Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2024

Dị chủng 4

Dị chủng 4

PHỤ LỤC CUỐI
Tàn tích
TRONG NHỮNG NGÀY SAU KHI TREBLINKA SỤP ĐỔ, HẦU hết những tù nhân vượt ngục đều bị săn lùng và hành quyết. Nhưng Setrakian vẫn xoay xở sống sót được trong rừng, vẫn nằm trong phạm vi mùi hôi thối bốc lên từ trại tử thần. Anh ngấu nghiến các loại củ và bất cứ con mồi nhỏ nào anh có thể bắt được bằng đôi bàn tay gãy của mình, đồng thời lấy cả quần áo rách rưới cùng những chiếc giày cọc cạch từ các xác chết.
Ban ngày anh lẩn trốn bọn lính truy lùng cùng lũ chó sủa inh ỏi - còn ban đêm, anh tìm kiếm.
Anh đã nghe những người gốc Ba Lan trong trại đồn đại về những tàn tích La Mã. Phải mất gần một tuần lang thang, đến một buổi chiều muộn, trong ánh hoàng hôn lờ mờ, anh mới nhận ra mình đang đứng trên những bậc thang rêu phong cao nhất của phế tích cổ xưa.
Hầu hết những gì còn sót lại đều nằm dưới lòng đất, chỉ một vài phiến đá nhô lên khỏi mặt đất là có thể nhìn thấy đưọc từ bên ngoài. Một cột trụ lớn vẫn dựng đứng trên những ụ đá. Anh có thể đọc được một vài chữ cái trên đó, nhưng chúng đã bị mờ đi từ quá lâu rồi, đến mức chẳng thể nào hiểu nổi chúng viết về điều gì.
Và anh cũng chẳng thể nào đứng trước cổng hầm mộ tăm tối mà không khỏi rùng mình.
Abraham tin chắc dưới đó chính là hang ổ của Sardu. Anh biết. Nỗi sợ dâng trào trong lòng, và anh có thể cảm thấy hố cháy bùng lên trong lồng ngực. Nhưng trong tim anh, quyết tâm mạnh mẽ hơn cả. Bởi anh hiểu rằng thôi thúc của bản thân anh chính là tìm kiếm thứ đó, thứ đói khát đó, và diệt trừ nó. Buộc nó phải chấm dứt. Cuộc nổi loạn ở trại đã làm hỏng kế hoạch diệt trừ nó của anh - sau nhiều tuần nhiều tháng tìm kiếm và đẽo gọt thanh sồi trắng chính cống - nhưng chẳng thể làm giảm nhuệ khí trả thù. Giữa tất cả những điều sai lầm trên đời này, đây hẳn là điều đúng đắn anh có thể làm. Nó khiến cho sự tồn tại của anh trở nên có ý nghĩa. Và giờ đây anh đang chuẩn bị thực hiện.
Sử dụng một hòn đá vỡ, anh đã làm một cái cọc thô sơ từ cành cây cứng nhất có thể tìm thấy, mặc dù không phải là sồi trắng chính cống, nhưng cũng đành chấp nhận. Anh làm ra nó bằng chính những ngón tay gãy, việc này càng hủy hoại thêm đôi bàn tay đau đớn. Tiếng bước chân anh vang vọng trong hang đá làm thành hầm mộ này. Trần hang khá thấp - thật đáng ngạc nhiên, bởi Sinh vật đó có chiều cao không tưởng - cùng rễ cây len lỏi qua những khe đá làm cho cấu trúc này trở nên thiếu vững chắc. Hang đầu tiên dẫn tới hang thứ hai, và, thật đáng kinh ngạc, hang thứ ba nữa. Cứ hang sau lại nhỏ hơn hang trước.
Setrakian chẳng có bất cứ thứ gì để thắp sáng lối đi, nhưng chính cấu trúc đổ nát đã cho phép những tia sáng lờ mờ của buổi chiều muộn xuyên qua bóng tối. Anh di chuyển thận trọng qua các hang đá, tim đập loạn xạ, sợ hãi trước viễn cảnh giết chóc. Cây cọc gỗ thô sơ của anh có vẻ như chẳng đáng làm một thứ vũ khí chiến đấu với Sinh vật đói khát kia trong bóng tối. Đặc biệt là với đôi bàn tay gãy này. Anh đang làm gì vậy? Làm sao anh có thể giết chết con quái vật ấy?
Khi anh bước vào hang cuối cùng, nỗi sợ làm dâng trào một đợt axit thiêu đốt cổ họng anh. Trong suốt phần đòi còn lại của mình, anh luôn đau đớn bởi căn bệnh trào ngược axit dạ dày. Căn hầm trống tron, nhưng tại đây, ngay chính giữa hầm, chàng thợ mộc Setrakian có thể nhìn thấy rõ trên nền đất vết hằn của một cỗ quan tài, như thể đã được khắc lên đó. Một cái hòm khổng lồ, dài hai mét, rộng nửa mét và sâu khoảng hai mươi lăm phân, và nó chỉ có thể được dời ra khỏi hang ổ này bói bàn tay của một Sinh vật có ý chí mạnh mẽ.
Và rồi, từ phía sau, anh nghe thấy tiếng bước chân loạt soạt trên nền đá. Setrakian quay phắt người lại, cây cọc gỗ giương ra, và giờ thì anh đã mắc kẹt trong tận cùng căn hầm của Sinh vật đó. Con quái vật đã trở về hang ổ, và sẽ phát hiện ra một con mồi đang lẩn quất ngay trong nơi ngủ của mình.
Cái bóng mờnhạt hiện ra trước tiên, nhưng tiếng bước chân lại kéo lê, nhẹ nhàng. Không phải Sinh vật đó xuất hiện trước khúc quanh đá nhằm đe dọa Setrakian, mà là một người đàn ông kích thước bình thường. Một sĩ quan Đức với bộ đồng phục rách rưới lấm lem. Đôi mắt hắn đỏ thẫm và ướt rượt, tràn ngập đói khát đến độ hóa thành nỗi đau đón điên cuồng. Setrakian nhận ra hắn: Dieter Zimmer, một sĩ quan trẻ tầm tuổi anh, một kẻ vô cùng tàn bạo, một tên lính ở doanh trại, kẻ luôn khoác lác rằng hắn phải đánh bóng giày mỗi đêm để cọ sạch máu của người Do Thái.
Và giờ đây hắn thèm khát máu, máu cùa Setrakian. Máu của bất cứ ai. Để thỏa mãn bản thân.
Setrakian sẽ không bị đánh bại tại đây. Giờ anh đã ở bên ngoài bức tường khu trại; hiển nhiên anh đã chẳng cam chịu cảnh địa ngục trần gian đó để rồi gục ngã tại đây, để chịu thua thứ sức mạnh xấu xa của Sinh vật Đức Quốc xã đáng nguyền rủa này.
Anh đâm hắn bằng đầu cọc nhọn, nhung Sinh vật đó nhanh hơn anh tưỏng, hắn tóm lấy món vũ khí gỗ và giật mạnh khỏi bàn tay yếu ót của Setrakian, làm gãy xương quay và xương trụ cẳng tay anh. Hắn vứt cây cọc sang một bên, và nó đập mạnh vào bức tường đá trước khi roi xuống đất.
Sinh vật đó bắt đầu tiến tới Setrakian, khò khè phấn khích. Anh lùi bước cho tới khi nhận ra mình đã đứng chính giữa đường viền quan tài hình chữ nhật. Và rồi, bằng một thứ sức mạnh phi thường, anh lao tới Sinh vật đó, xô hắn bắn vào tường. Vụn đá vỡ ra xung quanh những tảng đá bên ngoài, roi lả tả như những làn khói. Sinh vật đó cố gắng tóm lấy đàu Setrakian, nhưng một lần nữa anh lao tới hắn, tì mạnh cánh tay gãy của mình dưới cằm con quỷ, buộc gương mặt kiêu ngạo của hắn phải ngửa lên, không cho phép hắn chích và hút máu.
Sinh vật lấy lại thăng bằng và quật Setrakian sang một bên. Anh ngã xuống bên cạnh cây cọc của mình. Anh tóm lấy nó, nhung Sinh vật kia chỉ đứng đó mủn cười, sẵn sàng tước lấy nó lần nữa. Tuy nhiên, thay vì đâm vào hắn, Setrakian đâm cây cọc vào dưới những tảng đá trụ. Anh nêm nó dưới một hòn đá lỏng lẻo và dùng đôi chân mình bẩy đá lên, ngay khi miệng Sinh vật đó bắt đầu há ra.
Những tảng đá rời ra, bức tường bên của lối vào căn hầm đổ sụp xuống khi Setrakian vừa kịp lăn ra khỏi đó. Có tiếng thét lớn, nhưng chỉ trong một khoảnh khắc. Cả căn hầm ngập tràn bụi, che lấp chút ánh sáng còn lại. Setrakian mò mẫm bò qua các tảng đá, và bất chợt một bàn tay đầy sức mạnh tóm chặt lấy anh. Đám bụi tan vừa đủ để Setrakian có thể nhìn thấy một tảng đá lớn đã đè nát đầu Sinh vật đó, từ đỉnh đầu đến quai hàm - tuy nhiên nó vẫn hoạt động. Quả tim thâm đen của nó, hay bất kể đó là thứ gì, vẫn đập mạnh thèm khát. Setrakian đạp cánh tay nó cho tới khi rút được chân ra, và tảng đá ngay lúc đó cũng bật qua một bên. Nửa trên đầu nó tách ra, sọ bị nứt, như một quả trứng chần.
Setrakian túm một chân nó và kéo lê cả thi thể bằng cánh tay còn lành lặn của mình. Anh lôi nó lên mặt đất, ra khỏi đống đổ nát, tới chỗ những tia sáng cuối cùng của ngày chiếu xuyên qua tán cây. Hoàng hôn lờ mờ vàng cam - nhưng như thế là đủ. Sinh vật đó quằn quại trong đau đớn khi nó nhanh chóng bị thiêu cháy, rồi hòa vào lòng đất.
Setrakian ngẩng lên nhìn ánh mặt trời sắp lặn và bật ra tiếng hú của một con thú. Một hành động dại dột, nhất là khi anh vẫn đang chạy trốn khỏi khu trại nổi loạn - một cách làm vọi đi phần nào nỗi thống khổ mà anh phải chịu đựng, từ cuộc thảm sát gia'đình, cho tới cảnh tù đày địa ngục, cho tới nỗi kinh hoàng mà anh vừa phát hiện... và sau cùng, cho tới Chúa, người đã bỏ roi anh và các con chiên của Người.
Lần tói, khi gặp lại một trong số những sinh vật này, anh sẽ có những công cụ thích họp hon. Anh sẽ tạo cho mình cơ hội chiến thắng cao hon. Anh biết, chắc chắn như việc anh vẫn đang sống, rằng trong những năm tới anh sẽ lần theo cỗ quan tài đã biến mất đó. Thậm chí trong nhiều thập kỷ, nếu cần thiết. Chính quyết tâm này đã chỉ cho anh một hướng đi mới và đưa anh tiến lên trong một cuộc truy lùng kéo dài suốt phần đòi còn lại của mình.
Tái Tạo
Trung tâm y tế bệnh viện lamaica
Eph và Nora trình thẻ ra vào cho bảo vệ và đưa Setrakian qua cửa phòng cấp cứu mà chẳng hề gây bất cứ sự chú ý nào. Khi đi trên những bậc cầu thang dẫn tới khu cách ly, Setrakian nói, "Việc này quá liều lĩnh."
Eph nói, "Người này, Jim Kent - anh ấy, Nora và tôi đã làm việc cùng nhau một năm rồi. Chứng tôi không thể bỏ mặc anh ấy." "Anh ta đã bị biến đổi. Anh có thể làm gì cho anh ta chứ?" Eph bước chậm lại. Setrakian đang thở hổn hển phía sau, và cảm kích khi được nghỉ chân, ông tựa người vào cây gậy chống. Eph nhìn Nora, và họ có chung suy nghĩ.
"Tôi có thể giải thoát anh ấy," Eph nói.
Họ ra khỏi khu cầu thang và cẩn thận quan sát lối vào khu cách ly ở đầu kia của hành lang.
"Không có cảnh sát," Nora nói.
Setrakian ngó quanh. Ông không chắc chắn được thế.
"Sylvia ở kia," Eph nói, nhận ra cô bạn gái tóc xoăn của Jim đang ngồi trên một cái ghế gập cạnh lối vào khu cách ly.
Nora gật đầu, sẵn sàng. "Ehrợc thôi," cô nói.
Cô bước một mình tới gặp Sylvia, và cô gái đứng dậy khi thấy cô tói. "Nora."
"Jim thế nào rồi?"
"Họ chưa nói gì cho tôi hết." Sylvia ngó phía sau Nora. "Eph không đi cùng chị sao?"
Nora lắc đầu. "Anh ấy đi rồi."
"Những điều họ nói không phải sự thật đúng không?"
"Không đâu. Trông chị mệt mỏi quá. Ta đi lấy gì đó cho chị ăn nhé."
Trong khi Nora hỏi lối ra nhà ăn, đánh lạc huóng các y tá, Eph và Setrakian lẻn qua cửa tới khu cách ly. Eph như một sát thủ bất đắc dĩ băng qua gian cất áo choàng và găng tay, đi xuyên qua những lóp rèm che bằng nhựa tới gian của Jim.
Giường anh ta trống không. Jim đã biến mất.
Eph lập tức kiểm tra các gian khác. Tất cả đều trống không.
"Chắc họ đã đưa anh ấy đi," Eph nói.
Setrakian nói, "Cô bạn gái của anh ta hẳn sẽ không ở ngoài đó nếu biết anh ta đã đi mất."
"Vậy là...?"
"Chúng đã bắt anh ta."
Eph nhìn chằm chằm chiếc giường trống. "Chứng ư?"
"Đi thôi," Setrakian nói. "Việc này vô cùng nguy hiểm. Chúng ta không có thời gian đâu."
"Đợi đã." Anh tới bên chiếc tủ đầu giường, thấy tai nghe của Jim đang treo lủng lẳng từ ngăn kéo dưới. Anh tìm thấy điện thoại của Jim và kiểm tra để chắc chắn nó đã được sạc. Anh rút điện thoại của mình ra và nhận ra giờ nó chẳng khác gì một thiết bị dẫn đường. FBI có thể xác định vị trí của anh qua GPS.
Anh thả điện thoại của mình vào ngăn tủ, tráo đổi điện thoại với Jim.
"Bác sĩ," Setrakian lên tiếng, mất kiên nhẫn.
"Xin hãy gọi tôi là Eph," anh nói, đút điện thoại của Jim vào túi trên đường đi ra. "Thời gian này, tôi không còn cảm thấy mình là một bác sĩ nữa rồi."
Cao tốc West Side, Manhattan
GUS ELIZALDE NGỒI trong thùng xe tù của Sở Cảnh sát New York, tay bị còng vào một thanh thép phía sau. Felix ngồi chếch phía đối diện cậu, đầu gục xuống, rung lắc theo chuyển động xe, càng lúc càng tím tái. Hẳn là họ đang trên cao tốc West Side nên mới có thể di chuyển nhanh thế này tại Manhattan. Hai tù nhân khác ngồi cùng họ, một người đối diện Gus, một người bên trái cậu, đối diện Felix. Cả hai đều đang ngủ. Lũ ngu có thể ngủ bất cứ lúc nào.
Gus ngửi thấy mùi thuốc lá từ khoang lái của chiếc xe tải không cửa sổ, qua tấm ngăn đã đóng. Lúc họ lên xe, trời đã chập choạng tối. Gus để mắt trông chừng Felix, lúc này đang đổ người ra khỏi thanh còng tay, rũ về phía truóc. Nhớ đến nhũng gì ông lão chủ tiệm cầm đồ đã nói. Và chờ đợi.
Cậu không cần đợi quá lâu. Đầu Felix bắt đầu nghển lên, và rồi quay sang một bên. Ngay lập túc nó ngồi thẳng dậy, quan sát tứ phía. Felix nhìn Gus, nhìn chằm chằm, nhung trong ánh mắt Felix chẳng có bất cứ dấu hiệu gì cho Gus thấy rằng người bạn lâu năm đã nhận ra cậu.
Anh mắt nó tối om, trống rỗng.
Một tiếng còi xe chói tai khiến gã bên cạnh Gus giật mình tình giấc. "Mẹ kiếp," gã lên tiếng, lạch cạch cái còng tay phía sau. "Ta đang tới chỗ chết tiệt nào vậy?" Gus không trả lời. Gã đó bắt đầu nhìn sang Felix, lúc này cũng đang nhìn gã. Gã đạp chân Felix. "Tao bảo, ta đang tới chỗ chết tiệt nào vậy, thằng nhãi?"
Felix quan sát gã một lát với ánh nhìn vô cảm, gần nhu khờ dại. Mồm nó há ra nhu thể để trả lời - và rồi vòi chích bắn ra, cắt ngang chiều rộng của xe tải, chọc thủng cổ họng gã đàn ông khốn khổ. Gã đó chẳng thể làm gì ngoài giậm và đạp. Giờ đã mắc kẹt trong thùng xe cùng người bạn cũ Felix, Gus cũng bắt đầu hành động tuong tự, la hét, đập rầm rầm, đánh thức tên tù nhân đối diện mình. Cả hai cùng la hét và giậm chân trong khi gã bên cạnh Gus gục xuống, còn vòi chích của Felix ủng lên, chuyển từ tái nhợt sang đỏ máu.
Vách ngăn giữa khoang tù nhân và buồng lái trước mở ra. Một cái đầu đội mũ cảnh sát quay ngoắt lại từ ghế phụ. "Câm miệng lại, bằng không tao sẽ..."
Gã cảnh sát nhìn thấy Felix đang uống máu tên tù nhân kia. Nhìn thấy cơ quan ứ máu vươn ra ngang qua xe tải, bữa ăn bẩn thỉu đầu tiên, Felix đang nhả ra và vòi chích đang vọt trở lại miệng nó. Máu đang trào ra từ cổ tên tù nhân và nhỏ giọt xuống ngực Felix.
Gã cảnh sát ngồi ghế phụ kêu ăng ẳng và quay ngoắt đi.
"Gì vậy?" gã tài xế hét lên, cố gắng ngoái lại phía sau.
Vòi chích của Felix bắn thẳng qua vách ngăn, phập vào cổ họng gã tài xế. Tiếng la hét vang lên khắp xe trong khi chiếc xe tròng trành, mất kiểm soát. Gus bấu ngón tay vào thanh còng tay vừa kịp lúc, thoát khỏi nguy cơ gãy cổ tay, và chiếc xe lắc mạnh hết bên phải tới bên trái, sau đó đổ rầm sang một bên.
Chiếc xe trượt dài cho tới khi đâm sầm vào rào chắn đường, rồi bật ngược lại, quay vòng. Gus ngã sang một bên, tên tù nhân đối diện cậu giờ đang treo lủng lẳng trên cánh tay gãy, kêu ăng ẳng trong đau đón và sợ hãi. Chốt khóa của Felix đã gãy, vòi chích của nó giờ thòng xuống lủng lẳng và co giật như một dây cáp điện nhỏ máu người.
Đôi mắt chết chóc của nó ngước lên nhìn Gus.
Gus nhận ra thanh còng tay của cậu đã gãy, bèn hối hả trượt còng tay dọc theo thanh còng, rồi đạp cánh cửa méo mó cho tới khi nó bật mở. Cậu nhào ra lề đường, tai ù lên như thể một quả bom vừa phát nổ.
Tay cậu vẫn bị còng phía sau. Đèn pha ô tô băng qua, một số đi chậm lại để xem đống đổ nát. Gus vội lăn đi, nhanh nhẹn vòng cổ tay qua dưới chân, đưa hai tay ra phía trước. Cậu quan sát cánh cửa khoang sau của chiếc xe đã bị phá mở, chờ đợi Felix trèo ra tìm mình.
Và rồi Gus nghe thấy một tiếng thét. Cậu nhìn quanh tìm kiếm một thứ vũ khí bất kỳ, và rốt cuộc phải chọn một nắp trục bánh xe sứt mẻ. Gus cầm nó trên tay, bước tói, đứng sát cánh cửa mở của chiếc xe tải lật nghiêng.
Felix ở đó, đang uống máu tên tù nhân mắt trợn trừng vẫn còn bị treo trên thanh thép.
Gus chửi thề, buồn nôn trước cảnh tượng đó. Felix rời ra và, không một chút lưỡng lự, nó bắn vòi chích vào cổ Gus. Gus giương nắp trục bánh xe lên vừa kịp lúc, đánh bật cú bắn trước khi lăn ra khỏi tầm nhìn của khoang sau xe tải.
Một lần nữa, Felix không theo sau cậu. Gus đứng đó một lúc, bình tĩnh lại - tự hỏi vì sao - và rồi nhận ra mặt trời. Mặt trời lúc này lơ lửng giữa hai tòa nhà phía Hudson, đỏ rực như máu và đã gần lụi tắt, đang lặn xuống thật nhanh.
Felix đang lẩn trốn bên trong xe tải, chờ mặt trời lặn. Chỉ ba phút nữa thôi nó sẽ tự do.
Gus điên cuồng ngó quanh. Cậu nhìn thấy một tấm kính chắn gió vỡ trên đường, nhưng nó sẽ chẳng giúp được gì. Cậu trèo lên khung gầm xe tải, tới mặt bên giờ đây đang là mặt trên cùng. Cậu ra tới phía cánh cửa bên ghế tài xế và đạp vào bản lề chiếc gương chiếu hậu. Nó gãy lìa, và khi cậu đang kéo mớ dây rợ để lôi nó ra thì gã cảnh sát bên trong hét lên.
"Dừng lại!"
Gus nhìn gã, đó là tên cảnh sát lái xe, cổ đầy máu, đang bám vào tay cầm trên nóc xe, súng sẵn sàng. Rồi Gus cũng rút được chiếc gương ra với một cú giật mạnh bằng một tay, và cậu nhảy xuống đường.
Mặt trời đang tan chảy như lòng đỏ trứng bị đâm thủng. Gus tìm một góc phù họp, giương chiếc gương trên đầu, bắt lấy những tia nắng cuối cùng. Cậu thấy ánh sáng phản chiếu chập choạng trên mặt đất. Nó quá mờ, quá tối để có thể làm được gì. Vì thế cậu dùng đốt ngón tay đập rạn tấm kính phảng, nhưng vẫn giữ các mảnh vỡ dính lại trên mặt sau của gương. Cậu thử lần nữa và giờ đây những tia phản chiếu đã có khác biệt.
"Tao bảo dừng lại!"
Gã cảnh sát trèo xuống khỏi xe, một tay vẫn lăm lăm súng. Tay kia của gã đang ôm lên cổ, cái cổ đã bị Felix cắn, tai gã chảy máu do tai nạn. Gã bước vòng lại ngó vào trong xe tải.
Felix đang nép mình bên trong, chiếc còng lủng lẳng trên một tay. Tay kia của nó đã mất, cổ tay bị chiếc còng cắt phăng dưới tác động của vụ va chạm. Nhưng bàn tay bị mất, hay cả thứ máu trắng tràn ra từ vết cắt, dường như đều chẳng làm nó bận tâm.
Felix mỉm cười, và gã cảnh sát nã đạn vào nó. Những phát đạn chọc thủng ngực và chân Felix, xé nát da thịt và xương. Bảy, tám phát, và Felix ngã ngửa. Hai phát nữa vào người nó. Gã cảnh sát vừa hạ súng thì Felix ngồi thẳng dậy, vẫn mỉm cười.
vẫn khát. Mãi mãi khát.
Ngay lúc đó, Gus đẩy gã cảnh sát sang một bên, giơ cao chiếc gương. Những tia sáng cuối cùng của mặt trời đỏ cam đang lụi tàn chiếu tới từ tòa nhà bên sông. Gus gọi tên Felix lần cuối, như thể việc đó sẽ đánh thức nó ra khỏi thứ đó, sẽ mang Felix trở lại một cách thần kỳ...
Nhưng Felix không còn là Felix nữa rồi. Nó là một con ma cà rồng chết tiệt. Gus tự nhắc mình điều đó trong lúc xoay chiếc gương, để những tia sáng mặt trời phản chiếu như những mũi tên rực cháy bắn thẳng vào trong chiếc xe tải lật nghiêng.
Đôi mắt chết của Felix trở nên kinh hãi khi những tia mặt trời bắn vào nó. Chúng đâm xuyên qua nó như những tia laze, đốt cháy lỗ chỗ và làm da thịt nó bắt lửa. Một tiếng tru của loài thú thoát ra từ sâu bên trong nó, như tiếng gào của một con người bị xé thành nhiều mảnh, trong khi những tia sáng đang tàn phá cơ thể nó.
Đó là thứ âm thanh cào xé lòng Gus, nhưng cậu vẫn di những tia sáng phản chiếu lên người nó cho tới khi Felix chỉ còn là đống than bốc khói.
Những tia nắng phai dần, và Gus hạ tay xuống.
Cậu nhìn qua bên kia sông.
Đêm.
Gus tưởng như sắp khóc - bao nhiêu dằn vặt và đau khổ trộn lẫn trong tim cậu - và nỗi đau của cậu chuyển thành cơn thịnh nộ. Xăng tràn ngập bên dưới chiếc xe tải, đã gần lan tới chân cậu. Gus bước tới bên gã cảnh sát, lúc này vẫn đang đứng trên lề đường, trố mắt quan sát những gì đã xảy ra. Cậu vội lục túi gã, tìm thấy một chiếc bật lửa Zippo. Gus bật nắp, gạt vòng đánh lửa, và ngọn lửa lập tức phụt lên.
"Lo siento, ‘mano’.ữ}"
1. (Tiếng Tây Ban Nha) “Tôi xin lỗi, anh bạn.”
Cậu đốt vững xăng tràn, và cái xe tải nổ tung, hất văng cả Gus lẫn gã cảnh sát ra sau.
"Khỉ thật, hắn đã chích anh," Gus nói với gã cảnh sát lúc này vẫn đang ôm cổ. "Anh sẽ trở thành một trong số chúng."
Cậu tước khẩu súng của gã cảnh sát, chĩa nó vào gã. Tiếng còi xe vang lên.
Gã cảnh sát ngước nhìn Gus, và chỉ một giây sau đầu gã đã bay mất. Gus vẫn chĩa nòng súng đang phả khói vào người gã cho tới khi cậu ra khỏi lề đường cao tốc. Rồi cậu ném khẩu súng đi và nghĩ tới chìa khóa còng tay, nhưng đã quá muộn. Những ánh đèn xe cảnh sát nhấp nháy đang tiến tói. Cậu quay người chạy xa khỏi lề đường cao tốc, lao vào một đêm mới.
Phố Kelton, Woodside, Queens
KELLY VÂN mặc nguyên trang phục giáo viên, áo ba lỗ tối màu bên trong áo khoác mềm và váy dài thẳng. Zack đang trên phòng, có lẽ đang làm bài tập về nhà, còn Matt thì ở nhà, anh ta chỉ làm việc nửa ngày do phải kiểm kê hàng hóa vào đêm đó.
Tin tức về Eph trên ti vi khiến Kelly hoảng hốt. Và giờ cô chẳng thể liên lạc với anh qua điện thoại.
"Rốt cuộc thì," Matt nói, vạt áo sơ mi denim Sears của anh ta lúc này đã bỏ ra ngoài quần. "Anh ta rốt cuộc cũng đã phát điên."
"Matt," Kelly đáp, chỉ hơi hòn trách. Nhưng... Eph đã phát điên thật sao? Mà điều này có ý nghĩa gì với cô?
"Ảo tưởng về sự vĩ đại, gã thợ săn vi rút quan trọng," Matt nói. "Anh ta cũng giống như lũ lính cứu hỏa cố ý gây cháy để trở thành anh hùng vậy." Matt thả người trong chiếc ghế thoải mái của mình. "Anh chẳng ngạc nhiên chút nào nếu anh ta làm tất cả những thứ này vì em."
"Em ư?"
"Gây chú ý, hay sao đó. Kiểu như 'Hãy nhìn anh đi, anh là người quan trọng'."
Cô lắc đầu nguầy nguậy, cứ như thể anh ta đang lãng phí thời gian của cô. Đôi khi cô thấy thật ngạc nhiên khi Matt có thể nhầm lẫn đến vậy về người khác.
Chuông cửa vang lên, và Kelly bước mau ra. Matt bật dậy khỏi ghế, nhưng Kelly đã tới cửa trước.
Đó là Eph, Nora Martinez phía sau, rồi đến một ông lão mặc áo khoác vải tuýt dài.
"Anh làm gì ở đây vậy?" Kelly nói, nhìn ngó ngang dọc con phố.
Eph xộc vào trong. "Anh ở đây để gặp Zack. Để giải thích." "Thằng bé chưa biết đâu."
Eph nhìn quanh, hoàn toàn phớt lờ Matt đang đứng ngay đó. "Nó đang ở trên tầng làm bài tập bằng máy tính hả?"
"Đúng vậy," Kelly nói.
"Nếu nó có Internet, vậy thì nó đã biết."
Eph lên tầng, bước hai bậc một.
Bỏ lại Nora đứng trước cửa với Kelly. Nora thở dài, che giấu sự lúng túng. "Xin lỗi," cô nói. "Vì đã xông vào nhà chị như vậy."
Kelly nhẹ nhàng lắc đầu, liếc nhìn Nora hơi có vẻ đánh giá. Cô biết có chuyện gì đó giữa Nora và Eph. Với Nora, nhà Kelly Goodweather là nơi cô không bao giờ muốn tói.
Rồi Kelly chuyển sự chú ý sang ông lão cầm cây gậy chống có tay cầm hình đầu sói. "Đang có chuyện gì vậy?"
"Bà Goodweather-cũ, phải không?" Setrakian chìa tay ra với vẻ phong nhã của thế hệ xưa. "Abraham Setrakian. Rất hân hạnh được biết cô."
"Tôi cũng vậy," Kelly đáp, sửng sốt, ngập ngừng nhìn Matt.
Nora nói, "Anh ấy cần gặp mọi người. Để giải thích."
Matt lên tiếng, "Cuộc gặp mặt nho nhỏ này không khiến chúng tôi trở thành đồng phạm của một vụ nào đó chứ?"
Kelly buộc phải chặn sự khiếm nhã của Matt. "Ông muốn uống gì không?" cô hỏi Setrakian. "Nước lọc nhé?"
Matt nói, "Chúa ơi, chỉ vì cốc nước này mà có thể cả hai chúng ta sẽ mất hai mươi năm..."
Eph ngồi trên mép giường Zack, còn Zack thì ngồi trên bàn, máy tính xách tay đang mở.
Eph nói, "Bố vướng vào một số chuyện mà chính bố cũng thực sự chẳng thể hiểu nổi. Nhưng bố muốn con được nghe từ chính bố. Những chuyện đó hoàn toàn sai sự thật. Trừ việc đúng là có người đang truy tìm bố."
Zack nói, "Họ sẽ tới đây tìm bố à?"
"Có thể."
Zack nhìn xuống, lo lắng, suy nghĩ. "Bố phải vứt điện thoại đi."
Eph mỉm cười. "Đã vứt rồi." Anh vỗ vai đứa con đồng lõa của mình. Eph nhận ra, bên cạnh máy tính xách tay của thằng bé, chiếc máy quay Eph đã mua tặng nó nhân dịp Giáng sinh.
"Con vẫn đang tiếp tục bộ phim đó cùng các bạn chứ?"
"Bọn con đang trong giai đoạn chỉnh sửa rồi."
Eph nhấc chiếc máy quay, nó đủ nhỏ và nhẹ để đút vừa túi quần. "Bố có thể mưọn thứ này một thời gian không?"
Zack gật đầu chậm chạp. "Có phải nhật thực không, bố? Thứ đã biến mọi người thành xác sống ấy?"
Eph sửng sốt - nhận ra sự thật cũng chẳng họp lý hơn là mấy. Anh thử nhìn nhận chuyện này từ góc nhìn của một cậu bé mười một tuổi quen sống nội tâm và đôi khi rất nhạy cảm. Và thứ gì đó trỗi dậy trong anh, từ đáy sâu cảm xúc. Anh đứng dậy ôm thằng bé. Một thời khắc kỳ lạ, mong manh mà đẹp đẽ, giữa cha và con. Eph cảm thấy nó rõ mồn một. Anh vò tóc thằng bé, và chẳng biết nói gì hon.
Kelly và Matt thì thào bàn bạc trong bếp, bỏ mặc Nora và Setrakian trong phòng khách ốp kính phía sau nhà.
Setrakian đứng, tay đút túi, nhìn ra bầu trời rực sáng lúc chập tối, đêm thứ ba kể từ chuyến hạ cánh của cái máy bay xấu số, quay lưng về phía cô.
Một chiếc đồng hồ trên giá kêu tích-tích-tích.
Setrakian nghe thành cộc-cộc-cộc.
Nora có thể cảm thấy sự sốt ruột của ông. Cô nói, "Anh ấy, ừm, anh ấy gặp rất nhiều vấn đề với gia đình. Kể từ khi ly hôn."
Setrakian thò ngón tay vào chiếc túi áo vest nhỏ, kiểm tra lọ thuốc của mình. Túi áo này gần vị trí tim ông, hỏi chỉ cần đặt nitroglycerin’[1]* gần nguồn bom máu đã già yếu của ông cũng đã có lọi cho hệ tuần hoàn. Tim ông đập đều đặn, nếu không muốn nói là khỏe mạnh. Liệu ông còn bao nhiêu nhịp đập nữa? Đủ để hoàn thành công việc này, ông hy vọng thế.
"Tôi không có con," ông nói. "Vợ tôi, Anna, đã mất mười bảy năm rồi, và tôi không có được diễm phúc đấy. Cô có thể cho rằng nỗi đau thiếu con sẽ phai nhạt dần theo thời gian, nhưng thực tế, nó ngày càng sâu đậm hơn khi tuổi tác tăng dần. Tôi có quá nhiều điều cần phải dạy, nhưng chẳng có lấy một học trò."
Nora nhìn cây gậy chống của ông, lúc này đang dựng vào tường gần ghế cô. "Ông... ông đã bắt đầu công việc này như thế nào vậy?"
"Ý cô là khi nào tôi phát hiện ra sự tồn tại của chúng ư?"
"Và cống hiến hết mình cho nó, suốt những năm qua."
Ông im lặng một lát, hồi tưởng lại. "Khi đó tôi còn trẻ. Trong Thế Chiến thứ hai, tôi mắc kẹt ở vùng đất Ba Lan bị chiếm đóng, điều mà tôi chẳng hề muốn chút nào. Một trại nhỏ phía Đông Bắc Warsaw, tên Treblinka."
Nora cũng lặng người như ông lão. "Một trại tập trung."
"Một trại hành quyết. Nơi đó có những sinh vật hung bạo, cô gái thân mến. Hưng bạo hơn bất cứ loài thú ăn thịt nào ta có thể không may đụng độ trên đòi này. Những kẻ cơ hội lọi dụng quyền lực, coi những người trẻ tuổi và yếu ớt như nhũng con mồi. Trong trại, tôi cùng những tù nhân khác vô tình trở thành một bữa tiệc đạm bạc cho nó."
"Nó ư?"
"Chúa Tể."
Cái cách ông nói từ đó khiến Nora rùng mình. "Nó là người Đức ư? Một tên Đức Quốc xã?"
"Không, không. Nó không có liên hệ gì hết. Nó không trung thành với bất cứ ai hoặc cái gì, cũng không thuộc về một đất nước nào hết. Nó lang thang bất cứ nơi nào nó muốn. Nó ăn tại nơi có thức ăn. Trại đó đối với nó như thể một bữa ăn bèo bọt. Những con mồi dễ kiếm."
"Nhưng ông... ông đã sống sót. Chẳng lẽ ông không thể kể cho ai...?"
"Ai có thể tin câu chuyện hoang đường của một kẻ yếu đuối chứ? Phải mất hàng tuần để tôi có thể chấp nhận những gì cô đang tin vào lúc này đây, và đó là chính mắt tôi đã chứng kiến sự hung bạo đó. Nó còn hơn cả những gì lý trí có thể chấp nhận. Tôi chọn cách không để mình bị coi là một kẻ điên rồ. Khi nguồn thức ăn bị cắt, Chúa Tể rời đi. Nhưng tôi đã thề với chính bản thân, trong trại đó, một lời thề mà tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi đã lần theo dấu Chúa Tể trong nhiều năm. Dọc Trung Âu và Balkan, khắp Nga, Trung Á. Trong suốt ba thập kỷ. Đã có những lúc theo sát nút nó, nhưng chưa bao giờ đủ gần cả. Tôi trở thành giáo sư tại Đại học Vienna, tôi nghiên cứu về truyền thuyết này. Tôi bắt đầu thu thập sách, vũ khí và công cụ. Suốt trong lúc đó luôn chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với nó lần nữa. Một cơ hội mà tôi đã chờ đợi hơn sáu thập kỷ."
"Nhưng... nó là ai?"
"Nó có rất nhiều hình dạng. Hiện tại, nó đang chiếm cứ cơ thể của một nhà quý tộc Ba Lan có tên Jusef Sardu, người đã mất tích trong chuyến đi săn tại vùng đất Bắc Romania mùa xuân năm 1873."
"1873 ư?"
"Sardu là một gã khổng lồ. Tại thời điểm cuộc đi săn, anh ta đã cao gần hai mét mốt. Cao đến nỗi các cơ bắp của anh ta chẳng thể đỡ nổi khung xương dài và nặng. Nghe nói túi quần của anh ta phải lớn cỡ bao tải chứa củ cải. Để đứng vững, anh ta phải tựa hẳn vào một cây gậy chống có tay cầm mang gia huy."
Nora nhìn lại cây gậy chống ngoại cỡ của Setrakian, cùng tay cầm bạc của nó. Mắt cô trọn tròn. "Hình đầu sói."
"Những gì còn sót lại của dòng họ Sardu được tìm thấy nhiều năm sau đó, cùng tập nhật ký của Jusef thời trẻ. Anh ta đã tường thuật chi tiết về việc cả đội đi săn bị theo dõi bởi một loài thú săn mồi bí ẩn, kẻ sau đó đã lần lượt bắt cóc và giết chết họ. Những dòng cuối cùng cho thấy Jusef đã phát hiện ra các thi thể bên trong lối vào một hang ngầm. Anh ta chôn cất họ trước khi trở lại hang để đối mặt với con quái thú, để trả thù cho gia đình."
Cô chẳng thể nào rời mắt khỏi tay cầm hình đầu sói. "Làm thế nào ông có được nó vậy?"
"Tôi đã phát hiện ra cây gậy này trong tay một nhà buôn tư nhân tại Antwerp vào mùa hè năm 1967. Sardu rốt cuộc cũng trở về biệt thự của gia đình tại Ba Lan nhiều tuần sau đó, nhưng anh ta chỉ có một mình và đã thay đổi hoàn toàn. Anh ta vẫn mang theo cây gậy, nhưng không còn dựa vào nó, và dần dần không mang nó đi nữa. Anh ta không chỉ được chữa khỏi con đau do căn bệnh khổng lồ,'mà nghe đồn còn sở hữu một sức mạnh khủng khiếp. Sau đó, dân làng bắt đầu mất tích, thị trấn bị đồn là đã bị ám, và sau cùng, nó bị bỏ hoang. Ngôi nhà của Sardu trở thành đống đổ nát và chẳng còn ai trông thấy cậu chủ trẻ nữa."
Nora ước lượng kích cỡ cây gậy. "Hồi mười lăm tuổi, hắn ta đã cao đến vậy ư?"
"Và vẫn còn phát triển."
"Cỗ quan tài... kích thước của nó ít nhất phải hai mét rưỡi nhân một mét hai."
Setrakian gật đầu điềm tĩnh. "Tôi biết."
Cô gật đầu. Rồi cô nói, "Đợi chút, làm sao ông biết?"
"Tôi đã nhìn thấy nó, một lần, hay ít nhất là, dấu vết nó để lại trên nền đất. Từ rất lâu rồi."
Kelly và Eph đứng đối diện nhau trong căn bếp giản dị. Tóc cô nhạt màu và ngắn hơn trước kia, giờ đây giống kiểu doanh nhân hon. Hay có lẽ giống một người mẹ hon. Cô nắm chặt cạnh bàn, và anh để ý thấy những vết xước mỏng do mép giấy cứa trên đốt ngón tay cô, hậu quả từ trường học.
Cô đưa anh một bịch sữa nửa lít chưa mở. "Em vẫn luôn trữ sữa tươi à?" anh hỏi.
"Z thích. Muốn giống bố."
Eph nhấp một chút, sữa khiến anh hạ nhiệt nhưng chẳng thể giúp anh bình tĩnh như thường lệ. Anh thấy Matt đang hóng, ngồi trên ghế ở đầu kia, vờ như không phải đang theo dõi.
"Nó rất giống anh," cô lên tiếng. Cô đang nói về Zack.
"Anh biết," Eph đáp.
"Càng lớn càng giống. Ám ảnh. Bướng bỉnh. Hay đòi hỏi. Thông minh."
"Thật khó mà hiểu được một đứa bé mười một tuổi."
Khuôn mặt cô dãn thành một nụ cười rộng. "Chắc em bị nguyền cả đòi."
Eph cũng mủn cười. Thật kỳ lạ, một biểu hiện mà đã nhiều ngày anh chẳng thể có được.
"Này," anh nói. "Anh không có nhiều thời gian. Anh chỉ... anh muốn mọi chuyện đều tốt đẹp. Hay ít nhất, chuyện giữa chúng ta đều ổn. Chuyện quyền nuôi con, mớ lộn xộn đó - anh biết nó đã hủy hoại chúng ta. Anh mừng vì nó đã kết thúc. Nhung anh không tới đây để trình bày dài dòng, anh chỉ... lúc này có vẻ là thời gian họp lý để xua đi căng thẳng."
Kelly ngạc nhiên, chẳng thể nói nên lời.
Eph tiếp, "Em không cần phải nói gì hết, anh chỉ..."
"Không," cô lên tiếng, "Em muốn nói. Em xin lỗi. Anh chẳng thể biết được em đã cảm thấy có lỗi đến thế nào đâu. Em xin lỗi vì tất cả mọi chuyện đã tới mức này. Thực lòng đấy. Em biết anh chẳng bao giờ muốn như vậy. Em biết anh chỉ muốn ta chung sống. Vì z."
"Tất nhiên rồi."
"Anh biết đấy, em không thể làm được điều đó, em không thể. Anh đã lấy đi sự sống trong em, Eph. Và phần còn lại thì... em chỉ muốn làm anh bị tổn thương. Em đã làm vậy. Em thừa nhận. Và đó là cách duy nhất em biết em có thể."
Anh thở dài. Cuối cùng cô cũng đã thừa nhận một điều mà anh vẫn luôn biết rõ. Nhung chẳng có thắng lọi gì cho anh trong vụ này hết.
"Em cần Zack, anh biết đấy. z là... là chính nó. Em nghĩ rằng, nếu không có nó, sẽ chẳng thể có em. Tệ hay không thì sự thực vẫn cứ là sự thực. Nó là tất cả đối với em... cũng như anh trước kia." Cô dừng lại để cả hai có thể hiểu hết những lời cô vừa nói. "Nếu không có nó, em sẽ lạc lối, em sẽ..."
Cô chẳng thể nói năng mạch lạc được nữa.
Eph nói, "Em sẽ giống như anh."
Câu nói khiến cô chết lặng. Họ đứng đó, nhìn nhau.
"Nghe này," Eph nói. "Anh sẽ nhận lỗi. về chúng ta, về em và anh. Anh biết anh không phải... không phải gã thoải mái nhất trên đòi, một gã chồng lý tưỏng. Anh đã chịu đựng phần mình. Và Matt - anh biết trước đây anh đã từng nói một vài điều..."
"Anh đã từng gọi anh ấy là 'cuộc sống giải khuây' của em."
Eph nhăn mặt. "Em biết gì không? Có lẽ, nếu anh quản lý một cửa hàng Sears, hay nếu anh có một công việc chỉ đon giản là... một công việc bình thường, chứ không phải giống cuộc sống hôn nhân thứ hai như vậy... thì có lẽ em đã không cảm thấy bị xa cách đến thế; Bị lừa dối đến thế. Bị... xếp sau đến thế."
Họ yên lặng một lát, và Eph chợt nhận ra những vấn đề lớn hơn có xu hướng lấn át những chuyện nhỏ như thế nào. Rằng xung đột có thể khiến cho những rắc rối cá nhân nhanh chóng được dẹp sang một bên.
Kelly lên tiếng, "Em biết anh định nói gì. Anh định nói rằng chứng ta đáng lẽ nên nói chuyện này từ vài năm trước."
"Đáng lẽ chúng ta nên làm vậy," anh đồng tình. "Nhưng ta không thể. Vô ích thôi. Trước tiên chúng ta phải trải qua tất cả những chuyện chết tiệt này đã. Tin anh đi, anh sẵn sàng trả bất cứ giá nào để không... không còn phải trải qua chuyện như vậy lần thứ hai... nhưng giờ thì ta đang ở đây. Như những ngừời bạn cũ."
"Cuộc sống sẽ không diễn ra theo cách ta vẫn tưỏng."
Eph gật đầu. "Sau những gì cha mẹ anh đã trải qua, những gì họ đã khiến anh phải trải qua, anh luôn thề với bản thân rằng, không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ như vậy nữa."
"Ếm biết."
Anh đậy miệng bịch sữa. "Vì vậy hãy quên rằng ai đã làm gì đi. Những gì ta cần làm bây giờ là bù đắp cho thằng bé."
"Đúng vậy."
Kelly gật đầu. Eph gật đầu. Anh lắc sữa trong bịch, cảm nhận cái lạnh trong lòng bàn tay.
"Chúa ơi, ngày gì thế này," anh nói. Anh lại nghĩ về bé gái ở Freeburg, cô bé nắm tay mẹ trên chuyến 753. Cô bé trạc tuổi Zack. "Em còn nhớ em vẫn luôn nói với anh rằng, nếu có chuyện gì đó, một mối nguy hiểm sinh học nào đó, mà anh không cho em biết trước tiên thì em sẽ ly hôn anh không? Chậc... đã quá muộn cho chuyện đó rồi."
Cô bước tói, đọc nét mặt anh. "Em biết anh đang gặp rắc rối."
"Đây không phải chuyện về anh. Anh chỉ muốn em lắng nghe, được chứ, đừng hoảng loạn. Có một loại vi rút đang lan truyền khắp thành phố. Nó là thứ gì đó... bất thường... có lẽ là thứ tệ nhất anh từng gặp phải."
"Tệ nhất ư?" Cô tái mét. "SARS ư?"
Eph suýt nữa đã mỉm cười trước sự phi lý của toàn bộ chuyện này. Sự điên rồ.
"Điều anh muốn em làm là mang Zack rời khỏi thành phố này. Cả Matt nữa. Sớm nhất có thể - tối nay, ngay bây giờ - và hãy đi xa nhất có thể. Ý anh là, hãy tránh xa những khu vực đông dân cư. Bố mẹ em... anh biết em cảm thấy thế nào về việc dựa dẫm vào họ, nhưng họ vẫn còn căn nhà trên Vermont chứ? Trên đỉnh đồi đó?"
"Anh đang nói gì vậy?"
"Hãy tới đó. ít nhất vài ngày. Xem bản tín, và chờ điện thoại từ anh."
"Chờ đã," cô nói. "Em mới thuộc kiểu người hoang tưỏng chạy-trốn-lên-đồi, chứ không phải anh. Nhung... còn lóp học của em thì sao? Trường học của Zack nữa?" Cô nhăn nhó. "Tại sao anh không nói cho em nó là gì?"
"Bởi khi đó em sẽ chẳng rời đi nữa. Hãy tin anh, và đi đi," anh nói. "Hãy đi đi, và hy vọng ta có thể chấm dứt nó, bằng cách nào đó, hãy hy vọng rằng tất cả những chuyện này sẽ sớm trôi qua."
" 'Hy vọng' ư?" cô hỏi. "Giờ anh đang thực sự làm em sợ đấy. Nếu như anh không thể chấm dứt nó thì sao? Và... và nếu như chuyện gì đó xảy ra với anh thì sao?"
Anh không thể đứng đó kể cho cô những hoài nghi của chính mình. "Kelly, anh phải đi."
Anh định bước ra, nhưng cô đã chộp tay anh, nhìn vào mắt anh để thăm dò xem làm vậy liệu có được không, và rồi cô vòng tay ôm lấy anh. Ban đầu nó chỉ là một cái ôm làm lành, nhưng rồi nó đã trở thành một điều gì đó còn hơn thế, và cuối cùng, cô chỉ càng siết anh chặt hon. "Em xin lỗi," cô thì thầm vào tai anh, rồi hôn vào bên cổ chưa cạo lỏm chỏm râu ria của anh.

Phố Vestry, Tribeca
ELDRITCH PALMER ngồi đợi trên một chiếc ghế không đệm trong sân hiên trên nóc nhà, tắm trong không khí ban đêm. Thứ ánh sáng thẳng duy nhất là từ một cây đèn dầu ngoài trời đang cháy trong góc. Sân hiên này nằm trên nóc của căn nhà thấp hơn trong số hai căn nhà cao tầng liền kề nhau. Nền sàn đưọc làm bằng gạch đất sét vuông, cũ kĩ và bạc phếch do thiên nhiên. Một bậc thềm thấp dẫn tới một bức tường gạch cao phía Bắc, với hai cửa vòm trang trí bằng khung sắt. Mái nóc tường bằng gạch đất nung có rãnh chìa ra hai bên. Bên trái, qua những khung cửa vòm trang trí rộng hon, là những cánh cổng to dẫn vào khu phòng ở. Phía sau Palmer, nằm chính giữa bức tường xi măng trắng phía Nam, là bức tượng một phụ nữ không đầu trong bộ áo choàng phấp phói, vai và cánh tay ngả đen vì dãi dầu mưa nắng. Cây thường xuân bò trên bệ đá. Mặc dù một vài tòa
nhà cao hơn có thể bị trông thấy từ cả phía Bắc lẫn phía Đông, nhưng sân hiên này khá riêng tư, theo cái cách mà sân thượng vẫn thường được che chắn ở khu trung tâm Manhattan đầy cao ốc này.
Palmer ngồi lắng nghe âm thanh của thành phố vọng lên từ dưới những con phố. Những âm thanh này sẽ sớm chấm dứt thôi. Nếu những kẻ dưới đó biết được chuyện này, họ sẽ buộc phải cảm thấy quý báu quãng thời gian đêm nay. Mọi điều trần tục của cuộc sống hẳn sẽ sục sôi hơn khi đối mặt với cái chết cận kề. Palmer hiểu rõ điều này từ kinh nghiệm bản thân. Từng là một đứa bé ốm yếu, ông ta đã phải chống chọi cả đòi để sống sót. Có những buổi sáng, ông ta thức dậy và thật ngạc nhiên bởi vẫn còn nhìn thấy bình minh. Hầu hết mọi người chẳng thể hiểu nổi cảm giác khi sự tồn tại của mình phải tính bằng từng bình minh một. Cảm giác khi phải dựa vào máy móc để sống. Sức khỏe tốt là quyền lọi bẩm sinh của hầu hết mọi người, và cuộc sống khi đó sẽ là một chuỗi ngày thưởng ngoạn. Họ chẳng bao giờ có thể hiểu được sự cận kề cái chết. Sự thân thuộc của bóng tối vĩnh cửu.
Sớm thôi, Eldritch Palmer sẽ thấu hiểu niềm hạnh phúc của bọn họ. Một chuỗi ngày vô tận kéo dài phía trước. Sớm thôi, ông ta sẽ biết cảm giác như thế nào khi không còn phải lo lắng về ngày mai, ngày kia...
Một luồng gió lay động những tán cây trên sân hiên, làm xào xạc một số bụi cây trồng dưới sàn. Palmer, ngồi đối diện với khu phòng ở cao hon, chếch về một phía, cạnh chiếc bàn hút thuốc nhỏ, nghe thấy tiếng sột soạt. Một tiếng sột soạt rất khẽ, giống như tiếng quần áo quệt trên mặt sàn. Một bộ quần áo đen.
Ta tưởng ngươi không muốn có bất cứ liên lạc nào cho tới khỉ đã qua tuần đầu tiên.
Giọng nói đó - vừa quen thuộc, vừa gớm ghiếc - khiến một con ớn lạnh chạy dọc sống lưng xương xẩu của Palmer. Nếu Palmer không cố ý ngồi quay lưng, tránh khỏi khoảng rộng của sân hiên - vừa bởi kính trọng, vừa bởi nỗi sợ hãi vốn dĩ của một con người - hẳn ông ta đã thấy miệng Chúa Tể chẳng bao giờ mấp máy. Chẳng một âm thanh nào thoát ra trong màn đêm. Chúa Tể nói thẳng vào tâm trí của người đối thoại.
Palmer cảm thấy sự hiện diện sừng sững ngay phía trên vai, và vẫn dán mắt vào khung cửa vòm dẫn vào phòng. "Chào mừng tới New York."
Lời này thốt ra giống hệt như một tiếng hổn hển, khác hẳn với những gì ông ta trông đợi. Chẳng gì có thể khiến ta mất can đảm hơn là một quái vật.
Thấy Chúa Tể không nói gì, Palmer cố gắng lấy lại vẻ quyết đoán. "Tôi phải nói rằng, tôi không chấp nhận tên Bolivar này. Tôi không hiểu vì sao ngài lại có thể chọn hắn ta."
Hắn là ai với ta không quan trọng.
Palmer ngay lập tức nhận ra Chúa Tể nói đúng. Bolivar có là một ngôi sao nhạc rock trang điểm lòe loẹt thì đã sao chứ? Palmer cho rằng mình đang suy nghĩ như một con người. "Vì sao ngài để lại bốn kẻ sống sót? Điều đó đã gây nên rất nhiều rắc rối."
Ngươi đang chất vấn ta ư?
Palmer nuốt nước bọt. Một ông trùm trong cuộc sống này, không dưới quyền bất cứ ai. Cảm giác phục tùng hèn hạ này vừa xa lạ, vừa quá sức đối với ông ta.
"Có kẻ đang theo dấu ngài," Palmer nói vội. "Một bác sĩ, một kẻ chuyên điều tra về các căn bệnh. Ngay tại New York này."
Một con người có là vấn đề gì với ta?
"Hắn ta - hắn là bác sĩ Ephraim Goodweather - là một chuyên gia kiểm soát bệnh dịch."
Ngươi đang tung hô những con khỉ nhãi nhép. Giống loài của ngươi mới là bệnh dịch - không phải của ta.
"Tên Goodweather này đang được ai đó chỉ dẫn. Một kẻ có hiểu biết tường tận về giống loài của ngài. Hắn ta biết về truyền thuyết và thậm chí một chút về sinh học. Cảnh sát đang tìm hắn, nhưng tôi nghĩ cần hành động quyết liệt hon. Tôi tin rằng điều này có thể tạo nên khác biệt giữa một chiến thắng nhanh gọn, quyết định và một cuộc chiến lâu dài. Chúng ta còn rất nhiều trận đánh nữa, với con người, cũng như với các loài khác..."
Ta sẽ chiến thắng.
Tới lúc này, Palmer chẳng còn chút nghi ngờ nào nữa. "Đúng vậy, tất nhiên rồi." Palmer muốn lão già đó cho riêng mình. Ông ta muốn xác nhận danh tính lão trước khi tiết lộ bất cứ thông tin nào cho Chúa Tể. Vì thế ông ta cố hết sức không nghĩ về lão già đó - bởi ông ta biết, trước sự hiện diện của Chúa Tể, ai cũng phải che giấu suy nghĩ của mình...
Ta đã từng gặp lão già này. Khi lão còn chưa già đến vậy.
Palmer lạnh người trước thất bại đáng kinh ngạc. "Ngài chắc sẽ nhớ, tôi đã mất một thời gian dài mới tìm được ngài. Hành trình của tôi đã dẫn tôi tới tận cùng thế giới, có rất nhiều đường cụt và ngã rẽ - rất nhiều con người tôi phải vượt qua. Lão là một trong số chúng." Ông ta cố gắng chuyển chủ đề, nhưng tâm trí mịt mờ. Trước sự hiện diện của Chúa Tể, ông ta cảm thấy như mình đang bị ngập trong dầu mà ngay bên cạnh lại là một ngọn bấc cháy.
Ta sẽ gặp tên Goodweather này. Và chăm sóc hắn ta.
Palmer đã chuẩn bị sẵn một bản liệt kê những thông tin về bác sĩ dịch tễ CDC. Ông ta rút tờ giấy từ trong túi áo khoác mở ra, đặt lên mặt bàn. "Mọi thứ đều ở đây, thưa Chúa Tể. Gia đình hắn, những mối liên hệ đã biết..."
Có tiếng cào trên mặt bàn lát đá, và mẩu giấy bị lấy đi. Palmer chỉ thoáng thấy bàn tay đó. Ngón giữa khoằm và có móng nhọn, dài hơn và mập hơn các ngón khác.
Palmer nói, "Giờ đây chúng ta chỉ cần thêm vài ngày nữa."
Một cuộc tranh cãi, đại loại vậy, đã nổ ra bên trong ngôi nhà của ngôi sao nhạc rock, khu biệt thự hai căn đang xây dở mà Palmer đã phải miễn cưỡng bước vào để có thể có cuộc hẹn gặp trên mái hiên này. Ông ta đặc biệt không ưa phần duy nhất đã hoàn thành trong biệt thự này, đó là căn phòng ngủ trên gác mái được trang hoàng quá sặc sỡ và nặng mùi nhục dục. Palmer chưa từng ở cùng một phụ nữ nào. Khi còn trẻ, đó là do căn bệnh, cùng những cấm đoán của hai bà cô nuôi dạy ông ta.
Còn khi già hon, đó là do chính ông ta lựa chọn như vậy. Ông ta đã dần hiểu ra rằng sự thuần khiết của bản thân không bao giờ được để bị ô uế bởi ham muốn.
Tiếng ồn ào trong nhà lớn dần, trở thành tiếng ẩu đả.
Người của ngươi đang gặp rắc rối.
Palmer nhoài người về phía trước. Fitzwilliam đang ở trong đó. Palmer đã cấm anh ta tuyệt đối không bước vào khu vực mái hiên. "Ngài đã nói rằng cậu ta sẽ được bảo đảm an toàn tại đây."
Palmer nghe thấy tiếng chạy rầm rập. Ông ta nghe thấy tiếng gầm gừ. Một tiếng la của con người.
"Hãy ngăn họ lại," Palmer nói.
Giọng Chúa Tể, vẫn như thường lệ, uể oải và đều đều.
Hắn không phải kẻ chúng muốn.
Palmer hoảng loạn. Chúa Tể đang ám chỉ ông ta ư? Đây là một cái bẫy ư? "Chúng ta đã thỏa thuận!"
Cho tới chừng nào ta còn thấy hợp lý.
Palmer nghe thấy một tiếng la nữa, rất gần - theo sau là hai tiếng súng nổ liên tiếp. Rồi một trong những cửa vòm bên trong bật mở vào trong, và cánh cổng trang trí bị đẩy ra. Fitzwilliam, một lính thủy đánh bộ nặng 120 cân trong bộ vest Savile Row, lao vào, khẩu súng lục kẹp chặt trong bàn tay phải, đôi mắt rực lên vì kiệt sức. "Thưa ngài, chúng đang theo ngay sau tôi..."
Đúng lúc đó, ánh mắt anh ta chuyển từ khuôn mặt Palmer sang hình hài cao ngất đang đứng ngay sau ông ta. Khẩu súng trượt khỏi tay Fitzwilliam, roi đánh cạch xuống sàn. Mặt Fitzwilliam trắng bệch, anh ta lảo đảo một lát như người đu dây, rồi khuỵu xuống.
Phía sau anh ta, những kẻ biến đổi ập tói. Những con ma cà rồng trong đủ mọi loại trang phục người thường, từ đồ công sở cho tới trang phục gothic và những bộ quần áo tuềnh toàng của đám paparazzi. Tất cả đều hôi thối và rách rưới do làm tổ dưới đất. Chúng ùa vào mái hiên như bị gọi bởi một tiếng huýt sáo cầm lặng.
Dẫn đầu chính là Bolivar, hốc hác và gần hói, mặc áo choàng đen. Là một ma cà rồng thế hệ đầu tiên, hắn ta trưỏng thành hơn lũ còn lại. Da thịt hắn tái nhợt như không có máu, như thạch cao, gần như phát sáng, và đôi mắt hắn trông như quầng mặt trăng chết chóc.
Phía sau hắn là một fan nữ vừa bị Fitzwilliam bắn vào mặt trong con hoảng loạn. Xương má cô ta vỡ toác tới tận mang tai, khiến cô ta trông như đang toe toét cười khoe trọn nửa hàm răng trần trụi.
Lũ còn lại lảo đảo bước vào trong màn đêm mới, bị kích động bởi sự hiện diện của Chúa Tể của chúng. Chúng dừng lại, nhìn hắn chằm chằm sợ hãi.
Các con.
Palmer - đang đứng ngay trước chúng, giữa chúng và Chúa Tể - hoàn toàn bị phớt lờ. Sức mạnh từ sự hiện diện của Chúa Tể khiến đám kia bất động. Chúng tập trung trước hắn như thể một lũ man rợ đứng trước một đền thờ.
Fitzwilliam vẫn quỳ gối, như bị đè xuống.
Chúa Tể nói, theo cách Palmer tin là với riêng ông ta.
Ngươi đã mang ta tới tận đây. Vậy mà ngươi không nhìn ư?
Palmer đã từng diện kiến Chúa Tể một lần, trong căn hầm tối tại một lục địa khác. Không quá rõ, nhưng cũng đủ để ông ta chẳng bao giờ quên được hình ảnh đó.
Giờ chẳng có cách nào né tránh nữa. Palmer nhắm mắt lại để lấy bình tĩnh, rồi mở mắt và ép mình quay đầu lại. Như thể liều mạng nhìn thẳng vào mặt trời bất chấp nguy cơ bị mù.
Mắt ông ta lướt từ ngực Chúa Tể cho tói... mặt hắn.
Sự kinh hoảng. Và huy hoàng.
Sự bất kính. Và đẹp đẽ.
Sự man rợ. Và thần thánh.
Nỗi kinh hoàng ghê gớm kéo khuôn mặt Palmer căng ra thành một cái mặt nạ sợ hãi, và cuối cùng biến đổi các góc của nó thành một nụ cười nhăn nhở hoan hỉ.
Loài siêu việt gớm guốc.
Đó là Chúa Tể.
Pho Kelton, Woodsite, Queens
KELLY CAM MỘT ĐỐNG PIN và quần áo sạch bước vội qua phòng khách, ngang qua Matt và Zack, lúc này đang xem bản tin truyền hình.
"Chúng ta sẽ rời đi," Kelly nói, nhồi nhét đồ đạc vào một túi vải trên ghế.
Matt quay về phía cô với một nụ cười mà Kelly chẳng muốn trông thấy chút nào. "Thôi nào, em yêu," anh ta nói.
"Anh không nghe em nói gì à?"
"Có. Một cách kiên nhẫn." Anh ta đứng dậy khỏi ghế. "Xem này, Kel, chồng cũ của em lại làm vậy nữa rồi. Ném một quả lựu đạn vào cuộc sống gia đình hạnh phúc của chúng ta. Em không nhận thấy điều đó sao? Nếu đây là chuyện gì đó thực sự nghiêm trọng, chính quyền sẽ phải cảnh báo chúng ta."
"Ô. Phải, tất nhiên rồi. Chính quyền đưọc bầu thì chẳng bao giờ nói dối cả." Cô bước rầm rầm tới phòng kho phía trước nhà, lôi ra những thứ đồ còn lại. Kelly cũng có một túi đồ cá nhân cấp thiết, theo như lời khuyên của Văn phòng Quản lý Tình trạng Khẩn cấp New York, đề phòng trường họp cần phải sơ tán khẩn cấp. Đó là một túi vải bao gồm nước đóng chai và những thanh ngũ cốc ăn liền, một đài AM/FM/sóng ngắn vận hành bằng tay, một đèn Faraday*1*, một bộ sơ cứu, 100 đô tiền mặt, và bản sao những tài liệu quan trọng bên trong một hộp chống nước.
"Đây quả đúng là một lời tiên tri tự hoàn thành*[2] [3]’ đối với em," Matt nói tiếp, bước theo sau cô. "Em không nhận ra sao? Anh ta hiểu em. Anh ta biết chính xác từng nước đi. Đó cũng chính là lý do khiến em và anh ta chẳng thể nào họp nhau."
Kelly lục lọi sâu trong vách kho, cố ý ném ra hai chiếc vợt tennis cũ, đập trúng chân Matt vì đã nói năng như vậy trước mặt Zack. "Không phải như vậy. Em tin anh ấy."
"Anh ta đang bị truy nã, Kel. Anh ta đang thất bại, suy sụp. Tất cả những gã thiên tài tự xưng như vậy về cơ bản đều vô cùng yếu đuối. Giống như thứ hoa hướng dương cứ luôn gắng sức phát triển vượt lên trên hàng rào - và rồi do cái bông quá lớn, chúng đổ sụp dưới chính sức nặng của mình." Kelly phi một chiếc bốt mùa đông, bay sát cẳng chân anh ta, nhưng lần này anh ta tránh được. "Chuyện này hoàn toàn là vì em, em biết đấy. Anh ta bị thần kinh. Chẳng thể buông tay. Tất cả những chuyện này chỉ là để giữ lấy em."
Cô dừng lại và quay ra, vẫn trong tư thế bò trên cả hai tay hai chân, nhìn chằm chằm anh ta từ phía dưới những vạt áo khoác trong kho. "Anh thật sự thiếu hiểu biết đến vậy ư?"
"Đàn ông không muốn thua cuộc. Họ sẽ không từ bỏ."
Cô bước ra, kéo theo chiếc va li American Tourister khổng lồ của mình. "Đó là lý do khiến anh không chịu đi ư?"
"Anh không đi bởi anh phải đi làm. Nếu anh nghĩ mình có thể lấy lý do ngày tận thế của gã chồng gàn dở của em để thoát khỏi công việc kiểm kê hàng hóa này, anh sẽ làm vậy, tin anh đi. Nhưng thực tế, khi ta không đi làm, ta sẽ mất việc."
Cô quay lại, nổi giận trước sự ngoan cố của anh ta. "Eph đã nói rồi. Anh ấy chưa từng hành động như vậy, chưa từng nói chuyện như vậy. Đây là sự thật."
"Đó là chứng kích động do nhật thực, họ vẫn nói về nó trên ti vi đấy thôi. Mọi người trở nên hoảng loạn. Nếu như phải chạy biến khỏi New York vì những điều điên rồ đó, anh đã làm vậy hàng năm trời trước kia rồi." Matt nắm lấy vai cô. Ban đầu cô lắc ra, nhưng rồi sau đó để anh ta giữ lấy cô một lát. "Anh sẽ thường xuyên ghé qua gian đồ điện tử, có ti vi ở đó, để xem có chuyện gì xảy ra không. Nhưng thế giới vẫn quay mà, phải không? Đối với những người có công việc thực sự như chúng ta. Ý anh là... em định bỏ lóp học của em ư?"
Học sinh của cô cần cô, và điều đó níu giữ cô lại. Nhưng mọi người, mọi thứ đều xếp sau Zack. "Có lẽ họ sẽ cho nghỉ học vài ngày. Nghĩ mà xem, hôm nay lóp em có rất nhiều đứa vắng mặt không lý do..."
"Chúng là trẻ con mà, Kel. Cúm thôi."
"Con nghĩ đó đúng là do nhật thực đấy," Zack lên tiếng, từ căn phòng đối diện. "Fred Falin đã nói với con như vậy ở trường. Tất cả những người nhìn mặt trăng mà không đeo kính thì sao? Nó sẽ nướng chín não của họ."
Kelly nói, "Cái dam mê của con với mấy thứ xác sống đó là sao vậy?"
"Chứng đang ở ngoài kia," thằng bé nói. "Phải chuẩn bị. Con cá mẹ thậm chí chẳng biết đâu là hai thứ quan trọng cần có hàng đầu để có thể sống sót trong một cuộc xâm lược của xác sống."
Kelly phớt lờ thằng bé. Matt nói, "Chú chịu."
"Dao rựa và trực thăng."
"Dao rựa ư?" Matt lắc đầu. "Chú nghĩ thà có súng trường còn hon."
"Sai lầm," Zack nói. "Chú sẽ không cần phải nạp đạn cho một con dao rựa."
Matt đồng tình với quan điểm này, anh ta quay sang Kelly. "Thằng bé Fred Falin này thực sự rất am hiểu mấy thứ đó."
"Mọi người - tôi CHỊU ĐỦ Rồi!" Cô không quen với việc bị cả hai hùa vào bắt nạt như vậy. Thường thì, cô có thể sẽ rất vui khi thấy Zack và Matt đoàn kết với nhau. "Zack, con đang nói vớ vẩn đấy. Đây là vi rút, và đó là sự thật. Chúng ta cần phải thoát khỏi đây."
Matt đứng đó trong khi Kelly đem chiếc va li rỗng tới chỗ túi còn lại. "Kel, thư giãn đi. Đưọc chứ?" Anh ta rút chìa khóa xe khỏi túi, xoay nó trên ngón tay. "Đi tắm đi, và bình tĩnh lại. Xin em hây suy nghĩ thấu đáo chuyện này. Hãy nghĩ lại về nguồn cung cấp thông tin 'nội bộ' của em." Anh ta bước tới cửa trước. "Anh sẽ liên lạc với em sau."
Anh ta đi khỏi. Kelly đứng nhìn cánh cửa đóng kín.
Zack tới bên cô, đầu hơi nghiêng, cái hiểu của nó mỗi khi muốn hỏi những câu như cái chết nghĩa là gì hay tại sao một SỐ người đàn ông lại nắm tay nhau. "Bố nói gì về chuyện-này hả mẹ?"
"Bố chỉ... bố muốn điều tốt nhất cho mẹ con mình."
Kelly day trán để che hai mắt. Liệu cô có nên cảnh báo Zack? Liệu cô có thể mang Zack rời khỏi đây chỉ vì nghe theo lời Eph, mà không có Matt? Liệu cô có nên không? Và, nếu như cô tín Eph, chẳng phải cô có bổn phận đạo đức phải cảnh báo những người khác ư?
Con chó nhà Heinson kế bên bắt đầu sủa. Không phải tiếng kêu giận dữ như thường lệ, mà là một âm thanh cao, gần như sợ hãi. Nó đủ khiến Kelly quay trở lại căn phòng ốp kính phía sau nhà, và tại đó, cô nhận ra chiếc đèn cảm ứng tự động trên mặt đất sân sau đã bật sẵn.
Cô khoanh tay đứng đó, quan sát sân vườn, chờ động tĩnh. Mọi thứ có vẻ thật yên ắng. Nhưng con chó vẫn sủa, cho tới khi bà Heinson ra và mang nó vào nhà, nhưng nó vẫn cứ sủa.
"Mẹ ơi?"
Kelly giật mình, sợ hãi khi bất ngờ bị cậu con trai chạm vào người, cô đã hoàn toàn mất bình tình.
"Mẹ ổn chứ?" Zack hỏi.
"Mẹ ghét điều này," cô nói, và dẫn thằng bé vào phòng khách. "Rất ghét."
Cô sẽ thu dọn hành lý, cho cô, cho Zack, và cho Matt.
Và cô sẽ trông chừng.
Và cô sẽ đợi.
Bronxville
CÁCH MANHATTAN BA MƯƠI PHÚT lái xe về phía Bắc, trong một phòng bar vách gỗ sồi ở câu lạc bộ Siwanoy Country, Roger Luss ngồi bấm iPhone trong lúc đợi phục vụ ly martini đầu tiên. Anh đã bảo tài xế taxi của Town Car cho anh xuống đây thay vì đi thẳng về nhà. Anh muốn có chút thời gian để đánh giá tình hình. Nếu quả Joan bị ốm thật theo như tin nhắn thoại của bà trông trẻ thì có khả năng lũ trẻ giờ cũng đã bị theo, và như thế anh sẽ phải đối mặt với cả đống phiền phức ở nhà. Chỉ nhiêu đó thôi cũng đã quá đủ để anh có thêm lý do kéo dài chuyến công tác một hoặc hai giờ.
Phòng ăn nhìn ra sân golf lúc này khách vắng tanh dù đang giờ ăn tối. Người phục vụ bước tới với một ly martini ba quả ô liu đặt trên chiếc khay phủ khăn trắng. Không phải người phục vụ quen thuộc của anh. Anh ta là người Mexico, giống như mấy thanh niên đậu xe ở phía trước câu lạc bộ. Áo sơ mi nhét vội ở hông, và anh ta không đeo dây lưng, móng tay bẩn thỉu. Sáng mai, Roger sẽ nói lại chuyện này với quản lý câu lạc bộ. "Đây rồi," Roger nói, những quả ô liu chìm xuống đáy cốc thủy tinh hình chữ V, giống những nhãn cầu nhỏ lớng lánh bảo quản trong nước dầm giấm. "Mọi người đâu hết cả rồi? Thị trường đóng cửa hôm nay à? Hay tổng thống chết?"
Một cái nhún vai.
"Nhân viên thường ngày đâu cả rồi?"
Anh ta lắc đầu. Giờ thì Roger nhận thấy anh chàng này có vẻ rất hoảng sợ.
Rồi Roger nhận ra anh ta. Bộ đồng phục quầy bar làm anh không để ý. "Anh làm bảo trì sân golf, phải không? Thường thì anh ở ngoài kia cắt cỏ."
Người bảo trí sân golf trong đồng phục quầy bar gật đầu lo lắng và loạng choạng đi ra sảnh trước.
Quá kỳ lạ. Roger nhấc ly martini và nhìn quanh, nhưng chả có ai để mà nâng ly hay gật đầu cùng, hay để bàn chuyện chính trị. Và thế là, vì chả có ai nhìn, Roger Luss uống một lèo nửa ly chỉ với hai hóp lớn. Anh cảm nhận được rượu trôi xuống dạ dày và khoái trá rên lên một tiếng. Anh chọc một quả ô liu, vỗ nó vào thành cốc cho ráo trước khi đưa vào miệng, nhấn nhá một lúc, rồi cắn nó giữa những cái răng hàm.
Trên chiếc ti vi gắn vào vách gỗ phía trên chiếc gương, anh thấy đang có họp báo. Ông thị trưởng đứng giữa các quan chức thành phố vẻ mặt khó đăm đăm. Rồi sau đó - cảnh quay cái máy bay 753 của hãng Regis Air trên đường lăn sân bay JFK.
Sự im lặng của câu lạc bộ làm anh lại phải nhìn quanh. Mọi người ở đâu hết thế này?
Có chuyện gì đó đang diễn ra ở đây. Có chuyện gì đó đang xảy ra ở đây mà Roger Luss không biết.
Anh tọp nhanh một ngụm martini nữa - và một ngụm nữa - rồi đặt chiếc cốc xuống, anh đứng lên. Anh đi ra phía trước, kiểm tra phòng ăn khác bên cạnh - cũng không người. Cửa nhà bếp ở ngay bên cạnh quầy rượu, với một ô cửa sổ nhỏ phía trên bị che cho tối đi. Roger hé mắt nhìn vào trong và chỉ thấy duy nhất người phục vụ quán/người bảo trì sân golf ở đó đang hút thuốc và tự nướng cho mình miếng bít tết.
Roger đi ra cửa trước, nơi anh để hành lý của mình. Không thấy người phục vụ ở đó để nhờ gọi taxi, anh lấy điện thoại, tìm trên mạng danh sách những xe đang ở gần nhất, và gọi một chiếc.
Trong lúc chờ đợi dưới ánh sáng của những ngọn đèn treo trên cột phía trước nhà để xe, vị chua loét của martini ợ lên trong miệng, anh nghe thấy một tiếng thét. Một tiếng thét đon lẻ xé tai giữa ban đêm, ở đâu đó không xa. Có vẻ như về phía Bronxville, ngược hướng với Mount Vemon. Có thể là từ đâu đó ngay trong sân golf.
Anh đứng chờ, không nhúc nhích. Nín thở. Chăm chú lắng nghe.
Tiếng thét đó còn không đáng sợ bằng sự im lặng tiếp theo.
Một chiếc taxi đỗ lại, tài xế là một người đàn ông trung niên gốc Trung Đông với chiếc bút gài trên tai. Anh ta tươi tỉnh chất hành lý của Roger vào thùng xe và lái đi.
Trên con đường khá dài thuộc sở hữu tư nhân dẫn ra khỏi câu lạc bộ, Roger nhìn về phía sân golf và anh nghĩ đã thấy ai đó đang đi cắt ngang đường lăn bóng, dưới ánh trăng.
Quãng đường về nhà sẽ mất khoảng ba phút đi xe. Trên đường không một bóng xe cộ, hầu hết các ngôi nhà đều tắt đèn. Khi họ rẽ vào Midland, Roger thấy một người đi bộ trên hè đường - một cảnh tưọng lạ lẫm vào ban đêm, đặc biệt là khi không có chó đi cùng. Đó là Hal Chatfield, một hàng xóm cũ của anh, một trong hai thành viên đã bảo lãnh anh gia nhập câu lạc bộ golf Siwanoy khi Roger và Joan mới chuyển tới Bronxville. Hal bước đi với dáng điệu kỳ cục, hai tay buông thõng hai bên, áo choàng tắm mở phanh ra phấp phói để lộ áo may ô và quần đùi.
Hal quay lại nhìn chiếc taxi khi nó đi ngang qua. Roger vẫy tay. Khi anh quay lại để nhìn xem Hal có nhận ra mình không thì thấy Hal đang chạy theo anh, bước chạy không tự nhiên, cứng đơ. Một ông lão sáu mươi tuổi với chiếc áo choàng tắm bay phấp phói phía sau trông như một tấm khăn choàng, đang chạy đuổi theo một chiếc taxi giữa đường tại Bronxville.
Roger quay lại xem tài xế có nhận thấy có người đang đuổi theo không, nhưng anh ta đang vừa lái xe vừa nguệch ngoạc gì đó lên bảng kẹp giấy.
"Này," Roger nói. "Anh có biết chuyện gì đang diễn ra ở đây không?"
"Có," anh tài xế nói, mỉm cười và gật đầu nhanh. Anh ta không hiểu Roger nói gì.
Qua hai chỗ rẽ nữa thì tới nhà Roger. Tài xế bật mở mui sau và ra khỏi xe cùng với Roger. Đường phố vắng lặng, nhà Roger tối om như những nhà còn lại.
"Thế này nhé. Hãy đợi ở đây. Đợi được không?" Roger chỉ xuống vỉa hè lát đá cuội. "Anh có thể đợi được chứ?"
"Anh thanh toán."
Roger gật đầu. Anh thậm chí không rõ lắm vì sao anh lại bảo người lái xe đợi mình ở đây. Hình như nó liên quan tới cảm giác quá đon độc. "Tôi để tiền trong nhà. Anh đợi tôi. Được chứ?"
Roger bỏ hành lý lại trong tiền phòng bên cạnh cửa ngách và đi vào trong phòng bếp, rồi gọi to, "Có ai không?" Anh bấm công tắc đèn, nhưng đèn không sáng. Anh có thể nhìn thấy đồng hồ lò vi sóng vẫn sáng xanh, có nghĩa là vẫn có điện. Anh qườ tay dò đường đi dọc theo quầy bếp, lần tới ngăn kéo thứ ba và sục sạo tìm chiếc đèn pin ở bên trong. Một mùi thối rữa, gắt hơn hẳn mùi thức ăn thừa ôi thiu trong sọt rác, xộc vào mũi làm anh thêm phần lo lắng và tay anh khẩn trương hon. Anh cầm lấy chuôi đèn pin và bật nó lên.
Anh quét luồng sáng quanh phòng bếp dài, thấy chiếc bàn ăn giữa nhà, cái bàn phía sau, bếp đun và lò nướng kép. "Có ai không?" Anh lại gọi, nỗi sợ trong giọng nói làm anh cảm thấy xấu hổ, giục giã anh khẩn trương hon. Anh thấy vết bẩn tung tóe trên nhũng ô kính tủ bếp, và khi rọi ánh sáng vào anh thấy nó giống như một hỗn họp của xốt cà chua và xốt mayonnaise. Sự lộn xộn này làm anh nổi giận. Rồi anh nhìn thấy cả những chiếc ghế bị lộn ngược, những vết chân bẩn (vết chân ư?) trên mặt bàn đá hoa cương giữa nhà.
Bà quản gia Guild đâu? Joan đâu? Roger lại gần vết tung tóe, hướng ngọn đèn lên tấm kính tủ trên cao. Thứ màu trắng, anh không biết nó là gì - nhưng thứ màu đỏ không phải là xốt cà chua. Anh không chắc lắm... nhưng anh nghĩ đó có thể là máu.
Nhìn thấy thứ gì đó chuyển động phản chiếu trên mặt kính, anh quét nhanh ánh sáng đèn pin một vòng. Cầu thang phía sau anh không có ai. Anh nhận ra chính mình đã làm chuyển động cánh cửa tủ. Anh không muốn để cho những tưởng tượng của mình lấn át lý trí, vậy là anh chạy lên cầu thang, kiểm tra từng phòng một bằng ánh sáng đèn pin. "Keene? Audrey?" Trong phòng Joan, anh tìm thấy những dòng viết tay liên quan tới chuyến bay của hãng Regis Air. Kiểu như một lịch trình hành động, dù rằng có mấy câu cuối anh không tài nào hiểu nổi. Từ cuối cùng được viết nguệch ngoạc tại góc dưới bên phải của tờ giấy "hừmmmmm".
Trong phòng ngủ chính, khăn trải giường roi cả xuống sàn, còn trong phòng tắm lớn, những thứ không xả đi hây còn nổi lều phều trong bồn cầu và nhìn giống như chất nôn mửa lâu ngày vón lại với nhau. Anh nhấc lên từ sàn một chiếc khăn tắm, để nó thõng xuống, và nhìn thấy những vệt máu đông sẫm, như thể chiếc khăn vải bông này đã được dùng như một chiếc khăn tay để mà ho vào.
Anh chạy ngược xuống dưới cầu thang chính. Anh nhấc điện thoại treo tường và bấm gọi 911. Nó reo một tiếng trước khi máy tự động yêu cầu anh giữ máy. Anh treo máy lên và gọi lại lần nữa. vẫn chỉ một tiếng chuông và tiếng máy tự động.
Anh đánh roi điện thoại khỏi tai khi nghe thấy có tiếng động mạnh vọng lên từ dưới tầng hầm. Anh mở toang cánh cửa, định gọi vọng vào bóng tối phía dưới - nhưng có gì đó đã ngăn anh lại. Anh lắng nghe, và nghe thấy... có gì đó.
Có tiếng chân kéo lê nặng nề. Không chỉ của một người, đang bước lên cầu thang, đã đến giữa chừng, nơi cầu thang ngoặt một góc chín mươi độ, và giờ đang tiến gần tới chỗ anh.
"Joan à?" anh nói. "Keene, Audrey?"
Nhưng anh đã từ từ bước lùi lại. Vấp vào khung cửa, anh ngã về phía sau, nhưng chồm ngay dậy và loạng choạng chạy ra khỏi bếp, ngang qua những thứ gì nhầy nhụa bám trên tường và ra tới tiền phòng. Ý nghĩ duy nhất của anh lúc này là thoát ra khỏi đây.
Anh xô tung cánh cửa đệm và chạy ra lối đi, rồi ra tới ngoài phố, hét gọi tài xế đang ngồi sau tay lái, vốn không biết tiếng Anh. Roger mở cửa sau và chui vào trong xe.
"Khóa cửa! Khóa cửa!"
Anh tài quay đầu lại. "Vâng. Tám đô la rưỡi."
“Khóa cái cửa khốn kiếp lại!”
Roger ngoái nhìn lối đi dẫn vào nhà. Ba người lạ mặt, hai phụ nữ và một đàn ông, họ đã ra khỏi tiền phòng và bắt đầu đi qua bãi cỏ nhà anh.
"Đi! Đi! Lái đi!" Người lái xe gõ tay vào khay thanh toán tiền gắn trên vách ngăn giữa ghế trước và ghế sau. "Anh thanh toán, tôi sẽ đi."
Giờ họ có bốn người. Roger nhìn trừng trừng, đờ người ra khi một người đàn ông quen mặt mặc cái áo sơ mi rách bươm xô những người khác qua một bên để có thể tới được chiếc taxi đầu tiên. Đó là Franco, người làm vườn của anh. Ông ta nhìn Roger qua cửa xe, với đôi mắt xanh nhạt nhưng viền đỏ giống như vành nhật thực đỏ máu. Ông ta há mồm như muốn gầm lên với Roger - và kìa, thứ đó thò ra, đập cái bốp vào cửa kính xe, thẳng vào mặt Roger, rồi nó co lại.
Roger sững sờ. Mình vừa thấy cái quỷ gì thế này?
Ông ta lại làm như vậy một lần nữa. Roger chợt hiểu - một cách loáng thoáng, trong sâu thẳm con sợ hãi, hoảng loạn, điên cuồng - rằng Franco, hoặc kẻ đã tùng là Franco này, không biết, hoặc đã quên mất, hoặc hiểu sai về kính. Ông ta trông có vẻ bối rối trước độ trong suốt của vật thể rắn này.
"Lái đi!" Roger thét lên. "Lái đi!"
Hai trong số họ đã đứng chặn sát đầu chiếc taxi. Một người đàn ông và một phụ nữ, chỗ eo lưng họ sáng bừng dưới ánh đèn pha ô tô. Tất cả có bảy hoặc tám người đang bao quanh xe, những người khác đang đi ra từ những ngôi nhà lân cận.
Người tài xế kêu lên một tiếng gì đó bằng ngôn ngữ của mình, anh ta cúi người tì vào còi xe.
"Lái đi!" Roger thét lên.
Thay vì lái đi anh ta lấy ra một thứ gì đó từ sàn xe. Đó là một cái túi nhỏ có kích thước bằng một túi đồ trang điểm. Anh ta dốc bỏ mấy thanh bánh Zagnut rồi lấy ra một khẩu súng nhỏ xíu bằng bạc. Anh ta vung vũ khí của mình ra trước kính chắn gió, và kêu lên một tiếng sợ hãi.
Cái lưỡi của Franco đang khám phá kính xe. Gọi là lưỡi nhưng đó hoàn toàn không phải là một cái lưỡi.
Anh tài xế đạp cửa xe nhảy ra. Roger hét lên, "Đừng!" qua vách ngăn bằng kính, nhưng anh ta đã ở ngoài xe. Đứng sau cửa xe, anh ta vẩy cổ tay bắn súng, giống như ném đạn ra khỏi súng. Anh ta bắn và bắn, cặp đôi đứng trước mũi xe gập mình về phía trước vì dính những viên đạn của súng nòng nhỏ, nhưng họ không ngã xuống.
Anh tài xế nã thêm hai phát nữa, một phát trúng vào đầu người đàn ông. Một mảnh đầu hắn vắt ngược ra sau và hắn đổ xuống mặt đất.
Một kẻ khác túm lấy người tài xế từ phía sau. Đó là Hal Chatfield, hàng xóm của Roger, cái áo choàng tắm trễ xuống khỏi vai.
"Không!" Roger thét lên, nhưng đã quá muộn.
Hal xoay anh tài xế ra phía đường. Thứ đó thò ra khỏi miệng ông ta và xuyên vào cổ người tài xế. Roger nhìn anh ta tru lên đau đớn qua cửa kính xe.
Một kẻ khác nhỏm lên ngay phía trước đèn pha của xe. Không, không phải một kẻ khác, mà chính là người đàn ông đã bị bắn vào đầu trước đó. Từ vết thương của ông ta, thứ chất lỏng trắng chảy xuống một bên mặt. Ông ta bám vào đầu xe để đứng cho vững, nhưng vẫn tiếp tục tiến lên.
Roger muốn bỏ chạy, nhưng bị mắc kẹt. Phía bên phải, đằng sau ông làm vườn Franco, Roger nhìn thấy một người đàn ông mặc áo phông UPS màu nâu và quần soóc đi ra khỏi cửa gara ngôi nhà bên cạnh với một chiếc xẻng vác trên vai, trông như một vận động viên bóng chày chuẩn bị vụt bóng.
Người đàn ông bị thương ở đầu kéo lê thân mình vòng ra phía cửa xe đang mở và ngồi vào ghế tài xế. Ông ta nhìn Roger qua tấm nhựa ngăn cách, một mảng thái dương bên phải lẫn thịt và tóc bị tróc ra và chổng ngược lên. Chất rỉ ra màu trắng sáng bóng trên má và cằm ông ta.
Roger quay lại đứng khi gã mặc áo phông UPS vung xẻng lên. Nó va đánh choang vào cửa lánh sau, tạo ra một vết rạn dài trên mặt kính cường lực, ánh sáng đèn đường lấp loáng trên những vết nứt chằng chịt như mạng nhện.
Roger nghe thấy tiếng cào sột soạt vào bề mặt vách ngăn. Lưỡi của gã bị thương ở đầu đã thò ra và đang cố luồn qua khe của khay trả tiền. Cái chỏm thịt đã thò qua, dọ dẫm, như muốn đánh hơi không khí để định vị Roger.
Roger thét lên, điên cuồng đạp chân vào cái khe làm nó đóng sập xuống. Gã ngồi phía trước thốt ra một tiếng ré kinh dị, và cái đầu chẻ của... cái thứ đó roi thẳng xuống đùi Roger. Roger gạt nó ra. Cùng lúc đó, ở đầu bên kia vách ngăn, gã đó phọt tung tóe một thứ dung dịch trắng, gã đàn ông điên tiết không biết vì đau hay chỉ vì kích động.
Rầm! Một cú nện xẻng nữa vào mặt kính phía sau đầu Roger, mặt thủy tinh chống vỡ bị rạn và bẹp hẳn xuống, nhưng không chịu vỡ ra.
BỊch-bịch-bịch. Có tiếng đạp chân phía trên đầu Roger, và nóc xe lõm xuống.
Bốn kẻ ở trên vỉa hè, ba kẻ khác dưới mặt đường, và một đám đông hơn ở phía trước. Roger ngoái lại đằng sau, thấy tên điên mặc áo phông UPS lùi lại để vụt chiếc xẻng xuống tấm kính vỡ một lần nữa. Bây giờ hoặc là không bao giờ.
Roger vặn tay nắm cửa xe, cái cửa hướng ra lòng đường, và vận toàn lực đạp nó mở ra. Cái xẻng kia chém xuống làm cửa kính phía sau vỡ tan, mảnh kính bắn ra như mưa. Lưỡi xẻng trượt sát đầu Roger đúng lúc anh vừa kịp lao ra khỏi xe. Một tên nào đó - hóa ra là Hal Chatfield, với đôi mắt đỏ rực - túm lấy cánh tay anh xoay một vòng, nhưng Roger tuột khỏi chiếc áo vest của mình như một con rắn lách ra khỏi bộ da và bắt đầu chạy dọc con phố, không dám ngoái đầu lại cho tới khi đến chỗ rẽ.
Một số đuổi theo với dáng đi ngả nghiêng, số khác chuyển động nhanh hơn và động tác nhịp nhàng hon. Một số là người già, có ba đứa trẻ con mồm ngoác ra như đang cười toe toét. Đó là hàng xóm và bạn bè anh. Có những khuôn mặt quen mà anh nhận ra là đã gặp ở ga tàu điện, trong các buổi sinh nhật, trong nhà thờ.
Tất cả bọn họ đang đuổi theo anh.
Khu Flatbush, Brooklyn
EPH NHẤN CHUÔNG CỬA nhà Barbour. Đường phố vắng lặng, dù rằng cuộc sống vẫn đang diễn ra trong những ngôi nhà khác, với ánh sáng màn hình ti vi, những túi rác đặt ở vỉa hè. Anh đứng đó với chiếc đèn Luma và khẩu Sling bắn đinh do Setrakian chế tạo đeo vắt qua vai bằng một sọi dây da.
Nora đứng phía sau anh, ngay dưới chân mấy bậc thềm gạch, cầm đèn Luma. Setrakian đoạn hậu, với chiếc gậy chống, cái chuôi bạc của nó lấp lánh sáng dưới ánh trăng.
Hai hồi chuông, không có ai mở cửa. Không có gì ngạc nhiên. Eph vặn thử tay nắm cửa trước khi tìm một lối vào khác, và nó xoay.
Cánh cửa mở ra.
Eph bước vào đầu tiên, anh bật đèn lên. Phòng khách trông có vẻ bình thường, bộ salon phủ vải và nhũng chiếc gối tựa ở đúng vị trí của chúng.
Anh gọi to, "Xin chào," khi hai bạn đồng hành đã bước tới sau lưng anh. Kể cũng kỳ cục khi tự cho phép mình vào nhà của người khác như thế này. Anh đi nhón chân trên thảm, như một tên trộm hay sát thủ. Anh những muốn tin mình vẫn là một người chữa bệnh, nhưng điều đó quả khó mà tin được vào thời điểm thế này.
Nora bước lên cầu thang. Setrakian theo Eph vào phòng bếp. Eph nói, "Ông nghĩ ta sẽ phát hiện thấy gì ở đây? Ông nói những người sống sót chỉ là những kẻ đánh lạc hướng..."
"Tôi nói đó là mục đích của chúng. Cũng là mục đích của Chúa Tể, tôi không chắc lắm. Có thể họ có mối liên kết đặc biệt nào đó với Chúa Tể. Dù sao đi nữa, chúng ta cũng phải bắt đầu từ đâu đó. Những kẻ sống sót này là dấu vết duy nhất mà chúng ta có."
Có một cái bát và một cái thìa trong bồn rửa. Một cuốn Kinh Thánh mở sẵn trên mặt bàn, với rất nhiều ảnh và thẻ tưởng niệm người quá cố do nhà thờ phát hành kẹp bên trong. Sách để mở ở chương cuối. Một đoạn văn được gạch dưới bằng mực đỏ bởi một bàn tay ran rẩy, Sách Khải Huyền 11: 7-8
... con thú từ vực sâu ỉên, sẽ chiêh đấu cùng hai người; thú ấy sẽ thắng và giết hai người, và thỉ thể hai người sẽ nằm lại trên đường cái của thành phố vĩ đại mang tên bóng bẩy là Sodom...
Bên cạnh cuốn Kinh Thánh để mở, giống như đã được lấy từ bàn thờ xuống, là một cây thánh giá và một cốc nhỏ mà Eph cho là để đựng nước thánh.
Setrakian hất hàm về phía mấy thứ đồ tôn giáo đó. "Không hơn gì băng dán ống nước và thuốc kháng khuẩn Cipro," ông nói. "Và không có tác dụng gì hết."
Họ đi vào phòng sau. Eph nói, "Hẳn là người vợ đã che giấu cho anh ta. Vì sao chị ta không gọi bác sĩ cơ chứ?"
Họ tìm kiếm trong phòng kho, Setrakian dùng đầu gậy gõ vào các bức tường. "Tôi thấy khoa học tiến bộ rất nhiều trong thời đại của mình, nhưng vẫn chưa tồn tại một công cụ có thể soi tỏ mối quan hệ vợ chồng giữa một người đàn ông và một người đàn bà."
Họ đóng cửa tủ. Eph nhận thấy không còn một cửa nào để mở ra nữa. "Nếu như ở đây không có tầng hầm thì sao?"
Setrakian lắc đầu. "Nếu phải thám hiểm chỗ nào bắt buộc phải bò thì còn tệ hơn nhiều."
"Trên này!" Nora đang gọi từ tầng trên, giọng gấp gáp.
Thân hình Ann-Marie Barbour đổ vật trên sàn nhà từ tư thế ngồi, giữa cái bàn đêm và giường, đã chết. Giữa hai chân cô là chiếc gương treo tường đã bị cô đập vỡ trên sàn. Cô đã chọn một mảnh dài nhất, giống con dao nhất, để cắt đứt động mạch tay trái, cắt cổ tay là một trong những phương pháp tự tử kém hiệu quả nhất, với tỉ lệ thành công thường là dưới năm phần trăm. Đó là một cái chết chậm, do độ hẹp vào của cẳng tay, và nếu chỉ cắt một cổ tay mà vẫn có thể thành công thì là do vết cứa sâu đến đứt dây thần kinh, làm bàn tay đó trở nên vô dụng. Nó cũng sẽ gây ra một cái chết cực kỳ đau đón, và do vậy, thường chỉ những người vô cùng tuyệt vọng hay loạn trí mới thành công với cách tự tử đó.
Ann-Marie Barbour đã cắt rất sâu, làm đứt các động mạch và lộ ra lóp da dưới cũng như hai xương cổ tay. Giữa những ngón tay khum lại bất động của cô là một sọi dây giày rối dính máu khô có xỏ một chiếc chìa khóa đầu tròn để mở khóa bấm.
Máu cô có màu đỏ. Vậy nhưng, để chắc chắn, Strakian vẫn lấy chiếc gương tráng bạc soi chếch vào bộ mặt đang gục xuống của cô. Không nhòe - hình ảnh thật. Ann-Marie Barbour không bị biến đổi.
Setrakian từ từ đứng dậy, chán nản trước diễn biến này. "Lạ thật," ông nói.
Eph đứng chếch phía trên Ann-Marie Barbour một góc phù họp giúp anh có thể quan sát khuôn mặt cúi xuống đầy mệt mỏi và hoang mang của cô phản chiếu qua những mảnh gương vỡ. Anh chợt để ý thấy trên mặt bàn, kẹp dưới khung ảnh kép lồng ảnh một bé trai và một bé gái là một tờ giấy đưọc xé từ một cuốn sổ ghi chép. Anh cầm lấy, ngập ngừng một chút, rồi từ từ mở ra.
Chữ viết của cô run rẩy, bằng mực đỏ giống như đường gạch ghi chú trong cuốn Kinh Thánh dưới phòng bếp. Chữ i thường cô viết với một vòng tròn nhỏ phía trên thay cho dấu chấm, nét chữ kiểu trẻ con.
“ 'Benjamin và Haily yêu quý của mẹ'," anh bắt đầu đọc.
"Đừng," Nora ngắt lời. "Đừng đọc nó. Cái đó không dành cho chúng ta."
Cô nói đúng. Anh đọc nhẩm tờ giấy để tìm kiếm thông tin phù họp - "Các con đang ở chỗ em gái của bố, an toàn" - rồi nhảy xuống đoạn dưới, anh đọc mẩu nội dung này. "Em vô cùng xin lỗi, Ansel... em giữ chìa khóa và em không thể dùng... Giờ thì em biết rằng Chúa nguyền rủa anh để trừng phạt em, Người bỏ roi chúng ta và cả hai ta bị đày đọa. Nếu cái chết của em có thể cứu rỗi linh hồn anh, thì Người sẽ có nó..."
Nora cúi xuống, cầm chiếc chìa khóa và kéo sợi dây giày dính máu ra khỏi những ngón tay bất động của Ann-Marie. "Vậy... anh ta ở đâu?"
Họ nghe thấy một tiếng rên trầm, gần giống như tiếng gầm gừ. Âm thanh đó nghe man rợ, phát ra từ thanh môn, kiểu như tiếng kêu từ cổ họng của loài thú. Nó tới từ phía ngoài.
Eph chạy ra chỗ cửa sổ. Anh nhìn xuống sân sau và thấy một cái chuồng lớn.
Họ lặng lẽ đi ra ngoài sân sau, tới trước cái chuồng có hai cánh cửa được khóa bởi một sọi xích móc vào hai tay nắm. Họ dring đó, lắng nghe.
Có tiếng sột soạt bên trong. Âm thanh của yết hầu, nhỏ và nghèn nghẹt.
Rồi cánh cửa kêu rầm. Cái gì đó đập mạnh vào cửa. Thử sợi dây xích.
Nora cầm chìa khóa. Cô nhìn mọi người dò hỏi xem có ai muốn mở cửa, rồi cô tự mình bước tới trước sợi xích, tra chìa vào ổ khóa và thận trọng xoay. Một tiếng tách, và khóa bật mở.
Bên trong yên ắng. Nora tháo khóa ra khỏi sọi xích, Setrakian và Eph sẵn sàng phía sau cô - ông lão đã rút thanh kiếm bạc ra khỏi vỏ gỗ. Cô bắt đầu tháo sọi xích nặng nề bằng cách rút nó ra khỏi tay nắm bằng gỗ... những tưỏng cánh cửa sẽ bật mở lập tức...
Nhưng không có gì xảy ra. Nora rút hẳn sọi xích ra và lùi lại. Cô và Eph bật đèn uvc. Ông lão đang đứng chặn trước cửa, vậy là Eph hít vào một hơi dài để lấy can đảm rồi cầm tay nắm giật cánh cửa mở ra.
Bên trong tối om. Ô cửa sổ duy nhất được che lại bởi một thứ gì đó, còn hai cánh cửa mở ra ngoài thì chặn hầu hết ánh sáng chiếu tới từ mái hiên trước nhà.
Một phút nghẹt thở trôi qua trước khi họ nhận ra một hình thù gì đó đang thu mình bên trong.
Setrakian bước lên phía trước, dừng lại cách cửa khoảng hai bước chân. Có vẻ như ông muốn phô cho khổ chủ của chiếc chuồng thấy lưỡi kiếm bạc.
Thứ đó tấn công. Nó xông vào Setrakian, định nhảy lên ông, và ông lão đã sẵn sàng với thanh kiếm - nhưng sợi xích chó đã phát huy tác dụng, giật thứ đó ngược trở lại.
Giờ thì họ đã thấy nó - thấy mặt nó. Nó nhe răng ra, lọi trắng tới mức mới thoạt nhìn thì tưởng những chiếc răng kia mọc thẳng ra từ hàm. Đôi môi tái nhợt khô khốc, và dúm tóc còn lại trắng đến tận chân tóc. Nó thu mình trên cả bốn chi trên mặt đất, một cái vòng siết chặt quanh cổ, ngập vào trong thịt.
Setrakian nói, mắt vẫn không rời khỏi thứ đó, "Đây có phải là người đàn ông trên cái máy bay đó không?"
Eph nhìn chằm chằm. Thứ này trông giống như một con quỷ đã ăn tươi nuốt sống người đàn ông tên là Ansel Barbour và mang một nửa hình dạng của anh ta.
“Chính anh ta."
"Ai đó đã bắt anh ta/' Nora nói. "Đã xích và nhốt anh ta ở đây."
"Không phải," Setrakian nói. "Tự anh ta xích mình lại."
Eph hiểu ra. Bởi vậy người vợ mới không bị đụng đến, và cả các con họ nữa.
"Lùi lại," Setrakian cảnh báo. Đúng lúc đó con ma cà rồng há mồm và bắn ngòi đốt của mình vào Setrakian. Ông lão không nao núng, bởi ông biết dù dài hàng mét, nó cũng không thể chạm tới ông. Cái ngòi thất bại thụt vào, một phần gớm ghiếc của nó còn rủ lòng thòng xuống cằm con ma cà rồng, rồi cuộn lên liếm quanh miệng giống như xúc tu màu đỏ của một sinh vật nào đó dưới biển sâu.
Eph nói, "Chúa ơi..."
Con ma cà rồng Barbour trở nên hoang dại. Nó thu mình lại trên bốn chi, rít lên với họ.
Cảnh tượng không thể tin nổi này gọi anh nhớ tới chiếc máy quay của Zack trong túi quần. Anh đưa cây đèn của mình cho Nora, và lấy máy quay ra.
"Anh định làm gì vây?" Nora hỏi.
Anh lúng túng bật nguồn máy quay, đưa con vật vào trong khung hình. Và rồi, bằng tay còn lại, anh mở chốt súng bắn đinh của mình và chĩa vào con thú đó.
Tách-bụp. Tách-bụp. Tách-bụp.
Eph bắn ba viên đạn bạc bằng khẩu súng bắn đinh, thứ dụng cụ nòng dài đó bật nẩy lên mỗi lần bắn. Những vật thể phóng ra đó xuyên vào mình con ma cà rồng, đốt cháy cơ thể bệnh hoạn của nó, làm nó gầm lên một tiếng đau đớn và chồm mình về phía trước.
Eph tiếp tục ghi hình.
"Đủ rồi," Setrakian nói. "Để tôi cho nó một ân huệ."
Cái cổ của con quái vật dài ra khi nó căng mình vì đau. Setrakian lại hát đoạn điệp khúc về thanh kiếm của mình - rồi chém thẳng xuống cổ của con ma cà rồng. Thân hình nó đổ xuống, tay và chân giật giật. Cái đầu lăn vài vòng và lật ngửa lên, đôi mắt chóp chóp vài lần, ngòi đốt quằn quại giống thân con rắn bị cắt ròi, rồi tất cả bất động. Chất lỏng trắng nóng bỏng chảy ra từ cái cổ đứt, phảng phất khói trong không khí lạnh buổi đêm. Những con giun hình ống bò lổm ngổm trên mặt đất, giống nhu chuột thoát ra khỏi con tàu bị đắm, tìm kiếm một con thuyền khác.
Nora bụm miệng ngăn một tiếng nức nở chực bật ra khỏi cổ họng.
Eph nhìn trân trối, bàng hoàng, kinh tỏm, quên hẳn việc quay phim.
Setrakian bước lùi lại, chúc mũi kiếm xuống, chất bẩn màu trắng bốc khói trên lưỡi kiếm bạc, nhỏ giọt xuống cỏ. "Ớ đằng sau kia. Duói bức tường."
Eph nhìn thấy một cái hố đào phía dưới vách sau của chuồng.
"Còn có thứ gì đó đã ở đây với anh ta," ông già nói. "Thứ gì đó đã bò ra ngoài, trốn thoát."
Hai bên mặt phố là những ngôi nhà. Nó có thể là bất cứ cái nào trong số đó. "Nhưng không có dấu hiệu nào của Chúa Tể."
Setrakian lắc đầu. "Không phải ở đây. Có thể lần sau."
Eph nhìn kỹ vào bên trong chuồng, cố tìm những con giun máu trong ánh sáng của hai chiếc đèn trên tay Nora. "Tôi có cần vào để chiếu xạ chúng không?"
"Có một cách an toàn hon. Ở phía sau chuồng có một cái can đỏ phải không?"
Eph nhìn vào. "Ý ông là cái can xăng kia?"
Setrakian gật đầu, và Eph hiểu ngay lập tức. Ạnh hắng giọng và lại lấy khẩu súng bắn đinh ra, ngắm vào chiếc can, nhấn cò hai lần.
Thứ công cụ chế thành vũ khí này ngắm chính xác từ khoảng cách xa. Chất đốt chảy ra từ chiếc can thủng, tràn xuống đất từ giá gỗ.
Setrakian móc từ trong túi áo choàng ra một hộp diêm nhỏ. Bằng những ngón tay cong queo, ông lấy một que diêm và quệt nó vào dải quẹt của hộp diêm, một ánh lửa vàng sáng lên trong đêm.
"Anh Barbour đã được giải thoát," ông nói.
Rồi ông ném que diêm cháy vào trong, và cái chuồng bằng gỗ bùng lên.
Trung tâm Rego Park, Queens
MATT KIỂM kê toàn bộ quần áo trẻ em trên giá, rồi cất thiết bị đọc mã vạch - một dụng cụ kiểm kê giống một khẩu súng ngắn - vào bao, và đi xuống tầng dưới để ăn nhẹ. Quả là mệt mỏi sau một giờ kiểm kê. Là quản lý kho của cửa hàng Sears, anh ta được trả lương ngoài giờ áp dụng cả cho những giờ làm việc ngày thường trong tuần. Toàn bộ cửa hàng đã đóng và khóa, các cửa lưới đã hạ xuống, tức là không còn khách, không đám đông. Và anh ta cũng không cần phải đeo cà vạt nữa.
Anh ta đi thang máy xuống khu bán đồ ăn tự chọn, nơi có những máy bán hàng tự động tốt nhất. Trong khi đi ngang qua các quầy bán đồ kim hoàn tầng một, miệng nhai kẹo dẻo Chuckles (theo thứ tự ưu tiên: cam thảo, chanh vàng, chanh cốm, cam, anh đào), anh ta chợt nghe thấy tiếng động phát ra từ khu mua bán. Ra chỗ cổng sắt, anh ta nhìn xuống và thấy một nhân viên bảo vệ đang bò trên sàn, dưới đó ba tầng.
Người bảo vệ đang ôm cổ, giống như bị ngạt thở, hoặc rất đau đón.
"Này!" Matt gọi.
Người bảo vệ nhìn thấy Matt và chìa tay ra, không phải vẫy chào mà là cầu xin giúp đỡ. Matt lấy chìa khóa ra và điều khiển cho cánh cổng nâng lên chỉ khoảng hơn một mét, đủ để anh ta chui qua, rồi chạy xuống chỗ người đàn ông.
Người bảo vệ bấu lấy cánh tay Matt và được anh ta dìu ra chỗ chiếc ghế dài gần đó, sát với đài phun nước. Ông ta thở hổn hển. Matt nhìn qua kẽ ngón tay ông ta thấy có máu trên cổ, nhưng không đủ để nói rằng đó là do bị dao đâm. Có cả vài vệt máu trên áo đồng phục của ông ta, đũng quần thì ướt do đái ra quần.
Matt chỉ biết mặt ông ta, đại khái đó là một nhân viên quèn. Một gã bắp tay khủng đi tuần trong cửa hàng, luôn giắt ngón tay cái vào trong thắt lưng giống như một cảnh sát trưởng miền Nam. Khi chiếc mũ của ông ta roi ra, Matt nhìn thấy những đám tóc đen rời rạc và bóng dầu hất ngược ra sau. Ông ta bám chặt vào tay Matt, người mềm nhũn, đau đón và chả còn đâu vẻ can trường nữa.
Matt cố hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng ông ta chỉ thở dốc, nhìn ra xung quanh. Matt nghe thấy tiếng nói, và anh ta nhận ra nó phát ra từ chiếc bộ đàm đeo bên hông người bảo vệ. Matt lấy nó ra khỏi thắt lưng của ông ta. "A lô. Matt Sayles, quản lý cửa hàng Sears đây. Này, một nhân viên của anh đang ở đây, tầng hầm một... ông ấy bị thương. Chảy máu ở cổ, và người xám ngoét."
Tiếng nói ở đầu kia trả lời, "Tôi là phụ trách của ông ấy. Có chuyện gì vậy?"
Người bảo vệ đang cố khạc ra cái gì đó, nhưng chỉ có tiếng không khí khò khè thoát ra từ cổ họng ông ta.
Matt trả lời, "Ông ấy bị tấn công. Có vết sưng ở cổ, và vết thương... ông ấy rất sợ hãi. Nhưng tôi không thấy có ai ở đây..."
"Tôi sẽ xuống đó ngay theo đường cầu thang phục vụ," người phụ trách bảo vệ nói. Matt có thể nghe thấy tiếng chân anh ta truyền qua máy bộ đàm. "Anh nói anh đang ở..."
Tiếng anh ta đứt giữa chừng. Matt chờ một lúc, rồi nhấn phím gọi. "Anh hỏi gì cơ?"
Thả ngón tay ra, anh ta lắng nghe. Không có gì cả.
"A lô?"
Anh ta nghe thấy tiếng lạo xạo truyền tới, không đầy một giây. Một giọng nói hét lên, nghèn nghẹt: "GƯAAAAAA..."
Người bảo vệ vùng khỏi chiếc ghế dài, bò lồm cồm bằng cả bốn chi về phía khu mua bán của cửa hàng. Matt cũng chạy, bộ đàm trong tay, ngoặt vào phía biển báo nhà vệ sinh nơi có cửa dẫn vào cầu thang phục vụ.
Anh ta nghe thấy tiếng đập thình thình, như tiếng đấm đá, đang tiến lại.
Sau đó là tiếng vo vo quen thuộc. Anh ta quay lại chỗ cửa hàng và thấy cánh cửa bảo vệ bằng thép đang hạ xuống sàn. Anh ta đã để quên chùm chìa khóa tại ổ khóa.
Người bảo vệ hoảng loạn khi nãy đã tự nhốt mình bên trong.
"Này... này ĩ" Matt la lớn.
Nhung truóc khi Matt kịp chạy tới noi, anh ta cảm thấy có một sự hiện diện phía sau lưng mình. Anh ta nhìn thấy người bảo vệ ngoái đầu nhìn lại, mắt trọn trừng, làm đổ một giá quần áo và bò đi mất hút. Matt quay lại và thấy hai thanh niên mặc quần jean thụng, áo mũ trùm bằng len cashmere đang ra khỏi hành lang khu vệ sinh. Chứng có vẻ phê thuốc, nước da nâu trở nên vàng vọt, tay không cầm vật gì.
Bọn nghiện. Matt đột nhiên thấy sợ hãi, có thể chúng đã tấn công bảo vệ bằng ống tiêm bẩn. Anh ta lấy ví ra và ném nó cho một tên. Hắn chẳng thèm tóm lấy, mặc cho nó đập vào bụng hắn và roi xuống sàn.
Matt lùi lại sát cánh cửa kho trong khi hai tên kia tiến lại gần.
Phố Vestry, Tribeca
EPH ĐÔ XE LẠI phía bên lề phố đối diện với dinh thự của Bolivar, hai tòa nhà nối với nhau được án ngữ phía trước bởi một giàn giáo cao ba tầng. Họ qua đường để tới cửa và nhận thấy nó đã được chặn ván. Không phải kiểu cẩu thả hay tạm thời, mà đưọc chặn bởi ván gỗ dày bắt chặt vào khung cửa. Kín khít.
Eph ngước nhìn bầu trời đêm phía trên mặt trước của tòa nhà. "Che giấu cái gì đây chứ?" anh nói. Anh đặt một chân lên giàn giáo, định leo lên. Setrakian đưa tay ngăn anh lại.
Có người chứng kiến. Trên vỉa hè các tòa nhà lân cận. Chúng đứng và nhìn ra từ trong bóng tối.
Eph tiến lại phía chứng. Anh tìm chiếc gương tráng bạc trong túi quần và giữ lấy một người trong đám để kiểm tra hình ảnh phản chiếu. Không bị nhòe. Thằng bé đó - không quá mười lăm tuổi, bôi mắt bằng thuốc màu theo kiểu gothic và son môi đen - vùng ra khỏi tay nắm của Eph.
Setrakian lấy gương kiểm tra những người khác. Không ai bị biến đổi.
"Người hâm mộ," Nora nói. "Phiên trực đêm."
"Đi khỏi đây đi," Eph gằn giọng. Nhưng chúng là những đứa trẻ New York, chúng biết mình không bắt buộc phải đi đâu cả.
Setrakian ngước nhìn tòa nhà của Bolivar. Các cửa sổ phía mặt tiền tối om, nhưng giữa đêm thế này, ông không thể nói chắc rằng chúng được dùng để che chắn ánh đèn hay do đang trong quá trình sửa chữa.
"Hay là trèo lên giàn giáo," Eph nói. "Đột nhập qua đường cửa số.
Setrakian lắc đầu. "Không có cách nào để chúng ta vào được bên trong mà không bị báo cảnh sát, và anh sẽ bị họ tóm ngay. Anh đang bị truy nã, nhớ không?" Setrakian tựa vầo cây gậy, ngước nhìn tòa nhà tối om một lần nữa trước khi bước đi. "Không, chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài chờ đợi. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về tòa nhà này và chủ của nó. Việc đó có thể giúp ta trước hết biết rõ mình đang dây vào cái gì."
Chú thích
[1] Một chất lỏng không màu, thường được sử dụng làm thuốc chống đau ngực, tắc thờ, các bệnh liên quan tới vành tim.
[2] Loại đèn hoạt động theo cơ chế cảm ứng điện từ, không cần pin. Trước khi sử dụng cần phái lắc đèn, nam châm bên trong khi di chuyển sê tạo ra điện.
[3] Là một lời dự đoán có khả năng tự biến thành sự thực theo cách trực tiếp hay gián tiếp, do tác động giữa niềm tin và hành động.
Ánh sáng ban ngày
Khu bushwick broocklin
Điểm đến đầu tiên của Vasiliy Fet trong sáng hôm sau là một ngôi nhà ở khu Bushwick, không xa nơi anh đã lớn lên. Những cuộc gọi kiểm tra cứ liên tục tới từ khắp mọi noi, chắc thời gian chờ thông thường từ hai tới ba tuần phải tăng gấp đôi mới được. Vasiliy hãy còn đang phải giải quyết nốt số khách hàng tồn đọng từ tháng trước, vậy mà anh lại hứa với ông này là sẽ tới vào hôm nay.
Anh đỗ lại sau một chiếc Sable màu trắng bạc và lấy đồ nghề ra khỏi thùng xe, một thanh cốt thép và chiếc xe đẩy ảo thuật gia chứa bẫy và bả chuột. Thứ đầu tiên đập vào mắt anh là một lạch nước chảy dọc theo lối đi giữa hai dây nhà. Đó là một dòng nước trong, chảy rất chậm, giống như từ một ống nước bị vỡ. Không ngon lành như nước cống vàng đầy váng, nhưng quá đủ để cung cấp nước cho cả một binh đoàn chuột.
Một cửa sổ tầng hầm bị vỡ, được bít lại bằng giẻ rách và khăn tắm cũ. Đó có thể là do tác động của tình trạng bỏ bê đô thị, hoặc là sản phẩm thủ công của những "thợ ống nước làm đêm", một nòi trộm cắp mới chuyên vặt ống đồng để bán ở các bãi phế liệu.
Ngân hàng hiện là chủ của cả hai ngôi nhà, những bất động sản đầu tư liền kề, dưới tác động của cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn, đã đành phải được bán lại cho chủ của chúng, rồi người này lại mất chúng do bị tịch thu tài sản thế chấp. Vasiliy sẽ gặp người quản lý bất động sản ở đó. Thấy cánh cửa vào ngôi nhà thứ nhất không khóa, Vasiliy gõ cửa chào to. Anh ngó đầu vào căn phòng đầu tiên có cầu thang, kiểm tra chân tường để tìm vết chân đi và chất thải của chuột. Một cái rèm hỏng che nửa cửa sổ, tạo nên một vệt bóng nghiêng trên mặt sàn gỗ trét mạch. Nhưng không thấy người quản lý xuất hiện.
Vasiliy quá vội chẳng thể ngồi chờ ở đây. Ngoài danh mục đon hàng tồn đọng, đêm trước anh đã không được ngủ ngon, và anh muốn quay trở lại chỗ Trung tâm Thương mại Thế giới sáng nay để gặp người chịu trách nhiệm. Tại bậc thang thứ ba, anh nhìn thấy một tập kẹp tài liệu bằng kim loại mắc ở giữa các cột tay vịn cầu thang. Tên công ty in trên các danh thiếp trên tập kẹp đó trùng với tên công ty trong kế hoạch làm việc hôm nay của anh.
"Xin chào!" anh lại gọi to, nhưng không có ai trả lời. Anh tìm thấy cánh cửa dẫn tới cầu thang xuống tầng hầm, và quyết định bắt tay ngay vào công việc. Dưới tầng hầm rất tối - do khung cửa sổ bị nhồi nhét các thứ như anh đã nhìn thấy lúc còn ở bên ngoài - và đèn điện thì đã tắt từ lâu. Anh cũng không tin còn bóng đèn điện nào trên trần. Bỏ lại đằng sau chiếc xe đẩy, Vasiliy mở toang cửa và bước xuống dưới, cầm trong tay thanh cốt thép.
Cầu thang lượn sang bên trái. Anh nhìn thấy một đôi giày da, rồi hai chân trong ống quần kaki: nhà quản lý bất động sản đang ngồi tựa lưng vào bức tường đá trong tư thế rũ ra như một kẻ phê cocaine, đầu nghiêng sang một bên, mắt mở trừng trừng, đờ đẫn.
Vasiliy đã có đủ kinh nghiệm với những ngôi nhà bỏ hoang trong những khu cư dân phức tạp để hiểu rằng tốt hơn hết là không nên vội vã với gã này. Đứng dưới chân cầu thang, anh nhìn xung quanh, mắt quen dần với bóng tối. Tầng hầm này không có gì khác biệt ngoài hai cái ống đồng dài bị cắt nằm dưới sàn nhà.
Ở phía bên phải cầu thang là bệ ống khói, với buồng đốt kế bên được thông khí với nó. Vasiliy nhìn thấy bốn ngón tay bẩn thỉu của ai đó đang thu mình ở góc kia của bệ ống khói.
Có ai đang núp ở đó, giấu mình, chờ đợi anh.
Anh quay người đi ngược lên cầu thang để gọi cảnh sát thì thấy ánh sáng trên các bậc ở chỗ ngoặt cầu thang biến mất. Cánh cửa đã đóng lại. Có ai đó ở phía trên cầu thang đã đóng nó.
Thôi thúc đầu tiên của Vasiliy là chạy, và anh chạy xuống cầu thang, thẳng tới chỗ ống khói nơi chủ nhân của bàn tay bẩn thỉu kia đang rình rập. Với một tiếng hét tấn công, anh vung thanh cốt thép đập xuống những đốt ngón tay đó, nghiến chúng vào mặt vữa vách ống khói.
Kẻ tấn công xông nhanh tới anh, không hề tỏ ra đau đớn. Hiệu ứng của ma túy, anh nghĩ. Đó là một đứa con gái, bẩn thỉu từ đầu đến chân, máu dây trên ngực và quanh miệng. Anh kịp thấp thoáng thấy những chi tiết đó dưới ánh sáng lờ mờ khi con bé lao bổ vào anh với tốc độ phi thường, và với một sức mạnh thậm chí còn phi thường hon, xô anh bắn vào bức tường đối diện, bất chấp hình thể của nó chỉ bằng một nửa anh. Con bé hét không ra hơi một âm thanh cuồng nộ, và khi nó há miệng, một cái lưỡi dài quái đản trườn ra ngoài. Vasiliy lập tức đạp thẳng chân giày của mình vào ngực con bé, làm nó ngã xuống sàn.
Anh nghe thấy tiếng bước chân chạy xuống cầu thang và hiểu mình không thể chiến thắng cuộc chiến này trong bóng tối. Anh chọc thanh cốt thép của mình vào mớ giẻ rách đang bít kín cửa sổ, xoáy và kéo nó roi xuống giống như tháo nắp bít của một cái máng làm tràn ra ánh sáng thay vì nước.
Anh quay lại vừa kịp để nhìn thấy ánh mắt hoảng loạn của con bé. Nó nằm trọn vẹn trong vùng ánh sáng mặt trời, phát ra một tiếng tru đau đớn, thân thể nó ngay lập tức vỡ vụn ra và bốc hoi. Cảnh tượng đó giống như trong tưởng tượng của anh về tác động của bức xạ nguyên tử tới con người, thiêu đốt và làm biến mất cùng lúc.
Việc đó xảy ra gần như tức thì. Cô bé - hay là bất cứ thứ gì trước đó - nằm thành một đám xỉ khô trên mặt sàn tầng hầm bẩn thỉu.
Vasiliy kinh hoảng. Đó là nỗi khiếp sợ không thể tả bằng lời. Anh hoàn toàn quên mất kẻ thứ hai đang chạy ra khỏi cầu thang cho tới lúc hắn rên lên một tiếng khi tiếp xúc với ánh sáng. Hắn ta chạy ngược lại, vấp phải nhà quản lý bất động sản, loạng choạng lấy lại thăng bằng và chạy lên cầu thang.
Vasiliy sực tỉnh kịp thời và chạy tới chân cầu thang. Anh thọc thanh cốt thép của mình qua khe giữa hai bậc thang, ngáng vào chân hắn làm hắn ngã lộn ngược trở lại mặt sàn. Vasiliy tiến lại gần hắn, giương cao thanh sắt ngay khi hắn vừa kịp đứng dậy. Nước da nguyên màu nâu của hắn giờ vàng vọt bệnh hoạn kiểu người bị bệnh vàng da. Mồm hắn há ra, và Vasiliy thấy một thứ không phải lưỡi mà là cái gì đó kinh hơn nhiều.
Vasiliy vung thanh cốt thép đập thẳng vào cái mồm của hắn. Cú vụt làm hắn xoay một vòng và khuỵu gối xuống. Vasiliy sấn lại và túm gáy hắn, giữ cho mình tránh xa khỏi cái miệng của hắn, trong khi kẻ kia phát ra tiếng phì phì như rắn và đóp đóp như chuột. Anh nhìn về phía ô nắng hình chữ nhật đang cuộn bụi từ thi thể bị tiêu hủy của cô bé. Anh cảm thấy tên này đang chồm người cố thoát ra. Anh vụt mạnh cây gậy sắt xuống dưới đầu gối của cái thứ quái quỷ này và đẩy hắn tới vùng ánh sáng.
Vasiliy Fet dù sợ hãi đến phát điên nhung vẫn muốn nhìn cảnh tượng đó một lần nữa. Đó là một trò tàn sát của ánh sáng. Bằng một cú đạp chân giày vào mông hắn, anh làm hắn loạng choạng roi vào dưới vùng ánh nắng - và anh quan sát hắn lập tức vỡ vụn ra rồi sụm xuống dưới ánh sáng thiêu đốt, biến thành tro và khói.
Nam Ozone Park, Queens
CHIẾC LIMOUSINE của Eldritch Palmer từ từ đỗ lại trước một nhà kho trong một khu công nghiệp cỏ mọc um tùm, cách trường đua ngựa Aqueduct khoảng một cây số rưỡi. Palmer đi với một đoàn tháp tùng khiêm tốn, phía sau xe của ông ta là chiếc limousine thứ hai, trống không, cốt để phòng trường họp xe của ông ta gặp trục trặc, tiếp nữa là chiếc thứ ba, một chiếc xe tải đen sản xuất theo đon đặt hàng, được dùng như một xe cấp cứu cá nhân có trang bị máy thẩm tách máu.
Một cánh cổng ngách của nhà kho mở ra để đón đoàn xe vào rồi lại đóng lại phía sau họ. Đứng đón ông ta là bốn thành viên của Hiệp hội Stoneheart, một nhánh nhỏ trong tổ họp đầu tư quốc tế hùng mạnh của ông ta, Tập đoàn Stoneheart.
Người mở cửa xe cho Palmer là Fitzwilliam, và ông ta bước ra ngoài trong sự sợ hãi của mọi người. Một sự hội kiến với ngài chủ tịch là cả một đặc ân hiếm hoi.
Bộ com lê màu đen làm tôn vẻ trang nghiêm của ông ta. Palmer đã quen với không khí sợ hãi khi ông ta có mặt. Các nhà đầu tư trong tập đoàn coi ông ta như một đấng cứu thế, người đã làm họ trở nên giàu có nhờ tài đoán trước được những thăng trầm của thị trường. Nhưng còn các môn đồ của ông ta, họ sẵn sàng theo ông ta xuống cả địa ngục.
Hôm nay Palmer cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh, và ông ta đứng chỉ với một sự trợ giúp duy nhất là cây gậy bằng gỗ gụ. Nhà kho công ty đóng thùng cũ này hầu như trống tron. Tập đoàn Stoneheart chỉ đôi khi sử dụng nó để chứa xe cộ, nhưng giá trị thực sự của nó ngày nay nằm ở cái lò đốt cổ lỗ dưới lòng đất đã có từ trước đó, với cửa lò lớn trên tường.
Bên cạnh các thành viên Hiệp hội Stoneheart là một cái khoang cách ly Kurt nằm trên một băng ca di động bằng bánh xe. Bên cạnh ông ta là Fitzwilliam.
"Có vấn đề gì không?" Palmer hỏi.
"Không, thưa Chủ tịch," họ trả lời. Có hai người trông giống bác sĩ Goodweather và bác sĩ Martinez đưa cho Fitzwilliam giấy chứng nhận giả của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.
Palmer quan sát hình dạng hom hem của Jim Kent qua vách trong suốt của khoang cách ly. Cơ thể đói máu của một con ma cà rồng quắt queo lại trông giống một tượng quỷ được đẽo gọt từ thân gỗ bạch dương bị bệnh. Những đặc điểm hệ cơ và hệ tuần hoàn của anh ta có thể nhìn thấy rõ qua lóp da thịt bị phân rã, trừ cái cổ họng thâm đen sưng vù. Từ hai cái lỗ sâu trên khuôn mặt hốc hác, đôi mắt anh ta mở to, nhìn trừng trừng.
Palmer thấy tội nghiệp thay cho con ma cà rồng bị đói đến hóa đá này. ông ta hiểu cái cảm giác khi cơ thể khẩn nài một sự cấp dưỡng đơn giản, còn linh hồn thì vật vã trong đau đớn và tâm trí thì cứ đợi chờ.
Ông ta cũng biết cảm giác của một người khi bị chính chủ nhân của mình phản bội.
Giờ thì Eldritch Palmer thấy mình đang ở vị thế của người phán quyết. Không giống như tên đáng thương này, Palmer đang ở ranh giới của sự giải phóng, của sự bất tử.
"Tiêu hủy hắn," ông ta nói và quay lưng đi khi hộp cách ly được đẩy tới cửa lò thiêu đang mở, và cơ thể kia được làm mồi cho ngọn lửa.
Nhà ga Pennsylvania
CHUYẾN ĐI CỦA HỌ TỚI WESTCHESTER để tìm Joan Luss, người thứ ba sống sót trong chuyến bay 753, bị hủy bỏ bởi một bản tin buổi sáng. Thị trấn Bronxville đã bị phong tỏa bởi các đội cảnh sát bang New York và lực lượng HAZMAT do một vụ "rò rỉ khí ga". Những cảnh quay từ trực thăng cho thấy thị trấn trông lặng như tờ lúc tảng sáng, chỉ có những chiếc xe cảnh sát bang lưu thông trên đường. Sự kiện tiếp theo trên bản tin diễn ra ở tòa nhà Văn phòng Cơ quan Pháp y trên góc phố 30 và đại lộ 1, nơi đang có rất đông người tập trung, dường như có những báo cáo về số người mất tích đang gia tăng trong khu vực, cùng sự hoảng loạn trong dân chúng địa phương.
Nhà ga Pennsylvania dường như là nơi duy nhất họ có thể nghĩ tới chuyện sử dụng điện thoại trả tiền kiểu cổ. Eph đứng vào một buồng điện thoại cùng Nora và Setrakian, tách hẳn ra khỏi dòng người đi vé tháng đang đi trong sân ga.
Eph nhấn phím điện thoại di động của Jim, chọn danh mục NHỮNG cuộc GỌI GẦN NHẤT để tìm số máy trực tiếp của Giám đốc Bames. Jim đã gọi cả trăm cuộc mỗi ngày, và Eph phải tìm lướt toàn bộ các số đó, cuối cùng, Barnes trả lời cuộc gọi của anh qua đường cáp viễn thông.
Eph nói, "Có phải ông thực sự nghĩ rằng mình sẽ qua mặt được thiên hạ với cái trò 'rò rỉ khí ga' này, Everett? Ông có thể giữ kín được trong bao lâu nữa?"
Barnes nhận ra giọng Eph. "Ephraim, anh đang ở đâu?"
"Ông đã tới Bronxville chưa? Ông có vừa xem ti vi không?"
"Tôi đã tới đó... Chứng tôi không biết đang gặp phải cái gì..."
"Không biết ư? Đủ rồi, ông làm tôi phát chán, Everett."
"Sáng nay họ phát hiện đồn cảnh sát vắng hoe. Toàn bộ cư dân thành phố dường như đã rời đi."
"Không rời đi. Họ vẫn còn ở đó, chỉ là lẩn trốn. Hây đến quận Westchester vào lúc trời tối, chả khác nào Transylvania11*. Thứ ông cần là đội lính chiến, Everett. Lính chiến. Vào từng nhà một trong thị trấn đó, như là Baghdad ấy. Đó là cách duy nhất."
"Thứ chúng ta cần là không tạo ra hoảng loạn..."
"Hoảng loạn đã bắt đầu diễn ra. Hoảng loạn là câu trả lời thích họp đối với thứ này, còn hơn là chối bỏ nó."
"Hệ thống giám sát hội chứng của Cục An toàn Sức khỏe New York chưa phát hiện bất cứ bất thường nào."
"Họ theo dõi các dấu hiệu dịch bệnh bằng cách thống kê số lượng bệnh nhân nằm ở khoa cấp cứu, số lần chạy xe cứu thương, lượng thuốc bán ra. Không một số liệu nào như vậy phù họp với chuyện này. Cả thành phố này cũng sẽ giống như Bronxville thôi nếu như ông còn không mau hành động."
Giám đốc Bames nói, "Tôi muốn biết anh đã làm gì với Jim Kent."
"Tôi tới thăm anh ta thì anh ta đã đi rồi." [1]
"Tôi nghe nói anh có liên quan gì đó tới sự biến mất của anh ta."
"Tôi làm sao, Everett - một bóng ma? Tôi cùng lúc ở khắp mọi noi. Tôi là thiên tài xấu xa. Đúng, tôi đấy."
"Ephraim, hãy nghe..."
"Ông hãy nghe đây. Tôi là một bác sĩ - một bác sĩ ông thuê để làm việc. Để phát hiện và ngăn chặn dịch bệnh xuất hiện ở nước Mỹ. Tôi gọi cho ông để báo rằng hãy còn chưa muộn. Đây đã là ngày thứ tư kể từ lúc cái máy bay đó hạ cánh và bắt đầu sự lan truyền - nhưng vẫn còn một cơ hội, Everett. Chúng ta có thể khoanh vùng chúng tại thành phố New York. Nghe đây, ma cà rồng không thể đi qua vùng nước. Vậy thì chúng ta cách ly đảo, khóa mọi cây cầu..."
"Tôi không có thẩm quyền đó ở đây, anh biết vậy mà."
Loa phóng thanh phía trên đầu phát thông báo lịch tàu chạy. "Nhân tiện, tôi đang ở ga Pennsylvania, Everett. Hãy cử FBI tới đây, nếu ông muốn. Tôi sẽ rời khỏi đây trước khi họ tới."
"Ephraim... hãy quay trở lại. Tôi hứa sẽ cho anh một cơ hội để thuyết phục tôi, thuyết phục mọi người. Hãy cùng nhau xử lý chuyện này."
"Không," Eph nói. "Ông vừa m(5i nói rằng ông không có thẩm quyền đó. Những con ma cà rồng này - chúng đúng là ma cà rồng, Everett - chúng là vi rút bằng xương bằng thịt, và chúng sẽ tiêu diệt toàn bộ thành phô này cho đến khi không một ai trong chúng ta sống sót. Cách ly kiểm dịch là câu trả lời duy nhất. Nếu tôi nghe được tin ông đang đi theo hướng này, có thể tôi sẽ cân nhắc quay lại hỗ trợ. Cho tới lúc đó, Everett..."
Eph treo ống nghe vào giá. Nora và Setrakian chờ anh nói tiếp gì đó, nhưng một số máy trên điện thoại Jim đã gọi sự chú ý của Eph. Mỗi một số máy trong danh bạ của Jim đều kèm theo tên người, tất cả, trừ một số. Một tổng đài địa phương, và Jim đã thực hiện rất nhiều cuộc gọi tới đó trong mấy ngày vừa qua. Eph lại nhấc điện thoại cáp viễn thông và nhấn số 0, nghe tiếng chuông tự động ở đầu bên kia, cho tới khi điện thoại viên của nhà mạng Verizon trả lời.
"Vâng, tôi có một số điện thoại trong máy của mình mà không nhớ là của ai, và tôi muốn tránh gây phiền hà trước khi thực hiện cuộc gọi. Mã vùng 212, và tôi nghĩ đó là số điện thoại cố định. Cô có thể kiểm tra ngược giúp tôi không?"
Anh đọc số đó và nghe thấy tiếng gõ bàn phím vọng ra từ đầu dây bên kia.
"Số đó được đăng ký cho tầng bảy mươi bảy của Tập đoàn Stoneheart. Anh có muốn có địa chỉ của tòa nhà đó không?"
"Vâng, có chứ."
Anh bịt tay vào miệng ống nói và nói với Nora, "Vì sao Jim lại gọi cho ai đó ở Tập đoàn Stoneheart?"
"Stoneheart ư?" Nora nói. "Anh muốn nói tới công ty đầu tư của ông già đó?"
"Một bậc thầy về đầu tư," Eph nói. "Giàu thứ hai ở đất nước này, anh nghĩ vậy. Ông Palmer gì đó."
Setrakian nói, "Eldritch Palmer."
Eph nhìn sang ông. Anh thấy vẻ khiếp đảm hiện trên gương mặt vị giáo sư. "Ông ta làm sao?"
"Người đàn ông này, Jim Kent," Setrakian nói. "Đó không phải là bạn anh."
Nora nói, "Ý ông là gì? Tất nhiên anh ấy là..."
Eph treo ống nghe sau khi đã lấy được địa chỉ. Anh nhấn nút gọi vào số đó từ điện thoại của Jim.
Chuông reo ở đầu kia. Không có trả lời, không có tin nhắn thoại đáp lại.
Eph ngắt cuộc gọi, vẫn trân trối nhìn điện thoại.
Nora nói, "Anh còn nhớ bà quản lý khu cách ly, sau khi mấy người sống sót bỏ đi chứ? Bà ấy nói đã gọi cho Jim, còn anh ấy bảo không - sau đó anh ấy lại nói là đã lỡ vài cuộc gọi?"
Eph gật đầu. Chẳng hiểu gì cả. Anh nhìn Setrakian. "Ông biết gì về ông Palmer này?"
"Nhiều năm trước ông ta đến gặp tôi nhờ tìm kiếm một người. Một kẻ mà tôi cũng rất quan tâm tìm kiếm."
"Sardu," Nora đoán.
"Ông ta có tài chính. Tôi có hiểu biết. Nhưng thỏa thuận kết thúc chỉ sau vài tháng. Tôi đi tới kết luận rằng chúng tôi tìm kiếm Sardu vì những lý do hoàn toàn khác nhau."
Nora nói, "Có phải chính ông ta đã phá hỏng sự nghiệp của ông ở trường đại học?"
Setrakian nói, "Tôi luôn nghĩ là vậy."
Điện thoại của Jim rung lên trong tay Eph. Một số điện thoại lạ, nhưng thuộc tổng đài New York địa phương. Rất có thể ai đó từ Stoneheart gọi lại. Eph trả lời.
"A lô," người kia nói, "có phải cơ quan CDC không?"
"Ai đang gọi vậy?"
Giọng nói đó thô và trầm. "Tôi đang tìm cái người chuyên về bệnh dịch của dự án Canary, cái người đang gặp rắc rối ấy. Anh có cách nào kết nối tôi với anh ấy không?"
Eph nghi đó là một cái bẫy. "Anh muốn gì từ anh ấy?"
"Tôi gọi từ bên ngoài một ngôi nhà ở Bush wick, Brooklyn. Tôi có hai người cuồng nhật thực chết dưới tầng hầm. Những người sợ ánh mặt trời. Điều này có gọi ý gì cho anh không?"
Eph bỗng phấn khích hẳn lên. "Tôi đang nói chuyện với ai đây?"
"Tôi là Fet. Vasiliy Fet. Tôi làm ở Cơ quan Kiểm soát Ký sinh Gây Bệnh, một người diệt chuột, cũng đồng thời tiến hành các thử nghiệm thuộc chương trình quản lý dịch hại tổng họp ở trung tâm Manhattan. Chương trình này được CDC tài trợ bảy trăm năm mươi ngàn đô la. Vì vậy tôi có được số này. Có phải tôi đang nói chuyện với Goodweather?"
Eph do dự trong một thoáng. "Đúng vậy."
"Có lẽ anh có thể coi tôi như một người làm việc cho anh. Tôi không thể đặt vấn đề này ra với ai khác ngoài anh. Nhưng tôi đã nhìn thấy các dấu hiệu ở khắp thành phố."
Eph nói, "Đó không phải do nhật thực."
"Tôi nghĩ là tôi biếtthế. Có lẽ anh nên tới đây. Vì tôi có thứ muốn cho anh xem."
Tập đoàn Stoneheart, Manhattan
EPH CÓ HAI NƠI cần tạt qua trên đường đi. Một nơi tới một mình, và nơi còn lại cùng Nora và Setrakian.
Thẻ hành nghề CDC giúp anh qua trạm bảo vệ ở sảnh chính tòa nhà Stoneheart, nhưng không giúp qua được trạm thứ hai trên tầng bảy mươi bảy, nơi anh phải chuyển thang máy thì mới lên được mười tầng trên cùng của tòa nhà ở Midtown.
Hai gã bảo vệ to con đứng trước logo lớn bằng đồng của Tập đoàn Stoneheart đắp nổi trên mặt sàn đá mã não. Phía sau họ, đi qua đi lại trong khu sảnh, là những người mặc đồng phục đang đẩy các xe lăn chất những thiết bị y tế lớn.
Eph xin được gặp Eldritch Palmer.
Gã vệ sĩ to con hơn gần như mỉm cười. Hình bao đeo súng giắt vai nổi cộm đầy khả nghi phía dưới áo vest của gã. "Ngài Palmer không tiếp khách nếu không có hẹn trước."
Eph nhận ra một trong số các máy móc đang được dỡ ra để cho vào thùng. Đó là một máy thẩm tách Fresenius. Một thứ rất đắt dùng trong bệnh viện.
"Các anh đang dọn đồ," Eph nói. "Chuyển đi. rời khỏi New York trong khi tình hình kinh doanh đang tốt. Nhưng chẳng lẽ ngài Palmer không cần máy chạy thận?"
Hai gã bảo vệ không trả lời, cũng chả thèm ngoái đầu nhìn lại.
Eph chợt hiểu. Hoặc anh nghĩ là mình hiểu.
Họ gặp lại nhau ở ngoài nhà của Jim vầ Sylvia, một cao ốc ở phía Đông Thượng Manhattan.
Setrakian nói, "Chính Palmer đã đem Chúa Tể tới nước Mỹ. Lý do khiến ông ta liều hy sinh tất cả - thậm chí cả tương lai của loài người - là để kéo dài cái kết của chính mình."
"Cái kết gì chứ?" Nora nói.
Setrakian nói, "Tôi tin rằng Eldritch Palmer muốn trở nên bất tử."
Eph nói, "Không đâu, nếu chúng ta bằng mọi giá ngăn chặn điều này."
"Tôi hoan nghênh quyết tâm của anh," Setrakian nói. "Nhưng với sự giàu có và tầm ảnh hưỏng của mình, ông bạn cũ của tôi có mọi lọi thế. Đây là cuộc choi cuối cùng của ông ta, anh biết đấy. Ông ta không còn đường quay lại. Ông ta sẽ làm mọi cách để đạt mục đích."
Eph không cho phép mình suy nghĩ một cách bao quát, bằng không anh có lẽ sẽ phát hiện ra anh đang tham dự một cuộc chiến nắm chắc phần thua. Anh tập trung vào những nhiệm vụ trước mắt. "Ông đã phát hiện ra điều gì?"
Setrakian nói, "Chuyến thăm ngắn ngủi của tôi tới Bảo tàng Lịch sử Xã hội New York đã gặt hái được kết quả tốt. Cái cơ ngoi mà chúng ta đề cập tới được xây dựng lại hoàn toàn bởi một kẻ buôn bán rưọu lậu đã gây dựng nên tài sản của mình trong thời kỳ cấm rưọu. Nhà ông ta bị khám xét vô số lần, nhưng họ không bao giờ tóm được quá nửa lít bia ủ bất họp pháp, bởi vì, nghe nói, ông ta có cả một mạng lưới đường hầm và kho rượu ngầm dưới lòng đất - một số đường hầm sau này đã được mở rộng để làm thành các tuyến tàu điện ngầm."
Eph nhìn Nora. "Em thì thế nào?"
"Cũng vậy. Và rằng Bolivar đã mua cơ ngoi này chỉ vì nó từng thuộc về một kẻ buôn rượu, và vì nghe nói chủ trước đó nữa là một kẻ thờ quỷ Satan, từng tổ chức những buổi tế quỷ trong điện thờ trên gác mái vào đầu thế kỷ 20. Bolivar đã cải tạo lại tòa nhà và năm ngoái đã nối nó với tòa nhà bên cạnh, để cấu trúc thành một trong những tư dinh lớn nhất New York."
"Tốt," Eph nói. "Em đã đi đâu, tới thư viện à?"
"Không," cô nói, chìa ra một tập giấy in sao lại những bức ảnh chụp nội thất của tòa nhà cũ và những bức ảnh chụp mới bên trong tòa nhà của Bolivar trong giai đoạn cải tạo. "Đây là từ trang điện tử của tạp chí People."
Có tín hiệu thông báo họ được phép vào và họ đi lên căn hộ nhỏ của Jim và Sylvia trên tầng chín. Sylvia mở cửa đón họ. Cô mặc váy vải lanh trang nhã trông họp với vai trò phụ trách chuyên mục tử vi, tóc buộc ra sau bằng một băng buộc đầu màu trắng. Cô ngạc nhiên khi nhìn thấy Nora, và còn sửng sốt gấp đôi khi thấy Eph.
"Mấy người đang làm gì...?"
Eph bước vào nhà. "Sylvia, chúng tôi có một số câu hỏi quan trọng, và chúng tôi chỉ có ít thời gian. Cô biết gì về Jim và Tập đoàn Stoneheart?"
Sylvia đưa một tay lên ngực tỏ ý không hiểu. "Tập đoàn gì cơ?"
Eph nhìn thấy một cái bàn trong góc, một con mèo mướp đang ngủ trên một chiếc laptop đóng nắp. Anh bước tới và bắt đầu mở các ngăn kéo. "Cô không phiền nếu chúng tôi xem qua những thứ này chứ?"
"Không," cô nói, "nếu việc đó giúp gì được. Cứ xem đi."
Setrakian vẫn đứng gần cửa trong khi Eph và Nora tìm kiếm ở bàn của Jim. Sylvia rõ ràng thấy choáng trước sự hiện diện của ông lão. "Có ai muốn uống gì không?"
"Không," Nora nói, mỉm cười vội vã và lại quay về với công việc tìm kiếm.
"Tôi sẽ quay trở lại ngay." Sylvia đi vào bếp.
Eph lùi ra khỏi cái bàn chất đầy đồ đạc, trầm ngâm. Anh thậm chí vẫn chưa biết mình phải tìm thứ gì. Jim làm việc cho Palmer ư? Làm từ khi nào? Và vì động cơ gì? Tiền? Liệu anh ta có thể trở mặt với họ như vậy sao?
Anh quyết định vào bếp hỏi Sylvia một câu khá tế nhị về tình hình tài chính của họ. Vừa bước vào thì Eph bắt gặp Sylvia đang gác máy điện thoại treo tường. Cô lùi lại một bước, vẻ mặt kỳ lạ.
Eph thoáng bối rối. "Cô gọi cho ai vậy, Sylvia?"
Những người khác bước tới phía sau lung anh. Sylvia qườ tay chạm vào bức tường phía sau, rồi cô ngồi xuống một chiếc ghế.
Eph nói, "Sylvia, chuyện gì thế?"
Cô nói, không nhúc nhích, và với một vẻ bình tĩnh đáng sợ ẩn sau đôi mắt mở to, đầy oán hận, "Các người sẽ thất bại thôi."
PS 69, Jackson Heights
KELLY THƯỜNG KHÔNG bật điện thoại di động trong lớp học, nhưng giờ nó được đặt ngay bên trái tập lịch, đặt chế độ rung. Matt đã ở ngoài cả đêm, không phải điều gì bất thường đối với công việc kiểm kê buổi đêm; anh ta còn hay đưa nhóm của mình đi ăn sáng cùng sau ca trực. Nhưng Matt luôn gọi điện báo cho cô. Trường học là nơi cấm sử dụng điện thoại di động, nhưng cô đã trộm gọi vài cuộc cho anh ta, và lần nào cũng chỉ nhận đưọc tin nhắn thoại. Có thể anh ta ở ngoài vùng phủ sóng. Cô cố không lo lắng, nhưng không được. Hôm nay người tới trường ít hẳn.
Cô thấy hối hận là đã nghe theo Matt và đầu hàng trước sự ngạo mạn của anh ta về chuyện không rời khỏi thành phố. Nếu như anh ta bằng cách nào đó đặt Zack vào tình thế nguy hiểm...
Rồi màn hình điện thoại của cô sáng lên, xuất hiện biểu tượng phong bì. Một tin nhắn từ di động của anh ta.
Tin nhắn viết: VỀ NHÀ.
Chỉ thế. Hai từ, viết thường, không chấm câu. Cô thử gọi lại ngay cho Matt. Có tiếng chuông reo và sau đó ngưng lại giống như anh ta có nghe máy, nhưng chẳng nói lấy một tiếng.
"Matt? Matt?"
Đám trẻ lóp bốn nhìn cô ngạc nhiên. Chúng chưa từng thấy cô Goodweather nói chuyện điện thoại trong lóp học.
Kelly thử gọi về máy ở nhà, và nghe thấy tín hiệu báo bận. Chẳng lẽ tin nhắn thoại bị hỏng? Lần cuối cùng cô nghe thấy tiếng tín hiệu máy bận là khi nào chứ?
Cô quyết định bỏ về. Kelly có thể nhờ Charlotte lóp kế bên mở cánh cửa thông sang lóp học của cô và để mắt tới đám học sinh của mình. Cô đã định kết thúc luôn ngày làm việc và đến trường đón Zack, nhưng rồi lại thôi. Cô sẽ đi thẳng về nhà, tìm
hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, đánh giá tình hình và rồi sẽ tính tiếp từ đó.
Bushwick, Brooklyn
NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐÓN HỌ tại ngôi nhà trống đứng choán gần như toàn bộ khung cửa ra vào. Bộ râu quên không cạo phủ bóng xuống cái cằm dô làm nó trông như được quét bởi một lóp muội đen. Anh ta mang một cái túi to màu trắng bên hông, một tay túm miệng túi. Chiếc túi trông giống một áo gối ngoại cỡ đựng cái gì đó rất nặng ở bên trong.
Sau màn chào hỏi, người đàn ông to lớn này thò tay vào túi áo lấy ra một bản sao giấy chứng nhận nhàu nhĩ mang con dấu CDC. Anh cho Eph xem giấy chứng nhận.
"Anh bảo có thứ gì đó cho chúng tôi xem?" Eph nói.
"Có hai thứ. Đây là thứ đầu tiên."
Fet nói dây rút chiếc túi và dốc những thứ ở bên trong ra mặt sàn. Bốn con chuột lông lá nằm thành một đống, tất cả đều đã chết.
Eph nhảy lùi lại một bước, còn Nora há hốc miệng hổn hển.
"Tôi luôn nói rằng, nếu muốn gây sự chú ý của mọi người, hãy đem cho họ một túi chuột." Fet cầm cái đuôi dài của một con chuột và nhấc nó lên, thân hình nó lúc lắc qua lại chầm chậm dưới tay anh ta. "Chúng chạy ra khỏi hang ổ trên khắp thành phố này. Thậm chí cả giữa ban ngày. Có gì đó đã làm chúng phải chạy đi. Nghĩa là, có gì đó bất thường. Tôi biết chuyện như vậy đã xảy ra vào thời kỳ Cái chết đen[2], chuột chạy ra ngoài và gục chết trên đường phố. Những con chuột này chạy ra không phải để chết. Chúng chạy ra rất nhiều, còn sống, liều lĩnh và đói khát. Tin tôi đi, khi anh nhìn thấy những biến động sinh thái của loài chuột, điều đó có nghĩa là một tin xấu đang đến gần.
Khi lũ chuột hốt hoảng, có nghĩa là đã đến lúc bán tháo mọi thứ. Đến lúc rời đi. Anh có hiểu ý tôi không?"
Setrakian nói, "Tôi hiểu."
Eph nói, "Có gì đó khiến tôi chưa hiểu hết ý anh ở đây. Chuột thì có liên quan gì với...?"
"Chúng chính là dấu hiệu," Setrakian nói, "như anh Fet đã nói rất rõ. Một dấu hiệu sinh thái. Bram Stoker đã truyền bá truyền thuyết rằng một con ma cà rồng có thể thay đổi hình dạng nó, biến nó thành một sinh vật hoạt động về đêm như doi hay chó sói. Quan điểm sai lầm này có nguồn gốc từ một sự thật. Trước khi các ngôi nhà có tầng hầm và hầm rượu, ma cà rồng ẩn náu trong các hang, hốc ở rìa các ngôi làng. Sự xuất hiện đầy tội lỗi của ma cà rồng thế chỗ cho doi và chó sói, xua chúng tràn vào các ngôi làng - sự xuất hiện của chúng bao giờ cũng trùng với bệnh tật lan truyền và hoảng loạn tinh thần."
Fet chăm chú nghe ông lão. "Ông biết không?" anh nói. "Hai lần tôi nghe thấy từ 'ma cà rồng' trong khi ông nói."
Setrakian bình thản nhìn anh ta. "Đúng thế."
Sau một lúc ngập ngừng suy tư và nhìn từ người này qua người khác, Fet nói, "Thôi được." Và tỏ ra hơi bối rối như chực làm gì đó. "Giờ thì tôi sẽ cho mọi người xem thứ còn lại."
Anh dẫn mọi người xuống tầng hầm. Từ đó xộc ra một mùi hôi hám, giống như thể từ một thứ gì đó mang bệnh vừa bị thiêu cháy. Anh chỉ cho họ thấy thịt và xương bị tán nhuyễn, giờ chỉ là một đống xỉ nằm trên mặt sàn tầng hầm. Bóng nắng hình chữ nhật thuôn dài chiếu qua cửa sổ đã di chuyển, in hình trên bức tường đối diện. "Nhưng nó đã chiếu xuống đây, và chúng đi vào đó, rồi bị đốt cháy ngay tức khắc. Nhưng trước đó chúng xông vào tôi với cái này... cái thứ bắn ra từ dựói lưỡi của chúng."
Setrakian kể vắn tắt cho anh ta nghe câu chuyện mới xảy ra. Về Chúa Tể ranh mãnh trú ngụ trên chuyến bay số 753. về cỗ quan tài mất tích, về những thi thể trong nhà xác sống dậy và trở về với người thân, về những nơi trú ẩn tại gia. về Tập đoàn Stoneheart, về bạc và ánh nắng, về vòi chích.
Fet nói, "Đầu của chúng ngửa ra sau và chúng há miệng ra... và thứ đó giống như một cái kẹo, kẹo của trẻ con - cái thứ thường đi kèm với đầu của các nhân vật trong Chiến tranh giữa các vì sao ấy.''
Nora tiếp lời sau một thoáng suy nghĩ, "Một ống kẹo Pez." "Chính nó. Ta hất hàm, chiếc kẹo thò ra khỏi cổ."
Eph gật đầu. "Ngoại trừ phần cái kẹo, thì mô tả còn lại hoàn toàn họp lý."
Fet nhìn Eph. "Vậy thì tại sao anh lại là kẻ thù số một của cồng chúng?"
"Bởi im lặng là vũ khí của họ."
"Chết tiệt. Ai đó cần phải lên tiếng."
"Đúng thế," Eph nói.
Setrakian nhìn chiếc đèn gắn trên thắt lưng, bên hông của Fet. "Cho phép tôi hỏi anh điều này. Nghề của anh sử dựng đèn cực tím, nếu như tôi không nhầm."
"Đúng vậy. Để phát hiện dấu vết nước tiểu chuột."
Setrakian liếc sang Eph và Nora.
Fet nhìn ông già mặc com lê. "Ông biết về nghề diệt chuột ư?"
Setrakian nói, "Tôi từng có một số kinh nghiệm." ông bước tới chỗ nhà quản lý bất động sản bị biến đổi, kẻ đã bò hoặc lết mình ra khỏi ánh mặt trời, và giờ đang nằm cuộn tròn trong một góc xa. Setrakian xem xét ông ta bằng chiếc gương mạ bạc, và cho Fet xem kết quả. Người diệt chuột nhìn qua lại giữa nhà quản lý bất động sản dưới con mắt thường và hình ảnh nhòe rung của ông ta phản chiếu trong gương. "Nhưng ông khiến tôi có ấn tượng như một chuyên gia về những thứ đào hang và giấu mình dưới lòng đất. Những sinh vật ẩn núp. Những thứ sử dụng con người làm nguồn thức ăn. Nghề của Ông là săn đuổi những thứ độc hại này ư?"
Fet nhìn Setrakian và hai người kia, trông như một người đàn ông đang đứng trên một chuyến tàu tốc hành đang tăng tốc rời khỏi nhà ga thì bỗng nhận ra mình đã lên nhầm chuyến. "Mọi người định đưa tôi vào chuyện gì vậy?"
"Vậy thì hãy nói cho chúng tôi biết. Nếu ma cà rồng là loài gặm nhấm gây hại - một sự truyền nhiễm ký sinh lan tỏa khắp thành phố - anh sẽ làm gì để ngăn chặn chứng?"
"Tôi có thể nói với ông rằng, từ quan điểm của người kiểm soát loài truyền nhiễm ký sinh gây dịch bệnh, việc đầu độc và đánh bẫy chúng chỉ là giải pháp ngắn hạn mà không có tác dựng dài lâu. Xử lý từng con vật xinh xắn này không dẫn ta đến đâu cả. Những con chuột mà các ông nhìn thấy chỉ là những con yếu nhất. Những con đói. Những con thông minh biết làm thế nào để sống sót. Kiểm soát là công việc cần làm. Quản lý môi trường sống của chúng, phá vỡ hệ sinh thái của chúng, cắt nguồn thức ăn và làm chúng chết đói. Khi đó ta sẽ tới được tận gốc của sự lây nhiễm, và dọn sạch nó."
Setrakian gật đầu chầm chậm, rồi nhìn sang Eph. "Chúa Tể. Nguồn gốc của tội ác này. Ngay lúc này nó đang ở đâu đó tại Manhattan." Ông lão nhìn lại người đàn ông không may mắn đang nằm cuộn tròn trên sàn, kẻ sẽ trở nên hoạt bát trở lại khi đêm xuống, trở thành ma cà rồng, một thứ gây hại. "Mọi người hãy lùi lại," ông nói, tuốt kiếm ra. Cùng lời tuyên bố, và với cú chém xuống bằng cả hai tay, ông cắt đứt đầu người đàn ông đó ngay tại chỗ ông ta nằm. Trong khi máu hồng nhạt chảy ra - vật chủ hãy còn chưa bị biến đổi hoàn toàn - Setrakian lau lưỡi kiếm vào áo ông ta và đút nó lại vào cây gậy của mình. "Chỉ cần chúng ta có được chỉ dẫn về nơi Chúa Tể trú ngụ. Đó có thể là nơi hắn lựa chọn và chuẩn bị từ trước. Một hang ổ phù họp với tầm vóc của hắn. Một nơi tối tăm che chở hắn, nhưng lại dễ dàng tiếp cận với thế giới con người trên bề mặt." Ông quay sang Fet. "Anh có biết nơi nào mà từ đó chuột có thể chạy lên mặt đất không? Tâm điểm của sự di dòi này?"
Fet gật đầu tức thì, mắt nhìn xa xăm. "Có lẽ tôi biết đấy."
Phố Church và phố Fulton
DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI CHIỀU TÀ, hai bác sĩ dịch tễ, ông chủ hiệu cầm đồ và người diệt chuột đứng trên đài quan sát ở phần nhô cao của công trường xây dựng Trung tâm Thương mại Thế giới, một cái hố lớn có chiều rộng bằng cả một khu phố và sâu hơn hai mươi mét.
Giấy chứng nhận thành phố cấp cho Fet, cùng một câu phỉnh phờ nhỏ - rằng Setrakian là một chuyên gia nổi tiếng thế giới về loài gặm nhấm tới từ Omaha - giúp họ được tự do di chuyển vào đường tàu điện ngầm mà không cần phải có người đi kèm. Fet dẫn họ đi dọc theo chính đường hầm bỏ không mà anh đã lần theo trước đó, rọi đèn pin vào những đường ray đã không còn bóng một con chuột. Setrakian cẩn thận bước qua những thanh giằng ray, chống cây gậy dài quá cỡ của mình xuống lóp nền đá dăm. Eph và Nora cầm đèn Luma.
"Anh không phải đến từ Nga," Setrakian nói với Fet.
"Chỉ có bố mẹ tôi cùng cái tên của tôi là đến từ nước Nga thôi."
"Ở Nga người ta gọi chúng là vourdalak. Họ lan truyền một truyền thuyết rằng người ta sẽ miễn nhiễm với ma cà rồng nếu trộn máu của chúng với bột mì để làm bánh ăn."
"Có tác dụng không?"
"Cũng như mọi bài thuốc dân gian. Người ta nói vậy, nhưng chẳng mấy tác dựng." Setrakian đứng cách xa về bên phải thanh ray thứ ba dẫn điện. "Thanh thép này trông có vẻ tiện dụng."
Fet nhìn thanh cốt thép dài của mình. "Nó là thép thô. Tôi nghĩ là nó giống như tôi. Nhưng nó cũng rất được việc. Cũng giống như tôi."
Setrakian hạ thấp giọng để giảm tiếng vọng dưới đường hầm. "Tôi có vài dụng cụ khác mà có lẽ anh sẽ thấy chúng cũng hiệu quả chẳng kém gì."
Fet nhìn thấy ống xả nước mà những thợ làm công trình dưới hầm trước đây đã sử dụng. Xa hơn phía trước, đường hầm rẽ hướng mở rộng ra, và Fet ngay lập tức nhận ra điểm nút tăm tối này. "Ở đây," anh nói, rọi thấp đèn pin xưng quanh.
Họ dừng lại và lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt. Fet quét ánh đèn pin lên mặt đất. "Tôi đã rắc bả bột lần dấu tại đây. Thấy chưa?"
Những dấu chân người in trên lóp bột. Giày da, giày thể thao, và cả chân trần.
Fet nói, "Ai có thể đi chân ứần trong đường hầm tàu điện ngầm chứ?"
Setrakian giơ bàn tay đeo găng len lên. Đường hầm như một cái ống âm học truyền tới tai họ những tiếng rên rỉ từ xa.
Nora thốt lên, "Lạy Chúa..."
Setrakian thì thào, "Đèn của hai người, nào. Bật lên đi."
Eph và Nora làm theo, chùm ánh sáng cực tím công suất cao của họ rọi sáng đường hầm, làm lộ ra chuyển động xoáy hỗn loạn của màu sắc. Vô số những vệt bẩn bắn tung tóe trên nền, trên các vách, các cột thép... khắp noi.
Fet lùi lại vì kinh tỏm. "Tất cả những thứ này là...?"
"Đỏ là chất thải," Setrakian nói. "Những sinh vật này ỉa đái trong khi ăn."
Fet nhìn xung quanh kinh ngạc. "Tôi cho rằng ma cà rồng không có nhu cầu giữ gìn vệ sinh."
Setrakian lùi bước. Ông cầm chiếc gậy theo tư thế khác, nửa phía trên đã được rút ra khoảng mười phân làm lộ lưỡi kiếm sắc sáng loáng. "Chúng ta phải ra khỏi đây. Ngay lập tức."
Fet lắng nghe những tiếng động trong đường hầm. "Tôi không phản đối."
Chân Eph đá phải cái gì đó, và anh bật lùi lại, tưỏng đó là chuột. Anh chiếu đèn cực tím của mình xuống dưới và thấy một mớ những vật gì đó trong góc.
Đó là những chiếc điện thoại di động. Khoảng một trăm chiếc hoặc hơn, chồng thành một đống giống như bị ném vào góc đó.
"ô," Fet nói. "Ai đó đã quăng đi cả một đống điện thoại di động dưới này."
Eph cầm lên vài chiếc nằm phía trên đống đó. Hai chiếc đầu đã chết pin. Chiếc thứ ba đang nhấp nháy báo pin sắp hết. Một biểu tưọng chữ X phía trên màn hình cho thấy không có sóng.
"Đó là lý do cảnh sát không thể tìm ra bất cứ ai mất tích bằng cách gọi vào máy của họ," Nora nói. "Tất cả bọn họ ở dưới đường hầm."
"Căn cứ tình hình này," Eph nói, ném nó trở lại núi điện thoại, "thì hầu hết bọn họ đang ở đây."
Eph và Nora nhìn những chiếc điện thoại, rồi vội vã bước đi.
"Nhanh lên," Setrakian nói, "trước khi chúng ta bị phát hiện." Ông dẫn đầu cuộc rút lui khỏi đường hầm. "Chúng ta phải sẵn sàng."
Chú thích
[1] Một địa danh ở Romania nổi tiếng. với những truyền thuyết về ma cà rồng.
[2] Cái chết đen: chỉ trận đại dịch hạch xảy ra ở châu Âu thế kỷ 14.
Hang Ổ
Phố worth chinatown
Chập tối đêm thứ tư, Ephraim lái xe qua tòa nhà của mình trên đường tới nhà Setrakian để trang bị vũ khí đúng quy cách cho cả nhóm. Không thấy bóng dáng cảnh sát phía ngoài nhà, vậy là anh đánh xe vào. Anh đang choi trò may rủi, nhưng cũng đã nhiều ngày rồi anh vẫn chưa thay quần áo, và ngay lúc này anh chỉ cần đúng năm phút. Anh chỉ cho họ một cửa số trên tầng ba, bảo anh sẽ hạ tấm che xuống một khi đã vào được bên trong an toàn.
Anh vào tới hành lang của tòa nhà mà không gặp vấn đề gì, rồi lên cầu thang. Khi thấy cửa căn hộ mở hé, anh dừng lại để nghe ngóng. Để cửa mở không có vẻ gì là giống kiểu của cảnh sát.
Anh đẩy cửa vào trong, gọi, "Kelly?" Không có tiếng trả lời. "Zack?" Chỉ họ mới có chìa khóa.
Có mùi gì đó khiến anh phải cảnh giác, cho tới khi anh nhận ra đó là món ăn Trung Quốc vứt trong sọt rác, do Zack ăn thừa - cảm giác như đã từ hàng năm trước. Anh bước vào phòng bếp để kiểm tra xem liệu sữa trong tủ lạnh có còn uống được... và anh đứng sững lại.
Anh nhìn chằm chằm. Phải mất một lúc anh mới hiểu là mình đang nhìn vào cái gì.
Hai cảnh sát nằm trên mặt sàn phòng bếp, ngay sát tường. Có tiếng ong ong phát ra từ bên trong căn hộ. Rồi nhanh chóng chuyển thành một thứ gì đó giống như tiếng thét, giống như một dàn họp xướng những tiếng thét đau đón.
Cánh cửa vào căn hộ sập mạnh. Eph lao nhanh ra chỗ cánh cửa đã đóng đó.
Hai người đàn ông đang đứng đó. Hại sinh vật. Hai con ma cà rồng.
Anh ngay lập tức nhận ra điều đó. Dáng điệu của chúng, vẻ tái nhợt của chúng.
Một trong số chúng, anh không biết. Ngựòi còn lại, anh nhận ra đó chính là Bolivar, kẻ sống sót. Trông hắn ta vô cụng chết chóc, nguy hiểm và đói khát.
Rồi Eph cảm nhận sự hiện diện của một mối nguy hiểm còn lớn hơn nữa bên trong căn phòng. Bởi hai con ma này chẳng phải nguồn phát ra thứ âm thanh ong ong kia. Anh chỉ mất một giây để quay đầu lại phía sau, hướng căn phòng chính, nhưng một giây đó kéo dài tưởng như vô tận.
Một nhân vật khổng lồ mặc áo choàng đen dài; Ghiều cao của nó vượt quá trần nhà, cổ của nó cúi thấp để có thể nhìn xuống Eph.
Và khuôn mặt của nó...
Eph cảm thấy choáng váng khi chiều cao bất thường này khiến cho căn phòng trở nên thật nhỏ bé, khiến anh cảm thấy thật nhỏ bé. Cảnh tượng này làm chân anh bủn rủn, ngay cả khi anh quay mình chạy về phíá cánh cửa thông ra hành lang.
Giờ thì sinh vật đó đang ở trước mặt anh, giữa anh và cánh cửa, chặn lối thoát duy nhất. Cứ như thể anh chẳng hề quay mình lại mà chính sàn,nhà đã tự xoay. Hãi ma cà rồng có kích thước bình thường của con người kia đã đứng chặn hai bên sườn anh.
Sinh vật đó đã ở gần hon; Sừng sững phíaTrên Eph. Đang nhìn xuống,anh.
Eph khuỵu gối. Sự hiện diện của sinh vật khổng lồ này khiến anh tê liệt, chẳng khác nào Eph vừa bịmột đòn vào người làm cho quỵ xuống.
Hừmmmmmmmmmmmmmm.
Eph cảm thấy nó. Theo cái cách người ta cảm thấy tiếng nhạc sống trong lồng ngực. Tiếng gầm gừ sôi sùng sục trong óc anh. Mắt anh dán vào mặt sàn, không dám ngước lên. Nỗi sợ hãi làm anh tê liệt. Anh không hề muốn nhìn mặt nó lần nữa.
Hãy nhìn ta.
Thoạt đầu Eph tin rằng thứ này trấn áp anh bằng ý nghĩ của hắn. Nhưng con ngộp thở của anh thuần túy là hệ quả của nỗi khiếp sợ, của sự hoảng loạn trong tâm thức.
Anh chỉ hơi ngước mắt lên. Run rẩy, anh nhìn thấy vạt áo choàng của Chúa Tể, rồi lên tới hai bàn tay thò ra khỏi ống tay áo. Hai bàn tay đó trông thật kinh tởm, không màu, không móng, và quá to so với bàn tay của con người. Những ngón tay, đều quá dài, trừ ngón giữa dài và to hơn các ngón khác, đầu ngón khoằm lại giống vuốt diều hâu.
Chúa Tể. Ở đây là vì anh. Để biến đổi anh.
Hãy nhìn ta, đồ bẩn thỉu.
Eph ngước đầu lên như thể bị một bàn tay nắm cằm.
Chúa Tể nhìn xuống anh từ bên dưới trần nhà, tại đó, cái đầu của nó phải cúi thấp xuống- Nó đưa hai tay lên kéo mũ trùm lật ra sau. Cái đầu chẳng có tóc hay màu sắc. Đôi mắt, môi và miệng không sắc độ trông mòn vẹt và bợt bạt giống như miếng vải lanh xơ xác. Cái mũi tịt hẳn vào giống như mũi của những bức tượng bị phong hóa do phoi sương.gió hàng thế kỷ; đập vào mắt chỉ là hai cái lỗ đen. Cổ họng nó phập phồng vẻ đối khát câm lặng. Nước da nhợt nhạt tới mức gần như trong suốt. Phía dưới lóp da thịt có thể nhìn thấy những đường tĩnh mạch không còn mang máu nữa, Lờ. mờ chạy ngoằn ngoéo giống như trên một bản đồ thể hiện một vùng đất cổ xưa hoang tàn. Những tĩnh mạch đó lúc nhúc một màu đồ-của những con giun đang luân chuyển. Thứ ký sinh hình ống đó đang thoải mái di chuyển dưới lóp da gần như trong suốt của Chúa Tể.
Ta sẽ tính sổ vởi ngươi.
Tiếng nói đó, chẳng khác nào một tiếng gầm rống kinh hãi, xộc thẳng vào đầu Eph. Anh cảm thấy mình rũ xuống. Mọi thứ rối ren và lờ mờ.
Ta có trong tay con vợ bẩn thỉu của ngươi. Và rồi sẽ sớm có được thằng con bẩn thỉu của ngươi.
Đầu óc Eph căng ra và muốn nổ tung vì ghê tởm và căm phẫn. Giống như một quả bóng bay tự phát nổ. Bằng một động tác dứt khoát, anh trượt một chân lên phía trước và lảo đảo đứng thẳng dậy trước con quỷ khổng lồ đó.
Ta sẽ tước bỏ mọi thứ của ngươi và chẳng để lại gì hết. Đó là cách của ta.
Chúa Tể vươn tay ra với một động tác nhanh, không thể nhìn rõ. Eph cảm thấy, giống như một bệnh nhân bị gây tê vẫn cảm nhận được áp lực từ mũi khoan của nha sĩ, một thứ gì đó kẹp lấy phía trên đầu mình, và rồi chân anh đã lơ lửng phía trên mặt sàn. Anh vung tay đạp chân tán loạn. Chúa Tể kẹp đầu anh bằng một bàn tay, giống như cầm một quả bóng chuyền, và nhấc bổng anh lên phía trần nhà. Tới ngang tầm mắt, vừa đủ gần để anh nhìn thấy những con giun máu đang bò loan ngoằn giống như những con tinh trùng mang dịch bệnh.
Ta chính là sự che khuất và nhật thực.
Nó nhấc anh tới gần miệng như cầm một quả nho căng tròn. Bên trong mồm nó tối tăm, cổ họng chắng khác nào một cái hang cằn cỗi, một con đường thẳng tới địa ngục. Thân người Eph đu đưa, anh gần như ngất đi. Anh có thể cảm thấy móng vuốt dài của ngón giữa nó tì sau cổ, áp mạnh vào phía trên cột sống. Chúa Tể lật đầu Eph ra phía sau giống như người ta bật nắp một lon bia.
Ta là kẻ uống máu người.
Rồi một âm thanh ướt át và lạo xạo vang lên, miệng của Chúa Tể bắt đầu mở ra. Hàm của nó co lại, lưỡi cuộn lên và thụt vào, làm lộ cái vòi chích gớm guốc lấp ló.
Eph gào thét vào bộ mặt man rợ của Chúa Tể, gắng sức dùng cả hai cánh tay chặn đường tiếp cận cổ mình.
Và rồi, có thứ gì đó... không phải tiếng kêu thét của Eph... thứ gì đó buộc Chúa Tể phải hơi ngoái cái đầu khổng lồ của mình lại.
Cánh mũi của nó phập phồng, kiểu hít ngửi của loài quỷ
mà chẳng cần hô hấp.
Cặp mắt trông như đá mã não của nó quay lại nhìn Eph, nhìn thắng vào anh như hai quả cầu chết chóc. Trừng trừng nhìn Eph - như thể Eph đã bằng cách nào đó dám lừa Chúa Tể.
Không phải một mình.
***
Cùng lúc đó, đang chạy lên cầu thang để tới căn hộ của Eph, sau Fet hai bước chân, Setrakian bất thần nắm chặt tay vịn cầu thang, vai ông đố dựa vào tường. Con đau buốt bùng lên trong đầu giống như bị phình mạch máu não, và một giọng nói - độc ác và hả hê và báng bổ - bùng lên như một quả bom phát nổ bên trong một thính phòng hòa nhạc đầy khán giả.
SETRAK1AN.
Fet dừng lại ngoái về phía sau, nhưng Setrakian dùng ánh mắt đau đón ra hiệu cho anh tiến lên. Ông chỉ có thể thều thào: "Nó đang ở đây."
Mắt Nora tràn ngập lo lắng. Tiếng giày của Fet gõ thình thịch khi anh chạy lên thang gác. Nora cố giúp Setrakian, kéo ông chạy theo Fet, tới cửa, vào trong căn hộ.
Fet xô vào cái thân người đầu tiên anh đụng phải, một chốt cản, anh chúi người xuống, bị tóm lấy, ngã nhoài và lộn qua một bên. Anh bật nhanh người dậy trong tư thế chiến đấu và đối mặt với kẻ thù của mình, một bộ mặt ma cà rồng, không phải đang cười, nhưng mở miệng giống như cười, sẵn sàng hút máu.
Rồi Fet nhìn thấy cái sinh vật khổng lồ trong phòng. Chúa Tể, đang tóm chặt Eph. Quái vật. Mê hoặc.
Con ma cà rồng ở gần hơn xông vào anh và dồn anh vào trong bếp, ép sát cửa tủ lạnh.
Nora chạy vào trong, kịp thời bật chiếc đèn Luma lên vừa ngay lúc con ma cà rồng Bolivar nhảy xổ vào cô. Nó rít lên hổn hển và lảo đảo lùi lại. Rồi Nora trông thấy Chúa Tể, phần phía sau của cái đầu đang cúi thấp phía trên trần nhà. Cô thấy Eph đang bị treo lủng lắng dưới bàn tay của con quái vật đang ghì chặt đầu anh. "Eph!"
Setrakian bước vào cùng lưỡi kiếm dài tuốt trần. Ông sững lại một thoáng khi trông thấy Chúa Tể, kẻ khổng lồ, con quỷ. Giờ nó đã ở đây, trước mặt ông, sau ngần ấy năm ròng.
Setrakian vung lưỡi kiếm bạc. Nora, xáp lại gần từ một phía khác, dồn Bolivar về phía vách tường mặt tiền của căn hộ. Chúa Tể roi vào thếbí. Tấn công Eph trong một không gian nhỏ như thế này quả là một sai lầm cơ bản.
Trái tim Setrakian đập dồn khi ông xoay đầu lưỡi kiếm và xiên nó vào thứ ma quỷ kia.
Tiếng ong ong trong căn hộ đột ngột bùng lên thành một tiếng nổ bên trong đầu ông. Âm thanh đó bùng lên cả trong đầu Nora, Fet và Eph. Sức chấn động chết người của âm thanh khiến ông lão co rúm lại trong một thoáng - chỉ một thoáng.
Ông nhìn thấy nụ cười đen tối của một con rắn trên khuôn mặt Chúa Tể. Con ma cà rồng khổng lồ đó ném Eph đang chói với ra xa, thân mình anh đập sầm vào bức tường phía xa và roi mạnh xuống sàn. Bằng cánh tay dài có móng vuốt của mình, Chúa Tể móc Bolivar lên vai và lao mình qua kính cửa sổ trông xuống phố Worth.
Tiếng lánh vỡ loảng xoảng vang vọng cả tòa nhà trong khi Chúa Tể trốn thoát dưới cơn mưa những mảnh kính vụn.
Setrakian chạy về phía khoảng không hiu hiu gió vừa mới mở ra, tới bên khung cửa sổ lởm chởm những mảnh kính. Dưới đó ba tầng, những mảnh kính vỡ chỉ vừa kịp chạm mặt hè đường, lấp lánh trong ánh sáng đường phố.
Chúa Tể, với tốc độ siêu phàm của mình, đã chạy cắt ngang con phố, về phía tòa nhà đối diện, vẫn quặp Bolivar trong tay, nó nhảy qua hàng rào, vọt lên mái nhà cao và biến vào bóng tối.
Setrakian đờ ra trong giây lát, ông không thể tin được rằng Chúa Tể vừa mới ở trong chính căn phòng này và giờ đã trốn thoát. Tim ông đập như đấm vào lồng ngực, tưởng chừng như muốn vỡ tung ra.
"Này... giúp với!"
Ông quay lại và thấy Fet đang vật lộn với con ma cà rồng còn lại trên mặt sàn, Nora đang hỗ trợ bằng chiếc đèn. Cơn thịnh nộ của Setrakian lại bùng lên, và ông bước tói, thanh kiếm bạc trong tay chĩa ra phía trước.
Fet thấy ông bước tới, mắt anh mở tròn sợ hãi. "Không, đợi đã..."
Setrakian chém xuống, lưỡi kiếm cắt qua cổ con ma cà rồng, cách phía trên cánh tay Fet chỉ dăm phân, rồi ông đá cái xác mất đầu đó ra khỏi ngực Fet trước khi máu trắng của nó kịp chạm vào da anh.
Nora chạy tới chỗ Eph, lúc này đang nằm cuộn mình trên sàn nhà. Má anh có vết cắt và đồng tử thì dãn to, đầy sợ hãi - nhưng dường như anh chưa bị biến đổi.
Setrakian lấy gương ra để xác nhận điều này. Ông đưa nó ra trước mặt Eph và không thấy có sự biến dạng nào. Nora rọi đèn vào cổ Eph. Không có gì - không có vết thủng nào.
Nora giúp anh ngồi thẳng dậy, Eph nhăn nhó vì đau khi cô chạm vào cánh tay phải của anh. Cô chạm vào cằm anh, phía dưới vết xước, muốn ôm lấy anh nhung lại không thể vì sợ làm anh bị đau thêm. "Chuyện gì vậy?" cô hỏi.
Eph nói, "Hắn đã bắt Kelly."
Phố Kelton, Woodside, Queens
EPH PHÓNG XE QUA CÂY CẦU dẫn vào Queens. Anh vừa lái vừa dùng điện thoại của Jim cố gọi vào máy Kelly.
Không đổ chuông. Chỉ có tin nhắn thoại của cô.
Xin chào, Kelly đây. Tôi không thể trả lời điện thoại ngay lúc này...
Eph bấm gọi nhanh cho Zack một lần nữa. Điện thoại của Zack rung chuông.
Anh ngoặt xe vào phố Kelton và phanh gấp ngoài sân trước nhà Kelly, nhảy qua hàng rào thấp và chạy lên các bậc thang. Anh đập mạnh cửa và bấm chuông. Anh để quên chìa khóa cửa trong căn hộ của mình, chúng hãy còn treo trên móc ở đó.
Eph lùi lại lấy đà rồi thúc vai vào cánh cửa. Anh thử lại lần nữa, chỉ tổ làm đau cánh tay hon. Lần thứ ba, anh quăng toàn bộ cơ thể vào cánh cửa, khung cửa vỡ ra, và anh ngã lăn vào trong.
Anh chồm dậy chạy khắp ngôi nhà. Anh đâm sầm vào các bức tường ở mấy chỗ rẽ, chân liên tục vấp vào các bậc cầu thang dẫn lên tầng hai. Anh dừng lại trước cửa phòng ngủ của Zack. Phòng của thằng bé trống tron.
Quá trống.
Chạy ba bậc cầu thang một xuống tầng dưới, anh nhìn thấy chiếc túi đựng vật dụng khẩn cấp của Kelly bên cạnh cánh cửa vỡ. Cả mấy chiếc va li đã đóng đồ nhưng chưa kéo khóa. Cô chưa hề ra khỏi thành phố.
Ổi, Chúa ơi, anh nghĩ. Đúng là có chuyện rồi.
Những người khác vừa vào tới cửa đúng lúc có thứ gì đó tấn công anh từ phía sau. Một kẻ nào đó đang túm lấy anh. Vốn đang sôi sùng sục, anh phản đòn ngay lập tức. Anh lăn người lại và đẩy kẻ tấn công mình ra.
Matt Sayles. Eph nhìn thấy đôi mắt chết chóc của hắn ta và cảm thấy sức nóng toát ra từ quá trình chuyển hóa mạnh mẽ trong cơ thể hắn.
Có tiếng gầm gừ của loài thú hoang phát ra từ miệng Matt. Eph kẹp hai cẳng tay vào cổ họng hắn khi con ma cà rồng vừa chuyển hóa đó định há miệng ra. Eph thúc mạnh hàm hắn lên trên, cố gắng chận thứ cơ cấu sinh học nào đó đang chuẩn bị nhả ra vòi chích. Đôi mắt Matt biến dạng, đầu hắn lắc qua lắc lại trong nỗ lực giải phóng cổ họng.
Nhìn thấy Setrakian đang rút kiếm ra phía sau Matt, Eph hét lên, "KHÔNG!" và dồn toàn bộ con thịnh nộ của mình vào cú đá làm Matt văng ra xa.
Con ma cà rồng gầm gừ, lăn vài vòng rồi dừng lại, và chồm dậy trên bốn chân, nhìn Eph đúng thẳng người.
Matt đứng dậy, khom người ra phía trước. Miệng hắn đang động cựa một cách kỳ quái, một con ma cà rồng mới đang tập làm quen với các cơ khác nhau, lưỡi hắn vặn vẹo xung quanh đôi môi mở với một vẻ bối rối đầy nhục dục.
Eph nhìn quanh tìm kiếm một thứ vũ khí, và chỉ thấy một cái vợt tennis nằm trên sàn bên ngoài tủ chứa. Anh nắm lấy cái chuôi có dán băng dính của nó bằng cả hai tay và xoay khung titan của vợt về phía mình, rồi tiến tới chỗ Matt với thứ vũ khí đó. Toàn bộ nỗi uất ức của anh đối với Matt - kẻ đã bước vào ngôi nhà, và lên giường của vợ anh... kẻ đã muốn trở thành bố của con trai anh... kẻ đã tìm cách thay thế Eph - ngập tràn trong anh khi anh vụt chiếc vợt vào cằm Matt. Anh muốn đập tan hắn cùng với cái thứ hãi hùng đang núp bên trong đó. Những con ma mới kiểu này còn chưa kịp trưởng thành đầy đủ, và với bảy tám cú vụt chính xác, anh làm vỡ vụn những chiếc răng của Matt và buộc hắn ta phải khuỵu gối xuống. Nhưng trước khi khuỵu hẳn, Matt vẫn kịp tung ra cú đá vào mắt cá chân Eph và làm anh ngã bổ chửng ra sau. Ở một mức độ nào đó, nỗi căm giận Eph vẫn còn sục sôi trong Matt. Nhe những chiếc răng vỡ ra, hắn ta chồm lên, nhưng Eph đã co chân đạp thẳng vào mặt Matt khiến hắn văng ngược trở lại. Eph lui bước và tìm loanh quanh trong bếp, và kia, anh thấy một con dao chạm dính trên một dải treo nam châm.
Con thịnh nộ chẳng bao giờ mù quáng. Con thịnh nộ đem lại sự tập trung có một không hai. Eph cảm thấy như anh đang nhìn ngược đầu một ống kính viễn vọng - chỉ nhìn thấy độc một con dao, và rồi chỉ thấy một mình Matt.
Matt xông tới Eph và bị anh đẩy mạnh vào tường. Anh túm lấy một dúm tóc của hắn và giật ngược lại, làm lộ cổ họng của con ma cà rồng. Mồm Matt mở rộng, vòi chích sột soạt thò ra, cố gắng hút máu Eph. Cổ họng Matt gọn sóng và phồng lên, và Eph liên tục thọc con dao vào đó. Mạnh và nhanh, thẳng vào cổ họng và xuyên cả vào bức tường phía sau, khi mũi dao bị kẹt ở đó, anh lại giật mạnh nó ra. Các đốt sống cổ vỡ răng rắc. Thứ chất nhờn màu trắng nổi bong bóng. Cơ thể Matt rũ ra, hai tay thõng xuống. Eph đâm dao cho tới khi trong tay anh chỉ còn lại cái đầu Matt, cơ thể hắn ta đổ xuống sàn.
Eph dừng tay. Anh thấy, mà không thực sự nhận thức được, cái đầu trong tay anh với vòi chích của nó, rủ xuống qua cái cổ bị cắt, vẫn còn đang co giật.
Rồi anh thấy Nora và mấy người kia đang nhìn mình từ phía cánh cửa mở. Anh thấy bức tường cùng thứ chất nhầy màu trắng đang nhỏ giọt trên đó. Anh' thấy cái xác-không đầu nằm trên sàn nhà. Anh thấy cái đầu trong tay mình.
Những con giun máu đang bò ngoằn ngoèo trên mặt Matt. Qua má hắn và lên mắt. Chúng bò'trong mớ tóc thưa của Matt, hướng thẳng tới những ngón tay của Eph.
Eph thả cái đầu, nó roi đánh thịch xuống sàn, không lăn đi đâu cả. Anh buông cả con dao, nó roi xuống bụng Matt không một tiếng động.
Eph nói, "Chúng đã bắt con trai tôi."
Setrakian kéo anh ra xa khỏi cái xác và máu ma cà rồng bị nhiễm bệnh. Nora bật đèn Luma chiếu vào xác Matt.
Fet nói, "Thật kinh khủng."
Eph lại nói, vừa như một lời giải thích mà cũng vừa như một cái đinh đâm sâu hơn vào tâm hồn anh: "Chúng đã bắt con trai tôi."
Tiếng gào thét giết chóc trong tai anh chìm xuống, và anh nhận ra một chiếc xe đỗ phía ngoài nhà. Tiếng cửa xe mợ, và tiếng nhạc nhẹ nhàng.
Một giọng nói vang lên, "Cảm on."
Giọng nói đó.
Eph bước tới cánh cửa; trước bkphá'hỏng. Anh nhìn ra lối dẫn vào nhà và thấy Zack vừa bước ra khỏi một chiếc minivan, vừa tròng dây đeo ba lô' lên vai.
Zack chỉ vừa kịp bước tới cổng! thì đã nằm gọn; trong vòng tay Eph. "Bô?"
Ôm đầu thằng bé trong tay, Eph kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng mắt và mặt nó.
Zack hỏi, "Bố làm gì vậy...?"
"Con đã ở đâu?"
"Ở nhà Fred." Zack cố gắng thoát khỏi vòng tay của bố nó. "Mẹ không đến, thế là mẹ Fred.tới đón con về nhà họ."
Eph thả Zack ra.’Kelly.
Zack nhìn qua vai anh, về phía ngồi nhà. "Chuyện gì xảy ra với cửa nhà mình vậy?"
Nó bước mấy bước về phía đó, cho tới khi Fet xuất hiện ở lối vào, Setrakian ở phía sau. Một người đàn ông to lớn mặc áo sơ mi ca rô bỏ ngoài quần và đi đôi giày làm việc, cùng một ông già mặc áo vải tuýt cầm một cây gậy có chạm đầu sói ở cán.
Zack quay lại nhìn bố nó, hoang mang tột độ. Nó hỏi, "Mẹ con đâu?"
Cửa hàng Đồ cổ và Cho Vay Knickerbocker,
phố 118 Đông, Spanish Harlem
EPH ĐỨNG Ở HÀNH LANG chất đầy sách trong căn hộ của Setrakian. Anh đang quan sát Zack choi game Devil Dog trên một chiếc bàn nhỏ ở phòng bếp, Nora bên cạnh hỏi han chuyện trường lóp, cố gắng giữ cho nó bận bịu và sao nhãng.
Eph vẫn nhớ rõ cảm giác khi bị Chúa Tể tóm đầu. Anh đã sống một cuộc sống được xây dựng trên những chuẩn mực nhất định, trong một thế giới dựa trên những chuẩn mực nhất định, và giờ đây mọi thứ anh từng cho là có thể dựa vào đã biến mất, anh nhận ra mình đang lạc lối.
Nora thấy anh nhìn vào từ hành lang, và Eph có thể thấy cô đang sợ hãi khi nhìn vào vẻ mặt anh.
Eph biết rằng từ giờ trở đi có thể anh sẽ không còn tỉnh táo như trước nữa.
Anh đi xuống hai tầng để tới kho vũ khí dưới hầm của Setrakian. Đèn báo động uv ở cửa ra vào đã tắt, ông già đang giới thiệu các thứ trong kho với Fet. Người diệt chuột tỏ ra rất thán phục cây súng bắn đinh cải tiến, giờ trông như khẩu tiểu liên UZI nòng ngắn, chỉ khác là có màu vàng cam và đen với hộp tiếp đinh vào nòng được bố trí xiên đi một góc.
Setrakian bước lại gần Eph. "Anh đã ăn chưa?"
Eph lắc đầu.
"Con anh thế nào rồi?"
"Sợ hãi, nhưng không để lộ ra."
Setrakian gật đầu. "Cũng giống như tất cả chứng ta." "Ông đã nhìn thấy nó trước kia. Sinh vật đó. Chúa Tể." "Đúng."
"Ông đã cố giết nó."
"Đứng."
"Ông đã thất bại."
Setrakian nheo mày, như thể đang nhìn thẳng vào quá khứ. "Tôi đã không chuẩn bị đầy đủ. Tôi sẽ không thất bại một lần nữa."
Fet, đang cầm trong tay một thứ trông giống đèn lồng gắn một cái đinh ở một đầu, nói, "Khó có thể thất bại. Thật khó có thể thất bại với cái kho vũ khí này."
"Tôi tự lắp ráp một số chi tiết lại với nhau, từ những thứ đem tới cửa hàng này. Nhưng tôi không phải người chế tạo bom." Ông nắm chặt những ngón tay đeo găng như để chứng minh điều đó. "Tôi được một thợ bạc ở New Jersey giúp dập những đầu nhọn và đinh."
"Ý ông là ông không mua thứ này ở cửa hàng Radio Shack ư?"
Setrakian cầm lấy cái vật hình đèn lồng nặng nề từ tay người diệt chuột. Nó được làm từ nhựa đục với một đế dày chứa ắc quy, một cái đinh bằng thép dài mười lăm phân ở dưới đáy. "Đây thực chất là một quả mìn ánh sáng cực tím. Nó là thứ vũ khí sử dụng một lần, bức xạ ra chùm tia uvc thuần khiết giúp tiêu diệt ma cà rồng. Nó được thiết kế để quét sạch cả một căn phòng lớn, gây bỏng rất nhanh một khi phát nổ. Anh cần phải tránh ra xa khi nó hoạt động. Nhiệt độ và bức xạ của nó khá là... khó chịu."
Fet nói, "Thế còn khẩu súng bắn đinh này?"
"Đây là cơ cấu kích ngòi bằng thuốc súng, hoạt động nhờ đạn súng săn nạp thuốc nổ để bắn đinh. Năm mươi đinh cho mỗi viên, đinh mũi nhỏ dài gần bốn phân. Tất nhiên là bằng bạc."
"Hiển nhiên rồi," Fet nói, ngắm nghía khẩu súng, cảm nhận lóp cao su bọc tay nắm.
Setrakian nhìn quanh phòng: chiếc áo giáp cổ gắn trên tường; những chiếc đèn uvc và bộ sạc ắc quy trên các giá; những thanh kiếm bạc và gương tráng bạc; vài mẫu vũ khí thử nghiệm; sổ ghi chép và bản vẽ của ông. Quy mô của sự tàn bạo vào thời điểm này gần như khiến ông choáng váng. Ông chỉ hy vọng nỗi sợ hãi này sẽ không biến ông trở lại thành một chàng trai bất lực như thuở nào.
Ông nói: "Tôi đã chờ đợi thời điểm này từ rất lâu rồi."
Rồi ông bước lên cầu thang, để Eph ở lại với Fet. Người diệt chuột to cao nhấc khẩu súng bắn đinh ra khỏi bộ sạc. "Anh tìm ra ông lão này ở đâu vậy?"
Eph nói, "Ông ấy tìm ra tôi."
"Trong khi hành nghề, tôi đã từng thấy rất nhiều tầng hầm. Nhìn quanh cái cửa hàng nhỏ bé này, tôi nghĩ - quả thực có tồn tại một người điên như thế này."
Eph nói, "Ông ấy không điên."
"Ông ấy đã cho anh xem thứ này chưa?" Fet hỏi. Anh bước tới chỗ cái bình thí nghiệm thủy tinh có quả tim bị nhiễm ngâm trong dung dịch. "Ông ấy giữ quả tim của một ma cà rồng mình đã giết như một vật nuôi trong kho vũ khí ở tầng hầm của mình. Ông ấy điên quá. Nhưng ổn thôi. Tôi cũng điên điên một chút." Anh cúi thấp xuống, gí sát mặt lại gần cái bình. "Ê, mèo con, mèo con..." Một đầu mút phi thẳng vào thành bình, định tóm lấy anh. Fet thẳng người lên và quay về phía Eph với ánh nhìn hàm ý Anh-có-tin-nổi-không? "Thứ này quả là vượt quá những gì tôi mong đợi khi tỉnh dậy sáng nay." Anh giương khẩu súng bắn đinh lên và ngắm mục tiêu trong bình, tỏ ra thích thú với trò đó. "Anh có phiền không nếu tôi xử lý nó?"
Eph lắc đầu. "Cứ tự nhiên."
***
Eph quay trở lên tầng trên, anh chậm bước lại ở ngoài hành lang khi thấy Setrakian cùng Zack trong bếp. Setrakian tháo sợi dây chuyền bạc khỏi cổ mình - sợi dây có móc khóa cửa kho tầng hầm - và bằng những ngón tay cong queo, ông tròng nó qua đầu Zack, treo nó quanh cổ đứa con mười một tuổi của anh, rồi vỗ vỗ vào vai nó.
"Vì sao ông lại làm vậy?" Eph hỏi Setrakian khi chỉ còn riêng hai người.
"Có những thứ ở tầng dưới - sổ sách, giấy tờ - cần được giữ gìn. Những thế hệ sau đó có thể thấy có ích."
"Ông không định quay trở lại ư?"
"Tôi áp dụng mọi biện pháp phòng ngừa có thể." Setrakian nhìn quanh để chắc chắn rằng chỉ có hai người họ. "Hãy hiểu. Chúa Tể có sức mạnh và tốc độ vượt ra khỏi nhũng gì mà chúng ta đã chứng kiến ở những con ma cà rồng mới này. Nó mạnh hơn ta tưởng tượng. Nó đã sống trên trái đất này hàng thế kỷ. Tuy nhiên..."
"Tuy nhiên nó là một con ma cà rồng."
"Và ma cà rồng vẫn có thể bị tiêu diệt. Hy vọng tốt nhất của chúng ta là xua nó ra ngoài. Làm nó bị thương và dồn nó ra dưới ánh sáng chết chóc của mặt trời. Đó là lý do ta phải đợi cho tới khi trời sáng."
"Tôi muốn đi ngay bây giờ."
"Tôi biết anh muốn vậy. Đó cũng chính là điều nó mong muốn."
"Hắn đang giữ vợ tôi. Kelly bị bắt là bởi một lý do duy nhất - vì tôi."
"Anh có một lý do cá nhân ở đây, bác sĩ, và nó rất thôi thúc. Nhưng anh cần phải biết, nếu nó có cô ấy, thì cô ấy đã bị biến đổi."
Eph lắc đầu. "Cô ấy không bị biến đổi."
"Tôi nói điều này không phải để chọc giận anh..."
"Cớ ấy không bị biến đổi."
Setrakian gật đầu sau một lát suy nghĩ. Ông đợi cho Eph bình tĩnh lại.
Eph nói, "Hội Cai rượu đã làm được rất nhiều điều cho tôi. Nhưng có một thứ họ không bao giờ cho tôi được, đó là sự thanh thản chấp nhận những thứ tôi không thể thay đổi."
Setrakian nói, "Tôi cũng vậy. Có thể đây chính là điểm chung dẫh đến việc chúng ta gặp nhau. Mục tiêu của chúng ta trùng lặp một cách hoàn hảo."
"Chỉ gần hoàn hảo thôi," Eph nói. "Bởi vì chỉ một trong hai ta mới có thể thực sự là người sẽ giết chết con quái vật kinh tỏm này. Và đó sẽ là tôi."
***
Nora lo lắng chờ được nói chuyện với Eph, và cô lao bổ vào anh ngay khi anh vừa rời khỏi chỗ Setrakian, kéo anh vào phòng tắm lát đá hoa của ông lão.
"Xin anh/ đừng," cô nói.
"Đừng cái gì?"
"Đề nghị em những điều anh định đề nghị." Cô khẩn nài bằng đôi mắt nâu đầy sợ hãi. "Đừng."
Eph nói, "Nhung anh muốn em..."
"Em sợ lắm, nhưng em xứng đáng được chiến đấu bên anh. Anh cần em."
"Đúng vậy. Anh cần em ở đây. Để trông chừng Zack. Ngoài ra, một trong hai chúng ta cần phải ở lại phía sau. Để tiếp tục, trong.trường họp..." Anh bỏ dở câu. "Anh biết có nhiều điều cần nói."
"Quá nhiều/"
Eph không thế dõi mắt khỏi mắt cô. Anh nói, "Anh cần phải theo dấủ cô ây."
"Em biết."
"Anh chỉ muốn để em biết..."
"Chẳng có gì phải giải thích cả," cô nói. "Nhưng, em mừng vì anh muốn làm thế."
Anh kéo CÔ lại gần, vào vòng tay ôm chặt của mình. Nora vòng tay ra sau gáy Eph, vuốt nhẹ mái tóc anh. Cô ngả ra sau một chút để nhìn anh, định nói thêm gì đó, nhưng thay vào đó, cô hôn anh. Đó là nụ hôn tạm biệt, buộc anh trở về.
Họ rời nhau, và anh gật đầu, tỏ ý hiểu cô.
Anh thấy Zack đang nhìn họ từ hành lang.
Eph không định giải thích bất cứ điều gì với nó lúc này. Bỏ lại đằng sau sự đẹp đẽ tốt tính của cậu bé này và rời khỏi nơi được coi là an toàn để đi đối mặt với quỷ dữ là việc bất thường nhất mà Eph có thể làm. "Con sẽ ở nhà với cô Nora, được chứ? Chúng ta sẽ nói chuyện khi bố trở về."
Zack nheo mắt cảnh giác kiểu của một đứa trẻ, những cảm xúc của nó lúc này quá nặng nề và khó hiểu với nó. "Trở về từ đâu?"
Anh kéo con trai lại gần, ôm chặt nó trong tay cứ như thể thằng bé có nguy cơ bị vỡ ra thành hàng triệu mảnh. Ngay lúc đó anh đã quyết tâm phải chiến thắng trở về vì có quá nhiều thứ anh sợ mình sẽ đánh mất.
Họ nghe thấy tiếng hò hét và tiếng còi ô tô ngoài đường, và mọi người bước cả tới cửa sổ hướng Tây. Cả một đống đèn phanh ô tô ken đặc con đường cách đó mấy dãy nhà, mọi người đang tràn ra phố xá và đánh nhau. Một ngôi nhà đang bốc cháy mà chả thấy bóng dáng chiếc xe cứu hỏa nào.
Setrakian nói, "Đây chính là khỏi đầu của sự hỗn loạn."
Morningside Heights
GUS VẪN ĐANG TRÊN đường chạy trốn từ đêm hôm trước. Còng tay cản trở cậu đi lại thoải mái trên đường phố, cộng với chiếc áo sơ mi cũ cậu nhặt được và vết thương ở cẳng tay, trông cậu cứ như người vừa đi vừa khoanh tay; thật chẳng thể đánh lừa được nhiều người. Cậu lẻn vào một rạp chiếu phim theo lối cửa ra và đánh một giấc trong bóng tối. Cậu nhớ tới một xưỏng tháo gỡ phụ tùng xe hơi ăn trộm ở Bờ Tây, và mất rất nhiều thời gian mới đến được đó, để rồi phát hiện ra nó trống trơn. Không khóa, đơn giản là trống trơn. Cậu sục sạo tìm kiếm trong số những thứ đồ nghề ở đó, cố gắng cắt cái còng nối hai cổ tay với nhau. Cậu thậm chí khỏi động cả. một lưỡi cưa máy được cố định bởi ê tô, và xém chút nữa thì cắt phăng mất cổ tay mình. Cậu chả thể làm gì được bằng một tay, và cuối cùng đành hậm hực bỏ đi.
Cậu lảng vảng tới chỗ vài thằng bạn người Mễ nhưng chả gặp được ai tin tưởng. Đường phố thật kỳ lạ - ít người qua lại. Cậu biết chuyện gì đang diễn ra. Khi mặt trời bắt đầu khuất bóng, cậu hiểu rằng thời gian và lựa chọn của mình sẽ hết.
Trở về nhà thì liều lĩnh quá, nhưng cả ngày hôm nay cậu không thấy có nhiều cảnh sát, vả lại cậu cũng thấy lo cho mẹ. Cậu lẻn vào bên trong tòa nhà, cố giữ hai tay giấu dưới lần áo so mi đang phồng lên sao cho nhìn thật tự nhiên, và leo lên cầu thang. Mười sáu tầng cao. Khi lên tới noi, cậu bước ra hành lang không một bóng người. Cậu lắng tai nghe ngóng ở cửa. Có tiếng ti vi, như mọi khi.
Biết là chuông đã hỏng, cậu bèn gõ cửa. Đợi một lát rồi lại gõ. Cậu đá chân vào cửa, làm rung cả cánh cửa và bức tường tồi tàn.
"Crispin," cậu rít lên gọi ông anh bẩn thỉu của mình. "Crispin, đồ thối tha. Mở cái cửa chết tiệt này mau."
Gus nghe thấy tiếng khóa xích đang tháo ra, và chốt cửa quay vào bên trong. Cậu chờ đợi, nhưng cửa không hề mở ra. Vậy là Gus gỡ cái áo đang che hai cổ tay bị khóa ra và xoay tay nắm cửa.
Cậu bước vào và thấy Crispin đang đứng trong góc ở bên trái chiếc ghế dài vẫn được anh ta sử dụng thay giường ngủ. Các rèm cửa sổ đã đưọc kéo xuống, cánh cửa tủ lạnh đang mở trong phòng bếp.
"Mẹ đâu?" Gus hỏi.
Crispin không nói gì.
"Đồ ngớ ngẩn," Gus nói. Cậu đóng cửa tủ lạnh. Vài thứ đã chảy, trên mặt sàn có nước. "Mẹ đang ngủ à?"
Crispin không nói gì. Anh ta nhìn Gus.
Gus bắt đầu hiểu ra vấn đề. Cậu nhìn kỹ lại Crispin, kẻ hầu như chẳng đáng để cậu nhìn mặt nữa. Và cậu thấy một đôi mắt đen cùng khuôn mặt hốc hác.
Cậu bước tới cửa sổ và mở toang những tấm rèm che. Trời đã về đêm. Có khói bốc lên từ một đám cháy phía dưới.
Gus quay lại đối mặt với Crispin, lúc này đang lao vào tấn công cậu từ phía kia căn phòng, hú lên. Gus vung cao hai tay và dùng sọi xích của chiếc còng tay chặn cổ họng gã anh trai. Đủ cao để vòi chích của anh ta không thể thò ra.
Gus túm đầu Crispin bằng cả hai tay và dúi anh ta xuống sàn. Đôi mắt đen của gã anh trai ma cà rồng của Gus trợn trừng, cằm giật giật khi cố gắng há miệng ra mà không thể do bị Gus ghì chặt. Cậu định làm Crispin nghẹt thở, nhung cứ thấy anh ta đạp mãi mà không xỉu đi - và Gus sực nhớ ma cà rồng không cần thở, và không thể bị giết theo cách đó.
Vậy là Gus túm cổ Crispin dậy trong lúc anh ta không ngừng khua tay cào vào cánh tay cậu. Trong mấy năm gần đây, Crispin chẳng khác nào một thứ của nợ cho mẹ của họ và nguồn con của mọi nỗi tức giận trong lòng Gus. Giờ thì anh ta đã là một con ma cà rồng và phần tình nghĩa anh em trong Gus đã mất hết, thứ còn lại chỉ là sự căm phẫn. Và chính ý chí trả thù đã giúp Gus xô mạnh đầu Crispin vào chiếc gương lớn trang trí trên tường, chiếc gương cổ hình ô van rất dày đó không hề nứt vỡ cho tới khi đổ xuống sàn nhà. Gus thúc gối vào Crispin làm anh ta ngã xuống sàn, rồi cậu cầm mảnh thủy tinh vỡ lớn nhất lên. Khi Crispin còn chưa kịp khuỵu hẳn gối xuống thì Gus cắm đầu nhọn của mảnh thủy tinh đó vào gáy anh ta. Nó cắt đứt cột sống và xuyên ra trước cổ Crispin mà không làm đứt hẳn. Gus rạch mảnh thủy tinh đó qua một bên cổ Crispin, làm đầu anh ta gần như rời hẳn ra - nhưng cậu không để ý làm cạnh sắc của nó cũng cứa đứt lòng bàn tay mình. Mặc dù thấy nhói đau nhưng cậu vẫn không buông mảnh gương vỡ cho tới khi đầu của con ma cà rồng rời khỏi thân thể.
Gus vừa lảo đảo lùi lại vừa nhìn vết cứa chảy máu trong lòng bàn tay mình. Cậu muốn chắc chắn rằng không một con giun nào trong số những con đang ngoe nguẩy trong máu trắng của Crispin chạm được vào người mình. Chúng ở trên thảm và khá khó thấy, bói vậy Gus lùi ra xa. Nhìn những phần thân thể trên sàn nhà của anh trai mình, Gus cảm thấy ghê rọn bởi cái phần ma cà rồng của anh ta, nhưng dù vậy thì cái chết của Crispin cũng không gây ra cảm xúc gì trong cậu. Bởi đối với cậu, Crispin đã chết từ nhiều năm trước.
Cậu rửa tay trong bồn. vết cắt dài nhung không sâu. Cậu dùng cái khăn rửa bát nhớp nháp để cầm máu và bước vào phòng ngủ của mẹ mình.
"Mẹ?"
Cậu chỉ hy vọng bà không có ờ đó. Giường bà gọn gàng và trống không. Cậu quay ra, nhưng nghĩ lại, cậu chống hai tay quỳ thụp xuống để ngó vào dưới gầm giường. Chỉ có mấy cái hộp chứa áo len và đôi tạ tay mà bà mua từ mười năm trước. Cậu đang quay trở ra bếp thì nghe thấy tiếng sột soạt trong tủ đồ. Cậu dừng lại, nghe ngóng. Cậu bước tới mở cửa tủ. Toàn bộ quần áo của bà đã được gỡ xuống khỏi giá treo, chồng thành một đống lớn dưới sàn.
Đống đó động đậy. Gus kéo một cái váy tay hến cũ màu vàng ra và thấy khuôn mặt mẹ đang nhìn mình, đôi mắt đen, da tái xám.
Cậu đóng cửa lại. Không sập cửa và cũng không bỏ chạy, chỉ đon giản là đóng cửa và đứng ở đó. Cậu muốn khóc, nhưng nước mắt không chảy ra, chỉ có tiếng thở dài, tiếng thút thít khẽ và sâu. Và cậu quay ra tìm kiếm loanh quanh trong phòng ngủ của bà một thứ vũ khí nào đó có thể cắt đầu bà...
... nhưng rồi cậu nhận ra thế giới này đã đi về đâu. Vậy là, thay vì làm cái việc định làm, cậu quay lại chỗ cánh cửa đóng, úp mặt vào đó.
"Con xin lỗi mẹ," cậu thì thầm. "Lo siento. Đáng ra con phải có mặt ở nhà. Đáng ra con phải có mặt ở nhà..."
Cậu choáng váng đi vào phòng mình. Cậu thậm chí chẳng thể thay áo do vướng còng tay. Cậu nhét vài món quần áo vào một cái túi giấy để thay đồ khi có thể, và kẹp nó dưới cánh tay.
Rồi cậu nhớ tới ông lão. Cửa hàng cầm đồ trên phố 118. Ông ấy có thể giúp cậu. Giúp cậu chống lại thứ này.
Cậu rời căn hộ, bước ra hành lang. Có vài người đứng ở chỗ thang máy, và Gus cúi thấp đầu xuống đi về phía họ. Cậu không muốn bị nhận diện, không muốn rầy rà với bất cứ ai là hàng xóm của mẹ mình.
Đi được nửa đường đến thang máy thì cậu nhận ra họ không nói chuyện và cũng không động đậy. Cậu ngẩng lên và nhìn thấy có ba người đang đứng đối diện với mình. Cậu dừng lại khi nhận ra mắt họ, những đôi mắt đen, cũng trống rỗng. Ma cà rồng đang chặn lối ra của cậu.
Chúng bắt đầu xông vào cậu, và cậu chỉ còn biết dồn dập nện đôi tay bị còng vào chúng, đánh văng chúng vào tường, đập đầu chúng xuống sàn. Cậu đá chúng khi chúng ngã, nhưng chúng không nằm yên lâu. Cậu không để tên nào có được cơ hội thò vòi ra, cậu giẫm nát sọ của vài tên dưới gót giày nặng trịch của mình trong khi chạy tới thang máy, và cửa thang máy đóng lại trước khi chúng kịp chạy tới noi.
Cậu đứng một mình trong thang máy, thở hổn hển, đếm số tầng. Cậu đã làm mất cái túi - nó bị bục, làm quần áo roi vương vãi khắp hành lang.
Thang máy xuống đến sảnh và cửa thang mở ra. Gus đứng hơi khom người, sẵn sàng cho một trận chiến nữa.
Sảnh vắng hoe. Nhưng phía ngoài cửa loáng thoáng ánh sáng vàng cam yếu, và có những tiếng tru và kêu thét. Cậu bước ra phố và thấy có đám cháy ở dãy nhà kế bên, ngọn lửa đang bén sang những tòa nhà bên cạnh. Cậu thấy nhiều người ngoài đường cầm theo những tấm ván gỗ và vũ khí tự chế, chạy về phía đám cháy.
Từ một hướng khác, cậu thấy một nhóm sáu người lẻ tẻ không mang theo vũ khí, đi bộ chứ không chạy. Một người đàn ông chạy băng qua Gus, kêu lên, "Lũ chết tiệt ở khắp mọi noi, anh bạn!" và rồi đâm sầm vào nhóm sáu người kia. Đối với một con mắt bình thường, đó trông như thể một vụ cướp đường phố, nhưng Gus thì nhìn thấy một vòi chích dưới ánh sáng vàng của ngọn lửa. Ma cà rồng đang biến đổi mọi người trên đường phố.
Trong khi cậu đang nhìn, một chiếc suv màu đen lao nhanh tới từ đám khói. Cảnh sát. Gus quay mình chạy đuổi theo cái bóng của mình dưới ánh đèn pha ô tô - thẳng về phía nhóm sáu tên kia. Chúng cũng xông vào cậu, da mặt tái xanh và những đôi mắt đen sáng rực lên dưới ánh đèn pha. Gus nghe thấy tiếng cửa xe mở ra, rồi tiếng giày nện trên hè đường, và cậu thấy mình đã mắc kẹt giữa hai vận tử. Cậu phi thẳng vào đám ma cà rồng đang gầm gừ, vung hai nắm tay bị còng và húc đầu vào ngực chúng. Cậu không muốn cho chúng cơ hội há mồm ra với mình. Nhưng rồi một tên móc được tay vào cái còng của Gus và quăng cậu ngã xuống đất. Chỉ trong một giây, cả bầy đã xô tới phía trên cậu, tranh nhau giành quyền hút máu từ cổ cậu.
Một tiếng phụp, và một ma cà rồng rú lên. Rồi một tiếng bụp, và đầu của một con ma cà rồng biến mất.
Kẻ đang đè lên cậu bị bắn trúng từ phía bên và bất thần đổ xuống. Gus lăn mình chồm dậy dưới ánh sáng đèn đường.
Đó hoàn toàn không phải là cảnh sát. Họ là những người đàn ông khoác áo liền mũ trùm đen, mặt bị che tối, mặc quần dã chiến đen và mang giày da đen cao cổ. Họ bắn bằng những chiếc súng nỏ nhỏ và loại nỏ lớn hơn có báng gỗ kiểu súng trường. Gus nhìn thấy một gã ngắm bắn một con ma cà rồng và găm mũi nỏ vào cổ của nó. Trước khi con ma có đủ thời gian đưa tay lên cổ thì mũi nỏ phát nổ với một lực vừa đủ để bứt cái đầu ra khỏi cổ.
Con ma cà rồng bị tiêu diệt.
Những mũi nỏ đó có đầu nhọn bịt bạc và được nạp một khối nổ kích hoạt do va đập.
Thợ săn ma cà rồng. Gus trố mắt nhìn họ. Những con ma cà rồng khác đang chạy ra từ các cánh cổng, và các thợ săn này có thể bắn trúng cổ chúng từ khoảng cách hai mươi lăm, thậm chí ba mươi mét. Một trong số các thợ săn đó chạy tới chỗ Gus như thể nhầm tưỏng cậu là một ma cà rồng, và trước khi Gus có thể cất tiếng, gã tì một chân lên hai tay cậu, ấn chúng xuống mặt đường. Rồi gã thay mũi nỏ và nhắm bắn sọi xích nối giữa hai còng tay của Gus. Mũi nỏ bạc làm vỡ sọi xích thép, găm vào mặt đường nhựa. Gus co rúm lại, nhưng không có tiếng nổ nào. Hai tay cậu tách ra, dù mỗi cổ tay vẫn còn xỏ trong cái còng của cảnh sát. Tay thợ săn đó kéo cậu đứng lên với một sức mạnh đáng ngạc nhiên.
"Quá tuyệt, mẹ kiếp!" Gus nói, vô cùng ấn tượng trước những gã này. "Tôi đăng ký gia nhập ở đâu đây!"
Nhung vị cứu tinh của cậu khựng lại, và cậu thoáng nhìn thấy cái gì đó. Gus nhìn kỹ hơn vào cái khoảng hở tối tăm trong mũ trùm liền áo của gã, và thấy trong đó là một bộ mặt trắng như vỏ trứng. Mắt gã đen và đỏ, miệng héo hắt và gần như không có môi.
Gã thợ săn nhìn chòng chọc vào vết rách rướm máu trong lòng bàn tay Gus.
Gus biết ánh nhìn đó. Đó là ánh nhìn trong mắt của anh trai và mẹ cậu.
Cậu định lùi lại, nhung nắm tay của gã Cling chẳng khác nào gọng kìm. Thứ đó bắt đầu há miệng ra, và đầu vòi chích xuất hiện.
Rồi một tên thợ săn khác chạy tói, chĩa mũi nỏ vào cổ gã này. Tên thợ săn mới kéo tuột cái mũ trùm đầu của gã đã cứu Gus về phía sau, và Gus nhìn thấy một cái đầu trọc lốc, không có tai, đôi mắt già nua của một con ma cà rồng trưởng thành. Gã thợ săn cũ hằm hè với cái nỏ của gã đồng đội, rồi cũng đành phải bàn giao Gus cho tên thợ săn mới, kẻ mà cậu vừa kịp nhận ra cũng có bộ mặt tái xanh của ma cà rồng khi hắn nhấc cậu lên, đem tới chiếc suv và ném vào hàng ghế thứ ba.
Nhũng con ma cà rồng đội mũ trùm đầu còn lại cũng vào trong xe và nổ máy, chiếc xe cua một vòng chữ u ngay giữa phố vâ vọt đi. Gus là con người duy nhất trong chiếc suv.
Một cái tát vào thái dương làm cậu ngất lịm. Chiếc suv lao nhanh trở lại chỗ tòa nhà bốc cháy, xuyên qua đám khói đường phố như một cái máy bay bay qua một đám mây, rồi rú ga vọt qua đám người bạo loạn, vòng qua một góc phố nữa, rồi đi xa hơn vào khu phố trên.
Bồn tắm
NOI ĐƯỢC GỌI LÀ bồn tắm của Trung tâm Thương mại Thế giới đổ nát, phẳn móng sâu bằng một tòa nhà cao bảy tầng, được chiếu sáng như ban ngày để làm ca đêm cho tới tận lúc
bình minh. Tuy nhiên, cả công trường giờ hoàn toàn tĩnh lặng, những cỗ máy khổng lồ cũng yên ắng. Công việc vốn diễn ra <suốt ngày đêm, bắt đầu gần như ngay sau khi tòa tháp này sụp đổ, giờ đây đã hoàn toàn dừng lại.
"Tại sao lại là nơi này?" Eph hỏi. "Tại sao lại ởđây chứ?"
"Noi này thu hút nó," Setrakian nói. "Như loài chuột chũi vẫn đào Hổm gay tại phần, thân mục tàn của một cái cây bị đốn. Như sự hoại tử vẫn hình thành bên trong một vết thương. Chúa Tể sống bám vào tai ương và đau đớn."
Eph, Setrakian và Fet ngồi trong thùng xe tải của Fet, lúc này đang đậu ígiữa phố Church và phố Cortlandt. Setrakian ngồi sát những cửa sổ sau, cầm một ống nhìn đêm. Rất ít xe cộ trên đường, chỉ có một vài chiếc taxi hay xe tải chuyển phát chuyên hoạt động tầm giờ mờ sáng này. Chẳng có một người đi bộ hay bất cứ dấu hiệu nào của sự sống. Họ đang tìm kiếm ma cà rồng, nhưng chẳng thấy, bất cứ gì.
Setrakian, mắt vẫn dán vào ống nhìn, lên tiếng, "Trên này quá sáng. Chúng không mưốn bị.trông thấy đâu."
Eph mới, "Chúng ta chẳng thể cứ liên tục đi vòng quanh khu công trường này mãi được."
"Nếu số.lưọng chúng nhiều như ta đã dự đoán," Setrakian nói, "thì hẳn chúng phải ở rất gần đây thôi..Để trở lại hang ổ trước khi mặt trời lên." Ông nhìn sang Fet. "Chúng cũng giống như lũ chuột bọ vậy."
Fet nói, "Để tôi cho ông biết điều này. Tôi chưa từng thấy một con chuột đi đâu bằng cửa chính cả." Anh nghĩ về. điều đó thêm một lắt, rồi chen qua chỗ Eph, lên tới hàng ghế trước. "Tôi có một ý này."
Anh lái xe dọc phố Church về phía Bắc tới Tòa Thị chính, cách khu công trường Trung tâm Thương mại Thế giới một dãy nhà về phía. Đông Bắc. Một công viên lớn bao quanh đó, và Fet đỗ vào một khu đậu xe buýt trên phố Park Row, tắt máy.
"Công viên này là một trong những ổ chuột lớn nhất thành •pho.’. Chüng tôi đã-kéo Gây thường xuân ra, bởi nó che chắn mặt đất quá 'tốt. Chúng tôi cũng thay đổi các thùng rác, nhưng vẫn VÔ ích. Chúng quấy rối ở đây hệt như lũ sóc vậy, đặc biệt vào buổi trưa khi những nhóm ăn trưa tói. Đồ ăn khiến chúng sung sướng, mà chúng lại có thể lấy thức ăn gần như ở khắp mọi noi. Chính kết cấu hạ tầng là thứ mà lũ chuột quan tâm nhất." Anh chỉ xuống mặt đất. "Dưới đó là một nhà ga bỏ hoang. Đó là ga Tòa Thị chính cũ."
Setrakian nói, "Nó vẫn còn kết nối chứ?"
"Mọi nơi đều kết nối với nhau dưới lòng đất, bằng đường này hay đường khác."
Họ chờ đợi, và chẳng mất nhiều thời gian.
"Kia rồi," Setrakian nói.
Eph nhìn thấy một phụ nữ quần áo bẩn thỉu dưới ánh đèn đường, cách đó khoảng ba mươi mét. "Một người vô gia cư," anh nói.
"Không," Setrakian đáp, đưa ống nhìn nhiệt cho Eph.
Eph nhìn thấy, qua ống nhìn, người phụ nữ là một khối mờ đỏ rực giữa một bối cảnh thấp nhiệt, lờ mờ tối.
"Đó là quá trình trao đổi chất của chúng," Setrakian nói. "Vẫn còn một con nữa."
Một người phụ nữ mập mạp đang bước lạch bạch, vẻ như đắn đo, rồi bà ta đứng núp dưới bóng tối đổ dọc hàng rào sắt thấp bao quanh công viên.
Và tiếp nữa: một người đàn ông mặc tạp dề của người bán báo đang vác một thi thể trên vai. Ông ta thả nó sang phía bên hàng rào, rồi lớng ngóng trèo qua. Ông ta ngã xuống phía bên kia, bị rách một ống quần, rồi lại đứng dậy như không, ông ta kéo nạn nhân của mình lên và bước tới bóng cây.
"Phải," Setrakian nói. "Đầy rồi."
Eph rùng mình. Sự hiện diện của những mầm bệnh biết đi này, những căn bệnh mang hình hài con người này, khiến anh chùn bước. Anh cảm thấy ghê tởm khi quan sát chúng lảo đảo đi vào công viên, giống như loài động vật cấp thấp đang làm theo một thôi thúc nào đó vô thức, trốn tránh ánh sáng. Anh nhận ra sự vội vã của chúng, như những người đi tàu cố gắng bắt chuyến cuối cùng về nhà vậy.
Họ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe tải. Fet mặc bộ đồ bảo hộ Tyvek cùng đôi ủng cao su. Anh đưa những bộ đồ dự phòng cho hai người kia, nhưng Eph và Setrakian chỉ lấy đôi ủng. Không cần hỏi han gì, Setrakian xịt lên từng người thứ nước xịt khử mùi từ một chiếc lọ có nhãn hình con hươu bên trong một khung ngắm chữ thập đỏ. Đương nhiên dung dịch này chẳng thể che giấu khí CO2 phả ra từ hơi thở của họ, hay tiếng tim đập và máu chảy trong mạch.
Fet mang theo nhiều thứ nhất. Súng bắn đinh nằm trong một chiếc túi treo trên ngực cùng ba băng đạn đinh bạc dự phòng. Anh mang theo rất nhiều dụng cụ giắt thắt lưng, bao gồm ống nhìn đêm và cây đèn tử ngoại của mình, cùng một trong những con dao găm bằng bạc của Setrakian đút trong bao da. Anh cầm chiếc đèn Luma công suất cao trên tay, và để mìn uvc trong một túi lưới vắt trên vai.
Setrakian mang theo cây gậy chống và một cây đèn Luma, ống nhìn nhiệt trong túi áo khoác. Ông kiểm tra lại kỹ càng lọ thuốc trong túi áo vest, và rồi để chiếc mũ của mình lại xe tải.
Eph cũng mang theo một đèn Luma, còn trong một bao kiếm có dây đeo vắt chéo ngực là một thanh kiếm bạc dài hơn sáu mươi phân, chuôi nhô lên phía sau lưng.
Fet nói, "Tôi không chắc có khôn ngoan không khi xuống đánh nhau với một ác quỷ ngay tại chính hang ổ của nó."
Setrakian nói, "Ta không còn cách nào khác. Đây là thời điểm duy nhất ta biết nó ở đâu." Ông nhìn lên bầu trời, lúc này đã chuyển màu xanh cùng một chút ánh sáng lập lòe ban ngày. "Đêm đang kết thúc. Ta đi thôi."
Họ tiến tới cái cổng hàng rào thấp bị khóa vào ban đêm. Eph và Fet trèo qua trước, sau đó giúp Setrakian.
Thêm nhiều tiếng bước chân trên vỉa hè - chúng di chuyển nhanh chóng, kéo lê một gót - buộc họ vội vã di chuyển vào sâu trong công viên.
Phía trong công viên không được thắp sáng vào ban đêm và rậm rạp cây cối. Họ nghe tiếng đài phun nước công viên đang hoạt động và tiếng xe cộ qua lại phía ngoài.
"Chứng đâu rồi?" Eph thì thầm.
Setrakian lấy ống nhìn nhiệt ra. Ông lia khắp khu vực, rồi đưa nó cho Eph. Eph nhìn thấy những hình thù sáng đỏ đang di chuyển lén lút trong không gian mát lạnh.
Câu trả lời cho câu hỏi của anh là: chứng ở khắp noi. Và đang nhanh chóng tụ tập lại tại một điểm về phía Bắc.
Đích đến của chứng dần hiện lên rõ ràng. Một cái quầy nằm bên phía Broadway của công viên, một cấu trúc tối mà Eph chẳng thể nhìn rõ từ khoảng cách xa như vậy. Anh quan sát và chờ đợi cho tới khi số lượng ma cà rồng di chuyển về đó giảm bớt, và ống nhìn của Setrakian không còn cho thấy những nguồn nhiệt đáng kể nào khác.
Họ chạy tới chỗ đó. Dưới ánh sáng mới chớm lên, họ thấy đó là một quầy thông tin, đóng cửa vào ban đêm. Họ kéo mở cửa, và thấy nó trống trơn.
Họ chui vào bên trong không gian chật hẹp này. Trên mặt quầy gỗ là những giá lưới đựng tờ roi du lịch và lịch trình xe buýt tham quan. Eph chiếu cây đèn Maglite của mình lên cửa kim loại hai cánh dưới sàn. Có những lỗ móc to ở cả hai cánh, và khóa móc đã biến mất. Dòng chữ in dọc cánh cửa ghi: MTA [I].
Fet kéo mở cả hai cánh cửa, Eph lăm lăm đèn trên tay. Đó là một cầu thang dẫn xuống dưới, thẳng vào bóng tối. Setrakian chĩa đèn pin vào một biển hiệu gắn trên tường đã phai mờ trong khi Fet bắt đầu bước xuống.
"Lối thoát hiểm khẩn cấp," Fet thông báo. "Họ đã chặn ga Tòa Thị chính cũ sau Thế Chiến thứ hai. Khúc cua của đường ray này quá gấp đối với những con tàu mới hơn, và sân ga thì quá hẹp - mặc dù tôi nghĩ tuyến đường địa phương số 6 vẫn rẽ qua đây." Anh nhìn từ bên này sang bên kia. "Hẳn là họ đã phá bỏ lối thoát hiểm cũ, và dựng quầy này lên trên."
"Được rồi," Setrakian đáp. "Đi thôi."
Eph theo sau cùng. Anh không đóng những cánh cửa phía sau, vì muốn có thể chạy thẳng lên mặt đất trong trường họp cần thiết. Bụi bặm bám trên rìa từng bậc thang, phần giữa thì sạch sẽ do thường xuyên đi lại. Dưới này còn tối hơn cả màn đêm phía trên.
Fet nói, "Điểm dừng tiếp theo, 1945."
Cầu thang kết thúc trước một cánh cửa mở tới cầu thang thứ hai rộng hơn, hẳn phải dẫn xuống một gác lửng cũ. Đó là một kết cấu mái vòm lát gạch vuông với bốn cạnh hình cánh cung, hướng lên một mặt kính trang trí hiện đại nhìn lên bầu trời, lúc này đã bắt đầu chuyển hẳn sang màu xanh. Vài chiếc thang và giàn giáo cũ được đặt tựa vào phòng gỗ bán vé bên phía một bức tường cong. Những khung cửa vòm không được lắp đặt cửa xoay làm cho nhà ga mang dáng vẻ cũ kĩ.
Khung cửa vòm phía xa dẫn ra một cầu thang khác chiều rộng chỉ vừa đủ năm người, thông với sân ga chật hẹp. Sau một hồi đứng nghe ngóng trước khung cửa, và chỉ nghe thấy tiếng rít phanh tàu điện ngầm từ xa, họ tiến vào sân ga bỏ hoang.
Trông nó giống kiến trúc bên trong một nhà thờ lớn. Những bộ đèn chùm bằng đồng lắp những bóng đèn sọi đốt kiểu cũ thả xuống từ mái vòm, những tấm gạch ốp đan xen nhau dọc theo cung vòm trông giống những khóa phéc mơ tuya khổng lồ. Hai ô cửa sổ trần trên mái vòm cho phép ánh sáng lọt qua lóp kính thạch anh tím, phần còn lại đã được bọc chì đề phòng những cuộc không kích trong Thế Chiến thứ hai. Ở phía xa kia, ánh sáng lọt qua một vài tấm lưới, dù còn yếu, nhưng đủ để cảm nhận được chiều sâu của đường ray với một độ cong hết sức ấn tượng. Chẳng có lấy một góc vuông trong cả nơi này. Gạch ngói hỏng hóc khắp nơi, kể cả phần gạch tráng men của biển gắn tường gần nhất, son vàng và viền mép màu xanh lá, ở giữa là một tấm bảng trắng có dòng chữ màu xanh lam: TÒA THỊ CHÍNH.
Một màn bụi thép phủ dọc sân ga tròn in dấu chân ma cà rồng tiến vào bóng tối.
Họ theo dấu những vết chân tới phía cuối sân ga, rồi nhảy xuống những đường ray vẫn còn hoạt động. Mọi thứ vẫn còn vận hành trên khúc cua trái dọc theo đường tránh tàu. Họ tắt đèn pin, và cây đèn Luma của Eph cho thấy những vũng nước tiểu khắp mọi noi, óng ánh và nhiều màu, rải rác tới mãi xa. Setrakian đang rút ống nhìn nhiệt ra thì bất chợt họ nghe thấy những tiếng động từ phía sau. Những kẻ đến muộn bước xuống sân ga từ những bậc thang trên gác lửng. Eph tắt cây đèn, và họ cùng băng qua ba đường ray, tới bức tường phía xa, đứng nép mình vào trong hốc đá.
Những kẻ đến muộn rời khỏi sân ga, chân lê trên mặt sỏi bụi bặm dọc theo các đường ray. Setrakian quan sát chúng bằng ống nhìn nhiệt, hai cơ thể màu đỏ cam, không có gì bất thường về hình dáng hay điệu bộ. Sau đó, con đầu tiên biến mất, và Setrakian phải mất một lúc lâu mới nhận ra được nó đã lẻn vào một lỗ hổng trên tường, một khe hở mà không hiểu sao họ đã bỏ qua. Con thứ hai dừng lại ngay tại vị trí đó, nhưng thay vì biến mất, nó quay đầu nhìn về phía họ. Setrakian bất động, ông biết khả năng nhìn đêm của sinh vật này đã tiến hóa nhưng chưa thực sự trưởng thành. Ông nhìn nhiệt của ông chỉ ra cổ họng con ma cà rồng này là vùng nóng nhất. Một dòng màu cam chảy xuống chân nó và ngay lập tức nguội thành màu vàng khi nó tràn ra mặt đất, sinh vật này đang đi tiểu. Đầu nó nghếch lên như thể một con thú đang đánh hơi con mồi, nhìn theo đường ray xa khỏi nơi họ đang trốn... sau đó, nó thấp đầu xuống và biến mất vào khe nứt trên tường.
Setrakian trở lại đường ray, hai người còn lại theo sau ông. Mùi hôi thối từ thứ nước tiểu mới vẫn còn nóng ấm của ma cà rồng ngập tràn cả nhà ga mái vòm. Mùi amoniac cháy gọi lại cho Setrakian những liên tưởng đen tối. Những người còn lại bước tránh qua vũng nước tiểu trong khi tiếp cận khe hở trên tường.
Eph rút thanh kiếm ra khỏi vỏ từ sau lưng, dẫn đầu. Con đường nhỏ này mở rộng ra một căn hầm vách thô nóng nực, bốc mùi hơi nước. Anh bật đèn Luma vừa kịp lúc nhận ra con ma cà rồng đầu tiên bật dậy khỏi một cái ghế dài và lao tới anh. Eph không kịp giơ thanh kiếm bạc lên, và con ma cà rồng xô anh đập vào tường. Cây đèn của anh roi xuống và nằm nghiêng gần một rãnh dẫn nước cống chạy cắt ngang mặt sàn. Và nhờ ánh sáng cực tím nóng bùng, anh có thể thấy nó là, hay đã từng là, một phụ nữ. Nó mặc áo vest công sở bên ngoài áo cánh trắng bẩn thỉu, mascara màu đen lem xuống tạo thành đôi mắt gấu trúc đầy hăm dọa. Hàm nó hạ xuống, lưỡi cuộn lên - đó chính là lúc Fet xông tới từ lối vào.
Anh cầm con dao găm lao vào nó, đâm một nhát dưới sườn. Nó lộn nhào khỏi người Eph và trở lại tư thế lom khom. Fet la lớn, đâm nó một nhát nữa, và lần này trứng phần ngực dưới vai trái, vị trí thông thường của một quả tim. Con ma cà rồng lùi lại loạng choạng, rồi tiếp tục xông tới trước. Fet rú lên, đâm trọn lưỡi dao vào bụng dưới của nó. Nó oằn mình, gầm gừ - nhưng một lần nữa, phản ứng của nó mang vẻ bối rối hơn là đau đớn. Nó vẫn cứ lao vào anh.
Lúc này, Eph đã hồi phục tương đối, và khi con ma cà rồng tiếp tục lao vào Fet, Eph đứng lên chém lưỡi kiếm của mình vào nó bằng cả hai tay, từ phía sau. Thôi thúc giết người vẫn quá xa lạ với anh, chính bởi vậy cú chém rốt cuộc không được dứt khoát, và lưỡi kiếm chẳng thể lia qua hết. Nhưng thế là đủ. Anh đã cắt đứt được cột sống của nó, và đầu con ma cà rồng gập về phía trước. Tay nó qườ quạng, và cơ thể co giật khi nó ngã xuống rãnh nước cống giữa mặt sàn, như thể một thứ gì đó cháy lèo xèo trên chảo nóng.
Chẳng có đủ thời gian để sửng sốt. Những tiếng bạch- bạch-bạch vang vọng khắp căn hầm chính là tiếng bước chạy của con ma cà rồng thứ hai - nó đang chạy đi để cảnh báo những con khác.
Eph chộp cây đèn Luma trên sàn và lao theo nó, sẵn sàng tay kiếm. Anh tưởng tượng mình đang đuổi theo chính con ma cà rồng đã dụ Kelly tới đây, và nỗi căm giận đó đã thúc anh chạy nhanh hơn dọc theo hành lang ẩm thấp, đôi bốt giẫm nước tung tóe. Đường hầm quẹo phải, tại đó một ống nước lớn nhô ra từ vách đá, và chạy suốt chiều dài đường hầm chật hẹp. hơi nước nóng kích thích tảo và nấm mốc phát triển và chúng sáng lên dưới ánh đèn pin của anh. Anh trông thấy lờ mờ con ma cà rồng phía trước. Nó chạy, tay mở rộng, những ngón tay cào vào không trung.
Và rồi, sau một ngã cua gấp nữa, con ma cà rồng biến mất. Eph chậm bước và ngó quanh, chiếu đèn. Anh hoang mang - cho tới khi trông thấy cẳng chân nó đang đạp đất chui vào một hô đào bên dưới bức tường bên. Sinh vật đó có thể trườn như giun ra khỏi đường hầm. Eph chém xuống đôi bàn chân bẩn thỉu của nó, nhung chúng rụt lại quá nhanh, làm lưỡi kiếm của anh cắm vào đất.
Eph quỳ gối, nhưng chẳng thể nhìn xuyên qua phía bên kia cái hố hẹp. Anh nghe thấy tiếng bước chân, hiểu rằng Fet và Setrakian vẫn bám sát theo mình. Anh quyết định không chờ đợi thêm nữa. Eph nằm ngửa ra và bắt đầu chui qua.
Anh chui vào cái hốc, hai tay đưa lên trên đầu, hướng cây đèn và thanh kiếm ra phía trước. Đừng để bị mắc kẹt tại đây, anh nghĩ. Kẻo anh sẽ chẳng thể nào bò trở lại được nữa. Rồi tay và đầu anh nhô ra một không gian mở, cuối cùng cũng qua được cái hang, anh bật người đứng dậy.
Thở hổn hển, anh qươ đèn xung quanh như thể nó là một ngọn đuốc. Anh đang ở trong một đường hầm khác, tuy nhiên nơi đây đã được hoàn thiện với những đường ray và đá sỏi, tĩnh mịch một cách kỳ dị, đáng sợ. Phía bên trái anh, cách đó chưa đầy một trăm mét, có ánh sáng.
Một sân ga. Anh vội chạy dọc theo đường ray và trèo lên đó. Sân ga này chẳng mang chút dáng vẻ lộng lẫy nào của nhà ga Tòa Thị chính cả; thay vào đó là toàn những xà rầm thép chỏng chơ cùng những đường ống lộ ra trên trần. Eph cứ ngỡ mình đã đặt chân tới mọi nhà ga trong thành phố, nhưng anh chưa từng tới nơi đây.
Một tàu điện ngầm dài nằm im lìm phía cuối sân ga, biển trên cửa ghi: KHÔNG HOẠT ĐỘNG. Tường của một tháp kiểm soát cũ nằm chính giữa vẽ đầy những hình graffiti lộn xộn kiểu xưa. Anh thử mở cửa, nhưng nó đã bị khóa.
Anh nghe thấy tiếng lục đục phía sau, trong đường hầm. Fet và Setrakian đang chui qua cái hố, cố bắt kịp anh. Có lẽ thật không khôn ngoan khi chạy trước một mình thế này. Eph quyết định chờ họ, dưới ốc đảo ánh sáng này, cho tới khi anh nghe thấy tiếng một hòn sỏi bị đá trên đường ray gần đó. Anh quay lại vừa kịp để trông thấy một con ma cà rồng đang lao ra từ toa tàu cuối cùng, nó chạy dọc theo bức tường phía xa, tránh xa khỏi ánh sáng của ga tàu bỏ hoang.
Eph vọt theo sau nó, tới cuối đầu kia sân ga, rồi nhảy phốc xuống, chạy dọc theo đường ray, tiến vào bóng tối. Đường ray ngoặt gấp sang phải và kết thúc tại đó. Anh chạy, vách đường hầm nhòe đi theo bước chân anh. Anh có thể nghe tiếng chân trần hấp tấp của con ma cà rồng đạp trên nền đá sỏi sắc nhọn vang vọng. Sinh vật này sẩy chân, nó bắt đầu chậm lại. Eph tới gần hon, sức nóng từ cây đèn của anh khiến con ma cà rồng hoảng loạn. Nó quay đầu lại, khuôn mặt bị chiếu ánh sáng cực tím của nó đầy vẻ kinh hãi.
Trên đà lao tói, Eph quét cánh tay cầm kiếm về phía trước, phạt đứt đầu con quái vật.
Cái xác mất đầu đổ về phía trước. Eph dừng lại, chiếu đèn Luma vào cái cổ rỉ dịch trắng của nó, giết chết những con giun máu đang chạy trốn. Rồi anh thẳng người lên, điều chỉnh lại hơi thở nặng nhọc của mình... và ngay lập tức, anh nín thở.
Anh nghe thấy gì đó. Đúng hơn là, anh cảm thấy chúng. Thứ gì đó ở xung quanh. Không phải tiếng bước chân hay chuyển động, mà là... xôn xao.
Anh lấy chiếc đèn pin nhỏ của mình ra bật lên. Thi thể những người dân New York ngổn ngang khắp sàn đất của đường hầm. Những cái xác vẫn còn mặc quần áo nằm sắp thành hàng hai bên, trông như các nạn nhân của một vụ rò rỉ khí ga. Một số vẫn còn mở mắt, với ánh nhìn trừng trừng vô hồn của người bệnh.
Họ đã bị biến đổi. Những người mới bị cắn, mới bị lây nhiễm. Họ bị tấn công vào chính đêm đó. Cảm giác xôn xao Eph cảm thấy ban nãy chính là sự biến đổi bên trong những cơ thể này: các chi không động đậy, nhưng những khối u thì đang sinh sôi trong các cơ quan, và hàm dưới đang phát triển thành vòi chích.
Có hàng tá thi thể, và vẫn còn nhiều hơn thế phía trước, lờ mờ vượt ra khỏi tầm ánh sáng đèn pin. Đàn ông, phụ nữ, trẻ con - tất cả đều là nạn nhân. Anh sục sạo, lướt đèn từ khuôn mặt này tới khuôn mặt kia, tìm kiếm Kelly - và cầu nguyện rằng anh sẽ không tìm thấy cô tại đây.
Trong lúc anh vẫn đang tìm kiếm thì Fet và Setrakian chạy tói. Nhẹ nhõm, nhưng cũng tuyệt vọng, Eph nói với họ, "Cô ấy không có ở đây."
Setrakian đứng, đặt tay lên ngực, thở gấp. "Còn bao xa nữa?"
Fet nói, "Đây là một ga Tòa Thị chính khác thuộc tuyến Brooklyn-Manhattan, nằm ở sâu hon, chưa từng được sử dụng mà chỉ để chứa đồ. Tức là ta đang ở bên dưới tuyến Broadway. Lối rẽ đường ray này sẽ đưa ta đi vòng qua phần móng của tòa nhà Woolworth. Phố Cortlandt tiếp theo ngay sau đó. Nghĩa là Trung tâm Thương mại Thế giới..." Anh ngước lên, như thể trông thấy được những tòa nhà mười, mười lăm tầng trên mặt đất. "Chúng ta đang tới rất gần rồi."
"Hãy kết thúc chuyện này thôi," Eph nói. "Ngay bây giờ."
"Chờ đã," Setrakian lên tiếng, ông vẫn đang cố giữ đều nhịp tim. Chiếc đèn pin của ông chiếu qua khuôn mặt những người đã bị biến đổi. Ông quỳ một gối, kiểm tra một số người bọn họ bằng chiếc gương tráng bạc lấy ra từ trong túi áo khoác. "Trước tiên, ta có một nhiệm vụ ở đây đã."
Fet và Eph tiêu diệt những con ma cà rồng mới sinh dưới ánh sáng từ chiếc đèn pin của Setrakian. Mỗi phát chém đầu lại như một cú giáng mạnh vào tinh thần Eph.
Eph giờ đây cũng đã bị biến đổi. Không phải từ một con người trở thành ma cà rồng, mà từ một bác sĩ trở thành kẻ sát nhân.
Càng đi xa vào trong những đường hầm, mặt đất càng ướt át. Những rễ cây, dây leo và cây bạch tạng kỳ dị thiếu ánh sáng mặt trời trườn xuống từ trần hầm vẫn còn chưa hoàn thiện để hút nước. Ánh sáng vàng hiếm hơi dưới đường hầm cho thấy nơi đây hoàn toàn không có những hình graffiti trên tường. Bụi trắng phủ kín những chỗ không có ai bước lên, một lóp bụi rất mịn phủ trên bề mặt những vũng nước tù đọng. Đó là những phần còn sót lại của Trung tâm Thương mại Thế giới. Cả ba người đều cố tránh giẫm lên đó, với sự tôn trọng dành cho một nghĩa địa.
Trần hầm thấp dần cho đến lúc thấp hơn đầu người, và rồi dẫn tới một ngõ cụt. Setrakian lướt đèn, tìm thấy một lỗ hổng tại phần trên của bức tường đang hẹp dần, đủ rộng để họ có thể chui qua. Tiếng rầm rầm khi nãy còn xa và lờ mờ thì giờ đã lớn dần. Ánh đèn pin cho thấy mặt nước dưới chân giày của họ bắt đầu gọn sóng. Đó chính xác là tiếng rú của một tàu điện ngầm, và cả ba người cùng quay lại nhìn, đường hầm họ đang đứng không có đường ray.
Nó ở phía trước họ, đang lao về phía họ - nhưng tại đường ray tầng trên - tiến vào sân ga Tòa Thị chính BMT đang hoạt động ở bên trên. Tiếng rít, gầm rú, và rưng chuyển lớn đến độ khó mà chịu nổi - đạt tới sức mạnh và âm lượng của một con động đất - và ngay lập tức, họ nhận ra tình trạng hỗn loạn này chính là cơ hội tốt nhất của mình.
Họ ép người chui qua lỗ hổng, nhanh chóng tới một đoạn đường nhân tạo khác, không có đường ray, những bóng đèn thi công treo tại đây không bật, và chúng rung lên, nhảy múa dưới tác động của tàu điện ngầm. Đất đá và gạch vụn từ lâu đã được vun thành một đống cao gần chục mét tới tận trần, phía sau những rầm thép. Tại một góc cua dài phía trước, họ thấy ánh sáng vàng ệch lờ mờ. Họ tắt đèn Luma và chạy dọc đường hầm tối tăm, cảm thấy nó nở rộng ra khi họ vòng qua khúc cua, rẽ vào một căn hầm dài, rộng rãi.
Khi mặt đất ngừng rung chuyển và tiếng con tàu nhỏ dần đi như một con bão đang tan, họ bước chậm lại, tránh phát ra tiếng động. Eph cảm thấy những sinh vật đó trước khi kịp nhìn thấy chúng, hình dạng của chúng, đang ngồi và nằm rải rác trên sàn. Những sinh vật này thức giấc bởi sự hiện diện của họ, chúng ngồi dậy, nhưng không tấn công. Vì thế anh, Setrakian và Fet tiếp tục di chuyển vào sâu trong hang ổ của Chúa Tể.
Những con ma cà rồng này đã ăn đêm đó, chúng ửng hồng máu, và giống như loài ve, chúng nằm và tiêu hóa. Chúng suy nhược như đã chết, những sinh vật uể oải, chỉ chờ đợi mặt trời xuống, chờ đợi cơ hội để được ăn tiếp.
Chúng bắt đầu đứng lên. Chúng mặc đồ công nhân, đồ công sở, đồ thể thao, đồ ngủ, đồ ở nhà, tạp dề bẩn, và thậm chí trần truồng.
Eph nắm chắc thanh kiếm, tìm kiếm những khuôn mặt khi đi ngang qua chúng. Đó là những khuôn mặt chết chóc với đôi mắt đỏ máu.
"Hãy tụm lại với nhau," Setrakian thì thào, vừa đi vừa cẩn thận rút quả mìn uvc từ chiếc túi lưới trên lưng Fet. Bằng những ngón tay cong queo, ông bóc dải băng dính an toàn, rồi quay phần trên của quả cầu để chuẩn bị pin sẵn sàng. "Tôi thực sự mong thứ này có hiệu quả."
"Mong ư?" Fet nói.
Sau đó, một con tiến về phía anh - một lão già, có vẻ vẫn chưa được thỏa mãn như những con khác - Fet giương con dao bạc ra, và con ma cà rồng rít lên. Fet đạp giày vào bắp đùi lão già, đẩy lão ra xa. Anh giơ con dao bạc cho tất cả những con khác cùng thấy.
"Chứng ta đang rơi vào một tình thế khó khăn đây."
Những khuôn mặt đỏ hồng với ánh nhìn độc ác xuất hiện từ các bức tường. Những con ma già hon, thuộc thế hệ một hoặc hai, căn cứ theo mái tóc bạc trắng của chúng. Có tiếng rên của loài thú, cùng tiếng nghèn nghẹt từ thanh môn ở một vài con, như thể chúng đang cố nói gì đó, nhưng âm thanh bị chặn lại bởi cơ quan gớm guốc phát triển dưới lưỡi, cổ họng sưng phồng của chúng co giật mạnh.
Setrakian bước lên giữa Fet và Eph, nói. "Khi đầu nhọn này chạm mặt đất, pin chắc hẳn sẽ được nối điện."
“Chắc hẳn ư!" Fet nói.
"Các anh sẽ phải nấp phía sau những cột trụ này, trước khi nó kích hoạt." Những thanh rầm gỉ đóng đinh tán cách đều nhau. "Sẽ không có tới vài giây đâu. Và khi đó, nhắm mắt lại. Đừng nhìn. Vụ nổ sẽ khiến các anh mù mắt."
"Hãy làm luôn đi!" Fet nói, lũ ma cà rồng bu đầy.
"Chưa được..." Ông lão mở cây gậy chống chỉ vừa đủ để lộ ra lưỡi kiếm bạc, và bằng một động tác nhanh như xẹt lửa, ông quệt hai đầu ngón tay xương xẩu của mình vào cạnh sắc. Máu chảy nhỏ giọt xuống nền đá. Đánh hơi thấy mùi máu trong không khí, lũ ma cà rồng ùa tới từ khắp mọi phía, xúm lại từ những góc khuất, tò mò và đói khát hơn bao giờ hết.
Fet dùng con dao găm chém qua không khí bụi bặm để bảo đảm vài mét trống xung quanh khi họ di chuyển. "Ông còn chờ đợi gì nữa?" anh nói.
Eph nhìn những khuôn mặt, tìm kiếm Kelly trong số những phụ nữ mang đôi mắt chết chóc. Một con lao tói, anh liền thọc mũi kiếm vào xương ức nó, và nó co rúm lại như thể bị thiêu cháy.
Tiếng ồn mỗi lúc một lớn hon, đám đông phía trước bị đám phía sau đẩy gần lại hơn nữa, con đói không do dự, ham muốn không chờ đợi. Máu Setrakian nhỏ xuống sàn, mùi hương của nó - cùng những giọt máu vương vãi - khiến chúng phát điên.
"Làm đi!" Fet nói.
Setrakian, "Một vài giây nữa..."
Những con ma cà rồng xông vào, Eph đẩy chúng lùi lại bằng mũi kiếm. Chỉ tới lúc đó anh mới chọt nghĩ tới việc bật đèn Luma trở lại, nhưng đám ma cà rồng chúi mình thẳng vào luồng ánh sáng giết chóc như những thây ma nhìn chòng chọc vào mặt trời. Những con phía trước bị những con phía sau đẩy tới. Không khí căng thẳng chả khác nào một quả bóng bay sắp nổ... Eph cảm thấy một bàn tay nắm lấy tay áo mình...
"Ngay bầy giờ!" Setrakian nói.
Ông tung quả cầu đinh lên không trung, như trọng tài ném một quả bóng rổ khai màn trận đấu. Khi đạt tới độ cao cực đại, quả cầu bắt đầu roi xuống, cái đinh nặng hơn của nó chĩa thẳng xuống mặt đất.
Mũi đinh thép bốn cạnh cắm vào lóp đá sỏi, âm thanh vo vo phát ra, giống tiếng của loại đèn nháy kiểu cổ khi nạp lại điện.
"Nhanh, nhanh lên!" Setrakian nói.
Eph hươ đèn và quét kiếm mở lối tới một trong những cột trụ. Đám ma cà rồng níu, kéo, và anh cảm nhận được những nhát chém ngọt xót vào cơ thể chúng, nghe thấy những tiếng rên và tru đứt quãng của chúng. Cùng lúc, anh vẫn không ngưng kiểm tra những khuôn mặt để tìm kiếm Kelly, và chém hết những ai không phải là cô.
Tiếng vo vo của quả mìn to dần lên. Eph đâm và đạp và chém, dọn đường tới cột trụ thép, anh nấp vào bóng của nó vừa kịp lúc cả căn hầm tràn ngập ánh sáng xanh chói lòa. Anh nhắm tịt mắt và che chắn thêm bằng khuỷu tay.
Anh nghe thấy những tiếng kêu đau đớn của loài thú khi lũ ma cà rồng bị tiêu hủy. Tiếng tan chảy, phồng rộp, tróc da của những thân thể đang bị sấy khô bằng phản ứng hóa học, sự rã ra của cấu trúc bên trong cơ thể chúng cũng giống như sự lụi tàn của chính linh hồn chúng. Những tiếng thét bị bóp nghẹt lại bên trong cổ họng cháy bỏng của chúng.
Một lễ hiến tế tập thể.
Tiếng rền rĩ âm vực cao diễn ra không quá mười giây, ánh sáng xanh thanh tẩy quét từ sàn tới trần trước khi hết sạch pin. Căn hầm tối tăm trở lại - và khi tiếng động duy nhất còn lại chỉ là tiếng xèo xèo, Eph hạ tay, mở mắt.
Một mùi hôi thối bệnh hoạn theo đám sương khói bốc lên từ những sinh vật cháy thành than nằm đầy trên nền đất. Thật khó có thể di chuyển mà không động phải những thây ma mục rữa này, thi thể của chúng vụn ra như những khúc gỗ nhân tạo bị lửa đốt cháy. Chỉ những con ma cà rồng may mắn dính một phần nhỏ ánh sáng mới có thể còn cựa quậy, Eph và Fet nhanh chóng giải thoát cho những sinh vật tàn tạ, nửa sống nửa chết này.
Sau đó, Fet bước tới gần quả mìn lúc này cũng đã bị cháy. Anh quan sát sức tàn phá của nó.
"Được," anh nói, "thứ này quả là tuyệt cú mèo."
"Xem kìa," Setrakian nói.
ơ phía cuối căn hầm ẩm thấp, nằm trên một ụ đất và rác cao chừng một mét là một cái hòm đen, dài.
Khi Eph và hai người kia tiếp cận nó - với cảm giác sợ hãi hệt như những nhân viên phá bom đang tiếp cận một thiết bị đáng ngờ trong khi chưa kịp mặc đồ bảo vệ - anh nhận ra tình huống này sao mà vô cùng quen thuộc, và chỉ mất một giây để anh nhớ ra: anh đã cảm thấy hệt như thế này khi bước vào trong cái máy bay tối tăm trên đường lăn, khỏi đầu của toàn bộ chuyện này.
Chính là cảm giác tiếp cận một thứ gì đó chết nhưng không thực sự chết. Thứ gì đó đến từ một thế giới khác.
Anh tới đủ gần để chắc chắn nó chính là cái hòm đen dài từ khoang chứa hàng của chuyến bay 753. Nắp của nó được chạm khắc tinh xảo hình người quằn quại như đang bị thiêu trong ngọn lửa, cùng những khuôn mặt kéo dài la hét đau đớn.
Cỗ quan tài ngoại cỡ của Chúa Tể được đặt tại đây, trên một bệ thờ làm từ gạch vụn và rác thải bên dưới đống đổ nát của Trưng tâm Thương mại Thế giới.
"Chính là nó," Eph nói.
Setrakian đưa tay gần lại vách hòm, gần như chạm vào những hình khắc, rồi lại rụt những ngón tay cong queo về. "Tôi đã tìm kiếm thứ này từ rất lâu rồi," ông nói.
Eph rùng mình trước kích thước khủng khiếp cùng sức mạnh tàn độc của thứ đó, chẳng còn muốn bắt gặp nó một lần nào nữa. Anh vẫn đứng cạnh nó, đề phòng nắp quan tài sẽ bật mở bất cứ lúc nào. Fet bước vòng sang phía đối diện. Không có tay cầm ở những cánh cửa trên nắp. Để mở, cần phải luồn ngón tay vào bên dưới khe hở ở chỗ nối giữa và kéo lên. Sẽ rất bất tiện và khó để thao tác nhanh.
Setrakian đứng trước vị trí được cho là đầu của cái hòm, thanh kiếm dài sẵn sàng trong tay. Nhưng đôi mắt ông lão nhuộm vẻ rầu rĩ. Eph có thể hiểu được lý do, và điều đó cũng khiến anh thấy hụt hẫng.
Thế này quá dễ dàng.
Eph và Fet luồn ngón tay vào dưới cánh cửa đôi, và sau khi gật đầu đếm đến ba, họ cùng kéo mở. Setrakian ruón người ra phía trước, tay cầm đèn và kiếm... và ông nhận ra cái hòm chỉ toàn đất. Ông rà soát bằng cách chọc đầu kiếm xuống đáy cái hòm khổng lồ. Chẳng có gì cả.
Fet lui lại, đôi mắt hoang dại, hoảng hốt. "Nó biến mất rồi ư?"
Setrakian thu kiếm lại, gõ nó vào thành hòm để giũ sạch đất.
Eph ngập tràn thất vọng. "Nó đã trốn thoát." Eph lui bước khỏi cỗ quan tài, quay mặt về phía bãi xác ma cà rồng bên trong căn hầm khủng khiếp này. "Nó biết ta sẽ tới đây. Nó đã trốn trong hệ thống tàu điện ngầm này chỉ mười lăm phút trước. Và nó sẽ không thể lên mặt đất do ánh sáng mặt trời... bởi vậy nó vẫn sẽ ở dưới này cho tới khuya."
Fet nói, "Bên trong hệ thống trung chuyển dài nhất thế giới này. Tám trăm dặm đường ray."
Giọng Eph khô khốc, đầy tuyệt vọng. "Chúng ta chưa từng có cơ hội."
Setrakian có vẻ mệt mỏi nhưng chẳng hề nản chí. Thậm chí, đôi mắt già nua của ông còn sáng lên vẻ lanh lọi. "Chẳng phải đây là cách thức anh tiêu diệt lũ chuột bọ ư, anh Fet? Bằng cách kích động chúng ngay tổ của chúng? Và xua chúng ra ngoài?"
Fet nói, "Chỉ khi ông biết chắc chúng sẽ đi đâu."
Setrakian tiếp, "Chẳng phải tất cả những sinh vật đào hang, từ chuột cho tới thỏ, đều đào sẵn một thứ dạng như cửa sau sao...?"
"Một nơi để trốn," Fet nói. Giờ đây anh đã hiểu ra vấn đề. "Một lối thoát hiểm. Thú săn mồi vào đầu này, thì chúng chạy ra đầu kia."
Setrakian nói, "Tôi tin chứng ta đã ép được Chúa Tể bỏ trốn."
Phố Vestry, Tribeca
HỌ KHÔNG CÓ THỜI GIAN để tiêu hủy hoàn toàn cỗ quan tài, vì thế họ quyết định xô đổ nó khỏi bệ thờ làm từ gạch vụn, lật ngược và đổ hết đất xuống sàn. Họ sẽ quay lại sau để hoàn thành nốt công việc.
Phải mất một lúc, cùng kha khá sức lực của Setrakian, để quay trở lại những đường hầm và về tới chỗ đậu xe tải của Fet.
Fet đỗ xe ở một ngã rẽ gần ngôi nhà của Bolivar. Họ chạy qua nửa dãy nhà sáng ánh nắng để tới đưọc cổng trước, chẳng buồn hoài công che giấu đèn Luma và kiếm bạc. Chẳng thấy bất cứ ai bên ngoài dinh thự vào đầu giờ sáng này, và Eph bước qua những thanh ngang của giàn giáo phía trước ngôi nhà. Phía trên cánh cửa đóng ván là một cửa sổ con có ghi địa chỉ. Eph phá vỡ cửa sổ bằng thanh kiếm, đạp tung những mảnh vỡ lớn hon, và rồi vát sạch khung cửa bằng lưỡi kiếm. Anh cầm đèn và trèo vào trong, tiến vào tiền sảnh.
Ánh đèn tím của anh rọi sáng cặp báo cẩm thạch hai bên cánh cửa. Một bức tượng thiên thần có cánh dưới chân cầu thang xoắn nhìn xuống anh với vẻ tang tóc.
Anh nghe thấy, anh cảm thấy: tiếng ong ong do sự hiện diện của Chúa Tể. Kelly, anh nghĩ, nỗi đau trào lên trong ngực. Cô hẳn đang ở đây.
Tiếp theo là Setrakian, Fet đỡ phía ngoài, Eph giúp ông xuống phía trong. Vừa đặt chân xuống mặt đất, Setrakian rút ngay kiếm ra. Ông cũng cảm thấy sự hiện diện của Chúa Tể, và thấy nhẹ nhõm. Họ đã không tới quá muộn.
"Nó đang ở đây," Eph lên tiếng.
Setrakian nói, "Vậy thì nó cũng biết chúng ta đã tói."
Fet chuyền hai đèn ƯVC lớn hơn cho Eph, rồi tự mình trèo qua khung cửa sổ cao, giày anh đập cộp xuống sàn.
"Nhanh nào," Setrakian nói, dẫn họ di chuyển dưới cầu thang xoắn, tầng dưới đang trong giai đoạn hoàn thiện. Họ đi ngang qua một nhà bếp dài với nhũng vật dụng vẫn còn đóng hộp, tìm kiếm một phòng kho. Và họ đã thấy, một phòng kho trống rỗng, còn chưa hoàn thiện.
Họ đẩy mở cánh cửa âm của bức tường phía trong, như mô tả trong tấm hình trên tờ tạp chí People mà Nora in ra.
Có một cầu thang dẫn xuống dưới. Một tấm bạt nhựa phía sau họ chợt kêu phần phật, và họ quay phắt lại, nhưng đó chỉ là luồng khí thoát lên từ dãy cầu thang. Gió mang theo mùi của hầm ngầm, của đất và chất thải.
Đây chính là lối dẫn tới những đường ngầm. Eph và Fet bắt đầu điều chỉnh vị trí hai đèn uvc lớn sao cho họ có thể lấp đầy lối đi bằng thứ ánh sáng nóng, giết chóc này, bằng cách đó khóa kín căn hầm. Ngăn chặn đường lên của bất cứ ma cà rồng nào khác, và quan trọng hon, đảm bảo rằng lối ra duy nhất khỏi căn nhà dẫn thẳng vào ánh sáng mặt trời.
Eph ngoái lại, nhìn thấy Setrakian đang đứng tựa tường, đầu ngón tay ông ghì vào ngực áo vest, vị trí tim. Eph không thích cảnh đó, và khi đang bước tới chỗ ông, thì giọng nói của Fet khiến anh quay ngoắt lại. "Chết tiệt!" Một trong hai chiếc đèn tử ngoại bị đổ, va loảng xoảng xuống sàn nhà. Eph kiểm tra để chắc chắn bóng đèn vẫn hoạt động, và rồi dựng thẳng chiếc đèn, cẩn thận tránh bức xạ cực tím.
Fet ra hiệu cho anh yên lặng. Anh nghe thấy tiếng động phía sau. Những tiếng bước chân. Mùi trong không khí đã thay đổi - nồng nặc hon, hôi thối hon. Lũ ma cà rồng đang tập họp.
Eph và Fet lùi khỏi phần căn hầm được chiếu sáng xanh, giữ khoảng cách an toàn. Và khi Eph ngoái lại phía ông lão, anh thấy ông đã biến mất.
Setrakian đã quay trở lại tiền sảnh. Tim ông thắt lại trong ngực, quá sức chịu đựng bởi căng thẳng và hy vọng. Ông đã chờ đợi quá lâu. Quá lâu rồi...
Đôi bàn tay xương xẩu của ông bắt đầu đau nhức. Ông co duỗi tay, ghì chặt chuôi kiếm bên dưới đầu sói bạc. Và rồi, ông cảm thấy gì đó, một con gió cực nhẹ trước khi xuất hiện một động tĩnh...
Cú vung kiếm vào phút chót đã cứu ông thoát khỏi một cú đánh trực tiếp chí tử. Cú va chạm khiến ông ngã ngửa, cơ thể nhàu nhĩ của ông trượt dài trên sàn đá cẩm thạch, đầu đập vào góc tường. Nhưng ông vẫn nắm chặt thanh kiếm. Ông bật ngay dậy, vung lưỡi kiếm ra xung quanh, chẳng nhìn thấy gì trong khu tiền sảnh lờ mờ tối.
Chúa Tể di chuyển cực nhanh.
Nó đang ở ngay đây. Đâu đó.
Giờ thì ngươi đã là một lão già.
Giọng nói này lạo xạo trong đầu Setrakian như thể một con sốc điện. Setrakian quét rộng thanh kiếm bạc trước mặt. Một bóng đen mờ ảo vọt qua bức tượng thiên thần than khóc chỗ chân cầu thang cẩm thạch.
Chúa Tể cố gắng khiến ông mất tập trung. Đó là cách của nó. Không bao giờ đấu trực tiếp, mặt đối mặt, mà sẽ lừa đối phương. Để gây bất ngờ từ phía sau.
Setrakian lùi về phía bức tường bên cánh cửa trước. Phía sau ông là cửa ra vào với một ô cửa sổ hẹp bằng kính Tiffany đã bị son đen. Setrakian lấy kiếm đập vỡ tấm kính quý mạ chì.
Anh sáng ban ngày xiên vào tiền sảnh.
Ngay lúc kính vỡ, Eph và Fet cũng đã trở lại và thấy Setrakian đang đứng, giương kiếm, cơ thể ông ngập trong ánh mặt trời.
Ông lão trông thấy một bóng đen mờ ảo đang chạy lên cầu thang. "Nó kia Ida!" ông hét lên và đuổi theo. "Nhanh lên!"
Eph và Fet chạy lên cầu thang theo ông lão. Có hai con ma cà rồng khác đón họ trên đỉnh cầu thang. Đó là đội vệ sĩ trước kia của Bolivar, những gã vệ sĩ to cao giờ trở thành những khối thịt khổng lồ với vẻ mặt đói khát, trong những bộ vest bẩn thỉu. Một gã nện Eph, làm anh loạng choạng vấp về phía sau và suýt mất thăng bằng, phải bám vào tường để tránh bị ngã xuống cầu thang cẩm thạch. Anh giương chiếc đèn Luma lên, tên đần độn to lớn lùi lại, và Eph lia thanh kiếm vào bắp đùi nó. Con ma cà rồng há mồm thở hắt ra và lại lao vào anh. Eph moi ruột nó, lưỡi kiếm cắt gần đứt phần bụng trước khi anh rút nó ra, con ma cà rồng đổ sụm xuống sàn như thể một quả bóng bay bị chọc vỡ.
Fet duy trì khoảng cách an toàn với con ma cà rồng của anh bằng cây đèn, đồng thời dùng con dao găm lưỡi ngắn đâm và chém bàn tay đang cố gắng túm lấy anh. Anh giương đèn chiếu thẳng vào mặt nó, làm con ma cà rồng loạng choạng, nó cuống cuồng nhìn khắp xưng quanh, hoa mắt. Fet lách người tiếp cận nó từ phía sau, cắm ngập con dao vào cái gáy dày thịch của nó trước khi đẩy nó ngã lộn xuống cầu thang.
Con ma cà rồng phía Eph đang cố gưọng dậy, nhưng Fet lại tiếp tục đánh gục nó bằng một cú đá vào sườn. Đầu tên vệ sĩ gác lên bậc thang cao nhất, và cùng với một tiếng thét căm hận, Eph chém thanh kiếm xuống.
Đầu nó nẩy tưng tưng xuống các bậc cầu thang, tăng tốc cho tới bậc cuối, nẩy qua cơ thể của con ma cà rồng còn lại và lăn tới bức tường.
Máu trắng từ cái cổ đã bị cắt đứt của nó chảy ra tấm thảm đỏ. Những con giun máu thoát ra, Fet thiêu cháy chúng bằng cây đèn của mình.
Tên vệ sĩ ở dưới chân cầu thang chẳng khác gì một bao da đựng xương gãy, nhưng nó vẫn cử động. Cú ngã không thể khiến đầu nó rụng ra, và vì thế chưa giải thoát được cho nó. Nó cố nhúc nhích, mắt vẫn mở, đờ đẫn nhìn lên cầu thang dài.
Eph và Fet tìm thấy Setrakian gần một cánh cửa song sắt thang máy đóng kín, ông đang vung kiếm chém vào một cái bóng mờ tối di chuyển rất nhanh. "Cẩn thận...!" Setrakian gọi với, nhưng trước khi những lời đó kịp buột ra khỏi miệng ông, Chúa Tể đã đánh trúng Fet từ phía sau. Anh ngã mạnh xuống, suýt nữa thì đè vỡ cây đèn của mình. Eph cũng chẳng kịp phản ứng khi nó vọt ngang qua anh - chỉ chậm lại vừa đủ để Eph có thể nhìn ra khuôn mặt Chúa Tể một lần nữa, làn da nổi giun sán và cái miệng đầy vẻ khinh bỉ của nó - và anh bị ném vào bức tường.
Setrakian lao về phía trước, hai tay cầm kiếm chém ngang dọc, dồn cái hình hài vun vút kia vào một căn phòng trần cao, rộng bằng cả tầng nhà. Cả Eph và Fet đều bật dậy, chạy theo ông. Một dòng máu chảy xuống từ thái dương Fet.
Chúa Tể dừng lại, hiển hiện trước mặt họ, phía sau nó là một lò sưởi lớn bằng đá nằm giữa phòng. Căn nhà chỉ có cửa sổ ở hai đầu - vì thể chẳng có một chút ánh sáng mặt trời nào ở giữa để trợ giúp họ. Áo choàng của Chúa Tể phập phồng, đôi mắt ghê rạn của nó nhìn xuống họ, nhưng chủ yếu tập trung vào Fet, vốn chả phải người bé nhỏ gì cho cam. Máu chảy nhỏ giọt từ trên mặt anh. Và sau khi phát ra một âm thanh gì đó nửa cười nửa rú, cánh tay dài ngoẵng của Chúa Tể chộp lấy đống củi và những bó dây điện cùng những mảnh vụn khác trong tầm với, rồi ném về phía ba sát thủ.
Setrakian ép mình vào tường, Eph núp vào góc phòng, còn Fet sử dụng một tấm ván lát tường làm khiên chắn.
Khi cuộc tấn công kết thúc, họ nhìn lên, và Chúa Tể đã lại biến mất.
"Chúa ơi!" Fet rít lên. Anh lấy tay chùi máu khỏi mặt, rồi vứt tấm ván lát tường sang một bên. Anh ném đánh cạch con dao găm bạc vào lò sưỏi lạnh - nó vô dụng đối với con ma khổng lồ này - và cầm lấy chiếc đèn của Eph, vậy là giờ anh đã có hai đèn, còn Eph có thể tự do cầm thanh kiếm dài hơn của mình bằng cả hai tay.
"Hãy theo sát nó," Setrakian nói, len lên trước. "Như khói bay lên ống khói vậy, ta cần phải ép nó lên mái nhà."
Khi họ rẽ qua một góc nhà, bốn con ma cà rồng rú rít xông vào họ. Với kiểu tóc tỉa đuôi cùng khuyên xỏ lỗ, trông chúng giống như những kẻ hâm mộ Bolivar trước kia.
Fet tiến tới cùng hai cây đèn, ép chúng lùi lại. Một con định thoát ra, nhưng đã có Eph đón đầu, giương kiếm trước mắt nó. Trông nó giống như một Vampira mũm mĩm trong chiếc váy bằng vải bông chéo và bít tất lưới rách bươm. Nó mang cái vẻ háu đói của một con ma cà rồng vừa biến đổi, Eph đã bắt đầu nhận ra điều đó. Eph hạ thấp người, chĩa mũi kiếm vào nó, con ma cà rồng lách sang phải, rồi lại sang trái, rít lên qua đôi môi trắng bệch.
Eph nghe thấy Setrakian thét lên bằng giọng ra lệnh, "Strỉgoỉ!" Tiếng ông lão chém giết những con ma cà rồng tiếp thêm sức mạnh cho Eph. Con Vampira ục ịch vừa đánh dứ vừa né tránh một cách dữ dội, và Eph đâm trúng nó, mũi kiếm của anh xuyên qua phần vai trước của chiếc áo vải bông đen của nó, thiêu đốt con ma cà rồng từ bên trong. Mồm nó há ra và lưỡi cuộn lên, Eph vọt mình lùi lại vừa kịp lúc, vòi chích của nó suýt chút nữa phi trúng cổ anh. Nó tiếp tục tấn công, mồm mở rộng. Và, với một tiếng hú giận dữ, Eph đâm kiếm vào mặt nó. Hướng thẳng vào vòi chích của nó, mũi kiếm đâm xuyên qua đầu, cắm vài phân vào bức tường còn chưa hoàn thiện.
Đôi mắt con ma cà rồng trọn tròn. Vòi chích của nó bị cắt và chảy máu trắng, ngập đầy mồm, rỏ cả xuống cằm, trong khi đó nó chẳng thể di chuyển. Nó đã bị gắn chặt vào tường. Nó chồm thân lên, cố gắng khạc thứ máu đầy giun của mình vào Eph. Mỗi con vi rút sẽ cố sức xâm nhập hết khả năng của nó.
Setrakian đã giết sạch ba con ma cà rồng kia, khiến mặt sàn gỗ thích vừa được đánh bóng ở cuối sảnh vấy đầy máu trắng. Ông trở lại bên Eph, thét lên, "Lùi lại!"
Eph rời tay kiếm, chuôi của nó rung rung cắm trên tường. Setrakian chém thanh kiếm vào cổ con ma cà rồng, và cơ thể không đầu của nó đổ sụm xuống sàn do trọng lực.
Cái đầu vẫn bị xiên trên tường, máu trắng chảy ra từ cái cổ đứt lìa của nó, đôi mắt đen thẳm tóe lửa nhìn cả hai người... rồi trợn tròn lên và cụp xuống, bất động. Eph nắm lấy tay cầm của thanh kiếm và giật nó khỏi bức tường phía sau miệng con ma, và cái đầu roi xuống trên cơ thể của nó.
Chẳng có thời gian để chiếu đèn vào máu trắng nữa. "Lên trên, lên trên!" Setrakian nói, bước dọc theo bức tường dẫn tới một cầu thang khác nữa, đó là một cầu thang xoắn với tay vịn bằng thép được trang trí hoa văn. Tinh thần của ông lão mạnh mẽ, nhưng sức khỏe của ông thì héo úa. Lên tới đầu cầu thang, Eph vượt qua ông. Anh nhìn phải, nhìn trái. Dưới ánh sáng mập mờ, anh thấy mặt sàn gỗ cứng đã hoàn thiện và những bức tường đang làm dở dang. Nhưng không có ma cà rồng.
"Ta sẽ tách ra," ông lão nói.
"Ông đang đùa ứ?" Fet nói, anh đang đỡ, giúp ông leo lên tới đỉnh. ''Không bao giờ tách ra. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất."
Một trong hai chiếc đèn của anh phát ra tiếng xì xì. Bóng đèn nổ lốp bốp vì quá nóng, và bất thình lình bùng lửa. Fet thả nó xuống, giậm giày dập tắt lửa. Giờ anh chỉ còn một cây đèn.
"Pin còn dùng được bao lâu nữa?" Eph hỏi.
"Không đủ," ông lão nói. "Nó sẽ khiến chúng ta kiệt sức giống như cái đèn này, buộc chúng ta sân đuổi nó tới tận đêm."
"Phải bẫy nó," Fet nói. "Như một con chuột trong phòng tắm vậy."
Ông lão ra hiệu im lặng, ông quay đầu về phía phát ra âm thanh.
Trái tim ngươi thật yếu đuối, kẻ già nua khốn cùng à. Ta có thể nghe thấy nó.
Setrakian đứng im, kiếm sẵn sàng. Ông nhìn khắp các phía, nhưng chẳng hề thấy bất cứ dấu hiệu nào của Chúa Tể Bóng Tối.
Ông gõ mũi kiếm xuống mặt sàn. Cộc-cộc-cộc. "Lộ diện đi."
Ngươi đã tạo ra một món vũ khí.
"Ngươi không nhận ra nó ư?" Setrakian nói lớn, thở hổn hển. "Nó là của Sardu. Chàng trai mà ngươi đã chiếm đoạt cơ thể."
Khi nhận ra ông đang trò chuyện với Chúa Tể, Eph tới gần ông lão hon. "Cô ấy đâu rồi?" anh thét lên. "Vợ ta đâu rồi?"
Chúa Tể lờ anh đi.
Cả cuộc đời ngươi đã dẫn ngươi tới đây. Ngươi cũng sẽ thua cuộc lần thứ hai thôi.
Setrakian đáp, "Ngươi sẽ phải nếm mùi bạc của ta, Strigoi."
Ta sẽ chén ngươi, lão già. Cùng những tông đồ ngu xuẩn của ngươi...
Chúa Tể tấn công từ phía sau, một lần nữa ném Setrakian xuống sàn. Eph phản ứng, lia kiếm vào luồng gió mà anh cảm thấy, một vài nhát chém hú họa. Và khi thu kiếm về, anh nhận ra mũi kiếm dính máu trắng.
Anh đã khiến Chúa Tể bị thương. Anh đã chém trúng nó.
Nhưng khi Eph còn đang nghĩ về điều đó, Chúa Tể đã trở lại và đánh mạnh vào ngực bằng bàn tay móng vuốt của nó. Eph bay khỏi sàn, lưng và vai đập mạnh vào tường, cơ bắp đau nhói khi anh ngã sang một bên.
Fet lao vọt lên phía trước với cây đèn của mình, trong khi Setrakian quỳ một gối, chém lưỡi kiếm bạc, đẩy lùi ác ma. Eph lộn người lại nhanh nhất có thể, chuẩn bị tấn công tiếp... nhưng không có gì cả.
Một lần nữa chỉ còn ba người với nhau. Họ có thể cảm thấy điều đó. Chẳng một tiếng động ngoại trừ tiếng leng keng của những bóng đèn thi công treo dọc trần nhà đang đu đưa phía chân cầu thang.
Eph nói, "Tôi đã chém trúng nó."
Setrakian chống kiếm gượng đứng dậy, một tay ông bị thương và buông thõng. Ông bước tới cầu thang tiếp theo dẫn lên lầu.
Có vết máu trắng của ma cà rồng trên lóp ván lát cầu thang chưa hoàn thiện.
Đau đớn, nhưng quyết tâm, họ leo những bậc thang dẫn lên nóc nhà. Đó là gác mái của Bolivar, tầng cao nhất của tòa nhà cao hơn trong số hai tòa nhà liền kề. Họ ngó vào phòng ngủ, tìm kiếm vết máu ma cà rồng trên sàn. Chẳng thấy gì, Fet bước quanh chiếc giường bừa bộn tới bên khung cửa sổ phía xa, anh giật những tấm rèm che xuống, để ánh sáng lọt vào, nhưng không có ánh sáng mặt trời trực tiếp. Eph kiểm tra phòng tắm và nhận ra nó còn lớn hơn so với hình dung trước đó, với những gương soi khung vàng bố trí đối diện nhau, phản chiếu vô số hình ảnh của anh. Một đội quân những Ephraim Goodweather cầm kiếm trên tay.
"Lối này," Setrakian thở hổn hển.
Những vết máu trắng còn tươi nổi bật trên mặt một chiếc ghế bọc da đen trong căn phòng chiếu phim rộng lớn. Hai khung cửa vòm được che kín mít dọc bức tường phía Đông cho thấy chút ánh sáng nhẹ len vào bên dưới đường viền của những tấm rèm dài. Mái của tòa nhà liền kề nằm ngay bên ngoài đó.
Tại đây họ bắt gặp Chúa Tể đang đứng giữa phòng, khuôn mặt đầy giun máu của nó cúi nhìn về phía họ, đôi mắt mã não mở trừng trừng, phía sau nó là thứ ánh sáng ban ngày nguy hiểm. Máu trắng óng ánh nhỏ giọt, từ từ và không đều, dọc cánh tay xuống bàn tay dài ngoằng của nó, qua đầu nhọn của móng vuốt xuống mặt sàn.
Setrakian khập khiễng bước tói, kéo lê thanh kiếm theo sau, cào mặt sàn gỗ. Ông dừng lại và giương lưỡi kiếm bạc bằng bàn tay lành lặn của mình, đối mặt Chúa Tể - tim ông đập thình thịch, quá nhiều nhịp trên một phút.
"Strigoi," ông lên tiếng.
Chúa Tể nhìn trừng trừng, lúc này trông thật điềm tĩnh, như một ma vương, đôi mắt trông như hai quầng mặt trăng chết chóc khuất sau những đám mây máu. Thứ duy nhất cho thấy rõ sự khó chịu của nó là bọn ký sinh máu ngoe nguẩy bên dưới khuôn mặt chẳng phải của con người.
Đối với Setrakian, giây phút đó đã ngay trong tầm tay... nhưng trái tim ông đang nghẹt lại, khiến ông bất động.
Eph và Fet tập trung lại phía sau ông, và Chúa Tể chẳng còn cách nào khác ngoài chiến đấu để thoát khỏi căn phòng này. Nó nở một nụ cười khinh bỉ, man rợ. Nó đạp chiếc bàn thấp, dài vào Eph, làm anh bắn về phía sau, và bằng cánh tay lành lặn của mình, nó đẩy một chiếc ghế bành trượt về phía Setrakian. Hành động đó nhằm tách họ ra, và Chúa Tể lao vọt ra giữa, thẳng về phía Fet.
Fet giơ đèn, nhưng Chúa Tể né mình và cào anh từ bên sườn. Fet ngã xuống gần đầu cầu thang, choáng váng. Chúa Tể định nhào qua anh, nhưng Fet rất nhanh, anh chiếu đèn vào nó - thẳng vào khuôn mặt hung tợn của Chúa Tể Bóng Tối. Tia uvc khiến nó loạng choạng, đẩy nó bước lùi về phía bức tường, lóp vữa thạch cao vỡ lắc rắc dưới sức nặng của nó. Khi những móng vuốt của Chúa Tể buông xuống khỏi khuôn mặt, đôi mắt nó mở to hơn bao giờ hết, và có vẻ như mất phương hướng.
Chúa Tể đã bị lòa, nhung chỉ tạm thời. Tất cả bọn họ đều nhận ra lọi thế của mình lúc này, và Fet tiến thẳng tới nó với cây đèn. Chúa Tể lùi lại, vùng vẫy một cách điên dại. Fet buộc con ác ma cao sừng sững phải lùi dọc căn phòng, về phía khung cửa che rèm, và Eph lao theo sau, chém vào lóp áo choàng của Chúa Tể Bóng Tối, trúng một phần da thịt nó. Móng vuốt của Chúa Tể vung lên nhung không trúng ai.
Setrakian nắm lấy chiếc ghế khi nãy bị đẩy về phía ông, thanh kiếm lách cách trên sàn.
Eph chém đứt những tấm rèm dày trên một khung cửa vòm, làm lộ ra ánh mặt trời chói chang. Nhũng song sắt trang trí chắn ngang khung cửa kính, nhung chỉ với một đường bổ kiếm, then cửa vỡ vụn, tóe tia lửa.
Fet tiếp tục dồn Chúa Tể về phía sau. Và Eph quay người, trông chờ Setrakian giáng đòn cuối cùng. Và dring khi đó, anh nhận ra ông giáo sư già đang nằm trên sàn, bên thanh kiếm của mình, ôm chặt ngực.
Eph chết lặng, anh nhìn Chúa Tể đang yếu thế, rồi nhìn Setrakian đang hấp hối trên sàn.
Fet, lúc này đang liên tục chiếu đèn vào con ma cà rồng như một người huấn luyện sư tử với một cái ghế đặt chân, gọi, "Còn chờ gì nữa?"
Eph chạy tới chỗ ông lão. Anh quỳ gối, chống tay, và nhìn thấy vẻ mặt đau đón, ánh nhìn xa xăm của ông. Những ngón tay ông thò vào trong áo vest, phía trên tim.
Eph đặt kiếm xuống. Anh xé rách áo vest và áo trong của ông, để lộ ra lồng ngực xẹp lép. Anh rờ tay xuống dưới hàm ông để kiểm tra mạch, nhưng chẳng thấy động tĩnh gì.
Fet gọi với lại, "Này, bác sĩ!" Anh vẫn tiếp tục dồn tói, ghim chặt Chúa Tể sát rìa ánh sáng mặt trời.
Eph mát xa ngực ông lão, vị trí trên tim. Anh không thực hiện cấp cứu hồi sức tim phổi ngay lập tức bởi lo ngại xương ông lão yếu, e rằng sẽ đè vỡ chúng. Và rồi anh nhận ra những ngón tay già nua của Setrakian không còn ghì tim nữa, mà đang luồn vào trong áo vest.
Fet hoảng loạn ngoái lại xem thứ quái quỷ gì đang kìm chân họ lại. Và anh thấy Setrakian nằm trên sàn, Eph quỳ gối phía trên ông.
Khoảnh khắc Fet quay nhìn đã là quá đủ. Chúa Tể quặp lấy vai Fet và kéo anh lại.
Eph sờ soạng các túi chiếc áo vest vải tuýt của Setrakian, và anh thấy thứ gì đó. Anh kéo ra một lọ thuốc nhỏ màu bạc và nhanh chóng vặn mở nắp. Một tá những viên tí hơn màu trắng roi xuống sàn.
Fet đúng là một gã đàn ông to lớn, nhung anh chỉ như một đứa trẻ trong bàn tay của Chúa Tể. Anh vẫn cầm cây đèn trong tay, mặc dù hai cánh tay đang bị kìm chặt. Anh chĩa nó vào Chúa Tể, thiêu cháy một bên sườn nó - và con ác ma mù gầm lên đau đớn, nhưng vẫn không chịu buông tay. Tay còn lại của Chúa Tể nắm chặt đỉnh đầu Fet và vặn ngửa cổ anh bất chấp bị anh kháng cự lại. Và rồi Fet thấy mình đang ngước nhìn khuôn mặt quái dị đó.
Eph nhặt một trong những viên nitroglycerin lên và ôm đầu ông lão trong tay. Anh cố gắng mở hàm ông lão lúc này đang nghiến chặt và thả viên thuốc xuống dưới cái lưỡi lạnh ngắt của ông. Anh rút ngón tay và lắc người Setrakian, la hét gọi ông. Và đôi mắt ông lão mở ra.
Chúa Tể há mồm trên Fet, thò vòi chích ra, đảo nó qua lại phía trên đôi mắt hoang dại và cổ họng trần của Fêt. Fet kháng cự dữ dội, nhưng tay nắm kẹp chặt phía sau cổ anh đã chặn cứng đường máu lưu thông tới não, vì thế cả căn phòng tối sầm, cơ bắp anh rũ ra.
Eph thét lên, "Không!" và lao vào Chúa Tể với thanh kiếm của mình, chém một nhát vào tấm lưng rộng của sinh vật kinh tỏm này. Fet roi phịch xuống sàn. Đầu Chúa Tể quay ngoắt lại, vòi chích của nó mò mẫm, đôi mắt mờ đục của nó lùng tìm Eph.
“Thanh kiếm của ta ngợi ca ánh bạc!" Eph la lớn, chém vào phần ngực trên của Chúa Tể. Lưỡi kiếm đã thực sự cất tiếng, mặc dù Chúa Tể Bóng Tối bay ngược về phía sau và tránh được nó. Eph lại vung kiếm - và lại trượt - Chúa Tể nhào về phía sau, mất kiểm soát. Giờ thì nó đã nằm trong vùng ánh sáng mặt trời, trước khung cửa kính đôi, ánh sáng ban ngày tràn ngập trên sân mái phía sau nó.
Eph đã lừa được nó. Chúa Tể cũng biết anh đã lừa được nó. Eph vung kiếm bằng hai tay, sẵn sàng đâm xiên qua cái cổ phình to của Chúa Tể. Con ma cà rồng chúa nhìn trừng trừng xuống Eph đầy căm giận, và nó vươn mình cao hơn nữa, đội chiếc mũ trùm của áo choàng lên đầu.
"Chết đi!" Eph vừa nói vừa sấn tói.
Chúa Tể xoay mình lao thẳng qua tấm kính cửa, ra ngoài sân mái lộ thiên. Tấm kính vỡ vụn khi con ma cà rồng cuộn trong tấm áo choàng lăn mình trên nền gạch nóng rực, thẳng dưới ánh sáng mặt trời chết chóc.
Nó bất động một lát, khom mình quỳ một gối.
Eph lập tức lao qua khung cửa vỡ, anh dừng lại tại đó, nhìn chằm chằm con ma cà rồng khoác áo choàng, chờ đợi một kết thúc.
Chúa Tể run rẩy, hơi nước bay lên từ bên trong áo choàng đen của nó. Và rồi con ma cà rồng chúa đứng thẳng dậy, run lên như thể trong con sốt nặng, những móng vuốt lớn của nó gập vào, tạo thành nắm đấm của loài ác quỷ.
Cùng với một tiếng gầm, nó quăng chiếc áo choàng của mình đi. Trang phục cổ xưa đó bốc khói, bay xuống nền gạch. Cơ thể trần truồng của Chúa Tể quằn quại, lóp da óng như ngọc trai của nó tối dần khi bị thiêu đốt, chuyển từ màu trắng dịu của huệ tây sang một màu da đen chết chóc.
- Vết thương dọc lưng từ cú chém của Eph liền lại thành một vết sẹo đen, sâu, như thể bị đốt bởi những tia mặt trời. Nó quay mình, vẫn run rẩy, đối mặt với Eph, Fet dring ở khung cửa phía sau anh, và Setrakian giờ đã quỳ một gối ngồi dậy. Nó gầy còm đúng kiểu ma cà rồng, vùng háng của nó phẳng mịn và không có cơ quan sinh dục. Những con giun máu đau đón quặn lại bên trong lóp da thịt đang bị thiêu đen của nó.
Với một nụ cười kinh tỏm hơn bao giờ hết - một nụ cười khinh bỉ trong con đau tột cùng và cả trong chiến thắng - Chúa Tể quay mặt về phía mặt trời và buông ra một tiếng tru lớn thách thức. Một lời nguyền rủa đích thực của ác quỷ. Thế rồi, bằng một tốc độ chóng mặt, nó lao nhanh tới mép sân mái, nhảy qua bức tường thấp xuống dưới hông tòa nhà, chỗ'giàn giáo ba tầng... và biến mất vào những bóng râm ban sáng của thành phố New York.
Chú thích
[I] Viết tắt của Metropolitan Transportation Authority: Cơ quan Quản lý Vận tải Công cộng thành phố New York.
Phe cổ đại
Thị trấn nazareth pennsylvanina
Trong một mỏ amiăng đã thôi khai thác từ rất lâu và không bao giờ được đánh dấu trên bản đồ, một thế giới âm ty sâu hàng trăm mét dưới một cánh rừng ở Pennsylvania, ba Chúa Tể Cổ Đại của Tân Thế giới đang họp trong một căn phòng tối đen như mực.
Cơ thể của chúng, qua thời gian, đã trở nên nhẵn nhụi như hòn đá bị nước bào mòn bên dòng sông, chuyển động của chúng chậm đến nỗi gần như không thể cảm nhận được. Chúng không cần sử dụng tới những cơ quan hữu hình bên ngoài cơ thể. Hệ thống cơ thể của chúng đã đạt tới độ hiệu quả tối đa, và chúng có thể vận hành nhũng bộ hàm ma cà rồng của mình một cách tuyệt hảo. Khả năng nhìn trong bóng đêm của chúng là phi thường.
Trong các buồng giam được xây dựng sâu trong những đường hầm ở phía Tây lãnh địa của mình, những Chúa Tể cổ Đại đã bắt đầu tích trữ thức ăn cho mùa đông dài. Tiếng kêu thét của một tù nhân con người nào đó thi thoảng lại xé toang sự yên tĩnh của khu mỏ, âm vang như tiếng kêu của loài thú.
Đó là kẻ thứ bảy.
Mặc dù có hình dáng của con người, nhưng chúng không sử dụng ngôn ngữ âm thanh như động vật. Chuyển động của chúng, nếu không tính ánh nhìn từ những đôi mắt no máu đỏ ngầu, cực kỳ chậm chạp.
Sự xâm nhập này là thế nào đây?
Đó là sự vi phạm thỏa thuận.
Hắn nghĩ chúng ta già yếu.
Có ai đó nữa là đồng lõa trong vụ vi phạm này. Ai đó đã hỗ trọ hắn vượt đại dương.
Một trong số những kẻ khác ư?
Một trong số những Chúa Tể Cổ Đại của Tân Thế giới đã liên kết tâm trí qua bờ kia đại dương, tới Cựu Thế giới.
Tôi không cảm thấy thế.
Vậy thì kẻ thứ bảy đã liên kết với một con người.
Với con người này, chôhg lại những con người khác.
Và chôhg lại chúng ta.
Chẳng phải đã quá rõ ràng rằng một mình hắn chịu trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Bulgari sao?
Đúng vậy. Hắn đã chứng tỏ mong muốn tiêu diệt giống loài của chính mình nếu bắt gặp.
Chiêh tranh thế giới đã khỉêh hắn sa đọa.
Hắn đã sôhg quá lâu trong cống rãnh. Say sưa yến tiệc trong các trại tập trung.
Và giờ thì hắn phá vỡ hòa ước. Hắn đã đặt chân lên đất của chúng ta. Hắn muốn cả thế giới này cho riêng mình hắn.
Thứ mà hắn muốn là một cuộc chiến nữa.
Vuốt của kẻ cao nhất trong đám co giật - một phản ứng thể chất kỳ dị của một sinh vật đang đắm chìm trong suy tư, trong tĩnh lặng tuyệt đối. Cơ thể của chúng là những cái vỏ đon giản và hoàn toàn có thể được thay thế. Có thể chúng đã trở nên hài lòng. Quá thỏa mãn.
Vậy thì chúng ta sẽ cho hắn biết phải quấy. Chúng ta không thể ẩn mình lâu hơn nữa.
Kẻ săn đầu người bước vào căn hầm của các Chúa Tể Cổ Đại và chờ được gọi tói.
Ngươi đã tìm thấy hắn.
Vâng. Hắn cố gắng trở về nhà, giống như tất cả những kẻ khác.
Hắn có đáp ứng không?
Hắn sẽ là thợ săn mặt trời của chúng ta. Hắn không có lựa chọn nào khác.
Trong một phòng giam có khóa tại một đường hầm phía Tây, trên mặt đất lạnh, Gus Elizalde nằm bất tỉnh, mơ về người mẹ của mình - không hay biết hiểm nguy đang chờ đợi.
Phần Kết
Phố kelton woodside queens
Họ tập trung lại tại nhà của Kelly, Nora đưa Zack trở về nhà sau khi Eph và Fet dọn dẹp rồi đốt sạch phần xác còn lại của Matt dưới những tán cây và bụi rậm ngoài vườn.
Setrakian nằm trên chiếc giường gập trong phòng kính. Ông từ chối vào bệnh viện, và Eph cũng đồng ý rằng việc đó dù sao cũng bất khả. Cánh tay ông lão sưng vù, nhưng không bị gãy. Nhịp tim của ông thấp, nhưng đều đặn và đang tiến triển tốt. Eph muốn Setrakian ngủ được một giấc mà không cần sự trợ giúp của thuốc giảm đau. Bởi vậy, trước khi vào kiểm tra tình hình ông lão sau hoàng hôn, Eph mở tủ rượu của Kelly trong phòng bếp. Anh cầm lên một chai scotch, thứ từng rất quyến rũ anh trước đây, rồi lại bỏ xuống, và rót cho ông một chút rượu brandy nhẹ hon.
Setrakian nói không phải do ông cảm thấy đau. "Sự thất bại làm tôi không ngủ được."
Việc gọi nhớ thất bại lại làm Eph liên tưởng tới chuyện anh vẫn chưa tìm được Kelly. Anh phần nào cũng muốn tin chính nhờ thế mà anh còn có lý do để hy vọng.
"Ông đã không thất bại," Eph nói. "Mặt trời đã thất bại."
Setrakian nói, "Nó mạnh hơn tôi nghĩ. Tôi cũng đã nghi chuyện đó, có thể... nó khiếp sợ, chắc chắn... nhưng tôi không hề biết. Nó không thuộc về trái đất này."
Eph đồng tình. "Nó là một con ma cà rồng."
"Không... không thuộc về trái đất này."
Eph lo ông lão đang chịu ảnh hưởng do bị đánh vào đầu. "Chúng ta đã làm nó bị thương, đó mới là điều quan trọng. Chúng ta đã ghi điểm trước nó. Và giờ thì nó đang chạy trốn."
Ông già không cảm thấy được an ủi. "Nó vẫn đang ở ngoài kia. Mọi chuyện vẫn diễn biến xấu." Đón ly rượu từ tay Eph, ông uống và đặt xuống. "Những con ma cà rồng này giờ... chúng chỉ đang ở giai đoạn đầu. Chúng ta sẽ chứng kiến một giai đoạn phát triển mới của chúng. Mất khoảng bảy đêm để chúng hoàn toàn biến đổi. Đó là thời gian cần để hệ cơ quan ký sinh của chúng trưởng thành. Khi chuyện đó xảy ra, khi cơ thể của chúng không còn được cấu tạo bởi những cơ quan thiết yếu - tim, phổi - mà là một chuỗi các khoang trong cơ thể, chúng sẽ khó bị thương tổn hơn bởi những vũ khí thông thường. Và chúng sẽ tiếp tục trưởng thành theo thời gian - học hỏi, thông minh hon, quen hơn với môi trường của chúng. Chúng sẽ tập họp lại với nhau và phối họp tấn công, và các cá thể sẽ trở nên nguy hiểm và lanh hơn rất nhiều. Khi đó sẽ khó mà tìm kiếm và đánh thắng chúng. Kết quả cuối cùng là không thể ngăn chặn chúng được nữa." Ông già uống nốt chỗ rượu brandy và nhìn Eph. "Tôi tin sự kiện chúng ta chứng kiến trên nóc nhà sáng nay đánh dấu sự diệt vong của giống loài chúng ta."
Eph cảm nhận được sức nặng của tương lai loài người đang đè lên vai họ. "Còn những điều gì mà ông chưa nói với tôi?"
Ánh mắt Setrakian xa xăm khi ông nhìn vào khoảng không vô định. "Có quá nhiều điều để nói hết lúc này."
Một lát sau, ông lão bắt đầu thiu thiu ngủ- Eph nhìn những ngón tay cong queo của ông bấu chặt lấy mép tấm chăn trên ngực. Ông đang gặp những giấc mơ biến động.
"Bố!"
Eph bước ra phòng chính và thấy Zack đang ngồi trên ghế trước bàn máy tính. Eph quàng tay ôm nó từ phía sau, hôn lên đỉnh đầu và hít thở mùi tóc nó. "Bố yêu con, z," anh thì thầm.
"Con cũng yêu bô'," Zack đáp, và Eph xoa đầu nó rồi thả nó ra.
"Chứng ta tới đâu rồi?"
"Gần như đã xong." Thằng bé quay lại với chiếc máy tính. "Con phải tạo một địa chỉ email giả. Bố chọn mật khẩu nhé."
Zack đang giúp Eph đăng đoạn video quay Ansel Barbour trong chuồng chó - thứ mà Eph chưa cho Zack xem - lên càng nhiều trang web chia sẻ và phát video trực tuyến càng tốt. Eph muốn đoạn phim quay ma cà rồng thực thụ được đưa lên Internet để cả thế giới nhìn thấy. Anh cho đó là cách duy nhất để tiếp cận mọi người và làm cho họ hiểu ra vấn đề. Anh không lo việc sẽ khoi dậy náo loạn và hoảng sợ. bạo động đã và dạng diễn ra ở các khu nghèo hon, dù sự lan rộng của nó chỉ còn là vấn đề thời gian. Chọn cách tiếp tục im lặng trước mối họa diệt vong quả thực là một điều ngu xuẩn.
Đã tới lúc toàn dân phải tham gia cuộc chiến chống lại tai họa này - hoặc sẽ không bao giờ nữa.
Zack nói, "Giờ thì con chọn tệp tin đó, như thế này này, và chuyển nó thành một tệp đính kèm..."
Có tiếng gọi của Fet từ phòng bếp, anh đang vừa xem ti vi vừa ăn món xa lát gà mua ngoài cửa hàng trong một cái lon nhựa. "Xem này."
Eph bước vào. Cảnh quay từ trực thăng cho thấy một chuỗi những tòa nhà đang bốc cháy, khói đen dày đặc bao trùm bầu trời phía trên Manhattan.
"Tình hình đang tệ đi," anh nói.
Trong khi đang xem, anh chợt thấy những trang giấy bài tập của Zack trên tủ lạnh bỗng phấp phói chực bay lên. Một mảnh giấy ăn bị thổi phất phơ trên mặt bàn và roi xuống chân Fet.
Eph quay sang Zack, lúc này đã ngừng gõ máy tính. "Sao có gió lùa ở đâu thế này?"
Zack nói, "Cửa trượt đằng sau chắc đang mở."
Eph nhìn quanh tìm Nora. Có tiếng xả nước trong nhà vệ sinh, và cô bước ra khỏi nhà tắm. "Chuyện gì thế?" cô hỏi khi thấy mọi người đang nhìn mình.
Eph nhìn sang hướng còn lại của ngôi nhà, góc dẫn ra cánh cửa trượt bằng kính và sân sau.
Một phụ nữ đang đứng ở góc nhà. Cô đứng đó, cánh tay buông thõng xuống hai bên.
Eph trố mắt nhìn, chết lặng.
Kelly.
"Mẹ!"
Zack bắt đầu chạy về phía mẹ nó, và Eph vươn tay ra giữ nó lại. Hẳn nắm tay của Eph đã làm Zack đau, nên nó mới vùng ra và ngỡ ngàng nhìn Eph.
Nora chạy nhanh tới và ôm lấy Zack từ phía sau.
Kelly vẫn chỉ đứng đó. Cô nhìn họ. Không cảm xúc, không chóp mắt. Nhìn cô như người mất hồn, như bị điếc bởi ảnh hưởng từ một vụ nổ.
Eph hiểu ngay lập tức. Tim anh quặn đau.
Kelly Goodweather đã bị biến đổi. Một sinh vật chết trở về với ngôi nhà của nó.
Cô hướng ánh nhìn chằm chằm của mình sang Zack. Đứa con thân yêu của cô. Cô trở về là vì nó.
"Mẹ phải không?" Zack hỏi khi nhận thấy có gì đó bất thường ở người phụ nữ kia.
Eph cảm thấy một chuyển động nhanh từ sau lưng. Fet chạy ra phòng chính với thanh kiếm của Eph trong tay. Anh khua kiếm, cho Kelly thấy lưỡi bạc của nó.
Mặt Kelly đanh lại. Nét mặt chuyển sang độc ác và cô nhe răng ra.
Trái tim Eph tan nát.
Giờ cô là một con quỷ. Một con ma cà rồng.
Một trong số chúng.
Đối với anh, cô đã vĩnh viễn ra đi.
Cùng với một tiếng rên tắc nghẹn, Zack giật mình lùi lại khi thấy mẹ mình hóa thành quỷ dữ... và nó bất tình.
Fet bắt đầu xông tới chỗ cô với thanh kiếm trong tay, nhưng Eph kịp giữ lấy cánh tay Fet trước khi anh có thể tiếp cận mục tiêu. Kelly lùi lại khi thấy lưỡi kiếm bạc, giống như một con mèo xù lông cảnh giác. Cô rít lên với họ. Rồi một lần nữa, cô ném ánh nhìn độc ác vào đứa con đang bất tỉnh, mục đích của cô... trước khi quay đi và thoát ra khỏi cửa sau.
Eph và Fet chạy nhanh tới góc nhà chỉ kịp để thấy Kelly nhảy qua hàng rào lưới thấp ngăn cách sân sau của họ với hàng xóm, rồi cô biến vào bóng đêm.
Fet đóng cửa và khóa lại. Anh kéo rèm che cửa kính, rồi đi tới chỗ Eph.
Eph không nói gì mà đi thẳng tới chỗ Nora, lúc này đang quỳ bên Zack nằm trên sàn nhà, ánh mắt cô tuyệt vọng.
Giờ thì anh nhận ra bệnh dịch này quỷ quyệt đến thế nào. Nó để thành viên gia đình chống lại thành viên gia đình. Để cái chết chống lại sự sống.
Chúa Tể đã cử cô tói. Nó đã khiến cô chống lại Eph và Jack. Để tra tấn họ. Để trả thù.
Nếu mức độ sẵn sàng hy sinh cho đứa con thân yêu lúc còn sống cũng tương đương với khát khao đoàn tụ ở thế giới bên kia... thì Eph tin Kelly sẽ không bao giờ chịu đầu hàng. Cô sẽ tiếp tục săn đuổi đứa con của mình mãi mãi, trừ phi có ai chấm dứt chuyện đó.
Cuộc chiến tranh giành Zack vẫn chưa kết thúc.
Eph nhìn vào khuôn mặt của từng người... rồi nhìn những đám cháy trên màn hình ti vi... và quay sang chiếc máy tính. Anh nhấn nút Enter, hoàn thành nốt công việc của Zack. Anh đã gửi ra thế giới video chứng minh thảm họa ma cà rồng này... rồi anh đi vào bếp, tới chỗ Kelly để chai scotch. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, anh rót cho mình một ly.
Guillermo Del Toro - Chuck Hogan
Nhật Minh, Ngọc Diệp, Minh Hiếu dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Dịch giả Rodion Ebbighausen: Cơ duyên dịch "Số đỏ" sang tiếng Đức

Dịch giả Rodion Ebbighausen: Cơ duyên dịch "Số đỏ" sang tiếng Đức Vào đầu năm 2022, tin vui cho văn học Việt Nam trên con đường ...