Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2024

Dị chủng 3

Dị chủng 3

Giáo sư già
Cửa hàng đồ cổ và cho vay knickerbocker
Phố 118 đông spanish harlem
Eph đặt cái thẻ VẬN CHUYỂN MÁU KHẨN CẤP lên trước kính chắn gió và đậu xe tại khu vực đánh dấu chỗ dỡ hàng trên phố 119 Đông, theo Nora và Setrakian đi về phía Nam, qua một khu nhà đến cửa hàng cầm đồ ở góc phố của ông. Cửa ra vào có cổng chắn, cửa sổ được lắp cửa chóp bằng các tấm thép có khóa. Mặc dù tấm biển ĐÓNG CỬA đã được gắn trên cửa kính đè lên biển báo giờ mở cửa, một người đàn ông mặc áo khoác thủy thủ rách rưới, đội mũ len chóp cao - giống kiểu mũ những người theo phong trào Rastafari thường đội, chỉ có điều ông ta không có những lọn tóc tết kiểu dây thừng để nhồi cho căng mũ, nên cái mũ cứ rũ xuống đầu ông ta như chiếc bánh trứng phồng bị đổ - cầm một hộp đựng giày đứng bên cửa, đổi chân trụ liên tục.
Setrakian bước tói, cầm theo chùm chìa khóa lửng lẳng trên một sọi dây, lụi cụi mở hết khóa này khóa kia trên cổng, bắt những ngón tay xương xẩu của ông hoạt động. "Hôm nay không nhận cầm đồ đâu," ông nói, liếc nhìn chiếc hộp trên tay người đàn ông.
"Nhìn này." Từ trong hộp đựng giày, người đàn ông lấy ra một gói bọc khăn ăn bằng vải lanh, mở khăn để lộ ra chín, mười món đồ dùng nhà bếp. "Toàn đồ bạc tốt. Tôi biết ông có mua đồ bạc."
"Vâng, đúng thế." Setrakian, giờ đã mở được cổng, gác tay cầm của cây gậy dài lên vai và chọn một con dao, ướm độ nặng nhẹ, cà ngón tay lên lưỡi dao. Sau khi vỗ vỗ tay vào túi áo khoác, ông quay sang Eph. "Anh có mười đô không, bác sĩ?"
Chỉ mong sớm kết thúc vụ mua bán này, Eph lấy kẹp tiền của mình và rút ra một tờ mười đô. Anh đưa nó cho người đàn ông cầm hộp giày.
Setrakian trả lại đống đồ cho người đàn ông. "Cầm lấy đi," ông nói. "Không phải bạc thật."
Người đàn ông cảm kích nhận của bố thí và cầm chiếc hộp quay đi. "Chúa phù hộ ông."
Setrakian bước vào cửa hiệu, nói, "Ta sẽ sớm biết điều đó thôi."
Eph nhìn số tiền của mình mất hút xuôi con phố, rồi theo bước Setrakian vào trong.
"Đèn ở ngay trên tường kia." ông nói, rồi kéo khít hai cánh cổng xếp và khóa lại.
Nora bật cùng lúc cả ba công tắc, ánh đèn rọi sáng các tủ kính, các bức tường trưng bày và lối vào nơi họ đang đứng. Đó là một cửa hàng nhỏ nằm ở góc phố, hình chiếc nêm, như thể nó đã được một chiếc búa gỗ đóng vào khe giữa những tòa nhà thành phố. Từ đầu tiên mà Eph nghĩ tới là "tạp nham". Cực, cực nhiều thứ tạp nham. Những hệ thống loa stereo cổ. Những đầu đọc đĩa và các thiết bị điện tử lạc hậu khác. Trên tường trưng bày các loại nhạc cụ, trong số đó có một chiếc đàn banjo, một chiếc Keytar - một loại đàn organ đeo người và choi như ghita - từ thập niên 80. Mấy bức tượng thờ và các bộ sưu tập đĩa. Vài máy quay đĩa cổ và bàn hòa âm nhỏ. Một quầy kính có khóa trưng bày những chiếc trâm rẻ tiền cùng những vật trang sức lấp lánh, kém chất lượng. Có cả những cái giá treo quần áo, hầu hết là áo khoác mùa đông có cổ lông.
Có quá nhiều đồ tạp nham tới mức khiến Eph thất vọng. Phải chăng anh đã tốn thời gian quý báu của mình cho một người điên?
"Này," anh nói với ông lão, "một đồng nghiệp của chúng tôi có lẽ đã bị nhiễm bệnh."
Setrakian chống cây gậy ngoại cỡ bước ngang qua anh. Ông đưa bàn tay đeo găng nâng tấm chắn quầy lên và mòi Eph cùng Nora bước qua. "Ta sẽ lên đây."
Cầu thang phía sau dẫn đến một cánh cửa trên tầng hai. Ông lão chạm vào hộp mezuzah[I] trước khi bước qua cánh cửa, rồi ông đặt cây gậy dựa vào tường. Đó là một căn phòng cũ kĩ, trần nhà thấp, thảm mòn vẹt. Có lẽ đồ đạc ở đây đã chẳng hề được di chuyển ba mươi năm rồi.
"Hai người có đói không?" Setrakian hỏi. "Cứ nhìn quanh đi, thể nào cũng tìm thấy thứ gì đó." Setrakian mở nắp một cái hộp đựng thực phẩm nhiều màu, làm lộ ra một hộp bánh Devil Dog đã mở. Ông lấy ra một chiếc, xé lóp giấy bóng kính. "Đừng để bị đuối nhé. Giữ sức đi, hai người sẽ cần nó đấy."
Ông lão cắn một miếng bánh phủ đầy kem trong lúc đi tới phòng ngủ để thay đồ. Eph nhìn quanh căn bếp nhỏ rồi nhìn Nora. nơi này có mùi khá sạch sẽ dù trông có vẻ lộn xộn. Từ trên mặt chiếc bàn ăn chỉ có một ghế ngồi, Nora cầm lên một bức chân dung đen trắng được đóng khung chụp một phụ nữ trẻ tóc đen óng mặc bộ váy sẫm màu giản dị, đang tạo dáng trên một tảng đá lớn tại một bãi biển không người. Ngón tay cô gái đan vào nhau đặt trên đầu gối trần, vẻ mặt rạng rỡ, nụ cười quyến rũ. Eph quay lại chỗ hành lang họ đi qua ban nãy, ngắm nhìn những chiếc gương cũ kĩ treo trên tường - phải có đến hàng tá, đủ loại kích cỡ khác nhau, nứt nẻ và hằn vết thời gian. Sách cũ chất đống hai bên hành lang, khiến lối đi trở nên chật hẹp hon.
Ông lão trở lại sau khi đã thay sang bộ đồ mới, nhưng cùng loại với bộ cũ: một bộ com lê vải tuýt cũ đi cùng áo gi lê, dây đeo quần, cà vạt và đôi giày da nâu đã được đánh bóng tới mòn cả da. Ông vẫn đeo đôi găng hở ngón trên bàn tay tàn tật của mình.
"Tôi thấy là ông sưu tập gương," Eph nói.
"Một số loại nhất định. Những tấm kính cổ hé lộ cho ta biết nhiều điều."
"Giờ ông đã sẵn sàng kể cho chúng tôi biết chuyện gì đang xảy ra chưa?"
Đầu ông lão hơi nghiêng qua một bên. "Bác sĩ, đây không phải điều có thể đơn giản kể ra là được. Nó là điều cần phải được hé lộ." Ông bước qua Eph, tới cánh cửa nơi họ vừa bước vào. "Xin mòi đi theo tôi."
Eph theo chân ông lão xuống cầu thang, Nora đi phía sau. Họ đi qua cửa hàng cầm đồ ở tầng một, qua một cánh cửa khóa nữa tới một cầu thang xoắn ốc dẫn xuống dưới. Ông lão bước từng bước xuống các bậc thang hình tam giác, bàn tay xương xẩu trượt trên tay vịn cầu thang bằng sắt lạnh lẽo, giọng ông vang khắp lối đi hẹp. "Tôi luôn coi mình là một kho tàng về kiến thức cổ, về những người đã khuất và những cuốn sách bị lãng quên. Kiến thức tích lũy dần qua cả đòi nghiên cứu."
Nora nói, "Khi ông chặn chúng tôi lại bên ngoài nhà xác, ông đã nói một số điều. Ông ám chỉ rằng ông biết các xác chết trên máy bay đã không phân hủy theo cách bình thường."
"Đúng vậy."
"Dựa vào đâu?"
"Kinh nghiệm của tôi."
Nora bối rối. "Kinh nghiệm về những vụ tai nạn máy bay khác?"
"Việc họ có mặt trên máy bay là hoàn toàn tình cờ. Thực ra, trước đây tôi đã từng nhìn thấy hiện tượng này. Ở Budapest, ở Basra. Ở Prague, và ở một nơi cách Paris không quá mười ki lô mét. Tôi đã nhìn thấy nó tại một làng chài nhỏ bên bờ sông Hoàng Hà. Tôi đã nhìn thấy nó tại độ cao hai nghìn mét trên dãy núi Altai ở Mông cổ. Và đúng, tôi cũng đã nhìn thấy nó trên lục địa này. Nhìn thấy những dấu vết của nó. Thường nó bị xem như một loại sán, hoặc được giải thích là bệnh dại hay chứng tâm thần phân liệt, điên loạn, hay gần đây nhất, một vụ giết người hàng loạt..."
"Khoan đã, khoan đã. Ông đã bao giờ tận mắt chứng kiến những cái xác phân hủy chậm chưa?"
"Ở giai đoạn đầu thì có."
Eph nói, "Giai đoạn đầu."
Cầu thang xoắn kết thúc tại một cánh cửa khóa. Setrakian lấy một chiếc chìa khóa, tách biệt với những chìa còn lại, đang treo lủng lẳng trên sọi dây chuyền đeo trên cổ ông. Những ngón tay cong queo của ông lão tra chiếc chìa vào hai cái khóa móc, một to, một nhỏ. Cánh cửa mở vào trong, ánh sáng nóng tự động bật lên, và họ theo chân ông tiến vào một căn hầm sáng và sâu hút.
Thứ đầu tiên đập vào mắt Eph là một bức tường treo toàn đồ giáp chiến đấu, từ bộ giáp kỵ sĩ đến áo giáp lưới sắt, hay những tấm giáp cổ và ngực của Samurai Nhật, cùng những thứ thô sơ hơn được làm từ da bện giúp bảo vệ cổ, ngực và háng. Có cả vũ khí: kiếm và dao được gắn trên tường, lưỡi sáng lạnh. Các thiết bị tân tiến hơn để trên một chiếc bàn thấp cũ kĩ và đang được sạc pin. Anh nhận ra cặp kính hồng ngoại và súng bắn đinh đã được cải tiến. Và lại rất nhiều gương, hầu hết đều cỡ bỏ túi, được bố trí để anh có thể thấy chính mình đang hoang mang nhìn chằm chằm căn phòng trưng bày... trưng bày gì nhỉ?
"Cửa hiệu" - ông lão chỉ tay lên tầng trên - "giúp tôi sống khá dư dả, nhưng tôi không đến với công việc kinh doanh này vì ham mê những chiếc radio bán dẫn hay đồ trang sức gia truyền."
Ông đóng cánh cửa phía sau họ, những ánh đèn bao quanh khung cửa vụt tắt. Những bóng đèn cố định chạy theo chiều dọc và chiều dài của khung cửa - những bóng tuýp màu đỏ tía mà Eph nhận ra là đèn cực tím - được bố trí xung quanh cánh cửa như một trường lực ánh sáng.
Để ngăn chặn vi khuẩn xầm nhập vào phòng chăng? Hay để phòng chống một thứ gì đó?
"Không," ông lão tiếp tục. "lý do tôi chọn công việc này là bởi nó cho phép tôi tiếp cận một chợ đen buôn bán những vật phẩm bí truyền, cổ vật hay sách quý. Đồ lậu, nhưng không hẳn là bất họp pháp. Tôi kiếm chúng cho bộ sưu tập cá nhân và các nghiên cứu của mình."
Eph nhìn xung quanh một lần nữa. Căn phòng này trông giống một kho chứa vũ khí nhỏ hơn là một bộ sưu tập đồ cổ. "Nghiên cứu của ông ư?"
"Đúng vậy. Tôi đã nhiều năm làm giáo sư Văn học và Văn hóa dân gian Đông Âu tại Đại học Vienna."
Eph đánh giá ông lão một lần nữa. Đúng là ông có cách ăn mặc như một giáo sư Vienna. "Và ông nghỉ hưu để trơ thành chủ hiệu cầm đồ ở Harlem ư?"
"Tôi không nghỉ hưu. Tôi bị ép nghỉ việc. Bị ruồng bỏ. Một vài thế lực đã chống lại tôi. Tuy nhiên, ngẫm lại, việc ẩn lánh đi khi đó gần như đã cứu sống tôi. Thực ra đó là điều tốt nhất tôi có thể làm." Ông quay mặt về phía họ, đan tay sau lưng, và nói. "Tai họa mà chúng ta đang chứng kiến giai đoạn đầu này đã tồn tại hàng thế kỷ. Hàng thiên niên kỷ. Mặc dù chưa thể chứng minh nhưng tôi ngờ rằng nó đã có từ thời cổ xưa nhất."
Eph gật đầu, không hiểu rõ ý ông, chỉ lấy làm mừng vì cuối cùng mọi sự đã có tiến triển. "Nghĩa là ta đang nói về một loại vi rút."
"Đúng vậy. Kiểu như thế. Một loại bệnh gây tổn hại cả về thể xác lẫn tinh thần." Ông lão đang đứng ở một vị trí mà, từ góc nhìn của Eph và Nora, các thanh kiếm được sắp xếp trên tường xòe ra hai bên người ông như đôi cánh bằng thép lá. "Vậy thì, một loại vi rút? Ehing. Nhưng giờ tôi cũng muốn giới thiệu với hai người một từ khác."
"Là gì vậy?" Eph hỏi.
"Ma cà rồng."
Một từ như vậy, được nói ra bằng giọng nghiêm túc, đọng lại trong không gian một lúc lâu.
"Hai người," giáo sư Setrakian nói, "hẳn đang nghĩ tới một vai diễn cường điệu u ám với chiếc áo choàng lụa đen. Hay một nhân vật đầy quyền năng và tốc độ, với những chiếc răng nanh bị giấu đi. Hay một linh hồn sống nào đó mang gánh nặng của lời nguyền bất tử. Hay... Bela Lugosi gặp Abbott và Costello*[II]’." Nora nhìn quanh căn phòng lần nữa. "Tôi chẳng hề thấy thánh giá hay nước thánh. Cũng không có vòng tỏi."
"Tỏi có một số thành phần miễn dịch đáng quan tâm, và trong vài trường họp nó có thể hữu ích. Vì vậy, sự xuất hiện của nó trong các câu chuyện thần thoại là dễ hiểu về mặt sinh học, theo một mức độ nào đó. Nhưng thánh giá và nước thánh ư?" Ông nhún vai. "Sản phẩm của một thời đã qua. Sản phẩm từ trí tưỏng tượng bị kích động của một tác giả Ai Len thời Victoria, và từ bối cảnh tôn giáo thời đó."
Setrakian đã đoán trước sự nghi ngờ của họ.
"Chúng vẫn luôn tồn tại." ông nói tiếp. "Ấn mình, kiếm ăn. Trong bí mật và bóng tối, bởi vì đó là bản chất của chúng. Có bảy con đầu tiên, đưọc gọi là những Ma cà rồng cổ Đại. Các Chúa Tể. Không phải mỗi con một châu lục. Chúng không sống độc lập mà sống theo nhóm. Mãi tới gần đây - 'gần đây' đối với vòng đòi bất tử của chúng - chúng tản đi khắp các vùng lãnh thổ rộng lớn nhất, như ngày nay ta biết là châu Âu và châu Á, Liên bang Nga, bán đảo Ả Rập, và lục địa châu Phi. Nói cách khác là Cựu Thế giới. Có một sự chia cắt, một cuộc xung đột trong loài của chúng. Bản chất của sự bất đồng này thì tôi không rõ là gì. Chỉ biết rằng, cuộc xung đột này xảy ra trước khi ta khám phá ra Tân Thế giới hàng thế kỷ. Sau đó, việc thành lập các thuộc địa ở châu Mỹ đã mở ra một vùng đất mới màu mỡ. Ba con ở lại Cựu Thế giới, còn ba con tới Tân Thế giới. Cả hai phía đều tôn trọng vùng lãnh thổ của nhóm còn lại, và hòa ước được chấp thuận và duy trì.
"Vấn đề nằm ở con Cổ Đại thứ bảy. Nó là kẻ xảo quyệt đã quay lưng lại với cả hai phe. Mặc dù hiện tại, tôi không thể chứng minh được điều đó, nhưng tính bất ngờ của hành động này khiến tôi tin nó là kẻ đứng đằng sau mọi chuyện."
"Chuyện này," Nora nói.
"Chuyện xâm phạm vào Tân Thế giới này. Phá vỡ thỏa thuận linh thiêng. Chuyện này làm mất cân bằng sụ tồn tại loài của chúng. Một hành động, về cơ bản, khơi mào chiến tranh."
Eph nói, "Một cuộc chiến của ma cà rồng ư."
Setrakian mỉm cười một mình. "Anh đon giản hóa chuyện này vì anh không thể tin. Anh giảm bớt, giản luọc nó đi. Bởi anh được dạy cần phải nghi ngờ và lật tẩy. Phải giản lược vấn đề tới mức thành những gì đã biết để dễ hiểu. Vì anh là bác sĩ, con người khoa học, và vì đây là nước Mỹ - nơi mọi thứ đều được biết được hiểu, và Chúa là một đấng tối cao nhân từ, còn tương lai thì phải luôn tươi sáng." Ông siết chặt đôi bàn tay xương xẩu, gồng hết sức, chạm những đầu ngón tay trần lên môi trong một phút trầm ngâm. "Đó là tinh thần ở nơi này, và nó thật tuyệt vòi. Thật đấy, tôi không có ý châm chọc đâu. Thật tuyệt khi chỉ tin vào những gì mình muốn tin, và bỏ qua tất thảy những thứ khác. Tôi tôn trọng sự hoài nghi của anh, bác sĩ Goodweather. Và tôi nói thế này với hy vọng rằng anh, đổi lại, sẽ tôn trọng kinh nghiệm của tôi trong lĩnh vực này, và cho phép những quan sát của tôi được tiếp cận với tư duy vô cùng văn minh và khoa học của anh."
Eph nói, "Vậy ý ông là, cái máy bay... một trong số chúng đã có mặt trên đó. Gã ma cà rồng này."
"Chính xác."
"Trong quan tài. Trong khoang chứa hàng."
"Một quan tài đầy đất. Chúng là những sinh vật của lòng đất, và muốn trở về nơi chúng được sinh ra. Giống như giun. Sâu bọ. Chúng đào hang làm tổ. Ta có thể gọi đó là ngủ."
"Tránh khỏi ánh sáng ban ngày," Nora nói.
"Khỏi ánh sáng mặt trời, đúng vậy. Đó là thời gian chúng dễ bị tổn thương nhất."
"Nhưng ông nói đây là một cuộc chiến của ma cà rồng. Không phải ma cà rồng chống lại con người à? Tất cả những hành khách đã chết đó."
"Đây cũng là điều hai người khó có thể chấp nhận được. Nhưng với bọn chúng, ta không phải là kẻ thù. Ta không đáng là kẻ thù của bọn chúng. Trong mắt chúng, ta thậm chí chưa đạt tới tầm đó. Đối với bọn chúng, ta là những con mồi. Chúng ta như thức ăn và nước uống. Như bầy thú trong chuồng. Như chai lọ trên kệ."
Eph rùng mình, nhưng nhanh chóng rũ bỏ phản ứng run rẩy đó. "Đối với nhiều người, chuyện này nghe quá giống khoa học giả tưởng."
Setrakian chỉ về phía anh. "Cái thiết bị trong túi quần anh. Điện thoại di động của anh. Anh bấm vài con số, và lập tức anh đưọc trò chuyện với một người khác ở bên kia bán cầu. Đó là khoa học giả tưởng, bác sĩ Goodweather ạ. Khoa học giả tưỏng trở thành sự thật." Đến đây Setrakian mùn cười. "Anh có cần chứng minh không?"
Setrakian tới chỗ một ghế băng thấp sát bức tường dài. Trên ghế có thứ gì đó phủ tấm lụa đen, và ông với lấy nó theo một cách lạ lùng, vươn dài cánh tay, nhón lấy mép vải gần nhất trong khi giữ cơ thể mình càng xa càng tốt, rồi ông kéo tấm vải che ra.
Một bình thủy tinh. Thường dùng để đựng mẫu xét nghiệm, có thể mua tại bất cứ hiệu thuốc nào.
Bên trong, lơ lửng trong một loại dung dịch đục ngầu, là một quả tim người được bảo quản cẩn thận.
Từ cách khoảng một mét, Eph cúi người xem xét. "Tim của một phụ nữ, căn cứ theo kích cỡ của nó. Khỏe mạnh. Và khá trẻ. Một mẫu vật còn mới." Anh quay lại nhìn Setrakian. "Ông đã lấy nó ở đâu?"
"Tôi cắt nó ra từ ngực một góa phụ trẻ trong một ngôi làng ngoài Shkodêr, miền Bắc Albania, vào mùa xuân năm 1971."
Eph mủn cười trước câu chuyện kỳ lạ của ông lão, rồi cúi sát để nhìn kỹ chiếc bình hon.
Một thứ gì đó trông như xúc tu vọt ra khỏi quả tim, một đầu mút của nó bám vào thành thủy tinh Eph đang ghé mắt vào.
Anh vội thẳng người lên. Anh đứng chết trân, nhìn chằm chằm chiếc bình.
Nora, bên cạnh anh, nói, "ùm... cái quái gì thế?"
Quả tim bắt đầu chuyển động trong dung dịch huyết thanh.
Nó đang đập.
Thình thịch.
Anh quan sát giác mút xúc tu bẹt, trông như cái miệng, đang kỳ cọ thành thủy tinh. Anh nhìn Nora, đứng ngay cạnh anh, cô cũng đang nhìn chằm chằm vào quả tim. Rồi anh nhìn Setrakian, ông vẫn không hề nhúc nhích, tay đút túi.
Setrakian nói, "Nó hoạt động bất cứ khi nào có máu người ở gần."
Eph trọn mắt, không thể tin nổi. Anh nhích lại gần hon, lần này sang phía bên phải của đầu giác mút tái nhợt ấy. Xúc tu tách khỏi bề mặt thủy tinh, rồi đột ngột xông về phía anh một lần nữa.
"Lạy Chúa!" Eph kêu lên. Cái cơ quan đang đập thình thịch đó trôi nổi trong dung dịch như một con cá đột biến lớn. "Nó sống mà không có..." Không có nguồn cung cấp máu. Anh nhìn vào những tĩnh mạch, động mạch chủ và tĩnh mạch chủ đã bị cắt đứt của nó.
Setrakian nói, "Nó không sống hay chết. Nó hoạt động. Anh có thể nói rằng nó bị ám, nhưng theo nghía đen. Nhìn kỹ lại đi, anh sẽ thấy."
Eph quan sát nhịp đập của nó, nhịp đập bất thường, hoàn toàn không giống nhịp tim bình thường. Anh thấy thứ gì đó đang di chuyển bên trong. Ngoằn ngoèo.
"Một... con giun?" Nora hỏi.
Một con giun nhỏ, màu hồng tái, dài từ năm đến tám phân. Họ quan sát nó di chuyển loanh quanh trong quả tim, trông như thể một lính gác đơn độc đang nghiêm túc đi tuần trong một căn cứ đã bị bỏ hoang từ lâu.
"Một con giun hút máu," Setrakian nói. "Một loại ký sinh mao dẫn sinh trưởng trong các cơ thể bị nhiễm. Dù không có bất cứ bằng chúng nào, tôi ngờ rằng nó chính là con đường lây lan vi rút. Là vật chủ trung gian đích thực."
Eph lắc đầu hoài nghi. "Còn... còn xúc tu này?"
"Vi rút này sao chép hình dạng vật chủ, rồi tự cấu tạo hệ sinh học của riêng nó để có thể sinh tồn một cách tốt nhất. Nói cách khác, nó xâm chiếm và thích nghi với vật chủ để sống sót. Và trong trường họp này, vật chủ chính là cơ quan đã bị tách ra đang trôi nổi trong bình kia, vi rút này tìm cách tự tiến hóa cơ chế sinh học của nó để nhận chất dinh dưỡng."
Nora nói, "Chất dinh dưỡng ư?"
"Loài giun này sống bằng máu. Máu người."
"Máu?" Eph liếc nhìn quả tim bị chiếm hữu. "Của ai?"
Setrakian rút bàn tay trái khỏi túi quần. Những đầu ngón tay nhăn nheo lộ ra ở đầu găng. Đầu ngón giữa của ông có sẹo, mất hẳn vân.
"Một vài giọt đủ cho vài ngày. Nó đang đói đấy. Tôi đã vắng nhà khá lâu."
Ông bước tới bên chiếc ghế băng và mở nắp bình - Eph lùi lại để quan sát - và, bằng một mũi dao nhỏ móc trong chùm chìa khóa của mình, ông chích đầu ngón tay đang giơ trên chiếc lọ. Ông không chút do dự, nó hẳn đã trở thành một thói quen khiến ông chẳng còn thấy đau nữa.
Máu của ông nhỏ vào dung dịch huyết thanh.
Xúc tu hút những giọt máu đỏ bằng đầu mút của mình, trông như một con cá đang đói.
Xong việc, ông lão lấy ít băng dán dạng lỏng từ một lọ nhỏ trên chiếc ghế và chấm lên đầu ngón tay, rồi đậy nắp bình huyết thanh.
Eph quan sát sinh vật kia chuyển thành màu đỏ. Con giun bên trong quả tim di chuyển linh hoạt hơn, khỏe hơn. "Ông nói rằng, ông đã giữ thứ này tại đây kể từ...?"
"Kể từ mùa xuân năm 1971. Tôi không hay đi nghỉ..." Ông mỉm cười sau câu đùa vặt vãnh của mình, nhìn ngón tay vừa bị chích, xoa xoa đầu ngón tay đã khô máu. "Cô ấy là một người chết sống dậy, một người bị nhiễm. Người đã bị biến đổi. Những con Cổ Đại, luôn muốn ẩn mình, sẽ lập tức giết chết kẻ chúng hút máu, để ngăn chặn mọi sự lây lan vi rút của chúng. Bằng cách nào đó, một kẻ đã thoát được, trở về nhà để lây nhiễm cho người thân, bạn bè, hàng xóm, đào bói trong ngôi làng nhỏ đó. Quả tim của người góa phụ này đã duy trì được bốn tiếng trước khi tôi tìm thấy cô ấy."
"Bốn tiếng ư? Làm sao ông biết?"
"Tôi thấy dấu hiệu. Dấu hiệu Strigoi."
Eph nói, "Strigoi?"
"Cách gọi ma cà rồng của Cựu Thế giới."
"Còn dấu hiệu đó?"
"Điểm thâm nhập. Một vết xước mỏng ngang cổ họng, mà tôi đoán là bây giờ hai người đã thấy rồi."
Eph và Nora gật đầu. Nghĩ về Jim.
Setrakian bổ sung, "Phải nói rằng, tôi không phải kẻ quen thói cắt tim người chết. Đó là một công việc dơ bẩn tôi tình cờ gặp phải. Nhưng nó hoàn toàn cần thiết."
Nora nói, "Vậy là ông đã để nó sống tiếp từ đó đến giờ, cho nó ăn như một... một thú cưng?"
"Đúng vậy." Ông nhìn xuống chiếc bình, gần như trìu mến. "Nó như một lời nhắc nhở hằng ngày, về thứ tôi đang đối đầu. Thứ mà giờ đây ta đang đối đầu."
Eph kinh ngạc. "Trong suốt thời gian qua... sao ông không chỉ cho ai thấy thứ này? Một trường y chẳng hạn. Hay chương trình thời sự buổi tối?"
"Nếu dễ dàng như vậy, bác sĩ à, thì bí mật này đã được biết đến từ nhiều năm trước rồi. Có nhiều thế lực liên kết chống lại chúng tà. Đây là một bí mật cổ xưa, và nó cắm rất sâu. Động chạm tới nhiều thứ. Sự thật sẽ không bao giờ đến được với số đông, mà sẽ bị chôn vùi, cả tôi cũng bị chôn theo nữa. Đó là lý do tôi lẩn trốn tại đây - tránh sự chú ý - suốt bao năm nay. Chờ đợi."
Cuộc trò chuyện này khiến Eph dựng tóc gáy. Sự thật đang hiện diện ở đó, ngay trước mắt anh: quả tun người trong một chiếc bình, bên trong có một con giun thèm khát máu của ông lão.
"Tôi không giỏi giữ những bí mật có thể gây nguy hại cho tương lai loài người. Không ai khác biết về chuyện này sao?"
"Ô, có người biết chứ. Có đấy. Một kẻ quyền lực. Chúa Tể - hắn không thể di chuyển nếu không được hỗ trợ. Một liên minh con người chắc hẳn đã tìm cách bảo vệ và giúp đỡ hắn di chuyển. Hai người biết đấy - ma cà rồng không thể tự mình vượt đại dương,, trừ phi chúng được một con người hỗ trợ. Một con người mòi chung vào. Và giờ đây, thỏa thuận - hòa ước - đã bị phá vỡ. Bởi một liên minh giữa Strigoi và con người. Đó là lý do tại sao cuộc tấn công này ghê rạn đến vậy. Và đáng sợ tột cùng đến vậy."
Nora quay sang Setrakian. "Chúng ta còn bao nhiêu thời gian?"
Ông lão đã nhẩm tính từ trước. "Sẽ mất chưa đến một tuần để hắn xử gọn cả Manhattan, và chưa đầy một tháng để chiếm xong cả nước. Trong vòng hai tháng - cả thế giới."
"Không đòi nào," Eph nói. "Sẽ không có chuyện đó đâu."
"Tôi ngưỡng mộ thái độ quả quyết của anh," Setrakian nói. "Nhưng anh vẫn chưa hiểu rõ mình đang đối đầu với cái gì đâu."
"Được thôi," Eph nói. "Vậy hãy cho tồi biết - chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?"
Công viên Place, Tribeca
VASILIY FET đỗ chiếc xe tải biển đăng ký thành phố bên ngoài một tòa chung cư tại khu trung tâm Manhattan. Nhìn bề ngoài, nó có vẻ không giống một tòa chung cư cho lắm, nhưng nó có mái hiên và người gác cửa, và dù gì thì đây cũng là Tribeca. Hẳn anh đã kiểm tra lại địa chỉ nếu như không có chiếc xe tải của Sở Y tế đậu trái phép phía trước, đèn báo hiệu màu vàng đang quay tròn. Trớ trêu thay, tại hầu hết các tòa nhà và căn hộ trong gần như toàn thành phố, những kẻ tiêu diệt động vật gây hại luôn được chào đón nồng nhiệt, y như cảnh sát tới hiện trường vụ án. Nhưng Vasiliy tin rằng nơi này không như vậy.
Chiếc xe tải của anh có ghi dòng chữ BPCS-CNY, viết tắt của Bureau of Pest Control Services, City of New York (Cục Kiểm soát Động vật Gây Hại, Thành phố New York). Thanh tra Sở Y tế, Bill Furber, gặp anh tại cầu thang bên trong. Billy có bộ ria mép vàng bẻ cong xuống cứ nhấp nhô theo cơ mặt do ông ta liên tục nhai kẹo cao su thay cho nicotin. "Vaz," ông ta gọi anh, bằng tên gọi tắt thay cho Vasya, một dạng nói tắt quen thuộc của tên anh trong tiếng Nga. Vaz, hay chỉ đon giản là V, theo cách người khác vẫn thường gọi anh, là một người Mỹ gốc Nga thế hệ hai, chất giọng cục cằn đặc sệt Brooklyn. Anh là người to lớn, choán gần hết chỗ trên bậc cầu thang.
Billy vỗ cánh tay anh, cảm ơn anh vì đã tói. "Cháu gái của em họ tôi ở đây, bị cắn vào miệng. Tôi biết - tòa nhà này chẳng phải kiểu của tôi, nhưng tôi có thể làm gì chứ, chúng cưới nhau và được thừa hưởng bất động sẩn. Chỉ nói để anh biết thôi - gia đình là thế mà. Tôi đã bảo với họ rằng tôi sẽ tìm về một gã diệt chuột giỏi nhất khắp năm quận."
Vasiliy gật đầu, thầm tự hào theo cái cách đặc trưng của những gã diệt động vật gây hại. Một người diệt động vật gây hại luôn thành công thầm lặng. Thành công ở đây nghĩa là không để lại một dấu hiệu nào của thành công, không một dấu vết cho thấy vấn đề từng phát sinh, cho thấy một con vật gây hại từng tồn tại hay một cái bẫy từng được đặt. Nó có nghĩa là giữ gìn trật tự.
Anh kéo theo một cái hòm có bánh xe giống như một bộ dụng cụ của thợ sửa máy tính. Phía bên trong gác xép mở vào những trần nhà cao, cùng nhũng căn phòng rộng, một căn hộ một trăm bảy mươi mét vuông dễ phải đáng giá ba triệu đô trên thị trường bất động sản New York. Ngồi trên chiếc sofa lùn, vững chãi màu cam bóng rổ bên trong một căn phòng lát kính, gỗ tếch và crôm đầy đồ công nghệ cao là một cô bé đang ôm chặt con búp bê bên cạnh người mẹ. Một băng y tế lớn dán trên môi trên và má con bé. Người mẹ cắt tóc ngắn tới tận da đầu, đeo kính gọng chữ nhật nhỏ và mặc váy len xanh lá dài tới đầu gối. Đối với Vasiliy, cô ta y như một lữ khách đến từ một tương lai rất mốt và lưỡng tính vậy. Con bé còn nhỏ, chỉ khoảng năm sáu tuổi, vẫn rất sợ hãi. Vasiliy đáng lẽ đã cố mỉm cười, nhưng khuôn mặt anh thuộc dạng hiếm khi có thể trấn tĩnh được trẻ con. Anh có quai hàm trông như mặt đế phẳng lì của lưỡi rìu, hai mắt cách xa nhau.
Một tí vi màn hình phẳng treo trên tường trông như một bức tranh lớn được đóng khung kính. Trên màn hình, ngài thị trưởng đang nói vào một bó micro. Ông ta đang cố gắng trả lời các câu hỏi về vụ mất tích của những xác chết trên máy bay, những xác chết đã biến mất khỏi nhà xác trong thành phố. Lực lượng cảnh sát New York đang đề cao cảnh giác, và chủ động dừng mọi xe tải đông lạnh tại các cầu và đường hầm. Một đường dây điện thoại phục vụ thông tin cảnh báo khủng bố đã được thiết lập. Gia đình các nạn nhân phẫn nộ, các đám tang phải hoãn lại.
Bill dẫn Vasiliy tới phòng ngủ của bé gái. Một chiếc giường chăng rèm, một ti vi nhãn hiệu Bratz khảm ngọc cùng một máy tính xách tay đồng bộ, và một con ngựa bông máy màu bơ đường trong góc phòng. Mắt Vasiliy ngay lập tức hướng tới một gói thức ăn gần giường. Bên trong là bánh nướng cùng bơ đậu phông. Cũng là món khoái khẩu của anh.
"Lúc đó con bé đang chop mắt ở đây," Billy nói. "Nó thức giấc do cảm thấy có gì đó đang gặm môi nó. Thứ đó ở trên gối của con bé, Vaz à. Một con chuột trên giường con bé. Có khi cả tháng tới nó không dám ngủ nữa. Anh gặp vụ này lần nào chưa?"
Vasiliy lắc đầu. Chuột ở khắp trong và ngoài mọi tòa nhà tại Manhattan - bất kể chủ nhà nói hay người thuê nghĩ gì - nhưng chúng không thích để lộ mình, đặc biệt là ngay giữa ban ngày. Những vụ chuột tấn công thường liên quan tới trẻ em, chủ yếu là quanh vùng miệng, bởi đó là nơi phát ra mùi thức ăn. Loài chuột Na Uy - Rattus norvegicus, chuột thành phố - có giác quan nhận biết mùi vị cực nhạy. Răng cửa trước của nó dài và sắc, khỏe hơn cả nhôm, đồng, chì hay sắt. Chuột gặm là nguyên nhân của một phần tư những vụ đứt dây cáp điện trong thành phố, và là thủ phạm đáng nghi của từng ấy phần trăm những vụ cháy không rõ nguyên do. Độ Cling của răng chúng có thể sánh ngang thép, và cấu trúc hàm giống cá sấu của chúng tạo nên áp lực cắn hàng trăm tới hàng ngàn ki lô gam. Chúng có thể gặm xi măng và thậm chí là đá.
Vasiliy nói, "Thế con bé có tận mắt nhìn thấy con chuột không?"
"Con bé chẳng biết thứ đó là gì. Nó la hét vụt đập, và thứ đó chạy mất. Phòng cấp cứu bảo đó là chuột."
Vasiliy tới chỗ cánh cửa sổ đang mở vài phân để gió lùa vào. Anh mở cửa rộng hơn và nhìn xuống một ngõ hẹp lát sỏi cách đó ba tầng. Lối thoát cứu hỏa cách cửa sổ ba bốn mét, nhung lóp ốp gạch cũ hàng thế kỷ thì gồ ghề và lỏm chỏm. Mọi người cứ nghĩ lũ chuột béo và đi ục ịch, nhung thực chất chúng di chuyển với tốc độ nhanh nhu sóc. Nhất là khi chúng bị kích thích bởi thức ăn hay sợ hãi.
Vasiliy đẩy giường của cô bé ra khỏi tường và tháo chăn ga đệm. Anh di chuyển ngôi nhà búp bê, bàn giấy và giá sách để xem xét phía sau, nhưng anh không hề hy vọng con chuột vẫn còn trong phòng ngủ này. Anh chỉ đang loại trừ khả năng hiển nhiên đó.
Anh bước ra hành lang, kéo theo cái hòm gắn bánh xe trên mặt sàn gỗ nhẵn nhụi son bóng loáng. Lũ chuột có thị giác rất kém, chúng di chuyển chủ yếu bằng cảm giác. Chúng di chuyển nhanh do thói quen, theo những lối đi đã mòn vết chân chúng dọc các bức tường thấp. Chúng thường không bỏ xa tổ quá mười tám mét. Chúng không tin tưởng những khung cảnh thiếu quen thuộc. Con chuột này hẳn đã tìm ra cánh cửa và rẽ vào góc, men sát bức tường phía bên phải, bộ lông thô cứng của nó lướt trên sàn. Cánh cửa mở tiếp theo dẫn vào phòng tắm riêng của bé gái, đưọc trang trí bằng một thảm phòng tắm hình dâu tây, một rèm bồn tắm màu hồng nhạt và một sọt đựng sữa tắm tạo bọt cùng đồ choi. Vasiliy lướt mắt khắp phòng, tìm kiếm những nơi có thể ẩn nấp, rồi hít ngửi không khí. Anh gật đầu ra hiệu với Billy, và ông ta đóng cửa lại.
Billy nấn ná một phút, nghe ngóng, rồi quyết định quay trở lại trấn an người mẹ. Ông ta đã gần tới nơi thì chợt nghe thấy, từ phòng tắm trên hành lang đó, một tiếng RẦM! rất lớn - âm thanh chai lọ roi vào bồn tắm - và một tiếng làu bàu to, rồi giọng Vasiliy, trở nên dữ tợn, phim ra những lời chửi rủa bằng tiếng Nga.
Bà mẹ và đứa con có vẻ kinh hãi. Billy giơ tay ra dấu cho họ bình tĩnh - ông ta đã vô tình nuốt mất miếng kẹo cao su - rồi vội chạy trở lại hành lang.
Vasiliy mở cửa phòng tắm. Anh đang đeo đôi găng đánh bẫy Kevlar dài tay và cầm một cái bao lớn. Thứ gì đó bên trong bao đang quằn quại cào xé. Và nó rất lớn.
Vasiliy gật đầu trao cái bao cho Billy.
Billy chẳng thể làm gì khác ngoài nhận lấy nó, bằng không cái bao sẽ roi xuống và con chuột sẽ trốn thoát. Ông ta hy vọng lóp vải chắc chắn như vẻ bề ngoài, con chuột lớn đang vùng vẫy vật lộn bên trong. Billy vươn thẳng tay để đưa cái bao tránh xa hết mức dù vẫn giữ con chuột đang vùng vằng trên cao. Trong khi đó, Vasiliy điềm tĩnh - nhưng chậm rãi quá mức - mở cái hòm của mình. Anh lấy ra một bọc kín, một miếng xốp tẩm sẵn thuốc mê. Vasiliy lấy lại cái bao, và Billy sung sướng vô cùng khi thoát khỏi nó. Anh mở miệng bao chỉ vừa đủ lâu để cho thuốc mê vào, sau đó đóng nó lại. Ban đầu, con chuột vẫn vật lộn dữ dội. Và rồi nó chậm dần lại. Vasiliy lắc cái bao để quá trình này diễn ra nhanh hơn.
Anh đợi thêm một lúc sau khi con chuột ngừng vùng vẫy, rồi mở bao và đút tay vào trong, kéo đuôi nó ra trước tiên. Nó đã được làm cho hết hung hăng, nhưng không bất tỉnh, đôi bàn chân trước màu hồng của nó vẫn cào móng trong không trung, hàm vẫn đóp, và đôi mắt đen bóng loáng của nó mở to. Con này tương đối to, thân dài khoảng hai mươi phân, thêm cái đuôi là hai mươi phân nữa. Lóp lông cứng thân trên màu đen, thân dưới màu trắng. Chẳng thể là vật nuôi bỏ trốn của ai đó, nó là một con chuột hoang thành phố.
Billy lùi lại mấy bước. Ông ta từng trông thấy rất nhiều chuột, nhưng chẳng thể nào quen được với chúng. Vasiliy thì dường như không thấy có vấn đề gì.
"Nó đang có bầu," Vasiliy nói. "Loài chuột chỉ mang thai trong vòng hai mươi mốt ngày và có thể đẻ một lứa tới hai mươi con. Một con chuột cái khỏe mạnh có thể đẻ hai trăm năm mươi con mỗi năm - một nửa trong lứa đó lại là những con cái nữa sẵn sàng giao phối. "Muốn tôi lấy máu nó khám nghiệm không?"
Billy lắc đầu, tỏ thái độ kinh tởm như thể Vasiliy đang hỏi liệu ông ta có muốn ăn thịt nó không vậy. "Con bé đã được tiêm tại bệnh viện rồi. Nhìn kích cỡ của nó kìa, Vaz. Chúa ơi. Ý tôi là, đây không phải" - Billy hạ giọng - "đây không phải một nhà tập thể nào đó ở Bushwick, anh hiểu ý tôi không?"
Thực tình Vasiliy hiểu ý ông ta. Hiểu ngầm. Hồi mới đến đây, cha mẹ của Vasiliy từng định cư ở Bushwick. Bushwick đã từng chứng kiến nhiều làn sóng di dân kể từ giữa thập niên 1800: người Đức, Anh, Ai Len, Nga, Ba Lan, Ý, người Mỹ gốc Phi, Puerto Rico. Giờ thì tới người Dominica, Guyana, Jamaica, Ecuador, Ân Độ, Triều Tiên, Đông Nam A. Vasiliy đã dành rất nhiều thời gian ở những vùng nghèo nhất New York. Anh biết có những gia đình phải sử dụng đến đệm ghế, sách và các vật dụng trong nhà để dựng tường che chắn phần căn hộ của họ mỗi đêm, cố gắng ngăn lũ chuột xâm nhập.
Nhưng vụ tấn công này quả thực khác thường. Giữa ban ngày. Liều lĩnh. Thông thường chỉ những con chuột yếu nhất, buộc phải ra khỏi bầy đàn, mới ló mặt để tìm kiếm thức ăn. Nhưng đây là một con chuột cái khỏe mạnh. Vô cùng bất thường. Chuột cùng tồn tại trong thế cân bằng mong manh với con người, chúng khai thác những kẽ hở của thế giới văn minh, sống nhờ chất thải và đồ thừa của loài lớn hon, và luôn ẩn mình, đằng sau những bức tường hoặc bên dưới những mặt sàn. Sự xuất hiện của một con chuột tượng trưng cho nỗi lo lắng và sợ hãi của con người. Bất kỳ sự xâm phạm nào vượt ra khỏi thói quen kiếm ăn ban đêm thông thường của chứng đều cho thấy một sự thay đổi trong môi trường. Cũng như con người, chuột không thích chấp nhận rủi ro vô ích: chúng hẳn đã bị bắt buộc phải làm vậy từ dưới lòng đất.
"Muốn tôi chải lông tìm bọ chét không?"
"Chúa ơi, không. Cứ gói vào và tống khứ nó đi. Dù làm gì đi nữa cũng đừng để con bé nhìn thấy. Con bé đã hoảng loạn đủ rồi."
Vasiliy lấy từ bộ đồ nghề ra một túi nhựa lớn rồi gói con chuột chung với một miếng xốp tẩm thuốc mê nữa, lần này là một liều đủ để giết chết nó. Anh nhét cái túi vào trong bao để giấu bằng chứng, rồi tiếp tục công việc của mình, bắt đầu từ nhà bếp. Anh dịch chuyển cái lò nướng tám bếp nặng trịch và máy rửa bát. Anh kiểm tra các lỗ cống dưới bồn rửa. Anh không hề thấy phân chuột hay vết hang đào bói, nhưng anh vẫn rắc một ít bả, bởi dù sao cũng đã đến đây rồi. Anh làm vậy nhưng không hề thông báo cho chủ nhà. Mọi người đều lo lắng về chất độc, đặc biệt là các bậc cha mẹ, nhưng sự thực là bả chuột rải khắp mọi tòa nhà và đường phố Manhattan. Nếu bắt gặp bất cứ thứ gì giống như kẹo quả mọng Pop Rocks xanh dương hay hạt thức ăn màu xanh lá, ta có thể hiểu rằng chuột đã từng xuất hiện gần đó.
Billy theo sau anh xuống tầng hầm. nơi này gọn gàng và ngăn nắp, chẳng hề có dấu hiệu của đồ bỏ hay rác mềm để làm tổ. Vasiliy nhìn quanh gian phòng, đánh hơi mùi phân chuột. Anh có cái mũi rất nhạy mùi chuột, cũng như chuột có mũi rất nhạy mùi người. Anh tắt đèn, dù cho Bill có cảm thấy khó chịu đi nữa, rồi bật chiếc đèn pin gài trên thắt lưng của bộ áo liền quần xanh nhạt, nó phát ra ánh sáng tím thay vì ánh sáng trắng. Nước tiểu của loài gặm nhấm sẽ hiện màu sáng tun dưới ánh đèn tử ngoại, nhưng tại đây anh không thấy bất cứ gì. Anh thả bả chuột vào những chỗ có rãnh rồi đặt những bẫy nhỏ loại "nhà trọ" ở các góc, chỉ để đề phòng, rồi theo Billy trở lại sảnh.
Billy cảm on Vasiliy, tỏ lòng cảm kích, rồi họ chia tay tại cửa. Dù vậy, Vasiliy vẫn thấy bối rối, và, sau khi đặt bộ dụng cụ của mình cùng con chuột chết trở lại sau xe tải, anh châm một điếu Corona Dominican rồi bắt đầu rảo bước. Anh đi dọc phố và rẽ vào một ngõ hẹp lát đá mà anh đã nhìn xuống qua cửa sổ phòng bé gái. Tribeca là khu vực duy nhất tại Manhattan vẫn còn có ngõ hẻm.
Chỉ mới được vài bước, Vasiliy đã thấy con chuột đầu tiên. Nó đi dọc theo rìa tòa nhà, thận trọng ngó quanh. Và rồi anh thấy một con nữa trên cành một cây nhỏ chật vật mọc bên một bức tường gạch thấp. Và con thứ ba, ngồi trong một máng nước bằng đá, đang uống dòng nước nâu chảy từ một nguồn rác thải hay nước cống đâu đó.
Trong lúc anh đứng quan sát, bọn chuột bắt đầu xuất hiện trên con đường lát đá. Nói cho đúng ra là chúng cào bò lên từ kẽ giữa những hòn đá mòn, chui lên từ lòng đất. Chuột là loài có khung xương đàn hồi, cho phép chúng len qua những lỗ không lớn hơn hộp sọ của chúng, rộng khoảng hai phân. Chúng chui lên qua khe hở hai, ba con cùng lúc, rồi nhanh chóng phân tán. Vasiliy ước lượng lũ chuột này dài khoảng từ hai mươi tới hai lăm phân, và dài gấp đôi nếu tính cả đuôi. Nói cách khác, chúng là chuột trưởng thành.
Hai túi rác gần anh đang phập phồng, những con chuột đang gặm sâu vào bên trong đó. Một con chuột nhỏ đang cố chạy vọt qua anh tới một thùng rác, và Vasiliy giơ ủng đá con vật gặm nhấm này bay ra sau năm mét. Nó roi xuống giữa hẻm, bất động. Chỉ trong vòng vài giây, những con chuột khác lao vào nó với vẻ háu đói, răng cửa vàng dài ngoạm qua lóp lông của nó. Cách hiệu quả nhất để tiêu diệt chuột là loại bỏ nguồn thức ăn khỏi môi trường sống của chúng và rồi để chúng ăn thịt lẫn nhau.
Lũ chuột này đang đói, và chúng đang trên đường di tản. Hoạt động trên mặt đất vào ban ngày như vậy quả là hiếm gặp. Kiểu di chuyển đồng loạt thế này chỉ xảy ra sau một sự kiện như động đất hay sụp nhà.
Hay, thi thoảng, một dự án xây dựng lớn.
Vasiliy đi tiếp tới một dây nhà khác ở phía Nam, băng qua phố Barclay, tới nơi thành phố mở ra một khu vực trống thông thoáng, một công trình xây dựng rộng hơn sáu héc ta.
Anh bước lên một trong những đài quan sát nhìn sang nơi từng là Trung tâm Thương mại Thế giới. Họ đã gần hoàn thiện phần đáy móng dưới lòng đất để làm bệ đỡ cho công trình xây dựng mới, các cột xi măng và thép giờ đây sắp sửa mọc lên từ mặt đất. Khu vực xây dựng này tồn tại như một lỗ đục của thành phố - giống như vết gặm trên mặt bé gái.
Vasiliy vẫn nhớ tháng Chín năm 2001 định mệnh đó. Vài ngày sau khi tòa Tháp Đôi đổ, anh đã tới đó cùng Sở Y tế, bắt đầu với những nhà hàng bị đóng cửa quanh khu vực này, dọn dẹp thức ăn thừa. Rồi xuống dưới tầng hầm và các phòng dưới mặt đất, anh không hề thấy một con chuột sống nào, nhưng có vô số bằng chứng về sự hiện diện của chúng, bao gồm hàng dài những vết chân chuột lưu lại trên bụi bẩn. Anh nhớ rõ nhất là một cửa hàng bánh Mrs. Fields, gần như đâ bị ăn sạch. Số lưọng chuột khi đó đang bùng nổ tại khu này, và một mối lo ngại nảy sinh rằng lũ chuột sẽ tràn ra khỏi khu đổ nát để tìm nguồn thức ăn mới, nhung nhúc khắp các đường phố và khu vực lân cận. Vì vậy, một chiến dịch quy mô lớn do liên bang tài trợ đã được khỏi xướng. Hàng ngàn hộp mồi bả và bẫy dây thép đã được đặt trong và xung quanh Khu vực số 0, và, nhờ có sự cảnh giác của Vasiliy cùng những người giống anh, cuộc tấn công như lo ngại chưa từng thành hiện thực.
Cho đến giờ Vasiliy vẫn đang thực hiện một họp đồng với chính phủ, cơ quan của anh phụ trách một nghiên cứu kiểm soát chuột trong và xung quanh công viên Battery. Vì thế anh luôn cập nhật kịp thời những vụ chuột phá hoại ở địa phương, và biết tường tận dự án xây dựng này kể từ khi nó bắt đầu. Và cho tới lúc này, mọi thứ vẫn ổn.
Anh nhìn xuống những xe tải đang đổ xi măng và những cần cẩu đang chuyển gạch vụn. Anh đợi ba phút để một thằng bé dùng xong cái ống ngắm gắn trên giá - cùng loại họ gắn trên nóc tòa nhà Empire State - rồi thả hai đồng hai lăm xu và ngắm lướt khắp khu vực thi công.
Ngay lập tức, anh đã thấy chúng, những thân mình nâu nhỏ bé lao vọt khỏi các góc, đua nhau chạy quanh những cọc đá, một vài con chạy như điên ra con đường dẫn vào phố Liberty. Chúng chạy đua quanh những đinh thép đánh dấu phần móng của tháp Tự Do như thể đang tham gia một cuộc thi vượt chướng ngại vật chết tiệt. Anh tìm những chỗ gián đoạn nơi công trường mới giao nhau với đường tàu điện ngầm PATH dưới lòng đất. Rồi anh ngóc ống ngắm lên cao hơn và bám theo một hàng chuột đang trèo lên các trụ đỡ của một giàn thép chạy về góc phía Đông, rồi trèo ra ngoài trên những dây treo. Chúng đang chạy khỏi khu vực trũng đó, một cuộc di tản hàng loạt, bằng bất cứ con đường chạy trốn nào chúng có thể tìm thấy.
Khu cách ly, Trung tâm Y tế Jamaica
ĐẰNG SAU CÁNH CỬA THỨ HAI của khu cách ly, Eph đeo đôi găng tay cao su. Đáng lẽ anh phải đề nghị Setrakian làm theo, nhưng khi nhìn lại những ngón tay cong queo của ông, Eph tự hỏi liệu việc đó có khả thi không.
Họ bước vào phòng Jim Kent, nơi duy nhất có người trong một khu cách ly trống không. Jim lúc này đang nằm ngủ, vẫn trong bộ quần áo đi đường, các dây nối từ ngực và bàn tay anh ta tới những máy móc đang câm lặng đọc các thông số. Y tá chăm sóc cho biết các chỉ số của anh ta đang hạ thấp đến nỗi mọi tín hiệu báo động tự động bằng âm thanh - nhịp tim thấp, huyết áp thấp, hô hấp yếu, lượng ôxy thấp - đều phải tắt, bởi chúng cứ kêu liên tục.
Eph bước vào trong tấm màn nhựa trong suốt, cảm thấy Setrakian ở bên cạnh đang trở nên căng thẳng. Khi họ tới gần, chỉ số sinh tồn của Kent tăng vọt trên tất cả các màn hình - quá đỗi bất thường.
"Giống như con giun trong cái bình," Setrakian nói. "Anh ta cảm nhận được chúng ta. Anh ta cảm nhận được máu đang ở gần."
"Không thể nào." Eph nói.
Anh tiến lại gần hơn nữa. Chỉ số sinh tồn và hoạt động sóng não của Jim tăng.
"Jim," Eph gọi.
Khuôn mặt khi ngủ của anh ta thư giãn, làn da ngăm đen chuyển thành một màu trắng xám như vữa vôi. Eph có thể thấy đồng tử của anh ta di chuyển rất nhanh bên dưới mí mắt như đang trong một giấc ngủ REM[III] biến động.
Setrakian dùng đầu sói bạc trên cây gậy dài ngoẵng để kéo lóp màn ngăn cuối cùng của cái rèm trong suốt. "Không được tới quá gần," ông cảnh báo. "Anh ta đang biến đổi." Setrakian thò tay vào túi áo khoác. "Gương của anh. Lấy nó ra."
Túi trước bên trong áo khoác của Eph trĩu nặng một chiếc gương khung bạc kích cỡ tám nhân mười xăng ti mét, một trong vô số món đồ ông lão đã lấy ra từ trong kho vũ khí chống ma cà rồng dưới tầng hầm của ông.
"Anh nhìn thấy chính mình trong đó chứ?"
Eph nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong tấm kính cũ. "Hẳn rồi."
"Phiền anh dùng nó để nhìn tôi đi."
Eph quay gương sang một góc để có thể nhìn thấy khuôn mặt ông lão. "Được rồi."
Nora nói, "Ma cà rồng không có hình ảnh phản chiếu."
Setrakian nói, "Không hẳn. Giờ, phiền anh - thật cẩn thận vào - dùng nó để nhìn khuôn mặt anh ta."
Do chiếc gương quá nhỏ, Eph phải tiến lại gần giường, dang cánh tay, giữ tấm kính chếch một góc phía trên đầu Jim.
Ban đầu, anh chẳng thể thấy hình phản chiếu của Jim. Nhìn chất lượng hình ảnh thì có vẻ như tay Eph đang run bần bật. Nhưng phần nền phía sau, chiếc gối và khung giường, vẫn bất động.
Khuôn mặt Jim bị nhòe. Trông như thể đầu anh ta đang lắc với một tốc độ khủng khiếp, hay đang rung với một lực mạnh đến nỗi chẳng thể nhận ra những đường nét trên khuôn mặt.
Anh vội rụt tay lại.
"Tráng bạc." Setrakian nói, tay gõ nhẹ vào chiếc gương của mình. "Đó chính là điểm mấu chốt. Những gương sản xuất đại trà hiện nay, được mạ crôm, sẽ không tiết lộ gì hết. Nhưng gương mạ bạc luôn nói lên sự thực."
Eph nhìn lại mình trong gương một lần nữa. Bình thường. Ngoại trừ bàn tay hơi run.
Anh lại đặt gương chếch trên mặt Jim, cố gắng giữ cho yên - và thấy hình phản chiếu của Jim bị rung mờ. Giống như là cơ thể anh ta đang quằn quại mãnh liệt, rung quá mạnh và quá nhanh đến nỗi chẳng thể nhìn được rõ nét.
Tuy nhiên nhìn bằng mắt thường, anh ta vẫn nằm yên thanh thản.
Eph đưa gương cho Nora, cô cũng ngạc nhiên và sợ hãi hệt như anh. "Vậy nghĩa là... anh ấy đang biến đổi thành một thứ... một thứ giống như cơ trưởng Redfern."
Setrakian nói, "Theo quá trình nhiễm thông thường thì chỉ sau một ngày đêm là họ sẽ hoàn thành việc chuyển đổi và sẵn sàng hút máu. Sẽ mất bảy đêm để một người biến đổi toàn bộ, để căn bệnh ăn hết cơ thể và tái tạo thành một dạng riêng của nó - trạng thái ký sinh mới. Và sau khoảng ba mươi đêm, hoàn toàn trưởng thành."
Nora nói, "Hoàn toàn trưởng thành?"
Ông lão nói, "Hãy cầu cho ta không phải chứng kiến giai đoạn đó." Ông chỉ tay về phía Jim. "Động mạch cổ của con người là con đường xâm nhập nhanh nhất, mặc dù động mạch đùi cũng là một con đường trực tiếp khác dẫn thẳng tới nguồn cung cấp máu của chúng ta."
Vết cứa ở cổ gọn đến độ giờ chẳng thể nhìn thấy được. Eph hỏi, "Tại sao lại là máu?"
"Ôxy, sắt và nhiều chất dinh dưỡng khác."
"Ôxy ư?" Nora nói.
Setrakian gật đầu. "Cơ thể vật chủ của chúng biến đổi. Một phần quá trình biến đổi đó là hệ tuần hoàn và hệ tiêu hóa họp nhất, trở thành một. Tương tự như côn trùng. Máu của chúng thiếu cả sắt và ôxy cấu thành nên màu đỏ trong máu người. Vì thế chuyển thành màu trắng."
"Và các cơ quan," Eph nói. "Các cơ quan của Redfern trông gần giống như ung thư vậy."
"Hệ cơ thể bị hủy hoại và chuyển hóa. Vi rút xâm chiếm hoàn toàn. Họ không thở nữa. Họ hô hấp chỉ đơn thuần như một phản xạ còn sót lại, nhưng họ không chuyển hóa ôxy nữa. Hai lá phổi thừa sau cùng sẽ teo đi và tái thích nghi."
Eph nói, "Lúc tấn công, Redfern để lộ một khối thịt rất phát triển trong miệng. Giống như một đầu chích có cơ tiến hóa bên dưới lưỡi."
Setrakian gật đầu như thể đồng tình với Eph về chuyện thời tiết vậy. "Nó sẽ ứ máu khi chúng ăn. Da thịt chúng đỏ lên gần như màu đỏ thẫm, cả nhãn cầu, cả lóp biểu bì của chúng nữa. Cái đầu chích này, như anh nói, trên thực tế là một sự chuyển đổi, một sự tái cơ cấu vùng họng, khí quản và lá phổi bằng phần thịt mới phát triển. Một thứ gì đó giống như ống tay áo lộn ngược. Ma cà rồng có thể giải phóng cơ quan này từ lồng ngực, bắn dài từ một mét đến thậm chí hai mét. Nếu anh mổ xác một nạn nhân trưởng thành, anh sẽ thấy một mô cơ, một túi giúp đẩy cơ quan này ra để chúng ăn. Tất cả những gì chúng cần là đều đặn uống máu tươi của con người. Theo lẽ đó có lẽ chúng cũng giống với bệnh tiểu đường. Tôi không biết nữa. Anh là bác sĩ mà."
"Tôi cứ tưởng mình là bác sĩ," Eph lầm bầm. "Cho tới lúc này."
Nora nói, "Tôi cứ tưỏng ma cà rồng uống máu trinh nữ. Chúng thôi miên... chúng biến thành doi..."
Setrakian nói, "Chuyện đấy đã được lãng mạn hóa quá mức. Nhưng sự thực thì còn hơn thế... tôi nên nói sao nhỉ?"
"Gớm ghiếc," Eph nói.
"Kinh tởm," Nora nói.
"Không," Setrakian nói. "Tầm thường. Anh đã tìm thấy amoniac chứ?"
Eph gật đầu.
"Chúng có một hệ tiêu hóa rất nhỏ gọn," Setrakian tiếp tục. "Không cần chỗ chứa thức ăn. Toàn bộ huyết tương và cặn rắn không thể tiêu hóa sẽ phải được đào thải để nhường chỗ cho dinh dưỡng cấp vào. Giống như loài ve - chúng bài tiết khi hút máu."
Đột nhiên, nhiệt độ bên trong phòng thay đổi. Giọng Setrakian hạ xuống chỉ còn là một tiếng thì thào lạnh lùng.
"Strigoi," ông rít lên. "Đó."
Eph nhìn Jim. Jim mở mắt, con ngươi tối đen, củng mạc xưng quanh chuyển thành màu cam xám, gần như màu trời chập choạng lúc hoàng hôn. Anh ta đang nhìn chằm chằm lên trần nhà.
Eph cảm thấy nỗi sợ nhói lên. Setrakian Cling người, bàn tay cong queo của ông để sẵn trên tay cầm đầu sói của cây gậy - chuẩn bị tấn công. Eph cảm nhận được quyết tâm mạnh mẽ của ông, và thấy sốc trước ánh mắt thù hận sâu thẳm của ông lão.
"Giáo sư..." Jim thều thào.
Rồi mí mắt anh ta tiếp tục nhắm lại, Jim lại roi vào trạng thái hôn mê giống REM.
Eph quay sang ông lão. "Sao anh ấy lại... biết ông?"
"Anh ta không biết," Setrakian nói, vẫn trong trạng thái cảnh giác, sẵn sàng tấn công. "Giờ đây anh ta giống như con ong mật, trở thành một phần của tổ ong. Một tập họp gồm nhiều phần nhưng chỉ có một mục tiêu duy nhất." Ông nhìn Eph. "Thứ này cần phải bị tiêu diệt."
"Gì chứ?" Eph nói. "Không."
"Anh ta không còn là bạn của anh nữa rồi," Setrakian nói. "Anh ta là kẻ thù của anh."
"Cho dù đúng như vậy... anh ấy vẫn là bệnh nhân của tôi."
"Người đàn ông này không ốm. Anh ta đã vượt ra khỏi giới hạn của mọi căn bệnh. Chỉ trong vài giờ thôi, anh ta sẽ không còn là chính mình nữa. Ngoài ra... sẽ vô cùng nguy hiểm khi giữ anh ta lại đây. Cũng như với người phi công, anh sẽ khiến mọi người trong tòa nhà này gặp nguy hiểm lớn."
"Nếu như... nếu như anh ấy không kiếm được máu thì sao?
"Không có dinh dưỡng, anh ta sẽ bắt đầu suy sụp. Sau bốn tám giờ không hút máu, cơ thể anh ta sẽ bắt đầu yếu đi, hệ cơ quan của anh ta sẽ ăn các cơ và tế bào mỡ người, tự hủy hoại chính nó một cách từ từ và đau đớn. Cho tới khi chỉ còn phần ma cà rồng chế ngự."
Eph lắc đầu nguầy nguậy. "Điều tôi cần làm là thiết lập một phác đồ điều trị. Nếu căn bệnh này bắt nguồn từ một loại vi rút, tôi cần phải tìm ra cách chữa trị."
Setrakian nói, "Chỉ có một cách chữa trị duy nhất. Cái chết. Tiêu hủy cơ thể. Một cái chết nhân đạo."
Eph nói, "Chúng ta không phải bác sĩ thú ý. Chúng ta không thể giết chết những người bệnh quá nặng không còn khả năng sống."
"Nhưng anh đã làm vậy với người phi công."
Eph lắp bắp, "Việc đó khác. Anh ta đã tấn công Nora và Jim... anh ta đã tấn công tôi."
"Triết lý tự vệ của anh, nếu được áp dụng thật, hoàn toàn đứng trong trường họp này."
"Thế thì đó sẽ là triết lý diệt chủng."
"Vậy nếu như đó chính là mục đích của chúng - hoàn toàn nô dịch loài người - câu trả lời của anh là gì?"
Eph không muốn lẩn quẩn với những khái niệm trừu tượng. Anh đang nhìn một đồng nghiệp. Một người bạn.
Setrakian nhận thấy ông sẽ không thay đổi suy nghĩ của họ được, lúc này thì chưa. "Dẫn tôi tới xem xác người phi công đi. Có lẽ tôi có thể thuyết phục được anh."
Chẳng ai nói gì trong thang máy xuống tầng hầm. Tại đó, thay vì một nhà xác khóa kín, họ phát hiện cánh cửa mở toang, còn viên cảnh sát cùng người quản lý bệnh viện thì đang hối hả quanh đó.
Eph bước tới chỗ họ. "Các người nghĩ mình đang làm...?"
Anh nhìn thấy thanh dọc cửa trầy xước, khung cửa kim loại móp và đã bị nạy, khóa bị phá từ bên ngoài.
Bà quản lý đã không mở cửa. Ai đó đã phá cửa vào.
Eph vội ngó vào trong.
Chiếc bàn trống không. Xác Redfern đã biến mất.
Eph quay sang bà quản lý, muốn biết thêm thông tín, nhưng anh ngạc nhiên thấy bà ta lùi vài bước xuống sảnh, vừa liếc nhìn anh vừa nói chuyện với cảnh sát.
Setrakian nói, "Ta nên đi ngay thôi."
Eph nói, "Nhưng tôi cần phải tìm ra xác anh ta."
"Nó biến mất rồi," Setrakian đáp. "Chẳng bao giờ tìm lại nó được đâu." Ông lão níu lấy cánh tay Eph bằng một sức mạnh phi thường. "Tôi tin rằng nó đã hoàn thành mục tiêu của mình."
"Mục tiêu của nó ư? Đó là gì?"
"Sau cùng, đó là đánh lạc hướng. Bởi, xét về mức độ, nó đâu có chết hơn những hành khách khác từng nằm trong nhà xác."
Vịnh Sheepshead, Brooklyn
GLORY MUELLER, một phụ nữ vừa góa chồng, trong khi tìm kiếm trên mạng để xem cần làm gì khi chồng mất mà không để lại di chúc, đã đọc được tin về những xác chết mất tích của chuyến bay 753. Cô ấn vào đường dẫn, đọc một bài có dán nhãn TIEN TRIEN. Cục Điều tra Liên bang, tin tức cho biết, sẽ chuẩn bị tổ chức họp báo trong vòng một giờ tới để thông báo trả một món tiền thưởng mới hậu hĩnh hơn cho bất cứ ai có thông tin gì về việc thi thể các nạn nhân trong bi kịch Regis Air biến mất khỏi nhà xác.
Chuyện này khoi lên một nỗi sợ hãi sâu sắc. Không hiểu vì sao, giờ cô nhớ ra, đêm trước đó cô đã thức giấc sau một con mơ và nghe thấy những âm thanh trên gác mái.
Về giấc mơ đã khiến cô thức giấc, cô chỉ nhớ rằng Hermann, người chồng vừa qua đòi của cô, đã trở lại từ cõi chết. Đã có nhầm lẫn, và bi kịch kỳ lạ đó, chuyến bay 753 đó, trên thực tế chưa từng xảy ra, và Hermann đã về tới cửa sau ngôi nhà của họ tại vịnh Sheepshead với nụ cười hàm ý cô-tưỏng-cô-đã-thoát- khỏi-tôi-sao, muốn ăn tối.
Bề ngoài, Glory đóng vai một góa phụ u sầu thầm lặng, và cô vẫn sẽ tiếp tục như vậy trong mọi cuộc thẩm vấn hay phiên tòa có thể sẽ chặn đường cô. Nhưng có lẽ cô là người duy nhất coi tấn bi kịch đã kết liễu gã chồng mười ba năm của mình là một món quà tuyệt vòi.
Mười ba năm vợ chồng. Mười ba năm bạo hành không thương xót. Và tình trạng đó cứ liên tục leo thang trong suốt những năm chung sống, nó cứ tiếp diễn ngày một nhiều ngay trước mặt hai đứa con trai, một đứa chín tuổi và một đứa mười một tuổi. Glory đã sống trong nỗi sợ hãi thường trực trước tính khí thất thường của anh ta, và thậm chí cô đã tự cho phép mình - chỉ trong mơ tưởng, vì cố làm thật thì quá mạo hiểm - nghĩ tới viễn cảnh mang con bỏ trốn trong khi anh ta vắng mặt tuần trước để đi thăm bà mẹ hấp hối ở Heidelberg. Nhưng cô có thể đi đâu được chứ? Và, quan trọng hơn cả - anh ta sẽ làm gì với cô và lũ trẻ nếu lùng ra được họ, bởi cô biết anh ta sẽ lùng ra thôi?
Nhưng Chúa nhân từ. Rốt cuộc Người cũng đã đáp ứng những lời cầu nguyện của cô. Cô - cùng lũ trẻ - đã được giải thoát. Tấm màn bạo lực tăm tối đã được vén lên khỏi gia đình họ.
Cô tới chân cầu thang, ngước lên tầng hai và nhìn cửa sập trên trần, dây của nó đang rủ xuống phất phơ.
Lũ gấu mèo. Chứng đã trở lại. Hermann, anh ta từng bẫy một con trên gác mái. Anh ta đã mang kẻ đột nhập sợ hãi tới phát điên đó ra sân sau và trừng trị nó ngay trước mắt bọn trẻ...
Không còn nữa. Giờ cô chẳng còn gì phải sợ nữa. Bọn trẻ còn ít nhất một tiếng nữa mới về nhà, và giờ cô quyết định lên đó. Dù sao đi nữa, cô cũng đã tính sẽ dọn dẹp đồ đạc của Hermann. Ngày đổ rác là thứ Ba, và đến lúc đó, cô muốn chúng phải biến bằng sạch.
Cô cần một vũ khí, và thứ đầu tiên thoáng qua tâm trí cô là con dao rựa của Hermann. Anh tá mang nó về nhà vài năm trước, bọc nó bằng vải dầu trong kho dụng cụ bằng nhựa khóa kín bên hông nhà. Khi cô hỏi vì sao anh ta lại cần một thứ như vậy - một dụng cụ đi rừng tại đây, tại vịnh Sheepshead - anh ta chỉ cười khẩy, "Cô chẳng bao giờ biết được đâu."
Nhũng lời hăm dọa bóng gió liên tục đó cũng là một phần hành vi hung hãn hằng ngày của anh ta. Cô lấy chìa khóa treo trên cái móc phía sau cánh cửa phòng để thức ăn, rồi bước ra ngoài và mở khóa. Cô tìm thấy một miếng vải dầu giấu bên dưới mớ dụng cụ làm vườn và một bộ bóng vồ cũ, vỡ vụn mà họ được tặng nhân dịp cưới (mà giờ đây cô có thể dùng nó để nhóm lửa). Cô mang cái gói vào bếp và đặt nó lên bàn, ngập ngừng một chút trước khi mở ra.
Cô đã luôn có ác cảm với vật này. Luôn nghĩ rằng, bằng cách nào đó, nó sẽ định đoạt số phận của gia đình này, có thể sẽ là dụng cụ để Hermann kết liễu đòi Glory. Vì thế, cô mở bọc vô cùng cẩn thận, như thể đang cỏi bỏ tã lót của một con quỷ con đang ngủ. Hermann chưa bao giờ muốn cô chạm vào những đồ vật đặc biệt của anh ta.
Lưỡi dao dài, rộng và bẹt. Tay cầm được bọc dây da, đã xỉn thành màu nâu nhạt dưới tay người chủ cũ. Cô nhấc nó lên, lật qua lại, cảm nhận sức nặng của thứ đồ vật xa lạ này trên tay. Cô bắt gặp hình ảnh phản chiếu của chính mình trên cánh cửa lò vi sóng, và cô phát khiếp. Một phụ nữ cầm một con dao rựa trong phòng bếp.
Anh ta khiến cô phát điên.
Cô bước lên tầng, tay cầm dao. Cô dừng bên dưới cửa trần và với lấy nút dưới cùng của tay nắm cửa bằng dây thừng trắng đang lòng thòng. Cánh cửa mở xuống một góc bốn lăm độ trong tiếng cọt kẹt của lò xo. Âm thanh đó hẳn phải khiến mọi con vật lén lút hoảng sợ. Cô lắng nghe, chờ đợi tiếng chúng chạy trốn, nhung chẳng có gì hết.
Cô với công tắc đèn tường trên cao, nhưng chẳng đèn nào phía trên bật cả. Cô gạt vài lần, vẫn chẳng có gì. Cô chưa từng lên đây từ sau Giáng sinh, và có thể trong thời gian qua, bóng đèn đã bị cháy. Có một cửa sổ nhỏ trên rui mái. Và bấy nhiêu thôi cũng đủ ánh sáng rồi.
Cô mở cầu thang gập và trèo lên. Chỉ ba bước là mắt cô đã có thể nhìn ngang sàn gác mái. Gác mái chưa được hoàn thiện, với nhũng tấm cách ly bằng sọi thủy tinh hồng có mặt bạc bung ra giữa những thanh dầm. Gỗ dán được đặt chéo nhau theo hướng Nam-Bắc và Đông-Tây, tạo thành đường đi tới bốn góc nhà kho.
Trên đây tối hơn cô tưởng, và rồi cô nhận thấy hai trong số những giá để quần áo cũ của cô đã bị di chuyển, chắn hết ánh sáng từ cửa sổ mái thấp. Quần áo của cô thời trước khi chung sống cùng Hermann được cất kín trong túi nhựa và bỏ kho đã mười ba năm nay. Cô bước theo tấm ván gỗ và dòi giá quần áo ra chỗ khác để ánh sáng vào nhiều hon, định lục qua đống quần áo này và tìm lại chính mình ngày xưa. Nhưng rồi cô thấy, bên ngoài lối đi bằng ván gỗ dán, tấm cách ly đã bị lật lên để lộ mặt sàn trần trụi ở khoảng giữa hai thanh dầm mái.
Và cô lại thấy một chỗ mặt sàn trần trụi như vậy nữa.
Và thêm một chỗ nữa.
Cô đứng đó, chết lặng. Cô thình lình cảm thấy có thứ gì đó sau lưng. Cô sợ không dám quay lại - nhưng rồi chọt nhớ ra con dao trong tay.
Đằng sau cô, trên bức tường gác mái, cách xa cửa sổ mái nhất, những tấm cách ly bị lột ra đã được chất thành một đống lổn nhổn. Vài tấm sợi thủy tinh bị xé nát bươm, như thể một con thú sử dụng chúng để trang hoàng cái tổ khổng lồ của nó vậy.
Không phải gấu mèo. Một thứ gì đó lớn hon. Lớn hơn rất nhiều.
Cái ổ hoàn toàn yên ắng, được sắp xếp như thể để che giấu một thứ gì đó. Phải chăng Hermann đã theo đuổi một kế hoạch mờ ám nào đó mà cô không hề hay biết? Anh ta giấu giếm bí mật đen tối nào dưới đó chứ?
Tay phải giơ sẵn con dao rựa, cô kéo đầu một tấm cách ly ra khỏi cái ổ, hé lộ ra...
... không gì cả.
Cô kéo tấm thứ hai, rồi chọt dừng lại khi một cánh tay lông lá của một người đàn ông lộ ra.
Cô biết cánh tay này. Cô cũng biết bàn tay gắn trên đó là của ai. Biết tường tận cả hai.
Cô chẳng thể tin nổi những gì mình đang nhìn thấy.
Con dao rựa giơ sẵn trước mặt, cô kéo thêm một tấm cách ly nữa ra.
Áo của anh ta. Một trong những chiếc áo cộc tay cài khuy anh ta ưa thích, ngay cả trong mùa đông. Hermann là một kẻ tự phụ, luôn tự hào vì cánh tay lông lá của mình. Đồng hồ đeo tay và nhẫn cưới của anh ta đã biến mất.
Glory đúng chết lặng trước cảnh tượng ấy, bủn rủn sợ hãi. Nhung, cô phải nhìn xem sao. Cô với lấy một tấm nữa, và khi kéo nó ra, gần như tất cả những tấm cách ly còn lại đều trượt xuống sàn.
Gã chồng đã chết của cô, Hermann, đang nằm ngủ trên gác mái. Trên chiếc giường làm bằng sợi thủy tinh hồng tả toi, mặc đầy đủ quần áo, chỉ có điều đôi chân thì bẩn thỉu, như thể do đi bộ.
Cô chẳng thể tiêu hóa nổi cú sốc này. Cô chẳng thể chịu nổi nó. Gã chồng mà cô tưởng đã thoát. Kẻ bạo chúa. Kẻ ngược đãi. Kẻ hãm hiếp.
Cô đứng phía trên cơ thể đang yên giấc của anh ta, với con dao như thanh kiếm của Damocles, sẵn sàng bổ xuống nếu anh ta có bất cứ động tĩnh gì dù là nhỏ nhất.
Và rồi, chậm chạp, cô hạ tay, lưỡi dao dần buông thõng. Cô nhận ra, giờ anh ta là một hồn ma. Một kẻ trở về từ cõi chết, một sự hiện diện, muốn ám cô mãi mãi. Cô sẽ chẳng bao giờ có thể thoát khỏi anh ta.
Khi cô vẫn đang nghĩ ngọi, Hermann mở mắt.
Mí mắt nâng lên khỏi nhãn cầu của anh ta, nhìn chòng chọc thẳng lên trên.
Glory đờ người. Cô muốn chạy trốn, cô muốn hét lên, nhung cô thẳng thể làm gì.
Đầu Hermann quay sang và đôi mắt chòng chọc của anh ta dán vào cô. vẫn ánh nhìn hăm dọa ấy, luôn là vậy. Cái vẻ khinh khỉnh. Ánh nhìn luôn dự báo điềm gở.
Và rồi một ý nghĩ nảy ra trong đầu cô.
Cùng lúc, cách đó bốn căn nhà dưới phố, cô bé Lucy Needham ba tuổi đứng trên lối vào gara, đang cho con búp bê tên Cục Cưng ăn bánh quy giòn từ một túi Cheez-Its. Lucy ngừng nhai bánh, lắng nghe những tiếng hét bị nghẹt lại và tiếng bịch rõ to từ... đâu đó không xa. Cô bé nhìn lên nhà mình, rồi nhìn về hướng Bắc, chun mũi lại với vẻ bối rối ngây thơ. Cô bé đứng yên, cái lưỡi đầy những miếng bánh quy phô mai nhai dở thò hẳn ra ngoài miệng, lắng nghe một trong những âm thanh lạ kỳ nhất mà cô bé từng được nghe. Cô bé định kể với bố chuyện này khi bố cầm điện thoại quay trở lại, nhung đúng lúc đó túi Cheez-Its bị roi, vậy là cô bé ngồi xổm xuống nhặt bánh dưới đường mà ăn, và rồi sau khi bị mắng, cô bé quên sạch mọi chuyện.
Glory đứng thở hổn hển trong gác mái, cầm chặt con dao rựa bằng cả hai tay. Hermann, thân thể bị chặt làm nhiều mảnh, nằm giữa những tấm cách ly màu hồng nhóp nhúa, bức tường gác mái tưng tóe một thứ chất lỏng trắng đang nhỏ giọt.
Trắng ư?
Glory run lẩy bẩy, tâm trí rối bôi. Cô nhìn lại điều tệ hại mình đã làm. Hai lần, lưỡi dao đã cắm cả vào dầm gỗ, và theo như những gì cô nhớ được, chính Hermann đã cố giật con dao từ tay cô, và cô đã phải giằng co hết sức để có thể giữ lại nó, rồi cứ thế chém lia lịa vào da thịt anh ta.
Cô lùi lại một bước. Cô như trong trạng thái thoát xác. Choáng váng trước những gì đã làm.
Cái đầu với vẻ khinh khỉnh của Hermann lăn vào giữa hai dầm mái, mặt úp xuống, một nhúm sọi thủy tinh hồng dính vào má anh ta trồng giống như kẹo bông. Thân trên của anh ta thủng, rách, đùi anh ta bị chém tới tận xương, háng anh ta nổi bọt trắng.
Trắng ư?
Cô cảm thấy thứ gì đó nhỏ xuống dép, tách-tách-tách. Cô thấy máu - máu đỏ - và nhận ra cô đã chém phải chính mình từ lúc nào, vào cánh tay trái, mặc dù cô chẳng hề cảm thấy đau. Cô giơ tay lên xem xét, những giọt máu to và đỏ nhỏ xuống mặt gỗ dán.
Trắng ư?
Cô trông thấy thứ gì đó đen và nhỏ đang ngọ nguậy. Mắt cô nhòe đi, chóp chóp, vẫn đang trong con cuồng giết chóc. Cô chẳng thể tin vào mắt mình nữa.
Cô thấy ngứa ngáy ở mắt cá chân, bên dưới chiếc dép nhuốm máu. Cơn ngứa lan lên khắp chân, cô đập mạnh đùi bằng mặt phẳng của lưỡi dao dính thứ chất lỏng trắng.
Và rồi - cảm giác ngứa lại xuất hiện ở mặt trước chân kia. Và thêm cả phần thắt lưng. Cô nhận ra mình đang chịu một dạng phản ứng kích động, như thể đang bị bọ tấn công. Cô vấp chân về phía sau, suýt chút nữa ngã ra khỏi lối đi lát gỗ dán.
Rồi một cảm giác len lỏi ghê rợn cực độ xuất hiện quanh vừng háng - và con khó chịu lên tới ruột già. Một thứ gì đó trườn bò xâm nhập vào, khiến cô giật nảy mình và vội giữ chặt lấy mông, như thể cô đang sắp sửa bĩnh ra quần. Cơ thắt dãn ra và cô cứ đứng như vậy thật lâu, bất động, cho tới khi cảm giác này dần trôi qua. Cô cho phép mình thả lỏng, thư thái. Cô cần vào phòng tắm. Lại một thứ gì đó ngoe nguẩy khiến cô sao nhãng, lần này nó xuất hiện bên trong cổ tay áo của cô. Và cô cảm thấy một con ngứa thiêu đốt ở vết cắt trên cánh tay.
Và rồi một cơn đau nhói, từ sâu bên trong ruột, khiến cô gập người lại. Con dao roi xuống sàn gỗ và một tiếng thét, đúng hơn là một tiếng kêu ré đầy đau đón thoát ra khỏi miệng Glory. Cô cảm thấy thứ gì đó đang gọn sóng lên phía trên cánh tay - lúc này ở ngay dưới da thịt, trườn bò - và trong khi miệng cô vẫn đang há ra và la hét, một con giun ống mảnh khác trườn ra từ sau cổ, bám theo hàm tới môi cô, rồi lao vào vách má trong miệng và len lỏi xuống cuống họng.
Freeburg, New York
ĐÊM XUỐNG NHANH trong khi Eph lái xe về hướng Đông, cắt ngang đại lộ Cross Island, về phía hạt Nassau.
Eph nói, "Vậy ý ông là, những hành khách trong nhà xác thành phố, mà giờ đây cả thành phố đang tìm kiếm - tất cả bọn họ chỉ về nhà thôi sao?"
Vị giáo sư già ngồi ở ghế sau, mũ đặt trên đùi. "Máu cần máu," ông nói. "Một khi đã biến đổi, những con ma hiện hình này trước hết sẽ tìm đến gia đình và bạn bè, những người vẫn còn chưa bị nhiễm. Họ trở về, vào ban đêm, về nơi có những người họ cảm thấy gắn bó về mặt tinh thần. Những 'Người Thương' của họ. Giống bản năng tìm về tổ, tôi nghĩ vậy. Cũng như sự thôi thúc của loài thú đã dãn dắt lũ chó đi lạc hàng trăm cây số trở về với chủ. Khi chức năng cao cấp hơn của não mất đi, bản năng thú vật của họ sẽ thắng thế. Đó là những sinh vật hành động bởi thôi thúc. Ần. Trốn. Làm tổ."
"Trở về với những người đang khóc thương họ," Nora nói, cô ngồi cạnh Eph ở hàng ghế trước. "Để tấn công và lây nhiễm ư?"
"Để ăn. Bản nâng của xác sống là tra tấn người sống."
Eph im lặng ra khỏi đường hầm. Thứ nhiệm vụ liên quan tới ma cà rồng này cũng hại não như khi ăn phải một món dở ẹc: tâm trí anh từ chối tiêu hóa nó. Nó cứ nhai và nhai nhưng rồi chẳng thể nuốt nổi.
Khi Setrakian đề nghị anh chọn một hành khách trong danh sách những nạn nhân của chuyến 753, người đầu tiên anh nghĩ tới là bé gái Emma Gilbarton. Cô bé anh thấy vẫn nắm chặt tay mẹ trên máy bay. Có vẻ đây chính là thử nghiệm tốt cho giả thuyết của Setrakian. Làm thế nào một cô bé mười một tuổi đã chết có thể đi từ một nhà xác tại Queens về tới tận nhà tại Freeburg trong đêm chứ?
Nhưng giờ đây, khi đỗ xe bên ngoài địa chỉ của gia đình Gilbarton - một căn nhà trang nghiêm xây theo kiến trúc thời George trên một vệ phố rộng với những biệt thự cách xa nhau - Eph nhận ra rằng, nếu họ sai, anh sắp đánh thức một người đàn ông đang đau khổ bởi sự kết thúc của gia đình mình, bởi sự mất mát người vợ và đứa con duy nhất.
Eph hoàn toàn mù mờ về chuyện này.
Setrakian bước ra khỏi chiếc Explorer, chỉnh lại mũ trên đầu, và mang theo cây gậy dài ngoằng mà ông chắng cần dùng để chống. Con phố buổi tối tĩnh mịch, vài căn nhà khác sáng ánh đèn, nhưng không có ai đi lại, không xe cộ ngang qua. Các cửa sổ nhà Gilbarton tối om. Setrakian đưa bọn họ mỗi người một chiếc đèn pin lắp bóng đen, trông giống hệt đèn Luma của họ, chỉ có điều nặng hon.
Họ bước tới cửa, Setrakian lấy đầu cây gậy bấm chuông. Không thấy ai trả lời, ông thử vặn tay nắm cửa, chỉ dùng phần găng, giữ cho những ngón tay trần cách xa nắm cửa. Không để lại bất cứ dấu vân tay nào.
Eph nhận ra trước đây ông lão đã làm những việc kiểu này rồi.
Cửa trước khóa chặt. "Đi nào," Setrakian nói.
Họ xuống thềm và đi vòng quanh nhà. Sân sau là một khoảng trống rộng bên rìa một khu rừng già. Trăng sớm chiếu sáng nhẹ, đủ để tạo ra những vệt bóng mờ của họ trên thảm cỏ.
Setrakian dừng lại và giơ cây gậy lên chỉ.
Một Ịối dẫn vào tầng hầm nhô lên khỏi mặt đất, cánh cửa mở toang trong màn đêm.
Ông lão tiến tới chỗ đó, Eph và Nora theo sau. Những bậc thang bằng đá dẫn xuống một hầm tối. Setrakian lướt mắt dọc những cây cao che chắn sân sau.
Eph nói, "Ta không thể cứ thế mà vào trong."
"Làm vậy sau khi mặt trời lặn thì cực kỳ thiếu khôn ngoan," Setrakian nói. "Nhưng chờ đợi là điều quá xa xỉ đối với chúng ta."
Eph nói, "Không, ý tôi là... đây là đột nhập. Ta nên gọi cảnh sát trước."
Setrakian cáu kỉnh tước cây đèn từ tay Eph. "Những gì ta cần làm đây... họ sẽ chẳng thể hiểu nổi."
Ông bật đèn, hai bóng tím phát ra ánh sáng đen. Cũng giống như cây gậy y tế Eph sử dụng, nhưng có điều sáng hơn và nóng hon, và sử dụng loại pin lớn hon.
"Anh sáng đen?" Eph nói.
"Anh sáng đen chỉ đon giản là ánh sáng tử ngoại sóng dài, hay còn gọi là UVA. Làm hiện hình, nhưng vô hại. UVB lằ sóng trung, có thể gây sạm da hoặc ung thư da. Còn đây" - ông cẩn thận chĩa tia sáng tránh xa khỏi họ, cũng như xa khỏi chính mình - "là tia uvc sóng ngắn. Sát khuẩn, có tác dụng khử trùng. Có thể gây kích thích và phá hủy cấu trúc ADN. Cực kỳ nguy hiểm cho da người khi rọi trực tiếp. Nhưng đối với ma cà rồng - đây là vũ khí."
Ông lão bắt đầu bước xuống bậc thang, một tay cầm đèn, tay kia cầm cây gậy chống. Anh sáng tử ngoại chẳng giúp soi sáng được là bao, và ánh đèn uvc chỉ càng khiến quang cảnh trở nên u ám hơn thay vì rọi sáng. Trên những bức tường đá hai bên cầu thang, khi họ băng qua cái giá buốt của ban đêm để bước vào không khí mát lạnh của hầm móng xi măng, rêu mốc ánh lên màu trắng.
Bên trong, Eph nhìn ra đường viền tối của cầu thang dẫn lên tầng một. Một khu giặt là và một máy choi pinball đòi cổ.
Và một thi thể nằm trên sàn.
Một người đàn ông nằm đó trong bộ đồ ngủ kẻ ca rô. Eph định tiến tới gần anh ta theo bản năng của một bác sĩ có nghề - nhung rồi anh tự ngăn mình lại. Nora dò dẫm bức tường đối diện cánh cửa trong và bật công tắc tại đó, nhưng đèn không sáng.
Setrakian tới gần người đàn ông, gí sát đèn vào cổ anh ta. Một ánh màu chàm kỳ dị cho thấy một đường cắt nhỏ, thẳng tưng dưới ánh tím, ngay phía bên trái cổ họng anh ta.
"Anh ta đã bị biến đổi," Setrakian nói.
Ông lão dúi đèn Luma vào tay Eph. Nora bật đèn của mình lên rọi vào mặt người đàn ồng, soi chiếu một sinh vật điên dại bên dưới da, một lóp mặt nạ giận dữ, chết chóc đang chuyển mình, quằn quại, và một cách mơ hồ nhưng chắc chắn, trông y như ác quỷ.
Setrakian tìm thấy một cái rìu mới tinh với tay cầm bằng gỗ nhẵn bóng và lưỡi thép lấp lánh đỏ-bạc đang tựa vào một bàn thợ trong góc. Ông trở lại, cầm cái rìu trong đôi bàn tay xương xẩu.
"Đợi đã," Eph nói.
Setrakian nói, "Xin hãy lùi lại, bác sĩ."
"Anh ta chỉ đang nằm đó thôi mà," Eph nói.
"Anh ta sẽ sớm sống dậy." Óng lão chỉ tay về phía bậc cầu thang đá dẫn lên cánh cửa chòi vẫn đang mở, trong khi đôi mắt không rời khỏi người đàn ông đang nằm trên sàn. "Con bé đang ở ngoài kia. Hút máu những người khác." Setrakian giơ rìu sẵn sàng. "Tôi không đề nghị anh tha thứ, bác sĩ ạ. Ngay bây giờ, tất cả những gì tôi đề nghị là anh hãy đứng sang một bên."
Eph nhìn thấy sự quyết tâm trên khuôn mặt Setrakian và hiểu rằng ông lão sẽ vung rìu, cho dù có bị anh chắn đường hay không. Eph lùi bước. Lưỡi rìu quá nặng đối với tầm vóc và tuổi tác của Setrakian, ông lão giơ cả hai tay qua đầu, phần dẹt của lưỡi rìu gần như chạm vào phía sau thắt lưng ông.
Rồi cánh tay ông thả lỏng. Khuỷu tay hạ xuống.
Ông quay đầu về phía cánh cửa chòi đang mở toang, lắng nghe.
Eph cũng đã nghe thấy. Tiếng lạo xạo của cỏ khô bị giẫm bẹp.
Thoạt đầu, anh đoán là một con thú. Nhưng không. Tiếng xào xạc đó mang nhịp bước của một động vật hai chân.
Tiếng bước chân. Con người - hoặc từng là con người. Đang tiến gần.
Setrakian hạ rìu. "Ehíng sát cửa. Yên lặng. Đóng cửa lại phía sau con bé ngay sau khi nó bước vào." Ông lấy lại cái đèn từ Eph, rồi thay vào đó đưa cho anh cái rìu. "Không được để nó chạy thoát."
Ong lùi về chỗ cây gậy chống đang dựa vào tường, phía đối diện với cánh cửa - rồi tắt cây đèn nóng, chìm vào bóng tối.
Eph đứng cạnh cửa hầm đang mở toang, lưng dựa tường. Bên anh là Nora, cả hai cùng run rẩy trong hầm nhà một người xa lạ. Bước chân tới gần hơn, êm ái nhẹ nhàng trên mặt đất.
Bước chân dừng lại ở đầu cầu thang. Một cái bóng mờ trùm lên ánh trăng trên sàn căn hầm: đầu và vai.
Bước chân bắt đầu đi xuống.
Khi đã xuống dưới chân cầu thang, ngay trước cánh cửa, nó dừng bước. Eph - đứng cách đó không quá ba mét - sững sờ trước bóng dáng của con bé. Nhỏ và thấp, mái tóc vàng xõa trên hai vai của chiếc váy ngủ dài ngang gối. Chân trần, hai cánh tay buông thõng, đứng yên một cách bất thường. Ngực nó phập phồng, nhưng chắng một hơi thở nào thoát ra từ miệng nó dưới ánh trăng.
Về sau, anh sẽ hiểu rõ hon. Rằng thính giác và khứu giác của con bé đã nhạy hơn rất nhiều. Rằng con bé có thể nghe thấy nhịp máu chảy trong cơ thể anh, Nora và vị giáo sư, và có thể ngửi thấy mùi CO2 phả ra từ hơi thở của họ. Anh cũng hiểu được rằng thị giác là giác quan kém nhạy bén nhất của nó. Giờ đây con bé đang trong giai đoạn mất đi sắc giác, nhưng khả năng nhận diện nhiệt - khả năng "đọc" các dấu hiệu nhiệt như quầng sáng đon sắc - vẫn chưa hoàn thiện.
Con bé tiến lên vài bước, thoát khỏi ánh trăng yếu ớt trên vùng ô cửa chữ nhật và chìm vào bóng tối hoàn toàn trong căn hầm. Một con ma đã vào phòng. Eph đáng ra phải đóng cửa, nhưng sự hiện diện của con bé ngay tại đây đã khiến anh chết lặng.
Con bé quay về phía Setrakian đang đứng, dán mắt vào vị trí của ông. ông lão bật đèn. Con bé vô cảm nhìn ánh đèn. Rồi ông tiến về phía nó cùng với cây đèn. Con bé cảm nhận được sức nóng, bèn quay về phía cửa hầm để trốn thoát.
Eph sập cửa. Cánh cửa nặng nề đóng sầm lại, tiếng ầm vang khắp ngôi nhà. Eph tưởng như cả căn nhà sẽ đổ sập đè lên họ.
Bé gái, Emma Gilbarton, lúc này đã trông thấy họ. Con bé bị chiếu ánh sáng tím từ bên sườn, và Eph có thể thấy những vết màu chàm dọc đôi môi và trên cái cằm nhỏ xinh xắn của nó. Kỳ quặc, như một kẻ tiệc tùng tự sơn huỳnh quang lên người.
Anh chợt nhớ: máu sẽ ánh lên màu chàm dưới tia tử ngoại.
Setrakian giơ cây đèn sáng ra phía trước để lùa con bé trở lại. Phản ứng của con bé giống như một con thú bối rối, nó chùn bước như thể đang đối đầu với ngọn đuốc cháy. Setrakian đuổi theo con bé một cách nhẫn tâm, dồn nó vào chân tường. Từ sâu trong cổ họng nó thốt ra một tiếng kêu trầm, khản đặc, một tiếng rên rỉ đau đớn.
"Bác sĩ." Setrakian đang gọi Eph. "Bác sĩ, tới đây. Ngay lập tức!"
Eph tới gần con bé hon, lấy cây đèn Luma từ Setrakian và đưa cho ông chiếc rìu - trong lúc đó vẫn rọi thẳng đèn vào con bé.
Setrakian lùi lại. Ông ném cái rìu đi, nó kêu xoảng trên mặt sàn cứng. Hai tay đeo găng của ông nắm lấy cây gậy chống, nắm chặt phần dưới tay cầm hình đầu sói. Bằng một cú vặn cổ tay dứt khoát, ông tách phần đầu ra khỏi cây gậy.
Từ cái vỏ gỗ, Setrakian rút ra một lưỡi kiếm bạc.
"Nhanh lên," Eph nói, quan sát con bé quằn quại bên bức tường, chẳng thể di chuyển bởi những tia sáng chết chóc.
Con bé trông thấy thanh kiếm của ông lão rực lên gần như màu trắng, và khuôn mặt nó toát lên một vẻ gì đó như sợ hãi. Và rồi nỗi sợ hãi chuyển thành sự hung dữ.
"Nhanh lên!" Eph nói, chỉ muốn mọi chuyện chấm dứt. Con bé rít lên, và anh nhìn thấy bóng tối bên trong con bé, bên dưới làn da của nó, một con quỷ gầm gừ muốn thoát ra.
Nora đang quan sát người cha nằm trên sàn. Cơ thể anh ta bắt đầu chuyển động, anh ta mở mắt. "Giáo sư?" Nora gọi.
Nhưng ông lão vẫn đang vướng bận với con bé.
Nora nhìn Gary Gilbarton ngồi dậy rồi đứng lên trên đôi chân trần, một xác chết trong bộ đồ ngủ, mắt mở.
"Giáo sư?" Nora gọi một lần nữa, bật chiếc đèn của mình lên.
Cây đèn kêu lách tách. Cô lắc nó, vỗ tay vào đế đèn, nơi chứa pin. Ánh sáng tím xì xèo bật lên, rồi tắt ngóm - rồi lại bật lên một lần nữa.
"Giáo sư!" cô thét lên.
Ánh sáng nhấp nháy thu hút sự chú ý của Setrakian. Ông quay về phía người đàn ông vừa sống lại, đang bối rối và loạng choạng. Bằng kỹ thuật nhiều hơn là bằng sự nhanh nhẹn, Setrakian khiến Gilbarton gập mình lại bởi những cú đâm xiên ruột và ngực, rạch những vết thương ứa máu trắng trên bộ đồ ngủ của anh ta.
Eph, lúc này chỉ còn lại một mình với bé gái, nhìn con quỷ đang trốn bên trong cô bé, chẳng hề hay biết những gì đang xảy ra phía sau, và gọi, "Giáo sư Setrakian!"
Setrakian xiên vào hai nách của người cha để tay anh ta roi xuống hai bên, rồi chém vào vùng gân dưới đầu gối, khiến thây ma khụy xuống bằng cả bốn chi. Và khi đầu Gilbarton ngửa lên, cổ vươn dài, Setrakian vung kiếm, thốt ra vài từ bằng tiếng nước ngoài - như thể một lời tuyên bố trang nghiêm nào đó - và rồi chém lưỡi kiếm qua cổ người đàn ông, cắt rời đầu anh ta khỏi thân người, phần thân dưới của thây ma đổ rạp xuống sàn.
"Giáo sư!" Eph gọi, gí ánh đèn vào con bé, tra tấn nó - một bé gái chỉ khoảng tuổi Zack, đôi mắt hoang dại của nó nhòe màu tím - những giọt nước mắt máu - trong khi sinh vật bên trong nó lên con thịnh nộ.
Miệng con bé há ra như thể muốn nói. Gần như thể muốn hát. Miệng nó cứ mở và thứ đó thò ra, đầu chích từ phần vòm miệng mềm bên dưới lưỡi. Cơ quan này phồng lên khi đôi mắt con bé chuyển từ buồn rầu sang đói khát, ánh lên một vẻ gần như háo hức.
Ông lão trở về chỗ con bé, chĩa kiếm. "Lùi lại, strigoiĩ" ông nói.
Con bé quay sang ông lão, đôi mắt nó vẫn rực lửa. Lưỡi kiếm bạc của Setrakian giờ đây vấy máu trắng. Ông thốt lên những từ giống y như lúc trước, hai tay ông giơ lên quá vai, lăm lăm thanh kiếm. Eph tránh sang một bên đúng lúc thanh kiếm chém qua.
Con bé giơ tay chặn đúng vào giây cuối, và lưỡi kiếm cắt lìa bàn tay khỏi cổ tay nó trước khi tách rời đầu con bé khỏi cổ. Vết cắt gọn và cực phẳng. Máu trắng bắn lên tường - không phun thành dòng, mà phọt ra một cách ghê tởm - cơ thể con bé đổ sập xuống sàn, đầu và bàn tay nó roi lên trên, cái đầu lăn lông lốc.
Setrakian hạ kiếm và lấy đèn khỏi tay Eph, ông chiếu tia sáng nhạt gần vết thương hở trên cổ cô bé, gần như một tư thế chiến thắng. Nhưng không phải vậy: Eph nhìn thấy những sinh vật ngoe nguấy trên bãi máu trắng sệt rỉ ra.
Những con giưn ký sinh. Chúng cuộn chặt lại và nẳm im khi ánh đèn chiếu tói. Ong lão đang làm sạch hiện trường.
Eph nghe thấy tiếng bước chân trên nền cầu thang đá. Nora, cô đang chạy ra khỏi tầng hầm. Anh chạy theo cô, suýt chút nữa vấp phải thi thê mất đầu của người cha, lên tới thảm cỏ vào với không gian khuya khoắt.
Nora đang chạy tới những cái cây tối đen đu đưa. Anh bắt kịp cô trước khi cô tới đó, và kéo cô lại, ôm chặt lấy cô. Cô hét vào ngực anh, như thế lo sợ tiếng khóc của mình sẽ tràn vào màn đêm, và anh ôm cô cho tới khi Setrakian bước lên sân.
Hoi thở của ông phả vào trong không khí đêm mát lạnh, ngực ông phập phồng nặng nhọc. Ong ấn ngón tay lên ngực trái. Mái tóc bạc trắng của ông rối bòi và sáng bóng dưới ánh trăng, khiến ông - cũng như tất cả mọi chuyện lúc đó, đối với Eph - có vẻ điên rồ.
Ông lau sạch lưỡi kiếm trên cỏ trước khi cắm nó trở lại vào đầu vỏ gậy. Ông gắn hai mảnh vào làm một bằng một cú vặn chắc chắn, và cây gậy chống dài quá khố lại trở về như trước kia.
"Con bé giờ đây đã được giải thoát," ông nói. "Con bé và cha nó đã an nghỉ."
Ông kiếm tra dưới ánh trăng máu ma cà rồng dính trên giày và ống quần. Nora nhìn ông bằng ánh mắt hoang dại. "Ong là ai vậy?" cô hỏi.
"Chỉ là một người du hành thôi," ông trả lời. "Giống như các vị."
Họ đi bộ trở lại chiếc Explorer của Eph. Eph thấy bồn chồn bất an giữa sân trước. Setrakian mở cửa sau và rút ra một bộ pin dự phòng. Ong thay pin cho đèn của Eph và chiếu ánh sáng tím lên thành xe để kiếm tra một chút.
Setrakian nói, "Hai người đợi ở đây nhé."
"Đợi gì chứ?" Eph nói.
"Anh đã thấy máu trên môi, trên cằm con bé rồi đấy. Da nó hồng hào. Nó đã hút máu. Chuyện này vẫn chưa kết thúc."
Ông lão tiến tới căn nhà bên cạnh. Eph quan sát ông, Nora buông Eph ra và dựa vào thành xe. Cô khó nhọc nuốt nước bọt, như sắp nôn. "Ta vừa giết chết hai người ngay dưới hầm nhà họ."
"Thứ này lây lan người qua người. Bởi thứ không phải người."
"Ma cà rồng, ôi Chúa ơi..."
Eph nói, "Nguyên tắc đầu tiên luôn là - chống lại căn bệnh, không phải nạn nhân của nó."
"Đừng ma quỷ hóa căn bệnh," Nora nói.
"Nhưng giờ đây... giờ đây căn bệnh chính là ma quỷ. Giờ đây những người đã nhiễm chính là vật chủ trung gian chủ động lây nhiễm căn bệnh, và cần phải ngăn họ lại. Phải giết. Phải tiêu diệt."
"Giám đốc Bames sẽ nói gì về việc này chứ?"
Eph nói, "Ta không thế đợi ông ấy nữa. Ta đã đợi quá lâu."
Họ chìm vào yên lặng. Ngay sau đó, Setrakian quay trở lại, mang theo cây gậy chống/thanh kiếm diệt ma cà rồng và cái đèn vẫn còn ấm.
"Xong xuôi rồi," ông nói.
"Xong xuôi?" Nora nói, vẫn kinh hãi trước những gì mình vừa trông thấy. "Giờ thì sao? Ong cũng biết rằng phải có khoảng hai trăm hành khách nữa trên chuyến bay đó."
"Sự việc còn tệ hơn rất nhiều. Đêm thứ hai đang tói. Và đọt lan truyền dịch bệnh thứ hai sẽ xảy ra ngay thôi."
chú thích
[I] Hộp có chứa một mảnh giấy da cuộn tròn, có ghi những lời cầu nguyện. Người Do Thái tin rằng nó ngàn tai ương xâm nhập ngôi nhà của mình.
[II] Abbott và Costello là hai diễn viên trong bộ phim Abbott and Costello Meet Frankenstein (Abbott và Costello gặp Frankenstein), trong đó Bela Lugosi đóng vai ma cà rồng Dracula.
[III] Giấc ngủ REM - Rapid Eye Movement (chuyển động mắt nhanh): giai đoạn giấc ngủ sâu trong đó não hoạt động rất tích cực.
Đêm thứ hai
Patricia hối hả lùa tay vào mái tốc, như để rũ sạch những giờ lãng phí của một ngày nữa trôi qua. Cô nhận ra mình đang mong ngóng Mark trở về nhà, và chẳng phải chỉ để có thế thoải mái tống lũ trẻ cho anh và nói, "Đây này." Cô còn muốn báo cho anh tin sốt dẻo duy nhất trong ngày, rằng bà vú gia đình Luss - người mà Patricia đã theo dõi qua rèm cửa số phòng ăn hướng ra phía trước - đã chạy khỏi nhà Luss sau khi tới chưa đầy năm phút, lũ trẻ thì chẳng thấy đâu, còn bà già da đen đó thì chạy biến như thẽ bị rượt duỗi.
o, gia đình Luss. Lũ hàng xóm khiến ta điên tiết như thế nào ư. Cứ mồi khi nghĩ tới Joanie da-bọc-xương đang tự sướng về "hầm rượu đất xịn theo kiếu châu Âu" của mình, Patricia lại bất giác giơ ngón tay thối hướng vế phía nhà Luss. Cô vô cùng sốt ruột muốn tìm hiếu những gì Mark biết về Roger Luss, liệu anh ta có còn đang ở nước ngoài hay không. Cô muốn trao đối ý kiến. Khoảng thời gian duy nhất cô và chóng có vẻ có cùng quan điếm là khi nói xấu bạn bè, gia đình và hàng xóm. Có lẽ bằng cách nào đó việc tận hưởng những vấn đề hôn nhân hay những bất hạnh gia đình của người khác khiến tình hình giữa cô và Mark trở nên đỡ căng thăng hon.
Việc nói xấu người khác luôn diên ra tuyệt vòi hơn với một ly pinot, và cô hối hả uống cạn ly thứ hai. Cô nhìn đồng hỗ phòng bếp, thực lòng nghĩ rằng nên dừng lại một chút, bởi biết rõ tính nôn nóng của Mark mỗi khi anh trở về nhà và thấy cô đã uống trước anh hai ly. Tiên sư anh, thư giãn trong văn phòng trên phố cả ngày, ăn trưa, rảnh rỗi đi dạo quanh, và rồi đàn đúm trên chuyến tàu muộn về nhà. Trong khi đó, cô mắc kẹt ở đây với đứa bé, và Marcus, và bà vú và thằng làm vườn...
Cô rót cho mình thêm một cốc, tự hỏi còn bao lâu nữa thì Marcus, thằng quỷ con hay ghen tị đó, mới vào phòng và đánh thức em gái nó dậy. Bà vú đã ru Jacqueline ngủ từ trước khi về, và con bé vẫn chưa dậy. Patricia xem đồng hồ một lần nữa, chợt nhận ra căn nhà đã yên ắng khá lâu. Ô - ngủ chẳng còn biết trời đất. Tọp thêm một hóp pinot nữa, và rồi nhớ tới tên khủng bố tinh quái bốn tuổi của mình, cô bỏ lại cuốn tạp chí Cookie đầy quảng cáo và bước lên cầu thang hậu.
Cô ngó qua Marcus trước tiên, thấy nó đang nằm úp mặt trên tấm thảm New York Rangers bên cạnh chiếc giường thành cao, trò choi điện tử cầm tay vẫn đang bật nằm bên cạnh bàn tay đang buông lỏng. Mệt mỏi. Và tất nhiên, họ sẽ phải trả giá cho giấc chop mắt muộn này khi thằng quỷ con kia không chịu nằm yên vào giờ ngủ - nhưng lúc đó đến lượt Mark xử lý.
Cô xuống sảnh - nhíu mày bối rối khi nhìn thấy vài tảng đất đen trên tấm thảm dài (thằng quỷ con) - cô bước tới cánh cửa đóng kín có treo chiếc gối vải hình trái tun in dòng chữ SUỴT- SUỴT-SUỴT! - THIÊN THẦN ĐANG NGỦ trên nam cửa bằng một dải ruy băng ren. Cô nhẹ nhàng mở cửa tiến vào căn phòng ngủ ấm áp, lờ mờ tối dành cho bé sơ sinh, và hoảng hốt khi thấy một người đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh bên cạnh chiếc cũi, đung đưa. Một phụ nữ, đang giữ một bọc nhỏ trên tay.
Kẻ lạ mặt này đang ẵm bé Jacqueline. Nhưng bên trong không gian ấm áp tĩnh mịch của căn phòng, bên dưới ánh đèn âm trần dìu dịu cùng thảm dày dưới chân, mọi thứ dường như vẫn ổn.
"Ai...?" Khi Patricia đánh liều tiến lại gần hơn, người phụ nữ đang đung đưa kia dường như bị đánh động. "Joan? Joan, là cô phải không?" Patricia bước tới gần hơn nữa. "Cô đang...? Cô vào nhà qua gara ư?"
Joan - chính là cô ta - dừng đung đưa và đứng dậy khỏi ghế. Anh đèn hồng đằng sau Joan khiến Patricia khó có thể nhận ra vẻ kỳ dị trên khuôn mặt cô ta - mà cụ thể là, cái mồm méo xệch kỳ lạ. Từ người cô ta bốc ra một mùi kinh khủng, và Patricia chợt nghĩ ngay tới cô chị gái của mình, và lễ Tạ on kinh khủng năm ngoái. Phải chăng Joan cũng đang bị sang chấn tâm lý giống vậy?
Và tại sao cô ta lại ở đây, bế bé Jacqueline?
Joan chìa tay trả lại bé gái sơ sinh cho Patricia. Patricia ẵm đứa con của mình, và ngay lập tức, cô nhận ra có gì đó không ổn. Con bé yên lặng một cách quá bất thường so với vẻ yên bình của một bé sơ sinh đang ngủ.
Lo lắng, Patricia dùng hai ngón tay vén lóp chăn che phủ mặt Jackie.
Đôi môi nụ hồng của con bé bị rách. Đôi mắt nhỏ của nó tối sầm và trừng trừng. Tấm chăn quanh cổ nó bị ướt. Hai ngón tay của Patricia dính máu.
Patricia định thét lên, nhưng không kịp nữa.
***
Ann-Marie Barbour thực sự cảm thấy tuyệt vọng. Cô đứng trong bếp, thì thào cầu nguyện và bám chặt thành bồn rửa như thể ngôi nhà mà cô đã sống trọn cuộc sống hôn nhân là một con thuyền nhỏ bé đang bị cuốn vào vùng nước xoáy đen ngòm trên biển. Không ngừng cầu nguyện được dẫn đường, được giải thoát. Cầu nguyện một tia hy vọng. Cô biết Ansel không phải người xấu. Anh không thực sự như vẻ bề ngoài. Anh chỉ là đang rất, rất ốm. (Nhưng anh ấy ãă giết lũ chó.) Dù anh có đang mắc bất cứ căn bệnh nào thì rồi nó cũng sẽ qua đi như một con sốt tồi tệ, và mọi thứ sẽ trở lại bình thường.
Cô nhìn ra chuồng chó đang khóa kín ngoài sân sau tối om. Lúc này nó đang rất yên tĩnh.
Mối nghi ngờ lại quay trở lại với cô, giống như khi cô thấy tin tức về những người chết trong chuyến bay 753 đã biến mất khỏi nhà xác. Điều gì đó đang xảy ra, một điều gì đó rất khủng khiếp (Anh ấy đã giết lũ chó) - và cảm giác khiếp đảm dâng trào của cô chỉ có thế giảm nhẹ nhờ việc liên tục đi đến chỗ gương và bồn rửa. Rửa tay rồi chạm, lo lắng rồi cầu nguyện.
Tại sao Ansel tự chôn mình dưới đất vào ban ngày chứ? (Anh ấy đã giết lũ chó.) Tại sao anh nhìn cô với vẻ thèm khát đến vậy? (Anh ấy đã giết chúng.) Tại sao anh không nói bất cứ gì, mà chỉ càu nhàu và tru tréo (giống như lũ chó anh ấy đã giết)?
Màn đêm đã một lần nữa chiếm trọn bầu trời - điều khiến cô kinh hãi cả ngày nay.
Tại sao lúc này ngoài đó anh lại yên lặng đến vậy?
Trước khi cô kịp nghĩ xem nên làm gì, trước khi cô kịp rũ bỏ tính nhút nhát của mình, cô ra khỏi cửa và bước xuống cầu thang ra vườn. Không nhìn vào mộ lũ chó ở góc vườn - không được đầu hàng sự điên loạn đó. Giờ đây cô phải là người mạnh mẽ. Chỉ cần thêm một chút thôi...
Cánh cửa chuồng. Khóa và xích. Cô đứng đó, nghe ngóng, nắm đấm ấn mạnh lên miệng cho tới khi cô cảm thấy răng cửa đau.
Ansel sẽ làm gì chứ? Liệu anh có mở cửa nếu như cô là người đang ngồi bên trong đó? Liệu anh có buộc mình phải đối mặt với cô?
Phải. Anh sẽ làm vậy.
Ann-Marie mở khóa bằng chìa đeo trên cổ. Cô gỡ dây xích dày, và lần này lùi tới vị trí mà cô biết rằng anh sẽ không thể nào với tới - xa hơn độ dài của dây xích gắn vào cọc xích chó - khi cánh cửa mở ra.
Một mùi hôi hám kinh khủng. Một mùi thối tới khó tin. Chỉ mùi đó thôi cũng đủ khiến cô roi nước mắt. Chính Ansel của cô đang ở trong đó.
Cô không thấy gì cả. Cô lắng nghe. Cô sẽ không bị dụ vào bên trong.
"Ansel?"
Cô gần như thì thào không ra hoi. Không có tiếng đáp lại.
"Ansel."
Một tiếng sục sạo. Tiếng di chuyển trên đất. Trời, tại sao cô lại không mang theo đèn pin chứ?
Cô rướn người về phía trước, chỉ vừa đủ để đẩy một cánh cửa mở rộng hon. Đủ để ánh trăng lọt thêm vào được một chút.
Anh đây rồi. Nằm trên cái giường đất, mặt anh ngước về phía cửa, đôi mắt trũng xuống và tràn đầy đau đón. Cô ngay lập tức nhận ra rằng anh đang hấp hối. Ansel của cô đang hấp hối. Cô nhớ tới lũ chó từng ngủ ở đây, Pap và Gertie, lũ chó giống Saint Bernard mà cô yêu quý còn hơn cả thú cưng bình thường, lũ chó mà anh đã giết và sẵn sàng thế chỗ... đúng vậy... để cứu lấy Ann-Marie và bọn trẻ.
Và rồi cô biết. Anh cần phải làm hại người khác để bản thân khỏe lại. Để sống.
Cô run rẩy dưới ánh trăng, đối mặt với con thú đau khổ mà chồng cô nay đã biến thành.
Anh muốn cô trao mình. Cô hiểu điều đó. Cô có thể cảm thấy nó.
Ansel bật ra một tiếng rên rỉ từ yết hầu, không ra hoi, như thể phát ra từ cái hốc dạ dày trống tron của anh.
Cô không thể làm vậy. Ann-Marie bật khóc khi cô đóng cửa chuồng trước mặt anh. Cô tì vai lên cánh cửa, nhốt anh lại bên trong như một cái xác sống không ra sống mà chết cũng chắng ra chết. Lúc này anh đã quá yếu để có thể tấn công cánh cửa. Cô chỉ nghe thấy một tiếng rên rỉ phản kháng.
Cô đang quấn vòng xích đầu tiên trở lại nắm cửa thì chợt nghe thấy tiếng bước chân trên mặt đất rải sỏi phía sau. Ann- Marie chết lặng, tưỏng tượng cảnh viên cảnh sát đó quay trở lại. Cô nghe thấy tiếng bước chân nữa, và cô quay lại.
Đó là một người đàn ông lớn tuổi hon, hói đầu, mặc áo sơ mi cổ Cling, cùng áo khoác len và quần nhung kẻ rộng. Hàng xóm của họ bên kia phố, người đã gọi cảnh sát: kẻ góa vợ, lão Otish. Đó là loại hàng xóm quét lá ra đường để chúng thổi bay vào vườn nhà ta. Một kẻ mà họ chẳng bao giờ nhìn thấy hay nghe đến, trừ khi có một sự cố nào đấy mà lão ngờ rằng họ hoặc con cái họ đã gây nên.
Lão Otish nói, "Lũ chó nhà cô ngày càng tìm ra nhiều cách sáng tạo để khiến tôi mất ngủ vào ban đêm."
Sự hiện diện của lão, như một cuộc đột nhập ma quái vào một con ác mộng, khiến Ann-Marie hoang mang. Lũ chó?
Lão đang nói về Ansel, những âm thanh anh gây ra vào ban đêm.
"Nếu vật nuôi nhà cô bị bệnh, cô cần đưa nó tới bác sĩ thú y để chữa hoặc để giết luôn đi."
Cô quá sốc không nói nên lời. Lão bước tới gần hon, từ đường vào gara bước tới rìa thảm cỏ sân sau, nhòm ngó cái chuồng với vẻ khinh khỉnh.
Một tiếng rền rĩ khàn khàn thoát ra từ bên trong.
Khuôn mặt lão Otish nhăn nhó kinh tỏm. "Cô phải làm gì với mấy con chó ghẻ này đi, bằng không tôi sẽ gọi cảnh sát lần nữa, ngay bây giờ."
"Không!" Nỗi sợ thốt ra trước khi cô kịp níu lại.
Lão cười, ngạc nhiên bởi thái độ run rẩy của cô, lão thích thú trước cảnh tượng có thể kiểm soát được cô. "Vậy thì cô tính làm gì?"
Cô mở miệng, nhưng chẳng thể nghĩ ra được gì. "Tôi... tôi sẽ chăm sóc nó... tôi không biết làm sao."
Lão nhìn về phía hiên sau, tọc mạch trước ánh đèn trong bếp. "Anh ta đang ở trong nhà phải không? Tôi muốn nói chuyện với anh ta."
Cô lắc đầu.
Một tiếng rên rỉ đau đón nữa lại thoát ra từ trong chuồng.
"Được thôi, tốt hơn hết là cô nên làm điều chết tiệt gì đó với thứ sinh vật bẩn thỉu kia đi - bằng không tôi sẽ làm đấy. Bất cứ ai lớn lên trong một trang trại cũng sẽ nói với cô, cô Barbour à, rằng chó là động vật giúp việc, chúng không cần cung phụng. Chúng tốt hơn hết nên quen với roi gậy hơn là vỗ về. Đặc biệt là cái giống vụng về như Samt Bernard."
Điều gì đó lão nói khiến cô chọt nhận ra. Điều gì đó về lũ chó của cô...
Roi gậy.
Toàn bộ lý do từ đầu khiến họ phải lắp đặt hệ thống xích và cọc trong chuồng là bởi Pap và Gertie đã chạy đi vài lần... và một lần, cách đây không lâu... Gertie, con chó đáng yêu và tin cậy, đã trở về nhà với lung và chân rách toạc...
... như thể ai đó đã đánh nó bằng gậy.
Một Ann-Marie Barbour vẫn thường nhút nhát và xa cách giờ đây quên sạch mọi sợ hãi. Cô nhìn lão - một con người quá nhỏ nhen và bẩn thỉu - như thể một tấm mạng che mặt vừa được nhấc lên khỏi tầm mắt cô.
"Ông," cô nói. Cằm cô run lên, không phải do e ngại nữa mà do giận dữ. "Chính ông đã làm điều đó. Với Gertie. Ông đã làm hại nó..."
Mắt lão nháy một lát, lão thường không quen bị đối chất và đồng thời bị vạch trần tội lỗi của mình.
"Giả như tôi có làm vậy," lão nói, lấy lại vẻ khinh khỉnh thông thường, "Tôi chắc là nó xứng đáng bị như vậy."
Nỗi căm thù bất chợt bừng nổ trong Ann-Marie. Tất cả những gì cô đã phải chịu đựng mấy ngày qua. Gửi bọn trẻ đi... chôn lũ chó đã chết... lo lắng về người chồng khổ sở...
“Cô bé," Ann-Marie nói.
"Gì cơ?"
“Cô bé. Gertie. Nó là một cô bé."
Một tiếng rên rỉ run run lại thoát ra từ chuồng.
Nhu cầu của Ansel. Con thèm khát của anh...
Cô lùi lại, run rẩy. Sợ hãi, không phải vì lão, mà vì cơn thịnh nộ mới của mình. "Ông muốn tự mình xem chứ?" Cô thấy mình lên tiếng.
"Cái gì vậy?"
Cái chuồng núp sau cô như thể một con thú. "Vậy thì, tự nhiên đi. Ông muốn được dạy bảo chúng chứ? Xem ông cồ thể làm gì nào."
Lão nhìn chằm chằm, căm phẫn. Bị thách thức bởi một mụ đàn bà. "Cô nghiêm túc đấy hả?"
"Ông muốn cải thiện tình hình à? Ông muốn thư thái và yên tĩnh à? ừ, tôi cũng vậy!" Cô gạt chút nước bọt dính trên cằm rồi chỉ ngón tay ướt của mình vào mặt lão. "Tôi cũng vậy!"
Lão Otish nhìn cô một lúc lâu. "Những người kia nói đúng," lão nói. "Cô bị điên."
Cô nở một nụ cười hoang dại, đồng tình với lão. Và lão bước tới chỗ một cành cây thấp trong vườn nhà họ. Lão kéo một cành cây mảnh, xoắn lại, rồi giật mạnh cho tới khi nó gãy ra. Lão thử nó, nghe những tiếng vút như lưỡi kiếm khi lão chém vào không khí, và, sau khi đã hài lòng, lão bước tới cánh cửa.
"Tôi muốn cô biết rằng," lão Otish nói, "tôi làm điều này là tốt cho cô hơn là cho tôi."
Ann-Marie run rấy khi quan sát lão gỡ dây xích trên tay nắm cửa chuồng. Cánh cửa bắt đầu mở ra, lão Otish đứng đủ gần tại lối vào đế dây xích gắn cọc có thể tới được chỗ lão.
"Nào," lão nói, "bọn súc vật đó đâu?"
Ann-Marie nghe thấy tiếng gầm gừ chẳng phải của con người, và dây xích chuyển động rất nhanh, nghe như tiêhg roi của những đồng xu. Rồi cánh cửa mở bung ra, lão Otish bước lên, và ngay lập tức tiếng thét kinh hãi của lão bị bịt lại. Cô chạy tới và ghì người lên cánh cửa, gắng sức đóng nó lại trong lúc lão Otish vùng vẫy đẩy ra. Cô quấn dây xích xuyên qua tay nắm cửa, gài khóa chặt... rồi chạy biến vào nhà, trốn khỏi cái chuồng đang rung bần bật ở sân sau và hành động nhẫn tâm mà cô vừa làm.
***
Mark Blessige đứng trong tiền sảnh nhà mình với chiếc BlackBerry trong tay, hoàn toàn mất phương hướng.
Không một tin nhắn nào từ cô vợ. Điện thoại cô ta vẫn đê trong chiếc túi Burberry, chiếc xe Volvo đỗ trên đường vào gara, còn chậu tắm cho bé nằm trên lối vào phòng khách. Chẳng để lại một ghi chú nào trên quầy bếp, chỉ một ly rượu uống dở để trên quầy. Patricia, Marcus và bé Jackie đều biến mất.
Anh kiểm tra gara, các xe hơi và xe đẩy đều ở đó. Anh kiểm tra lịch trên hành lang - chẳng có kế hoạch gì cho ngày hôm nay. Phải chăng cô ta khó chịu vì anh lại về muộn và quyết định trừng phạt một chút theo kiểu tránh đối đầu trực tiếp? Mark cố gắng xem ti vi và chờ đợi, nhưng rồi nhận ra rằng mình đang thực Sự lo lắng. Hai lần, anh định nhấc điện thoại để gọi cảnh sát, nhưng không nghĩ mình có thể chịu nổi những lời gièm pha vì có một chiếc xe cảnh sát tới nhà. Anh ra cửa trước và đứng trên bậc cầu thang gạch, ngó ra bãi cỏ và những luống hoa tươi tốt. Anh nhòm khắp phố, tự hỏi có phải họ đã ghé qua nhà hàng xóm - và rồi nhận ra hầu hết mọi nhà đều tối om. Chẳng một ánh đèn vàng ấm áp nào từ những cây đèn gia truyền đặt trên nóc tủ chén gỗ bóng. Chẳng một ánh đèn nào từ màn hình vi tính hay ti vi rọi qua lóp vải ren khâu tay.
Anh nhìn sang nhà Luss, ngay đối diện con phố. Một mặt tiền quý phái lộng lẫy cùng nền gạch trắng cổ kính. Bên đó cũng chẳng có ai ở nhà, hình như vậy. Phải chăng chuẩn bị xảy ra một thiên tai nào đó mà anh không hay biết? Phải chăng lệnh sơ tán đã được ban hành?
Và rồi anh thấy ai đó xuất hiện từ bụi cây cao tạo thành hàng rào trang trí giữa biệt thự nhà Luss và nhà Perry. Đó là một phụ nữ, và giữa lốm đốm bóng lá của cây vươn cao phía trên đầu, trông bà ta có vẻ lôi thôi. Bà ta đang ẵm trên tay thứ gì đó trông có vẻ như một đứa bé năm, sáu tuổi đang ngủ. Người phụ nữ này băng qua đường vào gara, khuất sau chiếc Lexus suv của gia đình Luss trong một chốc, và sau đó đi thẳng vào cửa bên, cạnh gara. Trước khi vào, bà ta quay đầu và nhìn thấy Mark đang đứng trên bậc thềm trước cửa nhà anh. Bà ta chẳng vẫy tay hay có vẻ gì là nhận ra anh, nhưng ánh nhìn của bà ta - dù chỉ thoáng qua - khiến anh lạnh buốt người.
Đó không phải Joan Luss, anh nhận thấy thế. Nhưng đó có thể là quản gia của họ.
Anh đợi ánh sáng bật lên bên trong căn nhà. Nhưng không có gì hết. Quá kỳ lạ, nhưng dù gì chăng nữa, anh cũng chưa bắt gặp bất cứ ai lảng vảng ngoài đường tối nay. Vì thế anh bắt đầu băng qua đường - ban đầu bước chậm theo lối dẫn vào nhà, tránh giẫm lên bãi cỏ - và sau đó, đút tay một cách thư thái vào túi quần, anh tiến thẳng tới cánh cửa bên cạnh gara đó.
Cánh cửa chống bão bên ngoài đóng, nhưng cửa trong thì mở. Thay vì bấm chuông, anh vui vẻ gõ khung cửa kính rồi bước vào, gọi, "Xin chào?" Anh băng qua tiền phòng lát gạch và bước vào bếp, ấn công tắc bật đèn. "Joan? Roger?"
Sàn nhà đầy những vết chân bẩn thỉu, rõ là vết chân đất. Một vài tủ và cạnh bàn bám những dấu tay bẩn đất. Những quả lê thối rữa trong một bát lưới trên quầy bếp.
"Có ai ở nhà không?"
Anh dám cá rằng Joan và Roger không có nhà, nhưng dù gì anh cũng muốn nói chuyện với bà quản gia. Bà ta sẽ không ba hoa khắp chốn rằng gia đình Blessige thậm chí chẳng biết lũ con của họ ở đâu, hay Mark Blessige chẳng thể để mắt trông coi cô vợ nghiện rượu của mình. Và nếu anh nhầm, và Joanie đang ở đây, vậy anh sẽ hỏi cô ta về gia đình anh, kiểu như đang vác vợt tennis trên vai ấy mà. Lũ trẻ náo nhiệt quá đỗi, sao mà có thể theo dõi chúng chứ? Và nếu anh có nghe thấy bất cứ ai nói bất cứ điều gì về lũ con bướng bỉnh của mình, anh sẽ gọi chuyện về đám nông dân chân đất nhà Luss rõ ràng đã chạy loạn trong bếp của họ.
"Mark Blessige bên kia đường đây. Có ai ở nhà không?"
Anh chưa từng tới nhà họ kể từ bữa tiệc sinh nhật thằng bé vào tháng Năm. Bố mẹ nó đã mua cho thằng bé một chiếc xe đua điện dành cho trẻ con, nhưng bởi nó không có một cái móc kéo xe giả - rõ ràng nó bị ám ảnh với móc kéo xe - nó đã lái chiếc xe đâm thẳng vào bàn đặt bánh ngay sau khi người giúp việc thuê mặc trang phục SpongeBob SquarePants vừa rót đầy nước hoa quả vào các cốc. "ừ thì," Roger đã nói, "ít nhất nó cũng biết rằng nó thích gì." Câu nói đó kéo theo một tràng cười gượng gạo và một đọt nước hoa quả mới.
Mark cúi đầu bước qua cánh cửa xoay, tiến vào phòng khách mà từ đó, qua những cửa sổ trước, anh có thể thấy khá rõ căn nhà của mình. Anh tận hưởng khung cảnh đó một lát, bởi chẳng mấy khi có thể được nhìn từ góc nhìn của một người hàng xóm. Ngôi nhà đẹp quá xá. Mặc dù thằng Mexico đần độn đó lại cắt tỉa bụi cây rào phía Tây không đều.
Tiếng bước chân vọng lên từ cầu thang tầng hầm. Không chỉ một người - thậm chí không chỉ vài người. "Xin chào?" anh nói, lấy làm băn khoăn về đám người chân đất đó, và chợt nhận ra có vẻ như mình đã tự nhiên quá mức trong căn nhà của người hàng xóm. "Xin chào. Mark Blessige bên kia đường đây." Không có tiếng trả lời. "Xin lỗi vì đã đột nhập như thế này, nhưng tôi chỉ đang tự hỏi..."
Anh đẩy ngược cánh cửa xoay và dừng bước. Phải đến một chục người đang đứng đối mặt anh. Hai trong số đó là trẻ con, vừa bước ra từ sau quầy bếp - cả hai đều không phải con anh. Mark nhận ra một vài khuôn mặt, mấy người cùng sống tại Bronxville, những người anh đã gặp tại Starbucks, ga tàu hoặc câu lạc bộ. Một trong số họ, Carole, là mẹ một đứa bạn của Marcus. Một người nữa là nhân viên giao hàng bên UPS, mặc áo sơ mi và quần soóc nâu của hãng. Một tập họp khá ngẫu nhiên cho một buổi gặp mặt. Trong số họ chẳng có lấy một người nhà Luss hay nhà Blessige.
"Tôi xin lỗi. Có phải tôi đang làm phiền...?"
Giờ anh mới thực sự nhìn họ, nước da và ánh mắt họ, khi họ nhìn chằm chằm vào anh chẳng nói một câu. Anh chưa từng bị ai nhìn như vậy. Anh cảm thấy sức nóng từ họ, một sức nóng chẳng liên quan gì tới ánh nhìn của họ.
Phía sau là bà quản gia. Trông bà ta hồng hào, nước da đỏ và đôi mắt trừng trừng màu đỏ tươi, và có một vết đỏ phía trước áo choàng của bà ta. Mái tóc bà ta khô, bết, quần áo và da bà ta thì chẳng thể bẩn thỉu hon, cứ như thể bà ta đã ngủ dưới đất vậy.
Mark hất chùm tóc trên trán cho khỏi chắn tầm mắt. Anh cảm thấy vai mình tựa vào cánh cửa xoay và nhận ra anh đang đi giật lùi. Những người kia tiến về phía anh, ngoại trừ bà quản gia, chỉ đứng và quan sát. Một đứa trẻ, thằng bé trông bồn chồn với đôi lông mày đen nhọn, bước lên một ngăn tủ mở để trèo lên quầy bếp, sao cho nó có thể đứng cao hơn tất cả những người khác một cái đầu. Từ mặt quầy đá hoa, nó chạy và nhảy bổ vào Mark Blessige, lúc này chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài đưa tay ra đón lấy nó. Miệng thằng bé há ra giữa lúc nó bật nhảy, và khi nó túm được vai Mark, vòi chích nhỏ bé của nó đã lời ra. Như đuôi một con bọ cạp, nó uốn cong lên trước khi bắn thẳng tói, chọc thủng cổ họng Mark. Nó cắt da và cơ, níu chặt lấy động mạch cảnh của anh, và cơn đau như một cái xiên nóng cắm nửa chừng vào cổ.
Anh ngã ngửa qua cánh cửa, đồ sầm xuống sàn, thằng bé vẫn bám chắc, thắt chặt cổ họng anh, ngồi giạng chân trên ngực anh. Và rồi nó bắt đầu kéo. Nó rút. Nó hút. Nó nốc cạn.
Mark gắng nói, gắng hét, nhưng âm thanh tắc nghẹn trong họng, và anh bị nghẹt. Anh tê liệt. Có gì đó trong mạch máu anh đã thay đổi - đã bị gián đoạn - và anh chẳng thể thốt ra một lời.
Ngực thằng bé tì lên ngực anh, và anh có thể cảm thấy nhịp đập yếu ót từ trái tim - hay cái gì đó - của nó. Khi máu trôi tuột khỏi cơ thể Mark, anh cảm thấy nhịp đập của thằng bé tăng vọt và trở nên mạnh mẽ hơn - bụp-bụp-bụp - nhanh như phi nước kiệu điên cuồng, gần như thể khoái lạc.
Vòi chích của thằng bé ứ máu khi nó ăn, và lòng trắng trong mắt nó, khi nó trừng trừng nhìn Mark, chuyển sang màu đỏ thẫm. Một cách thành thục, thằng bé luồn những ngón tay xương xấu qua mái tóc của Mark. Kẹp chặt con mồi của nó...
Những người khác xông qua cánh cửa, nhào vào nạn nhân, xé rách quần áo của anh. Khi những vòi chích của họ chọc xuyên qua da thịt anh, Mark cảm thấy một sự thay đối áp suất mới bên trong cơ thể, không dãn ra, mà là nén lại. Như xì hơi chân không, như một gói nước ép hoa quả bị hút kiệt.
Cùng lúc đó, một mùi hương chế ngự anh, lọt vào mũi và mắt anh, như một luồng khí amoniac. Anh cảm thấy nước bắn lên ngực mình, ấm, như thế món xúp vừa nấu, và đôi bàn tay anh đang víu lấy cơ thể con quỷ con chợt cảm thấy ẩm nóng. Thằng bé đái dầm, nó phóng uế lên Mark khi nó ăn - mặc dù chất thải này có vẻ như chất hóa học hơn là của con người.
Cơn đau khốn kiếp. Xuất hiện khắp mọi noi, đầu ngón tay, ngực, não. Áp suất thoát ra khỏi cổ họng anh, và Mark lửng lơ ở đó như một ngôi sao trắng sáng trong cơn đau hấp hối.
Neeva đẩy hé cửa, chỉ để chắc rằng lủ trẻ rốt cuộc cũng đã ngủ. Keene và Audrey Luss nằm trong hai túi ngủ trên sàn bên cạnh giường đứa cháu gái Narushta của bà. Lũ trẻ nhà Luss thường vẫn ngoan - dù gì thì, Neeva cũng là người trông nom duy nhất của bọn trẻ vào ban ngày kể từ khi Keene mới bốn tháng tuổi - nhưng đêm nay, cả hai đứa đều khóc. Chúng nhớ giường của mình. Chúng muốn biết khi nào chúng mới có thể về nhà, khi nào Neeva mới đưa chúng trở về. Sebastiane, cô con gái của Neeva, liên tục hỏi còn bao lâu nữa cảnh sát mới tới gõ cửa nhà họ. Nhưng cảnh sát không phải điều khiến Neeva lo ngại.
Sebastiane sinh ra tại Mỹ, được giáo dục trong trường học của Mỹ, và bị gán cho cái vẻ ngạo mạn của người Mỹ. Neeva đưa cô con gái của mình trở về Haiti mỗi năm một lần, nhưng với cô gái, nơi đó chẳng phải quê nhà. Cô từ chối đất nước cũ kĩ và phong cách cổ hủ của nó. Cô khước từ những kiến thức cổ xưa bởi những kiến thức mới quá ư bóng bẩy và rõ ràng. Nhưng Neeva gần như không thể chịu đựng nổi vì Sebastiane coi mẹ như thể một kẻ ngốc mê tín. Đặc biệt từ khi bà cứu hai đứa trẻ dẫu bị chiều hư nhưng vẫn còn hy vọng cứu chuộc này, chính hành động đó đã đặt những thành viên trong gia đình vào nguy hiểm.
Mặc dù bà là một tín đồ Thiên Chúa giáo La Mã, ông ngoại của Neeva lại là người theo tôn giáo Vodou, và là một bokor của làng, một dạng houngan, hay còn gọi là thầy tế - một số người gọi họ là phù thủy - những người làm phép thuật, cả phép thần lẫn ma thuật. Mặc dù ông được gọi là người mang ashe lớn (nắm giữ và sử dụng nhiều năng lưọng tâm linh), và thường vỗ vỗ vào các thứ bùa ngải hộ mệnh - tức là, lấy ra phần hồn của một vật thờ (một vật vô tri) - ông không bao giờ sử dụng loại ma thuật đen tối nhất, như là hồi sinh một xác chết, vực dậy một thây ma từ một xác chết đã mất phần hồn. Ông không bao giờ làm vậy bởi ông nói rằng ông quá tôn trọng thế giới tối bên kia, và việc vượt qua ranh giới địa ngục đó là một sự xúc phạm trực tiếp tới loa, hay các linh hồn của tôn giáo Vodou, là các thánh thần và thiên sứ đóng vai trò trung gian giữa con người và đấng Kiến tạo công minh. Nhưng ông đã tham dự những buổi tế lễ dạng như làm phép trừ tà ma tại những vùng hẻo lánh, uốn nắn sai lầm của các thầy tế Vodou khác, và bà đã đi cùng ông, và đã nhìn thấy khuôn mặt của thây ma.
Khi Joan khóa mình trong phòng của cô ta vào đêm đầu tiên - một phòng ngủ trang bị đồ đạc sang trọng đẹp như bất cứ phòng khách sạn nào Neeva đã từng dọn dẹp tại Manhattan khi bà mới tới đất Mỹ - và khi cuối cùng tiếng rên rỉ cũng chấm dứt, Neeva ngó vào kiểm tra cô ta. Đôi mắt cô ta trông chết chóc và mơ màng, tim cô ta đập thình thịch, những tấm ga trải giường bẩn ướt mồ hôi. Cô ta ho ra máu trắng lên gối. Neeva đã từng chăm sóc những người ốm và hấp hối tương tự, và bà biết, khi nhìn thấy Joan Luss như vậy, rằng cô chủ của bà không chỉ đơn giản chìm vào bệnh tật, mà vào cái ác. Đó là khi bà đưa lũ trẻ rời đi.
Neeva đi lại kiểm tra các cửa sổ một lần nữa. Họ sống ở tầng một trong căn nhà có ba hộ gia đình, và họ chỉ có thể nhìn ra phố và các nhà hàng xóm qua những song sắt. Những song sắt giúp chống trộm hiệu quả, nhưng Neeva không chắc có tác dụng với những gì vượt xa hơn thế hay không. Chiều hôm đó, bà đã đi loanh quanh bên ngoài căn nhà, thử giật mạnh những song sắt, và chúng có vẻ chắc chắn, cẩn thận hơn nữa, bà đã đóng chặt các khung cửa vào bậu cửa (mà không để Sebastiane biết, đỡ cho Neeva một bài giảng giải về an toàn cháy nổ), và rồi chắn tầm nhìn cửa sổ của bọn trẻ bằng một giá sách như một lóp rào chắn tạm thời. Bà cũng đã (khôn khéo không để ai biết) bôi tỏi lên các song sắt. Bà giữ lại một bình nước thánh từ nhà thờ, được cúng bởi các thầy tu trong giáo khu - mặc dù bà vẫn không quên cây thánh giá của bà đã vô dụng ra sao bên dưới tầng hầm nhà Luss.
Lo lắng nhưng tự tin, bà kéo tất cả các rèm cửa sổ và bật mọi đèn, rồi lấy ghế và ngồi xuống. Bà vẫn mang đôi giày đế cao màu đen (loại giày chỉnh hình dành cho người có lòng bàn chân đau) đề phòng trường họp bà cần chạy vội đâu đó, và phải sẵn sàng thức canh một đêm nữa. Bà bật ti vi nhỏ, chỉ để có bầu bạn. Nhưng nó lấy điện từ tường nhà nhiều hơn là lôi cuốn sự chú ý của Neeva.
Có lẽ bà phiền muộn hơn bà tưởng trước thái độ khinh thị của cô con gái. Đó là mối lo của mọi người dân nhập cư có những người con lớn lên và gắn bó với nền văn hóa đã nuôi dạy nó mà quên đi quê hương vốn có. Nhung nỗi sợ của Neeva còn cụ thể hơn thế: bà sợ rằng sự tự phụ của đứa con gái Mỹ hóa của bà rốt cuộc sẽ hại nó. Đối với Sebastiane, bóng tối của ban đêm chỉ là một sự bất tiện, một sự thiếu hụt ánh sáng, và nó sẽ biến mất ngay khi bạn ấn công tắc đèn. Ban đêm là khoảng thời gian rảnh rỗi dành cho nó, thời gian choi, thời gian thư giãn. Khi nó xõa tóc và quên đi cảnh giác. Đối với Neeva, điện tồn tại cũng chỉ như một lá bùa hộ mệnh chống lại bóng tối. Đêm là thực. Đêm không chỉ là sự thiếu hụt ánh sáng, mà thực tế, chính ban ngày mới là một quãng nghỉ ngắn trước bóng tối cận kề.
Một tiếng cào nhẹ khiến bà bừng tỉnh, cằm bà bật khỏi ngực, bà thấy ti vi đang phát quảng cáo một giẻ lau nhà bọt biển đồng thời cũng là một máy hút bụi. Bà cứng người lắng nghe. Đó là tiếng lách cách từ cửa trước. Ban đầu bà tưỏng Emile về nhà - cháu trai của bà lái taxi đêm - nhưng nếu nó lại quên chìa khóa, nó hẳn sẽ bấm chuông.
Ai đó đang ở ngoài cửa trước. Nhung họ không gõ cửa hay bấm chuông.
Neeva nhanh chống bật dậy. Bà rón rén xuống hành lang và đứng trước cửa, lắng nghe, chỉ có một tấm gỗ ngăn cách giữa bà và bất cứ ai - hay bất cứ thứ gì - đang đứng ngoài.
Bà cảm thấy một sự hiện diện. Bà tưỏng tưọng, nếu chạm tay vào cánh cửa - hiển nhiên bà sẽ không làm vậy - bà có thể cảm thấy hơi nóng.
Đó là một cánh cửa trước tron với một khóa chốt cố định, không ô kính nhìn ra ngoài, không ô cửa sổ trên tấm gỗ. Chỉ duy nhất một khe đút thư kiểu cổ nằm chính giữa bên dưới, cách sàn ba mươi phân.
Bản lề của khe đút thư cọt kẹt. Nắp lật bằng đồng nhúc nhích - và Neeva chạy vọt trở lại sảnh. Bà đứng đó một lát - choáng váng, sợ hãi - và rồi hộc tốc vào phòng tắm, tới sọt đựng đồ choi bồn tắm. Bà chộp lấy khẩu súng nước của đứa cháu và mở nắp lọ nước thánh, rót vào cái lỗ nhỏ xíu, bà đổ tràn ra ngoài khá nhiều trong lúc cố đổ đầy nòng súng nhựa.
Bà mang món đồ choi tới cánh cửa. Lúc này nó đã yên lặng, nhưng bà vẫn cảm thấy sự hiện diện đó. Bà vựng về quỳ trên đầu gối sưng phồng, chạm bít tất lên sàn gỗ thô Cling. Bà gần như có thể cảm thấy tiếng xì xào của bầu không khí mát lạnh ban đêm qua nắp lật bằng đồng - và bà trông thấy một cái bóng trên rìa khe.
Khẩu súng đồ choi có một vòi phun dài. Neeva không quên kéo ngược cơ cấu bom bên dưới để bồi áp suất, và rồi dùng đầu nòng súng kéo nắp lật lên. Khi bản lề kêu cọt kẹt, bà cho súng vào, đẩy vòi phim qua khe và bóp chặt cò súng.
Neeva nhắm bừa, trên, dưới, khắp hai bên, bắn nước thánh đi tứ phía. Bà tưởng tượng Joan Luss đang bị thiêu cháy, thứ nước giống như axit này đang ăn cơ thể cô ta như lưỡi kiếm vàng của Chúa - tuy nhiên, bà chẳng nghe thấy một tiếng khóc la nào.
Và rồi một bấn tay lọt qua khe hở. Nó tóm lấy nòng súng, cố gắng tước lấy nó. Neeva giật lại theo phản xạ, và bà có thể nhìn thấy rõ những ngón tay. Chúng bẩn thỉu hệt như những ngón tay của một kẻ đào mộ. Phần móng tay có màu đỏ máu. Nước thánh bắn lên da, nhưng chỉ làm nhòe đi lóp đất bẩn chứ chẳng hề thiêu đốt.
Chẳng có chút tác dựng nào.
Bàn tay đó vẫn giật mạnh nòng súng, níu chặt lấy nó bên trong khe đút thư. Lúc này Neeva nhận ra bàn tay đó đang muốn tóm lấy bà. Vì thếbà thả súng, bàn tay đó kéo và vặn cho tới khi món đồ choi bằng nhựa vỡ toác, bắn ra những giọt nước cuối cùng. Neeva bò bằng tay và mông, ra xa khỏi khe cửa, khi vị khách kia bắt đầu nện cửa. Cô ta ném cả trọng lượng cơ thể vào cửa, lạch cạch giật nắm đấm cửa. Bản lề run bần bật và bức tường bên cạnh rung lên, bức ảnh lồng khung người đàn ông và đứa trẻ đi săn roi khỏi đinh treo, lóp kính bảo vệ vỡ vụn. Neeva bò tới cuối hành lang ngắn. Vai bà va vào rổ đựng ô, bên trong có một cây gậy bóng chày, và Neeva chộp lấy nó, nắm chặt tay cầm dán băng dính đen, vẫn ngồi bệt dưới sàn.
Tấm gỗ vẫn vững chãi. Cánh cửa cũ rích mà bà vẫn căm ghét bởi nó phồng lên và dính chặt vào khung cửa dưới cái nóng mùa hè, giờ đây đủ chắc chắn để chống chọi những cú đánh, cái khóa chốt và thậm chí tay nắm sắt nhẵn nhụi cũng vậy. Sự hiện diện phía sau cánh cửa rốt cuộc cũng trở nên yên ắng. Có lẽ nó đã rời đi hẳn rồi cũng nên.
Neeva nhìn vào vũng nước mắt của Chúa trên sàn. Chỉ khi sức mạnh của Chúa không giúp được ta, ta mới biết mình đen đủi đến chừng nào.
Đợi cho tới sáng. Đó là tất cả những gì bà có thế làm.
"Neeva?"
Keene, thằng bé con nhà Luss, đứng đằng sau bà, mặc quần thụng cùng áo phông. Neeva di chuyến nhanh hơn mức bà có thể tưởng tượng, bịt chặt bàn tay lên miệng thằng bé và kéo nó ra chỗ góc nhà. Neeva đứng đó, lưng dựa tường, ôm thằng bé trong vòng tay.
Liệu thứ ngoài cửa có nghe thấy tiếng đứa con trai của nó? Neeva cố gắng nghe ngóng. Thằng bé vùng vẫy, cố gắng nói. “ĩm lặng đi con."
Và rồi bà nghe thấy nó. Lại tiếng cọt kẹt đó. Bà níu đứa bé chặt hơn nữa khi bà nghiêng người sang trái, đánh liều nhìn qua chỗ góc nhà.
Một ngón tay bẩn thỉu đấy nắp khe đút thư lên. Neeva rụt trở lại góc nhà, nhưng bà đã kịp thấy một cặp mắt đỏ rực đang nhòm vào.
Quản lý của Gabriel Bolivar, Rudy Wain, bắt taxi tạt qua căn nhà anh ta trên phố Hudson sau bữa tối muộn chỗ ngài Chow cùng những người bên công ty âm nhạc BMG. Anh vẫn chưa liên lạc được với Gabe qua điện thoại, nhưng bắt đầu có những lời đồn về tình trạng súc khỏe của anh ta sau vụ chuyến bay 753, cùng một hình chụp trộm anh ta đang ngồi xe lăn, và Rudy cần phải xem tận mắt. Khi Rudy tới trước cửa căn nhà trên phố Vestry, anh không thấy bất cứ tay săn ảnh nào, chỉ có một vài tan có vẻ phê thuốc đang ngồi hút quanh vỉa hè.
Họ đứng dậy như thể đã chờ sẵn khi Rudy bước lên những bậc thang dẫn vào cửa trước. "Chuyện gì thế?" Rudy hỏi.
"Chúng tôi nghe nói anh ấy cho người vào."
Rudy ngước thẳng lên, nhưng chẳng có bất cứ ánh đèn nào trong ngôi biệt thự hai căn, thậm chí trên gác mái. "Có vẻ như bữa tiệc đã kết thúc rồi."
"Đó không phải bữa tiệc," một thằng nhóc mập có những dây cao su nhiều màu treo trên một đinh ghim đâm xuyên qua má nói. "Anh ấy còn cho cả bọn săn ảnh vào."
Rudy nhún vai và nhập mã khóa cửa, bước vào, rồi đóng sầm cửa phía sau. ít nhất Gabe cũng đã cảm thấy khá hon. Rudy tiến vào, ngang qua đôi báo cẩm thạch đen, tới bên trong tiền sảnh tối tăm. Đèn thi công đều tắt sạch, các công tắc đèn thì vẫn chưa nối vào đâu hết. Rudy nghĩ ngọi một lát, rồi rút chiếc BlackBerry của mình ra, chuyển màn hình hiển thị sang chế độ LUÔN BẬT. Anh chiếu ánh đèn xanh xung quanh, và nhận ra tại chân bức tượng thiên thần có cánh cạnh cầu thang chất hàng đống máy ảnh SLR và máy quay kỹ thuật số cao cấp, vũ khí của bọn săn ảnh. Tất cả chồng đống lên như thể mớ giày dép bên ngoài một bể boi.
"Xin chào?"
Giọng anh vọng lại yếu ớt khắp vài tầng dưới chưa hoàn thiện. Rudy bắt đầu bước lên cầu thang cẩm thạch xoắn, lần theo ánh đèn xanh lam của chiếc BlackBerry. Anh cần động viên Gabe cho show diễn Roseland tuần tói, và có vài lịch diễn lắt nhắt tại Mỹ gần lễ Halloween cần phải chuẩn bị.
Anh lên tới tầng trên cùng, phòng ngủ của Bolivar, và tất cả các đèn đều tắt.
"Ê, Gabe? Tôi đây, anh bạn. Đừng buộc tôi phải tự tiện bước vào chứ."
Quá yên ắng. Anh đẩy cửa tiến vào phòng ngủ, quét ánh đèn điện thoại quanh căn phòng, thấy tấm ga trải giường lật tung nhưng chẳng hề thấy Gabe say xỉn đâu hết. Có khi đang vật vờ ngoài kia như thường lệ. Anh ta không có ở đây.
Rudy tạt vào phòng tắm chính để đi tiểu. Ở đó có một lọ
Vicodin kê đon mở nắp trên quầy và một ly cocktail pha lê nồng mùi rượu. Rudy cân nhắc một lát, rồi quyết định lấy hai viên Vicodin, anh rửa ly trong bồn rửa và uống hai viên thuốc cùng nước vòi.
Khi đang đặt lại chiếc ly lên quầy, anh chọt phát hiện động tĩnh đâu đó phía sau. Anh lập tức quay người, và đó là Gabe, đang bước ra từ bóng tối tiến vào phòng tắm. Bức tường ốp gương hai bên khiến trồng như có tới hàng trăm anh ta.
"Gabe, Chúa ơi, anh khiến tôi phát khiếp," Rudy nói. Nụ cười vui vẻ của anh tắt ngúm khi Gabe cứ đứng đó nhìn anh chằm chằm. Anh sáng xanh từ điện thoại lờ mờ và không chiếu thẳng, nhưng da Gabe trông tối, đôi mắt anh ta nhuốm đỏ. Anh ta khoác áo choàng đen mặc trong nhà, dài tới đầu gối, không mang áo sơ mi bên trong. Tay anh ta buông thõng, chẳng có vẻ gì là chào đón người quản lý của mình. "Có chuyện gì vậy, anh bạn?" Đôi bàn tay và ngực anh ta bẩn thỉu. "Anh đã dành cả tối bên trong thùng than hả?"
Gabe chỉ đứng đó, những hình ảnh phản chiếu qua gương nhiều tới vô tận.
"Anh hôi quá, anh bạn," Rudy nói, tay bịt mũi. "Anh có chuyện quái gì vậy?" Rudy cảm thấy sức nóng kỳ lạ từ Gabe. Anh giơ điện thoại gần mặt Gabe hơn. Mắt anh ta vô hồn dưới ánh sáng. "Anh bạn à, anh giữ lóp trang điểm quá lâu rồi đấy."
Vicodin bắt đầu phát tác. Cả căn phòng, cùng những gương chiếu mặt, dãn ra như một chiếc đàn accordion mở. Rudy di chuyển ánh sáng điện thoại, và cả phòng tắm trở nên lung linh.
"Này, anh bạn," Rudy nói, mất bình tĩnh bởi thái độ tình bơ của Gabe, "nếu anh đang phiêu du, tôi có thể quay lại sau."
Anh định lách sang bên trái Gabe, nhưng Gabe không tránh ra. Anh thử lại lần nữa, nhưng Gabe vẫn không tránh đường. Rudy lùi lại, chiếu ánh đèn điện thoại vào khách hàng lâu năm của mình. "Gabe, anh bạn, chuyện gì...?"
Bolivar mở áo choàng, dang rộng cánh tay, như một đôi cánh, để quần áo roi tuột xuống sàn.
Rudy há hốc. Cơ thể Gabe xám ngoét và hốc hác từ đầu đến chân, nhưng thứ thực sự khiến anh choáng váng là vùng háng của Gabe.
Không lông, phắng mịn như búp bê, và không có cơ quan sinh dục.
Bàn tay Gabe bịt chặt miệng Rudy. Rudy bắt đầu vùng vẫy, nhưng đã quá muộn. Rudy thấy Gabe cười toét miệng - và rồi, nụ cười ấy tắt ngúm, một thứ gì đó trông như một cái roi quằn quại bên trong miệng anh ta. Dưới thứ ánh sáng xanh rung bần bật từ điện thoại - khi anh đang điên cuồng mò mẫm nút 9,1 và 1 - anh thấy một vòi chích thò ra. Những cơ quan vô định hình phồng lên và xẹp xuống dọc hai bên vòi chích, trông như hai bọc thịt lỗ chỗ, xung quanh rìa là những lỗ hở trông như mang cá xòe ra cụp vào.
Rudy nhìn thấy tất cả chỉ trong một thoáng trước khi nó bắn vào cổ anh. Điện thoại anh roi xuống sàn phòng tắm bên dưới đôi chân đang vùng vẫy mà chắng kịp bấm nút GỨI.
Cô bé Jeanie Millsome chín tuổi chắng hề thấy mệt mỏi trên đường về nhà cùng mẹ. Xem Nàng tiên cá tại Broadway quả thực tuyệt vòi, con bé tin rằng nó chưa từng tỉnh táo đến như vậy trong đòi. Giờ đây nó đã thực sự biết mình muốn làm gì khi trưởng thành. Không phải giáo viên dạy ba lê ở trường nữa (sau khi Cindy Veeley bị gãy hai ngón chân khi nhảy). Không phải huấn luyện viên Olympic nữa (nhảy ngựa quá đáng sợ). Con bé sẽ trở thành (cho xin mấy nhịp trống nào...) một diễn viên Broadway! Và con bé sẽ nhuộm tóc màu đỏ san hô và diễn Nàng tiên cá trong vai chính Ariel, sau cùng, khi hạ màn, nó sẽ nhún đầu gối cúi chào một cách duyên dáng nhất mọi thời đại. Và sau tràng vỗ tay ầm ầm như sấm nổ, nó sẽ chào đón những fan kịch nghệ trẻ tuổi của mình sau buổi diễn, ký tặng vào tất cả những tờ chương trình của họ, rồi mỉm cười chụp hình điện thoại cùng họ - sau đó, vào một buổi tối thật đặc biệt, nó sẽ chọn ra một cô bé chín tuổi lễ phép và chân thành nhất trong số khán giả, mòi cô bé làm người đóng thế cho mình và làm bạn thân mãi mãi.
Mẹ sẽ làm nhà tạo mẫu tóc cho nó, và bố sẽ trở thành người quản lý, giống như bố của Hannah Montana vậy. Và Justin... ừ thì, Justin có thể cứ ở nhà và là chính mình.
Và con bé ngồi đó, tay chống cằm, quay đầu trên ghế ngồi trong tuyến xe điện ngầm hướng về phía Nam, bên dưới thành phố. Con bé nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ, nhìn thấy ánh sáng của toa phía sau, nhưng đôi khi những ánh sáng đó lập lòe, và trong một thoáng chớp đen đó, con bé nhận ra mình đang nhìn ra một khoảng trống nơi đường hầm này nối tiếp đường hầm kia. Và rồi nó thấy một thứ gì đó. Chỉ như một hình ảnh lòe lên trong tiềm thức, như thể một khung hình nhiễu loạn lọt trong một thước phim tẻ nhạt. Nó nhanh đến nỗi tầm trí tỉnh táo của một cô bé chín tuổi chẳng thể nào xử lý kịp, cái hình ảnh mà con bé chẳng hiểu nổi. Nó thậm chí chẳng thể giải thích tại sao mình lại khóc, khiến bà mẹ đang gật gà gật gù bật dậy. Trông cô thật đẹp trong bộ áo choàng và váy đi xem hát bên cạnh con bé, cô an ủi nó, cố gắng dỗ nó nói ra điều gì đã khiến nó khóc nức nở. Jeanie chỉ có thể chỉ ra cửa sổ. Và suốt chặng đường về nhà còn lại, nó cuộn mình trong vòng tay mẹ.
Thế nhung, Chúa Tể đã nhìn thấy nó. Chúa Tể thấy tất cả. Ngay cả khi - đặc biệt là khi - đang hút máu. Khả năng nhìn trong đêm tối của hắn phi thường, gần như kính thiên văn vậy, trong mọi mức tối khác nhau, và có thể ghi nhận được nguồn nhiệt trong nhũng dải quang phổ trắng sáng.
Xong xuôi, dù chưa thực sự thỏa mãn - không bao giờ thỏa mãn - hắn để con mồi yếu ớt trượt xuống khỏi cơ thể mình, đôi bàn tay khổng lồ của hắn thả con người vừa biến đổi xuống mặt sàn sỏi. Nhũng đường hầm xung quanh xào xạc gió, làm phất phơ tấm áo choàng đen của hắn. Tàu rú inh ỏi phía xa, sắt đụng thép, như tiếng thét của thế giới khi đột ngột nhận ra sự hiện diện của hắn.
Lộ Diện
Trụ sở canary
Đại lộ 11 và phố 27
Vào buổi sáng thứ ba sau khi chuyến bay 753 hạ cánh, Eph đưa Setrakian tới trụ sở văn phòng dự án CDC Canary tại bờ Tây Chelsea, cách Hudson một dãy nhà về phía Đông. Trước khi Eph bắt đầu tham gia Canary, văn phòng ba tầng này được dành cho Chương trình Sàng lọc Y khoa Dành cho Công nhân và Tình nguyện viên tại Trung tâm Thương mại Thế giới của CDC, điều tra những mối liên hệ giữa nỗ lực phục hồi sau 11 tháng Chín và các bệnh dai dẳng về hô hấp.
Eph cảm thấy nhẹ nhõm hẳn khi họ đỗ xe tại đại lộ 11. Hai xe cảnh sát và một cặp xe hơi mui kín không đánh dấu thuộc tổ chức nào, với biển xe chính phủ, đang đỗ bên ngoài lối vào. Cuối cùng thì Giám đốc Bames cũng đã vào cuộc. Họ sẽ có được sự trợ giúp cần thiết. Bởi chẳng có cách nào Eph, Nora và Setrakian có thể đon độc chiến đấu với tai họa này.
Khi họ tới đó, cánh cửa văn phòng tầng ba đang mở, và Bames đang hội ý với một người mặc thường phục tự xưng là mật vụ FBI. "Everett," Eph nói, anh cảm thấy thật nhẹ nhõm khi thấy ông đích thân vào cuộc. "Thật đúng lúc. Đúng người tôi đang cần gặp." Anh tiến tới một tủ lạnh nhỏ gần cửa. Những ống nghiệm kêu leng keng khi anh lôi ra một chai sữa tươi nguyên chất một lít, mở nắp và tu vội. Anh cần canxi hệt như cần rượu trước kia. Anh nhận ra con người ta thay đổi những thứ mình lệ thuộc. Ví dụ, chỉ ngay tuần trước thôi, Eph lệ thuộc hoàn toàn vào luật lệ của khoa học và tự nhiên. Còn giờ đây, anh chỉ tập trung vào kiếm bạc và đèn tử ngoại.
Anh bỏ chai sữa đã cạn nửa ra khỏi miệng, nhận ra rằng mình vừa mới thỏa con khát bằng sản phẩm của một loài động vật có vú khác.
"Ai đây?" Giám đốc Bames hỏi.
"Đây là," Eph nói, lau sạch phần ria dính sữa ở môi trên, "Giáo sư Abraham Setrakian." Setrakian đang cầm mũ, mái tóc trắng sáng lên dưới ánh đèn trần thấp. "Quá nhiều thứ đã xảy ra, Everett," Eph nói, uống thêm sữa, dập tắt ngọn lửa cồn cào trong dạ dày. "Tôi thậm chí chẳng biết mình nên bắt đầu từ đâu."
Bames nói, "Sao ta không bắt đầu với những thi thể mất tích khỏi nhà xác thành phố đi."
Eph hạ chai sữa xuống. Một trong mấy viên cảnh sát đã lách đến gần cánh cửa phía sau anh. Một nhân viên FBI khác đang ngồi trước máy tính xách tay của Eph, gõ bàn phím. "Ê, này," Eph lên tiếng.
Barnes nói, "Ephraim, anh biết gì về những xác chết bị mất tích?"
Trong một thoáng, Eph cố gắng đọc biểu cảm trên khuôn mặt vị giám đốc CDC. Anh ngoái lại nhìn Setrakian, nhưng ông lão chẳng tỏ thái độ gì, vẫn đứng thẳng với cái mũ trong bàn tay xương xẩu.
Eph quay lại với sếp của mình. "Họ đã về nhà."
"Về nhà?" Bames nói, quay đầu như thể cố gắng nghe cho rõ hon. "Về thiên đàng hả?"
"Về với gia đình họ, Everett."
Bames quay sang nhìn đặc vụ FBI, lúc này cũng đang nhìn chằm chằm Eph.
"Họ đã chết," Bames nói.
"Họ chưa chết. Hay ít nhất, chưa chết theo cái cách mà ta vẫn hiểu."
"Chỉ có một cách chết thôi, Ephraim."
Eph lắc đầu. "Giờ thì không phải vậy nữa rồi."
"Ephraim." Bames bước lên một bước, tỏ vẻ thông cảm. "Tôi hiểu gần đây anh đã chịu khá nhiều áp lực. Tôi cũng biết rằng anh có rắc rối gia đình..."
Eph nói, "Đợi đã. Tôi không nghĩ mình hiểu chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây."
Đặc vụ FBI nói, "Đó là về bệnh nhân của anh, bác sĩ ạ. Một trong những phi công trong chuyến bay 753 của Regis Air, cơ trưởng Doyle Redfern. Chúng tôi có một vài câu hỏi về tình trạng của anh ta."
Eph giấu con rùng mình. "Hãy lấy lệnh của tòa án, rồi tôi sẽ trả lời các câu hỏi của anh."
"Có lẽ anh sẽ muốn giải thích cho chuyện này."
Anh ta mở một máy xem video cầm tay trên góc bàn và nhấn nút chạy Video. Đoạn video từ một góc camera an ninh của một phòng bệnh. Redfern được ghi hình từ phía sau, đang loạng choạng, bộ trang phục bệnh viện hở phần lưng. Anh ta có vẻ đã bị thương và hoang mang thay vì vẻ giết chóc và hung dữ. Góc camera này không cho thấy vòi chích ngoe nguẩy từ mồm anh ta.
Tuy nhiên, nó cho thấy Eph đã cầm một khoan trephine đang xoay tít đối mặt với anh ta, rồi chém vào cổ Redfern bằng lưỡi dao quay.
Chợt video nhảy sang cảnh khác, và giờ đây Nora đang đứng phía sau, tay bịt miệng trong lúc Eph đứng bên cánh cửa, ngực phập phồng, còn Redfern nằm một đống trên sàn.
Và rồi một cảnh nữa. Một camera khác xa hon, trên cùng hành lang tầng hầm đó, đặt ở góc cao hon. Nó cho thấy hai người, một đàn ông và một phụ nữ, đột nhập vào nhà xác đang khóa nơi lưu giữ thi thể Redfern. Rồi nó cho thấy họ rời đi cùng một túi xác nặng.
Hai người này trông rất giống Eph và Nora.
Video dừng. Eph nhìn Nora - cô đang sốc - và rồi nhìn đặc vụ FBI và Bames. "Đó là... vụ tấn công đó đã bị chỉnh sửa cho trông thật tồi tệ. Có một đoạn bị cắt. Redfern đã..."
"Xác cơ trưởng Redfern đâu?"
Eph chẳng thể nghĩ gì. Anh chẳng thể chịu nổi sự dối trá vừa được chứng kiến. "Đó không phải chứng tôi. Camera đặt quá cao không thể..."
"Vậy anh đang nói rằng đó không phải anh và bác sĩ Martinez ư?"
Eph nhìn Nora, cô đang lắc đầu, cả hai đều quá hoang mang không thể lập tức thốt lên một lời biện hộ họp lý nào.
Bames nói, "Để tôi hỏi anh một lần nữa. Ephraim. Những thi thể mất tích khỏi nhà xác đang ở đâu?"
Eph ngoái nhìn Setrakian, lúc này đang đứng cạnh cửa. Rồi nhìn Bames. Anh chẳng thể nghĩ ra bất cứ gì để lên tiếng.
"Ephraim, tôi sẽ cho đóng cửa Canary. Ngay lúc này."
"Gì chứ?" Eph nói, chợt bừng tỉnh. "Đợi đã, Everett..."
Eph bước vội về phía Bames. Mấy gã cảnh sát sấn tới anh như thể anh là kẻ nguy hiểm, phản ứng của họ khiến anh phải dừng lại, làm anh thêm lo sợ.
"Bác sĩ Goodweather, anh cần đi với chúng tôi," đặc vụ FBI lên tiếng. "Tất cả các người... này!"
Eph quay lại. Setrakian đã biến mất.
Viên đặc vụ cử hai cảnh sát đi bắt ông.
Eph quay lại nhìn Barnes. "Everett. Ông biết tôi mà. Ông biết tôi là ai. Hãy lắng nghe những điều tôi chuẩn bị nói. Có một dịch bệnh đang lây lan khắp thành phố này - một tai họa khác với tất cả những gì ta đã từng thấy."
Gã đặc vụ FBI nói, "Bác sĩ Goodweather, chứng tôi muốn biết anh đã tiêm gì vào người Jim Kent."
"Tôi đã làm... gì cơ?"
Bames nói, "Ephraim, tôi đã thỏa thuận với họ. Họ sẽ bỏ qua Nora nếu anh đồng ý họp tác. Tránh cho cô ấy khỏi tai tiêhg bị bắt giữ và giữ gìn danh dự nghề nghiệp cho cô ấy. Tôi biết rằng hai người... rất gần gũi nhau."
"Và nói cho chính xác thì làm sao các ông biết chuyện đó?" Eph nhìn quanh những kẻ đang khủng bố mình, chuyển từ hoang mang sang giận dữ. "Chết tiệt thật, Everett."
"Video cho thấy anh đã tấn công và giết chết một bệnh nhân, Ephraim. Anh đang đưa ra những kết quả phân tích hư cấu, không thể giải thích bằng bất cứ phép đo họp lý nào, chúng không thể chứng minh và gần như chắc chắn là được ngụy tạo bằng thủ thuật nghề nghiệp. Liệu tôi có ở đây không nếu tôi được lựa chọn? Nếu anh được lựa chọn?"
Eph quay sang Nora. Cô có thể được tha. Cô cũng có thể tiếp tục chiến đấu.
Barnes nói đúng. ít nhất là trong lúc này, trong một căn phòng đầy những con người thi hành pháp luật, anh không có lựa chọn.
"Đừng khiến việc này làm em chậm chân," Eph nói với Nora. "Em có lẽ là người cuối' cùng còn lại biết được điều gì đang thực sự xảy ra."
Nora lắc đầu. Cô quay sang Bames. "Thưa ngài, ở đây đang có một âm mưu, bất kể ngài có tự nguyện tham gia vào âm mưu đó hay không..."
"Xin cô, bác sĩ Martinez," Bames nói. "Đừng tự gây thêm rắc rối cho bản thân nữa."
Đặc vụ kia đóng gói máy tính xách tay của Eph và Nora. Họ đưa Eph xuống cầu thang.
Tại sảnh tầng hai, họ bắt gặp hai cảnh sát vừa đuổi theo sau Setrakian. Họ đang đứng kề nhau, gần như lưng đấu lưng. Tay còng vào nhau.
Setrakian xuất hiện từ phía sau, kiếm đã rút ra. Ông chĩa mũi kiếm trước cổ đặc vụ FBI dẫn đầu. Một con dao găm nhỏ hơn trong tay còn lại, cũng bằng bạc. Ông chĩa con dao kề cổ họng Giám đốc Bames.
Vị giáo sư già nói, "Các quý ông đây chính là những con tốt trong một âm mưu vượt ra khỏi tầm hiểu biết của chính các vị. Bác sĩ, cầm lấy con dao này."
Eph nắm lấy tay cầm của món vũ khí, giữ mũi dao kề cổ họng ông sếp.
Barnes hổn hển, "Chúa nhân từ, Ephraim. Anh mất trí rồi sao?"
"Everett, chuyện này vượt quá tầm những gì ông biết. Nó vượt ra khỏi CDC - thậm chí vượt ra khỏi hệ thống thực thi pháp luật thông thường. Có một dịch bệnh khủng khiếp đang lây lan trong thành phố này, và ta chưa từng gặp phải bất cứ gì giống như vậy. Và đó mới chỉ là một nửa thôi."
Nora bước tới bên anh, lấy lại máy tính xách tay của cô và Ephraim từ đặc vụ FBI kia. Cô nói, "Tôi đã có tất cả những gì chúng tôi cần từ văn phòng. Có vẻ như chúng tôi sẽ không quay trở lại nữa."
Bames nói, "Vì Chúa, Ephraim, hãy bình thường lại đi."
"Đây chính là công việc mà ông thuê tôi làm, Everett. Báo động mỗi khi khủng hoảng sức khỏe cộng đồng xảy ra. Chúng ta đang trên bờ vực của một đại dịch toàn cầu. Một sự kiện diệt vong. Và một ai đó ở đâu đó đang làm đủ mọi cách để nó xảy ra."
Tập đoàn Stoneheart, Manhattan
ELDRITCH PALMER bật một dãy màn hình, phát sáu kênh tin tức truyền hình khác nhau. Chương trình ở màn hình góc dưới bên trái khiến ông ta quan tâm nhất. Ông ta chỉnh ghế hếch lên vài độ và tách riêng kênh đó, tăng âm lượng.
Phóng viên được cử tới bên ngoài trụ sở cảnh sát số 17 trên phố 51 Đông chỉ nhận được câu trả lời "Không có bình luận gì" từ một sĩ quan cảnh sát về việc có vô vàn báo cáo về những người mất tích khắp khu vực New York vài ngày nay. Các màn hình cho thấy một hàng người chờ đợi bên ngoài sở cảnh sát, quá nhiều người để có thể được cho vào trong, họ đang điền những tờ đon trên vỉa hè. Phóng viên đó cho biết nhiều vụ việc có vẻ khó hiểu khác cũng được báo cáo, ví dụ vài vụ đột nhập vào nhà mà dường như không có gì bị mất trộm và cũng dường như không có ai ở nhà. Kỳ lạ nhất là không thể sử dụng công nghệ hiện đại để hỗ trợ tìm kiếm những người mất tích: điện thoại di động, gần như tất cả đều có GPS theo dõi, cũng mất tích chung với chủ nhân của chúng. Điều này khiến một số người đặt ra giả thuyết rằng những người mất tích có lẽ đã có ý định rời bỏ gia đình và cộng việc, và sự gia tăng đột biến những vụ mất tích này có vẻ trùng họp với hiện tượng nhật thực gần đây, ám chỉ một mối liên hệ giữa hai sự kiện này. Một nhà tâm lý học sau đó đã bình luận về khả năng xảy ra hội chứng cuồng tập thể quy mô thấp sau sự kiện thiên văn đáng sợ. Câu chuyện kết thúc khi một phóng viên cho lên sóng một phụ nữ khóc lóc cầm trên tay bức chân dung một bà mẹ hai con mất tích chụp tại Studio JCPenney.
Sau đó, chương trình chuyển sang quảng cáo một loại kem "chống lão hóa" nhằm "giúp bạn sống lâu hơn và khỏe hon".
Ông trùm tư bản ốm yếu bẩm sinh tắt tiếng, và giờ, âm thanh duy nhất còn lại, ngoài tiếng máy thẩm tách máu, chỉ là tiếng khùng khục phía sau nụ cười tham lam của ông ta.
Trên một màn hình khác, một đồ thị cho thấy thị trường tài chính đang giảm sút khi đồng đô la tiếp tục mất giá. Chính Palmer đang điều khiển thị trường bằng cách kiên định từ bỏ cổ phần của mình và đầu tư vào kim loại: vàng, bạc, palađi và platin.
Người dẫn chương trình chuyển sang khuyến cáo rằng tình trạng khủng hoảng gần đây sẽ mở ra cơ hội giao dịch tốt trong tương lai. Palmer rất không đồng ý. Ông ta đang rút ngắn tương lai. Tương lai của tất cả mọi người, ngoại trừ ông ta.
Một cuộc điện thoại được Fitzwilliam chuyển tiếp tới ghế của ông ta. Một thành viên thân tín từ Cục Điều tra Liên bang gọi tới để thông báo bác sĩ dịch tễ của dự án Canary, bác sĩ Ephraim Goodweather, đã trốn thoát.
"Trốn thoát ư?" Palmer nói. "Làm sao có thể như vậy?"
"Anh ta đi cùng một lão già,.anh ta ranh ma hơn vẻ bề ngoài nhiều. Ông ta mang theo một thanh kiếm bạc dài."
Palmer im lặng, hít một hơi thật sâu. Và rồi, từ tốn, ông ta mùn cười.
Các thế lực đang chống lại ông ta. Được thôi. Hãy để chúng họp lại. Sẽ dễ dàng hơn khi diệt trừ cả thể.
"Thưa ngài?" người gọi lên tiếng.
"Ô - không có gì," Palmer nói. "Tôi chỉ vừa nghĩ về một hgười bạn cũ."
Cửa hàng Cho Vay và Đồ Cổ Knickerbocker,
phố 118 Đông, Spanish Harlem
EPH VÀ NORA đứng cùng Setrakian phía sau những cánh cửa khóa kín của tiệm cầm đồ, hai bác sĩ dịch tễ vẫn còn run.
"Tôi đã cho họ biết tên ông," Eph nói, nhìn ra cửa sổ.
"Căn nhà này lấy tên người vợ đã mất của tôi. Chúng ta sẽ an toàn ở đây một thời gian."
Setrakian nóng lòng muốn xuống kho vũ khí dưới tầng hầm, nhưng hai vị bác sĩ vẫn vô cùng lo lắng. "Họ đang đuổi theo chúng ta," Eph nói.
"Họ đang mở đường cho sự lây nhiễm," Setrakian nói. "Dịch bệnh sẽ lan nhanh trong một xã hội trật tự hơn là một xã hội đề cao cảnh giác."
"Họ là ai?" Nora nói.
"Bất kỳ ai có đủ thế lực giúp mang cỗ quan tài đó lên một chuyến bay vượt Đại Tây Dương trong thời kỳ của khủng bố này," Setrakian nói.
Eph nói, rảo bước, "Họ đang gài bẫy chúng tôi. Cử ai đó vào lấy cắp thi thể Redfern... ai đó trông giống chúng tôi?"
"Như anh đã nói, anh là người có thẩm quyền chính trong việc cảnh báo và kiểm soát bệnh dịch. Hãy mừng vì họ chỉ tìm cách khiến anh mất uy tín."
Nora nói, "Không có CDC đứng sau, chúng tôi chẳng còn thẩm quyền gì nữa."
Setrakian nói, "Giờ chúng ta phải tự mình tiếp tục thôi. Đây chính là kiểm soát bệnh dịch ở mức độ cơ bản nhất."
Nora nhìn chằm chằm ông. "Ý ông là... giết người."
"Cô muốn gì chứ? Muốn trở thành như vậy... hay muốn ai đó sẽ giải thoát cho cô?"
Eph nói, "Đó quả là một uyển ngữ lịch sự cho việc giết người. Và nói thì dễ hơn làm. Chúng ta phải chém bao nhiêu cái đầu nữa vậy? Ở đây chỉ có ba chúng ta."
Setrakian nói, "Có những cách khác ngoài cắt cột sống. Ví dụ như, ánh sáng mặt trời. Đồng minh mạnh nhất của ta."
Điện thoại của Eph rung lên trong túi. Anh lôi ra, thận trọng, kiểm tra màn hình.
Tổng đài Atlanta. Trụ sở CDC. "Pete O'Connell," anh nói với Nora, và nghe điện.
Nora quay sang Setrakian. "Vậy giờ tất cả bọn họ đang ở đâu, vào ban ngày?"
"Dưới lòng đất. Hầm chứa và rãnh cống. Những góc tối của các tòa nhà, ví dụ như phòng bảo trì, trong hệ thống sưởi và hệ thống điều hòa. Đôi khi trong những bức tường. Nhưng thường là trong lòng đất. Đó là nơi chúng thích làm tổ."
"Vậy là... họ ngủ vào ban ngày, phải không?"
"Thế thì tiện quá nhỉ? Một đống quan tài trong một căn hầm, đầy những ma cà rồng đang ngủ. Nhưng không, chúng không hề ngủ. Không phải theo cách mà chúng ta hiểu. Chúng sẽ ngừng hoạt động một lát nếu đã thỏa mãn. Tiêu hóa quá nhiều máu sẽ khiến chúng mệt. Nhưng không lâu đâu. Chúng xuống lòng đất vào ban ngày chỉ để trốn khỏi ánh mặt trời nguy hiểm."
Nora có vẻ tái mét và choáng ngọp, trông như thể một bé gái vừa được biết người chết thực tế không mọc cánh bay thẳng lên thiên đàng để trở thành thiên thần, mà thay vào đó, họ vẫn ở trên mặt đất, mọc thêm những vòi chích dưới lưỡi và biến thành ma cà rồng.
"Câu ông đã nói đó," cô lên tiếng. "Trước khi ông chém chết họ. Câu nói bằng một ngôn ngữ khác. Như một lời tuyên bố hay một dạng nguyền rủa."
Ông lão co rúm người. "Chỉ là câu nói để tôi trấn tĩnh bản thân thôi. Để vững tay sẵn sàng cho cú cuối cùng."
Nora chờ nghe xem câu đó là gì. Setrakian nhận ra, vì một lý do nào đó, cô cần phải biết.
"Tôi nói, 'Hôi Strigoi, thanh kiếm của ta ngọi ca bạc'." Setrakian lại co rúm người, ông cảm thấy không thoải mái khi nói điều đó vào lúc này. "Nghe bằng ngôn ngữ cổ thì hay hon."
Nora nhận ra ông lão giết ma cà rồng này thực chất chỉ là một người đàn ông chân chất. "Bạc," cô nói.
"Chỉ bạc mà thôi," ông nói. "Nổi tiếng qua mọi thời đại bởi tính kháng khuẩn và sát trùng. Cô có thể chém chúng bằng thép hay bắn chúng bằng chì, nhưng chỉ bạc mới thực sự khiến chúng tổn thương."
Eph áp bàn tay rảnh rỗi còn lại của mình vào tai, cố gắng lắng nghe Pete, anh ta đang lái xe ngay ngoài Atlanta. Pete nói, "Có chuyện gì ở đó vậy?"
"ừ... anh đã biết gì rồi?"
"Biết rằng đáng lẽ tôi không được nói chuyện với anh. Rằng anh đang gặp rắc rối. Rằng anh đã vi phạm hay gì đó."
"Ở đây loạn lắm, Pete. Tôi chẳng biết phải nói cho anh những gì nữa."
"ừ thì, dù sao tôi cũng cần phải gọi. Tôi vẫn đang dành thời gian cho mẫu vật anh đã gửi tôi."
Eph cảm giác như một hòn đá nữa lại đè nặng ruột gan. Bác sĩ Peter O'Connell là một trong những người đứng đầu Dự án Xử lý những Ca Tử vong Bí ẩn (UNEX) tại Trung tâm Quốc gia CDC về các bệnh lây nhiễm từ động vật, ký sinh và các bệnh đường ruột. UNEX là một nhóm kết họp các chuyên gia vi rút, nhà vi khuẩn học, bác sĩ dịch tễ, bác sĩ thú y và bác sĩ lâm sàng từ trong và ngoài CDC. Có vô số những ca tử vong bí ẩn xảy ra tự nhiên tại Mỹ mỗi năm, và một phần nhỏ trong số đó - khoảng bảy trăm ca mỗi năm - được chuyển tới UNEX để điều tra thêm. Trong số bảy trăm ca đó, chỉ có mười lăm phần trăm được giải quyết thành công, các mẫu vật của các ca còn lại sẽ được lưu giữ để có thể xét nghiệm lại trong tương lai.
Mỗi nhà nghiên cứu của UNEX đều nắm giữ một vị trí khác trong CDC, và Pete là trưởng khoa Bệnh lý ữuyền nhiễm, một chuyên gia về cách thức và nguyên do vi rút ảnh hưỏng tới vật chủ. Eph quên béng mất là đã gửi cho anh sinh thiết và mẫu máu đầu tiên từ lần khám nghiệm sơ bộ cơ trưỏng Redfern.
"Đó là một bệnh do vi rút, Eph. Không nghi ngờ gì nữa. Nó chứa một ít axit di truyền đặc biệt."
"Pete, chờ chút, nghe tôi..."
"Glucoprotein này có khả năng kết dính tuyệt diệu. Tôi đang nói đến mấu chốt đây. Thật đáng kinh ngạc. Cái thứ chó chết đó không chỉ đon giản chiếm lấy tê bào cửa vật chủ, khiến nó sản sinh ra nhiều bản sao hon. Không đâu... nó kết họp với ARN. Hợp nhất. Hấp thụ nó... nhung bằng cách nào đó không hề hấp thụ hoàn toàn. Chính xác là, nó tạo ra một bản sao của chính nó kết đôi với tế bào vật chủ. Và chỉ lấy đi những phần nó cần. Tôi không biết anh đã thấy gì ở bệnh nhân của anh, nhung theo lý thuyết, thứ này có thể liên tục tái tạo và tái tạo, và sau hàng nhiều triệu thế hệ tiếp theo - và thứ này sinh sản rất nhanh - nó có thể tự tái sinh chính cấu trúc cơ quan của nó. Một cách có hệ thống. Nó có thể thay đổi vật chủ. Thành thứ gì đó, tôi chưa biết... nhung chắc chắn tôi rất muốn tìm hiểu."
"Pete." Đầu óc Eph rối bòi. Quá họp lý. vi rút này chiếm và biến đổi tế bào - cũng như ma cà rồng chiếm và biến đổi nạn nhân.
Những con ma cà rồng này chính là hiện thân của vi rút.
Pete nói, "Tôi muốn tự mình kiểm tra. khả năng di truyền của thứ này, thực sự tìm hiểu xem điều gì khiến nó hoạt t động..."
"Pete, nghe tôi đây. Tôi muốn anh tiêu hủy nó."
Eph nghe thấy tiếng cần gạt nước trên kính chắn gió của xe Pete đang hoạt động. "Gì cơ?"
"Lưu giữ những phát hiện của anh, tiếp tục theo hướng đó, nhưng hãy tiêu hủy mẫu vật đó ngay tức khắc."
Lại tiếng cần gạt nước, đánh nhịp cùng sự lưỡng lự của Pete. "Ý anh là, tiêu hủy những gì tôi đang nghiên cứu ư? Bởi anh biết rằng ta luôn lưu giữ một số, đề phòng..."
"Pete, tôi cần anh lái xe thẳng tới phòng thí nghiệm và tiêu hủy mẫu vật đó."
"Eph." Eph nghe thấy tiếng đèn tín hiệu của xe Pete, Pete đang tấp vào lề đường để kết thúc cuộc trò chuyện này. "Anh biết ta vẫn cẩn trọng thế nào với mọi mầm bệnh tiềm tàng. Ta VÔ khuẩn và ta an toàn. Và chúng ta có một quy định phòng thí nghiệm rất nghiêm ngặt mà tôi chẳng thể bất tuân chỉ vì..."
"Tôi đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp khi chuyển nó ra khỏi thành phố New York. Khi đó tôi đã không hiểu, nhung giờ tôi mới biết."
"Chính xác là anh đang gặp rắc rối gì vậy, Eph?"
"Tẩy nó. Nếu không được, dùng axit. Cùng lắm thì đốt nó, tôi không quan tâm. Tôi sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn..."
"Vấn đề không phải là trách nhiệm, Eph. Vấn đề là khoa học. Lúc này anh cần thẳng thắn với tôi. Có người đã nói họ thấy gì đó về anh trên bản tin."
Eph cần phải kết thúc chuyện này. "Pete, hãy làm những gì tôi yêu cầu - và tôi hứa tôi sẽ giải thích mọi chuyện cho anh khi nào có thể."
Anh dập máy. Setrakian và Nora đã lắng nghe toàn bộ cuộc nói chuyện.
Setrakian lên tiếng, "Anh đã gửi vi rút đi đâu ư?"
"Anh ta sẽ tiêu hủy nó. Pete sẽ chọn cách an toàn thay vì mạo hiểm - tôi hiểu anh ta quá rõ." Eph nhìn nhũng chiếc ti vi bày bán trên tường. Gì đó về anh trên bản tin... "Có cái ti vi nào còn chạy không?"
Họ tìm ra một chiếc còn hoạt động. Chẳng mất nhiều thời gian để tin tức lên sóng.
Họ phát một bức ảnh của Eph từ thẻ CDC của anh. Rồi một đoạn video mờ của cuộc chạm trán với Redfern, và một trong hai kẻ giả dạng mang một túi xác ra khỏi phòng bệnh. Bản tin nói rằng bác sĩ Ephraim Goodweather đang bị lùng sục như "một kẻ tình nghi" trong vụ mất tích các xác chết của các hành khách chuyến bay 753.
Eph đứng lặng. Anh nghĩ tới cảnh Kelly đang xem chương trình này. Tới Zack.
"Lũ cặn bã," anh rít lên.
Setrakian tắt ti vi. "Tin tốt duy nhất trong vụ này là họ vẫn coi anh như một mối nguy hại. Điều đó có nghĩa là vẫn còn thời gian. Còn hy vọng. Một cơ hội."
Nora nói, "Ông nói như thể ông đã có một kế hoạch." "Không phải kế hoạch. Một chiến thuật."
Eph nói, "Nói chúng tôi nghe xem nào."
"Ma cà rồng có luật lệ riêng, man rợ mà cổ xưa. Một trong số các quy định vẫn còn được duy trì là một ma cà rồng không thể băng qua dòng nước chảy xiết. Nếu như không có hỗ trợ từ con người."
Nora lắc đầu. "Tại sao lại không?"
"Lý do có lẽ nằm ở nguồn gốc của chúng, từ rất lâu rồi. Truyền thuyết đó tồn tại trong mọi nền văn hóa được biết đến trên hành tinh này, trong mọi thời đại. Lưỡng Hà, Hy Lạp và Ai Cập cổ đại, Do Thái, La Mã. Dù đã bằng này tuổi rồi nhưng tôi cũng chẳng đủ già để biết được. Nhung điều cấm kỵ này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tạo cho chúng ta ít nhiều lợi thế. Hai người biết thành phố New York là gì chứ?"
Nora lập tức hiểu ý. "Một hòn đảo."
"Một quần đảo. Chúng ta đang được bao quanh bởi nước. Những hành khách trên chuyến bay, họ được đưa tới các nhà xác trên cả năm quận phải không?"
"Không," Nora nói. "Chỉ bốn thôi. Không có Staten Island."
"Vậy thì, bốn. Queens và Brooklyn đều tách biệt với đất liền, ngăn cách bởi sông East và Long Island Sound. Bronx là quận duy nhất nối liền với đất Mỹ."
Eph lên tiếng, "Nếu ta có thể chặn những cây cầu. Dựng rào lửa phía Bắc Bronx, và phía Đông Queens tại Nassau..."
"Tại thời điểm này thì hão huyền quá," Setrakian nói. "Nhưng, anh nhận thấy chứ, chúng ta không cần phải tiêu diệt từng kẻ một trong số chúng. Chúng cùng chung một suy nghĩ, và tâm trí chúng hoạt động như một tổ ong. Chúng được kiểm soát bởi duy nhất một trí tuệ. Và kẻ đó có vẻ như đang mắc kẹt đâu đó tại Manhattan."
"Chúa Tê’," Eph nói.
"Chính kẻ đã có mặt tại bụng máy bay. Chủ nhân của cỗ quan tài mất tích."
Nora nói, "Làm sao ông biết rằng nó không ở lại gần sân bay? Nếu như nó không thể tự mình băng qua sông East."
Setrakian cười nhạt. "Tôi khá chắc chắn là nó không du hành tới tận Mỹ chỉ để trốn ở Queens." Ông mở cửa sau, tới những bậc thang dẫn vào căn hầm chứa vũ khí của mình. "Điều ta cần làm bây giờ là săn nó."
Phố Liberty/
Công trường Trung tâm Thương mại Thế giới
VASILIY FET, nhân viên diệt chuột bọ của Cục Kiểm soát Động vật Gây hại thành phố New York, đứng trước hàng rào công trường phía trên phần móng trông như một "bồn tắm" khổng lồ tại khu vực từng là tổ họp Trung tâm Thương mại Thế giới. Anh đã bỏ va li kéo của mình lại xe tải đậu trên phố West, trong một bãi đỗ của Cơ quan Quản lý Cảng cùng những xe tải công trường khác. Một tay anh mang thuốc diệt chuột cùng bộ đèn đường hầm trong một túi thể thao Puma đỏ-đen. Tay kia anh cầm thanh cốt thép, một vật đáng tin cậy anh nhặt được tại một công trường, thanh thép dài một mét, hoàn hảo cho công việc dò tìm hang chuột và đẩy bả vào trong - và thi thoảng còn dùng để đánh lũ chuột hung dữ hoặc hoảng loạn.
Anh đứng giữa những thanh chắn đường và hàng rào công trường tại góc phố Church và phố Liberty, giữa những cọc cảnh báo cam-trắng đặt dọc lối đi bộ rộng rãi. Mọi người đang rảo bước tới cửa ga tàu điện ngầm tạm thời cuối phố. Không khí tràn trề niềm hy vọng mới, ấm áp, như vô vàn những tia nắng ban phước cho vị trí đã bị hủy diệt này của thành phố. Những tòa nhà mới giờ đây đã bắt đầu mọc lên, sau hàng bao nhiêu năm lập kế hoạch và đào đất, và có cảm tưởng như vết thương đen tối khủng khiếp này rốt cuộc cũng đã được hàn gắn.
Chỉ có mỗi Fet nhận ra vết nhờn bẩn trên những mép đứng của vỉa hè. Phân chuột quanh những thanh chắn bãi đậu xe.
Những dấu gặm trên nắp thùng rác góc phố. Những dấu hiệu hé lộ sự hiện diện của lũ chuột trên mặt đất.
Một công nhân làm hầm đưa anh xuống con đường đất dành cho xe tải chở vật liệu và vào bên trong đáy móng. Anh dừng lại trước một cấu trúc xây dựng mà sau này sẽ trở thành ga tàu điện ngầm WTC[I] PATH mới, với năm đường ray và ba ga dưới lòng đất. Hiện giờ, những con tàu màu bạc phải di chuyển lộ thiên dưới ánh sáng ban ngày khi băng qua phần đáy của bồn tắm khổng lồ này để tới các ga tàu tạm thời.
Vasiliy bước ra khỏi chiếc xe bán tải. Đứng giữa những bệ bê tông, anh ngước nhìn con phố phía trên, cách một khoảng bằng chiều cao của tòa nhà bảy tầng. Anh đang đứng tại đáy nơi hai tòa tháp đã đổ xuống. Thật choáng ngọp.
Vasiliy nói, "Quả là một nơi linh thiêng."
Anh thợ hầm có bộ ria muối tiêu rậm. Anh ta mặc áo sơ mi flannel thụng bên ngoài một áo sơ mi flannel khác sơ vin trong quần - cả hai đều thấm đẫm mồ hôi và đất - và quần bò xanh cùng đôi găng tay bám bùn móc ở thắt lưng. Chiếc mũ bảo hiểm công trường của anh ta dán đầy nhãn. "Tôi cũng luôn nghĩ vậy," anh ta nói. "Nhưng gần đây thì tôi không chắc nữa."
Fet nhìn anh ta. "Bởi lũ chuột ư?"
"Chính vậy, hẳn rồi. Vài ngày nay chúng ùa ra khỏi các đường hầm, cứ như chúng tôi đã sử dụng dầu đuổi chuột. Nhưng thứ đó hiện cũng ít được dùng." Anh ta lắc đầu, ngước mắt nhìn những bức tường vữa phía dưới phố Vesey, hai mươi mét bê tông với rất nhiều thanh giằng.
Fet nói, "Rồi sao nữa?"
Anh chàng nhún vai. Thợ làm hầm rất kiêu hãnh. Họ xây dựng thành phố New York, hệ thống xe điện ngầm và cống rãnh, cùng mọi phần móng đường hầm, bến tàu, cao ốc và cầu. Mọi ly nước sạch chảy ra từ vòi đều nhờ ơn thợ làm hầm. Đây là một công việc gia đình, nhiều thế hệ khác nhau cùng làm chung trên một khu công trường. Một công việc bẩn thỉu nhưng có ích. Vì thế anh chàng này chẳng muốn tỏ ra miễn cưỡng. "Mọi người đều sợ hãi. Chúng tôi đã có hai người đi khỏi, biến mất. Họ báo cáo vào ca trực, xuống hầm, nhưng chẳng bao giờ thấy báo cáo ra. Chúng tôi làm việc 24/7 tại đây, nhưng chẳng ai muốn trực ca đêm nữa. Chẳng ai muốn xuống hầm cả. Và đó là những cậu trẻ tuổi, những anh chàng gan dạ của tôi đấy."
Fet nhìn về phía chỗ đường hầm mở ra, nơi các cấu trúc ngầm sẽ liên kết với nhau bên dưới phố Church. "Vậy là không công trình mới nào trong mấy ngày vừa qua? Ý tôi là đào mới?"
"Không, kể từ khi đáy móng được đào xong."
"Và tất cả những chuyện này xảy ra cùng lũ chuột ư?"
"Khoảng đó. Thứ gì đó đã xảy ra với nơi đây, chỉ vài ngày trước thôi." Anh thợ hầm nhún vai, gạt chuyện đó sang một bên. Anh ta đã chuẩn bị một chiếc mũ công trường cứng, màu trắng cho Vasiliy. "Và tôi cứ tưởng có công việc của tôi là bẩn thỉu thôi chứ. Mà điều gì khiến một người muốn trở thành kẻ bắt chuột vậy?"
Vasiliy đội mũ, cảm giác gió đang đổi chiều gần miệng đường hầm. "Tôi đoán là do tôi bị nghiện sự hoàn mỹ."
Người thợ làm hầm nhìn vào đôi ủng của Vasiliy, chiếc túi Puma và thanh thép. "Trước đây anh đã làm việc này rồi chứ?"
"Tôi đi bất cứ đâu có lũ chuột bọ gây hại. Có rất nhiều thành phố bên dưới thành phố này."
"Còn phải nói. Hy vọng rằng anh có đèn pin rồi chứ? Và vài mẩu vụn bánh mì?"
"Tôi ổn mà."
Vasiliy bắt tay người thợ hầm và bắt đầu di chuyển vào trong.
Thoạt đầu, đường hầm có vẻ sạch sẽ tại những chỗ đã thi công xong. Anh đi dọc đường hầm vào vùng không có ánh sáng mặt trời. Các đèn vàng đưọc treo cách nhau khoảng mười mét để chiếu sáng đường đi. Anh đang đứng tại vị trí đã được xác định là nơi giao nhau của các đường nhánh. Đường hầm lớn này về sau sẽ nối ga mới PATH với trạm trung chuyển WTC nằm giữa tòa tháp số hai và số ba, cách đó nửa dãy nhà. Các đường hầm con khác sẽ nối với hệ thống nước, năng lượng và cống rãnh của thành phố.
Vào sâu hon, anh không thể không nhìn ra lóp bụi mịn vẫn bám trên các bức tường của đường hầm. Đây là một nơi thiêng liêng, giống như một nghĩa địa vậy. nơi các thi thể và các tòa nhà bị nghiền nát thành bụi.
Anh nhìn thấy các hang, dấu chân và phân, nhung không có chuột. Anh chọc gậy vào các hang, lắng nghe. Chẳng có gì hết.
Đèn treo công trường kết thúc tại một lối rẽ, phía trước là một màn đen sâu hút, mượt như nhưng. Vasiliy mang theo trong túi một đèn pha Garrity to, màu vàng, có tay cầm cong hình sừng bò, loại cường độ một triệu candela[II], cùng hai đèn pin Maglites nhỏ dự phòng. Nhưng ánh sáng nhân tạo trong một không gian tối kín sẽ vô hiệu khả năng sử dụng kính nhìn đêm, và đối với công việc săn chuột anh cần bóng tối và yên lặng. Vì thế, thay vì sử dụng đèn, anh rút ra một ống kính nhìn đêm một mắt, một thiết bị cầm tay có dầy đeo gắn chắc vào chiếc mũ công trường, và đeo lên mắt trái. Anh nhắm mắt phải, và cả đường hầm chuyển thành màu xanh lục. Kính quan sát chuột, anh vẫn thường gọi như vậy, bởi những con mắt nhỏ xíu của chúng sẽ sáng rực trong ống kính.
Không có gì cả. Bất chấp mọi bằng chứng chỉ ra điều ngược lại, lũ chuột đã biến mất. Đã bị xua đuổi.
Điều này khiến anh bối rối. Rất khó có thể di dòi lũ chuột. Ngay cả khi ta đã loại bỏ nguồn thức ăn của chúng, cũng phải mất tới hàng tuần trước khi chúng nhận ra thay đổi. Không phải một vài ngày.
Đường hầm giao với những lối đi cũ hon. Vasiliy băng qua những đường ray đầy rác rưởi đã không được sử dụng trong nhiều năm. Chất lưọng đất đã thay đổi, anh có thể nhận ra điều đó qua kết cấu đất mà anh đã khảo sát từ Manhattan "mới" - nơi bãi rác thải đã được sử dựng để xây dựng nên công viên Battery từ đống bùn - cho tới Manhattan "cũ", vừng đá nền nguyên gốc khô ráp.
Anh dừng bước tại một ngã hầm giao nhau để chắc rằng mình đã có đủ đồ nghề cần thiết. Khi nhìn dọc chiều dài của đường hầm cắt ngang, anh thấy, qua kính nhìn đêm, một cặp mắt. Chúng phản sáng trở lại giống như mắt của một con chuột, nhưng lớn hon, và cao hơn khỏi mặt đất.
Cặp mắt đó biến mất trong chóp nhoáng, vuột ra khỏi tầm nhìn.
"Ê?" Vasiliy hét lên, giọng vang vọng. "Ê, anh kia!"
Sau một thoáng, một giọng nói trả lời anh, dội lại từ các bức vách. "Ai ở đó vậy?"
Vasiliy nhận ra sự sợ hãi trong giọng nói đó. Một ánh đèn pin xuất hiện, nguồn sáng của nó ở tận phía cuối đường hầm, xa hơn rất nhiều vị trí mà Vasiliy đã bắt gặp đôi mắt. Anh kéo ống nhìn lên khỏi mắt vừa kịp lúc, bảo vệ võng mạc của mình. Anh tự giới thiệu, rút chiếc đèn Maglite nhỏ và chiếu lại làm dấu hiệu, rồi tiến lên phía trước. Tại vị trí anh ước chừng đã nhìn thấy cặp mắt, đường hầm giao với một đường ray ngầm khác có vẻ như vẫn đang được sử dụng. Ông nhìn không cho thấy bất cứ gì, không một cặp mắt lóe sáng, vì thế anh tiếp tục đi vòng theo lối rẽ để tới điểm giao kế tiếp.
Anh bắt gặp ba thợ hầm tại đó, đeo kính bảo hộ và đội mũ bảo hộ dán đầy nhãn, mặc áo flannel, quần bò, đi ủng. Một máy bom nước thải đang hoạt động, hút nước ra khỏi một chỗ rò. Những bóng đèn halogen công suất lớn lắp trên những chân đèn thi công chiếu sáng cả đường hầm mới giống như trong một bộ phim về sinh vật ngoài hành tinh. Họ đứng sát nhau, vô cùng căng thẳng cho tới khi họ nhìn thấy rõ được Vasiliy.
"Tôi vừa thấy một người trong số các anh ở đằng kia phải không?" anh hỏi.
Ba người nhìn nhau. "Anh đã thấy gì?"
"Tôi tưởng tôi đã thấy ai đó." Anh chỉ. "Băng ngang qua đường ray."
Ba thợ hầm lại nhìn nhau, và rồi hai người còn lại bắt đầu thu dọn đồ. Người thứ ba nói, "Anh là người diệt chuột phải không?"
"Phải."
Người thợ hầm lắc đầu. "Ở đây không còn chuột nữa."
"Tôi không có ý phản bác đâu, nhưng điều đó gần như là không thể. Bằng cách nào chứ?"
"Có thể giác quan của chứng tốt hơn của ta."
Vasiliy nhìn dọc đường hầm đã được chiếu sáng, về hướng vòi bơm nước. "Lối ra khỏi hầm ở kia phải không?"
"Đó là đường ra."
Vasiliy chỉ về hướng ngược lại. "Vậy đường này là gì?" Người thợ hầm nói, "Anh đừng đi đường đó thì hon." "Tại sao không chứ?"
"Này. Hãy quên những con chuột đi. Theo chúng tôi ra ngoài. Chúng ta xong việc ở đây rồi."
Nước vẫn đang nhỏ giọt xuống chỗ nền trũng. Vasiliy nói. "Tôi sẽ theo ngay sau thôi."
Người thợ hầm nhìn anh chòng chọc. "Tùy anh thôi," anh ta nói, tắt một cây đèn đứng, rồi nhấc một túi lên vai và bước theo những người kia.
Vasiliy quan sát họ rời đi, những ánh đèn lung linh xa dần dọc theo đường hầm, và rồi tối đi khi họ đi vào ngã rẽ. Anh nghe thấy tiếng rít của bánh xe tàu điện ngầm, đủ gần để khiến anh phải chú ý. Anh tiếp tục, băng qua một đường ray mới hon, chờ cho đôi mắt mình quen trở lại với bóng tối.
Anh bật ống kính nhìn đêm, mọi thứ dưới lòng đất chuyển thành một màu xanh lục. Tiếng vang từ những bước chân của anh thay đổi khi đường hầm mở rộng ra tới một khu vực chứa rác thải gần nơi các đường ray giao nhau. Những thanh dầm thép đóng đinh tán được dựng cách đều nhau, như những cột trụ trong một phòng khiêu vũ lớn. Một kho bảo dưỡng bỏ hoang nằm ở phía bên phải Vasiliy, tan hoang do bị phá phách. Trên bức tường gạch đổ nát của nhà kho là những cái tên viết theo kiểu chữ graffiti xung quanh hình vẽ tòa tháp đôi bùng cháy. Một cái tên là "Saddam", cái tên còn lại là "Gamera".
Trên một cột trụ cũ, một biển báo hiệu tàu xưa cũ từng dùng để cảnh báo công nhân:
WARNING
LOOK OUT FOR TRAINS (CẢNH BÁO CHÚ Ý TÀU)
Chữ T và chữ N trong từ TRAINS (TÀU) đã bị tẩy xóa, và một miếng băng dính đen được dính ngang đỉnh chữ ỉ tạo thành một chữ T, vì thế giờ đây biển báo hiệu trở thành:
WARNING LOOK OUT FOR RAT s (CẢNH BÁO CHÚ Ý CHUỘT)
Thực vậy, khu vực hoang tàn này đáng ra phải là lãnh địa của loài chuột. Anh quyết định chuyển sang sử dựng ánh sáng cực tím. Anh rút ra một cây đèn nhỏ từ chiếc túi Puma và bật nó lên, bóng đèn phát ra thứ ánh sáng xanh lam mát lạnh trong bóng tối. Dấu nước tiểu của loài gặm nhấm sẽ phát sáng huỳnh quang dưới ánh sáng đen, do thành phần vi khuẩn của chúng. Anh lướt ánh đèn khắp mặt đất nơi gần cột trụ, rác thải và chất bẩn lổn nhổn như ở bề mặt mặt trăng. Anh nhận ra một vài vết nước tiểu mờ và cũ, chẳng thấy có gì mới. Cho tới khi anh lướt đèn gần một thùng dầu gỉ nằm ngang trên mặt đất. Thùng dầu và mặt sàn bên dưới sáng rực, lớn hơn và sáng hơn bất cứ bãi nước tiểu chuột nào mà anh từng nhìn thấy. Một vũng khổng lồ. Ước tính theo hiểu biết của anh, thì vết này hẳn phải của một con chuột cỡ hai mét.
Đó là chất thải mới của một loài động vật nào đó lớn hon, có thể là một con người.
Tiếng nước chảy róc rách trên đường ray cũ kĩ vang vọng khắp những đường hầm hiu hiu gió. Anh nhận thấy có tiếng sột soạt, một chuyển động phía xa, hay có thể đó là do nơi này đã bắt đầu làm anh bồn chồn. Anh cất đèn tử ngoại và quan sát toàn bộ khu vực qua ống nhìn. Phía sau một cột trụ thép, anh lại bắt gặp đôi mắt rực sáng nhìn về phía mình - rồi nó quay đi và biến mất.
Anh chẳng thể nhận biết khoảng cách tới chỗ nó. Do ống nhìn một mắt và cấu trúc hình học của những cột trụ giống hệt nhau, nhận thúc chiều sâu của anh trở nên kém hẳn.
Lần này anh không chào hỏi nữa. Anh không nói gì, mà chỉ nắm thanh cốt thép của mình chặt hơn một chút. Những người vô gia cư, khi bị bắt gặp, rất hiếm khi hiếu chiến - nhưng đây có vẻ như một thứ gì đó khác. Cứ coi như giác quan thứ sáu của một người diệt chuột. Cái cách anh có thể đánh hơi thấy sự phá hoại của lũ chuột. Vasiliy bất chợt cảm thấy mình đang yếu thế trước số đông.
Anh rút cây đèn pha sáng có tay cầm và quét khắp căn hầm. Trước khi rút lui, anh thò vào túi, xé mở nắp bìa trên một hộp giấy đụng bả bột, và rải một chút bả xung quanh khu vực này. Bả bột có tác dụng chậm hơn dạng bả mồi ăn, nhung lại chắc chắn hon. Nó còn có tác dụng phụ trợ giúp lần ra đường đi của lũ xâm nhập này, khiến cho việc dò tìm tổ để đánh bả mồi dễ dàng hon.
Vasiliy vội vã dùng hết ba hộp, rồi, anh quay trở ra theo đường hầm với cây đèn bật sáng. Anh băng qua những đường ray còn hoạt động với thanh ray thứ ba có những hộp điện lắp bên trên, rồi ngang qua máy bơm nước thải, và men theo đường ống nước dài. Đến một chỗ, cảm thấy hướng gió trong hầm thay đổi, anh ngoái nhìn và thấy một khúc quanh rực sáng phía sau. Anh vội lùi lại và áp sát vào một hốc tường, căng mình chờ đợi. Một tiếng rú chói tai. Con tàu rít lên, băng qua, và Vasiliy thoáng nhìn thấy hành khách qua khung cửa sổ trước khi anh phải che mắt lại để tránh luồng khói cuộn lên cùng cát bụi.
Con tàu đi qua, và anh lần theo đường ray cho tới khi đến được một sân ga sáng. Mang theo cả túi và thanh sắt, anh nhấc mình khỏi đường ray trèo lên một sân ga vắng tanh, bên cạnh tấm biển đề, NẾU BẠN THẤY GÌ ĐÓ, HÃY NÓI GÌ ĐÓ. Chẳng ai như thế. Anh bước lên cầu thang lửng và đi qua các cửa xoay, trở lại con phố dưới ánh nắng ấm áp. Anh bước tới một hàng rào gần đó và nhận ra mình đã trở lại phía trên khu công trường Trung tâm Thương mại Thế giới. Anh châm một điếu xì gà bằng ngọn lửa xanh của chiếc bật lửa Zippo dùng khí ga butan, rồi rít một hơi chất độc để xua đi nỗi sợ hãi mà anh vừa trải qua bên dưới những con phố này. Anh bước dọc theo con phố dẫn về khu công trường Trung tâm Thương mại Thê giới, tình cờ bắt gặp hai tờ roi viết tay được ghim vào hàng rào. Anh màu của hai thợ hầm, một trong số họ đội mũ bảo hiểm, mặt lấm đất. Dòng tiêu đề màu xanh phía trên cả hai bức ảnh viết: mất tích.
Chú thích
[I] World Trade Center: Trung tâm Thương mại Thế giới.
[II] Đơn vị đo cường độ sáng. 1 candela tương đương với cường độ sáng của một ngọn nến thông thường.
Guillermo Del Toro - Chuck Hogan
Nhật Minh, Ngọc Diệp, Minh Hiếu dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tâm Tình Với Ý Nghĩ “Mình với ta tuy hai mà một Ta với mình chỉ một chứ ai đâu Lý lẽ, luận bàn phân hơn thiệt Giải quyết bao n...