Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2024

Vết hằn năm tháng

Vết hằn năm tháng

NHỮNG BÍ MẬT CỦA ANH ĐỖ CÚC
Chừng như không giữ được nhẫn nại nữa, thầy Tri nghiêng đầu nhìn tôi rồi giơ hai tay lên trời:
- Sao trò ngu thế? Làm luận như trò thì đi thi đỗ thế …chó nào được? Văn chương gì mà khô như bã mía thế?
Thấy thầy ngừng lại không nói tiếp, hai tay vẫn giơ lên và cái đầu vẫn nghiêng, tôi ấp úng:
- Dạ!
Tiếng “Dạ” ngu si chỉ được tôi nói khẽ hết sức cũng làm cho cả lớp bật cười lên. Tôi đưa mắt nhìn xuống lớp. Hai hàng nữ sinh ngồi ở hai bàn đầu rúc rích cười làm tôi ngượng quá. Tôi cảm thấy máu rần rần chạy lên hai tai. Thầy Tri cúi gần tôi ôn tồn giảng:
- Muốn cho bài luận hay thì mình phải thêm thắt vào. Ai chẳng biết cây phượng trước trường trò rụng lá trơ cành? Nhưng trong bài luận trò phải nói, chẳng hạn: “Cây phượng trước trường sum xê lá xanh và hoa đỏ. Từng đàn chim đậu trên cành cất giọng hót véo von”
Tôi lại “dạ” và cả lớp lại “ồ” lên cười.
- Có phải trò nghe chim hót véo von không?
Tôi nặn óc để cố nhớ lại xem có lần nào tôi nghe chim hót véo von không, nhưng tuyệt nhiên không nhớ. Hình như mỗi lần ra chơi tôi chỉ nghe học trò la ồn ào mà thôi, mà bài luận thầy lại ra “Tả cảnh sân trường vào giờ ra chơi”. Tôi nghĩ: Giá có con chim nào đậu ở trên cành phượng - thực tế thì khó có thể vì cậy phượng bị lũ học trò trèo phá bẻ gãy cành, tước rụi cả lá thế kia thì có chim nào thèm đến đậu - mà cho rằng có chức năng chim nào đậu nhằm trên cành phượng mà muốn véo von hót thì lũ học trò nô đùa cũng đủ cho nó sợ hãi mà bay đi. Nếu không bay thì thế nào nó cũng bị lũ học trò tranh nhau lấy đá ném hoặc lấy ná cao su bắn. Lũ học trò cứ mươi đứa là đã có vài đứa thủ ná cao su đi học. Chúng đến trường sớm rồi rủ nhau đi lang thang ở dãy cây rậm gần nhà dây thép (1 ) để tìm bắn trái keo, bắn trái bàn, bắn trái me. Hết mùa trái thì gặp gì chúng cũng bắn không gặp gì chúng cũng bắn: bắn vào trụ đèn, bắn vào cổng nhà người ta, bắn vào lề đường. Khổ thân tôi, tôi biết tìm đâu cho ra một tiếng chim “véo von” trên cây phượng “cành lá sum sê” tưởng tượng này?
Tiếng thầy Tri giục:
- Sao? Trò trả lời đi.
- Thưa thầy … dạ.. con chim không có hót ạ.
Cả lớp lại cười lên một lần nữa. Thầy nhìn chằm chặp vào tôi, nhìn sát vào mặt tôi như tôi là con vật lạ. Tôi lo lắng đứng đợi và tôi chợt có cảm tưởng rằng hai tai tôi đang dài ra, dài ra như hai tai của con bò. Chợt thầy đứng dậy kéo cánh tay tôi lôi ra đứng trước cửa lớp rồi chỉ ra trước mặt:
- Đó, trò thử nhìn ra bể đi. Rồi trò tả cho tôi một câu xem trò có trông thấy gì không.
Chao ôi, thấy thì tôi thấy đủ thứ. Nào là những rặng cây me, cây keo, cây bàng… nào là nhà ông Phó Sứ, ông Lục Lộ, lại là sân ten-nít… Xa hơn là bãi cát, là biển, là núi, là trời.
- Thưa thầy con có phải tả mấy cây keo và nhà ông Phó Sứ không ạ?
- Không cần. Trò chỉ tả biển thôi.
Tầm mắt tôi giã từ những hàng cây xanh và dãy nhà ngói đỏ mà đóng hẹp lại ở mặt biển. Tôi nhìn thật kỹ, còn óc thì loay hoay xếp chữ này cạnh chữ kia cho thành một câu. Cuối cùng tôi thưa:
- Biển nằm im lặng, màu xanh lợt hơn màu xanh của núi.
Thầy nghe, bĩu môi ngẫm nghĩ rồi vừa kéo tôi vào ra hiệu cho lại chỗ ngồi vừa nói:
- Thôi, cũng tạm được. Nhưng chưa hay.
Thầy quay mặt nhìn xuống lớp, hỏi:
- Trò nào tả hay hơn?
Đỗ Cúc giơ tay, đứng dậy. Không đợi thầy cho phép, anh đằng hắng giọng hai lần rồi nói:
- Xa xa những làn sóng biếc nhấp nhô lượn trên bãi cát vàng. Tiếng gió rì rào thổi trên ngọn lá thùy dương như một bản nhạc êm êm bất tuyệt.
Những anh lớn ngồi ở mấy bàn sau xuýt xoa ầm lên như có ai dí lửa vào chân. Tiếng xuýt xoa chạy nhanh đến mấy bàn đầu. Thấy thầy giáo mỉm cười, cả lớp thừa cơ để ồn ào lên ngay:
- Hay quá
- Hay quá thầy ạ.
- Văn sĩ đấy.
Tôi cũng nhận thấy anh Cúc tả hay thật, nhưng tôi cứ băn khoăn là không biết anh tìm ở đâu ra được những cây thùy dương mà tả vậy. Và thùy dương là cây quái gì? Ở bãi bể tôi chỉ thấy có mấy cây keo xương xẩu và mấy bụi tre lá dày một cách thô tục mà thôi. Còn “bản nhạc êm êm bất tuyệt” anh nghe ở đâu vậy?
Nhưng khi anh Cúc đắc thắng ngồi xuống thì quả tình tôi cảm thấy tương lai về văn chương của tôi mờ mịt một cách tuyệt vọng. Sao tôi dốt thế kia? Và tôi thẹn thùng hết sức khi nghĩ đến câu tả cảnh của tôi vừa rồi “biển nằm im… màu lợt hơn màu núi…”. Giá lúc nãy tôi đừng nói ra câu ấy vẫn hơn. Thà chịu để cho thầy Tri cốc một cái vào đầu còn hơn đem câu văn dở của mình ra để các bạn đem so sánh với câu hay của anh Cúc. Tôi đưa mắt nhìn sang Đỗ Cúc.
Thành thật mà nói thì anh không có vẻ gì thông minh xuất chúng cả. Trái lại thì có. Anh chậm chạp, chậm chạp đến mức nặng nề. Anh cao hơn tôi một cái đầu. Đôi bàn tay to, dài ngoẵng vì tay áo vừa chật vừa ngắn. Lúc bấy giờ chúng tôi đi học đều mặc áo bà ba ngắn, quần và áo đồng màu, riêng anh Cúc thì lúc nào cũng mặc áo rằn quần trắng. Cổ áo không phải thứ cổ kiềng như chúng tôi mà là cổ cao, giống như cổ áo dài. Trông anh thành ra ngây ngô, nhất là với cái đầu tóc cắt đơ mi cua.
Đỗ Cúc học giỏi đủ các môn, nhưng giỏi nhất là môn luận. Lắm lúc tôi thành thật đau khổ vì không tự giải thích được nổi do đâu mà con người ấy lại ăn nói văn hoa được đến thế. Tả đêm trăng thì anh có “hàng trăm hàng ngàn con rắn vàng bò lượn trên mặt nước”. Tả ngôi chùa làng thì anh khéo xếp thế nào cho có một khóm trúc mọc ngay ở hông chùa để anh viết: “Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ”. Có lần thầy ra: “Tả chị đầy tớ gái nhà anh”. Chúng tôi mừng rằng Đỗ Cúc phen này hết đường mà văn hoa. Một chị đầy tớ chớ đâu phải là một cô tiểu thư, một nàng công chúa? Nét mặt thế nào cũng không đẹp, áo quần thì không thể sang, và cử chỉ lời nói chắc chắn là không thể uyển chuyển, dịu dàng, ngon ngọt. Chúng tôi hí hửng đợi sự thất bại của anh. Ấy thế mà hôm trả bài, Cúc vẫn đứng đầu với điểm 8 và thầy lại gọi anh lên đọc bài của mình. Thì ra sau khi tả những nét xấu xí của chị, Cúc khéo đặt chuyện rằng chị ấy chết chồng. Và để cảm thương cho nàng “tiết phụ” này, anh kết luận “Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu”. Lúc anh đọc đến đó, tôi liếc nhanh sang thầy Tri thì thấy thầy gật gật đầu mỉm cười ra dáng thích thú lắm. Hỡi ôi! tôi biết đào đâu cho ra những dòng văn chương êm đềm như thế để làm vui lòng thầy Tri, để làm bằng lòng các vị giám khảo trong cuộc thi tiểu học sắp tới? Tôi chán nản nhìn ra khung cửa sổ, nhìn mảnh trời xanh cao vút. Hy vọng về văn chương đối với tôi xa quá, khó vươn tới như mảnh trời xanh sáng đẹp kia.

Tôi cố bắt chước Đỗ Cúc nhưng không biết nên bắt đầu như thế nào. Tôi lưu ý đến Đỗ Cúc, đến từng cử chỉ nhỏ nhặt của anh, hóa ra tôi được biết nhiều chi tiết về anh, những chi tiết có lẽ không dính dáng gì hết đến tài văn chương của anh. Ví dụ cái lọ mực được cột vòng một sợi dây thép. Sợi ây uốn khoanh lò xo và tận cùng ở đầu bằng cái nút. Khi anh mở nút mực, cái lò xo rún rẩy làm rung rinh cái nút, trông nhí nhảnh như những đóa hoa ở mũ các ông kép hát bội. Tôi xấu hổ nhìn cái nút mực bằng giấy cuốn tròn lại của tôi. Đó không biết là cái nút giả thứ mấy sau khi cái nút thật bị lạc mất. Ví dụ cây bút chì anh cột bằng sợi dây nhợ dài dính vào nút áo. Khi viết, sợi dây kéo lằng nhằng. Có lần thầy bất chợt kêu anh lên bảng. Anh vội vàng không kịp bỏ bút vào túi áo khiến nó nhảy tung tăng theo bước chân của anh. Tôi cũng bắt chước anh cột cái bút chì vào một sợi dây và tròng vào khuy áo. Tôi bắt chước nhiều thứ nữa của anh, chẳng hạn lấy giấy cuộn xung quanh một đoạn tre ngắn để làm cái bút mực, chẳng hạn lấy nhiều giấy bản bồi cứng để làm cái bìa đóng ra ngoài mọi quyển sách, chẳng hạn sưu tầm những con tem thư để dành trong một cái hộp. Nhưng về phương diện văn chương thì tuyện nhiên tôi vẫn chẳng tiến bộ chút nào hết.
Nửa năm lớp Nhất tôi thay nhà trọ đến ở chung với anh Nên cùng học lớp Nhất với tôi. Anh Nên có một người chị năm ấy chừng 20 tuổi. Chị Cẩm - tên người chị của anh Nên - cả ngày cứ nằm trong phòng đọc tiểu thuyết và đợi người phu trạm, cứ chừng một tuần ghé lại trao cho chị một bức thư. Nhận được thư, chị vội vã vào phòng đóng kín cửa lại. Khi lũ em gõ cửa mời ăn cơm, chị uể oải bước ra, xì mũi liên tiếp vào khăn mùi xoa và hai mắt đỏ. Thấy nhiều lần như vậy, tôi hỏi u già. U bảo:
- Cô Cẩm nhận thư của cậu Khang đấy.
- Thế sao nhận thư chị Cẩm lại khóc?
- Vì cậu Khang hiện ở bên Tàu. Xa lắm.
Nhìn tôi ngẩn ngơ chưa hiểu, u hạ giọng, nói nhỏ:
- Cậu Khang thương cô Cẩm, nhưng tía cậu không chịu đi hỏi cô Cẩm cho cậu. Tía cậu bắt cậu về Tàu để cho hai bên xa nhau. Tía cậu Khang là ông Bang Chín, hiệu Đồng Thạnh ở xế cửa nhà mình đấy. Tôi gật đầu ra dáng hiểu và u già cũng thôi không nói nữa. Ngoài những lúc sụt sùi khóc khi đọc thư - và khi viết thư trả lời, tất nhiên, chị Cẩm còn khóc khi đọc tiểu thuyết nữa. Nhiều lần tôi thấy chị nước mắt ròng ròng ngồi trước một trang sách mở. Tay chị luôn luôn vò một chiếc mùi soa nát nhàu. Tôi lý luận rằng những quyển tiểu thuyết kia hẳn có liên hệ bà con gì với những bức thư gửi đến và gửi đi của chị. Một hôm tôi cầm một quyển tiểu thuyết chị vô tình đặt ở bàn học của tôi, mở ra xem. Đó là một tập gồm những đoản thiên tiểu thuyết bìa đã gãy nhàu và mực in đã nhòe vì mồ hôi tay. Truyện đầu tiên nhan đề là “Thu sang lá rụng người về bơ vơ”. Tôi tưởng chừng vừa nghe lại một giọng nhạc quen thuộc. Giọng nào nhỉ? Con người thô lỗ văn chương là tôi, đâu có lý tôi đã được hân hạnh có nhiều kỷ niệm về văn chương đến thế? Trong khi óc loay hoay tìm kiếm, tôi lật vội để tìm tên của cái truyện thứ hai “Lệ ai tầm tã bến Giang Châu”. Tôi lật tiếp. Những cái tên truyện vang lên du dương: “Em ơi! Hẹn nhau mùa lá rụng…”, “Tóc xanh ai nỡ nhuộm mái sầu…”.. “Duyên em trao trọn về chàng”… Bên cạnh những tên truyện êm đềm ấy, tên các tác giả cũng êm đềm chẳng kém. Những là Lệ Thùy, Mộng Hoàng, Huyền Thao, Hoài Giang Thủy … y như những tiếng nhạc đệm nhỏ, vang nhè nhẹ bên cạnh bản nhạc chính. Chợt tôi vùng la to lên: “Đỗ Cúc!”. Phải rồi, cái giọng nhạc quen thuộc đó là giọng của người anh hùng văn chương của lớp tôi, anh Đỗ Cúc vậy. Bên tai tôi như văng vẳng vang lên giọng đọc của anh: “…Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ… nàng từ chiếc bóng song the… Gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu…”
Thế là từ đó tôi bắt đầu làm quen với thứ văn chương loại Đỗ Cúc. Tôi đã tìm ra được bí mật của anh rồi. Cái nguồn văn chương lâm ly của anh là những quyển tiểu thuyết đượm nhiều nước mắt này. Tôi lật nhìn những bức tranh vẽ. Hầu hết là những hình thiếu nữ mắt mơ màng, tóc chải theo lối kỹ nữ Trung Hoa, có cài trâm và xiêm y dài thườn thượt. Các cô hoặc đứng tựa cành mai, cành liễu hoặc ngồi trước án thư, nhưng dù ở cảnh nào người họa sĩ cũng không quên vẽ một mặt trăng vào đó. Những bức hình này chắc đã an ủi chị Cẩm nhiều lắm vì dễ thường đã nhiều lần chị tưởng tượng rằng chính đó là hình ảnh của chị, cô gái Trung Hoa đau khổ. Sao lại không? Yêu một người Trung Hoa, người ấy hiện giờ ngồi nhớ chị tại xứ Trung Hoa, xứ Trung Hoa với những địa danh đẹp như Tô Châu, Hàng Châu, Dương Tử.. thì chị đã, một nửa là cô gái sầu mộng của Trung Hoa rồi còn gì nữa? Thật chị có đủ yếu tố để đẫm mình vào những trang sử lâm ly này vậy.
Từ ngày biết được xuất xứ những câu văn êm đềm của Đỗ Cúc, tôi nhìn anh bằng con mắt ít khâm phục hơn. Mỗi lần thầy Tri gọi anh lên đọc một đoạn văn của anh mà thầy thích là tôi mường tượng thấy tập tiểu thuyết của chị Cẩm với những chữ nhòe mực vì mồ hôi tay, với những hình cô gái Trung Hoa. Nhưng Đỗ Cúc, anh dường như không bao giờ có thể tin rằng bí mật của anh đã bị tôi khám phá ra rồi. Chứng cớ là mỗi lần thầy kêu anh đọc bài luận, anh vẫn bước đi một cách dõng dạc, cố ý ngừng lại từng đoạn để đợi nghe chúng tôi xuýt xoa khen. Chứng cứ nữa là anh đã dùng thứ văn chương ấy để viết một bức thư tình, các bạn có thể tin được không?
Việc xảy ra như thế này:
Sáng hôm ấy trước giờ vào lớp, thằng Tiến nhặt được một bức thư của ai đánh rơi ở gần bục thầy ngồi. Chúng tôi chạy ùa lại xem. Thằng Chút ồn ào và quấy nhất lớp giật lấy bức thư vừa lo to:
- Để tao đọc cho tụi bây nghe.
Cả lớp nhao nhao lên: “Phải đó. Phải đó. Để nó đọc”.Và Chút mặt hí hửng, dõng dạc đọc:
Gác vọng nguyệt, một ngày Mạnh Đông.
Kính thưa Quý nương
Tiếng thằng Hy ồn ào chận lại:
- Cha chả! Văn chương mùi mẫn thế!
- Mạnh Đông là cái thá gì thế bay? Tao chẳng hiểu.
- Quý nương là đứa nào vậy?
- Im! Im! Để nó đọc tiếp.
Cánh thư trước kính gửi Quý nương, đến nay vẫn chưa có hồi âm, lòng vãn sinh thật muôn phần đòi đoạn. Ôi! một ngày mong đợi coi bằng ba thu. Chùm hoa bên rèm cũng như nhớ nhung ai mà từng cánh tả tơi theo gió”
Một tiếng “huýt” thét lên và thằng Phin la theo:
- Úi dào! Hay quá! Ai viết mà hay thế bay?
- Ai viết thế nhỉ? Đỗ Cúc hở?

Chợt tiếng một anh la lên “Thầy đến! Thầy đến!”. Chúng tôi lật đật chạy ùa theo của sau, tháo ra sân. Sự điều tra tác giả bức thư được tiến hành âm thầm. Tác giả không ký tên mình, không ghi tên của người nhận thư, nhưng cứ so cái giọng văn trong thư thì anh em đều chắc mười mươi là Đỗ Cúc. Ngoài Cúc ra, chúng tôi không đứa nào có thể sản xuất được một phần năm bức thư văn hoa ấy. So nét bút thì cũng đúng là Đỗ Cúc. Anh có nét chữ đều đặn, nét đậm, nét lợt phân minh, khuôn chữ dài và nằm nghiêng. Thằng Sự nói giọng quả quyết.
- Chắc chắn là thằng Cúc. Lúc Chút đọc thư nó cứ ngồi ỳ ra đó không chạy lên ồn ào với tụi mình.
- Thằng Cúc đứt đuôi đi rồi. Văn nó chớ còn ai vào đây nữa.
- Nhưng còn quý nương là ai?
Mọi khuôn mặt trầm ngâm lại suy nghĩ.
- Chẳng lẽ lại con Nga - thằng Đạo nói. Con Nga đẹp quá, chắc Cúc chẳng dám đâu.
- Thế thì Minh Ngọc - thằng Gương ngắt lời.
- Vô lý. Tao nghi là con Trâm.
- Trâm là con ông Án sát. Nó sợ tù không dám rớ vào đâu.
- Thế thì chị Tám vậy.
Nghe đến tên chị Tám chúng tôi đều cười ồ lên. Chị Tám là một chị bạn cũng lớn xác và cũng vụng về như Cúc vậy. Chị đen và có cặp mắt lé. Không ai bảo ai mà chúng tôi cùng ngầm đồng ý rằng quý nương của Cúc là chị Tám. Chúng tôi kể cũng khá ích kỷ. Dù trong ký ức đoán, chúng tôi cũng không cho phép Cúc được động chạm đến những cô bạn xin đẹp của lớp chúng tôi như Trâm, Minh Ngọc, Nga.
Câu chuyện bức thư tình quả có làm cho chúng tôi thích thú vì được chế giễu Cúc - len lén thôi vì chúng tôi sợ Cúc đánh - nhưng không vì thế mà Cúc suy giảm tài văn chương. Những bài luận của anh cứ tiếp tục được thầy khen. Anh cứ đều đặn lên đọc văn anh cho chúng tôi nghe, những đoạn văn có đủ mây trôi lững lờ, trăng soi huyền ảo, có khóm trúc, có hoa xưa, có chim có bướm. Và cuối năm, Cúc đỗ đầu ở kỳ thi tiểu học. Ngày lễ xướng danh, ông Công Sứ trao tặng thủ khoa một cuốn tự điển Larousse nặng. Thủ khoa Cúc cong lưng, cúi đầu, giơ hai tay lên đón nhận. Ông Công Sứ giơ tay bắt. Anh túng lúng đưa hai tay ra nắm tay ông, khiến quyển tự điển rơi đánh “rầm” xuống thềm. Chúng tôi bất giác cười rộ lên, nhưng vừa lúc ấy bắt gặp đôi mắt lườm của thầy Tri, chúng tôi vội vàng vỗ tay thật mạnh theo lời thầy đã dặn trước.

Đỗ tiểu học xong, chúng tôi phân tán mỗi người một nơi. Lên trung học, văn tôi cũng không tiến bộ chút nào nhưng được cái may là trong lớp không ai có tài như anh Cúc nên tôi đỡ bị khổ. Thế rồi cuộc đời cứ lặng lẽ chuyển vần, tôi lớn lên, tôi đi làm, tôi cưới vợ. Vợ tôi là một cô bạn gái cùng lớp nhất với tôi năm đó, cô Trâm con gái ông Án sát. Chúng tôi ngẫu nhiên gặp lại nhau ở Huế và nhiều sự ngẫu nhiên khác tiếp theo, cộng lại, đưa đến kết quả là chúng tôi cưới nhau. Ba năm sau, lại một ngẫu nhiên nữa đến với tôi, đó là tôi gặp lại anh Đỗ Cúc. Lúc bấy giờ tôi được đổi về làm việc ở thành phố Đà Nẵng. Một chiều thứ bảy rỗi rãi tôi thả bộ đi dọc theo đại lộ Quang Trung. Một người đàn ông lùi lũi đi ngược chiều lại tôi. Trông dáng đi quen quen và vẻ mặt thì không lạ. Tôi moi óc cố nhớ. Cuộc đời đã đẩy tôi vào giữa nhiều khuôn mặt quá khiến tôi lẫn lộn khi bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi đứng dừng lại để giúp cho trí nhớ dễ tập trung. Người đàn ông ấy lại đi gần tôi, ngước nhìn lên, nhìn hơi lâu và dáng ngập ngừng như cũng nhớ ra tôi. Óc tôi chợt như có một tia sáng lóe ra và miệng tôi vụt kêu lên không kịp giữ lại:
- Đỗ Cúc!
Người đàn ông ấy đứng dừng ngay lại và miệng cười.
- Anh Vinh, nếu tôi không lầm.
Cái giọng nói khàn khàn, cái cách nói hoa hòe, đúng là Đỗ Cúc thật. Hai bàn tay siết chặt và tự nhiên tôi quay ngược chiều trở lại, đi theo chiều của anh Cúc.
- Lâu quá mới gặp lại anh - tôi nói. Nhà anh ở đường nào?
- Cũng gần đây thôi. Đường Phan Đình Phùng. Tiện thể mời anh ghé lại tệ xá chơi cho biết. Bây giờ anh đã vợ con chưa?
- Đã
- Tôi cũng vậy. Mà chắc hơn anh ở chỗ nhiều con. Sáu đứa. Nuôi con mệt ngất ngư.
Tôi lẻn đưa mắt sang anh. Áo quần hơi cẩu thả. Chắc là vì anh nuôi mệt “ngất ngư” nên không có thì giờ săn sóc cho mình. Tóc vẫn cúp đơ mi cua.
Đi qua hai phố thì tới nhà anh. Anh tháo chốt cổng đợi tôi bước vào, liền đóng lại.
- Để mấy đứa khỏi chạy ra đường.
Anh nói một cách thản nhiên như không cốt cho tôi nghe. Tôi cười thầm, ngầm nhủ: con người cẩn thận. Không hẹn mà cái nút mực có đính lò xo và cây bút chì buộc dây của anh hiện ra trong óc tôi. Hai đứa con nhỏ của anh ở trong cửa chạy xổ ra ôm lấy chân anh. Rồi hai đứa khác nghe tiếng reo cũng chạy vụt ra. Lấp ló trong nhà là hai người con lớn. Thật là trật tự, quy củ. Anh vui vẻ bảo:
- Mấy con chào chú đi.
- Lạy chú ạ
- Lạy chú ạ
Loáng một giây, anh đã đứng giữa bầy con sáu đứa của anh. Người con lớn đã đứng cao bằng anh và giống anh như đúc. Cũng vẻ mặt hơi nặng nề và, lạ chưa, cũng cái đầu cắt đơ mi cua. Tôi hỏi:
- Cháu lớn đã được mấy tuổi rồi?
- Mười tám.
- Hử? Mười tám tuổi?
Anh lúng túng giảng giải:
- Tôi đỗ tiểu học xong thì thầy tôi bắt cưới vợ ngay. Thành ra đã có con lớn.
Tôi lật đật tìm một câu nói cho anh đỡ ngượng vừa để xí xóa vẻ ngạc nhiên vụng về của tôi vừa rồi.
- Có con sớm được nhờ. Anh vậy mà sung sướng.
Một người đàn bà ở dưới bếp đi lên. Anh giới thiệu:
- Nhà tôi.
Chị Cúc trông già hơn anh nhiều mặc dù anh cũng đã khá già. Thân mình chị to gấp đôi anh. Có đặc biệt là hai cổ tay của chị đeo đầy vàng. Tôi nghĩ liền: Chắc chị này là con một ông Chánh tổng, phó tổng gì đó, nhà giàu. Có vậy thì thầy anh mới bắt anh cưới vợ sớm.
Từ giã đoàn thê tử bề bộn của anh, tôi đưa mắt nhìn gian phòng. Đồ đạc bày biện quá đầy đủ. Có cả xa lông đệm lò xo, có cả ghế bàn mặt đá, sập gụ, tủ chè, tủ rượu. Những vật nhỏ anh đều sắp đặt đủ đôi. Bên này cái lọ thì bên kia đối diện lại cũng phải là cái lọ, đối, phúng, trướng dàn khắp mặt tường, đa số là những bức người ta đi khao ông cụ thân sinh anh khi được vinh thăng cửu phẩm, bát phẩm. Một cái ná Thượng du và một túi tên lạc loài giữa rừng câu đối. Sự hoang dã của non cao, sự tàn bạo của chém giết không ăn nhịp với những dòng chữ nho hòa nhã ca tụng tài đức của chủ nhân. Thấy tôi quan sát, anh nói:
- Tôi mới đặt mua cái tủ lạnh. Vài bữa họ chở tới.
- Nhà anh có nhiều tiện nghi quá.
- Ồ! Có gì đâu
Anh nhũn nhặn mỉm cười. Nhũn nhặn thật sự, vì tôi thấy mọi vật bày biện ở đây đều thở ra một cách mệt nhọc, cái không khí sung túc no đủ.
Bắt đầu là anh. Anh trông béo ra, đôi má phúng phính khiến đôi mắt càng nhỏ lại. Tới đây tôi thấy cần được giải thích thêm về sự sung túc hiện tại của anh. Tôi hỏi:
- Gặp anh mừng quá quên hỏi điều này: Bây giờ anh làm ở đâu?
Anh lại lúng túng, khiến tôi thấy mình vụng về lần nữa. Cuối cùng anh nói:
- Vì tôi chỉ có bằng tiểu học nên tôi phải dạy một lớp tiểu học ở cách đây mười cây số. Trước đây vài mươi năm, bằng tiểu học có giá trị, bây giờ thì gần như vô nghĩa. Tiếc quá, thầy tôi lúc bấy giờ không cho tôi học thêm.
Tôi an ủi anh:
- Làm sao mà các cụ ngờ được. Nhưng anh như thế này là sung sướng lắm rồi.
Anh tươi nét mặt trở lại và đưa mắt nhìn vào một góc phòng. Tôi đoán chắc anh đang tưởng tượng vài hôm nữa anh kê tủ lạnh ở chỗ ấy. Ngồi nói chuyện với tôi mà hai tay anh không để yên. Hết nghiêng đầu soi lên mặt bàn để tì gạt một vết bụi, đến sửa lại cái gạt tàn thuốc đặt hơi lệch. Có lúc anh chợt đứng dậy vội vã khiến tôi giật mình, tưởng chừng có đứa con nào suýt ngã, anh vội chạy đến đỡ. Nhưng không. Anh chỉ đi lại chỗ tủ chè xếp lại mấy cành hoa giả mà một cơn gió nào đó đã xô lệch. Thật là sự chi ly cẩn thận của Đỗ Cúc. Bỏ đi sự chi ly này thì không chắc anh còn là anh nữa.

Nhìn xuống đồng hồ thấy đã trễ giờ cơm, tôi đứng dậy xin cáo từ anh. Tôi cho anh biết địa chỉ của tôi và anh hẹn chủ nhật sau sẽ dến thăm. Sáu tiếng “lạy chú ạ” vang lên, lẫn lộn, tiễn tôi ra cổng. Anh tươi cười giữa khúc “nhạc” quen thuộc ấy, vẻ hãnh diện, chừng như bằng lòng về sự sản xuất phong phú của mình. Anh nói:
- Nuôi con đông mệt ngất ngư thật, nhưng nhiều lúc cũng vui.
Lúc vui đó chắc là lúc này đây. Bước ra khỏi cổng, tôi tiện tay đóng cửa lại và móc chốt dùm anh. Tôi nói:
- Để lũ nhỏ khỏi chạy ra đường.
Anh thú vị siết chặt tay tôi qua song cửa và đôi mắt cười híp lại.
Tối hôm ấy ăn cơm xong, tôi bảo vợ tôi:
- Chiều nay anh vừa gặp một sự ngạc nhiên. Đố em đoán xem sự ngạc nhiên gì.
Vợ tôi vờ suy nghĩ rồi hỏi ngay:
- Ngạc nhiên gì vậy?
- Anh gặp Đỗ Cúc
- Đỗ Cúc là cái gì?
- Em không nhớ Đỗ Cúc sao? Đỗ Cúc là người bạn học hồi lớp nhất với chúng mình đó.
Vợ tôi nhíu mày suy nghĩ. Tôi giúp nàng mau nhớ ra bằng cách giảng giải rõ thêm:
- Đỗ Cúc là người bạn làm luận hay ở lớp mình đó, anh bạn áo rằn, anh bạn…
Vợ tôi “à” lên một tiếng to, ngắt đứt câu nói của tôi:
- À, em nhớ ra rồi, cái anh học trò dở hơi đó phải không?
Dở hơi? Sợ vợ tôi lầm với một người nào khác, tôi lại nhẫn nại giảng giải nữa:
- Cái anh mà thầy Tri hay bắt đọc văn cho chúng mình nghe đấy. “Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ” và “Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia…”
- Biết rồi, em biết rồi mà. Thì cái anh chàng dở hơi đấy chớ còn ai vào nữa. Cái anh chàng mỗi lần đi lên bảng là hai tay đong đưa như đàn bà đi chợ ấy, em còn lạ gì.
Thì ra mỗi người nhìn anh Cúc với một con mắt khác, nhận ở anh Cúc một nét đặc biệt khác. Vợ tôi lưu ý đến đôi tay đong đưa của anh.
- Thế anh ta bây giờ ra thế nào?
- Oai lắm. Những sáu đứa con. Và xem chừng giàu.
- Anh gặp anh ta ở đâu?
- Ngay giữa phố, anh có ghé lại cho biết nhà và anh ta hứa chủ nhật tuần sau đến thăm chúng mình.
Tôi kể lại những điều nghe thấy buổi chiều ở nhà anh Cúc. Nhân chuyện anh Cúc, chúng tôi nhẩn nha nhắc lại những kỷ niệm vui vẻ ngày cùng học ở trường Sông Cầu. Vợ tôi nhảy từ chị bạn này sang chị bạn kia, từ thầy giáo sang bác cai trường, từ cầu Thị Thạc sang phố lầu chú Chấn Thạnh. Tôi đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi một cách mệt nhọc. Nàng đúng là con chim non nhí nhảnh như đã nhiều lần tôi phê bình. Nhưng lần này sở dĩ tôi không muốn đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi là vì tôi còn đang vấn vương với anh bạn Cúc mà tôi vừa gặp. Khi những cảnh dĩ vãng đã chuyển hết rồi, con chim nhỏ là vợ tôi đã đứng yên, tôi đột ngột hỏi:
- Em còn nhớ bức thư tình của anh Đỗ Cúc mà thằng Chút đã đọc to trong lớp không?
- Có nhớ
- Không biết anh ta viết bức thư ấy định gửi cho ai. Lúc bấy giờ bọn anh cố khám phá mà chịu không đoán ra được ai. Anh ta khôn, chỉ viết “Thưa quý nương” thì đố ai mà biết được.
Vợ tôi ngồi ngẫm nghĩ giây lâu rồi bỗng phá ra cười. Tôi hỏi:
- Em cười gì vậy?
- Đố anh biết Đỗ Cúc viết cho ai?
- Đã bảo rằng bọn anh chịu, đoán không ra. Bọn anh nghĩ là anh ta viết cho chị Tám.
- Lầm. Anh ta viết cho em đấy.
Tôi ngạc nhiên:
- Thật sao?
- Em đâu có nói đùa?
- Thế anh ta không sợ ba em à?
- Nào em có biết. Hôm thầy Tri giao cho anh ta phát vở luận, em vắng mặt. Anh ta giữ vở em lại. Hôm sau anh ta trả vở cho em kèm theo một phong bì. Anh ta bảo: “Chị Nhạn ở lớp nhì nhờ đưa giùm phong thư cho chị”. Nhạn là bạn của em nên em nhận. Về đến nhà mở ra mới biết là thư của anh ta. Thư bắt đầu bằng “Thưa quý nương”. Em đọc mà chẳng hiểu gì hết. Em chỉ nhớ mấy câu hay hay…
- Ồ! Đỗ Cúc thì viết hay phải biết - Tôi ngắt lời - Em còn nhớ mấy câu hay ấy chứ?
- Lâu quá, có hơi quên. Hình như là “đài gương soi đến dấu bèo”… và... “những khi trăng soi bóng lẻ gió rít đầu cành…” hay là cái quỷ quái gì đó. Em sợ quá về đưa ngay cho ba xem.
- Chết Đỗ Cúc mất rồi!
- Ba đọc xong, xé đi, rồi bảo em từ giờ anh ta có đưa giấy tờ gì thì vất trả lại. Nếu anh ta không nghe thì lên mách thầy giáo.
- Em có mách lần nào chưa?
- Chưa. Lần sau anh đưa một cái thư nữa, cũng bảo là của chị Nhạn nhờ đưa, nhưng em nghe lời ba, ném lại. Cái thư lọt vào kẽ bục bàn thầy. Anh ta lật đật cúi xuống moi lấy nhưng không được. Sàn gạch hoa thì trơn mà em vất mạnh nên không ngờ cái thư chạy qua mãi phía bên kia bục. Anh ấy hì hục đẩy bục đi, nhưng bục nặng không xê dịch được. Đôi tai và mặt anh ta đỏ như lên, bộ điệu lúng túng trông cũng tội. Vừa lúc ấy các anh ồn ào đến nên Cúc lật đật đi xuống chỗ ngồi. Và thế là anh Tiếp bắt được cái thư và anh Chút mới đọc oang oang giữa lớp.
- Tội nghiệp cho Đỗ Cúc - tôi chép miệng
- Nhưng may cho em. Hôm làm bài luận “Tả nỗi buồn khi xa nhà ra tỉnh trọ học” em nhớ câu văn của Đỗ Cúc trong thư nên viết ngay vào bài: “… những khi trăng soi bóng lẻ, gió rít đầu cành…”, thầy Tri khen, cho 8 điểm. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót em được 8 điểm luận.
Hai chúng tôi cười to vì sự thành công bất ngờ về văn chương này.
- Lúc nãy anh bảo rằng chủ nhật anh ấy đến thăm chúng mình?
- Ừ
- Anh ấy đã biết rằng anh có vợ rồi?
- Biết rồi, chính anh nói. Anh còn cho biết rõ ràng vợ anh là cô Trâm xinh tươi cùng học lớp nhất ngày xưa.
Vợ tôi không tỏ ra quan tâm đến lời nói nịnh của tôi mà vẫn điềm nhiên hỏi:
- Anh ta có ngạc nhiên không?
- Hình như cũng… có hơi ngạc nhiên.
Vợ tôi nheo mắt nhìn ra sân một hồi rồi quay sang tôi:
- Em chắc chủ nhật này anh ấy không đến đâu.
- Vô lý. Việc gì mà không đến? Tôi vội vã hỏi lại.
- Em chắc anh ấy ngượng.
- Có gì mà ngượng. Chuyện trẻ con mà. Bây giờ ai nấy cũng đều lớn cả rồi, mà anh ấy có những sáu đứa con. Em cứ chuẩn bị nhà cửa cho đẹp đẽ hơn một chút nữa đi, để chủ nhật chúng ta đón anh ấy. Nhà anh ta giàu lắm, em nhớ cho, chớ không nghèo như chúng mình đâu.
Ngày chủ nhật đến, tôi không dám đi đâu hết. Trái với thường lệ, tôi dậy sớm và ăn điểm tâm vội vàng như những ngày đi làm. Tôi mặc áo quần cẩn thận và ra ngồi ở phòng khách đợi. Tôi biết tính Cúc siêng năng, chu đáo, nên tôi cho rằng anh ta sẽ đến sớm lắm. Nhưng 9 giờ.. rồi 10 giờ. Có tiếng bánh xe ô tô rít lên, rẽ vào con đường xóm tôi, nhưng xe chạy thẳng. Có tiếng phanh xe xích lô lách cách, nhưng xe đậu ở nhà đối diện. 11 giờ… 12 giờ. Vợ tôi thỉnh thoảng ở nhà ngang đi lên, bảo tôi:
- Đó, em nói có sai đâu.
Tôi chịu không biết nên trả lời thế nào cho phải.

Buổi chiều, tôi không ra ngồi ở phòng khách nữa, nhưng tôi vẫn không dám đi đâu xa. Tôi chỉ lảng vảng hoặc ở nhà ngang hoặc nằm ở phòng đọc sách. Mỗi một tiếng giày sạo sạo ở cổng, tiếng còi ô tô, tiếng xe gắn máy nổ đều làm tôi lắng tai ngóng chờ.
Khi điện đường bật sáng, khi tiếng đũa bát vang lên ở phòng ăn, tôi biết rằng tôi không còn hy vọng đón anh Đỗ Cúc nữa. Quả anh không đến thật như lời vợ tôi đã đoán. Tôi uể oải đứng dậy thay áo thì chợt có tiếng chuông reo ở cổng và tiếp theo, tiếng con Nu sửa ầm lên, anh Cúc đến. Không những anh đến một mình đủ để trái với dự đoán của vợ tôi - mà có cả chị Cúc và một đoàn sáu người con. Hôm nay anh mặc bộ tuýt xo vàng và thắt cà vạt. Những nếp gấp lộn xộn nhất hằn lên áo, và hai vai xệ xuống. Đôi tay và lưng cứ ngọ ngoạy trong chiếc áo hơi rộng. Nhìn anh không có vẻ thoải mái, tôi có cảm tưởng rằng chiếc áo đấy xa lạ với anh. Với một chút son ở đôi môi và mái tóc chải ngăn nắp, chị Cúc trông được mắt hơn bữa đầu tôi gặp. Tuy vậy, đôi chân mày nhổ chừa lại còn quá nhỏ khiến mắt chị thành ra to thêm.
Tôi vừa ra đón thì anh chị đã vội vã chào trước:
- Chào bác ạ - Chào bác ạ. Hôm nay chúng tôi đến hầu thăm hai bác.
Mấy đứa con, như sáu cái máy, phụ họa theo:
- Lạy bác ạ, lạy bác ạ.
Tôi lúng túng khi nhận tiếng xưng hô lễ mễ. “Bác”, tiếng gọi mới già nua làm sao! Vì thành thật mà nói thì nhìn lại anh Cúc, tôi cứ tưởng chừng tôi xa anh không quá 5-7 năm, nhất là nhìn cái đầu tóc đờ mi cua, tôi thấy anh không khác mấy với những ngày đi học. Thế mà thay vì tiếng “anh” nhẹ nhàng đơn sơ, anh đã gọi tôi bằng “bác”. Chắc là do anh chịu ảnh hưởng của vợ anh thôi. Chắc là đứng bên cạnh người đàn bà bệ vệ ấy, anh bị bắt buộc thấy mình già đi, đứng đắn lại, chớ hôm một mình gặp tôi giữa phố anh vẫn gọi là “anh”
Khi vợ tôi ở nhà ngang bước lên thì một loạt những tiếng “chào bác, lạy bác”, lại hòa tấu một lần nữa. Vợ tôi tỏ ra lúng túng gấp đôi tôi vì sự trịnh trọng mà gia đình anh Cúc đã dành cho mình.
Khi anh chị Cúc đã ngồi yên ở ghế và lũ con xếp một hàng ngay ngắn ở đi văng thì cuộc đàm thoại xã giao bắt đầu. Chị Cúc nói trước:
- Cái phòng khách của hai bác chắc một bề 4 thước một bề 7 thước.
Vợ tôi trả lời, giọng không quả quyết lắm:
- Vâng, hình như thế ạ.
- Bác nên cho xây thêm một tấm “đan” ở đằng trước cho mát. Tấm “đan” chạy dài suốt cả mặt tiền.
- Vâng ạ. Xây thêm được một tấm “đan” thì mát hơn nhiều.
Chị Cúc nhìn một lượt phòng khách của tôi rồi giơ một ngón tay - đến đây tôi mới kịp để ý rằng bàn tay chị đeo đến ba, bốn chiếc nhẫn mà chiếc nào mặt cũng to, cũng đồ sộ - chỉ vào một góc phòng.
- Bác cho đắp hai cái trụ chỗ này. Đặt hai chậu hoa thược dược hay hoa cúc vào đấy thì đẹp.
- Vâng ạ - Vợ tôi khẽ gật đầu tuân lệnh.
- Chẳng tốn bao nhiêu đâu.
- Vâng ạ.
- Mà trông đẹp ra.
- Vâng.
- Vậy để hôm nào em đưa đến giới thiệu cho bác một người thợ nề quen. Anh ta làm việc cẩn thận mà tính công lại rẻ.
- Vâng ạ. Cám ơn … bác.
Đã đến lúc tôi phải giải nguy cho vợ tôi. Con chim non cứ “vâng ạ, vâng ạ”, chịu nhận mọi sự xây cất trong khi nhà này là nhà thuê. Tôi đằng hắng to:
- Xin mời hai.. bác xơi nước.
Dù cố gắng nói thật to, thế mà tiếng “bác” như cũng ngượng ngùng, chỉ vang lên nhè nhẹ yếu ớt. Vợ tôi lại chỗ tủ ăn lấy sáu trái cam phân phát cho sáu người con anh Cúc. Tôi mời:
- Các cháu ăn cam đi.
Rồi quay sang anh Cúc:
- Cháu lớn học đến lớp mấy rồi?
- Dạ thưa bác, cháu “hược” ở lớp đệ tam.
Chị Cúc tiếp lời:
- Thưa bác, cháu lớn thế mà “hược” kém lắm ạ, “thiềng” ra ba cháu cứ tối tối kèm cho cháu.
Theo cái đà ấy, câu chuyện xã giao kéo dài một cách nhọc mệt vì chúng tôi cứ sợ nói nhằm vào những tiếng mà vợ chồng anh kiêng. Đầu đề câu chuyện thì quanh quẩn ở việc sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc, chơi huê chơi hụi, tăng lương, tăng thưởng ngạch trật. Trong khi nói chuyện, vợ anh Cúc cứ chăm chăm nhìn vợ tôi, còn anh Cúc hết nhìn xuống sàn nhà lại nhìn lên tường. Ý chừng anh không thể chịu được tại sao tôi lại không treo những bức trướng liễn, câu đối, hoành phi lên bốn bức tường như ở nhà anh vậy. Có một lúc vợ tôi quên mất phép xưng hô trịnh trọng, quay sang hỏi:
- À, anh Cúc, tôi nghe anh Vinh nói anh bây giờ giàu lắm.
Cúc nặng nề nhìn sang phía vợ tôi, chậm chạp nói:
- Thưa bác, bác trai bảo vậy thôi chứ tôi làm ăn cũng chỉ gọi là mát mặt.
Cách nói, lối nhìn của Cúc thật khác xa với điều vợ tôi đã dự đoán và tôi đã ngầm biểu đồng tình. Anh có ngượng gì đâu? Hình như người ngồi trước mặt anh không phải là người mà anh đã hai lần cặm cụi viết hai bức thư nồng nàn ái mộ. Nhìn anh giây lâu rồi nhìn sang vợ anh, tôi chợt nghĩ rằng anh dã được rập khuôn theo mẫu người mà tiếp xúc, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời. Anh dường như lúc nào cũng đã tự quên mình, tự xóa mình đi. Những áng văn chương lâm ly hồi đi học là ảnh hưởng của những quyển tiểu thuyết đương thời. Lớn lên đi làm, anh chịu ảnh hưởng của thầy anh, cũng rộn ràng những chức tước, phẩm hàm, hoành phi câu đối. Khi lập gia đình thì anh là hình ảnh được thu nhỏ lại của vợ anh: cũng chăm lo nhà cửa, bỏ vốn gây lời và kiêng kỵ những tên húy của tổ tiên. Không có một anh Đỗ Cúc thật ở chỗ nào hết, mà đó chỉ là tiếng vang trung thành của những tiếng động ngẫu nhiên ở đâu đây.
Buổi tối trước khi đi ngủ, tôi nằm nghĩ vẫn vơ về cuộc đời của anh Cúc với những bí mật nhỏ của nó. Những bí mật ấy tình cờ mà tôi khám phá ra được hết: nguồn văn chương lâm ly của anh và bức thư tình không may mắn. Nhưng còn một bí mật cuối cùng nữa do nghề nghiệp của anh bắt tôi suy nghĩ. Đó là: không biết khi dạy học trò, anh có bắt chúng du dương theo loại “Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ.. Nàng từ chiếc bóng song the..” như anh, hai mươi năm trước không?
NGƯỜI THỨ BA (1)
Từ ngày Phú đau, Long đến thăm lần này là lần thứ hai. Anh không ngờ bệnh Phú có thể phát triển đến mức trầm trọng nhanh như vậy. Lần đầu tiên đến thăm Phú, cách đây chừng nửa tháng. Phú còn ngồi tiếp anh ở giường. Vẻ măït có vẻ xanh xao, hốc hác, nhưng Phú còn mời anh một điếu thuốc và chính Phú cũng tự tay chăm thuốc hút, hít từng hơi khói ngon lành. Hai người bạn còn trao đổi với nhau những tin tức xa gần về tình hình trong nước. Khi bắt tay giã từ. Long chúc Phú chóng bình phục và Phú tươi cười nhận lời chúc. Không ngờ hôm nay đến thăm thì Phú chỉ nằm ẹp trên giường, nằm dán sát xuống nệm như không còn chiều dầy nữa. Một cái chăn mỏng đắp ngang thân mình. Đầu đặt nghiêng trên gối. Treo ở đỉnh màn là một chai serum được nối liền bằng một dây cao su vào mũi tiêm cắm thủng vào da đùi. Sérum chảy rất chậm làm phồng mảng đất nơi mũi tiêm. Nhìn phương pháp trị liệu rắc rối, tự nhiên Long thấy choáng váng: bệnh tình Phú đã trầm trọng như vậy sao? Anh đứng yên ở đầu giường. Nguyệt, vợ Phú cất tiếng nói khẽ vào tai chồng.
- Anh Long đến thăm mình.
Phú chỉ gật đầu. Vừa lúc ấy chị Sen bưng lên một ly mà anh đoán là nước cam, trong đó có cắm một ống hút. Nguyệt đưa tay đón lấy, rồi vừa nâng đầu chồng vừa đặt một đầu ống vào miệng. Mực nước ở ly vơi đi rất chậm. Chợt Phú sặc lên mấy tiếng. Nguyệt vội vã bỏ ly nước ra, rồi bằng cả hai tay vuốt ngực cho chồng. Tiếng ho sặc nhẹ như tiếng nấc của một đứa trẻ. Khi Phú nằm im trở lại, nàng lấy khăn lau miệng cho chồng, rồi cầm khăn khe khẽ chặm vào mắt. Có lẽ Phú đã khóc, nhưng vì đứng ở sau thành giường, Long không nhìn thấy. Nguyệt chặm nước mắt nhiều lần như vậy.
Từ nãy giờ, Nguyệt chỉ nhìn anh có một lần khi anh bước vào nhà. Vì bận lo lắng cho chồng, điều ấy đúng rồi, nhưng Long còn nghĩ rằng có lẽ vì nàng tự thấy mình tiều tụy. Chưa bao giờ anh gặp Nguyệt trong bộ áo quần nhàu nát như hôm nay. Tóc không chải kỹ, lòa xòa trước trán. Da mặt xanh mướt và mắt sâu xuống. Môi không tô son, nhợt nhạt.
Đứa con gái của Nguyệt lên bốn tuổi bước lại gần giường. Nó đưa bàn tay bụ bẫm lên cầm tay ba. Nguyệt nói:
- Con xuống nhà chơi với chị Sen, để ba nghỉ.
- Sao ba cứ nghỉ hoài rứa?
Giọng Huế nhè nhẹ thốt ra từ đôi môi nhỏ, nghe ngộ nghĩnh như tiếng nói riêng của búp bê. Nguyệt không trả lời con, với tay lấy ly nước cam rồi lại đặt một đầu ống hút vào miệng chồng. Long đưa mắt nhìn cảnh âu yếm đó mà xót xa nghĩ đến thân phận mình. Anh cũng có đau bệnh nhiều bận, nhưng chỉ tự mình săn sóc cho mình. Người làm của anh chỉ biết nấu cháo và pha sữa. Nếu cần ăn cam thì cũng tự tay anh bóc vỏ lấy. Tiêm thuốc đã có y tá. Lạ thật, thế mà không hiểu sao anh đã lành bệnh được. Có ai đoán trước ý muốn của anh để chiêu đãi anh như thế kia đâu? Ai chọn bác sĩ, ai chọn thức ăn, ai đoán là anh đang lạnh, đang nóng để mà tùy nghi đắp chăn hay vặn quạt? Khi đau nặng sợ chết, anh cũng có khóc đôi lần, nhưng rồi cũng phải tự mình đưa tay lên lau nước mắt. Thế mà anh vẫn sống được, lạ thật!
Có nhìn cách Nguyệt săn sóc chồng, anh mới chợt thấy rằng anh đã sống liều lĩnh mà không biết “Đáng lẽ mình đã phải chết từ lâu rồi, từ lâu rồi”. Ý nghĩ này lại làm anh xót xa thương cho thân phận mình, nhất là vì Nguyệt, chính Nguyệt sinh ra để săn sóc âu yếm anh chứ đâu phải để săn sóc Phú? Đáng lẽ anh và Nguyệt đã cưới nhau, nếu không có Phú chen vào. Phú là người tình địch của anh, người tình địch thắng trận. Phú có địa vị hơn anh, nên gia đình Nguyệt chọn Phú. Như mọi người con gái Huế khác, Nguyệt chỉ khóc. Và nói với người yêu chiến bại:
- Em không bao giờ quên anh.
Ồ, một người con trai, cho dù mới hai mươi lăm tuổi cũng đâu có dễ tin ở một lời hứa hẹn không bảo đảm như vậy. Nhưng vì không có cách nào khác, anh đành tạm nhận lời an ủi và nói lại, không quả quyết lắm:
- Anh cũng thế.

Nguyệt lấy chồng vào mùa hè. Hai cây phượng trước cổng nhà nàng hoa nở đầy cành, trông xa như những cánh tay quằn quại dưới sức nặng của những lễ vật màu đỏ. Chúng như cùng vào hùa với gia đình Nguyệt để tưng bừng đón mừng ngày cưới. Long ghét những cây phượng từ đó. Ngày xưa khi yêu nhau, hai người thường đi dưới bóng phượng. Phượng và ve thì ở Huế không thiếu. Nhìn những xác phượng rơi đầy ở sân một ngôi trường vắng lặng giữa mùa nghỉ hè, cả hai cùng nghĩ đến xác pháo của ngày cưới. Ngày cưới của hai người cố nhiên, vì con đường đi đến hạnh phúc bằng phẳng, rộng rãi, nhiều bóng mát như con đường Phan Chu Trinh, trên đó hai người đang chầm chậm đi. Thế mà Phú đã hiện đến, bất ngờ. Và Phú được chọn là người ở lại.
Ngày cưới Nguyệt, Long đáp tàu lửa bỏ thành phố. Anh tránh nghe tiếng pháo, tránh chứng kiến một cuộc rước dâu long trọng. Con tàu lùi lũi chạy và đôi đường sắt sau đuôi tàu như kéo dài theo mãi nỗi buồn không dứt của anh. Đôi đường sắt vẫn nối anh với Huế như tâm hồn anh vẫn nối liền với Nguyệt bằng những ý nghĩ vừa mãnh liệt vừa nhọc nhằn. Anh thấy lại Nguyệt dưới mọi khuôn mặt. Nũng nịu âu yếm, khi anh bẻ tặng nàng một đóa ngọc lan có con sâu nằm nấp dưới đài hoa. Rạng rỡ tươi vui, khi nàng vươn vai hai tay chèo thuyền thoi lướt vùn vụt trên sông An Cựu. Mơ mộng êm đềm, khi ngồi bên anh nàng phác họa những dự tính tương lai.
Tàu chạy sâu vào đêm tối. Đến đây anh có cảm tưởng mình bị cắt đứt với dĩ vãng. Đêm tối là hình ảnh của cuộc đời mà anh đang đi tới. Ở Huế như chỉ có ban ngày với hoa phượng, với nắng với tình yêu.
Tàu qua đèo Cả vào mười hai giờ khuya. Long đau đớn nghĩ rằng giờ này là giờ hợp cẩn. Nguyệt nằm trong cánh tay của Phú, kết thúc giai đoạn hạnh phúc mà anh đã bắt đầu. Anh sẽ ít đau khổ nếu Phú là một người lạ mà một không hề quen biết. Đằng này không, Phú là bạn học của anh. Biết quá rõ về một người bạn để phải tưởng tượng rằng Nguyệt nằm trong tay người bạn ấy, anh thấy định mệnh đối với mình thật tàn ác. Anh muốn hét to lên, phẫn nộ, nhưng sợ ngượng, không dám. Anh nghĩ: nếu mình nhảy ra khung cửa tàu, lao xuống triền núi để cho nát tan khối óc, nơi đó những hình ảnh tưởng tượng cứ hiện ra, nối tiếp một cách tàn nhẫn. Nhưng anh vẫn ngồi im lặng. Sách vở bảo rằng tự tử là hèn nhát. Khi tàu dừng lại ở ga Ninh Hòa, anh thở dài tự nói với mình:
- Thực tế thì phải có can đảm lắm mới tự tử được. Thành thật mà nói thì sau đó anh đã quên được Nguyệt. Anh yêu vẩn vơ người này người khác. Tình yêu như một món ăn chớ ai bảo rằng họ chỉ ăn được một món này mà nhất thiết không thể ăn món kia. Chỉ khi nào tâm hồn cô đơn, khi một tình yêu cũ chấm dứt mà chưa có tình yêu mới bắt đầu, khi làm ăn thất bại.. là anh nhớ tới Nguyệt để mong tìm một hình ảnh êm đềm mà an ủi.
Hai năm sau, anh trở về thăm Huế. Cảnh vật như xưa, nhẫn nại trong sự bất biến. Dòng sông vẫn trôi lặng lẽ, những mái tóc vẫn chảy dài trên vai áo những cô gái. Long bắt gặp tâm hồn mình yêu thương man mác, buồn vui nhẹ nhàng như hai năm trước. Nhìn lại cảnh cũ, anh quên mất hiện tại. Những kỷ niệm êm đềm ngày xưa như có năng lực xóa mòn những cạnh góc gồ ghề nơi tâm hồn anh hôm nay. Anh tìm thăm Nguyệt. Phải chọn một giờ mà anh tin chắc là Phú đi làm vắng.
Người u già ra mở cổng. Anh vào ngồi ở xa lông, sau khi nói tên mình cho u già. Mươi phút sau cửa phòng mở. Không phải Nguyệt đi ra mừng rỡ chào anh mà Nguyệt nằm trên giường. Khuôn mặt nàng quá trắng, trên đó đôi mắt đen trông càng thêm đen. Môi chợt hé một nụ cười. Tóc xõa trên gối. Nguyệt nói:
- Anh lại ngồi cái ghế xa lông này cho em nhìn rõ mặt anh. Em không đi ra được. Em vừa sinh được một tuần. U già ơi, vén cao giùm cái màn cho tôi.
Long đổi ghế xa lông. Bức màn đã vén cao, anh nhìn thấy một cái nôi nhỏ đặt ở góc phòng. Bên cạnh là cái bàn thấp, trên sắp rất nhiều lon, lọ thủy tinh, chai sữa, bình thủy. Một tấm chăn hoa trải trên giường Nguyệt. Nguyệt nói: Hai năm rồi, chóng quá. Anh vẫn không thay đổi. Chỉ có em…
Nàng im lặng. Long thấy đôi mắt nàng sáng long lanh và liền đó hai giọt nước mắt lăn trên gò má.
- … Em tìm địa chỉ anh để viết thư cho anh nhưng hỏi không ra. Em biết anh giận em lắm. Nhưng em làm gì được? Em chỉ biết nhớ anh và cầu mong cho anh gặp một người yêu đẹp hơn em, giỏi hơn em. Anh đã cưới vợ chưa?
- Chưa.
Long phải đằng hắng to mới nói được một tiếng “chưa” ngột ngạt.
- Anh có giận em nhiều lắm không?
- Có
Nguyệt khóc thành tiếng
- Phải. Thà anh nói thật như thế để em yên tâm. Người con gái nào cũng phụ tình khi đi lấy chồng.
Long loay hoay sắp sửa đứng dậy. Nguyệt vội nói:
- Anh đi sao? Hai năm đằng đẵng mới gặp, anh ngồi với em thêm một lát. Anh có việc gì bận không?
- Không
Long lắc đầu.
- Vậy anh ngồi với em cho đến mười một giờ. Anh bây giờ đen hơn xưa một chút. Công việc làm ăn của anh ra thế nào?
- Tầm thường. Chắc thua xa chồng em.
- Anh đừng mỉa mai em, tội nghiệp. Em thật lòng với anh mà.
Long cũng tự thấy mình tàn nhẫn. Anh chọn một câu nói êm đềm hơn:
- Anh vẫn mong em được sống trong hạnh phúc
- Thực tế thì không được như vậy đâu. Nhưng mà thôi, mỗi người có một số mệnh.
Khi Long đứng dậy cáo từ, Nguyệt nói:
- Anh cho em biết địa chỉ của anh.
- 54 Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.
Nguyệt gật đầu:
- Em nhớ rồi. Số nhà của anh gấp đôi số nhà của em.
Long bước ra đến bên hiên thì Nguyệt gọi giật lại:
- Anh ơi.
Long quay lại, đứng đợi nàng hỏi, nhưng nàng chỉ nhìn chăm chăm mà không nói. Một lát nàng bảo:
- Thôi, anh đi. Nhớ viết thư cho em.
Bức thư trao đổi sau đó, tuy vậy, do Nguyệt viết. Nàng có mặc cảm rằng mình phạm lỗi nên thư viết rất thiết tha. Long trả lời ngắn hơn vì tự ái, nhưng trong thâm tâm anh vẫn tính nhẩm mong ngày thư của nàng đến. Anh cũng tham lam về tình cảm như mọi người khác. Dù vô vọng cũng muốn được yêu. Vả lại có gì đáng gọi là vô vọng đâu? Cuộc đời dành cho con người nhiều sự bất ngờ. Một ngẫu nhiên nhỏ có thể định đoạt trở lại một cuộc dàn xếp tưởng như là bất di dịch. Long nghĩ vẩn vơ đến đó rồi thôi. Cuộc đời bận rộn vì công việc mưu sinh, anh chỉ dành chừng hai giờ mỗi khi có thư Nguyệt đến để đọc thư và viết trả lời. Cho đến một ngày cách đây nửa năm, bỗng nhiên Phú được lệnh đổi vào Sài Gòn. Hai người đàn ông gặp nhau, vui vẻ một cách cố gắng. Họ thỉnh thoảng rủ nhau đi dạo phố, mời mọc nhau ăn uống. Cả hai dùng nhiều tiếng cuời, nhiều lời pha trò ồn ào để cố đánh tan tiếng nói của sự bất bình âm ỉ nơi lòng họ. Cả hai đều muốn tỏ ra độ lượng. Dần dần quen di, sự cố gắng không còn thấy khó khăn nữa. Họ gần trở về với thái độ bằng hữu vô tư ngày nhỏ thì chợt xảy ra căn bệnh hiểm nghèo của Phú hôm nay.
Long ái ngại nhìn bạn mình nằm thiếp đi. Trước hôm đau, Phú chạy lo giúp cho anh được hai sở thầu quan trọng. Phú nói:
- Xong hai sở này, cậu phải nghỉ một thời gian để lo việc vợ con. Không có vợ trong nhà thì làm được bao nhiêu cậu tiêu vung hết bấy nhiêu.

Giọng Long trầm trầm:
- Mình cũng biết vậy.
- Đã biết thì phải lo giải quyết chớ
- Nhưng giải quyết đâu phải dễ?
- Nhưng sao cậu cứ cho là khó? Tôi đã giới thiệu cô Mỹ cho cậu, cậu đã bằng lòng, thế mà cậu không chịu xúc tiến gì hết.
- Ờ thì mình bằng lòng, nhưng biết cô ấy có chịu không, ông cụ có chịu không?
Phú “xì” một tiếng, nhíu mày rồi gật đầu:
- Thôi được rồi. Chủ nhật mình đến thưa giùm với ông cụ cho.
Chủ nhật chưa đến thì Phú ngã bệnh.
NGƯỜI THỨ BA (2)
Từ ngày Phú đau, Long đến thăm lần này là lần thứ hai. Anh không ngờ bệnh Phú có thể phát triển đến mức trầm trọng nhanh như vậy. Lần đầu tiên đến thăm Phú, cách đây chừng nửa tháng. Phú còn ngồi tiếp anh ở giường. Vẻ măt có vẻ xanh xao, hốc hác, nhưng Phú còn mời anh một điếu thuốc và chính Phú cũng tự tay chăm thuốc hút, hít từng hơi khói ngon lành. Hai người bạn còn trao đổi với nhau những tin tức xa gần về tình hình trong nước. Khi bắt tay giã từ. Long chúc Phú chóng bình phục và Phú tươi cười nhận lời chúc. Không ngờ hôm nay đến thăm thì Phú chỉ nằm ẹp trên giường, nằm dán sát xuống nệm như không còn chiều dầy nữa. Một cái chăn mỏng đắp ngang thân mình. Đầu đặt nghiêng trên gối. Treo ở đỉnh màn là một chai serum được nối liền bằng một dây cao su vào mũi tiêm cắm thủng vào da đùi. Sérum chảy rất chậm làm phồng mảng đất nơi mũi tiêm. Nhìn phương pháp trị liệu rắc rối, tự nhiên Long thấy choáng váng: bệnh tình Phú đã trầm trọng như vậy sao? Anh đứng yên ở đầu giường. Nguyệt, vợ Phú cất tiếng nói khẽ vào tai chồng.
- Anh Long đến thăm mình.
Phú chỉ gật đầu. Vừa lúc ấy chị Sen bưng lên một ly mà anh đoán là nước cam, trong đó có cắm một ống hút. Nguyệt đưa tay đón lấy, rồi vừa nâng đầu chồng vừa đặt một đầu ống vào miệng. Mực nước ở ly vơi đi rất chậm. Chợt Phú sặc lên mấy tiếng. Nguyệt vội vã bỏ ly nước ra, rồi bằng cả hai tay vuốt ngực cho chồng. Tiếng ho sặc nhẹ như tiếng nấc của một đứa trẻ. Khi Phú nằm im trở lại, nàng lấy khăn lau miệng cho chồng, rồi cầm khăn khe khẽ chặm vào mắt. Có lẽ Phú đã khóc, nhưng vì đứng ở sau thành giường, Long không nhìn thấy. Nguyệt chặm nước mắt nhiều lần như vậy.
Từ nãy giờ, Nguyệt chỉ nhìn anh có một lần khi anh bước vào nhà. Vì bận lo lắng cho chồng, điều ấy đúng rồi, nhưng Long còn nghĩ rằng có lẽ vì nàng tự thấy mình tiều tụy. Chưa bao giờ anh gặp Nguyệt trong bộ áo quần nhàu nát như hôm nay. Tóc không chải kỹ, lòa xòa trước trán. Da mặt xanh mướt và mắt sâu xuống. Môi không tô son, nhợt nhạt.
Đứa con gái của Nguyệt lên bốn tuổi bước lại gần giường. Nó đưa bàn tay bụ bẫm lên cầm tay ba. Nguyệt nói:
- Con xuống nhà chơi với chị Sen, để ba nghỉ.
- Sao ba cứ nghỉ hoài rứa?
Giọng Huế nhè nhẹ thốt ra từ đôi môi nhỏ, nghe ngộ nghĩnh như tiếng nói riêng của búp bê. Nguyệt không trả lời con, với tay lấy ly nước cam rồi lại đặt một đầu ống hút vào miệng chồng. Long đưa mắt nhìn cảnh âu yếm đó mà xót xa nghĩ đến thân phận mình. Anh cũng có đau bệnh nhiều bận, nhưng chỉ tự mình săn sóc cho mình. Người làm của anh chỉ biết nấu cháo và pha sữa. Nếu cần ăn cam thì cũng tự tay anh bóc vỏ lấy. Tiêm thuốc đã có y tá. Lạ thật, thế mà không hiểu sao anh đã lành bệnh được. Có ai đoán trước ý muốn của anh để chiêu đãi anh như thế kia đâu? Ai chọn bác sĩ, ai chọn thức ăn, ai đoán là anh đang lạnh, đang nóng để mà tùy nghi đắp chăn hay vặn quạt? Khi đau nặng sợ chết, anh cũng có khóc đôi lần, nhưng rồi cũng phải tự mình đưa tay lên lau nước mắt. Thế mà anh vẫn sống được, lạ thật!
Có nhìn cách Nguyệt săn sóc chồng, anh mới chợt thấy rằng anh đã sống liều lĩnh mà không biết “Đáng lẽ mình đã phải chết từ lâu rồi, từ lâu rồi”. Ý nghĩ này lại làm anh xót xa thương cho thân phận mình, nhất là vì Nguyệt, chính Nguyệt sinh ra để săn sóc âu yếm anh chứ đâu phải để săn sóc Phú? Đáng lẽ anh và Nguyệt đã cưới nhau, nếu không có Phú chen vào. Phú là người tình địch của anh, người tình địch thắng trận. Phú có địa vị hơn anh, nên gia đình Nguyệt chọn Phú. Như mọi người con gái Huế khác, Nguyệt chỉ khóc. Và nói với người yêu chiến bại:
- Em không bao giờ quên anh.
Ồ, một người con trai, cho dù mới hai mươi lăm tuổi cũng đâu có dễ tin ở một lời hứa hẹn không bảo đảm như vậy. Nhưng vì không có cách nào khác, anh đành tạm nhận lời an ủi và nói lại, không quả quyết lắm:
- Anh cũng thế.
Nguyệt lấy chồng vào mùa hè. Hai cây phượng trước cổng nhà nàng hoa nở đầy cành, trông xa như những cánh tay quằn quại dưới sức nặng của những lễ vật màu đỏ. Chúng như cùng vào hùa với gia đình Nguyệt để tưng bừng đón mừng ngày cưới. Long ghét những cây phượng từ đó. Ngày xưa khi yêu nhau, hai người thường đi dưới bóng phượng. Phượng và ve thì ở Huế không thiếu. Nhìn những xác phượng rơi đầy ở sân một ngôi trường vắng lặng giữa mùa nghỉ hè, cả hai cùng nghĩ đến xác pháo của ngày cưới. Ngày cưới của hai người cố nhiên, vì con đường đi đến hạnh phúc bằng phẳng, rộng rãi, nhiều bóng mát như con đường Phan Chu Trinh, trên đó hai người đang chầm chậm đi. Thế mà Phú đã hiện đến, bất ngờ. Và Phú được chọn là người ở lại.
Ngày cưới Nguyệt, Long đáp tàu lửa bỏ thành phố. Anh tránh nghe tiếng pháo, tránh chứng kiến một cuộc rước dâu long trọng. Con tàu lùi lũi chạy và đôi đường sắt sau đuôi tàu như kéo dài theo mãi nỗi buồn không dứt của anh. Đôi đường sắt vẫn nối anh với Huế như tâm hồn anh vẫn nối liền với Nguyệt bằng những ý nghĩ vừa mãnh liệt vừa nhọc nhằn. Anh thấy lại Nguyệt dưới mọi khuôn mặt. Nũng nịu âu yếm, khi anh bẻ tặng nàng một đóa ngọc lan có con sâu nằm nấp dưới đài hoa. Rạng rỡ tươi vui, khi nàng vươn vai hai tay chèo thuyền thoi lướt vùn vụt trên sông An Cựu. Mơ mộng êm đềm, khi ngồi bên anh nàng phác họa những dự tính tương lai.
Tàu chạy sâu vào đêm tối. Đến đây anh có cảm tưởng mình bị cắt đứt với dĩ vãng. Đêm tối là hình ảnh của cuộc đời mà anh đang đi tới. Ở Huế như chỉ có ban ngày với hoa phượng, với nắng với tình yêu.
Tàu qua đèo Cả vào mười hai giờ khuya. Long đau đớn nghĩ rằng giờ này là giờ hợp cẩn. Nguyệt nằm trong cánh tay của Phú, kết thúc giai đoạn hạnh phúc mà anh đã bắt đầu. Anh sẽ ít đau khổ nếu Phú là một người lạ mà một không hề quen biết. Đằng này không, Phú là bạn học của anh. Biết quá rõ về một người bạn để phải tưởng tượng rằng Nguyệt nằm trong tay người bạn ấy, anh thấy định mệnh đối với mình thật tàn ác. Anh muốn hét to lên, phẫn nộ, nhưng sợ ngượng, không dám. Anh nghĩ: nếu mình nhảy ra khung cửa tàu, lao xuống triền núi để cho nát tan khối óc, nơi đó những hình ảnh tưởng tượng cứ hiện ra, nối tiếp một cách tàn nhẫn. Nhưng anh vẫn ngồi im lặng. Sách vở bảo rằng tự tử là hèn nhát. Khi tàu dừng lại ở ga Ninh Hòa, anh thở dài tự nói với mình:
- Thực tế thì phải có can đảm lắm mới tự tử được. Thành thật mà nói thì sau đó anh đã quên được Nguyệt. Anh yêu vẩn vơ người này người khác. Tình yêu như một món ăn chớ ai bảo rằng họ chỉ ăn được một món này mà nhất thiết không thể ăn món kia. Chỉ khi nào tâm hồn cô đơn, khi một tình yêu cũ chấm dứt mà chưa có tình yêu mới bắt đầu, khi làm ăn thất bại.. là anh nhớ tới Nguyệt để mong tìm một hình ảnh êm đềm mà an ủi.
Hai năm sau, anh trở về thăm Huế. Cảnh vật như xưa, nhẫn nại trong sự bất biến. Dòng sông vẫn trôi lặng lẽ, những mái tóc vẫn chảy dài trên vai áo những cô gái. Long bắt gặp tâm hồn mình yêu thương man mác, buồn vui nhẹ nhàng như hai năm trước. Nhìn lại cảnh cũ, anh quên mất hiện tại. Những kỷ niệm êm đềm ngày xưa như có năng lực xóa mòn những cạnh góc gồ ghề nơi tâm hồn anh hôm nay. Anh tìm thăm Nguyệt. Phải chọn một giờ mà anh tin chắc là Phú đi làm vắng.
Người u già ra mở cổng. Anh vào ngồi ở xa lông, sau khi nói tên mình cho u già. Mươi phút sau cửa phòng mở. Không phải Nguyệt đi ra mừng rỡ chào anh mà Nguyệt nằm trên giường. Khuôn mặt nàng quá trắng, trên đó đôi mắt đen trông càng thêm đen. Môi chợt hé một nụ cười. Tóc xõa trên gối. Nguyệt nói:
- Anh lại ngồi cái ghế xa lông này cho em nhìn rõ mặt anh. Em không đi ra được. Em vừa sinh được một tuần. U già ơi, vén cao giùm cái màn cho tôi.

Long đổi ghế xa lông. Bức màn đã vén cao, anh nhìn thấy một cái nôi nhỏ đặt ở góc phòng. Bên cạnh là cái bàn thấp, trên sắp rất nhiều lon, lọ thủy tinh, chai sữa, bình thủy. Một tấm chăn hoa trải trên giường Nguyệt. Nguyệt nói: Hai năm rồi, chóng quá. Anh vẫn không thay đổi. Chỉ có em…
Nàng im lặng. Long thấy đôi mắt nàng sáng long lanh và liền đó hai giọt nước mắt lăn trên gò má.
- … Em tìm địa chỉ anh để viết thư cho anh nhưng hỏi không ra. Em biết anh giận em lắm. Nhưng em làm gì được? Em chỉ biết nhớ anh và cầu mong cho anh gặp một người yêu đẹp hơn em, giỏi hơn em. Anh đã cưới vợ chưa?
- Chưa.
Long phải đằng hắng to mới nói được một tiếng “chưa” ngột ngạt.
- Anh có giận em nhiều lắm không?
- Có
Nguyệt khóc thành tiếng
- Phải. Thà anh nói thật như thế để em yên tâm. Người con gái nào cũng phụ tình khi đi lấy chồng.
Long loay hoay sắp sửa đứng dậy. Nguyệt vội nói:
- Anh đi sao? Hai năm đằng đẵng mới gặp, anh ngồi với em thêm một lát. Anh có việc gì bận không?
- Không
Long lắc đầu.
- Vậy anh ngồi với em cho đến mười một giờ. Anh bây giờ đen hơn xưa một chút. Công việc làm ăn của anh ra thế nào?
- Tầm thường. Chắc thua xa chồng em.
- Anh đừng mỉa mai em, tội nghiệp. Em thật lòng với anh mà.
Long cũng tự thấy mình tàn nhẫn. Anh chọn một câu nói êm đềm hơn:
- Anh vẫn mong em được sống trong hạnh phúc
- Thực tế thì không được như vậy đâu. Nhưng mà thôi, mỗi người có một số mệnh.
Khi Long đứng dậy cáo từ, Nguyệt nói:
- Anh cho em biết địa chỉ của anh.
- 54 Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.
Nguyệt gật đầu:
- Em nhớ rồi. Số nhà của anh gấp đôi số nhà của em.
Long bước ra đến bên hiên thì Nguyệt gọi giật lại:
- Anh ơi.
Long quay lại, đứng đợi nàng hỏi, nhưng nàng chỉ nhìn chăm chăm mà không nói. Một lát nàng bảo:
- Thôi, anh đi. Nhớ viết thư cho em.
Bức thư trao đổi sau đó, tuy vậy, do Nguyệt viết. Nàng có mặc cảm rằng mình phạm lỗi nên thư viết rất thiết tha. Long trả lời ngắn hơn vì tự ái, nhưng trong thâm tâm anh vẫn tính nhẩm mong ngày thư của nàng đến. Anh cũng tham lam về tình cảm như mọi người khác. Dù vô vọng cũng muốn được yêu. Vả lại có gì đáng gọi là vô vọng đâu? Cuộc đời dành cho con người nhiều sự bất ngờ. Một ngẫu nhiên nhỏ có thể định đoạt trở lại một cuộc dàn xếp tưởng như là bất di dịch. Long nghĩ vẩn vơ đến đó rồi thôi. Cuộc đời bận rộn vì công việc mưu sinh, anh chỉ dành chừng hai giờ mỗi khi có thư Nguyệt đến để đọc thư và viết trả lời. Cho đến một ngày cách đây nửa năm, bỗng nhiên Phú được lệnh đổi vào Sài Gòn. Hai người đàn ông gặp nhau, vui vẻ một cách cố gắng. Họ thỉnh thoảng rủ nhau đi dạo phố, mời mọc nhau ăn uống. Cả hai dùng nhiều tiếng cuời, nhiều lời pha trò ồn ào để cố đánh tan tiếng nói của sự bất bình âm ỉ nơi lòng họ. Cả hai đều muốn tỏ ra độ lượng. Dần dần quen di, sự cố gắng không còn thấy khó khăn nữa. Họ gần trở về với thái độ bằng hữu vô tư ngày nhỏ thì chợt xảy ra căn bệnh hiểm nghèo của Phú hôm nay.
Long ái ngại nhìn bạn mình nằm thiếp đi. Trước hôm đau, Phú chạy lo giúp cho anh được hai sở thầu quan trọng. Phú nói:
- Xong hai sở này, cậu phải nghỉ một thời gian để lo việc vợ con. Không có vợ trong nhà thì làm được bao nhiêu cậu tiêu vung hết bấy nhiêu.
Giọng Long trầm trầm:
- Mình cũng biết vậy.
- Đã biết thì phải lo giải quyết chớ
- Nhưng giải quyết đâu phải dễ?
- Nhưng sao cậu cứ cho là khó? Tôi đã giới thiệu cô Mỹ cho cậu, cậu đã bằng lòng, thế mà cậu không chịu xúc tiến gì hết.
- Ờ thì mình bằng lòng, nhưng biết cô ấy có chịu không, ông cụ có chịu không?
Phú “xì” một tiếng, nhíu mày rồi gật đầu:
- Thôi được rồi. Chủ nhật mình đến thưa giùm với ông cụ cho.
Chủ nhật chưa đến thì Phú ngã bệnh.
Lạnh Tuổi Thơ
Xe Giang vừa từ đường Nguyễn Hoàng rẽ sang đường Hồng Bàng thì đã có tiếng reo to của hai đứa con: Hào và Thủy. Như phục binh nằm nấp sẵn, vừa thoáng thấy bóng chàng là thằng Hào nhảy ra vồ, rồi chạy rượt theo xe. Và như đã có ám hiệu trước, bé Thủy nghe tiếng xe nổ lạch bạch và tiếng vồ thì lật đật chạy vù một mạch từ nhà ra đón chàng, chạy bất kể những chỗ lồi lõm của chức năng đường cát. Khi xe dừng lại ở sân thì hai đứa con đã chạy theo kịp, đứng hai bên, thở hổn hển. Câu chàng hỏi đầu tiên bao giờ cũng là:
- Chị Hằng đi học về chưa?
Thủy đáp liền:
- Rồi.
Hào thì nói loanh quanh dài dòng hơn. Chỉ vì chị Hằng bao giờ cũng có chuyện ăn hiếp nó nên hễ hỏi tới Hằng là lúc nào nó cũng phải cố tìm để kèm theo câu trả lời, một câu than phiền nào:
- Chị về rồi. Chị ăn hết trái cam rồi. Chị không cho con.
Thủy phụ họa theo:
- Chỉ cho con có một tép.
- Chỉ cho con có một tép.
- Chị cốc vào đầu con. Giang dắt hai con đi vào nhà. Chàng không lưu ý lắm đến những chuyện bi bô của hai con. Chàng vui mừng vì cả gia đình họp mặt đầy đủ. Tạm gọi là đầy đủ vậy thôi vì đầy đủ thế nào được khi gia đình thiếu mất một người vợ, một người mẹ. Từ ngày Bảo mất đi, gia đình của chàng bỗng thấy thu nhỏ lại hết sức. Cái gia đình bốn cha con này xúm quanh nhau, đều đặn như bốn cái chân của một chiếc ghế, bốn cái ghế của một bộ xa lông. Trừ những giờ đi làm, đi học, còn thì bốn cha con cứ quây quần bên nhau…. Buổi sáng, họ chia nhau bốn cái bàn chải đánh răng, chuyền tay cho nhau hộp perlon, thay phiên nhau sì sụp trong hai thau nước và lau mặt bằng bốn cái khăn mặt treo thành một dãy. Tiếp theo là bốn mẩu bánh mì đặt cạnh bốn tách sữa.
7 giờ kém 10 phút, Giang xách xe đi làm, Hằng đạp xe đi học, Hào và Thủy còn nhỏ phải ở nhà tự học vừa coi chừng nhà. Hào làm toán và tập chép bài. Thủy tập đánh vần. Trưa 11 giờ, chiều 5 giờ, Giang kiểm điểm lại cái gia đình nhỏ của mình, vui mừng được sum họp. Những buổi Hằng đi học về chậm là chàng lo lắng vì sợ xe cộ. Những bữa chàng đi làm lỡ phải về chậm thì chắc khỏi ai lo. Vì Hằng mê mải đọc truyện, Hào mê mải chơi. Chỉ có Thủy là thẫn thờ đứng ở cửa đợi ba về. Vẻ mặt buồn vì cô đơn. Chàng nhớ lại mới ngày nào, Bảo cũng hay đứng ở cửa đợi chàng như thế.
Ngồi vào bàn ăn, Hào hỏi:
- Đố ba biết hôm nay ăn món gì?

Thủy nhanh miệng trả lời:
- Cốt lét nấu với cà.
Hằng tiếp theo:
- Đúng, cốt-lết nấu với cà.
Ba chị em phá ra cười ầm ĩ.
Số là bà nấu bếp vụng về, cứ lần nào Giang quên dặn đi chợ mua món gì, nấu món gì là bà trở về món cố hữu của bà: cốt lết nấu với cà. Lâu thành thói quen, nên mỗi khi nhắc tới cái tài của bà bếp là ba chị em tranh nhau la lên:
- Cốt lết nấu với cà.
Bốn cha con đã ngồi vào bốn ghế mà bàn ăn vẫn mới chỉ có khăn bàn, 12 giờ rồi. Thủy lãnh ngồi ở ghế cạnh ba để ba vuốt ve cho. Má mất hồi Thủy mới lên ba, Thủy thiếu những cái vuốt ve của má nên mỗi lần được ba vuốt tóc, vuốt lưng, nắm tay thì Thủy mỉm cười sung sướng lắm. Thủy sợ chị Hằng và anh Hào ganh tỵ nên thỉnh thoảng hay liếc nhình về hai người
Bà bếp dọn bàn. Những món ăn không thay đổi. Hằng than phiền:
- Con chán quá. Con không muốn ăn nữa.
Hào cũng bắt chước:
- Con cũng chán quá, con không muốn ăn nữa.
Thủy nhìn sang ba, ngầm ý hỏi không biết nên bỏ chén đũa xuống bàn để “chán quá” như chị và anh hay nên cứ cầm bát đũa như ba. Giang bảo:
- Các con chịu khó ăn đi. Aên cốt cho bổ chớ đâu chỉ cốt cho ngon. Này, có thịt bò này, rất bổ. Có tôm này, cũng rất bổ… Ồ! Có cả rau nữa, đại bổ, đại bổ.
Thủy nói:
- Thôi ăn đi chị Hằng, ba nó bổ mà.
Hằng nhíu mày, nạt:
- Mày biết cái gì!
Thủy mở to mắt nhìn ba, miệng mếu xệu. Ba phải ôm lấy đầu Thủy, hôn vào tóc mà nói:
- Chị Hằng giỡn đấy. Thủy biết chớ sao không biết.
Hào chêm vào:
- Nó mà biết cái gì. Có ba ở nhà, nó làm nũng đó. Khi ba chưa về, chị Hằng nạt nó và đánh nó, nó không dám khóc.
- Đừng nạt và đánh em. Em có làm cái gì sai thì dạy em. Các con cũng biết nếu còn má thì em đâu có khổ. Hồi hai đứa con bằng nó, má còn sống, má săn sóc cho hai đứa con.
Không biết trả lời sao, Hằng “xì” một tiếng và Hào “xịt” một tiếng. Giang và cơm, nhai ngon lành rồi mời:
- Thôi, mời các bạn ăn đi.
- Con không ăn
- Con không ăn
Giang vừa nhai cơm vừa chậm rãi nói:
- Bà Thứ (tên bà nấu bếp) không phải là bếp chuyên môn thì nấu món ăn làm sao cho thật khéo được. Nhà không có má, không ai coi chừng nhà, ba phải mượn bà Thứ vì bà thật thà, hiền lành. Ba có thể thuê người nấu ăn khéo hơn, nhưng khi cha con ta đi vắng hết, lỡ phải kẻ gian họ dọn đồ đạc đi mất hết thì làm sao?
Nhưng Hằng đã không nghe mà đang cầm lên tập truyện để coi tiếp. Hào cũng không nghe mà đang lắp lại cái bánh xe cao su. Thấy con lơ đãng hết, Giang hỏi to:
- Nghe chưa?
Cả ba giật mình.
- Các con muốn ăn ngon thì các con phải chịu khó đi kiếm về đây một bà dì ghẻ. Bà dì ghẻ sẽ coi sóc sự nấu nướng cho thật ngon cho các con ăn.
- Nhưng bà dì ghẻ hay đánh lắm - Hằng vội vã nói.
Thủy ngây thơ tiếp:
- Bà dì ghẻ có ghẻ.
Ba cha con cười ầm lên vì lời nói ngớ ngẩn của Thủy

- Thì các con phải lựa lấy. Một là chịu ăn không ngon, hai là tìm về một bà dì ghẻ để được ăn ngon. Ai thích ăn ngon?
Hào giơ tay:
- Con.
Thủy giơ tay theo:
- Con
Hằng lắc đầu:
- Thôi, thà con chịu ăn không ngon. Con không muốn có dì ghẻ.
Thủy cũng nói:
- Con không muốn có dì ghẻ.
Hằng dõng dạc ra lệnh:
- Thôi ăn đi bay. Kệ nó, ăn không ngon cũng được.
Hào nói theo:
- Ăn đi bay.
Thủy cũng nói:
- Ăn đi bay.
Cả ba hăng hái ăn. Món ăn không đến nỗi dở, khi ba chị em ăn hăng hái.
Ăn tráng miệng xong, Giang bắt ba con vào phòng, xếp mỗi đứa một giường cho chúng nghỉ trưa với mình. Nhưng Hào và Thủy không thể nghiêm trang nằm đợi ngủ mà phải chính giấc ngủ lôi cuốn chúng bằng một sức mạnh chúng không thể cưỡng lại được. Ví dụ ngủ đang giữa bữa cơm. Ví dụ ngủ giữa hai trang sách mở, ngủ khi bị rầy, ngồi thút thít một mình ở góc giường. Nhưng bảo nằm song song mỗi đứa mỗi giường thì nhất định chúng lén quay mặt đối nhau rồi khúc khích cười với nhau. Sợ bị rầy, thế nào cũng có một đứa lên tiếng giả bộ rầy đứa kia:
- Im đi, để ba ngủ.
Rồi chính đứa đó lại nằm còng queo lại rúc rích cười. Đứa kia không chịu thua cũng vội nằm sấp xuống giường, úp mặt vào gối mà lưng và bụng thì rung lên vì những trận cười không dám cho thoát ra miệng nên phải đẩy lui vào ngực vào bụng. Không nỡ rầy con, Giang cứ để mặc, gắng nhắm mắt ngủ. Nhưng vừa mơ màng thì chàng chợt bị giật mình vì một tiếng “éc” không biết của đứa nào không kìm giữ được phải bật lên. Thế là hai đứa bị đuổi ra phòng khách và chàng phải khóa trái cửa lại. Những điều này, khi còn Bảo, chàng không thấy bao giờ xảy ra. Bây giờ có xảy ra chàng mới để ý rằng trước kia đã không hề có. Tìm hiểu một chút, chàng thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà sự thể lại xảy ra khác nhau, ngày trước và bây giờ. Không, phải có một sự xếp đặt kín đáo và dịu dàng của Bảo, lũ con mới “biến đi đâu mất” không quấy rầy giấc ngủ trưa của chàng. Tự nhiên, cũng như mỗi lần nghĩ đến người vợ hiền ngày xưa, chàng thoáng nghe như có một tiếng thở dài nhẹ đâu đây, như có một bóng mát đổ xuống mau, như mơ hồ có một tiếng giã từ, như có một giọt nước mắt sắp rưng rưng. Có thật hay tưởng tượng. Mông lung man mác quá, chàng không tìm hiểu nữa.
Buổi tối ăn xong, Giang lại nằm im ở đi văng và gọi Hào lại nằm một bên, Thủy nằm một bên. Ba cha con nói chuyện bâng quơ. Giang hỏi con về những trò chơi trong ngày. Thế là không biết để tai mà nghe ai nữa. Hào tranh phần nói và Thủy cũng không kém. Có điều Giang hỏi đứa nào chơi cái gì thì bao giờ chúng cũng báo cáo công việc của đứa kia. Thủy nói:
- Ba ơi, anh Hào chạy ra đường chơi cả buổi không chịu học… Anh chơi với thằng Ngọc. Hai đứa cởi trần ra rồi chạy rượt nhau. Hào vừa cười vừa cướp lời:
- Ba ơi, còn con Thủy xé lá dừa nhà mình buôn bán với lũ con Cúc, con An, rồi xả rác ngoài sân.
- Ba ơi, còn anh Hào…
Cuộc “hội báo” biến thành cuộc cãi vã nhau. Hằng, cả hai đá nhau, thụi nhau, và đá nhằm cả vào sườn của người cha nằm giữa. Người cha bị bắt buộc phải hiền lành hết sức, trở lại đóng vai trò hòa giải như thường lệ:
- Không được đánh.
- Nó đánh con trước.
- Mày đánh tao trước.
- Thôi, tao đứng dậy để chúng bây đánh nhau cho rộng chỗ.
Vừa nói, Giang vừa ngồi dậy. Thủy đu vào tay níu theo. Hào cũng quàng hai tay kéo cổ Giang xuống vừa thét lên: Không cho đi. Không cho đi. Cột con bò này lại”
Hằng đang ngồi may áo đầm cho búp bê ở bàn, quắc mắt sang đi văng:
- Thằng Hào hỗn đấy hả? Mày nói ba là con bò hả?
Giang cười:
- Tao là con bò thiệt, tụi bay ơi. Mà là con bò cái.
Câu khôi hài bất ngờ và có vẻ ngộ nghĩnh khiến ba đứa con cười ồ lên một loạt.
- Chớ sao. Ba là con bò cái, còn ba đứa bay là ba con bò con. Ba đi làm nuôi mấy đứa con thì cũng như con bò cái cho mấy con bò bú sữa.
Hào hỏi:
- Nhưng mà ba đâu có sữa?
- Ba đâu có vú giống con bò? Thủy tiếp theo.
- Là ba nói ví dụ như vậy.
- Ví dụ là cái gì, hở ba? Là cái vú hả?
Nghe câu hỏi ngớ ngẩn của Thủy, Hằng phá ra cười. Thấy chị cười, Thủy cười theo rồi sục vào ngực Giang như một con bò con sục vào vú mẹ.
Tám giờ, Giang ngồi dậy, lại bàn viết. Chợt ở ngoài cổng có tiếng chó sủa và tiếng giày dép lê trên đường, cạnh rào. Tiếng một đứa trẻ:
- Nhé, mợ nhé, mợ nhớ mua cho con một cái xe đạp trẻ con đấy nhé?
- Ờ.
Tiếng một đứa trẻ khác:
- Còn mợ mua cho con một cái nón có bao ni lông vẽ hoa nhé. Cái nón cũ con xơ cả vành rồi.
- Ờ.
Tiếng nói im lặng nhường cho tiếng guốc dép, tiếp theo là tiếng người đàn bà giục:
- Bước nhanh lên một tí, các con. Họ sắp hát rồi đấy.
Giang hỏi các con:
- Lũ con Vinh, con Chi nó đi đâu với mợ nó?
- Đi coi cải lương - Hằng trả lời.
Hào nhăn mặt, vẻ nài nỉ:

- Ba không cho lũ con đi cải lương lần nào hết. Lũ con Chi, con Vinh đi luôn với mợ nó.
- Chúng nó có mợ chúng nó dẫn đi.
Thủy chen vào:
- Con biết rồi. Mợ nghĩa là má.
- Thủy giỏi, biết mợ là má. Các con không có má thì ai dẫn đi. Ba bận luôn, các con thấy đó, dẫn đi gì được.
Hằng ngừng tay khâu, ngẩng lên hỏi:
- Thế chị Hương đâu có má mà chị đi coi hát luôn. Chị đến rủ con hoài.
- Có dì ghẻ nó dẫn đi.
Hào phân bì.
- Sướng hơn lũ con.
Hằng nhún vai:
- Thôi đi mày ơi. Dù có cho đi đi nữa thì lúc mặc quần áo vào ba cũng nổi xung mà la lên.
Giang phì cười:
- Ai không nổi xung cho được. Con coi, trong ba đứa, chỉ có mình con là biết tự lo mặc quần áo lấy, còn ông Hào thì thôi, áo đứt nút, quần mất nịt, giày mỗi thứ chỉ còn một chiếc.
- Tại bà Thứ không đính nút cho con.
- Thì tại bà Thứ chớ ba đâu có nói tại con. Bà ta vụng và chậm mà lại. Đặt trước quên sau, đặt sau quên trước mà lại. Hằng nhắc:
- Ba quên chưa kể phần con Thủy.
- À, còn phần con Thủy. Aùo đầm cả ba cái đều dơ, nhét vào một xó nào không đưa giặt, đến hồi đi, mở toang mấy va-li, lục tung mấy tủ mà kiếm không ra áo. Rồi may ô của nó, bà Thứ bỏ lộn sang của ba. Rồi…
Thủy tiếp lời, thú vị như khi đọc một bài học thuộc lòng:
-... Rồi móng tay chưa cắt.. Rồi tóc chưa kịp chải.
- Đúng lắm. Đúng lắm.
Giọng Hằng hơi dỗi:
- Nói theo ba thì ở Nha Trang đây không có đứa nhỏ nào đi coi hát hết.
- Nhưng những đưa đi coi hát, chúng đều có má dẫn đi.
- Chị Hương đâu có má?
- Kìa! Ba vừa nói rằng nó có dì ghẻ. Dì nó lo mua quần mua áo, mua giầy mua dép, dẫn đi uốn tóc, chỉ bảo cho người ở sắp dọn ngăn nắp. Khi đi đâu, có dì nó săn sóc cho. Ba nó chỉ có việc đưa tiền. Còn ba, cực chưa! Con có nhớ mấy lần ba phải dẫn con đi len lỏi vào giữa chợ Đầm để lựa mua áo cho con và cho mấy em không? Con có còn nhớ lần ba mua pyjama cho con Thủy, ba đã nói rõ ràng là mua cho con gái, thế mà cô hàng cứ đưa pyjama con trai, rồi nằng nặc nói rằng đó là của con gái và ba không biết cứ mua lầm đó sao.
Hào hỏi mau:
- Thế sao ba không kiếm dì ghẻ như ba chị Hương?
- Ủa! Hồi trưa ăn cơm, mấy người nói không muốn có dì ghẻ cơ mà!
Hào “à.. à” vừa gật đầu chữa thẹn. Mọi người im lặng. Chợt Hào nhảy bám vào lưng ba, kề miệng vào tai ba nói nhỏ. Ba lắng tai nghe một lát rồi cười to lên. Hằng và Thủy đồng thanh hỏi:
- Nó nói cái gì thế ba?
- Cái gì hở ba?
Ba vẫn cười to:
- Tụi bây biết nói cái gì không? Nó nói: Ba ơi, kệ nó, dì ghẻ cũng được.
Vết Hằn Năm Tháng
Mình về có nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
(Ca dao)
Biên bản hội đồng đánh làm năm bản, đặt trên bàn. Các giám khảo lần lượt ký vào chỗ trống trước tên mình. Tên các giám khảo xếp thẳng hàng, thản nhiên, vô nghĩa. Những họ Nguyễn, họ Trần lặp lại, những chữ lót Văn, Đình, Trọng, Đức… không “nói” một cái gì hết. Chữ chỉ tên cũng vậy. (Thật bất lực là những danh từ). Doãn nghĩ. Người đọc không biết nên tưởng tượng một vẻ mặt như thế nào cho thích ứng với một tên Cẩm Vân, tên Kính, tên Lệ Hoa.
Doãn đặt bút ký xuống tập biên bản và chàng cảm nghe nỗi buồn nản của sự tàn tạ. Mười lăm ngày làm việc đã trôi qua. Sự hoạt động náo nhiệt rộn ràng đến nay đã kết thúc. Nhanh như vậy sao? Chừng như mới hôm qua hôm kia, chàng bước từ bụng phi cơ xuống đất, rồi chiếc vali nằm bên đùi chàng trên sàn một chiếc xe xích lô chạy phiêu lưu giữa thành phố. Những bất tiện trong việc ăn ở, những bất như ý trong khi làm việc, tất cả đứng trỗi dậy như những cây chông làm chàng bực mình, nhưng cuối cùng cũng được dàn xếp êm nhẹm xuôi chiều, do thói quen. Những khuôn mặt xa lạ, kín mít, nghi kỵ mỗi ngày một cởi mở hơn để biến thành bạn bè. Và khi cuộc sống trở nên dễ chịu thì chàng lại phải từ giã nó… Căn phòng họp hội đồng rộng thênh thang, bàn kê dài theo bốn cạnh của hình chữ nhật. Ngày đầu họp đông đủ, người ngồi phải chen nhau. Càng vào những ngày chót, số người dự càng vắng bớt. Cho đến hôm nay, khi hội đồng coi như đã làm xong nhiệm vụ, khi biên bản đã ký thì số giám khảo có mặt trong phòng họp quá đỗi rải rác.

Người ta đến để ký biên bản, ký vào bản chiết tính số bài chấm, lấy giấy lộ trình. Có người đến tìm một khuôn mặt quen, nói vài câu chuyện bâng quơ để ngày mai lên tàu giã biệt. Đó đây từng nhóm giám khảo độ năm, bảy người tụ họp lại theo trung tâm để làm giấy chứng chỉ cho thí sinh đậu. Sự sống còn nhen nhúm thành từng ổ nhỏ như vậy qua tiếng rao tên họ, ngày và nơi sinh của người thí sinh may mắn. Sự sống còn biểu lộ bằng tiếng cười, bằng những tia mắt nhìn trao đổi, bởi ở mỗi nhóm như thế thường có một vài nữ giám khảo. Những chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký trung tâm làm việc khắc khổ hơn với những nét mặt đăm chiêu. Ông chánh chủ khảo đi đi lại lại, nghiêm khắc với mọi người và nghi ngờ mọi người
Doãn bước sang phòng học bên cạnh, định dùng thì giờ rỗi để viết mấy cái thư cho bạn. Đi đến chỗ lạ, viết thư gởi bạn để phong bì thư mang dấu của nhà bưu điện địa phương, để người bạn ngồi tưởng tượng thấy một khung cảnh địa dư mới, chàng cho là không có gì thú vị bằng. Một số địa chỉ của bạn, chàng đã mang theo sẵn đó, nhất là địa chỉ của những người đàn bà mà vì lẽ này hay lẽ khác chàng đã không thể viết thư thường xuyên. Lần này chàng mượn cớ là vì đi xa mà có bức thư thăm hỏi, bức thư sẽ được nhận một cách tự nhiên, nối lại dây tình cảm bị buông lỏng, tô đậm một nét cảm tình còn quá mơ hồ. Viết thư cho đàn bà cũng như mua vé xổ số. đừng mong đợi thư trả lời của họ cũng như đừng mong mỏi ngày mở số. Có thể nó sẽ đến đúng ngày, có thể chậm đôi ba ngày, một tuần, một tháng, năm bảy tháng, cũng có thể không nhận gì hết. Nhưng mà lúc nào cũng nuôi một hy vọng sẽ nhận được thư và có những cái thư đến rất đỗi bất ngờ.
Chàng nhớ lời của một cô bạn đồng nghiệp bảo, khi thấy chàng trao một xấp thư nhờ người tùy phái đi bỏ giùm:
- Ông Doãn này, chắc ông viết thư hay lắm.
- Chưa ai khen điều đó.
- Nhưng tôi biết là ông viết thư phải hay. Tôi mong được đổi đi một tỉnh xa để được đọc thư của ông.
Chàng không biết nên hiểu lời khen ấy như thế nào.
Khen hay chê? Người đàn bà đẹp và thông minh bao giờ cũng nói khó hiểu. Lúc nào cũng muốn bắt người đàn ông loay hoay tìm đáp số về mình. Tươi cười vồn vã đó rồi nghiêm trang lạnh lùng đó, người đàn bà thật kỳ ảo trong việc bắt người đàn ông hồi hộp.
Chàng nheo mắt nhìn giây lâu mà không nói. Quả tình một nụ cười nhỏ làm hé vành môi hồng nhạt và đôi mắt linh động ranh mãnh làm cho câu nói vừa rồi thêm duyên.
Chàng đi lại bàn thầy giáo, ngồi xuống ghế, rồi mở cái cặp xách tay lấy giấy bút. Sau khi biên địa danh và ngày tháng, chàng không biết nên xưng hô như thế nào và không biết nên viết cho ai trước. Lạ nhỉ? Sao tự nhiên những người bạn gái và những người yêu của mình đó bỗng nhiên xa lạ với mình hết sức, và giờ này? Mặc dù nghĩ đến Duyên chàng thấy ngay đôi mày cong của nàng, đôi mắt mở rộng và đôi môi lúc nào cũng như chuẩn bị để làm dỗi. Trong thư chót nàng viết:
“… thỉnh thoảng anh viết cho em ít dòng..”. Bây giờ có thể là một lúc “thỉnh thoảng” đây. Thốt nhiên, chàng nhớ kỹ đến mùi nước hoa đặc biệt của nàng thoang thoảng thoát ra từ đôi má láng mịn, từ chân tóc nâu nâu và một niềm xót xa như bấm mạnh vào một nơi nào đó của tim chàng. Với niềm đau và tình yêu pha lẫn, chàng định viết “Em Duyên” nhưng chàng nghĩ ngay đến người chồng của Duyên. Người đàn ông lớn tuổi, cam phận đó, như còng lưng thêm xuống mỗi lần thấy vợ mình đẹp và mỗi lần phải tiếp những người bạn cũ của vợ. Anh có mọi nhược điểm của một người chồng: xấu trai, ăn nói vô duyên và cũng những hai vợ. Chỉ có một ưu điểm: giàu. Anh biết Duyên đã yêu trước khi Duyên gặp anh. Anh cũng biết Duyên bằng lòng lấy anh vì anh trả lời đúng cho một hoàn cảnh chớ tuyệt nhiên không vì tình yêu.
Doãn thấy thương hại con người đàn ông thành công nửa chừng đó. Đến đây, bổn phận - bổn phận của một người ngoại cuộc và tình yêu giằng co nhau trong khối óc của chàng. Và một sự bắt đầu có nhiều trở ngại nguyên nhân khiến cho khi nghĩ đến việc viết cho Ngọc Yến, chàng cũng lẩn thẩn nghĩ tiếp: “Liệu Ngọc Yến có còn nhớ mình không? Một thiếu nữ cỡ như nàng, ở ngay giữa Sài Gòn, đâu có rỗi thì giờ để ngồi mong một bức thư xa của mình. Nàng có nhiều mối tình. Không chừng thư mình đến nhằm vào lúc nàng đi ăn kem… Với người yêu ở đường Lê Lợi”.
Chàng chuyển ý nghĩ sang Minh Tuyết, một cô bạn hiện ở Pháp. Người đàn bà tha hương này trong mọi bức thư đều nài chàng nhắc đến quê hương
“ …Anh hãy tả cho Minh Tuyết nghe cây mận, cây ổi ở nhà anh đi. Tả cho thật tỷ mỷ, tả sao cho Minh Tuyết cảm nghe thèm thuồng mùi thơm của quả, cho Minh Tuyết tưởng như đang kề răng cắn và vị chua vị ngọt thắm tràn vào mọi vi thể của vị giác...”
“ …Rằm tháng bảy anh được đi lễ chùa nhỉ, sướng quá. Anh lại còn nhớ gửi tặng Minh Tuyết một lá bồ đề. Minh Tuyết cám ơn lắm. Minh Tuyết nhớ nhà quá, nhớ từng con kênh, con rạch, từng tảng đá, bờ ruộng, con cò, dến một cái chòi giữ bắp ở một triền núi nào mà có một lần Minh Tuyết ngó thấy. Xa quê hơn mười năm rồi, bây giờ hình ảnh nào gợi lên, Minh Tuyết cũng thấy đẹp hết...”
“ …Đôi guốc anh gởi sang, Minh Tuyết không mang đâu. Minh Tuyết đặt trên bàn để mà nhìn thôi. Rồi Minh Tuyết tưởng như nghe rộn rã bên tai tiếng guốc của lũ học trò nhỏ lốc cốc đi đến trường...”
Doãn nghĩ: Có lẽ chỉ có Minh Tuyết là cần một bức thư của mình. Bút chàng vòng một chữ M để bắt đầu. Nhưng chàng chợt đứng dậy, lẩm bẩm một mình.
- Hão huyền. Hôm nay mới thượng tuần tháng năm. Phải nửa tháng nữa Minh Tuyết mới từ St Tropé về.
Thế là bức thư nào cũng không viết được. Không có ai tha thiết mong một cái thư của chàng cả. “Như vậy thì sao chàng lại cặm cụi dùng những giờ úa héo của buổi chiều tàn này mà viết cho họ?” Ý nghĩ này làm tê cóng khối óc và những chữ viết như tắt nghẽn ở cổ họng cán bút. Chàng chán nản đưa mắt nhìn khắp phòng.
Bàn ghế xếp đều đặn, trên mặt bàn còn lờ mờ dấu phấn trắng ghi sổ ký danh của thí sinh. Đó đây còn rải rác vài tờ giấy nháp màu xanh, màu hồng, màu vàng nằm nấp ở dưới chân bàn, chân ghế. Từng cơn gió mạnh ở mặt bể thổi vào, thổi những tờ giấy chạy vòng quanh ở góc phòng. Tiếng giấy chạy xiết vào mặt sàn khô khan, xót xa như tiếng lá tre khô, lá chuối khô chạm vào nhau trong những trưa hè ỏ miền quê nghèo nàn. Aâm thanh xào xạc ấy thật dễ làm cho người ta chán nản. Trên một ô cửa kính còn dán tờ giấy đánh máy mang tên những thí sinh của phòng này. Ngày đầu của cuộc thi, những cái tên vang lên xa lạ. Những khuôn mặt bỡ ngỡ tiến đến nhận lấy cái tên ấy làm của mình. Rồi họ làm quen nhau trong khi người giám khảo đi lướt qua, mỗi buổi tiếp xúc với một phòng thi. Trong ngót bốn mươi thí sinh đó, chỉ một số ít đỗ. Đa số kém, bài làm của họ mang chằng chịt những dấu gạch đỏ, những dấu gạch không tiếc tay. Qua cuộc chấm điểm, họ như những tờ giấy bị vò nhàu.

Ở từ chiếc loa phóng thanh mắc ở tường một công sở gần đó, vang lại một bản nhạc vá chắp. Giọng lên xuống đều đặn đến có thể đoán trước được nhịp nhàng một cách buồn nản như một tiếng võng đưa. Thật hỏng cả buổi chiều. Chàng xếp cặp giấy, lững thững đi trở lại phòng họp, tiến đến một nhóm bạn đang viết giấy chứng chỉ. Cô Kim Toàn dừng lại giữa hai giòng chữ, ngẩng đầu hỏi:
- Ông viết hộ cho tôi một lát đi. Tôi mỏi lắm.
Nàng vừa nhăn mặt vừa uốn vẹo cánh tay. Chàng nhìn xuống nét chữ của nàng, rồi nói:
- Cô viết đẹp thế kia, tôi đâu dám thay?
Kim Toàn không nài, cúi xuống viết tiếp, môi nở nụ cười. Nàng cúi xuống gần mặt giấy và nghiêng hẳn một bên. Thật y như một nữ sinh đang chép bài. Nét chữ dịu dàng và thật thà với những chữ H, chữ G uốn cong bầu bĩnh, chữ A, chữ O, hở đầu. Doãn quen Kim Toàn nhân một buổi đi chơi picnic ngày chủ nhật. Nàng có đôi mắt đen ngơ ngác và dáng người manh mảnh đặc biệt thường gặp nơi các cô gái Huế.
Chàng hỏi:
- Cô ghi chứng chỉ cho trung tâm nào đó?
Kim Toàn vừa viết vừa nói:
- Trung tâm Tuy Hòa.
- Cô cho phép tôi xem xấp phiếu thí sinh cô đã viết rồi.
Xấp phiếu màu đỏ, Doãn cầm lên đọc từng tờ một. Lại những cái tên lặp lại quá cũ, vô nghĩa, ngẫu nhiên!… Trần Xuân Hùng, Nguyễn Văn Hưng… Đinh Hường… Bên góc trái của mỗi phiếu có dán ảnh. Những khuôn mặt, khi chưa quen trên thực tế, cũng vô nghĩa như cái tên vậy. Chàng tẩn mẩn đọc cả những dòng chữ ghi sinh quán, trú quán, tên cha mẹ. Mỗi một địa danh mở rộng trong ký ức chàng một phong cảnh. “Xuân Lộc - Đồng Xuân”: những bụi duối chạy dài giữa cánh đồng mía. Rừng dừa xanh ngút ngàn rải bóng mát trên những mái nhà màu xám tối. “Phú Vang- Xuân Sơn”: con đường độc đạo bò vắt ngang qua những ngọn đồi trọc. Rải rác có ngôi miếu cổ hiện ra, âm u, tàn phế, nấp dưới cánh tay che chở của những cây đa, cây cốc, “An Mỹ-Hòa Đa”: rặng tre mỏi mệt trong ánh nắng, nơi đó tiếng chim gáy rời rạc đổ hồi. Đất da tây đen nhánh, cứng nhọn ở dưới gan bàn chân. “Phong Niên Hòa Thắng”: ruộng lúa chạy dài hai bên bờ mương dẫn thủy. Tiếng cần vọt kẽo kẹt trong các thôn xóm, tụ tập thành từng ốc đảo màu xanh.

Một tên phụ huynh học sinh làm chàng bàng hoàng: “Trương Kỳ Phùng”. Chàng nhìn nơi sinh, trú quán: An Thạch, Tuy An. Đúng là tên của người bạn học ngày xưa. Cả một quá khứ bừng sống mạnh mẽ, thoáng chốc như một cây cổ thụ bị chặt ngã nay vụt đứng dậy cả lá cành. Chàng thấy rõ ràng Trương Kỳ Phùng ôm sách đi học lớp năm, lớp tư, mặt gầy gầy với hàng lông mi rất dài. Nhà anh làm hàng xáo, tráng bánh tráng. Cả một xóm Thiện Đức chỉ có hai nghề: dệt tơ lụa và tráng bánh tráng. Trưa trưa, nghe tiếng giũ tơ lụa đập bành bạch trên sông. Cả ngày, nghe tiếng cối xay kẽo kẹt, cối giã thập thình. Cứ mỗi chiều, khi ôm sách đi học về là đã thấy mẹ của Phùng ngồi sa một quầy hàng xén vụn vặt: dầu phộng, nước mắm, thuốc giấy, kẹo đường, ớt tỏi….bà ngồi trong một cái lều nhỏ, dựng ngay trước cổng nhà Phùng. Cha Phùng đu đưa trên một cái võng, cột vào hai gốc tre, nằm lui đàng sau. Trước lều, phía bên kia đường cái, lúc nào cũng có năm bảy người ngồi chồm hổm nói chuyện. Câu chuyện thường lấy những người đi chợ vừa bước qua làm chủ đề, nên quanh năm không hết chuyện. Câu chuyện lại dễ nhảy từ mục này sang mục khác không cần chuyển tiếp, nên ngồi ở đây là có thể biết hầu hết tình hình trong xóm. Ở vùng này lại có bảy, tám tay cờ bạc chuyên nghiệp nên tin tức lại càng thêm dồi dào. Những người cờ bạc chuyên nghiệp không mấy ai là không lém miệng. Có lẽ vì sống quen trong khung cảnh đó, nên Phùng ăn nói hoạt bát và có óc lý tài. Lúc nào gặp anh là y như thấy anh đang dự vào một cuộc mua bán đổi chác nào đó. Có lần anh đổi cái cán viết mới của anh để lấy cái cán viết cũ của một người bạn và bắt bù ba cắc. Rồi cũng cái cán viết cũ đó, nhưng anh đem thay ngòi mới vào, rồi đem xuống lớp Đồng ấu gạ bán cho một đứa khác lấy hai cắc. Sách vở cũng là món hàng buôn. Đổi sách mới lấy sách cũ, bán sách cũ mua sách mới, rồi bắt bù tiền, nạp tiền cọc, nài thêm, rút bớt, trừ hoa hồng, ăn lãi hai phân, năm phân vân vân, anh tung hoành trong các chương mục thương mại như một võ tướng hữu đột tả xung.
Trương Kỳ Phùng chỉ có một nỗi khổ lớn: đó là anh ta có một người chị. Người chị này đã được các bạn luân phiên nhau hết “gả” cho đứa này đến “gả” cho đứa khác.
- Ê, Phùng. Anh rể mày đây.
- Tổ mẹ mày.
Phùng đỏ mặt chửi liền.
- Thằng này hỗn quá bay. Bộ thằng Thừa làm anh rể mày không được sao?
- Làm anh rể cái… ông nội cha mày.
Mỗi cuộc gả bán đều được kết thúc bằng một trận chửi gọn gàng như vậy.
Đỗ xong bằng tiểu học, Phùng xin bổ làm hương sư, đúng theo cái nề nếp sinh hoạt bình thường của xóm Thiện Đức này. Nhà nào có con cho đi học cũng chỉ mong đỗ cho được bằng tiểu học để ra làm hương sư. Cùng một khóa với Trương Kỳ Phùng, có mươi hai cậu hương sư xuất thân tự xóm Thiện Đức được bổ đi dạy ở các trường xã. Như cùng do một cái máy đúc ra, họ ăn mặc giống nhau: áo dài bằng xuyến đen, quần vải tàu bay trắng, tóc chải rẽ, đi xăng đan, xách cặp da và đeo gương đen. Riêng Trương Kỳ Phùng thì trong cái cặp da, ngoài những quyển vở soạn bài còn có mấy cây lãnh, cây lụa, anh đem theo để dạm mối buôn bán nữa!
Qua thời kỳ kháng chiến, Trương Kỳ Phùng đi buôn thuốc Tây, đá lửa và dép cao su. Lúc nào trông anh cũng té tát ngược xuôi. Cái cặp da chứa nặng hàng, ôm không nổi, anh phải luồn một sợi dây vải rồi tròng vào vai mà mang. Sau đó, anh mang muy zét vải rồi cuối cùng là gùi ba lô sau lưng. Anh hóa ra thành một tay buôn chánh hiệu.
Trong giai đoạn này, Doãn nhớ có gặp Trương Kỳ Phùng một lần ở một quán nước chặng An Chấn, anh than thở từ đầu đến cuối câu chuyện. Mang tiếng là tiêu cực lừng khừng, anh bỏ làng đi phiêu lưu ở chiến khu 1, chiến khu 2, buôn bán đủ món và gá nghĩa với bất cứ người đàn bà nào xét ra cần thiết để tìm chỗ trú chân. Anh cuới vợ rất sớm, rồi ly dị, rồi cưới vợ khác, rồi chết vợ… cả cái giai đoạn này của cuộc đời anh lộn xộn rối nhằng vì việc vợ con, y như một chiến cuộc thắng bại không phân mà ta không có thì giờ theo dõi từng chi tiết. Rốt cuộc, mãi đến hôm nay, có ngẫu nhiên gặp một phiếu thí sinh mang tên họ anh, mới biết là anh đã có con lớn dường ấy, và anh sắp được biết tin mừng là con anh thi đỗ.

Một phiếu thí sinh khác mang hai dòng chữ: “Tên cha: Hồ Đình Chiến (c). Tên mẹ: Nguyễn Thị Ngọc Cẩm”. Lại cũng là tên một bạn quen. Tên người vợ xác định tên người chồng, vì có thể có nhiều Hồ Đình Chiến, nhưng không thể có nhiều Ngọc Cẩm ở một miền nhà quê. Ở nhà quê, người đàn ông chuộng trang sức cho cái tên của mình hơn đàn bà. Vào thời đại của Ngọc Cẩm, hầu như không có một người đàn bà nào dám ngang nhiên mang một tên kép trên thẻ căn cước. Chỉ có Ngọc Cẩm. Chị không đẹp nhưng nhà giàu, quanh năm chỉ đi đến nhà tá điền thu lúa, đậu, thu đường, thu bông. Chị được đọc báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn và tiểu thuyết của Lê Văn Trương. Chị thuộc lòng mười bài “Khuê phụ thán” của Thượng Tân Thị và nhiều bài Đường Luật trong “Vườn thơ phụ nữ”. Và chị cũng cảm tác ra thơ nữa. Giữa một miền ruộng sạ, đất thổ khô cằn của xứ Đồng Tranh, Đồng Nghệ mà người dân chỉ biết vui với hạt đậu phộng, đậu xanh, tai bông, lóng mía, muỗng đường, chị chỉ biết sống mơ màng một mình với “Vườn thơ phụ nữ”. Người văn minh ở thị thành, ở phương xa lạc bước tới có thể hiểu được tâm hồn chị chỉ là mấy anh phắc tơ nhà ga và vài giáo viên trường Tiểu học La Hai. Họ nghe tiếng chị, đến nói chuyện với chị vài lần, được ăn vài bữa cơm ngon có tráng miệng kẹo đậu phộng, rồi rút êm đi cưới vợ nơi khác hết. Chị không đẹp. Khi quá lứa, chị đành phải lấy anh Hồ Đình Chiến người làng, nhà trung lưu, có học khá, nhưng xấu trai và không biết nói chuyện văn thơ. Như những đám lúa thổ, hết mùa lúa sạ lại chen mùa rắc đậu, cuộc đời của hai vợ chồng lẳng lặng cho trôi theo mùa tiết, đều đặn, nhịp nhàng và chán nản bằng phẳng như cánh đồng rộng trước nhà. Chiến thay mặt vợ đi thu lúa gặt, đi đòi lúa thiếu. Những chuyện vặt vãnh như cho vay lúa non, cho nuôi heo rẻ mà bình thường vợ anh và bố mẹ vợ anh vẫn làm một cách thong thả dễ dàng, nay sang đến tay anh thì chúng ngang nhiên mang một tính chất khoa học hợp lý rất đỗi chi li lẩm cẩm. Cái gì anh cũng ghi cũng chép, cũng chiết tính, cũng phỏng trù. Cuốn sổ nào cũng đầy ắp những chữ những số, khiến nhiều lúc anh sa lầy lúng túng trong đó.
Ngày Nhật đảo chánh, anh sung vào ban Tuyên truyền cho Đại Đông Á. Thật là một cuộc vận động đầy hào hứng, vì Đại Đông Á là một cái gì rất vĩ đại mà người nói lẫn người nghe đều không biết rõ là cái gì, có điều chắc chắn là nó phải to lắm. Ban Tuyên truyền gồm ba người: trợ Chước mặt vàng như một lá dưa cải còn non, xu Tiên - một một cai lục lộ thật nghiệp có bộ râu rễ tre (ông giống Nhật ở điểm này) và Chiến. Cả ba mặc áo dài đen chững chạc và đi xe đạp. Mỗi xe cắm một lá cờ Nhật Bản. Xe họ hùng hổ đi về trụ sở các xã Phước Long, Phước Huệ, Phước Lãnh thuộc miền sơn cước huyện Đồng Xuân, rồi đổ về từng thôn nhỏ. Lũ trẻ con chạy theo sau hoan hô hoặc bâu quanh họ trầm trồ chỉ chỏ, y như chính họ vừa hạ thành Singapore hay bắt giam Đô đốc Decoux
Lý do vì đâu Chiến được tuyển sung vào ban này thì chính Chiến cũng không ngờ được. Từ nhỏ đến lớn, Chiến có biết gì nước Nhật đâu? Chẳng qua vì muốn sanh lợi chút ít, anh đã trữ bán mấy món thuốc Nhật Bản: thuốc cảm Jin-tan, thuốc đau dạ dày Oâôda, thuốc nhỏ mắt Oâtôsan bên cạnh mấy món thuốc xổ Nhành mai, thuốc dán Hồng Nhật, dầu cù là Oâng Cọp và cả thuốc dịch heo nữa. Rồi tiếp theo có mấy tấm hình quảng cáo của các hãng buôn Mitsui, Mitsubishi, Dainan Koosi có in hình đàn bà Nhật và phong cảnh Nhật, Hồ Đình Chiến tiếc của xin đem về dán cho kín vách. Và thế là anh hóa thành một người có chính kiến.
May thay nước Nhật đã bại trận một cách quá mau lẹ giải thoát dùm cho anh và cho ban Tuyên truyền khỏi tình trạng cạn tài liệu. Vì để nói về nước Nhật, anh chỉ biết quanh quẩn có những truyền thuyết hết sức nhảm nhí. Chẳng hạn chuyện người bán cám cho ngựa nhà binh Nhật đã lấy mạt cưa thay cám. Ngựa ăn mạt cưa chết, lính Nhật mổ ruột ra xem, chưa biết rõ căn nguyên, liền đem người buôn cám tham lam khâu vào bụng ngựa rồi đem chôn. Một cuộc quả báo nhãn tiền và sòng phẳng như vậy rất hợp với tâm hồn bình dân của người nghe, nên cử tọa hả hê một cách ồn ào. Hồ Đình Chiến không ngờ mình nói chuyện có duyên đến thế. Nhưng chừng nửa tháng thì câu chuyện hết mầu nhiệm. Vì người nào quen với Chiến đều đã phải nghe nó đến lần thứ chín, thứ mười; anh phải kể sang những chuyện tai hại cho chủ nghĩa Đại Đông Á mà anh đang cổ xúy (thế mới biết cảnh giác chính trị của anh rất trì độn). Anh kể chuyện người Nhật cai trị nước Cao Ly chỉ cho phép năm nhà dùng chung một con dao phay, rằng con dao ấy được cột vào một dây xích sắt và nhà nào cần thái món thịt món cá gì thì phải mang đồ vật đến “nhiệm sở” của cái dao. Câu chuyện ấy nhiều người biết. Chỉ độc sáng là lối thêm thắt chi tiết của Chiến. Câu chuyện lại dễ gợi trí tưởng tượng của người nghe, nên ít ai không bàn cãi, không đưa ý kiến.
Vào tháng 7 tháng 8 năm 1945, câu chuyện anh nói có mang nhiều danh từ tương đối chuẩn xác hơn, chuyên môn hơn: quân đội Thiên Hoàng, Chính phủ Nippon, Thủ tướng Tôjô, hải chiến đảo San hô, Phi đội Thần Phong... Kiến thức của anh đi lên, ngược với khí thế của quân đội Nhật đang đi xuống. Tiếp tới, Nhật Bản đầu hàng. Cách mạng tháng Tám nổ. Cách mạng nổi lên, anh đương nhiên bị coi là người của chế độ cũ. Danh hiệu này là một vinh dự quá to đối với anh. Tuy vậy, nó làm cho anh lo sợ mất ăn ngủ, vì vào những ngày đầu Cách mạng, ai nấy đều vũ trang dao găm và lựu đạn. Sau đó, theo chính sách tận dụng khả năng dân chúng, không phí phạm nhân tài, vật lực, anh được sung vào làm thủ quỹ cho Hội giúp binh sĩ bị nạn. Công việc thật quá phù hợp với anh. Tha hồ cho anh đàm đạo một mình với những con số chi, số thu, tổng chi, tổng thu, với những chứng từ thanh toán, với những cái kim găm. Anh chìm vào giữa những con số cũng như anh chìm vào giữa cuộc đời. Anh bám vào cuộc đời như một thân tầm gửi, vô ích nhưng mà vẫn hiện diện, sống tầm thường cái cuộc sống của mình không khiến cho ai phải nghĩ tới.
Thế mà nay Hồ Đình Chiến đã chết!
Sao nhanh vậy? Con người chậm chạp, núc ních với vẻ mặt u tối tầm thường đó như sinh ra để sống lâu, để ăn tiêu tặn tiện và để sinh nhiều con. Thế mà anh ta lại chết rồi. Cái chết đó có ý nghĩa gì? Chết vì một tai nạn phi thường hay vì một chứng bệnh tầm thường, vô lý như những người xung quanh anh? Nhưng dù có vì gì đi chăng nữa thì chữ cũng viết giữa vòng đơn sau tên Hồ Đình Chiến cũng mở ra một vực sâu tăm tối trong tâm hồn của Doãn chiều hôm nay. Những người bạn của chàng đi nhanh quá. Con họ lớn để thấy họ già và có người vội vàng đi quá tuổi già: họ chết. Như người ngồi trên chuyến xe chỉ thấy mình di chuyển khi nhìn mọi vật di chuyển xung quanh. Doãn chợt thấy năm tháng bỏ lui mình đằng sau, khi vô tình chàng nhìn sang những người bạn. Thật là chán nản. Trước mắt chàng, cô Kim Toàn xinh xắn với dáng ngồi viết ngây thơ liệu sẽ giữ vẻ tươi mát của làn má, của ánh mắt trong bao lâu? Nàng đang có những ước mơ gì? Nàng có tin rằng những sẽ thực hiện những ước mơ một cách dễ dàng trước khi năm tháng đuổi kịp nàng chăng?
Doãn uể oải đứng dậy đi về phòng trọ. Phòng trọ là một phòng học được nhân viên ở trường xếp đặt khá chu đáo với giường bố và màn nhà binh. Có bốn phòng học được xếp thành phòng trọ. Ngày mới đến, đi lại ở hành lang phải tránh nhau một cách chật vật. Hôm nay số người đã vắng đi nhiều. Nhóm anh em Đà Nẵng đã về trưa nay. Nhiều chiếc giường bỏ trống, chăn màn xếp cẩn thận đặt ở đầu giường. Khi có chủ, không chiếc giường nào được ngăn nắp tươm tất như vậy. Những anh em còn lại cảm thấy cô đơn. Họ quây quần với nhau thành từng nhóm. Nhóm anh Ngộ năm người ngồi rút ích xì để tiêu khiển. Trông Ngộ có duyên, cởi mở và lịch sự khi bắt con bài, khi nặn con tẩy, khi suy nghĩ để tính nước, cả khi vất gọn tờ giấy bạc xuống bàn để tố hay để theo. Những cử chỉ vơ lấy gói thuốc, đặt một điếu lên môi, bật que diêm, kéo một hơi để trấn tỉnh thần kinh… những cử chỉ ấy đều gọn gàng, biểu lộ một phong thái khả ái, khác xa với khi anh mặt khó đăm đăm, phân phối công việc cho các giám khảo ở trung tâm. Cái duyên dáng của con người cũng biểu lộ và được ghi nhận ở những cử chỉ và trong những trường hợp rất đỗi bất ngờ. Nằm bên cạnh sòng bạc khá ồn ào này, anh Dật bình tĩnh lật từng trang của một quyển sách triết học dày cộm. Nhóm anh Đàm, anh Cang dùng ngày giờ còn lại để đi bát phố liên miên. Có dư khí lực mà không biết dùng vào việc gì, các anh đặt dấu chân mình ở mọi con đường, khám phá nhiều sự vớ vẩn ngộ nghĩnh. Anh Lộc, anh Bang vừa mới cưới vợ nên hết trao đổi với nhau những kinh nghiệm có vợ mang đến bàn việc mua quà cho vợ. Câu chuyện kéo dài sang mục chữa hậu sản, chữa bệnh đẹn và bệnh tướt cho hài nhi. Anh Bửu thì hát luôn miệng câu:
Người ơi một mai nếu tôi đi rồi
Là la là la lá la là la

Đó là câu hát độc nhất Bửu hát từ ngày anh đến chiếm cái giường sát cạnh. Không thuộc quá ba câu của một bài hát, hình như người thầy giáo nào cũng vậy. Đó có thể là một mặc cảm trí thức. Nhưng do tâm trạng nào mà Bửu chỉ hát câu “người ơi nếu một mai...” thì Doãn không tìm hiểu. Vì anh hát vào những lúc bất ngờ và rất mâu thuẫn: khi đi về cởi áo sơ mi, khi cột dây giày, khi ngủ trưa dậy mà chưa muốn bước xuống giường, khi uống xong 15 giọt thuốc chữa đau gan. Dường như anh không bận tâm rung cảm theo ý nghĩa của câu hát. Có lẽ câu hát chỉ có giá trị làm cho mồm đỡ nhạt, cũng như khi người ta không nghiện mà hút thuốc. Câu hát cũng làm sạch hơi thở như khi người ta nhai kẹo cao su. Nhưng chiều hôm nay giọng hát trầm trầm uể oải và sai giọng ấy, mỗi lần nghe đến là Doãn tưởng như mình đang dự vào buổi chiều cuối cùng của trái đất khi nhân loại bị phóng xạ nguyên tử đang cầu kinh. Buổi tối, ánh đèn nê ông sáng không làm cho không khí đỡ cô đơn hơn. Phòng số 1 do các giám khảo có tuổi chiếm đóng nên tắt đèn sớm. Họ chỉ biết làm việc ăn ngủ điều độ rồi về với gia đình. Những chiếc vali lớn nai nịt sẵn sàng xếp cạnh giường nằm. Đi 15 ngày, nhưng cụ bị đầy đủ như phải viễn du liên lục địa. Quà mua đem theo về cũng vừa chu đáo vừa cồng kềnh: những lọ mắm cá thu lổn ngổn, những tảng miếng song thần to bằng bức tranh sơn dầu. Phòng II đa số là thanh niên. Hành lý rất gọn. Có người chỉ mang một cái xắc kiểu PAA hay Air France. Y như đi dự một cuộc tranh giải thể thao liên tỉnh. Tâm hồn cũng gọn như hành lý. Không có nhiều quá khứ lôi kéo, họ thong dong đi lại như một con chim chuyền cành. Trái lại, đối với những người như Doãn thì quá khứ chen lẫn với hiện tại. Trong những ngày lưu lại đây, kỷ niệm thường dồn dập trở về. Ngẫu nhiên mà ngôi trường chàng nghỉ trọ hôm nay là ngôi trường Trung học mà mười lăm năm trước chàng đã học, thỉnh thoảng ngồi nhìn vẩn vơ qua từng khung cửa kính, chàng thấy lại gương mặt và dáng đi đứng của từng vị thầy cũ của mình: thầy Lê với bộ râu bướng bỉnh, thầy Thái với đôi kính trắng, thầy Cảnh mỗi lần cười thì mặt đỏ và mắt nhắm tít lại, thầy Trường nhanh nhẹn như một con sóc. Cuộc đời chảy êm đềm trong một xã hội quá trật tự. Giáo sư Cao đẳng tiểu học là một địa vị đáng được thèm ước. Suốt cả mười tỉnh miền đông bằng chỉ có một trường Cao đẳng tiểu học công lập này thôi. Sự học hiếm hoi, quý giá như vậy, nên nếp sinh hoạt ở thành phố xoay quanh việc buôn bán. Các vị giáo sư gần như độc tôn trên thị trường chữ nghĩa. Giới trí thức còn lại là mấy ông phán tòa Sứ, trán và gò má bóng nhẵn mỗi buổi chiều tụ họp ở nhà xéc để đọc báo, thọc bida hay đánh ten nít. Tách rời ra khỏi giới doanh thương thực tế, ồn ào, thủ đoạn, những người trí thức ở tỉnh nhỏ sống lẻ loi, uể oải như những cây còm nằm yên vị trong từng chiếc chậu kiểng. Không ai cạnh tranh với họ hết, nên họ khỏi phải lo cạnh tranh với ai.
Chợt chiến tranh xảy đến, bắt gặp họ giữa một lúc họ không chuẩn bị. Chiến tranh xáo trộn hết. Ông Huy, nguyên là thư ký đánh máy của trường, quanh năm thủ phận trong bộ áo dài trắng và đôi giày da trắng đế nhựa rất dày, đột nhiên biến thành một giáo sư triết học có nhiều uy thế. Ông Văn, giáo sư khoa học, trái lại bị chê là lạc hậu, nên được rút về ngồi ở không ở phòng chuyên môn. Trong cảnh nhàn bất đắc dĩ, ông nảy ra làm thơ. Ông Cảnh lao đao vì một bầy con quá đông và một người vợ yếu đuối. Đồng lương eo hẹp làm cho những bộ quần áo của ông lúc nào cũng cũ kỹ, sờn cổ, sờn cùi chỏ.
Qua cuộc chiến tranh, ngôi trường cũ đã bị phá hoại. Hiện nay nền trường vẫn còn y nguyên đó và chàng cứ nhìn theo nền xi măng long lở mà thấy lại trong óc dãy trường nguy nga hồi xưa với cả ký túc xá, sân chơi, văn phòng, nhà ông hiệu trưởng, nhà ông giám thị, nhân viên… Trên dãy hành lang này, chàng đã đi bách bộ nói chuyện với bạn sau bữa ăn tối. Góc rào kia, cả bọn lén nhảy qua để trốn ra phố xem xi nê. Dưới bóng cây keo này, ngày xưa mấy cô con gái ông giám thị đi thơ thẩn. Bây giờ chắc mấy cô đã có lắm con rồi, chắc họ chỉ còn đi thơ thẩn được trong ký ức. Dễ thường có cô đã chết trong chiến tranh, cũng như một số khá lớn những người bạn chàng vậy. Còn lại như xưa, dễ chỉ có những hàng me tây đứng thản nhiên ở sân trường. Chắc chắn là chúng có già đi, nhưng sự đổi thay ít nhận thấy rõ. Tuy vậy, theo một đà ý nghĩ quen thuộc, trong một bức thư gửi cho bạn hôm mới đến đây, chàng đã viết: “Tôi về trọ nơi đây. Ngôi trường cũ mà tôi đã xa mười lăm năm hơn. Cảnh vật tàn phế hết. Chỉ còn dãy me tây. Nhưng chúng đã thành cổ thụ. Cũng như tôi, mai kia…”
Từ buổi chiều, mùi hoa thơm hăng hắc, bóng tối lẩn quất ở gốc cây. Chàng nhớ có một buổi sáng, mở cửa sổ nhìn ra, chàng để ý đến một cây me tây non trẻ mọc lạc loài ở gần cửa sổ. Chàng nghĩ đến những thế hệ lặng lẽ nối tiếp nhau. Liên tưởng đến các giám khảo thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều thế hệ có mặt nơi đây, Doãn cảm sâu xa dòng đời chuyển đi tới (hay đi lui).
Còn một đêm này nữa.
Phù hợp với ý nghĩ của chàng, anh Nhẫn đứng cạnh vừa tháo cà vạt vừa hát:
Còn một đêm nay
Rồi mai lên đường…
Đêm chót bao giờ cũng gây nhiều lưu luyến. Cả những người bạn ít thân thiết, trong giờ phút này cũng trở nên mến thân. Anh Long ở phòng IV sang hỏi địa chỉ của nhóm thầy giáo Nguyễn Hoàng Quảng Trị. Anh Tây đưa tay tắt cái máy thu thanh chạy pin để cất giọng ngâm mấy câu ca dao:
“Còn đêm nay nữa mai đi.
Lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.
Còn đêm nay nữa mai về.
Lạng vàng không tiếc, tiếc kề má xuân...”
Doãn tự so sánh mình với nhân vật trong câu ca dao. Anh chàng quả có buồn, nhưng còn được an ủi có người yêu để mà xa cách. Còn mình? Người yêu là ai? Doãn thấy mình lửng lơ giữa hai khoảng chân không. Những cô bạn xinh tươi sáng mai sẽ về Huế hết, cũng như những cô bạn Đà Nẵng đã bỏ chàng về Đà Nẵng trưa nay. Họ đông lắm, nhưng chàng chỉ cần có một người, mà một người thì khó có. Không thể đi theo họ như một nghệ sĩ phiêu lưu, mà trở về thành phố cũ của mình thì cũng không có ai tha thiết mong đợi mình. Thằng nhỏ ở sẽ chỉ “à” lên một tiếng vừa đủ để tỏ một sự ngạc nhiên có mức độ, khi xe chở chàng lách cách dừng ở cổng. Con chó trắng sẽ vẫy đuôi mừng (À! May ra thì được có con chó mừng một cách thật thà và trọn vẹn). Bà chủ phố sẽ chuẩn bị để chiều mai sai con đưa biên lai sang thu tiền nhà. Ai cũng lãnh dạm với chàng hết. Nhìn tới, nhìn lui, quả là lửng lơ giữa hai khoảng chân không.
Doãn thấy tâm hồn chán nản, mỏi mệt. Chàng phải cố gắng tạo cho được một khoảng chân không trong trí óc mình, để dỗ một giấc ngủ nặng nhọc và bướng bỉnh.
Chàng dành bữa ăn sáng cuối cùng để ăn cùng Lễ. Chàng giục Lễ ăn thật nhiều.
- Ăn nhiều đi, ăn thêm nữa đi. Đường về Huế xa xôi.
- Nhưng đi bằng máy bay thì có xa bao nhiêu?
- Ừ nhỉ! Anh lên tàu 10 giờ sáng và ăn trưa ở Huế, giữa vợ con. Tôi còn giữ những kỷ niệm quá lạc hậu về ý thức giao thông. Ngày nhỏ đi học, mỗi lần nghỉ lễ về thăm quê là người chủ trọ bắt tôi phải ăn cơm thật no để lên tàu hỏa. Mà nào đường đất có xa, chỉ khoảng một trăm cây số thôi. Ông chủ trọ ngồi canh chừng cho chúng tôi ăn và lặp lại không biết bao nhiêu lần rằng “có hột ngọc trong bụng thì cản phong cản gió dọc đường…” Bát cơm tầm thường vụt nhiên khoát một giá trị thiêng liêng, thần bí, khi hột gạo được suy tôn là hột ngọc…
Chàng mơ màng nhớ đến thời xưa khi tâm hồn con người sáng tươi trong niềm tin chất phác.
- Còn anh? Hai giờ mới lên máy bay?
- Vâng. Chúng tôi là những người chót hết giã từ nơi đây.
- Sang năm chúng ta gặp lại.
- Nhưng đừng chọn thành phố này nữa. Hai lần rồi. Tôi mong sẽ gặp anh ở Huế hay ở Đà Lạt.
Mười giờ, phòng đợi phi cảng chật chội, nóng bức, khiến những câu chuyện trao đổi cuối cùng bị gò bó. Người ta không thể buông người bạn này để bắt người bạn kia một cách tự nhiên khi thiếu những hành lang rộng, những khóm cây xanh. Những cô bạn Huế đành đứng bên cạnh nhau nói những câu chuyện chắc là rời rạc. Có cô ngồi nhìn ra sân nắng, có cô phe phẩy quạt. Những người bạn đàn ông ngồi ở chỗ của mình, chăm chăm nhìn một khoảng nhỏ ở trước mặt mình, y như những nhà chân tu chỉ biết nghĩ đến đạo đức.
Chàng bắt tay Lễ một lần chót, mỉm cười chào mấy cô bạn khi họ đi ngang qua mặt. Khi cửa phi cơ đóng sập lại, phi cơ nổ máy, những bàn tay hiện ra vẫy ở khung cửa kính tròn nhỏ. Ơû dưới đất, Doãn cũng như nhiều người cũng vẫy tay. Chẳng ai biết được bàn tay kia dành cho ai. Có thể có những bàn tay không có ai để mà dành cả. Màu áo đỏ của cô Phương Lan trông rõ ràng qua khung cửa kính mờ. Đi máy bay nên chọn một màu áo đặc biệt không thể lầm lẫn như vậy.

Từ bữa ăn trưa đến hai giờ chiều, Doãn không làm được gì hết. Ý nghĩ cũng bị cắt vụn từng mẩu rời rạc. Ông Cai trường xếp chăn màn, bó giường và quét tước phòng học. Những tờ giấy báo vất ngổn ngang; những mẩu tàn thuốc, di tích cuối cùng của sự sinh hoạt rộn ràng của bao nhiêu giám khảo giờ bị dồn vào một góc. Dãy thùng nước, chậu thau đặt dài dọc hành lang cũng đã thu dọn mất. Sự gọn gàng có pha chút ít tàn nhẫn. Giá ông cai thẫn thờ uể oải bỏ bê công việc mà ngồi nhớ đến sự ồn ào vui vẻ của mấy người trước so với niềm cô đơn im lặng hôm nay!
Sân phi cảng chiều nay vắng hơn buổi sáng. Toàn là người quen cả nên không còn vấn đề khi cần bắt chuyện. Chàng phải tìm thú vị mới cho nửa giờ còn sót lại. Chàng chọn Thu Hà. Thu Hà là người nữ giám khảo đẹp của trung tâm, cùng giám thị chung với chàng ở trường Tân Bình và hôm nay cùng về một chuyến bay với chàng, cùng xuống một phi cảng.
- Cô không về Đà Nẵng thăm ba má?
- Tôi về trường có mấy việc cần, vả lại còn trông chừng cho em tôi thi tú tài.
- Cô có đồng ý một với tôi rằng cô Hải đẹp không? Cô Hải cùng chấm Pháp văn với cô đó.
Thu Hà nheo mắt một cái rồi mở to mắt:
- Đẹp. Đẹp thật!
Nàng vừa nói vừa gật gật đầu.
- Ông có quen với chị ấy?
- Em của người bạn tôi đó.
- Thích nhỉ? Quen với một người đẹp bao giờ cũng thích.
- Đó phải là ý kiến của người đàn ông.
- Đâu phải chỉ riêng đàn ông? Đàn bà cũng thích những người đàn bà đẹp.
- Huống chi là đàn ông!
Thu Hà và Doãn cùng cười.
Thu Hà có đôi mắt đen thăm thẳm và sáng long lanh như có chất dẻo làm dính tâm hồn những người nhìn. Mắt trái nhỏ hơn mắt phải một chút, làm tăng thêm sự mơ màng. Được biết Doãn và nàng ở cùng tỉnh, các giám khảo quen bao quanh lấy Doãn:
- Chấm xong, tôi đi vào Phan Rang với anh nhé? Nhà anh có gần nhà cô Thu Hà không?
- Anh Doãn ơi, anh nhớ ghi địa chỉ rõ ràng đi. Thế nào hè này tôi cũng đi Phan Rang một chuyến. Nhưng mà anh phải hứa giới thiệu tôi cho Thu Hà nhé?
- Tiếc quá không đi vào với anh được lần này. Nhưng thế nào kỳ chấm tú tài tôi cũng có mặt ở Phan Rang. Cô Thu Hà đẹp quá anh nhỉ?
Doãn mỉm cười với mọi người, hò hẹn với mọi người. Chàng biết sự vui vẻ bồng bột chỉ nhất thời, rồi sau đó trở lại cuộc sống quen thuộc bình thường, họ sẽ như con ngựa của anh đánh xe đi lại thuộc lòng trên con đường mòn, trên lối cũ. Dự định cho hả, mơ mộng cho hả, vì họ biết rằng chỉ đến bấy nhiên đó rồi hết. Cuộc đời sẽ kéo họ lại đúng vào con đường bình nhật của họ. Anh chàng Hòa hẹn hò liến thoắng đó, dăm ngày nữa sẽ ngoan ngoãn đi bên cạnh vợ về thăm mụ thăm mệ ở Kim Long, Văn Xá. Anh chàng Hàm ham nhìn các cô đến nhân lộn cả điểm sẽ cặm cụi trên trang giấy viết thư cho vị hôn thê. Anh chàng Đổ nhanh nhẹn, anh chàng Thiện mơ màng rồi sẽ lao mình vào những tình yêu nơi thành phố nhỏ của họ, những tình yêu, đóa hoa và cũng là nấm độc của cuộc đời. Như một chuyến đò dọc đến bến nước nào cũng vui vẻ quyến luyến tưởng không thể dứt áo ra đi, nhưng khi đã đến một bến mới rồi thì quang cảnh nơi bến cũ chỉ còn mờ trong kỷ niệm. Cứ như thế, mỗi mùa thi đến làm xáo trộn tâm hồn của họ, trong 15 ngày; gặp gỡ mơ mộng, nhớ nhung, chia ly… Rồi sau đó, ngày tháng chồng chất lên ngày tháng, kỷ niệm bị phủ bụi ngày một dày thêm, cho đến hè năm sau những cuộc gặp gỡ khác, mơ mộng nhớ nhung ly biệt khác sẽ tiếp diễn, cũng sâu đậm, tha thiết, xót xa.

Tiếng loa phóng thanh mời hành khách ra phi đạo. Thu Hà xách chiếc giỏ đi cạnh Doãn. Mái tóc bồng trong gió. Màu áo tối làm cho vai nàng thêm mảnh. Doãn xót xa nghĩ: “Giã từ Thu Hà! Ngày này năm sau, cô còn đi cạnh tôi nữa đâu.”
Thế Giới Của Năm Nhiều
Không biết trong bảng tử vi của anh Năm Nhiều có phải “Mệnh thân có tử vị cư Mão Dậu gặp Kiếp Không” hay sao mà đời anh lại gắn liền quá mật thiết với sự cung kính dường đó. Phải chứng kiến sự sắp đặt quy mô của bàn thờ nhà anh mới thông cảm được phần nào sự an bài bất khả kháng của Hóa công. Nhà nhỏ lợp tranh đã cũ mèm, gần nát vụn ra và vách đất. Nền nện đất, nứt thủng ở nhiều chỗ. Hai cái cửa sổ lùa và một cửa ra vào bị mái che thấp xuống nên ánh sáng vào quá ít. Nhà thành ra tối hùm hụp suốt ngày. Tôi chưa hề nghe một ngọn gió nào thổi ngang qua đây nên ngồi trong nhà thì phải ngửi mùi hôi thối cố hữu của ngôi nhà, mùi hôi lưu lại từ ngày mẹ anh còn bán nước mắm, dầu lửa, dầu phộng, cốm kẹo, thuốc hút… Mùi hôi ấy như phát xuất từ nền nhà, từ xó kẹt ghế bàn, từ vách đất. Những bàn tay dính nước mắm, dính mồ hôi đã bôi quẹt qua lại lên vách nhiều lần trong nhiều năm, nên vách cứ láng bóng lên nhất là ở những chỗ thường qua lại. Cả gian nhà chính chỉ kê một bộ ván, còn bao nhiêu chỗ dành cho ghế thờ. Ghế lớn đặt ở dòng giữa. Một bộ lư đèn ngự ở đây, toàn bằng gỗ trắc đánh bóng lên nước. Trước ghế kê cái bàn. Ngày thường, đó là nơi đặt kỷ trà để tiếp khách. Đến ngày giỗ chạ thì trên sắp bày những xôi chè, canh thịt… Một cái ghế tương đối nhỏ hơn kê ở bên tay phải, sau bộ ván. Cũng lại một bộ lư đèn bằng gỗ. Trên đầu thêm một cái khám thờ ông táo. Hai mẹ con dường như chưa đồng ý về điểm này. Tính Năm Nhiều ít nói và hay nhường nhịn. Vả lại, ông Táo thì cũng đáng sợ như ông Địa nên anh chưa dám cả tiếng truất phế.
Thôi thì thờ ai cũng được. Hơn nữa, nhà có lắm trẻ nhỏ mà theo lời truyền thì ông Táo lại thích quở trẻ con, hay bắt chúng nóng vặt. Thấy mẹ và anh nhân nhượng nhau, chị Của em út của anh Năm Nhiều mượn ngay nơi đó để thờ “các đẳng”. Chị buôn bán dang, mây, hom nứa từ chợ Lùng chở về nên phải luôn luôn vái các đẳng phù hộ. Không có chỗ nào dành cho chị hết nên chị phải mượn tạm cái khám. Vả lại đặt vẻn vẹn một nải chuối và cắm một cây hương thì chỉ có chỗ ấy là tiện lợi hơn hết. Đã tránh được sự chỏn vẻn, trơ trọi mà được nơi kín đáo cần thiết cho nải chuối kịp chín. Đặt ở ghế dưới thì không yên được với lũ trẻ nhỏ. Chúng nó đòi ăn và có gan dám bẻ trộm lắm.
Khi đã đặt vấn đề chiếm hữu nơi cái khám thì lẽ tất nhiên là hai dòng bàn thờ cũng phải quy định thuộc phần ai. Mẹ anh phụ trách việc cúng kính từ hồi cha anh mất. Lúc bấy giờ anh mới lên năm. Tính bà xuề xòa nên bà nghĩ rằng ai cũng xuề xòa như bà, kể cả các vị tổ tiên khuất mặt cũng vậy. Thành ra dù giỗ ông nội, bà nội, ông cố, bà cố hay cha Năm Nhiều, bà cũng chỉ sắp đồ cúng ở bàn thờ lớn. Vừa rộng rãi, vừa dễ đi lại. Bàn thờ nhỏ do đó mà chịu ế sốt cả thời kỳ bà cầm quyền. Kịp đến khi Năm Nhiều thay bà giữ quyền tế tục thì Năm Nhiều tổ chức có lề lối hơn. Bàn thờ nhỏ dành riêng cho cha anh. Bàn thờ lớn dành cho tất cả các vị tổ tiên khác. Để phòng ngừa mẹ lộn xộn, anh lấy khuôn hình của cha anh vốn treo trên vách đem dựng vĩnh viễn trên ghế nhỏ. Hình chụp cha anh đội mũ chào mào, áo quần lính tập thắt nịt da to và bắp chân quấn xà cạp. Để tỏ sự tột độ nghiêm trang, ông cụ giơ tay mặt lên ngang trán chào theo kiểu nhà binh.
Ông cụ đi lính mộ và hình như chết ở Mac xây, bên Pháp (chi tiết này tôi nghe cha tôi kể lại). Mẹ Năm Nhiều thì chỉ nhớ chắc chắn là ông cụ chết ở bên Tây, còn địa danh đích xác thì cứ vài năm bà lại đổi một lần. Trí nhớ của bà không được mẫn nhuệ. Ngay cái tên làng Định Trung, ấp Phong Nhiêu là nơi bà sống trên năm mươi năm rồi mà đố bà có nhớ nỗi. Ai hỏi bà ở đâu thì chắc chắn là bà chỉ trả lời được rằng “Ở Soi giữa”. Vậy thì cứ chừng vài năm ông cụ Năm Nhiều lại phải vì bà mà thay đổi chỗ chết một lần. Ban đầu thì đúng là Mac xây rồi, rồi Mặt xây, rồi Xây mặt… cho đến một hồi nào đó sáng kiến của người chinh phụ này cùn đi, năng lực biến chế của bà cạn đi và bà nói liều: “Chẳng biết chết ở cái xứ Xây xây gì đó. Có cái hình của ổng kia kìa”. Cái hình ấy nay đã vàng và bong đi mất nhiều mảng ở quanh rìa. Và theo sự phối trí mới của Năm Nhiều thì bây giờ nó được ngự trị trên bàn nhỏ. Quả tình Năm Nhiều có năng lực tổ chức thật. Mọi sự cúng kính được điều hành có trật tự, ngoại trừ cái khám còn đang ở dưới chế độ cộng đồng tương đối bất ổn.
Vừa hoàn thành tổ chức quản trị mới thì Tết đến. Đây là dịp thử thách tài của Năm Nhiều. Ngày 24 tháng chạp sau khi sang dẫy mả giùm cho nhà tôi xong, anh vay mẹ tôi hai giạ nếp và năm mươi đồng. Hẹn sang mùa tháng ba trả. Hăm chín tháng chạp nhằm chợ Phiên Thành, anh mua vác về một tấm bức thờ bằng giấy trên viết một chữ thọ thật to ở giữa và hai bên viết hai câu đối. Bức đó để treo trên vách nơi bàn thờ tổ tiên. Bốn bức khác nhỏ hơn vẽ hình chim hạc, chim phượng, hoa sen, hoa mẫu đơn.. treo ở bàn thờ cha anh. Với mấy bức vẽ màu chói chang lòe loẹt, ngôi nhà anh sáng hẳn ra tươi vui như có hội. Mấy đứa cháu, con chị Của cứ thập thò đứng nhìn làm quẩn cả chân anh.
Khi cắm những cành bông điệp vào lọ độc bình, bông điệp hai màu vàng và đỏ, anh xin ở nhà Trùm Diếc, thì anh vừa lẩm bẩm trong miệng “Đông hoa, Tây quả…”. Đông hoa, Tây quả thì tôi hiểu rồi. Đã có lần anh giảng cho tôi nghe rằng cái lọ cắm hoa và cái cỗ bồng sắp chuối không phải muốn đặt ở chỗ nào trên bàn thờ cũng được, mà đã có kinh điển quy định rồi. Lọ hoa thì phải đặt ở hướng Đông và cỗ bồng chuối thì ở hướng Tây. Hỏi: còn “Đông bình Tây hộp hương” nghĩa là sao thì anh đánh trống lãng không trả lời. Tôi thật không ngờ việc xếp mấy món đồ thờ nói chi đến việc tế tự to lớn mà cũng khó khăn bí hiểm đến có thể làm cho Năm Nhiều lúng túng. Đã vậy mà lại không có một quyển tự điển nào về nghi lễ để tra cứu, nên trên bàn thờ của Năm Nhiều đành thiếu một bình và một hộp hương. Tuy vậy, tôi cho rằng anh đã cố ý đền bù chỗ thiếu sót này bằng một cỗ bồng rất đỗi phong phú, xếp đến bốn, năm tầng nải chuối, hai tầng trái quýt, một trái bưởi to và mấy chùm mận, thế mà vẫn giữ được thăng bằng, kể cũng đã khéo tay.
Tối 30 và ngày mùng một, mùng hai, bàn thờ đầy ắp những lễ vật, đèn nến sáng choang. Cái khoảng trống còn lại trước dãy ghế, đầy những người: bà mẹ Năm Nhiều, Năm Nhiều, chị Của và bốn đứa con chị Của. May mà Năm Nhiều chưa lấy vợ nên trong cái khoảng hẹp ấy còn có chỗ để tránh nhau. Tôi thấy không khí nơi đây quả thật là ấm cúng đặc biệt. Mà nào có cần phải đẹp đẽ sang trọng? Mẹ anh thì già lẩm cẩm, gầy mỏng như cái lá sả và đôi mắt lèm nhèm. Một cái miệng quá rộng trên khuôn mặt quá dài. Miệng đó không phải là dấu hiệu của sự hòa mục. Chị Của thì lùn và đen. Đôi con mắt nhỏ, loại tinh ranh vặt. Mấy đứa con của chị thì mặt mũi chẳng mấy khi sạch sẽ. Ngoại trừ con Lượm tám tuổi có đủ áo quần, còn thì thằng Khá sáu tuổi, con Khen năm tuổi, con Mùi hai tuổi đều chỉ mặc một cái áo còn quần thì mẹ chúng hẹn để sang năm. Đó là vào những ngày tự ngày Tết, những ngày lạnh mùa đông. Còn thì quanh năm, ba đứa ở trần như ba con heo nhỏ.

Sự lẩn quẩn của từng ấy người trong khoảng quá hẹp, dù vậy, vẫn không bực mình ông thầy tế tự là Năm Nhiều. Một người cậu nào khác sẽ ghét hết sức bốn đứa nhỏ đang lườm lườm hoặc lén lút nhìn mấy dĩa thức ăn bày trên bàn. Chúng không có kỹ thuật ngụy trang nên sự thèm ăn được biểu hiện một cách lộ liễu, có thể gọi là trắng trợn nữa. Năm Nhiều làm như không để ý đến sự biểu diễn khiếm nhã đó. Anh xoa đầu một đứa và cất giọng ôn tồn nói:
- Đi xuống dưới chơi. Đừng có hỗn. Để lát nữa dọn xuống đã.
Đứa bé được xoa đầu lặp lại lời anh, rủ ba đứa kia cùng đi xuống, nhưng rốt cục chẳng đứa nào đi xuống hết. Và thế là cả bảy người lại lộn vào trong cái khoảng hẹp.
Đã nhiều lần tôi đứng ở cửa sổ nhìn vào cái khung cảnh ấm áp bề bộn đó và tôi so sánh với nhà tôi. Nhà tôi quá rộng có từng ngăn từng phòng thành ra dù trên bàn thờ có chưng bộ tam sơn ngũ sự đồ sộ, đèn nến sáng choang, hương trầm nghi ngút mà tôi vẫn cảm thấy lạnh lẽo trang nghiêm làm sao. Ngày Tết, mẹ tôi mua sắm bận rộn đủ thứ nhưng vì thứ nào cũng có chỗ cất dọn ngăn nắp thành ra tôi vẫn không thấy vui mắt bằng căn nhà của Năm Nhiều. Ơû nhà anh thấy thứ gì cũng bày trong một khoảng hẹp. Có bao nhiêu mứt, bao nhiêu cốm, bánh in, mấy thẩu dưa món, mấy đòn bánh tét là biết hết. Ngồi đánh tam cúc chơi mà mắt vẫn có thể lượn trên những miếng mứt bí dày cộm đường, trên những miếng nhân thịt của đòn bánh tét đang cắt dở. Mắt no những màu sắc, tai no những âm thanh, mũi no những hương vị, quả cái tiểu thế giới của anh có nhiều sức hấp dẫn thiệt. Mà không chỉ ngày Tết mới vậy. Quanh năm, hình như không lúc nào là nhà không có khách. Khách tầm thường thôi và là những người ở quanh quẩn gần nhà anh. Chẳng là bình trà nhà anh luôn có bỏ trà ngon và những người khách kia chiếu cố đến bình trà nhiều hơn đến anh. Ngoài những chén trà đầu do anh mời còn thì những chén trà sau đều do khách tự tay rót lấy. Họ chọn những lúc nào anh nói chuyện hăng hái nhất và họ đã tán thành một cách nồng nhiệt nhất. Lúc bấy giờ chủ khách đều hỉ hả thông cảm với nhau, và làm như vô tình, tay họ nghiêng cái bình cho người trà lặng lẽ chảy vào tách. Thật tội nghiệp, những người bạn nghèo của Năm Nhiều! anh không giàu gì hơn họ, nhưng được cái anh không so đo. Có đường, có kẹo, có chuối anh mời mọc thiệt tình. Riêng phần anh, anh luôn luôn nhịn miệng đãi khách. Chỉ khổ cho bà mẹ anh khát nước, lại cầm bình lên thấy nhẹ bỗng. Thế là bà nổi tam bành.
- Đồ quỷ! Uống cái gì mà cạn ráo không còn để phần cho ai một giọt. Uống gì mà như rồng hút nước. Cũng phải biết…
Câu chửi, dù nhẹ nhàng cũng bị Năm Nhiều cắt ngang. Anh chỉ xịu mặt bung ra năm tiếng “Bà này thiệt… sao mà..” thế là bà cụ im. La lắm chỉ tổ khát mà bà thì có tật không uống được nước lạnh.

Những bữa có giỗ thì nhà Năm Nhiều tấp nập khỏi phải nói. Anh lục đục nấu nướng đầu tắt mặt tối cho dù nhà anh có dư đàn bà để lo việc ấy. Một người chị lấy chồng ở mãi Thái Long dẫn về ba đứa con. Một người em lấy chồng ở xóm Đường dẫn về bốn đứa. Một đứa cháu gái rọi bằng cậu lấy chồng ở Xuân Đài cũng cố nách hai đứa con về. Cộng với mẹ anh và nhà chị Của thì quả nhà này dư đàn bà để làm một bữa cỗ linh đình. Nhưng họ chỉ được sai bảo vặt. Việc nấu nước, xắt thịt, đơm dĩa, anh đều tự đảm nhiệm hết. Xong, lại cũng chính anh lo sắp dọn bàn. Rồi rửa mặt thay áo dài, đội khăn, anh châm hương, châm đèn đứng lầm thầm khấn vái. Về điểm này, anh có khác mẹ anh. Bà cụ thì khấn to như đang nói chuyện với khách. Mà bà cụ nói chuyện thật. Lúc giỗ chồng thì bà kể lể những hồi ông ra đi binh cách “Anh ra đi, thong thả hơn tui ở nhà. Một mình nuôi bốn đứa con nhỏ. Thằng Nhiều thì ghẻ chốc. Dán hết mụn này trổ sang mụn khác. Con Của thì đái dầm. Hết đứa này ấm đầu tới đứa khác ỉa chảy… Cửa nhà đơn chiếc, mời hương hồn anh về uống chén rượu, ăn miếng chả….”
Năm Nhiều nghe đến đoạn mình bị ghẻ chốc mà cảm thấy thương mẹ. Mấy đứa con chị Của nghe hồi nhỏ mẹ chúng đái dầm thì cười rộ lên. Bà cụ đang khấn cũng cười theo rồi xì mũi và lau nước mắt. Năm nào đến ngày giỗ là cụ cũng kể lể thuộc lòng từng đoạn như vậy khiến Năm Nhiều thấy mình như nhỏ lại. Tuy khấn khứa lẩm cẩm vậy nhưng cũng phải công nhận giữa bà và người chết có sự cảm thông mật thiết…
Đến bữa cúng “các đẳng” thì bà cụ quả có nhiều trí tưởng tượng. Bà mời “…những vị chết sông chết suối, chết lửa chết củi, chết chém, chết đâm, chết đường, chết sá, chết gió, chết máy, quá giang chìm đò, đẻ rơi bóp mũi, ăn mày xó chợ…” Những năm sau này khi đường ô tô chạy qua đầu xóm và con đường xe lửa băng qua cánh đồng Chí Đức thì bà thêm một số nạn nhân nữa: “… những người xe cán dẹp mình, tàu nghiến đứt ruột, những người sẩy chân lọt xuống đường rầy, những người...”. Số người thụ hưởng thật quá nhiều đối với một mâm cháo, con gà bằng bắp tay và một nải chuối còn xanh.
Năm Nhiều khấn nhỏ hơn với một vẻ mặt nghiêm trang hơn. Thật đúng là cái dáng dấp khả kính của một ông thầy tế tự biết tự trọng. Anh lim di đôi mắt và hai bàn tay kẹp một nắm hương lớn để ngang trán rất lâu. Lũ cháu tỏ dáng sợ hãi len lén nhìn cái tư thế trầm mặc ấy của cậu chúng rồi lảng bỏ xuống bếp. Ừ mà thật vậy, vẻ mặt của Năm Nhiều chỉ có giá trị khi Năm Nhiều nghiêm trang trong ánh nến và khói hương. Bình thường, đó chỉ là một cái mặt bèn bẹt với đôi mắt nhỏ và cái mũi hếch. Nước da mái mái, da nơi hai gò má bóng lên một cách vô duyên. Răng lại mọc khập khễnh, mọc thành đôi ba hàng lộn xộn. Cái khuôn mặt ấy nói cười đều không gây niềm kính nể.
Tại sao Năm Nhiều lại có duyên với sự cúng bái làm vậy, đó là câu hỏi tôi đã đặt ra từ lâu. Lúc tôi còn nhỏ, anh được mẹ tôi cậy đến ở nhà bế tôi. Khi tôi biết chạy chơi thì anh chuyên lấy đất sét nắn hình long đình, bộ lư, đỉnh, cây đèn. Anh hái những trái mảnh bát già, cắm bốn cọng nhang ngắn vào giả làm con heo. Anh cắt ngang cổ trái mảnh bát rồi bày riêng ra làm đầu heo (ruộng mảnh bát già màu đỏ như máu). Anh lấy những lon, những khay bày một hàng trước bàn thờ giả rồi gõ nhịp lên rồi tụng niệm ê a. Anh bắt tôi chắp tay vái lạy. Thế là tôi học tiếp xúc với thần linh do sự môi giới của anh Năm Nhiều vậy.
Ngày nào anh cũng bày cỗ cúng một vài lần. Khi có đông lũ trẻ nhỏ đến chơi thì anh tổ chức thành đám rước. Đứa thì thổi kèn, những cái kèn cuộn bằng lá chuối, đứa thì đánh trống đánh chiêng bằng miệng, nhưng tuy bằng miệng mà vẫn có trật tự, tiếng bầm, tiếng beng xeng nhau. Anh Năm Nhiều làm tổng chỉ huy. Mẹ anh mỗi lần gặp thấy anh cao lêu nghêu đi “rước sắc” giữa bầy trẻ con còn ở truồng như vậy là bà chửi liền:
- Mồ tổ mày, to đầu mà còn chơi chuyện con nít. Mày coi, mày đã cao bằng cây cau kia rồi.
Và thế là đám rước rối loạn hàng ngũ, trống chiêng bỏ chạy hết.
Sau đó, anh thôi không cúng giả nữa mà anh vái ông Táo, ông Địa thật, với đồ cúng thật. Mỗi khi quên đóng chuồng gà để gà đi lạc, sợ cha tôi rầy, mỗi khi đánh mẹ, đánh lú bị thua liểng xiểng là anh mua một cái bánh nướng và một miếng đường để vái ông Địa. Không dám đốt đèn sáp sợ tỏ ra quá lễ mễ, anh chỉ đốt một cây đèn hột vịt nhỏ. Cũng không dám đốt hương nữa vì sợ mẹ anh bắt hơi mùi hương mà lên hỏi lôi thôi. Sự cúng vái do đó mang tính chất du kích, nghĩa là nếu nghe tiếng guốc của mẹ anh lẹt xẹt đi lên thì anh thổi phụt ngay ngọn đèn, thế là xong. Cái bánh tráng và miếng đường trở lại vị trí cũ là món ăn xoàng xĩnh ngang tầm của anh, mẹ anh không có cớ gì để nghi ngờ nữa. Nhưng phải đợi đến năm anh chấp chưởng quyền gia trưởng thay mẹ thì năng khiếu cúng bái của anh mới phát triển toàn vẹn. Thôi thì nhà anh cứ phảng phất mùi khói hương quanh năm. Anh giỗ cha, ông nội, bà nội, ông cố, bà cố. Anh giỗ ông chú bà thím, cô Hai, cô Ba là những người tuyệt tự. Anh giỗ ông ngoại, bà ngoại, vì lòng hiếu với mẹ. Ngày rằm, mùng một, ngày vía Phật, ngày vía Quan Thánh.. anh nhớ không sót. Nếu không vì nghèo thì tôi chắc cái gian giữa nhà anh phải là nơi gặp gỡ của còn nhiều các vị thần linh nữa. Gặp trường hợp nào anh cũng kêu cầu sự phù hộ
Nhưng bảo rằng sự cung kính thái quá của anh là một lối hối lộ thần linh thì sợ có oan cho anh không? Chớ riêng tôi thấy thì hình như sự nghiêm trang xuýt xoa của anh là một thái độ hạ mình để kêu gọi lòng trắc ẩn. Trong khi cúng vái, tôi thấy anh hay hít mũi mà không hề nghe có tiếng nước mũi chạy lên. Như vậy, thì sự hít mũi đúng là một lối trang bị hơn là một sự cần thiết sinh lý. Anh muốn nhún mình, hạ mình, muốn tỏ rằng mình khổ, mình cần sự giúp đỡ che chở. Những người khổ, những người muốn chứng tỏ rằng mình khổ đều có những phép trang bị tương tự. Chẳng hạn họ cố ý đi khòm lưng xuống. Chẳng hạn họ hay thở dài. Chẳng hạn họ hay thốt ra những thán từ tỏ sự ngạc nhiên, sự sợ hãi: “Trời ơi! Trời ơi! Mô Phật! Chúa ơi!”
Đúng là Năm Nhiều đang đi trên con đường xây dựng mặc cảm đó. Tôi có thể chứng minh điều này bằng lối bẻ bánh tráng của anh. Số là mỗi lần có cúng giỗ thì cỗ đầu tiên, cỗ ngon nhất anh dùng để mời khách. Khách đó trước tiên là cha tôi mà anh nài nỉ hết sức để mời đến cho được. Thứ đến là ông xã Tám, một người hào phú đương kim lý trưởng. Rồi đến hương kiểm Bán và câu Hai Dần. Tôi cũng được anh và mẹ anh trì kéo cho vào ngồi chung bàn “vì cảm tình riêng”, anh nói. Ngồi ăn như vậy, tôi đóng vai trẻ con hay nhìn người lớn khề khà uống rượu. Tôi mới để ý đến tia mắt khinh bỉ mà ông xã Tám dành cho câu Dần. Nhiều câu nói của câu Dần, ông xã làm như lảng tai không nghe, để không trả lời. Yù ông xã chê câu Dần chức vị quá nhỏ không xứng được chung bàn với ông. Thực tế thì quả có như vậy. Ơû trong thôn xóm, trừ những người u mê thậm tệ, còn thì ai cũng được nhận một chức vị nhỏ. Chẳng lẽ trong suốt một đời người mà không có dịp nào sao. Những chức câu, trùm, kim tri.. đâu phải món hàng có nhiều người đầu cơ mà trái lại, thừa thãi ra đó, ai muốn xin lãnh cũng được. Vậy mỗi người sẽ đến lượt mình. Câu Dần, trùm Sáu, kim Hai đã thay hẳn những cái tên riêng. Nhưng mặc dù vậy, cho đến ba mươi mấy tuổi, anh Năm Nhiều vẫn chỉ là Năm Nhiều chớ không hề được gọi là trùm Năm, câu Năm.. và do đó mới xảy ra việc nể nang một ông câu thư như câu Dần mà ông xã Tám, xem là thái quá.
Khi bữa ăn giỗ bắt đầu, anh Năm cầm những cái bánh tráng nướng để bẻ. Nhưng thay vì bẻ trên tay, anh lại để bánh tráng trên đầu. Hai tay anh kéo hai bờ vành bánh xuống cho bánh bể một tiếng gọn trong khi cổ anh rụt xuống. Thái độ khúm núm này chắc là làm vui lòng cha tôi và ông xã Tám lắm. Nhưng giá anh Năm đừng lặp lại cử chỉ ấy với cái bánh tráng đặt trước mặt câu Dần. Khi rót rượu, anh cũng lễ độ đúng mực. Tay mặt cầm bình rượu chúc xuống, còn tay trái vòng ngang để giữ vạt áo dài.
Những năm chiến tranh, Năm Nhiều làm không đủ ăn, nhưng trong cảnh nghèo, anh vẫn không bớt mẫn cán trong việc tế tự. Tội thân anh, đã phải chạy đồ cúng một cách chật vật mà nhiều khi còn phải che giấu bớt sự cúng kính quá thường xuyên của mình. Trong khi xung quanh ai nấy phải khó khăn lắm trong sự sinh sống mà mình cứ thắp hương một cách thừa thãi thì quả là vô ý thức. Vả lại lúc bấy giờ còn có phong trào bài trừ mê tín, nên anh cần phải thận trọng nhiều lắm. Nhớ có lần toàn huyện thi đua bắt chuột, bảo vệ mùa màng, ai nấy mang cuốc xẻng ra đồng đào hang chuột, mang rơm un khói chuột, mang chó theo săn chuột, mang lưới căng bẫy chuột, thế mà riêng Năm Nhiều thì biện một mâm cỗ lén mang ra miếng ruộng nhà để cúng vái ông Tý. Thì ra anh Năm quan niệm rằng mọi sự vật trên đời này đều có một sự cảm thông huyền bí với nhau, kể cả những việc nhỏ nhất. Mỗi gốc cây, mỗi phiến đá cũng có thần linh trong đó. Chớ sao? Trong khắp xóm chỗ này chỗ kia người ta vẽ những hình tượng và bùa chú lên mặt những viên đá để trấn áp những góc rào. Những thanh tre cũng được bôi vôi trắng và vẽ bùa chú lên để đặt trên sườn nhà. Hèn chi anh chẳng lúc nào chẳng trầm tư. Dễ thường anh đang lắng nghe tiếng nói thần linh của mọi vật xung quanh anh. Những đêm tối trời, anh ngồi chơi với tôi mà thấy một vì sao đổi ngôi là anh im lặng cắt đứt câu chuyện. Sau đó anh thì thầm nói:
- “Bà” mới bay. Chắc “bà” bay về miếu.
Bà nào, tên gì, anh không trả lời được, nhưng nhất định là “bà” vừa bay. Bình vôi cũ, ông táo bể, anh xếp cẩn thận ở gốc mít và cấm ngặt lũ cháu không cho đến gần. Rồi hễ đứa nào ấm đầu, đi tướt là anh đổ riệt rằng nó đã quấy phá ông táo và ông bình vôi. Đứa cháu có cam đoan mười mươi là không bao giờ bước đến đó cũng không tin. Lập tức một lễ nhỏ được bày biện ra và anh xuýt xoa tạ lỗi.
Ngày tôi lên bảy tuổi, mẹ tôi sắp đặt cho tôi đi học A.B.C. Anh Năm Nhiều tỏ ra xao xuyến hết sức đối với cái giây phút long trọng mà tâm hồn tôi sắp giã từ những vật tầm thường xung quanh mình để tiếp xúc với cái cao siêu của chữ nghĩa. Anh trầm ngâm hỏi mẹ tôi:
- Cô định bữa nào cúng khai tâm cho thằng Thiết?

Mẹ tôi ngạc nhiên quay lại hỏi:
- Cũng phải cúng khai tâm nữa sao?
- Có chớ. Nó bắt đầu đi học thì phải cúng khai tâm cho nó.
- Cô tưởng ngày xưa đi học chữ Nho thì mới cúng khai tâm, chớ thời bây giờ học chữ quốc ngữ thì có thần thánh đâu mà phải cúng?
- Xưa nay gì cũng vậy. Phàm đã có chữ nghĩa thì có thánh, không có thánh thì lấy ai bày ra chữ nghĩa. Phải cúng khai tâm thì mới sáng dạ, học mau thuộc. Mẹ tôi lưỡng lự một lát rồi nói:
- Ừ thôi thì cúng cũng được. Mà cúng món gì bây giờ?
- Cô đưa tiền con đi kiếm mua một con gà cồ trắng, thứ gà non chưa hề đạp mái. Phải đi chợ Đèo mới có nhiều gà mà lựa. Rồi cô nấu một nồi xôi.
Mẹ tôi y theo lời anh và anh bươn bả đi tìm mua về được một con gà cồ trắng thiệt. Quả là một thành tích hy hữu đáng phục, vì gà cồ trắng không phải là một vật dễ tìm. Anh sung sướng ra mặt khi về khoe với mẹ tôi:
- Con đi rảo suốt cả chợ mà không tìm ra gà trắng. Chỉ có gà cồ chuối thôi. Con định mua đỡ một con gà cồ chuối thì may thay có bà đem tới con gà này.
Vừa nói anh vừa vuốt ve cái mào mới nhú đỏ chóe của con gà và con gà ngây thơ nhắm con mắt lại, sung sướng và tin cậy nơi anh.
Tối hôm trước ngày ra trường là buổi cúng khai tâm. Con gà luộc nằm trong cái dĩa lớn ngửng mặt nhìn trời. Mình nó vàng bóng loáng những mỡ. Hai bên là hai dĩa xôi trắng. Anh Năm tắm cho tôi, rồi bắt mặc quần áo mới. Anh đẩy tôi lại gần con gà, nơi cha tôi đang đứng lầm rầm khấn. Cha tôi vốn không nhiệt thành mấy về điểm cúng bái, nhất là đối với môn cúng khai tâm này, nên ông để yên cho Năm Nhiều ra lệnh bắt tôi lạy ba lạy. Tôi hồi hộp làm đầy đủ nghi thức, nhưng mỗi khi quỳ xuống đứng lên, mắt đăm đăm nhìn vào con gà là lòng thắc mắc tự hỏi không biết con gà kia có quan hệ gì đến chữ quốc ngữ mà mình sắp đi học. Khi con gà được dọn xuống thì cũng chính Năm Nhiều ra lệnh cho tôi phải ăn cái đầu gà. Anh ngồi nhìn tôi ăn với một vẻ vừa sung sướng vừa cung kính, khiến tôi áy náy mà quên mất rằng mình đang ăn thịt gà. Có lẽ lúc ấy tôi tưởng rằng tôi đang làm một nghi lễ gì nghiêm trang, hệ trọng lắm, còn anh thì chắc anh đang hài lòng vì nghĩ đến một ngày kia tôi sẽ học hành thông minh, kết quả của bao công phu của anh: tìm gà cồ trắng, bắt lạy, bắt ăn đầu gà.
Một người sống quá khăng khít với những linh hồn của tổ tiên, của thánh thần, của đủ loại ma quỷ như vậy, chắc chắn là rất kém trong việc làm ăn thực tế. Anh nghèo luôn luôn và mắc nợ mẹ tôi không biết mấy lớp. Đối với đàn bà con gái, anh cũng không thành công gì hơn. Dù là con gái nhà quê, người ta cũng muốn có một ông chồng lanh lẹ thực tế. Chớ ngồi nói chuyện tâm tình với một người quá lễ mễ mà đôi tay lúc nào cũng nhu chuẩn bị kẹp bó nhang hay vừa giữ vạ áo vừa rót rượu thì chán chết. Cũng như đôi mắt, bàn tay là tiếng nói của ái tình. Thế mà bàn tay của Năm Nhiều thì đúng là bàn tay câm. Thành ra cho đến bốn mươi tuổi vẫn chưa có một người đàn bà nào. Thật ra thì nói như vậy cũng chưa thật hoàn toàn đúng. Hình như anh đã có yêu một người: đó là chị Gần. Chị Gần không đẹp, nhưng mặt mày cũng dễ coi. Có điều cặp môi hơi dày. Cái kho ca dao tục ngữ là mẹ anh đã vô tình sớt cho anh một mớ kinh nghiệm về tướng người, than ôi, lại nhằm điểm bất lợi của chị Gần.
Mỏng môi nói láo đã xong.
Dày môi ăn vụng, môi cong ăn hàng.
Nhưng nghèo như anh mà lại không đẹp trai thì anh không mong gặp một cô hằng nga. Vậy chắc là anh đã chọn chị Gần. Chị là bạn thân của chị Của, cùng đi về một chợ, cùng ngồi một chỗ nhỏ to bàn tính tiền công, giá cả, hàng giờ ở ngạch cửa nhà anh. Cứ cách một ngày là có chị bên cạnh chị Của. Mỗi lần đứng gần chị, anh hay đưa tay vuốt tóc, những sợi tóc cứng đứng sừng sững bướng bỉnh. Đó là lối làm dáng độc nhất của anh, biểu lộ một sự bối rối mực thước. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa đẩy vài câu chuyện nhưng mà khó nhọc biết bao! Anh phải đằng hắng nhiều lần để nuốt một miếng đờm tưởng tượng nào đó rồi mới nói được những câu rất đỗi vô duyên.
- Chị Gần… à… à.. cúng mồng năm có lớn không?
Chị Gần cũng không hoạt bát gì hơn. Đôi môi dày chuyển động một cách chậm chạp. Thành ra hai người sắp sửa thành tình nhân ấy chỉ còn biết chăm chăm nhìn xuống hai bàn chân của mình như chưa bao giờ thấy chúng. Sự tỏ tình mặc dầu đạm bạc, gần như tiêu cực đó, cũng không lọt khỏi mắt người anh rể của chị Gần. Người anh rể này bấy lâu đã ngầm coi chị như người vợ dự khuyết của anh ta. Vợ anh đau ốm hom hem, nên anh phải lo xa một cách phũ phàng như vậy. Nhưng từ ngày chị Gần tới nhà Năm Nhiều hơi nhiều, thường xuyên và với những lý do không chính đáng lắm thì anh khởi sự lo. Anh thấy phải vội vàng thực hiện cái ý định của anh. Anh bắt đầu chửi vợ. Để sự chửi bới không trở thành trắng trợn, để đỡ ngượng với hàng xóm, anh uống rượu trước khi chửi. Chửi vợ chán, anh chửi luôn em vợ và mẹ vợ. Cuối cùng, không biết bằng cách dàn xếp nào mà chị đã trở thành vợ anh ta. Thế là chai rượu và cái ly không còn cần thiết nữa. Chỉ có tiếng chửi là vẫn còn, nhưng lần này lại là tiếng chửi the thé, nhọc mệt, tiếng rủa kèm theo tiếng khóc của vợ anh. Chị chửi chồng, chửi em gái mình. Chị chửi trời, chửi đất. Cho đến một buổi tối kia, chị Gần cuốn áo quần đi mất biệt. Ở lại cái xóm nghèo nàn này có hai người đàn ông đau khổ vì chị: người anh rể và Năm Nhiều.

Năm Nhiều có buồn không, buồn bao nhiêu lâu thì không ai biết. Vì có bao giờ anh vui vẻ đâu? Anh lúc nào cũng mơ mơ màng màng, đi dưới đất mà tưởng chừng như đang bay theo các “bà” ở giữa không trung. Chỉ biết là từ ngày đó anh hay ngồi tẩn mẩn hàng giờ trước chiếc gương soi, có lẽ để tìm xem vì những khuyết điểm nào ở trên mặt mình mà mình phải chịu một sự thất bại lớn về tình ái dường ấy.
Thói thường thì khi nhìn vào gương người nào cũng thấy mình không đến nỗi xấu. Chỉ có khuôn mặt phản chiếu ra thấy hơi là lạ, ngường ngượng là vì trên thực tế mình chưa hề gặp một con người như vậy lần nào. Đôi mắt anh quả có nhỏ thật đó nhưng nhìn vào gương thì tự nhiên anh phải mở to mắt rồi. Đôi hàm răng có vụng về đó, nhưng có bao giờ người ta há miệng để soi gương đâu mà biết? cái mũi, đôi mày gò má đều được anh soát xét cẩn thận nhưng vì ranh giới mơ hồ nên anh rất yên tâm mà thấy mình cũng “ngó được”
Qua những lần thám hiểm như vậy, anh mới có dịp để ý đến những mụn tàn nhang có rất nhiều trên mặt mình. Anh dùng hai ngón tay cái để nặn và cái mụn trồi ra chầm chậm, dễ dàng, đúng lúc, như chính nó cũng cùng chia sự thích thú với anh. Đầu mụn mang một vết thâm đen. Chính những vết thâm này làm từng chấm trên khuôn mặt. Khi nặn xong một mụn thì chỗ cái mụn vừa ly khai có một lỗ chân kim nhỏ màu hồng, trông đẹp hơn cái chấm đen trước nhiều. Đến đây, một sự hối tiếc lặng lẽ gặm nhấm tâm hồn anh. Anh tự trách mình đã bỏ qua bao nhiêu năm mà không hề để ý đến những vết mụn thù nghịch kia. Bây giờ đã có quá nhiều mụn đã già rồi, vết đầu đen đã nhẵn sát xuống da mặt, khiến trên khuôn mặt rải rác như có rắc những hột mè đen hay những hột hoa mồng gà. Ái tình đến quá chậm nên mới có những sự bất lợi như vậy. Khi yêu người ta mới hay làm dáng. Năm Nhiều thì vừa chậm yêu vừa ý thức sự làm dáng quá chậm chạp. Ít ai như anh, thất bại trong tình trường rồi mới chợt để ý đến những mụn tàn nhang.
Từ lúc phát kiến ra cái lối làm đẹp không tốn kém mà khéo gây thích thú này, Năm Nhiều có khi ngồi suốt giờ cạnh chiếc gương soi, chơi một mình với những mụn tàn nhang. Những khi bạn đến chơi nhà, anh không ham nói chuyện như trước mà chỉ thích tìm những mụn tàn nhang nơi mặt bạn. Có khi anh bắt người bạn xoay mặt đủ chiều để anh tìm vết mụn. Vì trong nhà tối nên anh kéo bạn ra ngồi ở cạnh cửa, nơi đó dưới ánh sáng của mặt trời, những cái mụn sẽ không lẩn trốn đi đâu được. Rồi với đôi ngón tay thành thạo, anh đã nặn vết mụn ra, sau khi tám ngón tay còn lại kẹp cứng khuôn mặt của người bạn để không cựa quậy được. Sự say mê ma quái này làm khổ những người bạn của anh không ít. Đôi khi những người bạn này la “ái” lên, nước mắt ràn rụa, nhưng anh cũng không tha. Anh phải suỵt suỵt nho nhỏ: “Im, im sắp ra rồi”, làm như nếu nói to thì cái mụn sẽ nghe được và nó sẽ chạy trốn mất.

Nhưng số lượng những cái mụn có thể nặn được thì có hạn mà sự say mê của anh thì khôn cùng, nên khi những cái mụn đã hết rồi thì anh lại rơi vào sự im lặng cô đơn. Anh đành phải rời bỏ khuôn mặt mình mà đưa mắt chậm chạp, uể oải nhìn xung quanh. Đúng vào lúc ấy, anh thấy chị Ba Răng Vàng. Chị này ở Tuy Hòa tản cư ra. Ngoài ba cái răng cửa bọc vàng tây, chị có hai con mắt sắc hay liếc và một cái miệng hay nói hay cười. Đôi hàng lông mày in rành rành vết dao cạo xén và môi có bôi một lớp son đỏ lợt. Tóc bới vồng lên, ở trước như hai cái sừng mới nhú và trên mái tóc mang rất nhiều kẹp. Lọn tóc bới lỏng bỏ rơi xuống dưới ót trông tựa cái bụng của một con tò vò. Vóc người chị thon nên khi đi, đôi tay đưa đẩy dịu dàng, một sự dịu dàng dường như cố ý, có sắp đặt trước. Tất cả đều trái hẳn với chị Gần chậm chạp nặng nề. Chị Ba Răng Vàng ở trọ nhà ông Cống, cách nhà Năm Nhiều chừng vài trăm thước. Chị bán xôi chè và cơm rượu. Miệng con nhà buôn gặp ai cũng mời cười, nhưng Năm Nhiều ngây thơ cứ tưởng nụ cười đó, nhất là con mắt liếc chỉ dành cho anh. Thành ra anh hăng hái tuyên bố rằng anh đã ghiền món chè “bột lọc bọc đậu phộng” của chị. Những bữa ế hàng, nồi chè còn đầy thì chị Ba càng phung phí mắt liếc và nụ cười với anh. Chị dám nắm tay anh mà kéo - bàn tay tinh khiết chỉ quen cầm nắm nhang - bắt lại ngồi ăn giùm cho chị một chén chè. Anh đau khổ từ chối, bảo rằng không có tiền thì chị cuời:
- Ăn đi rồi bữa nào có trả cho em.
Tiếng “em” ngọt ngào làm nhột sau ót anh. Từ xưa đến giờ chưa ai xưng hô với anh như vậy, kể cả lũ em gái. Đứa nào cũng xưng “tui” một cách lạt lẽo cộc lốc. Anh lợi dụng tình thế liếc trả lại chị một cái rồi uể oải lại ngồi húp chén chè. Uể oải, vì nghĩ đến đồng bạc lát nữa không biết phải mượn của ai để trả.
Có lần chị Ba Răng Vàng hỏi:
- Sao anh Năm không lấy vợ?
Năm Nhiều thầm nghĩ: “Đàn bà con gái ở thành phố bạo dạn quá trời. Dám hỏi đàn ông điều đó”. Anh mỉm cười lấy giọng nửa đùa nửa thiệt.
- Tôi nghèo mà ai thèm lấy.
- Xì! Có anh hà tiện thì có. Cưới vợ về sợ nó ăn hết gạo chớ gì!
Đó không phải là sự thật, vừa không phải là câu nói mà anh mong đợi. Anh muốn chị Ba nói rằng “Tôi thương anh lắm. Tôi muốn lấy anh”. Nhưng chị Ba chỉ mê mải ngồi rửa cái chén và sau cùng cầm lấy đồng bạc anh đưa bỏ kỹ vào túi, cài kim băng cẩn thận.
Một hôm chị Ba gánh chè vào sân nhà anh nhằm lúc có những người bạn nhàn tản của anh đang ngồi nói chuyện trời trăng. Aên vặt là một tính hay lây nên một người ăn chơi rồi tất cả bọn cùng ăn. Gặp được bữa bán mau tay, chị ba cười nói vui vẻ. Một một bạn hỏi:
- Chị Ba sống một mình không biết buồn à?

- Buồn chớ. Nhưng biết sống với ai cho có hai mình?
- Để tôi làm mối anh Năm Nhiều cho chị.
Chị cười:
- Em nghèo, lại tản cư mà. Anh Nhiều đâu có thèm em.
Năm Nhiều cười híp hai con mắt, không biết nói sao. Tối đó anh trằn trọc không ngủ được. Hôm sau bần thần không làm gì được. Cứ hay mỉm cười một mình và lát lát nhìn vào chiếc gương soi. Mẹ anh thấy chị Ba năng ghé bán chè thì tỏ ý không bằng lòng, nhất là bà tiếc những đồng bạc anh đã trả cho chị. Bà lên tiếng chỉ trích:
- Cái con cười cười, liếc liếc, ngó như con đĩ.
Bị chạm tự ái, anh cãi ngay:
- Bà này nói lạ, chuyện của người ta..
- Chuyện của người ta tao nói không được sao? Ai biểu mày bênh?
- Bênh cái gì? Năm Nhiều sừng sộ.
- Vậy mà mày nói không bênh hả? Nó là mẹ mày đó.
Rồi không cần chuyển tiếp, bà khóc bù lu bù loa:
- Mày bênh con đĩ, mày chửi lại mẹ mày. Bớ làng xóm ơi, thằng Nhiều nó chửi tui. Bớ làng xóm ơi, thằng Nhiều nó muốn giết tui. Nó cắt cổ tui đây, bớ làng xóm ơi!
Năm Nhiều tức quá mà không làm gì được, sẵn chân, đá luôn cái ấm ăn lông lốc ra chái bếp. Nước văng vãi tung tóe ra đầy đất. Thế là hai mẹ con giận nhau, tránh mặt nhau. Bà mẹ bỏ cơm. Anh ngồi ăn mà không nói một lời. Không khí tràn đầy thù hằn. Nhưng oái oăm thay, ngày hôm sau lại nhằm vào ngày giỗ. Phải mua sắm, nấu nướng, phải sắp dọn bàn thờ, phải mời mọc họ hàng... Hai mẹ con đành phải hòa với nhau để chung lo việc cúng kính.
Mối u tình anh dành ch chị Ba Răng Vàng nung nấu trong lòng anh cho đến một tối kia anh cầm cây gậy đi canh ở xích hậu. Đi qua đám bắp ông chánh Bát, anh nghe có tiếng nhỏ to rì rầm lấy tư cách là tuần phiên, anh dõng dạc hỏi to:
- Ai đó?
Có tiếng trả lời yếu ớt:
- Dạ tôi.
- Tôi là ai?
Anh bước trờ tới: chị Ba Răng Vàng.
- Còn ai kia?
Anh nổi giận quát lớn.
- Tôi
- Tôi là ai? Nói mau.
- Tao.
Một người đàn ông đứng dậy, bước lại gần anh. Nhìn vào mặt thấy rõ là xã Tám, anh vội vàng bước lui một bước, đưa tay trái lên gãi đầu theo thói quen, lí nhí nói:
- Dạ thưa cậu.
- Mày đi canh hả?
- Dạ.
- Ừ thôi đi đi.

Năm Nhiều lê cái gậy nặng nề bước. Quả đúng như lời mẹ anh nói, con đó là con đĩ. Nhưng quên một con đĩ không phải là điều dễ, nhất là khi người ta không có người đàn bà đứng đắn nào để mà nhớ như anh Năm. Có thể anh ngồi nhớ đến đến đôi môi dày của chị Gần và tự trách mình đã quá bạc tình đối với người yêu cũ (cứ tạm nhận là như vậy). Những người rụt rè như anh thường có ý nghĩ tẩn mẩn quanh co như vậy. Không đi tới mà cũng không bước lui, không có cái gì dứt khoát hết. Trong khi đó thì những người đàn bà dứt khoát hơn anh. Chị Gần chọn con đường phiêu lưu thay người anh rể. Dễ thường hôm nay chị đã có người chồng mới rồi. Chị Ba Răng Vàng thì chọn ông xã Tám và vài người khác bạo dạn, thực tế hơn anh. Người ta trả lại anh cho cái bàn thờ uy nghiêm và khoảng hẹp trước bàn thờ. Anh khỏi phải chọn. Như một cái bóng mờ, anh cứ chập chờn trong cái khung cảnh âm u của khói hương và ánh đèn sáp.
Người thất vọng vì tình đều khó ngủ, anh Năm Nhiều không thoát khỏi thông lệ đó. Nhưng khác với những người văn minh uống thuốc ngủ vào trường hợp tương tự, anh Năm Nhiều chỉ biết lăn qua trở lại trên bộ ván. Cái gối bị dày vò một cách tàn nhẫn như tâm hồn của anh vậy. Khi trằn trọc đã chán, anh chợt thiếp đi thì chợt anh bàng hoàng tỉnh giấc mơ quái đản, trong đó anh vụt một gậy vào đầu chị Ba Răng Vàng hay vào hông ông xã Tám, gây nên một vụ án tình đẫm máu mà chỉ vì mấy con chó hầm hè ầm ĩ trước nhà. Chúng cãi nhau vì tình, tranh giành nhau, cấu xé nhau mãnh liệt, ồn ào chớ không chịu bại trận thầm lặng như anh. Trong đêm tối, anh lắng nghe tiếng từng con một và anh cố gắng phân biệt tâm tính của mỗi con. Gầm gừ hàng tràng dài trước mái hiên nhà để đe dọa ai là tiếng của con Vàng nhà anh. Đúng là anh chàng nhút nhát, nhút nhát như chính anh vậy. Tiếng sủa ông ổng, mạnh dạn là tiếng một con chó lạ, anh không biết của ai. Con này có vẻ thách thức, sẵn sàng lao mình vào chiến đấu, nếu có con nào muốn. Một tiếng sủa rời rạc, bàng quan xuất phát từ sân nhà ở xế trước mặt. Đó là con Mực của bà Từ. Nó đã có tuổi, thận thủy kém suy, nên giọng sủa có vẻ là một kẻ đã nếm đủ mùi đời, bây giờ muốn xuất thế, muốn người ta để mình ngủ yên. Xa xa hơn là một số những tiếng gầm ghè lẫn lộn. Rồi vụt nhiên nổi lên những tiếng cấu xé, tiếng những thân hình quần nhau lăn lết trên mặt đường, tiếng “căng cẳng” của một anh chàng bại trận bị cắn đau.
Năm Nhiều giận vì bị phá giấc ngủ, anh mở cửa bước ra.
Anh rón rén lại góc rào lượm một viên đá, nhắm ném mạnh vào một con chó khá đẫy đà. Bị trúng đá, nó kêu ăng ẳng mấy tiếng bỏ chạy, nhưng cách đó không xa, nó đứng dừng lại. Mấy con chó khác im lặng lảng dần. Chỉ có con chó bà Từ vẫn rời rạc sủa những tiếng uể oải.
Nhìn chuỗi sao Bắc đẩu đuôi chổng ngược lên cao, anh bần thần bước vào nhà, đóng chốt cửa lại. Nhưng vừa đặt mình xuống ván thì những tiếng sủa lại nổi lên, hợp tấu trở lại. Anh chợt nhớ rằng tháng này là Mười và hình như anh đã có nghe ai nói rằng những con chó hoạt động mạnh về ái tình trong tháng này. Ngày anh xin con Vàng về nuôi, nó đau ruột bỏ ăn và đi tiêu lỏng, tưởng chết mất. Một ông cụ láng giềng sang chơi bày nấu canh rau diếp cá cho nó ăn, rồi cụ dặn:
- Chó tháng Năm. Khó nuôi lắm.
Anh không hỏi “chó tháng Năm” nghĩ là thế nào, nhưng anh đinh ninh rằng chắc hẳn mẹ nó thụ thai vào tháng Năm. Vậy thì tháng Năm và tháng Muời là hai tháng ái tình mạnh nhất của loài chó. A! Phải có những đêm trằn trọc vì tình, anh Năm Nhiều mới phát kiến được mối tình có định kỳ của loài chó. Không phải việc này mới xảy ra lần đầu nhưng mà đúng là lần đầu anh để ý đến điều đó. Người ta kể chuyện rằng nhà độc tài Hitler vì một đêm mất ngủ mà nghĩ ra được phương pháp phòng thủ một đảo nào đó - tôi quên mất tên - khiến các chiến lược gia đại tài nào cũng phải phục là kỳ diệu. Năm Nhiều là một người tầm thường. Nhưng đó chẳng phải là cũng nhờ ái tình mà anh đã tìm hiểu cuộc đời xảy ra xung quanh anh một cách đầy đủ hơn xưa đó sao? Những sự phát kiến vụn vặt đó, tiếc thay, người bàng quan là mẹ anh không hề biết đến. Bà chỉ, một cách thiển cận, tính nhẩm số tuổi của anh mỗi năm mỗi cao, nhìn mái tóc của bà trong gương mỗi ngày mỗi thêm bạc mà lo lắng tìm vợ cho anh.
- Con Mừng đó, mày coi được không? Nó xấu người mà cấy hái giỏi. Của tư riêng của nó nghe đâu được tới ba chục giạ lúa.
Nhưng Năm Nhiều chỉ ậm ừ rồi bắt sang chuyện khác.
- Hay là con Tỵ? Tuổi nó cũng ngang với tuổi mày đấy. Mày sanh tháng hai, còn nó sanh tháng mười một. Mẹ nó cũng hiền lành như tao. Ý tao ưng đám này hơn.
Nhưng Năm Nhiều cũng lại im lặng. Đối với người con gái nào anh cũng không phản đối mà cũng không tán thành. Nếu bị hỏi riết lắm thì anh trả lời “để con coi đã”. Để bao lâu, anh không nói rõ. Thật ra thì anh có “coi” gì đâu? Anh chỉ thản nhiên nhìn những người con gái tuần tự lấy chồng. anh trang trọng đến giúp gia đình họ nấu cỗ cúng - lại cúng! - và nấu cỗ dọn hai họ. Phải nhìn anh vin nhẹ vào cành cây bông điệp để lựa bẻ từng cành, xếp tỉ mỉ vào lọ hoa đặt thận trọng lên bàn thờ, phải nhìn anh mặt đỏ rực lấm tấm mồ hôi xào nấu nếm ngửi trong bếp, nghiêm trang và say mê như một nhà khoa học đứng trước bầu thủy tinh và ống nghiệm thì mới hiểu rõ cái lòng chí thành của anh đối với tục lệ, cái lòng vị tha của anh đối với những con con gái. Tâm hồn anh như một bãi sa mạc, trên đó họa chăng chỉ còn dấu chân của hai người đàn bà đã đi qua. Mẹ anh lấy đó làm một điều phiền lòng. Đã gần đất xa trời mà không có lấy nổi một đứa cháu nội để ẵm. Nhưng làm sao bây giờ. Bạn của anh quanh quẩn chỉ có mấy người đàn ông biết lợi dụng bình trà và chiếu cố tận tình những bữa giỗ. Nước trà, đó không phải là sở thích của những người đàn bà đang rộ yêu đương. Tóm lại, cứ như thế, Năm Nhiều đi sâu mãi vào cuộc đời, chật vật trong cái diện tích hẹp của khoảng trống trước bàn thờ.
Lâu lâu ghé về thăm quê hương, tôi không quên tạt lại thăm anh, tìm một vài thay đổi nơi anh. Làn da nơi gò má bớt bóng đi, cái miệng móp thêm vì vài cái răng đã gãy, hàng râu thưa đâm tua tủa vì lười biếng cạo và đôi mắt mỏi mệt thêm. Ngược lại, hai bàn thờ và cái khám thấy phong phú hơn xưa vì chiến tranh chấm dứt, anh có phương tiện để bổ túc thêm món thiếu sót.
Đó là một dãy bóng đèn điện đứt râu anh sưu tầm ở đâu về và đựng đầy nước có pha màu xanh, vàng, đỏ, tím. Đó là những nhánh hoa bằng giấy rẻ tiền màu úa bị bụi bám. Đó là những cái cỗ bồng bằng đất, trên đắp đầy ụ những nải chuối, trái quýt, trái bưởi cũng bằng đất nung có tráng men và pha màu lòe loẹt. Những món hàng giả này choán nhiều chỗ trên bàn thờ. Nếu một ngày kia anh sắm thêm một mớ dĩa xôi giả, đĩa bánh tét, bánh in giả, đĩa thịt gà, thịt heo giả - cũng bằng đất có tráng men và pha màu - thì không biết còn chỗ đâu để sắp những món ăn thiệt. Tôi mời anh có dịp vào Nha Trang chơi với tôi. Mắt anh sáng lên.
- Ừ! Tôi cũng kiếm dịp vào Nha Trang chơi. Nghe nói chùa hội trong đó to lắm, ngày lễ vía, ngày rằm mùng một, khách thập phương đến cúng dường hàng trăm người. Hôm Phật đản nghe có cộ đèn và phóng sanh đăng.
Thôi đúng rồi, đúng sở thích của anh Năm rồi. Ngày tôi còn nhỏ, tôi nhớ anh không bỏ sót một bữa làm chay nào. Chùa ở xa làng đến hai cây số mà lúc bấy giờ anh đang ở giúp việc cho nhà tôi nên không thể tự do muốn đi đâu thì đi. Muốn được đi coi làm chay, anh bày tôi vào khóc với mẹ tôi đòi đi cho được. Anh nói:
- Mày cứ khóc rồi nằm lăn xuống đất. Má mày có nói đi xuống chùa xa không đi được thì mày trả lời là có tao cõng.
Tôi làm theo lời anh, vào năn nỉ mẹ cho đi chùa. Mẹ tôi đang bận tay chưa kịp nghe hết câu thì tôi đã nằm dài xuống đất lăn hai vòng, rồi vừa cào cấu vừa khóc rùm lên. Thật tình là tôi đã đóng kịch quá dở. Tuồng lớp anh bày ra, tôi đã lật đật thực hiện, hơi vội vàng, nên kém vẻ tự nhiên. May mà mẹ tôi tính hay mủi lòng nên chỉ nhìn tôi một giây, mẹ tôi đã hỏi:
- Nhưng mà chùa xa con làm sao đi được?
Tôi trả lời ngay:
- Anh Năm Nhiều cõng con.
Không ngờ rằng mưu mô do anh bày ra nên mẹ tôi hối lộ cho anh năm xu và nhẹ nhàng phủ dụ:
- Chịu khó cõng em nó xuống chùa chơi một lát. Đây cô cho năm xu để dành bỏ bùng binh. Nhớ về sớm kẻo em nó buồn ngủ.
Thế là con ngựa hai chân ấy cõng tôi như sao chạy tế.
Hôm nay con ngựa đã khá già rồi nhưng dáng chừng còn ham coi làm chay cộ đèn. Tôi nói:
- Nha Trang thì còn nhiều thú vui lắm. Anh vào, tôi mời anh đi coi chiếu bóng, đi tắm biển, đi coi sở cá. Phố xá to lớn hơn Tuy Hòa nhiều. Có mấy khu Xóm Mới, Phước Hải cất biệt thự trông cũng đẹp.
Nhưng anh lơ đãng đối với những thú vui tôi vừa phác họa. Anh đợi tôi dứt lời, chậm rãi tiếp:
- Nghe nói Nha Trang nấu cỗ chay vừa khéo vừa ngon. Chẳng là ngờ có nhiều “la ghim” ở Đà Lạt chở xuống. Có cà rốt, khoai tây, xúp lơ thì dễ nấu. Ở ngoài mình quanh quẩn có mấy món thường: bí ngô, bí chanh, đỗ phộng, bầu, mướp…
Tôi phải đi vào nội dung câu chuyện của anh để anh vui lòng. Tôi hỏi:

- Anh nấu chay có ngon như nấu mặn không?
- Cũng vậy. Có dầu nhiều, có đỗ nành nhiều thì phải ngon. Nấu chay khéo thì đâu có thua nấu mặn. Cũng đủ giò, chả, nem, gỏi… cũng đủ thịt gà, thịt heo, tôm, cá… có điều này cũng là rau cỏ mà nấu giả như thiệt.
- Ở nhà quê có đám chay nào lớn chắc là họ phải “thỉnh” anh.
- Ờ, chỗ nào quen họ cũng “thỉnh”.
Anh nói chậm rãi, tin tưởng như một ông thầy thuốc Nam tự phụ. “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, câu này có thể đem áp dụng vào anh, nhưng có lẽ chỉ đúng nửa câu, phần trên. Vì thân anh vẫn cứ nghèo và đôi mắt càng nuốt khói bếp nhiều càng mờ đục thêm và còn mang thêm một tật nheo nheo. Một ngày tháng Bảy, con chó nhà tôi sủa ai trước cổng, rồi sủa dẫn đến nhà sau. Người làm lên thưa rằng có một người khách lạ. Tôi ra phòng khách, không thấy anh, bước ra nhà sau thì thấy anh đứng ngơ ngác nhìn. Anh mặc bà ba đen và chân đi dép cao su lốp ô tô. Tôi vui vẻ mời anh lên nhà trên. Anh rờ từng chiếc ghế, từng chiếc cộng hoa cắm ở chiếc lọ đặt ở bàn nước. Anh nhìn lên trần nhà, mắt ngừng lại rất lâu ở chiếc đèn nê ông dài. Tôi mời anh ngồi và anh ngồi rất khẽ, đít chỉ chiếm một phần tư mặt ghế. Lưng thẳng đứng, rồi mắt lại đậu ở cái quạt máy, ở cái radio. Tôi hỏi:
- Lâu quá anh mới vô thăm chơi. Ở ngoài nhà làm ăn ra sao?
Anh đằng hắng ba cái liên tiếp rồi mới nói:
- Cũng chẳng ra sao. Mùa màng mất mát, làm ăn cứ mỗi ngày một lụn. Tôi định vô trong này kiếm việc làm.
- Đã có chỗ làm chưa?
- Ông hương Kính ở ngoài làng vô trong này được nửa tháng. Vừa rồi mới về quê và rủ tụi này vô làm ăn
- Hương Kính làm việc gì ở đây?
- Làm phu đổ đá ở sân bay.
- Lúc nãy anh nói đi vào cả tụi. Vậy còn ai nữa?
- Thằng Đực con bà Lý, thằng Thành móm và anh trùm Sáu.
Hiện giờ họ ở đâu?
- Dưới xóm chợ, chỗ nhà bà con của hương Kính.
Tôi mời nước và thuốc lá. Tiện có đĩa chuối đặt ở tủ ăn, tôi lấy mời nhưng anh từ chối.
- Tôi ít ăn thứ này lắm.
Tôi ngạc nhiên
- Kìa, ngoài nhà thấy anh cúng chuối luôn mà.
- À, vậy mà ít ăn. Cúng thì cúng chớ rồi lũ trẻ nó chia nhau.
- Thế thì ăn kẹo vậy.
Tôi vừa nói vừa vội vã đứng dậy lại mở tủ lấy kẹo. Nhưng anh đưa tay ngăn:
- Thôi đừng phiền. Tôi không ăn đâu. Buổi sáng chỉ uống miếng nước trà.
A! không ngờ cuộc sống của anh thanh đạm dường đó. Tôi nhìn đôi vai gầy và nói:
- Anh ăn ít nên gầy.
- Hồi giờ tôi vẫn ăn ít vậy. Mỗi bữa chỉ có ba sét chén.
Tôi tìm trong dĩ vãng xem anh có nói thật không. Nhưng lạ, sao tôi không còn nhớ một kỷ niệm nào về việc ăn uống của anh hết. Anh sống ở nhà tôi có đến bốn năm năm, thế mà hồi tưởng lại, tôi không thể nào hình dung ra anh cầm chén cơm hay gắp miếng thịt hay nhai nhồm nhoàm ra sao. Tôi có thể thấy như hiện ra trước mắt, anh vấn điếu thuốc và ghé vào chiếc đèn dầu lửa để đốt, hoặc anh đứng ở bàn ăn - ăn đứng chớ không ngồi bao giờ - một chân chõi ngang vào chân đứng thẳng, y như cái chùa Một Cột còn thì tuyệt nhiên không nhớ cái miệng anh nhai ra làm sao. Lẽ cố nhiên là hình dung ra anh hai tay nâng bó hương nghi ngút khói, đứng khấn vái trước bàn thờ thì càng dễ hơn nhiều.
Sau vài câu chuyện, anh đứng dậy cáo từ. Tôi hỏi đi đâu thì anh bảo xuống ở chung nhà với hương Kính để mai đi làm. Tôi nói:
- Anh cứ ở đây với tôi rồi ngày ngày đi làm cũng được. Nhà tôi rộng rãi mà.
Nhưng anh không chịu.
- Để xuống ở chung cả tụi cho dễ. Ngày ngày có xe đưa đến công trường.
- Thế anh đã biết là anh sẽ làm công việc gì chưa?
- Chưa, đợi đến mai sẽ hay.
Khi anh bước theo tôi ra cửa, anh chợt dừng lại, đứng sờ mó vào những quyển sách dày dựng ở kệ sách. Anh nhón lấy hai quyển, âu yếm nhìn vào gáy da rồi lật xem vài tờ. Anh mỉm cười (à, lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp nụ cười của anh) nhìn tôi nói:
- Bây giờ chú học hành giỏi. Có nhớ ngày cúng khai tâm chú ăn cái đầu gà không?
Kỷ niệm ăn đầu gà làm tôi yêu mến anh nhiều. Chắc anh đang hãnh diện mà nghĩ rằng những cuốn sách chữ Tây đó (chữ gì hay ho khó hiểu khiến cho con người ta giỏi được cũng là chữ Tây hết, theo anh quan niệm) làm món trang sức cho trí óc của tôi, làm phương tiện cho tôi sinh sống khá đầy đủ cũng nhờ anh mà có. Nếu không có sự chăm sóc chu đáo của thì bữa cúng khai tâm đã không có và tôi cũng sẽ chỉ u mê tầm thường, lớn lên đủ để làm ông hương, ông giáo là cùng. Tóm lại, cái tôi hiện tại chính là tác phẩm của anh, cái tác phẩm mà anh cho là đã thành công quá sức mong mỏi và đáng để anh hãnh diện. Tôi êm đềm đặt một tay lên vai anh, nơi cái xương quai xanh gồ ra dưới lần áo mỏng rồi nói:
- Tôi học được là cũng nhờ ba cái lạy và cái đầu gà của anh đó.
Đưa anh ra khỏi cổng, đi với anh một quãng đường, rồi tôi gọi xe và trả tiền trước, bảo xe đạp xuống xóm chợ. Tôi dặn anh thỉnh thoảng có thì giờ rảnh thì ghé lại cho biết tình hình công ăn việc làm.
Mười ngày sau anh mới trở lại. Anh cho biết là anh đã đi làm từ sáng hôm đó và anh chuyên môn làm phu hồ.
- Sao anh lại làm phu hồ? Tôi hỏi. Phu hồ là công việc của đàn bà mà.
- Tôi yếu sức, không đổ đá, rải đá được. Phải làm phu hồ vậy.
- Mỗi ngày công được bao nhiêu?
- Ba mươi lăm đồng.

Tôi tự nhiên nhìn xuống đôi bàn tay của anh. Thật là lam lũ phong trần, nhưng tôi cũng ngầm mong một cách yếu ớt rằng đôi bàn tay ấy, lần này, không đến nỗi chịu câm nữa bên cạnh những cô phụ hồ nhí nhảnh lẫn lộn xung quanh anh. Chợt anh ấp úng ngỏ lời mượn tôi hai trăm đồng.
- Ngày kia nhằm bữa giỗ ông già tôi mà chưa tới kỳ lãnh phơi. Chú cho tôi mượn đỡ hai trăm đồng, mai về quê, rồi hôm sau vô tôi lãnh lương sẽ trả lại.
Tôi nhẩm tính tiền lương của anh mỗi ngày, trừ đi tiền ăn tiêu và tôi thấy hai trăm đồng là một số tiền không nhỏ. Tôi hỏi:
- Về tốn kém như vậy mà anh cũng về sao? Thôi tạm ở trong này, chừng nào để dành dư giả hãy về một lượt.
Anh lắc đầu.
- Tốn thì tốn mà không về không được. Chẳng lẽ ngày kỵ, ngày giỗ mà lại…
Tôi lấy tiền đưa cho anh và anh vội vàng cáo lui:
- Để kịp ra phố mua vài lạng bún bắc thảo, da heo, kim châm và ghé chợ mua ít cái bắp sú.
Sau đó không biết bao lâu anh mới lại nhà tôi. Hỏi anh đã để dành tiền khá chưa thì anh thản nhiên nói:
- Đi làm chẳng được mấy ngày. Bữa trước về đám giỗ rồi kế tiếp mấy bữa sau khuôn hội Quảng Đức nhờ ở lại để nấu chay giùm cho chùa nhân ngày lễ Vu Lan. Nhân dịp lễ, chùa khánh thành cái đại hồng chung mới đúc và có gia đình Phật tử toàn quận cắm trại. Thức ba bốn đêm ròng nên bị bẻ mình đến bốn năm bữa. Mới vô hôm kia. Vẻ thản nhiên của anh khiến tôi nghĩ đến thái độ sống của anh mà tôi đã có lần ao ước. Tôi nhớ một buổi chiều chủ nhật kia, tôi ghé thăm một người bạn. Ở nơi giếng nước nhà anh bạn, một người đầy tớ gái đang xát vỏ đậu xanh. Trong khi chờ đợi anh bạn thay áo để cùng đi thăm một người bạn khác, tôi bước ra sân nhìn dãy nhà trước mặt.
Đó là một dãy nhà tôn vách ván kề sát nhau, chạy dài dọc theo cái đầm nước. Trong một gian nhà kia, một người đàn bà đang tắm hai trái đu đủ. Một dĩa quýt và một dĩa chuối đã đặt trên một cái bàn nhỏ kê sát mái hiên đặt trước sân, tôi nghĩ rằng nhà này là một cái quán.
Nhưng chợt có mùi nhang thơm ở đâu bay đến. Tôi liên tưởng đến cái rá đậu xanh vừa rồi và tôi nghĩ rằng mình đã lầm: nhà kia không phải là cái quán đâu, mà chắc là họ đang sắp đặt một bữa cúng gì đây. Tôi nhớ đến đêm nay có trăng sáng. Thôi đúng rồi, có lẽ ngày rằm rồi. Hỏi lại người bạn thì anh ta nói: “Ừ, hôm nay rằm tháng Mười”. Tôi chợt buồn, nghĩ đến những bữa cúng êm đềm mà mình cứ thản nhiên quên. Những ngày cúng rằm, cúng mùng một chỉ có chị giúp việc nhà tôi là nhớ kỹ. Chị giữ tiền chợ nên liệu nhớ mà mua sắm món gì đó tùy ý chị. Khi cỗ bàn đã đặt lên, chị giao cho tôi nhiệm vụ đốt hương và khấn vái. Nhưng sao tôi vẫn nhọc nhằn hết sức để mà tin rằng mình hiện đang hâm hưởng sự chở che ấy. Vào những lúc ấy tôi nhớ đến vẻ mặt rạng rỡ của anh Năm Nhiều, tin tuởng say sưa vào sự phù hộ của vị thần mà anh đang hướng tâm nghĩ tới. Có một lòng tin như thế thật quý giá biết bao trong một cuộc sống đầy cam go bất trắc, đầy những sự phi lý như người ta thường nói.
Như vậy, thì liệu tôi có sung sướng gì hơn anh đâu, tôi, con người bận rộn khôn cùng, lo lắng khôn cùng giữa vài tiện nghi nhỏ: cái xe để đi, cái quạt cho ngày hè, cái máy hát để đỡ cô đơn và bữa cơm trưa có thịt.
Bẵng đi vài tháng tôi không gặp lại Năm Nhiều. Có lẽ nhớ nhà, nhớ xóm, nhớ cái bàn thờ, nhớ chùa, nhớ khuôn hội, anh đã bỏ về quê rồi cũng nên. Nhưng một sáng chủ nhật, dạo quanh chợ, tôi chợt gặp hương Kính đi với trùmg Sáu và Thành. Thật là dễ nhận ra họ: quần áo bà ba, đội mũ và mắt lơ lơ láo láo gặp gì cũng ngó. Tôi lên tiếng trước
- Ông Hương! mấy tháng nay làm ăn ra sao?
Hương Kính thấy tôi, mừng rỡ, giơ tay ra, tỏ ý muốn bắt.
- Làm ăn cũng thường. Có điều dang nắng rát cổ rát mặt quá.
- Còn anh Thành và ông trùm?
Hai người cùng trả lời một lượt, ý không khác nhau mấy.
- Cũng tàm tạm. Làm được tiền mà để dành chẳng được bao nhiêu.
- Làm bao nhiêu ăn hết bấy nhiêu.
- Còn anh Năm Nhiều? Tôi hỏi: Có còn ở làm trong này không? Sao không thấy đi chơi với mấy ông?
Hương Kính trả lời:
- Anh Năm vẫn còn ở làm trong này, nhưng không còn ở chung với lũ tôi nữa.
- Vậy chớ anh ấy ở đâu?
Thành móm toe toét miệng cười:
- Ồ! Bây giờ anh Năm Nhiều “ngon” lắm. Ở nhà vợ mà.
- Vợ nào? Ở đâu?
Tôi vội vàng hỏi, nhưng hương Kính vẫn một giọng ôn tồn chậm rãi:
- Anh Năm có gặp một chị bán đồ vặt ở đầu chợ. Hai người quen nhau, rồi bây giờ anh về ở nhà chị ta.
Thật là chi tiết bất ngờ, quá sức ước đoán của tôi. Năm Nhiều có vợ?
Sao đợi đến chừng này tuổi mới có vợ mà vợ ra thế nào? Người đàn bà nào mà lại khéo thích ứng với ông thầy tế tự có thành tích khả kính đó? Nếu do miệng Thành móm nói thì tôi sẽ hồ nghi, cho là anh ta nói giỡn. Đằng này lại do hương Kính nói. Tôi phải hỏi lại hương Kính kỹ hơn.
- Người vợ của anh Năm Nhiều ra thế nào?
- Nghe nói chị ta góa chồng, được bốn đứa con. Chị buôn bán hàng vặt, nước mắm, dầu, bánh kẹo, thuốc lá ở đầu đường Bến Cá. Anh Năm hay qua lại mua thuốc hút. Rồi hai người cảm tình với nhau.
- Họ cưới hỏi rồi sao?
- Cũng chẳng cưới xin gì. Thì… phàm trai không vợ, gái không chồng gặp nhau. Anh Năm về ở đó cũng nhàn. Ngày ngày đi làm với lũ tôi, trưa tối về nghỉ…

Thế thì hai năm rõ mười là Năm Nhiều đã có ý trung nhân rồi. Thành vợ chồng hay không thì đó chỉ là hình thức đi sau. Như vậy cũng đã là một biến cố quá lớn đối với một người thánh thiện như anh. Nhân ngày chủ nhật rảnh, tôi muốn đi tìm để nhìn thấy tận mắt cái hoàn cảnh mới của anh. Tôi nhờ hương Kính chỉ đường.
Sau mười phút đi quanh qua quẹo lại, bỏ con đường này bắt con đường khác, tôi đứng trước mặt nhà anh. Đó là căn nhà gỗ mái tôn, hơi thấp. Trước hiên bày một cái kê ván nhiều ngăn, sắp lộn xộn những cục xà bông chai nước cam, gói thuốc. Mỗi thứ một ít, như là mẫu hàng để quảng cáo. Nằm dưới là vò nước mắm, hũ dầu, là đống than, là những bó củi… Một cái lò than tắt xếp giấu cạnh đó: chắc là buổi tối quán này bán thêm bắp nướng.
Ngồi giữ quán là một người đàn bà đẫm thấp, nước da ngăm đen, đôi má bánh đúc. Hàm răng vồ và cái miệng rộng, khiến tôi liên tưởng đến một cái miệng cá sấu nếu nhìn người ấy cười. Nhưng lòng quý mến đối với anh Năm Nhiều mà tôi coi như người thân trong nhà, khiến tôi nhìn người đàn bà với một con mắt không nghiêm khắc. Hình như tôi đã chấp nhận chị là một người quen rồi, mặc dù tôi vừa gặp chị lần đầu. Anh Năm Nhiều đã sống với tôi quá nhiều quá khứ nên cái gì anh mến là tôi sẵn lòng mến theo.
Người đàn bà thấy tôi đứng dừng trước quán liền đứng dậy đon đả mời:
- Thưa ông cần thuốc lá? Salem hay Ruby?
Mặc dù không muốn, tôi cũng phải nhận thấy một vẻ gì láu lỉnh trong giọng nói và lời đón trước ý khách hàng quá lanh lẹ của chị. Tôi không ưa tính khôn ranh, liến thoắng ấy nơi người đàn bà. Trong óc tôi đang xây dựng cho anh một người đàn bà hiền lành, biết thưởng thức những cử chỉ đầy lễ nghi mực độ của anh. Tôi nói:
- Tôi muốn hỏi anh Năm Nhiều.
- A, dạ có. Dạ để tôi kêu
Chị quay miệng vô nhà:
- Anh Năm ơi! Có khách hỏi anh. Anh Năm!
Rồi chị quay sang tôi:
- Mời ông vào nhà. Tôi chần chừ không bước vội, đợi nghe một tiếng đằng hắng, một tiếng guốc, một tiếng trả lời chứng tỏ sự hiện diện thực của anh. Nhưng sao căn nhà im lặng quá. Rồi chợt giữa khung cửa anh hiện ra, trọn vẹn là khuôn mặt và khổ người của anh, lặng lẽ và nhẹ nhàng như một con mèo. Tôi buột miệng:
- Anh Năm
Anh Năm cười:
- A, chú.
Tôi bước vào, ngồi ở cái bàn nước.
Căn phòng hẹp, bị choán bởi những món hàng tạp hóa vặt vãnh dự trữ: thùng dầu, tỉn nước mắm, thạp gạo, bịch thuốc…. Một cái đi văng gỗ, trên đặt một cái gối sẫm màu mồ hôi, với một chỗ thõm ở giữa, dấu vết của cái đầu anh vừa đặt lên đó. Kê giữa nhà là một cái bàn thờ khá bề bộn: bộ lư đèn đồng, bát hương, cỗ bồng chuối, bình hoa huệ trắng. Một tấm hình lồng kính đặt ở giữa, có phủ tấm vải đỏ. Một cái khám đóng ở trên cao, cũng với bộ lư đèn nhưng nhỏ hơn. Ở dưới ghế lại có một cái thùng để thờ ông thần tài. Chữ “tài thần” viết bằng chữ nho trên giấy hồng đơn, dán lên mặt trong thùng. Một cái đèn hột vịt vặn nhỏ và một cây hương đang cháy.
Sao quang cảnh nơi đây giống cảnh nhà anh vậy? Sao anh khéo chọn được cái không khí âm u cố hữu của anh ở ngay giữa thành phố náo nhiệt này? Một đường khói mảnh từ đầu cây hương uốn mình nặng nhọc vươn lên. Mùi hương pha lẫn với mùi thơm của hoa huệ hơi úa tạo cho cái không khí đang bao quanh tôi một vẻ huyền bí, nhất là căn phòng hơi tối. Tôi hỏi anh:
- Anh về đây được bao lâu?
- Được hơn tháng nay.
Không biết nên hỏi gì nữa - thật ra thì có nhiều câu hỏi quá nhưng đều không tiện nói ra tôi đành hỏi đỡ một câu mà tôi đã một trước câu trả lời.
- Anh vẫn còn đi làm?
- Vẫn làm ở chỗ cũ. Bữa nay chủ nhật, nghỉ.
Vừa lúc ấy có tiếng chị ở ngoài hiên nói với vào:
- Mình ngó chừng giùm hàng một tí nghe. Tôi chạy lại bà Ba già một chút.
Anh ừ và tôi mừng rằng không có mặt chị tôi sẽ được nói chuyện với anh thong thả hơn. Tôi vào đề liền:
- Chị buôn bán có khá không?
Anh gật đầu:
- Cũng khá. Má con Liễu (Liễu chắc là tên đứa con đầu lòng của chị) được cái tính chịu khó. Nó buôn bán đủ thứ, bỏ món này bắt món khác. Cái quán này chỉ là phụ.
- Nghe nói chị được bốn đứa con.
- Phải, bốn đứa. Con Liễu, con Lý, thằng Sự, con Lùn. Chồng nó đi lính, bị chết trận bốn năm nay.
- Làm sao quen nhau rồi lại hợp ý nhau?
- Nó bán quán, mình năng tới lui mua thuốc, mua thùng quẹt rồi sinh quen. Tính tôi ít oi, mua chỗ nào quen một chỗ để tránh nói thách nói bớt. Có một bữa ghé lại thấy con Lý nó nóng li bì rồi đổ nói xàm. Má nó chạy lăng xăng kiếm thuốc kiếm thầy. Uống mấy ve tiêu ban lộ vẫn như không đã lo cuống lên, mếu khóc… tôi thấy tội nghiệp, lễ cho nó mấy huyệt rồi sẵn hương đèn đó, vái ông Táo cho nó. Sáng ra ghé lại thấy nó mát. Má nó cảm cái ơn…
Aø! Thế là tôi hiểu rồi. Môi giới bắt đầu là ném hương, là cái bàn thờ, là ông táo. Đúng vào sở trường của anh. Tôi có thể tự mình chắp nối để hiểu mạch lạc câu chuyện. Kể cũng không khó lắm. Một người đàn bà đơn chiếc và một người đàn ông cũng đơn chiếc gặp nhau. Sự giúp đỡ xảy đến quá tự nhiên, vì như trước kia ta đã biết: khi Năm Nhiều nghiêm trang khấn vái trước bàn thờ thì vẻ mặt anh có một cái duyên đậm đà mà trung hậu. Khi yêu vẩn vơ, người đàn bà không từ chối người đàn ông liến láu, nhưng để làm chồng thì họ chọn người trung hậu. Đức tính ấy, anh Năm Nhiều có dư.
Tôi đó lấy ly nước anh đưa mời, nhấm nháp vài ngụm rồi hỏi:
- Thế anh không định về quê nữa sao?
- Có chớ. Đi đi về về chớ sao đâu? Hăm bốn tháng này tôi phải về nhà đây. Hăm bốn là ngày kỵ bà ngoại tôi. chú có nhắn gì thì nhắn, tôi về ngoài nói lại.
- Cám ơn anh, tôi vừa gởi thư xong.
Như vậy là Năm Nhiều đã gặp được một người đàn bà. Quả tình có chậm chạp thật đó, nhưng anh có dám đòi hỏi gì hơn. Cái khung cảnh này thích hợp với anh biết bao! Đặt anh ở vào nơi đây, giữa những bàn thờ trang nghiêm thật đúng cách hết sức, như khi ta đặt con gà mái lên trên ổ trứng của nó.
Sau khi giã từ anh, trên đường về, tôi nghĩ đến sự thành công chót cùng này của anh. Như thế cũng đủ đền bù cho bao nhiêu thất bại anh đã nếm phải trong cuộc đời tình ái, chỉ vì tấm lòng quá kính mộ tổ tiên và thần linh. Tôi chợt nhớ đến một đoạn phụ trong câu ghi ở sách tử vi… “Mệnh thân có tử vi cư Mão Dậu gặp Kiếp Không”, mười người thì chín người đi tu. Bằng vào thực tại hôm nay thì chắc đó là số của anh rồi, và may mắn thay, anh lại là người thứ mười nên số đã run rủi cho anh, cuối cùng gặp được má con Liễu.
Võ Hồng
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hoa Kỳ biến thể

Hoa Kỳ biến thể Hoa Kỳ từ trước đến giờ vẫn là quán quân cho các lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng và phát triển cho toàn cầu...