anh lo sắp dọn
bàn. Rồi rửa mặt thay áo dài, đội khăn, anh châm hương, châm đèn đứng lầm thầm
khấn vái. Về điểm này, anh có khác mẹ anh. Bà cụ thì khấn to như đang nói chuyện
với khách. Mà bà cụ nói chuyện thật. Lúc giỗ chồng thì bà kể lể những hồi ông
ra đi binh cách “Anh ra đi, thong thả hơn tui ở nhà. Một mình nuôi bốn đứa con
nhỏ. Thằng Nhiều thì ghẻ chốc. Dán hết mụn này trổ sang mụn khác. Con Của thì
đái dầm. Hết đứa này ấm đầu tới đứa khác ỉa chảy… Cửa nhà đơn chiếc, mời hương
hồn anh về uống chén rượu, ăn miếng chả….”
Mẹ tôi ngạc nhiên quay lại hỏi:
Năm Nhiều có buồn không, buồn bao nhiêu lâu thì không ai biết.
Vì có bao giờ anh vui vẻ đâu? Anh lúc nào cũng mơ mơ màng màng, đi dưới đất mà
tưởng chừng như đang bay theo các “bà” ở giữa không trung. Chỉ biết là từ ngày
đó anh hay ngồi tẩn mẩn hàng giờ trước chiếc gương soi, có lẽ để tìm xem vì những
khuyết điểm nào ở trên mặt mình mà mình phải chịu một sự thất bại lớn về tình
ái dường ấy.
Nhưng số lượng những cái mụn có thể nặn được thì có hạn mà sự
say mê của anh thì khôn cùng, nên khi những cái mụn đã hết rồi thì anh lại rơi
vào sự im lặng cô đơn. Anh đành phải rời bỏ khuôn mặt mình mà đưa mắt chậm chạp,
uể oải nhìn xung quanh. Đúng vào lúc ấy, anh thấy chị Ba Răng Vàng. Chị này ở
Tuy Hòa tản cư ra. Ngoài ba cái răng cửa bọc vàng tây, chị có hai con mắt sắc
hay liếc và một cái miệng hay nói hay cười. Đôi hàng lông mày in rành rành vết
dao cạo xén và môi có bôi một lớp son đỏ lợt. Tóc bới vồng lên, ở trước như hai
cái sừng mới nhú và trên mái tóc mang rất nhiều kẹp. Lọn tóc bới lỏng bỏ rơi xuống
dưới ót trông tựa cái bụng của một con tò vò. Vóc người chị thon nên khi đi,
đôi tay đưa đẩy dịu dàng, một sự dịu dàng dường như cố ý, có sắp đặt trước. Tất
cả đều trái hẳn với chị Gần chậm chạp nặng nề. Chị Ba Răng Vàng ở trọ nhà ông Cống,
cách nhà Năm Nhiều chừng vài trăm thước. Chị bán xôi chè và cơm rượu. Miệng con
nhà buôn gặp ai cũng mời cười, nhưng Năm Nhiều ngây thơ cứ tưởng nụ cười đó, nhất
là con mắt liếc chỉ dành cho anh. Thành ra anh hăng hái tuyên bố rằng anh đã
ghiền món chè “bột lọc bọc đậu phộng” của chị. Những bữa ế hàng, nồi chè còn đầy
thì chị Ba càng phung phí mắt liếc và nụ cười với anh. Chị dám nắm tay anh mà
kéo - bàn tay tinh khiết chỉ quen cầm nắm nhang - bắt lại ngồi ăn giùm cho chị
một chén chè. Anh đau khổ từ chối, bảo rằng không có tiền thì chị cuời:
- Buồn chớ. Nhưng biết sống với ai cho có hai mình?
Năm Nhiều lê cái gậy nặng nề bước. Quả đúng như lời mẹ anh
nói, con đó là con đĩ. Nhưng quên một con đĩ không phải là điều dễ, nhất là khi
người ta không có người đàn bà đứng đắn nào để mà nhớ như anh Năm. Có thể anh
ngồi nhớ đến đến đôi môi dày của chị Gần và tự trách mình đã quá bạc tình đối với
người yêu cũ (cứ tạm nhận là như vậy). Những người rụt rè như anh thường có ý
nghĩ tẩn mẩn quanh co như vậy. Không đi tới mà cũng không bước lui, không có
cái gì dứt khoát hết. Trong khi đó thì những người đàn bà dứt khoát hơn anh. Chị
Gần chọn con đường phiêu lưu thay người anh rể. Dễ thường hôm nay chị đã có người
chồng mới rồi. Chị Ba Răng Vàng thì chọn ông xã Tám và vài người khác bạo dạn,
thực tế hơn anh. Người ta trả lại anh cho cái bàn thờ uy nghiêm và khoảng hẹp
trước bàn thờ. Anh khỏi phải chọn. Như một cái bóng mờ, anh cứ chập chờn trong
cái khung cảnh âm u của khói hương và ánh đèn sáp.
- Anh nấu chay có ngon như nấu mặn không?
Tôi tự nhiên nhìn xuống đôi bàn tay của anh. Thật là lam lũ
phong trần, nhưng tôi cũng ngầm mong một cách yếu ớt rằng đôi bàn tay ấy, lần
này, không đến nỗi chịu câm nữa bên cạnh những cô phụ hồ nhí nhảnh lẫn lộn xung
quanh anh. Chợt anh ấp úng ngỏ lời mượn tôi hai trăm đồng.
Thế thì hai năm rõ mười là Năm Nhiều đã có ý trung nhân rồi. Thành vợ chồng hay không thì đó chỉ là hình thức đi sau. Như vậy cũng đã là một biến cố quá lớn đối với một người thánh thiện như anh. Nhân ngày chủ nhật rảnh, tôi muốn đi tìm để nhìn thấy tận mắt cái hoàn cảnh mới của anh. Tôi nhờ hương Kính chỉ đường.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Hoa Kỳ biến thể
Hoa Kỳ biến thể Hoa Kỳ từ trước đến giờ vẫn là quán quân cho các lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng và phát triển cho toàn cầu...
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg-mtkJrKK_-MpQJZUfTAYdG3uge_q700e6Z051X12vyD9GjrLzv2FU1kAsehwkPKayqbtZCPb3F21o7TuVdc3xQDOci2CHy7h8ccQIwdDbMHg1V3a0Sl34c02h0tvI7D7j6UOA5yTUrYV8WW-Oc2OH7f8nMgKDlKVX-ZK8iv782mJnFWeHvNSRpKZa8PAE/w177-h200/voDinh.jpg)
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét