Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2024

Dị chủng 1

Dị chủng 1

Giới thiệu
dành tặng lorenza, mariana và marisa... và tặng tất cả quái vật của tuổi thơ tôi:
đừng bỏ tôi lại một mình nhé
- gdt
tặng lila
-ch
Bác sĩ Ephraim Goodweather chẳng muốn gì hơn một kỳ nghỉ cuối tuần với con trai mình. Thế nhưng khi được gọi đến điều tra về một chiếc máy bay đột nhiên ngưng hoạt động vài phút sau khi hạ cánh, cả thế giới của anh bỗng chốc đảo lộn. Giờ đây, anh phải đối mặt với một chủng loài cổ xưa nhăm nhe trỗi dậy thôn tính trái đất. Một trận đại dịch có thể tiêu diệt toàn bộ loài người.
Được xuất bản lần đầu năm 2009 và chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách năm 2014, Dị Chủng không những đã trả lại cho những sinh vật bóng đêm chất kinh dị, vốn bị biến tấu và lãng mạn hóa quá mức những năm gần đây, mà còn giúp khôi phục lại một tượng đài của loài ác quỷ khát máu nhất trong những cơn ác mộng của con người.
Không lãng mạn hóa hình tượng ma cà rồng mà thể hiện đúng bản chất của chúng, ‘Dị chủng’ đã khẳng định tên tuổi trong dòng truyện kinh dị nước ngoài.
Kể từ khi ‘cơn sốt’ Twilight bùng nổ, hình tượng ma cà rồng dường như đã bị lãng mạn hóa trở thành những anh hùng đầy bi trang vì tình yêu mà nguyện hi sinh. Cũng chính bởi vậy, hình ảnh ma cà rồng dần bị hạ thấp trong những tác phẩm truyện kinh dị nước ngoài nói riêng và dòng truyện kinh dị nói chung. Thế rồi ‘Dị chủng’ (tựa gốc: The Strain) của bộ đôi Guillermo del Toro và Chuck Hogan xuất hiện và đưa mọi thứ trở về đúng quỹ đạo của nó. Không còn hình ảnh đầy ‘soái ca’ của những chàng ma cà rồng, ‘Dị chủng’ đã khôi phục tượng đài ác quỷ bóng đêm khát máu – cơn ác mộng kinh hoàng đối với loài người.
‘Dị chủng’ được bộ đôi tác giả del Toro và Chuck sử dụng kết hợp nhiều yếu tố truyện: một chút truyền thuyết, một chút khoa học viễn tưởng, một chút kinh dị giật gân và một chút hình sự trinh thám. Bốn trong một – đó là điều đã tạo nên thành công trong việc tái hiện hoàn hảo hình ảnh ma cà rồng chân thực đến gai người là những con quái vật bước ra từ địa ngục.
Mọi chuyện bắt đầu từ chiếc máy bay Boeing 777, khi nó đột ngột tắt lịm ngay lúc vừa hạ cánh và hàng trăm hành khách xấu số bên trong đều chết một cách bí ẩn không lưu lại chút dấu vết. Ngay từ giây phút chiếc máy bay bung những bánh xe xuống cũng là lúc con quái vật kia chạm những móng vuốt xuống mặt đất. Mạch truyện gay cấn, hồi hộp ngay từ những câu từ đầu tiên. Đó vừa là câu chuyện về âm mưu thôn tính thế giới, thống trị loài người của loài sinh vật hiểm ác; vừa là cuộc chiến của những nhân vật chính trên con đường bảo vệ nhân loại. Với yếu tố khoa học viễn tưởng, loài ma cà rồng hiện lên như một dịch bệnh: chúng ủ bệnh, rồi thay đổi cơ thể người bệnh, cách chúng lây lan và bùng phát, hủy diệt ghê gớm đến bao nhiêu…
Cho dù được gọi là một tác phẩm truyện kinh dị, ‘Dị chủng’ không khiến người đọc sợ hãi theo cái cách mà những bộ truyện kinh dị hơi hướng máu me, ma quỷ khác. Đổi lại, ‘Dị chủng’ lại đem đến một cảm giác rờn rợn, từ từ len lỏi. Cái cách tác giả miêu tả ‘bệnh dịch’ dần phát tác rồi xâm chiếm vật chủ, sau đó là cái cách mà chúng lây lan, tuy rằng tuần tự và hầu như chẳng có chút ‘dọa dẫm’ nào những vẫn làm người theo dõi thấy giật mình lo sợ.
Về tuyến nhân vật, nổi bật hơn cả chính là cái tên Ephraim Goodweather – người trực tiếp chứng kiến mọi sự thay đổi của loài người trong ‘dịch bệnh’ và Giáo sư Abraham Satrakian – nhân chứng sống trong một trận càn quét của loài quái vật kia thời quá khứ. Nếu như Goodweather làm cho người ta dễ dàng hình dung ra xã hội hiện đại, thì Satrakian lại làm người đọc mê mẩn với những câu chuyện từ ngày xa xưa. Trên tất cả, việc tạo dựng Satrakian đầy chiều sâu với những dấu tích hiện hữu rõ ràng về cuộc tranh giành sự sống với cái kẻ được gọi là ‘Chúa tể hút máu’ chính là điểm nhấn khiến cho ‘Dị chủng’ càng thêm phần hấp dẫn và lôi cuốn.
Cùng sự đầu tư cho nhân vật Satrakian, tuyến nhân vật phụ cũng được sử dụng linh hoạt để tô điểm cho ‘đại nạn dịch bệnh’. Cái hay của bộ đôi tác giả chính là đi sâu phân tích tâm lí của từng nạn nhân – những người nhiễm phải virut – đó là nỗi mơ hồ khi chưa biết mình bị sao, là lo âu khi dần khám phá ra sự thật, là sợ hãi và giằng xé khi họ biết rằng chính mình sắp trở thành một thứ gì đó khác – thứ sẽ đe dọa đến cả gia đình và những người thân yêu.
Tuy nhiên, có lẽ chính bởi việc khai thác quá nhiều câu chuyện và tạo dựng nhân vật Goodweather và Satrakian quá sâu nên dường như tuyến nhân vật nữ bị lu mờ, chẳng có cơ hội phát triển. Kẻ phản diện cũng chưa thực sự có ‘đất diễn’ trong Dị chủng, nhưng có lẽ đây cũng là một phần chủ đích của bộ đôi tác giả này, khi đây mới chỉ là cuốn đầu tiên mở đầu cho triology về ma cà rồng. Điều này chắc chắn sẽ khiến khán giả đặt nhiều kỳ vọng và mong đợi vào những phần truyện sau.
Với chủ đề tận thế với sự trỗi dậy của virus chết người, tưởng chừng chỉ thuần kinh dị khô khan nhưng ‘Dị chủng’ vẫn đem đến một cái nhìn mới mẻ và đầy chiều sâu về cả tâm lý con người. Không hề quá khi nói rằng đây là một trong những truyện kinh dị nước ngoài lôi cuốn và đặc sắc nhất mà chắc chắn ngay cả khi gấp cuốn sách lại, bạn vẫn ‘thèm’ được mở chúng ra một lần nữa.
Chuyện xưa
Ngày xửa ngày xưa," bà của Abraham Setrakian nói, "có một người khổng lồ."
Đôi mắt cậu nhóc Abraham sáng lên, và món xúp củ cải đường trong chiếc bát gỗ lập tức trở nên ngon lành hon, hoặc ít ra cũng ít vị tỏi hơn. Nó là một cậu bé xanh xao, còi xương và ốm yếu. Bà của nó, với mong muốn vỗ béo đứa cháu, ngồi đối diện trong khi nó ăn xúp, mua vui cho nó bằng một câu chuyện.
Một bubbeh meiseh, "câu chuyện của bà". Một câu chuyên cổ tích. Một truyền thuyết.
"Anh là con trai của một nhà quý tộc người Ba Lan. Tên anh là Jusef Sardu. Cậu chủ Sardu cao hơn bất cứ người nào khác. Cao hơn bất cứ mái nhà nào trong làng. Anh phải cúi rạp người xuống mới có thể bước qua bất kỳ cánh cửa nào. Nhưng quá cao chính là một gánh nặng. Một căn bệnh bẩm sinh chứ không phải một phúc lành. Chàng trai ấy đã phải chịu khổ. Cơ bắp của anh không đủ khỏe để nâng đỡ những cái xương dài và nặng. Đôi lúc chỉ nguyên việc bước đi cũng đã khiến anh vô cùng chật vật. Anh dùng một cây gậy dài - dài hơn cả người cháu ấy! - có tay cầm bằng bạc khắc hình đầu sói, gia huy của dòng họ anh."
"Sao nữa hả bà?" Abraham nói, lúc tạm nghỉ giữa những thìa xúp đầy.
"Số anh là thế, và nhờ đó anh học được cách khiêm tốn,
 
một đức tính hiếm có đối với một nhà quý tộc. Anh rất giàu lòng trắc ẩn - đối với những người nghèo, những người cần cù, những người bệnh. Anh đặc biệt thân thiết với lũ trẻ trong làng, và những túi quần vừa to vừa sâu của anh - kích cỡ ngang ngửa những bao tải chứa củ cải - căng phồng kẹo và quà vặt. Anh gần như không có tuổi thơ, bởi khi lên tám anh đã cao bằng cha, và khi lên chín thì đã cao hơn ông ta một cái đầu. Sự yếu ớt và kích thước khổng lồ của anh là nỗi hổ thẹn thầm kín đối với người cha. Nhưng cậu Sardu thật ra là người khổng lồ hiền lành và rất được mọi người yêu mến. Người ta nói rằng cậu Sardu tuy cao hơn hết thảy mọi người, nhung lại không hề đặt mình cao hơn người khác."
Bà gật đầu ra dấu nhắc cậu bé xúc thìa tiếp theo. Nó nhai miếng củ cải đường luộc, thứ thường được gọi là "tim em bé" bởi màu sắc, hình dạng và bộ rễ trông như mao mạch của nó. "Sao nữa hả bà?"
"Anh còn là người yêu thiên nhiên và chẳng hứng thú gì với trò săn bắn tàn bạo; nhưng, bởi anh là một nhà quý tộc, một người đàn ông thuộc tầng lớp cao, nên khi anh mười lăm tuổi, cha và các ông chú đã bắt anh phải đi cùng trong chuyến thám hiểm sáu tuần ở Romania."
"Tới đây hả bà?" Abraham hỏi. "Người khổng lồ đó, anh ta đã tới đây sao?"
"Tới vùng đất Bắc, kaddishel ạ. Nhũng khu rừng tối. Đàn ông nhà Sardu không săn lợn rừng, gấu hay nai. Họ săn chó sói, biểu tượng của dòng họ, gia huy của dòng tộc Sardu. Họ săn một loài thú săn mồi. Truyền thuyết nhà Sardu kể rằng nhờ ăn thịt chó sói, đàn ông nhà Sardu sẽ trở nên can đảm và mạnh mẽ, và cha anh tin rằng việc này có thể chũa trị những cơ bắp yếu ớt của con trai mình."
"Sao nữa hả bà?"
"Cuộc hành trình của họ kéo dài, gian khổ, bị thời tiết cản trở khốc liệt, và Jusef đã phải cố gắng hết sức. Trước kia, anh chưa từng rời khỏi ngôi làng của mình, và ánh nhìn của những kẻ xa lạ trên đường khiến anh tủi hổ. Khi họ đặt chân tới khu rừng tối, cả cánh rừng dường như sống dậy quanh anh. Những đàn thú lang thang giữa rừng trong đêm, giống như trốn chạy khỏi nơi ẩn náu, hang hay tổ của chúng. Nhiều thú đến độ những tay thợ săn chẳng thể chợp mắt trong trại của họ. Một số muốn rời trại, nhung nỗi ám ảnh của ông Sardu quan trọng hơn hết thảy. Họ có thể nghe thấy tiếng sói tru trong đêm, và ông Sardu rất muốn kiếm một con cho đứa con trai của mình, đứa con duy nhất, đứa con mà vóc dáng khổng lồ của nó chính là một căn bệnh trong gia tộc Sardu. Ông muốn giải trừ lời nguyền này khỏi dòng họ Sardu, gả vợ cho con trai, rồi có được nhũng người thừa kế khỏe mạnh.
"Và bởi vậy nên, chính người cha ấy, vì lần theo vết một con sói, đã trở thành người đầu tiên tách khỏi đoàn, ngay trước chập tối ngày thứ hai. Những người còn lại đợi ông cả đêm và tản ra tìm ông sau bình minh. Tối hôm đó, một trong những người anh họ của Jusef cũng không trở về. Và cứ thế, cứ thế."
"Tiếp theo thế nào hả bà?"
"Cho tới khi chỉ còn lại Jusef, người khổng lồ trẻ tuổi. Ngày hôm sau, anh lên đường, và trong một khu vực đã từng được tìm kiếm trước đó, Jusef thấy thi thể cha cùng các chú và anh em họ của mình, nằm trước lối vào của một hang động dưới lòng đất. Sọ của bọn họ bị nghiền nát bởi một lực lớn, nhưng họ không bị ăn thịt, họ bị giết bởi một con quái thú với sức mạnh khủng khiếp, nhưng không phải để ăn hay để tự vệ. Chẳng hiểu sao, anh cứ cảm thấy mình đang bị theo dõi, thậm chí có lẽ bị nghiên cứu, bởi thứ sinh vật nào đó đang ẩn nấp trong cái hang tối này.
"Cậu Sardu lần lượt mang các xác chết ra khỏi hang để chôn cất. Tất nhiên, nỗ lực ấy đã làm suy yếu và tước đi gần như toàn bộ sức lực của anh. Anh mệt lử, kiệt sức. Tuy nhiên, mặc dù đơn độc, hoảng sợ và mệt lả, đêm đó anh vẫn trở lại cái hang, để đối mặt với ác thú đang ẩn náu trong bóng tối, để báo thù cho gia đình hoặc chết trong lúc nỗ lực báo thù. Điều này được viết trong cuốn nhật ký của anh, được tìm thấy trong rừng nhiều năm sau đó. Nó là những lời cuối cùng của anh."
Abraham há hốc miệng. "Nhưng chuyện gì đã xảy ra hả bà?" "Chẳng ai thật sự biết cả. Trong khi đó, tại quê hương họ, khi sáu tuần, tám tuần, rồi mười tuần trôi qua mà vẫn không có bất cứ tin tức nào, người ta sợ rằng toàn bộ đội săn đã mất tích. Một nhóm tìm kiếm được lập ra nhưng không có kết quả gì. Thế rồi, vào tuần thứ mười một, một đêm nọ, một cỗ xe ngựa che kín rèm xuất hiện trước lãnh địa nhà Sardu. Đó chính là cậu chủ trẻ. Anh giam mình trong lâu đài, trong dãy phòng ngủ trống, và hiếm khi, hoặc gần như không bao giờ, có ai trông thấy anh nữa. Hồi đó, theo chân anh quay trở lại chỉ có các tin đồn, về những gì đã xảy ra tại khu rừng Romania ấy. Vài kẻ tự nhận đã bắt gặp Sardu - nếu có thể tin bất cứ ai trong số đó - khẳng định anh đã được chữa khỏi căn bệnh yếu đuối. Vài người thậm chí còn thì thào rằng anh trở về mang theo sức mạnh phi thường, xứng với kích thước siêu nhân của mình. Tuy nhiên nỗi đau thương của Sardu trước cái chết của cha, chú và những người anh em họ sâu nặng đến nỗi không ai bắt gặp anh vào ban ngày, và anh đã đuổi việc gần hết người hầu. Lâu đài vẫn có hoạt động vào buổi tối - có thể thấy ánh lửa lò sưỏi sáng rực qua các ô cửa sổ - nhưng qua ư gian, lâu đài nhà Sardu dần trở nên xập xệ.
"Nhưng ban đêm... có người khẳng định đã nghe tiếng người khổng lồ đi loanh quanh trong làng. Đặc biệt, bọn trẻ kháo nhau chúng vẫn nghe thấy âm thanh cộc-cộc-cộc phát ra từ cây gậy chống của anh, cây gậy Sardu không còn dùng để tựa vào nữa mà đã biến thành công cụ cho anh dụ lũ trẻ ra khỏi giường ngủ để nhận quà vặt. Người nào không tin sẽ được dẫn đến chỗ những cái lỗ trên mặt đất, một số ở ngay ngoài cửa sổ phòng ngủ, những dấu chọc nhỏ như thể được tạo ra từ cây gậy có tay cầm tạc đầu sói của anh."
Đôi mắt bà tối sầm lại. Bà liếc cái bát của thằng bé và nhận thấy xúp đã vơi gần hết.
"Sau đó, Abraham à, một số đứa trẻ nông dân bắt đầu mất tích. Những lời đồn về nhiều vụ mất tích trẻ con tương tự ở các làng lân cận cũng bắt đầu lan ra. Thậm chí cả ở làng của bà. Đúng vậy, Abraham à, bà của cháu đã lớn lên ở nơi chỉ cách lâu đài Sardu nửa ngày đi bộ. Bà nhớ có hai chị em. Xác họ được tìm thấy tại một khoảng rừng thưa, trắng bệch như màu tuyết quanh người họ, đôi mắt mở to mờ đục vì sương giá. Một đêm, chính bà cũng nghe thấy tiếng cộc-cộc-cộc rất gần - âm thanh mạnh mẽ, nhịp nhàng - khiến bà phải vội trùm kín chăn lên đầu để khỏi nghe thấy nó, và tận mấy ngày sau vẫn không ngủ lại được."
Abraham nuốt chửng hồi kết của câu chuyện cùng với phần xúp còn lại.
"Dần dần phần lớn khu làng của Sardu bị bỏ hoang và trở thành một nơi bị nguyền rủa. Khi đoàn tàu của người Digan đi qua làng của bà, họ kể về những chuyện bí ẩn đã xảy ra, về những ma hồn quỷ ám gần lâu đài. về một người khổng lồ đi vơ vẩn dưới ánh trăng như một vị thần của đêm. Chính họ đã răn dạy bọn bà, 'Liệu mà mau ăn chóng lớn, bằng không Sardu sẽ bắt ngươi đi đấy.' Bởi vậy nó mới quan trọng như vậy, Abraham à. Ess gezunterhait! Ăn cho khỏe. Giờ thì vét sạch cái bát đi. Bằng không, Sardu sẽ đến đấy." Bà đã quay trở về hiện thực sau một hồi ảm đạm, suy tưởng vừa rồi. Đôi mắt bà lại tràn trề sức sống. "Sardu sẽ tới đấy. Cộc-cộc-cộc."
Cuối cùng thằng bé cũng xong xuôi, vét sạch từng cọng rễ củ cải đường cuối cùng. Chiếc bát sạch tron và câu chuyện đã kết thúc, nhưng dạ dày và tâm trí nó thì đầy ụ. Bà hài lòng khi thấy nó ăn như thế và nhìn nó với vẻ yêu thương lộ rõ trên nét mặt. Trong những khoảnh khắc riêng tư ấy bên chiếc bàn ăn gia đình xập xệ, họ vừa trò chuyện, hai bà cháu với nhau, vừa chia sẻ những món ăn tinh thần.
Một thập kỷ sau, gia đình Setrakian phải rời bỏ xưỏng mộc và ngôi làng của họ, tuy nhiên không phải tại Sardu. Một sĩ quan người Đức trú tại nhà họ, và anh ta, cảm động bởi tấm lòng nhân ái của những người chủ nhà, bởi đã cùng san sẻ bữa ăn trên chính chiếc bàn xập xệ ấy, một tối kia đã cảnh báo họ đừng tập trung tại ga tàu vào ngày hôm sau theo lệnh, mà phải rời khỏi nhà khỏi làng ngay trong đêm ấy.
Họ đã nghe theo, toàn thể gia đình mấy thế hệ - tám người cả thảy - di chuyển tới một vùng quê, mang theo tất cả những gì có thể. Người bà làm họ đi chậm lại. Tệ hơn - bà biết điều đó, biết rằng bà làm chậm hành trình của mọi người, rằng sự hiện diện của bà đặt cả gia đình vào thế nguy hiểm, và thầm nguyền rủa bản thân cùng đôi chân già nua, mệt mỏi của mình. Cuối cùng, mọi thành viên còn lại trong gia đình đều đi trước, tất cả trừ Abraham - giờ đã trở thành một chàng trai khỏe mạnh đầy triển vọng, một thợ chạm khắc tài ba ở độ tuổi còn rất trẻ, một học giả về đạo Do Thái, có mối quan tâm đặc biệt đối với Zohar[1] và những bí ẩn về chủ nghĩa thần bí Do Thái - anh đã ở lại, bên bà. Khi nghe tin những người khác đã bị bắt tại thị trấn kế bên và phải lên tàu tới Ba Lan, bà của anh, trĩu nặng mặc cảm tội lỗi, nhất quyết rằng vì Abraham, bà sẽ tự nộp mình.
"Chạy đi, Abraham. Hãy chạy khỏi Đức Quốc Xã. Chạy khỏi Sardu. Hãy trốn đi.”
Nhưng anh không nghe. Anh không chịu rời xa bà.
Đến sáng, anh thấy bà nằm trên sàn căn phòng hai bà cháu ở chung - trong nhà một nông dân tốt bụng; bà đã ngã xuống trong đêm, môi thâm đen nứt nẻ, phần da nơi cổ họng cũng hóa đen, chết vì ăn bả thú. Với sự cho phép nhân từ của gia đình chủ nhà, Abraham Setrakian chôn cất bà dưới gốc cây bạch dương rộ hoa. Anh kiên nhẫn khắc cho bà một tấm bia bằng gỗ thật đẹp, với đầy hoa và chim cùng tất cả những thứ khiến bà cảm thấy hạnh phúc nhất. Và anh khóc nức nở - rồi sau đó anh chạy.
Anh guồng chân chạy trốn quân phát xít Dức, tiếng cộc- cộc-cộc không ngừng vang lên sau lưng...
Và ác quỷ bám theo sát nút.
Chú thích
[1] Tài liệu về thuyết thần bí Do Thái cổ đại.
Khởi Đầu
Buồng lái N323RG
Trích đoạn, báo cáo từ NTSB[I], chuyến bay 753, từ Berlin (TXL) đến New York (JFK), 24/9/10:
2049:31 [Hệ thống phát thanh BẬT]
Cơ trưởng Peter J. Moldes: "Chào quý khách, tôi là cơ trưởng Moldes tại buồng lái. Chúng ta sẽ hạ cánh trong vài phút nữa theo đúng lịch trình. Thay mặt cơ phó Nash và phi hành đoàn, tôi xin được cảm ơn quý khách vì đã chọn hãng hàng không Regis, rất mong lại được sớm bay cùng quý khách..."
2049:44 [Hệ thống phát thanh TẮT]
Cơ trưởng Peter J. Moldes: "... có thế chúng ta mới giữ việc được chứ." [tiếng cười trong buồng lái]
2050:01 Trạm kiểm soát không lưu New York (JFK): "Regis 7-5-3 hạng nặng, sang trái, hướng 1-0-0.13R trống, có thể hạ cánh."
Cơ trưởng Peter J. Moldes: "Regis 7-5-3 hạng nặng, rẽ trái, 1-0-0, hạ cánh trên đường băng 13R, đã rõ." 2050:15 [Hệ thống phát thanh BẬT]
Cơ trưởng Peter J. Moldes: "Đội tiếp viên, chuẩn bị hạ cánh."
2050:18 [Hệ thống phát thanh TAT]
Cơ phó Ronal w. Nash: "Càng hạ cánh sẵn sàng."
Cơ trưởng Peter J. Moldes: "Về nhà lúc nào cũng tuyệt...' 2050:41 [Tiếng va đập mạnh. Tạp âm. Âm thanh chói tai.] LIÊN LẠC CẮT
Chú thích
[I] National Transportation Safety Board: ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia Mỹ.
Hạ Cánh
Tháp không lưu quốc tế jfk
Đĩa ra đa, người ta gọi vậy. Rực một màu xanh đon sắc (hon hai năm nay, JFK vẫn đang chờ để được thay màn hình màu mới), như bát xúp đậu đính thêm mớ chữ cái đằng sau những đốm sáng mã hóa. Mỗi đốm sáng tưọng trưng cho hàng trăm sinh mệnh, hay linh hồn, theo cách gọi của ngôn ngữ hàng hải cổ mà ngày nay ngành hàng không vẫn dùng.
Hàng trăm linh hồn.
Có thể đó là lý do mọi nhân viên kiểm soát không lưu đều gọi Jimmy Mendes là "Giám mục Jimmy". Giám mục là nhân viên kiểm soát không lưu duy nhất đã đứng nhiều hơn ngồi suốt cả ca làm tám tiếng, cầm cây bút chì HB đi tới đi lui, đàm thoại với các máy bay thương mại tới New York từ đài không lưu cao 97,84 mét so với Sân bay Quốc tế John F. Kennedy, giống như một chàng chăn cừu đang chăm sóc đàn cừu của mình. Anh dùng đầu tẩy màu đỏ để hình dung cái máy bay đang nằm dưới sự điều khiển của mình và mường tượng ra khoảng cách tương đối giữa hai máy bay, chứ không hoàn toàn dựa vào màn hình ra đa hai chiều.
Trên đó hàng trăm linh hồn đang bíp bíp, từng giây một.
"United 6-4-2, rẽ phải hướng 1-0-0, lên độ cao một nghìn rưỡi." Nhưng ta chẳng thể nghĩ như vậy khi ta ở trên đĩa ra đa. Ta chẳng thể chăm chăm nhìn mọi linh hồn đã đặt số phận của mình vào mệnh lệnh của ta: những con người bị nhét bên trong những cỗ máy có cánh lao vùn vụt trên không cách mặt đất hàng nghìn mét. Ta chẳng thể nào bao quát hết được: mọi máy bay nằm trên đĩa của ta, và mọi kiểm soát viên đang rì rầm các cuộc đàm thoại mã hóa qua tai nghe xung quanh ta, và mọi máy bay trên các đĩa ra đa của họ, và tháp không lưu của sân bay LaGuardia lân cận... và mọi tháp không lưu ở mọi sân bay trên mọi thành phố Mỹ... và trên toàn thế giới...
Calvin Buss, giám đốc khu vực không lưu và là sếp trực tiếp của Giám mục Jimmy, xuất hiện ngay sau lưng anh. Ông quay trở lại sớm sau giờ nghỉ giải lao, thật ra miệng vẫn đang nhai thức ăn, "Tình hình Regis 7-5-3 thế nào rồi?"
"Regis 7-5-3 đã hạ cánh." Giám mục Jimmy liếc mắt qua đĩa ra đa để xác nhận. "Đang tiến đến cổng." Anh kiểm tra bảng phân cổng, dò tìm chiếc 7-5-3. "Sao vậy?"
"Ra đa giám sát mặt đất cho thấy ta có một máy bay đang đứng bất động ở Foxtrot."
"Ở đường lăn sao?" Jimmy kiểm tra lại đĩa ra đa lần nữa để chắc chắn các bộ thu phát đều hoạt động bình thường, rồi mở lại kênh DL753. "Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, hết."
Không động tĩnh. Anh thử lại.
"Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, hãy trả lời, hết." Anh chờ đợi. Không động tĩnh, thậm chí chẳng một tiếng lạo xạo từ radio.
"Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, nghe rõ trả lời, hết." Một trợ lý lưu thông xuất hiện ngay phía sau Calvin Buss.
"Hay hệ thống liên lạc trục trặc?" anh ta gọi ý.
"Lỗi cơ khí hiển nhiên thì đúng hon." Calvin Buss đáp. Nghe nói cái máy bay đó tối om."
"Tối om?" Giám mục Jimmy thốt lên, kinh ngạc trước một vụ thoát hiểm trong gang tấc, cái máy bay dính lỗi cơ khí hiển nhiên chỉ vài phút sau khi hạ cánh. Anh tự nhủ là trên đường về nhà sẽ dừng lại đánh con số 753 cho ngày mai.
Calvin cắm tai nghe của mình vào cổng âm thanh trên thiết bị liên lạc của Jimmy. "Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu JFK, xin trả lời. Regis 7-5-3, đây là tháp không lưu, hết."
Chờ đợi, lắng nghe.
Không động tĩnh.
Giám mục Jimmy theo dõi các đốm sáng còn chưa được xử lý trên đĩa ra đa - không có cảnh báo va chạm, toàn bộ máy bay của anh đều ổn. "Tốt hơn hết chúng ta nên cảnh báo tránh đường lăn Foxtrot," anh nói.
Calvin rút dây tai nghe và lùi lại. Anh mắt ông xa xăm, nhìn qua bàn điều khiển của Jimmy hướng ra bên ngoài cửa sổ ca bin tòa tháp, về phía đường lăn. Trông ông đầy bối rối lẫn lo lắng. "Chúng ta cần dọn quang Foxtrot." Ông quay sang người trợ lý lưu thông. "Cử ai đó kiểm tra đi."
Giám mục Jimmy bấu tay vào bụng, chỉ mong sao có thể thò tay vào trong xoa dịu cảm giác nhộn nhạo đang cuộn lên. Nghề của anh, về cơ bản, chính là công việc đỡ đẻ. Anh hỗ trợ các phi công đưa những cái máy bay chở đầy linh hồn an toàn rời khỏi dạ con không trung để đến với mặt đất. Giờ anh thấy nhói lên cảm giác sợ hãi, như một bác sĩ trẻ lần đầu đỡ đẻ một đứa bé chết non.
Thềm đế máy bay nhà ga số 3
LORENZA RUIZ đang trên dường lái một xe băng tải hành lý, về cơ bản là một hệ thống thủy lực được lắp đặt trên các bánh xe, tới cổng ra máy bay. Không thấy chiếc 753 xuất hiện ở góc đường như dự kiến, Lo bèn lái xe băng tải ra xa hơn để ngó nghiêng xem sao, dù gì thì cũng sắp tới giờ nghỉ của cô. Cô đeo tai nghe chống ồn, mặc áo trùm đầu Mets bên trong áo gi lê phản quang, đeo kính bảo hộ - cái thứ bụi đường băng đó quả là đồ chết tiệt - cùng một cây dùi cui điều khiển giao thông màu cam đặt cạnh hông cô, trên ghế ngồi.
Cái quái gì vậy?
Cô tháo kính ra như thể phải nhìn bằng mắt thường mới được. Nó đây rồi, một chiếc Regis 777, một bé bự, một trong những thành viên mới của đoàn phi cơ, đang nằm im lìm trên đường lăn Foxtrot trong bóng tối. Bóng tối tuyệt đối, thậm chí đến cả đèn tín hiệu ở đầu cánh. Tất cả những gì cô nhìn thấy là bề mặt hình ống nhẵn nhụi của thân máy bay cùng đôi cánh lờ mờ sáng dưới ánh đèn hiệu hạ cánh của những máy bay đang tới gần. Một trong số chúng, chiếc Lufthansa 1567, vừa kịp dừng lại khi càng hạ cánh chỉ cách mặt đất ba chục phân.
"Lạy Chúa!"
Cô gọi về báo cáo.
"Chúng tôi đang trên đường tới rồi," sếp cô nói. "Phía đài quan sát muốn cô lái xe băng tải ra đó kiểm tra."
"Tôi ư?" Lo nói.
Cô cau mày. Cái giá cho sự tò mò đấy. Vậy là cô lái xe dọc theo làn đường phục vụ, rời xa khỏi nhà ga hành khách, băng qua những đường lăn được son trên thềm đế máy bay. Cô hơi lo lắng, và rất thận trọng, vì chưa từng ra xa đến thế, FAA[I] có các quy tắc nghiêm ngặt về phạm vi hoạt động của các xe moóc chở hành lý và xe băng tải.
Cô băng qua những chiếc đèn hiệu xanh bên rìa đường lăn. Cái máy bay có vẻ như đã bị tắt máy hoàn toàn, từ đầu đến đuôi. Không ánh đèn pha, không ánh đèn hiệu, không một ánh đèn bên trong cửa sổ buồng lái. Thông thường, thậm chí từ dưới mặt đất cách tầm chín mét, qua phần kính chắn gió nhỏ xíu như hai con mắt nghiêng nghiêng trên phần mũi rất đặc trưng của chiếc Boeing, ta vẫn có thể nhìn xuyên vào bên trong buồng lái, thấy bảng điều.khiển phía trên cùng các đèn báo phát ánh sáng đỏ như trong buồng tối. Nhưng lúc này đây không có bất cứ ánh đèn nào.
Lo đứng lặng cách đầu cánh trái máy bay tầm chục mét. Khi đã làm việc trên thềm đế máy bay đủ lâu - tính đến giờ Lo đã trong nghề tám năm, lâu hơn cả hai cuộc hôn nhân của cô gộp lại - ta sẽ học được chút này chút kia. Các cánh tà sau và cánh liệng, các cánh tà lưng nằm trên phần phía sau lưng cánh, tất cả đều dựng thẳng đứng như Paula Abdul[II] - các phi công luôn đặt chúng như vậy sau khi hạ cánh xuống đường băng. Các động cơ phản lực im lìm; thường thì sau khi tắt, chúng vẫn phải mất một lúc mới có thể ngừng ngấu nghiến không khí và nuốt sạch đám bụi bẩn cùng lũ côn trùng như một cỗ máy hút chân không háu đói. Vậy là bé bự này không những đã đến đây gọn gàng rồi đáp xuống ngon lành mà còn lăn bánh được xa chừng này, trước khi... tắt phụp.
Đáng lo ngại hon, nếu nó đã hạ cánh an toàn, vậy thì cho dù biến cố có là gì đi nữa thì nó cũng chỉ có thể xảy ra trong khoảng hai ba phút. Biến cố gì mà lại có thể nhanh đến thế?
Lo tiến lại gần hơn chút nữa, lái tới khu vực dưới cánh. Nếu những động cơ phản lực kia bất thình lình khỏi động lại, cô chẳng muốn bị hút vào trong và tan xác như bọn ngỗng tròi Canada chút nào. Cô lái đến gần khoang hành lý, khu vực cô quen thuộc nhất trên máy bay, tiến về phía đuôi rồi dừng lại bên dưới cửa thoát hiểm sau. Cô khóa phanh và chỉnh cần để nâng băng tải lên độ cao tối đa, nghiêng một góc tầm ba mươi độ. Chưa đủ, nhưng cũng ổn. Cô bước ra, với tay về phía sau lấy chiếc dùi cui và bước ngược lên băng tải tiến về phía cái máy bay chết đó.
Chết ư? Sao cô lại nghĩ thế nhỉ? Thứ này chưa từng sống...
Nhưng trong một thoáng, Lorenza tưởng tượng ra một cái xác khổng lồ, đang mục rữa, một con cá voi mắc cạn. Trong mắt cồ, cái máy bay giống như thế đó: một cái xác đang thối rữa, một con thủy quái đang hấp hối.
Gió lặng đi khi cô lên gần tới đầu băng tải, và có một điều cần biết về thời tiết tại thềm đế máy bay của JFK: gió không bao giờ lặng. Tuyệt đối không bao giờ. Thềm đế máy bay luôn luôn lộng gió, vừa có các máy bay bay vào lại vừa có vùng đầm lầy ngập mặn và Đại Tây Dương chết tiệt nằm ngay phía bên kia bán đảo Rockaway. Nhưng đột ngột, nó trở nên hoàn toàn yên ắng - yên ắng đến nỗi Lo phải gỡ cái tai nghe có lóp đệm dày cộm ra cho chắc chắn. Cô tưởng như nghe thấy tiếng thình thịch vọng ra từ bên trong máy bay, nhung rồi nhận ra đó chính là tiếng tim mình đập. Cô bật đèn pin lên, chĩa về phía sườn phải máy bay.
Theo hướng ánh đèn tròn, cô có thể nhìn ra thân máy bay vẫn còn tron mượt và bóng loáng do vừa hạ cánh, có mùi như mưa xuân. Cô chiếu đèn vào hàng dài những ô cửa sổ. Mọi tấm màn che cửa sổ đều được hạ xuống.
Lạ thật đấy. Giờ cô thấy rợn người. Rọn người thực sự. Chẳng khác gì một người lùn khi đối diện với cỗ máy biết bay khổng lồ nặng 383 tấn đáng giá 250 triệu đô la, cô đột nhiên có một cảm giác dù thoáng qua nhung rõ rệt và ớn lạnh rằng cô đang đứng trước một con dã thú mang hình dáng của loài rồng. Một con quái vật đang ngủ nhưng thật ra chỉ vờ như đang ngủ, có thể mở mắt và há cái miệng khủng khiếp của mình ra bất cứ lúc nào. Một khoảnh khắc tê liệt, một con ớn lạnh chạy dọc sống lưng khiến cô bị kích động cực điểm, toàn thân như đông cứng.
Rồi cô nhận ra lúc này một tấm màn che đã được kéo lên. Những sọi tóc tơ ngứa ran lên sau gáy, cô bèn đưa tay lên xoa dịu chúng, như đang dỗ dành một con thú cưng đang bồn chồn hốt hoảng. Khi nãy cô đã không để ý đến khung cửa đó. Nó vốn được kéo lên từ trước rồi - vốn từ trước đã thế rồi.
Chắc vậy...
Bên trong máy bay, bóng tối xao động. Và Lo cảm thấy như có thứ gì đó đang quan sát cô từ bên trong.
Cô rên lên, hệt như một đứa con nít, nhưng cô chẳng thể kiềm chê được. Toàn thân cô tê liệt. Máu cô chạy rần rật, cuộn trào lên như bị ai đó điều khiển, thít chặt cổ họng cô...
Và cô chợt hiểu ra, một cách chắc chắn: thứ gì đó ở bên trong kia sẽ ăn thịt cô...
Gió lớn lại nổi lên, như thể chưa từng ngừng lại, và Lo không cần đợi thêm bất kỳ sự thúc giục nào nữa. Cô thoái lui về phía đầu kia băng tải, nhảy vọt vào trong buồng lái và cho nó chạy lùi, trong khi chuông báo vẫn kêu bíp bíp và băng tải vẫn đang được nâng lên cao. Một chiếc đèn xanh trên đường lăn bị nghiến lạo xạo dưới bánh xe khi cô tăng tốc, lấn cả lên bãi cỏ, hướng về phía những ánh đèn đang tiến lại gần của nửa tá xe cứu hộ.
Tháp không lưu quốc tế JFK
CALVIN BUSS đã đổi sang một bộ điện đàm khác và giờ đang ra các mệnh lệnh theo cuốn sách hướng dẫn của FAA về các vụ xâm nhập đường lăn. Mọi chuyến bay đến và đi trong không phận bán kính tám ki lô mét quanh JFK đều phải tạm hoãn. Việc này khiến cho tổng số máy bay lưọn vòng chờ hạ cánh tăng lên đáng kể. Calvin hủy giờ nghỉ và yêu cầu mọi nhân viên kiểm soát không lưu đang trong ca trực đều phải cố gắng bắt liên lạc với chuyến 753 trên mọi tần số hiện có. Tháp không lưu JFK gần như roi vào một tình trạng hỗn loạn mà Giám mục Jimmy chưa từng thấy bao giờ.
Người bên Quản lý Cảng - những gã mặc vest làu bàu vào bộ đàm Nextel - túm lại sau lung anh. Chẳng bao giờ là một dấu hiệu tốt. Thật nực cười vì con người ta cứ tự nhiên tụ lại vọi nhau mỗi khi phải đối mặt với những vấn đề không thể giải thích.
Giám mục Jimmy thử gọi một lần nữa, nhưng không ích lọi gì-
Một gã mặc vest hỏi anh, "Có tín hiệu không tặc không?" "Không," Giám mục Jimmy nói. "Không có gì cả." "Không có báo động cháy?" "Dĩ nhiên là không."
"Không có báo động từ cửa buồng lái?" một gã khác lên tiếng.
Giám mục Jimmy nhận thấy họ đã vào đến giai đoạn "những câu hỏi ngu ngốc" trong quy trình điều tra. Anh bèn huy động sự kiên nhẫn và óc suy xét, những thứ đã giúp anh trở thành một nhân viên kiểm soát không lưu giỏi. "Nó tiến vào một cách êm thấm và hạ cánh ngon lành. Regis 7-5-3 xác nhận lệnh chỉ định cổng và rẽ khỏi đường băng. Tôi bèn tắt ra đa và chuyển nó sang ASDEƠ)."
Phủ một tay trên micro tai nghe cá nhân, Calvin nói, "Có thể phi công buộc phải tắt máy?"
"Có thể," Giám mục Jimmy nói. "Hoặc cũng có thể nó đã tự tắt."
Một tên lên tiếng, "Vậy tại sao họ không mở cửa?"
Giám mục Jimmy cũng đang đau đầu về vấn đề này. Hành khách, theo lệ thường, chắc chắn sẽ không ngồi yên quá một phút so với yêu cầu. Tuần trước, một chiếc jetBlue từ Florida suýt chút nữa đã phải chịu một cuộc nổi loạn, và chuyện chỉ vì vài chiếc bánh mì thiu. Còn ở đây, những người này vẫn ngồi yên trong, bao lâu nhỉ... có lẽ mười lăm phút. Hoàn toàn trong bóng tối.
Giám mục Jimmy nói, "Bên trong đó hẳn đã bắt đầu nóng lên. Nếu điện bị ngắt, hệ thống tuần hoàn gió bên trong sẽ không hoạt động. Không có thông gió."
"Vậy họ đang chờ cái quái gì vậy?" một gã khác hỏi.
Giám mục Jimmy nhận thấy mọi người đều càng lúc càng bất an. Cái cảm giác sôi ruột khi ta nhận thấy chuyện gì đó sắp xảy ra, chuyện gì đó rất, rất không ổn.
"Lỡ như họ không thể di chuyển?" anh lẩm bẩm trước khi kịp ngăn mình lại.
"Một vụ bắt giữ con tin hả? Có phải ý anh là thế không?" một gã hỏi.
Giám mục gật đầu lặng lẽ... nhung anh không nghĩ vậy. Không rõ vì sao, điều duy nhất anh có thể nghĩ tói... những linh hồn.
1. Airport Surface Detection Equipment (Thiết bị bảo vệ bề mặt sân bay) cung cấp cho người quản lý các hiển thị theo màu sắc trên bản đồ để làm nồi bật vj trí cùa máy bay và các phương tiện giao thông trên đường băng cũng như đường lăn, cho phép nhân viên kiểm soát không lưu đàm bào an toàn, tránh xảy ra va chạm máy bay trên mặt đất.
Đường lãn Foxtrot
ĐỘI CỨU HỎA - cứu hộ máy bay của Cơ quan Quản lý Cảng xuất hiện theo đội hình cơ bản giải cứu máy bay dân dụng, sáu xe bao gồm xe phim bọt chữa cháy, xe bơm và xe thang. Họ dừng lại bên xe băng tải hành lý mắc kẹt trước hàng đèn xanh bên rìa Foxtrot. Đội trưởng Sean Navarro trong trang phục cứu hỏa đội mũ bảo hiểm nhảy khỏi bậc để chân phía đằng sau xe thang, đứng trước cái máy bay chết. Ánh đèn xe cứu hộ nhấp nháy rọi vào thân máy bay, như thể nhuộm lên nó đường nhịp mạch màu đỏ. Trông nó như một cái máy bay không người được chuẩn bị cho một cuộc diễn tập vào ban đêm.

Đội trưởng Navarro bước về phía đầu xe và trèo vào ca bin cùng tài xế, Benny Chufer. "Gọi đội bảo trì dẹp hết đám đèn sân khấu này đi. Rồi đỗ xe ở đằng sau cánh."
Benny nói, "Nhưng chúng ta được lệnh phải chờ mà."
Đội trưỏng Navarro nói, "Đó là một cái máy bay chở đầy hành khách. Chứng ta không được trả lương để làm cảnh. Chúng ta được trả lương để cứu người."
Benny nhún vai, làm theo lời đội trưởng. Đội trưởng Navarro ra khỏi ca bin, trèo lên nóc xe, và Benny nâng thang lên cao, vừa đủ cho ông leo lên trên cánh máy bay. Đội trưởng Navarro bật đèn pin và bước lên mép sau giữa hai cánh tà đang dựng đứng, giày của ông giẫm đúng vị trí in một dòng chữ đen đậm KHÔNG BƯỚC LÊN ĐÂY.
Ông đi men theo sải cánh rộng, ở trên cao cách đường lăn chừng sáu mét. Ông tiến tới cửa thoát hiểm cánh, cửa duy nhất trên máy bay được lắp đặt chốt mở khẩn cấp từ bên ngoài. Có một ô kính nhỏ không bị che trên cánh cửa, và ông ngó vào, cố gắng nhìn xuyên qua những giọt nước ngưng tụ bên trong hai lóp kính dày, nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài bóng tối đen kịt. Trong đó hẳn phải kín như một cái lồng phổi sắt.
Tại sao họ không tri hô cầu cứu? Tại sao ông không nghe thấy bất cứ động tĩnh nào bên trong? Nếu vẫn còn được điều áp, máy bay hẳn kín khí. Những hành khách đó đang cạn dần ô xy.
Với đôi tay đeo găng chống cháy, ông ấn vào hai cái nắp lật màu đỏ và kéo tay nắm cửa ra khỏi hốc chứa. Ông xoay tay nắm cửa theo hướng mũi tên, gần 180 độ, rồi giật mạnh. Cánh cửa đáng lẽ phải bật ra, nhung nó không mở. Ông lại kéo lần nữa, nhưng ngay lập tức hiểu rằng mình chỉ đang cố gắng vô ích - chẳng có bất kỳ tác dụng nào. Không thể có chuyện cửa bị kẹt từ bên trong. Tay nắm chắc hẳn đã bị kẹt. Hoặc thứ gì đó đang giữ chặt nó từ bên trong.
Ông quay ngược trở lại, tới chỗ đỉnh thang. Ông thấy một cái đèn hiệu màu cam đang xoay tít, một xe trung chuyển đang trên đường chạy ra khỏi nhà ga quốc tế. Khi chiếc xe tiến lại gần hon, ông thấy nó được lái bởi các nhân viên áo vest xanh của Cơ quan An ninh Vận tải.
"Đây rồi," đội trưởng Navarro lẩm bẩm, bắt đầu leo xuống thang.
Có năm nhân viên, mỗi người lần lượt tự giới thiệu, nhưng đội trưởng Navarro chẳng thèm phí công cố gắng nhớ tên của họ làm gì. Ông đã phải mang theo dụng cụ cứu hỏa và thiết bị phun bọt ra máy bay; họ thì mang máy tính và điện thoại di động. Mất một lúc, ông chỉ đứng nghe trong lúc họ nói vào điện thoại và thảo luận với nhau.
"Chúng ta phải cân nhắc thật cẩn thận kỹ càng trước khi nhấn cái nút An ninh Nội địa này. Chẳng ai muốn làm rộn hết cả lên trong khi chẳng có chuyện gì hết."
"Ta thậm chí còn không biết đang có chuyện gì. Anh mà báo động rồi lôi cả binh đoàn từ Căn cứ Không quân Otis tới đây thì cả bờ Đông sẽ loạn lên mất."
"Nếu là một vụ đánh bom, bọn chúng sẽ đợi cho tới phút chót."
"Cho nó nổ trên đất Mỹ, có lẽ vậy."
"Có lẽ chứng đang tạm thời giả chết, cắt đứt liên lạc. Nhử ta đến gần hơn. Chờ đám truyền thông."
Một gã đang đọc tin từ điện thoại. "Chuyến bay khỏi hành từ Tegel, Berlin."
Một gã khác nói vào điện thoại. "Tôi cần ai đó trên mặt đất ở Đức có thể sprechen ze Engishn). Chúng tôi cần biết liệu họ có để ý thấy bất cứ hoạt động đáng ngờ nào ở đó không, bất cứ vi phạm nào. hơn nữa, chứng tôi cần tài liệu chuẩn về các thủ tục xử lý hành lý của họ."
Một gã khác yêu cầu: "Kiểm tra lịch trình bay và rà soát lại danh sách hành khách. Đứng vậy, từng cái tên một, kiểm tra lại lần nữa. Lần này ghi rõ mọi cách đánh vần nhé."
"Được rồi," gã khác vừa nói vừa nhìn di động. "Đầy đủ thông tin chi tiết. Số hiệu máy bay N323RG. Boeing 777-200LR. Lần kiểm tra quá cảnh gần nhất là bốn ngày trước, tại Atlanta Hartfield. Đã thay thế một thanh trượt bị mòn ở bộ phận đảo chiều đẩy của động cơ trái và một bạc lót bị mòn ở động cơ phải. Hoãn sửa chữa một vết lõm ở cánh tà trong bên trái do lịch trình bay. Nói tóm lại, cô nàng có giấy chúng nhận sức khỏe tốt."
"Mấy con 777 đều là hàng mới, phải không? Một hay hai năm nhỉ?"
"Sức chứa tối đa ba trăm lẻ một người. Chuyến bay này có hai trăm mười người. Một trăm chín mươi chín hành khách, hai phi công, chín tiếp viên."
"Có ai miễn vé không?" Tức trẻ sơ sinh.
"Tôi không thấy có."
"Chiến thuật kinh điển," gã đưa ra giả thiết khủng bố nói. "Gây hỗn loạn, thu hút lực lượng phản ứng, lôi kéo khán giả - rồi cho nổ để gây tác động tối đa."
"Nếu vậy, chúng ta hẳn đã phải chết rồi."
Họ nhìn nhau lo lắng.
"Ta phải cho các xe cứu hộ này lùi lại. Thằng ngốc nào đã giẫm lên cánh máy bay thế kia?"
Đội trưởng Navarro chen lên trước trả lời, khiến họ bất ngờ. "Tôi đấy."
1. Sprechen ze English (tiếng Đức): nói tiếng Anh.
"ô. Ra vậy." Gã bụm tay ho một tiếng. "Chỉ có nhân viên bảo trì mới đưọc lên đó, thưa đội trưởng. Quy định của FAA."
"Tôi biết."
"Vậy hả? ông có thấy gì không? Bất cứ gì?"
Navarro nói, "Không. Không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì. Các cửa sổ đều bị kéo tấm che xuống."
"Ông bảo là kéo xuống ư? Tất cả?"
"Tất cả."
"Ông đã thử cửa thoát hiểm trên cánh chưa?"
"Tôi thử rồi."
"Và?"
"Nó bị kẹt."
"Kẹt ư? Không thể nào."
"Nó bị kẹt," đội trưởng Navarro nói, nhẫn nại với năm gã này còn hơn cả với lũ con của ông.
Gã già nhất bước tránh ra chỗ khác để gọi điện thoại. Đội trưởng Navarro nhìn những người còn lại. "Vậy ta làm gì ở đây bây giờ?"
"Chứng tôi vẫn đang đợi xem sao đây."
"Đợi xem sao ư? Có bao nhiêu hành khách trên máy bay này? Họ đã gọi bao nhiêu cuộc cho 911 rồi?"
Một gã lắc đầu. "Vẫn chưa có cuộc gọi 911 nào từ cái máy bay này."
"Chưa ư?" đội trưởng Navarro hỏi.
Gã đứng bên cạnh ông lên tiếng, "Không một cuộc gọi nào trên tổng số một trăm chín chín người. Không ổn."
"Không ổn chút nào."
Đội trưởng Navarro kinh ngạc nhìn họ. "Chúng ta phải làm gì đó, ngay lập tức. Trong khi người ta đã chết hoặc đang hấp hối ở trong đó, thì tôi không cần phải được cho phép mới túm lấy cây rìu cứu hỏa mà phá cửa sổ đâu. Trong cái máy bay đó làm gì có không khí."
Gã già hơn đã gọi điện xong và quay trở lại. "Họ đang mang đèn xì tói. Chúng ta sẽ cắt cửa."
Bến càng tối, Virginia
VỊNH CHESAPEAKE, tối tăm và cuộn sóng vào lúc tối muộn đó.
Ở khoảnh sân trong bao kính của ngôi nhà, trên một dốc đứng tuyệt đẹp nhìn từ trên cao ra vịnh, một người đàn ông ngả mình trên chiếc ghế y tế đặc biệt. Ánh đèn lờ mờ khiến ông ta cảm thấy thoải mái và bình yên. Ba chiếc điều hòa công nghiệp, dành riêng cho căn phòng này, giữ nhiệt độ ở mức 16°c. Bản The Rite of Spring của Stravinsky vang lên nhẹ nhàng từ những chiếc loa ẩn, át đi tiếng bom suỵt suỵt không ngừng của máy lọc máu.
Một làn hơi mỏng thoát ra từ miệng ông ta. Người ngoài có thể sẽ nghĩ người đàn ông này đang hấp hối. Có thể sẽ cho rằng họ đang chứng kiến những ngày, những tuần cuối cùng của một cuộc đòi - dựa trên cái cơ ngoi trải rộng bảy héc ta kia mà đoán - cực kỳ thành công. Thậm chí có thể bình luận về sự trớ trêu của cuộc đòi khi một kẻ giàu có và quyền thế nhu vậy mà rồi cũng gặp cùng kết cục nhu một tên ăn xin.
Chỉ có điều, Eldritch Palmer không phải đang ở đoạn kết. Ông ta đang ở tuổi bảy mươi sáu, và không hề có ý định từ bỏ bất cứ thú gì. Không một thứ gì.
Nhà đầu tu, doanh nhân, nhà thần học đáng kính và người bạn tâm tình quyền lực này đã phải trải qua quá trình trị liệu nhu vậy ba đến bốn giờ đồng hồ mỗi tối trong suốt bảy năm qua. Sức khỏe ông ta tuy yếu nhung dễ chăm nom, được săn sóc bởi đội ngũ bác sĩ trực hai tu trên hai tu, với sụ hỗ trợ của các thiết bị y tế đủ tiêu chuẩn dùng trong bệnh viện được ông ta mua để sử dụng riêng tại nhà.
Người giàu thì đủ điều kiện chi trả cho những dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất, đồng thời cũng đủ điều kiện để cho phép mình lập dị. Eldritch Palmer giấu kín cái lập dị của mình với người ngoài, thậm chí cả với đám người thân tín. Ông ta chưa từng kết hôn. Ông ta cũng chẳng có người thừa kế. Và vì thế mà người ta thường bàn tán không biết ông ta có kế hoạch gì cho khối gia tài kếch xù của mình sau khi chết. Ông ta không có cấp phó ở tập đoàn đầu tư của mình, Tập đoàn Stoneheart. Ông ta cũng không gắn bó công khai với bất kỳ tổ chức hay quỹ từ thiện nào, không như hai con người vẫn luôn ganh đua với ông ta để giành ngôi vị số một trên bảng xếp hạng thường niên ghi danh những người Mỹ giàu nhất thế giới của tạp chí Forbes, nhà sáng lập Microsoft, Bill Gates, và nhà đầu tư của Berkshire Hathaway, Warren Buffet. (Nếu lượng vàng dự trữ ở Nam Mỹ và cổ phần trong các công ty ma của ông ta ở châu Phi được Forbes tính tói, Palmer hẳn sẽ nắm giữ vị trí đầu bảng.) Palmer thậm chí chưa từng thảo di chúc, một thiếu sót trong việc hoạch định tài sản không thể tưởng tượng nổi đối với một người thậm chí chỉ giàu bằng một phần ngàn ông ta.
Nhưng Eldritch Palmer, rất đon giản, chưa định chết.
Thẩm tách máu là quá trình máu được đưa khỏi cơ thể thông qua hệ thống ống dẫn, được tinh lọc bằng máy thẩm tách, hay thận nhân tạo, sau đó được đưa trở lại cơ thể sau khi các chất thải và độc hại đã được loại bỏ hoàn toàn. Các mũi kim dẫn máu ra và vào được cắm vào một tĩnh mạch nhân tạo gắn CỐ định vào cẳng tay. Hỗ trợ quá trình này là các đòi máy móc tân tiến nhất của công ty Fresenius, liên tục kiểm tra các thông SỐ quan trọng nhất của Palmer và cảnh báo Fitzwilliam, luôn ở cách đó không quá hai căn phòng, về bất cứ thông số nào vượt ngưỡng bình thường.
Những nhà đầu tư trung thành đã quen với ngoại hình luôn tiều tụy của Palmer, về cơ bản, đó đã trở thành thương hiệu của ông ta, một biểu tượng mỉa mai cho sức mạnh kinh tế của ông ta, vì một lão già hốc hác, xanh xao đến thế lại có thể sở hữu quyền lực và tầm ảnh hưởng như vậy trên cả hai phương diện tài chính và chính trị thế giới. Đội quân các nhà đầu tư trung thành với ông ta lên tới ba mươi ngàn con người khỏe mạnh có địa vị tài chính: số tiền ban đầu là hai triệu đô la, và với nhiều người đã đầu tư cùng Palmer hàng thập kỷ nay thì giờ SỐ tiền đã lên đến nửa tỷ đô. Sức mua của Tập đoàn Stoneheart cho ông ta một lọi thế kinh tế khổng lồ, và ông ta tận dụng nó vô cùng hiệu quả, cũng có khi rất nhẫn tâm.
Cánh cửa phía Tây mở ra từ phía hành lang lớn, và Fitzwilliam, người đồng thời là quản lý đội vệ sĩ của Palmer, tiến vào mang theo một chiếc điện thoại bảo mật cầm tay đặt trên một cái khay bằng bạc ròng. Fitzwilliam là cựu lính thủy đánh bộ Mỹ được xác nhận là đã tiêu diệt bốn mươi hai lính đối phương và là một người rất nhanh nhạy, đã được Palmer tài trợ học y sau khi giải ngũ. "Thứ trưỏng Bộ An ninh Nội địa, thưa ngài," anh ta nói, phả ra một luồng hơi sương trong căn phòng lạnh.
Thường thì Palmer sẽ không cho phép bất cứ ai làm phiền trong lúc trị bệnh hằng đêm, bởi ông ta muốn dùng khoảng thời gian này để suy ngẫm. Nhưng đây chính là cuộc gọi ông ta đang chờ. Palmer nhận điện thoại từ Fitzwilliam, và đợi anh ta nghiêm cẩn lui ra.
Palmer nhận điện và được thông báo về cái máy bay đang ngừng hoạt động. Ông ta được biết các nhân viên JFK đang rất do dự về cách thức xử lý tình huống này. Người ở đầu dây bên kia nói bằng giọng lo lắng, với vẻ trịnh trọng bồn chồn, như một đứa trẻ tự hào khoe chiến công của mình. "Đây là một vụ hết sức bất thường, và tôi nghĩ ngài muốn được thông báo ngay lập tức, thưa ngài."
"Đúng vậy," Palmer nói với người kia. "Tôi đánh giá cao tác phong của anh."
"Ch-chúc một buổi tối tốt lành, thưa ngài."
Palmer tắt máy và đặt điện thoại lên đùi. Quả thực là một buổi tối tốt lành. Ông ta chợt cảm thấy hồi hộp. Ông ta vẫn luôn chờ đợi chuyện này. Và giờ khi cái máy bay ấy đã hạ cánh, ông ta biết chuyện đã bắt đầu - và bằng một cách vô cùng ngoạn mục.
Phấn khích, ông ta quay về phía cái ti vi màn ảnh rộng trên tường bên và dùng điều khiển từ xa trên tay ghế để bật âm thanh, vẫn chưa có tin gì về cái máy bay cả. Nhưng sẽ sớm thôi...
Ông ta ấn nút trên bộ đàm. Giọng Fitzwilliam vang lên, "Vâng, thưa ngài?"
"Chuẩn bị trực thăng đi, Fitzwilliam. Tôi có chút công chuyện ở Manhattan."
Eldritch Palmer ngắt máy rồi nhìn qua dãy cửa kính hướng ra vịnh Chesapeake, đục ngầu và tăm tối, ngay phía Nam của dòng Potomac hung bạo hòa vào bóng đêm sâu thẳm.
Đường lăn Foxtrot
ĐỘI BẢO TRÌ đang lăn các bình ôxy dưới thân máy bay. cắt cửa là giải pháp khẩn cấp cuối cùng. Tất cả các máy bay thương mại đều được thiết kế một khu vực đặc biệt gọi là 'Tát cắt". Lát cắt của 777 nằm ở cuối thân máy bay, dưới đuôi, giữa hai cánh cửa khoang hành lý bên mạn phải. Chữ LR trong Boeing 777-200LR là viết tắt của 'Tong range" (đường dài), và là máy bay thuộc loại thị trường c có chặng bay liên tục dài nhất trên 16.700 ki lô mét và có dung tích bình xăng trên 200.000 lít nên ngoài các bình xăng nằm trong thân cánh, nó còn được trang bị thêm ba bình dự phòng trong khoang hành lý - do đó cần có một khu vực lát cắt an toàn.
Đội bảo trì đang dùng một bộ dụng cụ cắt Arcair, một chiếc đèn xì tỏa nhiệt thích họp cho các trường họp khẩn cấp không chỉ bởi sự gọn nhẹ mà còn bởi nó sử dụng nguồn năng lượng ôxy chứ không độc hại như loại dùng axetylen. Việc cắt xuyên qua vỏ dày của máy bay sẽ mất khoảng một giờ.
Tại thời điểm này, không ai trên đường băng trông chờ một kết cục tốt đẹp. Không một cuộc gọi 911 nào từ các hành khách trong máy bay. Không ánh đèn, tiếng động hay bất cứ một tín hiệu nào phát ra từ trong chiếc Regis 753. Tình hình thật bí ẩn.
Một chiếc xe chỉ huy cơ động của đon vị cứu hộ khẩn cấp Cơ quan Quản lý Cảng tiến vào thềm đế máy bay, tấp vào sau dãy đèn sáng rực đang chiếu về phía chiếc phi cơ. Đội SWAT đã được huấn luyện cho các trường họp sơ tán, giải cứu con tin và tấn công khủng bố trên các cầu, đường hầm, nhà ga, sân bay, tuyến đường sắt PATH và các hải cảng ở New York và New Jersey. Các cảnh sát đặc nhiệm được trang bị áo giáp nhẹ và súng tiểu liên Heckler-Koch. Một cặp béc giê Đức đã được thả ra để đánh hơi quanh hệ thống càng hạ cánh chính - hai bộ, mỗi bộ sáu bánh lớn - giờ đang chạy lon ton xung quanh, mũi hếch lên tròi như thể cũng đánh hơi thấy rắc rối ở ngay đây.
Trong một thoáng, đội trưởng Navarro tự hỏi liệu có phải thật sự có ai đó đang ở yên trên máy bay không. Chẳng phải từng có một cái máy bay không người hạ cánh trong phim Twilight Zone sao?
Đội bảo trì bật đèn xì và họ chỉ vừa bắt đầu cắt phần mặt dưới thân máy bay thì một trong hai con chó béc giê bắt đầu tru lên. Đúng hơn là nó vừa sủa vừa chạy vòng tròn trong khi vẫn đang bị buộc xích.
Đội trưởng Navarro thấy một nhân viên cứu hộ của ông, Benny Chufer, chỉ lên phía giữa thân máy bay. Một cái bóng đen, mảnh hiện ra ngay trước mắt ông. Một vệt thẳng đứng, đen kịt cắt xuyên qua bề mặt nhẵn nhụi của thân máy bay.
Cửa thoát hiểm trên cánh. Cánh cửa mà đội trưỏng Navarro không thể làm suy chuyển.
Giờ nó đã mở.
Navarro không tài nào hiểu nổi, nhưng ông vẫn đứng yên, chết lặng trước cảnh tượng trước mắt. Có thể chốt cửa hỏng, tay nắm cửa trục trặc... có thể ông chưa cố hết sức... hoặc có thể - chỉ có thể thôi - ai đó rốt cuộc đã mở cửa.
Tháp không lưu quốc tế JFK
Cơ QUAN QUẢN LÝ CẢNG gọi vào máy của Giám mục Jimmy. Anh đang đứng, như thường lệ, chờ thảo luận với mấy gã mặc vest, thì đột nhiên điện thoại của họ réo ầm ĩ.
"Nó đã mở," một gã thông báo. "Ai đó đã mở cửa 3L."
Giờ tất cả đều đang đứng, cố nhìn cho rõ. Giám mục Jimmy nhìn ra ngoài buồng tháp không lưu về phía cái máy bay đang được chiếu sáng. Nhìn từ trên này, cánh cửa không giống như đã mở.
Calvin Buss hỏi, "Mở từ bên trong à? Có ai bước ra không?" Gã kia lắc đầu, vẫn đang nghe điện thoại. "Không có ai. vẫn chưa có ai."
Giám mục Jimmy chộp lấy chiếc ống nhòm nhỏ đặt trên gờ tường và tự mình kiểm tra chiếc Regis 753.
Kia rồi. Một vạch đen trên cánh. Một vệt tối, trông như thể một vết rạch trên thân máy bay.
Nhìn thấy cảnh đó, miệng Jimmy trở nên khô khốc. Khi mới được mở khóa, cánh cửa sẽ hơi đẩy ra ngoài, sau đó xoay lại và gập áp vào vách trong. Vậy thì, xét trên lý thuyết, tình hình là nút không khí đã bị mở ra. Cánh cửa vẫn chưa mở hết.
Anh đặt chiếc ống nhòm trở lại gờ tường và lùi lại. Chẳng hiểu sao, lý trí đang mách bảo anh đã tới lúc chạy trốn.
Đường lãn Foxtrot
MAY ĐO KHÍ GA và đo nồng độ phóng xạ được nâng tới khe cửa và cả hai đều báo sạch. Một nhân viên cứu hộ khẩn cấp nằm trên cánh máy bay đã xoay xở kéo đưọc cánh cửa rộng ra vài phân nữa bằng một cây sào dài có móc, hai cảnh sát đặc nhiệm được trang bị vũ khí sẵn sàng yểm trợ anh ta từ đường băng phía dưới. Một chiếc micro parabol được đưa vào trong đang phát lại đủ mọi loại âm thanh "chip", "bíp" lẫn nhạc chuông: tiếng điện thoại của hành khách reo nhưng không được trả lời. Những âm thanh vừa kỳ bí vừa não nùng, như tiếng báo động của hệ thống cảnh báo tai ương tí hon.
Sau đó họ gắn một cái gương vào đầu một cây sào, một phiên bản phóng to của loại dụng cụ nha khoa dùng đế kiếm tra mặt trong răng. Tất cả những gì họ thấy được chỉ là hai chiếc ghế phụ nằm ở khu vực giữa hai hạng khoang, cả hai đều trống.
Liên lạc qua loa pin cũng vô ích. Không có bất cứ phản hồi nào từ trong máy bay: không ánh sáng, không chuyển động, không gì cả.
Hai nhân viên cứu hộ khẩn cấp mặc áo giáp nhẹ lùi lại tránh khỏi các ánh đèn đường lăn để thảo luận. Họ xem xét một sơ đồ mặt cắt ngang, cho thấy trong khoang hạng phổ thông mà họ sắp tiếp cận, hành khách được xếp vào mười ghế một hàng ngang: ba ghế mỗi hàng bên và bốn ghế hàng giữa. Bên trong máy bay chật kín, họ bèn thay tiểu liên H-K bằng Glock 17 cho linh hoạt hon, sẵn sàng cận chiến.
Họ đeo mặt nạ phòng độc có bộ đàm và kính nhìn đêm, cùng bình xịt hơi cay, còng tay và bao đạn dự phòng giắt ở thắt lưng. Các máy quay bé tí với ống kính hồng ngoại thụ động được gắn trên chóp mũ bảo hộ.
Họ leo thang cứu hộ lên cánh rồi tiếp cận cánh cửa. Họ dừng lại, mỗi người một bên cửa, dán sát vào thân máy bay, một người dùng chân đẩy cánh cửa gập ra sau áp vào vách trong rồi cúi người lao vọt vào một vách ngăn gần đấy và ngồi xổm xuống. Đồng đội của anh ta cũng theo bước vào trong.
Cái loa pin nói thay cho họ:
"Thưa hành khách trên chuyến bay Regis 753. Cơ quan Quản lý Cảng New York-New Jersey đây. Chúng tôi đang tiến vào trong máy bay. Vì sự an toàn của các bạn, hãy ngồi nguyên tại chỗ và đan hai bàn tay vào nhau đặt lên trên đỉnh đầu."
Người dẫn đầu tựa lưng vào vách ngăn chờ đợi, dỏng tai lắng nghe. Chiếc mặt nạ của anh khiến âm thanh biến thành tiếng rít ken két, nhưng anh có thể thấy rõ bên trong không có chuyển động nào. Anh kéo kính nhìn đêm xuống, và không gian trong máy bay biến thành một màu xanh lá. Anh hất hàm ra hiệu cho đồng đội và lăm lăm khẩu Glock, rồi đếm đến ba, và cả hai cùng xông vào khoang hành khách rộng lớn.
Chú thích
[I] Federal Aviation Administration: Cục Quản lý Hàng không Liên bang Mỹ.
[II] Nữ ca sĩ nổi tiếng người Mỹ, có một ca khúc mang tên straight Up - tạm djch Hãy đứng thẳng lên.
Lên máy bay
Phố worth
Ephraim Goodweather không xác định được tiếng còi báo động anh nghe thấy có phải đang vang lên trên phố không - nghĩa là, có thật - hay chỉ là âm thanh từ trong trò choi điện tử anh đang choi cùng con trai mình, Zack.
"Tại sao con cứ giết bố vậy?" Eph hỏi.
Thằng bé tóc màu vàng cát nhún vai, như thể bị phật ý bởi câu hỏi đó. "Trò này là thế mà bố."
Chiếc ti vi được đặt ngay cạnh khung cửa sổ lớn mở ra hướng Tây, rõ ràng là thứ tuyệt nhất trong căn hộ tầng hai chật chội, không thang máy, nằm ở rìa phía Nam của Chinatown này. Chiếc bàn cà phê trước mặt họ chất đống những hộp bìa cứng đựng đồ ăn Trung Quốc, một túi truyện tranh mua từ cửa hàng Forbidden Planet, điện thoại di động của Eph, điện thoại di động của Zack, và bàn chân nặng mùi của Zack. Bộ trò choi điện tử này là một món đồ choi mới toanh nữa đã được mua cho Zack. Giống như bà nó vẫn thường cố vắt cho bằng hết từng giọt nước cam còn sót trong vỏ, Eph cũng luôn gắng ép ra mọi khoảnh khắc vui vẻ hạnh phúc từ khoảng thời gian ngắn ngủi họ đưọc ở bên nhau. Đối với Eph, đứa con trai duy nhất là cuộc đòi, là không khí, là nước uống, là thức ăn, và anh phải dành trọn thời gian cho nó bất cứ khi nào có thể, bởi đôi khi, có thể suốt cả tuần chỉ có một hai cuộc gọi, và nó chẳng khác gì sống trọn một tuần không được nhìn thấy ánh mặt tròi.
"Cái quái gì..." Eph vựng về ấn vào bộ điều khiển, cái thiết bị không dây có vẻ quá lạ lẫm trong tay anh, anh mãi chẳng thể nhấn đúng nút. Chiến binh của anh đang đấm thùm thụp xuống mặt đất. "ít nhất cũng phải đứng lên được chứ."
"Quá muộn. Lại chết nữa rồi."
Đối với rất nhiều anh chàng Eph quen, những gã cũng chung tình cảnh như anh, con cái cũng đóng vai trò quan trọng chẳng kém gì các bà vợ trong lý do ly hôn của họ. Hiển nhiên, họ sẽ nói ra ngọn ra nguồn, nào là họ nhớ bọn trẻ đến mức nào, nào là các bà vợ cứ không ngừng tìm cách phá vỡ mối quan hệ ra sao, vân vân, nhưng dường như họ chẳng bao giờ thật sự cố gắng. Mỗi dịp cuối tuần cùng bọn trẻ lại trở thành một cuối tuần bị thất thoát trong cuộc sống tự do mới của họ. Với Eph, những dịp cuối tuần cùng Zack như thế này là cuộc sống của anh. Eph chưa từng muốn ly hôn. Đến giờ vẫn vậy. Anh hiểu rằng cuộc sống vợ chồng của anh và Kelly đã chấm dứt - cô đã tỏ thái độ quá rõ ràng - nhưng anh nhất quyết không chịu từ bỏ quyền làm cha của anh vối Zack. Quyền chăm sóc thằng bé là vấn đề duy nhất chưa được giải quyết, cũng là lý do duy nhất khiến cuộc hôn nhân của Eph và Kelly vẫn còn giá trị về mặt pháp luật.
Đây là hai ngày cuối cùng trong chuỗi những kỳ nghỉ cuối tuần thử thách của Eph, đã được đề ra bởi chuyên gia tư vấn hôn nhân gia đình do tòa án chỉ định. Zack sẽ được phỏng vấn một hồm nào đấy trong tuần tói, và sau đó, chẳng mấy mà quyết định cuối cùng sẽ được đưa ra. Không có nhiều khả năng Eph sẽ được nhận quyền nuôi con, nhưng anh không bận tâm; đây là cuộc đấu tranh của đòi anh. Lập luận "hãy làm điều đúng đắn cho Zack" chính là cú nốc ao của Kelly để khiến anh cảm thấy tội lỗi, ép anh chấp nhận quyền thăm con thường xuyên. Nhưng điều đúng đắn cho Eph là gắn bó không rời Zack. Eph đã thuyết phục chính phủ Mỹ và sếp của anh cho anh chuyển đội của mình tới New York thay vì ỞCDC[1] tại Atlanta, chỉ để cho cuộc
Sống vốn đã xáo trộn của Zack sẽ không bị rối thêm nữa.
Eph đáng lẽ đã có thể đấu tranh quyết liệt hon. Choi bẩn hon. Như luật sư của anh từng khuyên, không biết bao lần. Gã đó biết mọi mánh khóe trong ly hôn. Một lý do khiến Eph không thể làm vậy là nỗi sầu muộn dai dẳng của anh trước thất bại trong hôn nhân. Một lý do khác, Eph quá nhân từ - điều khiến anh trở thành một bác sĩ xuất sắc cũng chính là nguyên nhân biến anh thành một thân chủ đáng thương trong vụ ly hồn. Anh đã nhượng bộ Kelly trước gần như mọi yêu cầu cùng yêu sách tài chính mà luật sư của cô đưa ra. Tất cả những gì Eph muốn chỉ là được dành thời gian một nùnh bên cậu con trai duy nhất.
Đứa con trai đó ngay lúc này đang ném đống lựu đạn về phía anh.
Eph nói, "Làm sao bố bắn trả con được khi con làm nổ banh tay bố rồi?"
"Con không biết. Hay bố thử đá chân đi?"
"Giờ thì bố hiểu tại sao mẹ không cho phép con mua máy điện tử rồi."
"Bởi nó khiến con bị kích động và không thích giao tiếp với người ngoài và... ÔI, Bố TIÊU RÒI!"
Cột máu của Eph đã giảm về không.
Cùng lúc đó, điện thoại của anh bắt đầu rung bần bật và trượt trên đống hộp bìa Cling đựng thức ăn mang về như một con bọ cánh Cling màu bạc đang đói. Có lẽ Kelly gọi nhắc nhở anh phải đảm bảo là Zack có xịt thuốc hen. Hoặc chỉ là kiểm tra, để đảm bảo rằng anh không mang Zack trốn đi Ma Rốc hay đâu đó.
Eph chộp lấy điện thoại, kiểm tra màn hình. Mã 718, số địa phương. Tên người gọi là cơ QUAN KIỂM DỊCH JFK.
Trung tâm Kiểm soát và Phống chống Bệnh dịch duy trì một trạm kiểm dịch tại nhà ga quốc tế JFK. Không có phòng lưu trú bệnh nhân hay thậm chí bất cứ thiết bị điều trị nào, chỉ có vài văn phòng nhỏ và một phòng khám: kiểu một trạm cách ly để phát hiện và có lẽ là ngăn dịch bệnh bùng phát, đe dọa người dân Mỹ. Công việc chủ yếu của họ là cách ly và khám cho các hành khách phát bệnh trên chuyến bay, thi thoảng có vài ca chẩn đoán viêm màng não mô cầu hoặc hội chứng hô hấp cấp tính (SARS).
Văn phòng đóng cửa vào buổi tối, và Eph không có lịch trực vào tối nay, hay bất cứ lúc nào từ giờ cho tới sáng thứ Hai. Anh đã thu xếp lịch làm việc của mình từ nhiều tuần trước, dành kỳ nghỉ cuối tuần cùng Zack.
Eph nhấn nút tắt rung và đặt điện thoại xuống, cạnh hộp bánh nướng hành. Ai đó sẽ xử lý việc này. "Là thằng bé bán cái này cho bố," anh nói với Zack. "Cứ gọi làm phiền bố mãi."
Zack đang chén thêm một chiếc bánh bao hấp nữa. "Con không thể tin nổi là bố kiếm được vé xem trận Yankees-Red Sox ngày mai."
"Bố biết. Chỗ đẹp luôn nhé. Ở phía Gôn 3. Bố đã trích từ quỹ học phí đại học cho con để mua vé đó, nhưng này, đừng lo, với khả năng của con, con sẽ chẳng vượt quá cái bằng trung học đâu."
"Bố."
"Dù sao đi nữa, con biết thừa bố đau khổ đến thế nào khi phải đút vào túi cái tay Steinbrenner[2] đó dù chỉ một đô thôi, về cơ bản, nó đúng là một hành động phản bội mà."
Zack nói, "Lêu lêu, Red Sox. Tiến lên nào, Yanks."
"Đầu tiên con giết bố, sau đó lại chế nhạo bố à?"
"Con cứ tưởng, đã là fan Red Sox thì bố phải quen với việc này rồi chứ."
"Đủ rồi đấy...!" Eph vồ lấy cậu con trai, đưa tay cù vào sườn nó, và thằng bé vừa cười lăn cười bò vừa cố gắng chống cự. Zack, cậu bé từng được Eph vác trên vai chạy khắp phòng, đang ngày càng khỏe hơn, cú vùng vẫy của nó mang sức mạnh thật sự. Zachary sở hữu mái tóc của mẹ nó, cả về độ mượt mà lẫn màu vàng cát (màu tóc gốc của cô, khi anh lần đầu gặp cô ở đại học). Tuy nhiên, trong sự ngạc nhiên xen lẫn hạnh phúc, Eph nhận ra đôi bàn tay hồi mười một tuổi của chính anh đang vung vẩy một cách lạ kỳ từ cái cổ tay của thằng bé. Cũng chính đôi bàn tay khớp to bè ấy đã từng chẳng muốn làm gì ngoài choi bóng chày, đã từng chúa ghét học piano, đã từng khao khát được chóng vươn đến thế giới của người lớn. Kỳ lạ biết bao, lại được nhìn thấy đôi bàn tay thơ trẻ ấy. Đúng như thế thật: con cái chúng ta rồi sẽ thế chỗ chúng ta. Zachary giống như một tổ họp hoàn hảo, ADN của thằng bé hội tụ đầy đủ mọi thứ mà Eph và Kelly từng nhìn nhận về nhau - hy vọng, ước mơ, tiềm năng của họ. Có lẽ đó cũng chính là lý do khiến cho cả hai người họ đều cố gắng hết sức, bằng những cách thức riêng trái ngược nhau, mang đến cho nó những gì tốt nhất. Để rồi cứ nghĩ tới việc Zack sẽ được nuôi nấng dưới tầm ảnh hưỏng của người bạn trai sống chung với Kelly, Matt - một gã "tốt", một gã "tử tế", nhưng tẻ nhạt đến gần như vô hình - Eph lại cả đêm trằn trọc. Anh muốn con trai anh được thử thách, anh muốn nó có nguồn cảm hứng, sự vĩ đại! Cuộc chiến tranh giành quyền nuôi Zack thì còn định đoạt được, nhưng cuộc chiến tranh giành tâm hồn Zack - linh hồn Zack - thì không.
Điện thoại Eph lại bắt đầu rung, bò ngang trên mặt bàn hệt như hàm răng giả đánh lập cập mà ông chú từng tặng anh dịp Giáng sinh. Cái thiết bị vừa được đánh thức ấy cắt ngang màn vật lộn của hai cha con, Eph bèn thả Zack ra, cố cưỡng lại thôi thúc kiểm tra màn hình điện thoại. Đang có chuyện gì đó. Bằng không anh đã không phải nhận những cuộc gọi này. Một trận búng phát dịch. Một hành khách nhiễm bệnh.
Eph buộc mình không nhấc điện thoại. Ai khác sẽ phải xử lý việc này. Giờ đang là cuối tuần của anh với Zack. Thằng bé lúc này đang nhìn anh.
"Đừng lo," Eph nói và đặt điện thoại xuống bàn, để cuộc gọi chuyển sang tin nhắn thoại. "Mọi việc đã được thu xếp rồi. Không công việc cho cuối tuần này."
Zack gật đầu, vui vẻ hẳn lên và tìm chiếc điều khiển. "Choi tiếp chứ?"
"Bố không biết nữa. Khi nào ta mới choi tới phần anh chàng Mario bé nhỏ lăn thùng rượu vào con khỉ?"
"Kìa bố."
"Bố thích trò có ông người Ý nhỏ con chạy vòng quanh hái nấm để ăn điểm hơn."
"Được. Vậy bố phải lội qua bao nhiêu cây số đường tuyết để tới trường hằng ngày vậy?"
"Đủ rồi nha...!"
Eph lại bổ nhào lên người thằng bé, nhưng lần này nó đã đề phòng, kẹp chặt hai khuỷu tay, chặn đòn tấn công sườn của anh. Thế là Eph đổi chiến thuật, chuyển sang phần gân gót chân dễ nhột, vừa vật lộn với gót chân của Zack vừa cố hết sức tránh hứng một đạp vào mặt. Thằng bé đang xin được tha thì Eph nhận ra điện thoại của anh lại rung ìhêm lần nữa.
Lần này Eph giận dữ bật dậy, biết rằng công việc của anh, nghề nghiệp của anh, sẽ buộc anh phải rời xa cậu con trai trong tối nay. Anh liếc nhìn thông tin người gọi, và lần này là mã vùng Atlanta. Tin tức xấu lắm đây. Eph nhắm mắt và áp chiếc điện thoại đang rung bần bật lên trán, cố gắng suy nghĩ thông suốt. "Xin lỗi, z," anh nói với Zack. "Để bố xem có chuyện gì thôi."
Anh cầm điện thoại bước vào căn bếp kế bên, trả lời cuộc gọi.
"Ephraim à? Everett Bames đây."
Bác sĩ Everett Bames. Giám đốc CDC.
Eph quay lưng về phía Zack. Anh biết Zack đang quan sát và không thể chịu được nếu nhìn thẳng vào thằng bé. "Vâng, ông Everett, có chuyện gì vậy?"
"Tôi vừa nhận được cuộc gọi từ Washington. Đội của anh đang trên đường đến sân bay rồi chứ?"
"Ô, thưa ông, thực ra..."
"Anh đã xem trên ti vi rồi chứ?"
"Ti vi?"
Anh trở lại sofa, xòe tay về phía Zack, xin nó kiên nhẫn. Eph tìm thấy điều khiển, lần mò thử tìm một nút hoặc một tổ họp nút đúng, thử một hồi, và màn hình hiện lên trống tron. Zack đoạt lấy chiếc điều khiển từ tay anh và rầu rĩ chuyển sang kênh truyền hình cáp.
Kênh thời sự đang chiếu một cái máy bay đỗ tại đường băng. Các xe cứu hộ bao quanh nó thành một vòng rộng, như đang lo sợ. Sân bay quốc tế JFK. "Có lẽ tôi thấy rồi, Everett."
"Jim Kent vừa gọi cho tôi, anh ấy đang chuẩn bị các thiết bị mà đội Canary của anh cần. Trong vụ này anh tuyến đầu đấy, Ephraim. Họ sẽ không hành động cho đến khi anh tới đó."
"Họ là ai, thưa ông?"
"Cơ quan Quản lý Cảng New York, Cục An ninh Vận tải. ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia và Bộ An ninh Nội địa đang bay tới đó."

Dự án Canary là một đội phản ứng nhanh bao gồm các bác sĩ dịch tễ ở hiện trường được thành lập để phát hiện và xác định các mối đe dọa sinh học mới chớm. Phạm vi hoạt động của đội bao gồm cả những mối đe dọa xảy ra tự nhiên, như các bệnh do vi rút hay vi khuẩn ký sinh có thể tìm thấy trong tự nhiên, lẫn các dịch bùng phát do con người - mặc dù ngân sách chủ yếu của dự án bắt nguồn từ các hồ sơ về khủng bố sinh học của Canary. Trung tâm điều hành nằm ở thành phố New York, với các cơ sở Canary nhỏ hơn đặt tại các bệnh viện của các trường đại học ở Miami, Los Angeles, Denver và Chicago.
Chương trình này lấy tên từ một mẹo cũ của thợ mỏ, rằng nên mang theo một con chim hoàng yến*[3]’ nhốt trong lồng xuống lòng đất để sử dụng như một hệ thống báo động sinh học sớm, thô sơ nhưng hiệu quả. Quá trình trao đổi chất cực kỳ nhạy cảm của loài chim lông vàng này có khả năng phát hiện ra dấu vết của khí metan và ôxit cácbon trước khi chúng đạt tới mức độc hại hay thậm chí là mức phát nổ, khiến cho loài chim bình thường hay hót này sẽ im re và run rẩy trên giá đậu.
Trong thời hiện đại này, mỗi người đều có tiềm năng trở thành con chim hoàng yến báo động đó. Đội của Eph có nhiệm vụ cách ly họ khi họ ngừng hót, chữa trị cho người bị nhiễm bệnh và ngăn chặn sự lây lan.
Eph nói, "Chuyện gì vậy, Everett? Có ai chết trên máy bay à?"
Giám đốc nói, "Tất cả bọn họ đều chết, Ephraim. Không trừ một ai."
Phố Kelton, Woodside, Queens
KELLY GOOD WEATHER ngồi tại một chiếc bàn nhỏ, đối diện Matt Sayles, người tình sống chung với cô ("bạn trai" nghe có vẻ quá trẻ con, còn "bạn đòi" nghe lại có vẻ quá già). Họ đang ăn chung chiếc pizza tự làm phủ xốt pesto, cà chua khô và phó mát dê, điểm thêm vài lát thịt nguội cùng một chai vang đỏ một năm giá mười một đô. Chiếc tì vi trong bếp chuyển sang kênh NY1 bởi Matt muốn xem thời sự. Đối với Kelly mà nói, chương trình thời sự hai tư giờ là kẻ thù của cô.
"Em xin lỗi," cô nói với anh ta lần nữa.
Matt mỉm cười, chậm rãi nâng ly rượu vẽ thành một vòng tròn trong không trung.
"Dĩ nhiên, đó không phải lỗi của em. Nhưng em biết là ta đã quyết định dành cuối tuần này cho riêng hai ta..."
Matt lau miệng bằng chiếc khăn ăn giắt trong cổ áo sơ mi. "Cậu chàng vẫn luôn tìm được ra cách để xen vào giữa hai đứa mình mà. Và không phải anh đang nói đến Zack đâu."
Kelly nhìn vào chiếc ghế thứ ba còn trống. Matt chắc chắn đã vô cùng mong đợi kỳ nghỉ cuối tuần vắng mặt con trai cô. Như một giải pháp tạm thời cho cuộc chiến giành quyền nuôi con dài vô tận trước tòa án, Zack đã dành vài kỳ cuối tuần với Eph trong căn hộ ở trung tâm Manhattan của anh. Đối với cô, điều đó nghĩa là một bữa tối thân mật tại nhà cùng ham muốn tình dục thường lệ từ Matt - điều mà Kelly chẳng hề ngần ngại đáp ứng, đồng thời cũng đáng để cô tự cho phép mình uống thêm vài ly rượu.
Nhưng giờ thì, không phải tối nay. Mặc dù cảm thấy có lỗi với Matt, cô thực lòng thấy khá vui vẻ.
"Em sẽ bù cho anh mà," cô nói, nháy mắt với anh ta.
Matt mỉm cười đầu hàng. "Thỏa thuận xong nhé."
Đó chính là lý do Matt luôn làm cô cảm thấy thoải mái. Sau anh chàng Eph khó chịu, cục cằn, Cling đầu với tính thất thường ăn vào tận trong máu, cô cần một con thuyền chạy chậm hon, như Matt. Cô đã cưới Eph khi còn quá trẻ, và đã hy sinh bản thân quá nhiều - các nhu cầu, hoài bão, khát khao của cô - để giúp anh phát triển sự nghiệp bác sĩ của mình. Nếu cô có thể phổ biến một chút kinh nghiệm cuộc sống cho đám nữ sinh lớp bốn của cô ở trường PS 69 khu Jackson Heights, thì đó sẽ là: đừng bao giờ cưới một thiên tài. Đặc biệt là một thiên tài đẹp trai. Với Matt, Kelly luôn cảm thấy thoải mái, và thực ra, cô thích cái cảm giác nằm chiếu trên trong mối quan hệ này. Giờ đến lượt cô được hưởng sự phục vụ.
Trên chiếc tí vi nhỏ màu trắng trong bếp, người ta đang ba hoa về hiện tượng nhật thực ngày mai. Đứng bên một quầy bán áo phông tại Công viên Trung tâm, người phóng viên đang đeo thử các loại kính khác nhau, đánh giá về độ an toàn cho mắt của chúng. HÔN EM DƯỚI NHẬT THỰC! là mẫu áo bán chạy nhất. Rồi họ quảng cáo chuyên mục truyền hình trực tiếp vào buổi trưa ngày mai.
"Một chương trình hoành tráng ra phết đây," Matt nói, lời bình luận khiến cô hiểu rằng anh ta sẽ không để nỗi thất vọng làm hỏng buổi tối.
"Đó là một sự kiện thiên văn lớn," Kelly nói, "nhưng họ lại đối xử với nó như thể chỉ là một trận bão tuyết mùa đông mới."
Màn hình chuyển sang phần "Tin nóng". Thường thì đây cũng là dấu hiệu để Kelly chuyển kênh, nhưng sự kỳ lạ của câu chuyện đã thu hút cô. Ti vi đang chiếu hình ảnh từ xa của một cái máy bay đỗ trên đường băng ở JFK, bị vây quanh bởi vô số ánh đèn. Cái máy bay được chiếu đèn sáng rực, bị bao vây bởi vô số xe và người tí hơn đến mức tưỏng như một đĩa bay vừa hạ cánh tại khu Queens.
"Những kẻ khủng bố," Matt nói.
Sân bay JFK chỉ cách đó mười sáu cây số. Phóng viên cho biết cái máy bay đang được điều tra này đã hoàn toàn ngừng hoạt động sau cuộc hạ cánh vô cùng bình thường, và rằng không hề có bất cứ liên lạc nào từ phía tổ lái hay những hành khách vẫn còn trên máy bay. Để đề phòng, mọi chuyến bay tới JFK đều được chuyển hướng sang sân bay Newark và LaGuardia.
Giờ thì cô đã hiểu, cái máy bay này chính là lý do khiến Eph phải trả Zack lại cho cô. Điều duy nhất cô mong muốn lúc này là Zack được đưa về dưới mái nhà của cô. Kelly là kiểu người hay lo, nhà đồng nghĩa với sự an toàn. Đó là nơi duy nhất trên thế gian này cô có thể kiểm soát tình hình.
Kelly đứng lên và bước lại chỗ ô cửa sổ phía trên bồn rửa tay trong bếp, giảm bớt ánh sáng, rồi nhìn ra vùng tròi phía sau mái nhà hàng xóm. Cô thấy những ánh đèn máy bay lượn quanh LaGuardia, xoay vòng trông như những mảnh vỡ lấp lánh bị cuốn vào một vòi rồng khổng lồ. Cô chưa từng tới miền Trung của đất nước, nơi người ta có thể tận mắt trông thấy những con bão đang tiến về phía mình từ cách xa nhiều dặm. Nhưng cô đang cảm thấy như thế. Như thể thứ gì đó đang tiến về phía cô mà cô chẳng thể làm gì được.
Eph đỗ chiếc Ford Explorer được CDC cấp cho tại lề đường.
Kelly sở hữu một căn nhà nhỏ trên một ô đất vuông vắn, bao quanh là những bờ giậu thấp gọn gàng giữa một khối nhà hai tầng trên một con dốc. Cô đón anh ở bên ngoài, trên vỉa hè lát bê tông, như thể sợ không dám cho anh vào nhà và nhìn chung đối xử với anh như với một bệnh cúm dai dẳng cả thập kỷ mà cuối cùng cô cũng đã thoát ra được.
Mái tóc vàng hon, người mảnh mai hon, gương mặt vẫn rất xinh xắn, nhưng lúc này đây với anh cô đã là một con người khác. Quá nhiều đổi thay. Ở đâu đó, có lẽ trong một hộp đựng giày bám bụi, nhét dưới đáy một tủ quần áo, là những tấm ảnh cưới của một người phụ nữ trẻ vô lo vô nghĩ, tấm mạng che mặt hất ra sau, đang nở nụ cười quyến rũ với chú rể mặc vest, hai con người trẻ tuổi hạnh phúc trong tình yêu.
"Anh đã để dành toàn bộ kỳ nghỉ cuối tuần," anh nói ngay, giành quyền mở miệng trước, trong lúc ra khỏi xe trước Zack và bước qua cánh cổng sắt thấp. "Đây là một tình huống khẩn cấp."
Matt Sayles bước ra ngoài qua khung cửa sáng đèn phía sau cô, dừng lại trên hiên trước. Khăn ăn của anh ta nhét ở cổ áo, che khuất cái túi áo có logo Sears - tên cửa hàng anh ta quản lý tại trung tâm thương mại ở Rego Park.
Eph không để ý tới sự hiện diện của anh ta mà chỉ chăm chăm nhìn Kelly và Zack khi thằng bé bước vào sân. Kelly mỉm cười với anh, và Eph không khỏi băn khoăn liệu cô có thích việc này - Eph thất bại với Zack - hơn một kỳ nghỉ cuối tuần riêng tư với Matt không. Kelly ôm thằng bé với vẻ che chở. "Con ổn chứ, z?"
Zack gật đầu.
"Thất vọng nhỉ, mẹ cá là vậy."
Thằng bé lại gật đầu.
Cô nhìn chiếc hộp và mớ dây nhợ trong tay thằng bé. "Cái gì đây?"
Eph nói, "Bộ trò choi điện tử mới của Zack. Thằng bé mượn choi trong kỳ nghỉ cuối tuần này." Eph nhìn Zack, thằng bé áp đầu vào ngực mẹ, nhìn chằm chằm về phía trước. "Nè nhóc, nếu bố có bất kỳ lúc nào rảnh, có lẽ là ngày mai - hy vọng là ngày mai... nhưng nếu có bất kỳ lúc nào rảnh, bố sẽ trở về với con, và chúng ta sẽ cố hết sức tận dụng nốt kỳ nghỉ cuối tuần này. Được chứ? Bố sẽ bù lại cho con, con biết điều đó mà, phải không?"
Zack gật đầu, đôi mắt vẫn xa xăm.
Matt gọi xuống từ bậc thềm cao nhất. "Vào nhà đi, Zack. Để xem chúng ta có thể lắp ráp món đó đưọc không nào."
Matt đứng đắn, đáng tin cậy. Kelly chắc hẳn đã huấn luyện gã rất tốt. Eph nhìn cậu con trai được Matt khoác vai dẫn vào trong nhà, Zack liếc ra sau nhìn anh lần cuối.
Giờ chỉ còn lại hai người, anh và Kelly đứng đối diện nhau trên bãi cỏ nhỏ. Đằng sau cô, phía trên mái nhà cô, ánh đèn của những cái máy bay đang đợi vẽ thành những vòng tròn. Toàn bộ mạng lưới hàng không, chưa kể tới hàng loạt tổ chức chính phủ và cơ quan thực thi pháp luật, đang chờ đợi người đàn ông lúc này đang đối mặt với một người phụ nữ đã tuyên bố không còn yêu anh nữa.
"Là chuyện cái máy bay đó, phải không?"
Eph gật đầu. "Bọn họ đều chết hết. Toàn bộ người trên máy bay."
"Tất cả đều chết ư?" Đôi mắt Kelly rực lên đầy lo lắng. "Như thế nào? Sao có thể thế được?"
"Đó chính là điều anh phải tìm hiểu."
Giờ Eph đã cảm thấy tính chất khẩn cấp của công việc đè nặng lên mình. Anh đã đánh mất cơ hội với Zack - nhưng việc đã rồi, và giờ anh phải đi. Anh thò tay vào trong túi quần để lấy ra đưa cô một cái phong bì in logo kẻ sọc. "Dành cho chiều mai," anh nói. "Phòng trường họp anh không về kịp."
Kelly liếc nhìn mấy tấm vé, hai hàng lông mày nhướng lên trước mức giá, rồi nhét chúng trở lại phong bì. Cô nhìn anh với vẻ gần như thông cảm. "Chỉ cần anh đừng quên cuộc hẹn của chúng ta với bác sĩ Kempner là được."
Bác sĩ tư vấn hôn nhân gia đình - người sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về quyền nuôi Zack. "Kempner, được rồi," anh nói. "Anh sẽ có mặt ở đó."
"Và... nhớ cẩn thận nhé," cô nói.
Eph gật đầu và rời đi.
Sân bay quốc tế JFK
MỘT ĐÁM ĐÔNG ĐÃ TỤ TẬP ngoài sân bay, những người bị thu hút bởi cái vụ việc bí ẩn, kỳ quái, cái bi kịch tiềm tàng ấy, cái sự kiện ấy. Khi Eph đang trên đường, chương trình phát thanh đã coi vụ máy bay không hoạt động này là một vụ không tặc tiềm tàng, và phỏng đoán về mối liên hệ với các cuộc xung đột ở nước ngoài.
Trong nhà ga, hai chiếc xe trung chuyển băng qua Eph, xe đầu tiên chở một bà mẹ giàn giụa nước mắt đang nắm tay hai đứa con trông vô cùng sợ hãi, xe còn lại chở một quý ông da đen đặt trên đùi một bó hoa hồng đỏ. Anh nhận ra Zack của một ai đó khác đang ở trên cái máy bay kia. Kelly của ai đó khác. Anh đắm chìm trong suy nghĩ đó.
Đội của Eph đang đợi anh bên ngoài một cánh cửa khóa ngay dưới cổng số 6. Jim Kent đang loay hoay với chiếc điện thoại, như thường lệ, đang nói vào chiếc micro nối dây thòng xuống từ tai. Jim giúp Eph xử lý các vấn đề hành chính và chính trị trong khâu kiểm soát dịch bệnh. Jim khum tay che phần mic của dây điện thoại và nói, thay cho lời chào, "Không có bất cứ báo cáo nào khác về một vụ máy bay chết ở bất kỳ đâu trên cả nước."
Eph leo lên phía đuôi xe trung chuyển, cạnh Nora Martinez. Nora, một nhà hóa sinh tập sự, là cánh tay phải của anh ở New York. Cô đã đeo sẵn găng tay, lóp vỏ cao su nhợt nhạt, tron láng và ảm đạm như một đóa huệ tây. Cô dịch người sang một chút để Eph ngồi xuống. Anh lấy làm hối tiếc vì sự ngượng nghịu giữa hai người.
Họ bắt đầu di chuyển, Eph ngửi thấy mùi muối trong gió. "Cái máy bay hạ cánh được bao lâu trước khi đèn đóm tắt ngóm?"
Nora nói, "Sáu phút."
"Không liên lạc radio được ư? Của phi công cũng thế à?"
Jim quay ra sau nói, "Có vẻ thế, nhưng chưa xác thực được. Người của Cơ quan Quản lý Cảng đã vào khoang hành khách, thấy trong đó toàn xác chết và rút ra ngay."
"Hy vọng họ có mang mặt nạ và găng tay."
"Chắc chắn rồi."
Xe rẽ vào góc, cho thấy cái máy bay đang đợi ở xa. Một phi cơ khổng lồ được chiếu đèn tứ phía, rực sáng như ban ngày. Màn sương từ vùng vịnh gần đó khoác lên thân máy bay một lóp hào quang rực rỡ.
"Chúa ơi," Eph nói.
Jim nói, "Nó được gọi là 'bà số bảy'. Chiếc 777, máy bay hai động cơ lớn nhất thế giới. Thiết kế tân thời, phi cơ mới. Bởi vậy họ đã phát rồ lên vì việc nó ngừng hoạt động. Họ nghĩ khả năng cao là bị phá hoại".
Riêng mấy cái lốp hạ cánh cũng đã đồ sộ lắm rồi. Eph ngước lên nhìn cái lỗ hổng đen ngòm - cánh cửa mở phía trên cánh trái rộng.
Jim nói, "Họ đã dò khí độc. Họ đã dò tìm mọi thứ nhân tạo. Họ chẳng biết phải làm gì khác, đành phải bắt đầu từ vạch xuất phát."
Eph nói, "Chúng ta là vạch xuất phát còn gì."
Cái máy bay không hoạt động chứa đầy xác chết một cách bí ẩn này là một dạng "một ngày tỉnh giấc bất chợt phát hiện cái bướu trên lưng" của Đội Xử lý Chất Độc hại HAZMAT. Đội của Eph sẽ xét nghiệm sinh thiết để báo cho Cục Hàng không Liên bang biết liệu có mầm mống ung thư hay không.
Các nhân viên TSA[4] mặc vest xanh xông về phía Eph ngay khi xe trung chuyển dừng lại, cố gắng cung cấp cho anh một bản báo cáo sơ lược y hệt những gì Jim vừa nói. Hỏi anh đủ thứ và chen lời nhau y như đám phóng viên.
"Vụ này dây dưa lâu quá," Eph nói. "Lần sau nếu lại xảy ra chuyện gì đó không thể giải thích nổi giống như thế này thì hãy để chúng tồi xếp thứ hai nhé. Gọi HAZMAT trước tiên, chúng tôi xếp thứ hai. Hiểu chứ?"
"Vâng, thưa bác sĩ Goodweather."
"Đội HAZMAT sẵn sàng chưa?"
"Đã vào vị trí sẵn sàng rồi."
Eph bước chậm lại khi tới trước cái xe tải CDC. "Tôi chắc đây không giống một vụ lây nhiễm tự phát. Sáu phút trên mặt đất ư? Thời gian quá ngắn."
"Ăt hẳn phải là một hành động cố ý," một nhân viên TSA nói.
"Có thể," Eph nói. "Xét đến tình hình hiện tại, cho dù bất kể thứ gì đang chờ đợi ta trong đó, ta cũng phải có ngăn chặn nó lại." Anh mở cửa sau chiếc xe tải giùm Nora. "Chúng tôi sẽ thay đồ rồi xem có tìm hiểu được gì không."
Một giọng nói chen ngang. "Có một người của chúng tôi trên máy bay."
Eph quay lại. "Một người của ai?"
"Một Cảnh sát Hàng khồng Liên bang. Tiêu chuẩn trên các chuyến bay quốc tế của các hãng hàng không Mỹ."
"Có vũ trang chứ?" Eph hỏi.
"Nhìn chung là vậy."
"Không một cuộc gọi, không một cảnh báo nào từ anh ta ư?"
"Không có gì cả."
"Vậy là nó đã khống chế họ ngay lập tức." Eph gật đầu, nhìn vào khuôn mặt lo lắng của những người này. "Cho tôi số ghế của anh ta. Chúng tôi sẽ bắt đầu từ đó."
Eph và Nora chui vào trong chiếc xe tải của CDC, đóng hai cánh cửa sau, chặn lại phía sau bầu không khí tràn ngập lo âu trên đường băng.
Họ kéo bộ đồ HAZMAT loại A xuống khỏi giá treo. Eph cỏi đồ, chỉ để lại áo phông và quần soóc, Nora để lại chiếc áo ngực thể thao đen và quần lót tím, khuỷu tay và đầu gối họ không ngừng va chạm vào nhau bên trong chiếc Chevy chật chội. Tóc Nora đen, dày và dài đến mức ngỗ ngược đối với một bác sĩ dịch tễ, và cô buộc túm chặt nó lại bằng một sọi dây chun, hai cánh tay chuyển động một cách nhanh nhẹn và quả quyết. Cơ thể cô sở hữu những đường cong duyên dáng, làn da mang tông màu ấm áp như màu bánh mì nướng sơ.
Sau khi Eph chính thức ly thân với Kelly và cô bắt đầu tiến hành các thủ tục ly hôn, Eph và Nora từng có một đoạn tình cảm ngắn ngủi. Chỉ một đêm, theo sau là một buổi sáng vô cùng ngượng ngùng khó xử, và bầu không khí ấy kéo dài hàng tháng trời... cho tới lần thứ hai của họ, chỉ cách đây vài tuần - và mặc dù còn nồng nàn hơn lần trước, cộng với quyết tâm tránh né mọi cạm bẫy đã chôn vùi họ trong lần đầu tiên, nhưng nó lại một lần nữa đẩy họ vào một tình thế lập lờ khó xử kéo dài.
Theo một cách nào đó, anh và Nora quá gần gũi trong công việc: nếu họ có những công việc có thể được coi như là bình thường, một nơi làm việc truyền thống, thì kết quả có lẽ sẽ khác, có lẽ sẽ dễ dàng hon, tự nhiên hon, nhưng đây là "tình yêu nơi chiến trường", và vì mỗi người đều cống hiến quá nhiều cho Canary, họ chẳng còn gì mấy để mà dành cho nhau, hay cho phần còn lại của thế giới. Một mối quan hệ đồng nghiệp cập rập đến nỗi không ai buồn hỏi nhau, "Hôm nay thế nào?" trong thời gian rảnh - chủ yếu bởi chẳng hề có bất cứ thời gian rảnh nào.
Chẳng hạn như lúc này đây. Gần như trần truồng trước mặt nhau theo một cách thiếu màu sắc tình dục nhất có thể. Bởi những bộ đồ biosuit tương phản hoàn toàn với ham muốn tình dục. Nó là đối nghịch của sự quyến rũ, nó là dấu hiệu của sự kháng bệnh và vô trùng.
Lóp đầu tiên là một bộ áo liền quần hiệu Nomex, in phù hiệu với chữ viết tắt CDC sau lưng. Khóa kéo chạy từ đầu gối tới cằm, cổ áo và cổ tay áo được gài kín nhờ khóa dán, đôi giày ống màu đen thắt dây lên tới tận cẳng chân.
Lóp thứ hai là một bộ đồ màu trắng dùng một lần được làm bằng vải không dệt Tyvek mỏng tang. Tiếp đó là đôi giày bảo hộ đi bên ngoài đôi giày ống, găng tay và tất chống hóa chất Silver Shield bên ngoài lóp găng cao su, buộc chặt ở cổ tay và mắt cá chân. Rồi khoác lên mình bộ thiết bị thở chuyên dụng: bộ đai đeo, bình khí nén bằng titan nhẹ, mặt nạ dưỡng khí, và thiết bị báo động cá nhân gắn chuông báo nguy của lính cứu hỏa.
Cả hai đều chần chừ trước khi kéo mặt nạ xuống. Nora nhoẻn miệng cười và áp tay vào má Eph. Cô hôn anh. "Anh ổn chứ?"
"Ổn."
"Trông anh chẳng ổn chút nào. Zack sao rồi?"
"Hòn dỗi. Tức giận. Đúng như lẽ thường."
"Đó không phải lỗi của anh."
"Thì sao chứ? Dù gì thì kỳ nghỉ cuối tuần này của anh với con trai cũng đã đi tong, và anh sẽ chẳng bao giờ lấy lại được." Anh chuẩn bị sẵn sàng mặt nạ dưỡng khí. "Em biết đấy, trong đòi anh, từng có thời điểm anh bị buộc phải lựa chọn hoặc gia đình hoặc công việc. Anh cứ ngỡ mình đã chọn gia đình. Nhưng rõ ràng là chưa đủ."
Có những khoảnh khắc như thế này, thường xảy đến vào thời điểm bất tiện nhất, chẳng hạn giữa một cuộc khủng hoảng, khi ta nhìn vào một người và nhận ra ta sẽ đau lòng biết mấy nếu phải sống thiếu họ. Eph nhận thấy rõ anh đã bất công với Nora đến mức nào khi cứ níu lấy Kelly - thậm chí không phải Kelly, mà là quá khứ, là cuộc hôn nhân tan vỡ, là những gì đã qua, tất cả đều vì Zack. Nora quý mến Zack. Và Zack cũng quý cô, rõ ràng như thế.
Nhưng bây giờ, ngay bây giờ đây, không phải là lúc nghĩ tới chuyện này. Eph đeo mặt nạ dưỡng khí, kiểm tra lại bình ôxy. Lóp ngoài cùng là một bộ đồ "phi hành gia" kín mít màu vàng - màu vàng chim hoàng yến, có mũ trùm đầu kín, với tầm nhìn 210 độ, cùng găng tay cố định. Đây là một bộ đồ bảo hộ chuẩn loại A, hay còn gọi là "bộ giáp tiếp xúc", với mười hai lóp vải sẽ hoàn toàn cách ly người mặc với không khí bên ngoài ngay sau khi kéo khóa kín.
Nora và Eph kiểm tra khóa cho nhau. Các nhà điều tra hiểm họa sinh học thường hoạt động cùng một người đồng hành, giống như cánh thợ lặn. Bộ đồ của họ hơi phồng lên do không khí lưu thông bên trong. Mầm bệnh không thể xâm nhập cũng đồng nghĩa với việc mồ hôi và nhiệt độ cơ thể không được thoát ra, vì vậy nhiệt độ bên trong bộ đồ của họ có thể cao hơn nhiệt độ phòng.
"Có vẻ chặt rồi đó," Eph nói qua micro gắn trong mặt nạ của anh.
Nora gật đầu, bắt gặp ánh mắt Eph qua mặt nạ của họ. Ánh nhìn nấn ná khá lâu, như thể cô muốn nói điều gì đó, nhưng lại thôi. "Anh sẵn sàng chưa?" cô hỏi.
Eph gật đầu. "Bắt tay vào việc thôi."
Ngoài đường băng, Jim bật bộ thiết bị điều khiển gắn bánh xe của mình và bắt sóng cả hai máy quay gắn trên mặt nạ của Eph và Nora, trên hai kênh tín hiệu riêng biệt. Anh gắn những đèn pin nhỏ đang bật vào dây đeo vai của họ: độ dày của nhiều lớp găng tay làm hạn chế sự linh hoạt của người mặc.
Vài nhân viên TSA tới cố gắng bắt chuyện tiếp, nhưng Eph vờ điếc, lắc đầu chạm tay lên cái mũ trùm của mình.
Trên đường tiếp cận cái máy bay, Jim chỉ cho Eph và Nora xem một sơ đồ mặt cắt cho thấy vị trí chỗ ngồi, ở mặt sau là danh sách số ghế tương ứng của hành khách và thống kê về phi hành đoàn. Anh chỉ vào chấm đỏ tại số 18A.
"Cảnh sát Hàng không Liên bang," Jim nói vào micro. "Họ Charpentier. Hàng ghế gần lối ra, sát cửa sổ."
"Đã hiểu," Eph đáp.
Chấm đỏ thứ hai. "TS A cũng đã chỉ ra một hành khách khác đáng để lưu tâm. Một nhà ngoại giao Đức, Rolph Hubermann, hạng thương gia, hàng hai, ghế F. Tới thành phố dự buổi họp của Hội đồng Liên Hiệp Quốc về tình hình Triều Tiên. Có thể đã mang theo một túi ngoại giao được miễn kiểm tra hải quan. Có thể không có gì đâu, nhưng ngay lúc này một nhóm cán bộ Đức đang từ Liên Hiệp Quốc đến đây, chỉ để lấy lại nó."
"Được rồi."
Jim để họ lại ở rìa dãy đèn và quay trở lại với bộ điều khiển. Bên trong vòng tròn còn sáng hơn cả ban ngày. Họ di chuyển gần như không có bóng. Eph dẫn đường leo thang cứu hỏa lên cánh, rồi bám theo bề mặt trải rộng của nó tới cánh cửa đang mở.
Eph vào trước. Sự tĩnh lặng dường như có thể sờ thấy được. Nora theo sau, vai kề vai với anh tại đầu khoang hành khách.
Những xác chết ngồi đối diện họ, hàng nối hàng. Đèn pin của Eph và Nora soi ánh sáng nhập nhờ vào những con mắt mở vô hồn của họ.
Không có máu mũi. Mắt không sưng, da không rộp hay có nốt. Không hề sủi bọt mép hay chảy máu miệng. Tất cả đều ngồi trên ghế, không có dấu hiệu hoảng loạn hay chống cự. Những cánh tay buông thõng giữa lối đi hoặc kẹp trong đùi. Không có dấu hiệu chấn thương.
Điện thoại di động - trên đùi, trong túi quần hay nhét trong túi xách tay - bíp bíp báo tin nhắn chờ hoặc đổ chuông báo có tin nhắn vừa nhận, những âm thanh sống động chồng chéo. Chỉ có những âm thanh đó.
Họ tìm được vị trí viên cảnh sát hàng không, tại ghế ngồi cạnh của sổ ngay phía bên trong cửa ra vào. Một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi, tóc đen hói, vận áo sơ mi cài khuy kín cổ theo phong cách cầu thủ bóng chày với những dải sọc xanh và cam - màu của đội New York Mets, có hình linh vật Met đầu quả bóng được vẽ ở mặt trước áo, cùng quần jean xanh, cằm anh ta gục xuống ngực, như thể đang mở mắt mà ngủ.
Eph quỳ một chân, hàng ghế gần lối ra rộng rãi hơn giúp anh có đủ không gian để thao tác. Eph chạm vào trán viên cảnh sát và đẩy cái đầu đang oặt ra trên cổ anh ta về phía sau. Nora, đang ở ngay sát anh, rọi đèn pin qua lại trước mắt anh ta, con ngươi của Charpentier không có phản ứng. Eph kéo cằm anh ta xuống, mở hàm và soi đèn vào bên trong miệng anh ta, lưỡi và vòm họng có vẻ hồng hào, không có dấu hiệu trúng độc.
Eph cần thêm ánh sáng. Anh với người mở tấm che cửa sổ, và ánh đèn pha xuyên vào như một lưỡi dao trắng sáng rực.
Không nôn mửa như dấu hiệu hít phải khí độc. Nếu nạn nhân bị ngộ độc carbon monoxide thì da sẽ phồng rộp và mất màu, người sưng phù, như được bọc bằng da thuộc. Tư thế anh ta không có vẻ gì là bất tiện, không có dấu hiệu vật lộn. Bên cạnh anh ta, một phụ nữ trung niên mặc trang phục nghỉ dưỡng, cặp kính nửa gọng vắt vẻo trên mũi, phía trước đôi mắt trống rỗng. Họ đều ngồi như những hành khách bình thường, lưng ghế dựng thẳng, vẫn đang chờ tín hiệu THĂT DÂY AN TOÀN tắt khi đến cổng sân bay.
Hành khách ngồi ở hàng ghế gần cửa thoát hiểm trước đã xếp gọn vật dụng cá nhân trong những cái giỏ lưới gắn trên vách ngăn khoang ở trước mặt. Eph lôi một cái túi mềm Virgin Atlantic ra khỏi cái giỏ trước mặt Charpentier và mở khóa kéo. Anh rút ra một chiếc áo nỉ Notre Dame, mấy cuốn sách giải câu đố đã sờn trang, một đĩa sách nói kinh dị, rồi một túi ni lông hình bầu dục khá nạng. Anh kéo khóa mở túi ra, vừa đủ để thấy bên trong là một khẩu súng lục đen tuyền.
"Các anh thấy không?" Eph nói.
"Chúng tôi thấy rồi," Jim nói qua radio. Jim, TSA và bất kỳ ai có đủ thẩm quyền để tới gần bộ màn hình đều đang quan sát mọi việc qua camera gắn trên vai Eph.
Eph nói, "Dù chuyện này có là gì đi nữa thì nó cũng đã khiến cho không ai kịp phản ứng. Kể cả cảnh sát hàng không."
Eph kéo khóa đóng cái túi lại và đặt nó lên sàn, rồi anh đứng thẳng dậy, đi dọc lối đi giữa hai hàng ghế. Cứ cách hai hay ba hàng ghế anh lại với tay qua xác các hành khách để kéo tấm che cửa sổ lên, ánh sáng chói chang hắt nhũng cái bóng kỳ quái và làm cho gương mặt họ nổi bật hẳn lên, y như những lữ khách đã chết vì bay quá gần mặt tròi.
Những chiếc điện thoại vẫn reo, tiếng ồn càng lúc càng trở nên chói tai, nghe như hàng tá tiếng chuông báo nguy cá nhân chồng chéo lên nhau. Eph cố không nghĩ tới những người gọi đang lo lắng ở đầu dây bên kia.
Nora đến gần một thi thể. "Không hề có chấn thương," cô lưu ý.
"Anh biết," Eph nói. "Quái quỷ thật." Anh tưỏng như mình đang ở trong một phòng trưng bày xác chết. "Jim này," anh nói, "cảnh báo cho WHO châu Âu đi. Thông báo vụ này cho Bộ Y tế Liên bang Đức, liên lạc với các bệnh viện. Lỡ như thứ này có thể truyền nhiễm, phía họ hẳn cũng biết."
"Tôi làm ngay đây," Jim đáp.
Phía trước, trong khu bếp nằm giữa khoang hạng thương gia và khoang hạng nhất, bốn tiếp viên - ba phụ nữ, một đàn ông - đang ngồi có thắt dây an toàn trên các ghế phụ, cơ thể họ chúi về phía trước, kéo căng sọi dây trên vai. Khi đi qua họ, Eph có cảm giác như thể đang trôi xuyên qua xác một con tàu đắm dưới đáy đại dương.
Giọng Nora vọng lên. "Em đang ở đuôi máy bay, Eph. Chẳng có gì bất ngờ. Quay lại chỗ anh đây."
"Được," Eph vừa nói vừa đi ngược lại băng qua khoang hành khách được chiếu sáng qua các ô cửa sổ mở, mở tấm rèm dẫn vào khoang thương gia với lối đi giữa các hàng ghế rộng rãi hơn. Tại đó, Eph thấy nhà ngoại giao Đức, Hubermann, đang ngồi cạnh lối đi, gần đầu khoang. Hai bàn tay mập mạp của ông ta vẫn úp lên nhau đặt trên đùi, đầu gục xuống, một lọn tóc bạc trên trán rủ xuống đôi mắt vẫn đang mở.

Cái túi ngoại giao mà Jim nhắc tới nằm trong chiếc cặp hồ sơ dưới ghế ông ta ngồi. Nó có màu xanh nước biển, làm bằng nhựa dẻo và có khóa kéo.
Nora đến gần anh. "Eph, anh không được phép mở thứ đó..."
Eph kéo mở khóa, rút ra một thanh sô cô la Toblerone ăn dở và một chai nhựa trong ních đầy những viên thuốc màu xanh.
"Thứ gì vậy?" Nora hỏi.
"Anh đoán là Viagra," Eph nói, đút các món đồ vào lại túi, và đút túi vào lại cặp hồ sơ.
Anh dừng lại bên một người mẹ cùng cô con gái nhỏ tuổi đang đi du lịch cùng nhau. Bàn tay cô gái vẫn rúc trong tay người mẹ. Cả hai đều có vẻ thư thái.
Eph nói, "Không hoảng sợ, không gì hết."
Nora nói, "Thật khó hiểu."
Vi rút cần quá trình lây lan, và quá trình lây lan cần thời gian. Các hành khách phát bệnh hoặc ngã bất tính chắc chắn sẽ gây hỗn loạn, bất chấp tín hiệu THẮT DÂY AN TOÀN. Nếu đây là vi rút, thì nó không giống với bất kỳ mầm bệnh nào Eph từng đối mặt trong nhiều năm làm bác sĩ dịch tễ cho CDC. Thay vào đó, tất cả các dấu hiệu đều cho thấy một tác nhân gây độc chết người đã thâm nhập vào môi trường kín của khoang máy bay.
Eph nói, "Jim, tôi muốn dò lại khí độc."
Giọng Jim nói, "Họ đã lấy mẫu không khí, đo lường theo từng một phần triệu một. Không có gì cả."
"Tôi biết nhưng... cứ như thể những người này đã bất thần bị hạ gục bởi một thứ gì đó. Có thể thứ vật chất đó đã tiêu tan khi cánh cửa kia mở ra. Tôi muốn kiểm tra thảm và mọi bề mặt xốp khác. Chúng ta cũng sẽ kiểm tra tế bào phổi một khi danh tính của những người này được công bố."
"Được, Eph... tôi hiểu rồi."
Eph di chuyển nhanh chóng qua những chiếc ghế bọc da rộng rãi của khoang hạng nhất để tới cánh cửa buồng lái đang đóng. Cánh cửa được nẹp khung thép các cạnh, gắn camera trên trần. Eph với về phía tay nắm cửa.
Giọng của Jim vang lên trong cái mũ trùm đầu của Eph, "Eph, họ bảo cánh cửa có khóa mã, anh sẽ không thể..."
Cánh cửa bật mở dưới bàn tay đeo găng của anh.
Eph đứng im trên ngưỡng cửa mở. Anh đèn từ đường lăn rọi qua kính chắn gió màu, chiếu sáng cả khoang lái. Tất cả các màn hình hiển thị của hệ thống đều tối om.
Jim nói, "Eph, họ bảo anh phải cực kỳ cẩn thận đấy."
"Cảm on họ giúp tôi vì lời khuyên mang tính chuyên môn ấy nhé," Eph nói trước khi di chuyển vào trong.
Các màn hình hiển thị quanh các công tắc và tay ga đều tối đen. Một người mặc đồng phục phi công ngồi gục trên ghế phụ ở ngay bên phải khi Eph vừa bước vào. Hai người nữa, cơ trưỏng và cơ phó, ngồi ở ghế đôi trước bàn điều khiển. Hai bàn tay của cơ phó nắm hờ trên đùi, đầu anh ta ngả sang trái, vẫn đội mũ. Tay trái của cơ trưởng vẫn đặt trên cần điều khiển, cánh tay phải buông thõng khỏi tay ghế, các khóp ngón tay chạm thảm sàn. Đầu anh ta ngả về phía trước, mũ nằm trên đùi.
Eph nhoài người qua bàn điều khiển giữa hai chỗ ngồi để nâng đầu cơ trưởng lên. Anh dùng đèn pin kiểm tra đôi mắt đang mở của cơ trưởng, hai con ngươi bất động và dãn to. Anh nhẹ nhàng đặt đầu anh ta ngả trở lại vào ngực, và rồi cứng đờ người.
Anh cảm thấy một thứ gì đó. Anh nhận thấy một thứ gì đó. Một sự hiện diện.
Anh lùi khỏi bảng điều khiển và quét mắt khắp buồng lái, xoay người thành một vòng tròn.
Jim hỏi, "Gì vậy, Eph?"
Eph đã quá quen với các xác chết nên không dễ gì giật mình. Nhưng có thứ gì đó đang ở đây... đâu đây. Ở đây hoặc gần đây.
Cảm giác kỳ dị đã trôi qua, như con choáng nhẹ, và anh chớp chớp mắt. Anh lắc đầu xua nó đi. "Không có gì. Có khi là do không gian kín."
Eph quay sang người đàn ông thứ ba trong buồng lái. Đầu anh ta cúi thấp, vai phải tựa vào bức vách bên. Dây an toàn của anh ta rủ xuống.
Eph nói to, "Tại sao anh ta không thắt dây an toàn?"
Nora nói, "Eph, anh đang ở buồng lái hả? Để em qua đó."
Eph nhìn chiếc ghim cà vạt bằng bạc có logo Regis Air của người chết. Bảng tên trên túi áo anh ta đề REDFERN. Eph quỳ một gối trước mặt anh ta, ấn những ngón tay xỏ găng dày vào hai bên thái dương anh ta để nâng mặt anh ta lên. Mắt anh ta mở và cụp xuống. Eph kiểm tra con ngươi, có cảm giác như anh đã thấy gì đó. Một tia sáng le lói. Anh nhìn lại, và bất thình lình cơ trưởng Redfern rùng mình rồi rên lên.
Eph giật mình lùi lại, ngã vào giữa hai ghế lái và va sầm vào bàn điều khiển. Cơ phó đổ vào người anh và Eph cố đẩy anh ta ra, nhưng bị kẹt một lúc bởi sức nặng của cái xác mềm oặt.
Giọng Jim vang lên lanh lảnh, "Eph?"
Giọng Nora nhuốm sắc thái hoảng loạn. "Eph, chuyện gì vậy?"
Gắng hết sức, Eph đẩy xác cơ phó trở lại ghế và đứng dậy.
Nora nói, "Eph, anh ổn chứ?"
Eph nhìn cơ trưởng Redfern, lúc này anh ta đã gục xuống sàn, mắt mở trừng trừng. Dù vậy, cổ họng anh ta vẫn đang hoạt động, gấp gáp, cái miệng há ra dường như đang bị nghẹn không khí.
Eph mở to mắt, nói, "Chúng ta có một người còn sống ở đây."
Nora thốt lên, "Cái gì?"
"Chứng ta có một người còn sống ở đây. Jim, chúng ta cần một khoang cách ly Kurt cho người này. Mang thẳng tới cánh máy bay. Nora?" Eph nói gấp gáp, nhìn xuống người phi công đang co giật trên sàn. "Ta phải rà soát lại toàn bộ máy bay, từng hành khách một."
Chú thích
[1] Center for Disease Control and Prevention: Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Bệnh dịch.
[2] ông chù đội bóng chày Yankees.
[3] “Canary” nghĩa là chim hoàng yến.
[4] Viết tắt của “Transportation Security Administration” (Cục An ninh Vận tải).
PHỤ LỤC I
Abraham setrakian
ÔNG LÃO ĐỨNG MỘT MÌNH TẠI QUẦY HÀNG CHẬT CHỘI trong tiệm cầm đồ của ông ở phố 118 Đông, Spanish Harlem. Đã đóng cửa được một tiếng đồng hồ và dạ dày ông đang sôi ùng ục, nhưng ông lại ngại đi lên lầu. Các tấm che cửa ra vào và cửa sổ đều đã được kéo xuống, như lóp mí mắt bằng thép, những con người hoạt động về đêm đang chiếm hữu các con phố ngoài kia. Ta không ra ngoài khi đêm xuống.
Ông đến chỗ công tắc đèn sau bàn cầm đồ, tắt từng cái đèn một. ông thấy bi thương. Ông nhìn cửa hàng, nhìn những chiếc tủ trưng bày làm từ crôm và kính rạn. Những chiếc đồng hồ đeo tay trưng trên vải nỉ thay vì vải nhung, một miếng bạc đưọc đánh bóng mà ông chẳng thể tống khứ đi, một ít kim cương và vàng. Một bộ ấm trà bày trong tủ kính. Mấy bộ áo khoác lông thú hiện đang là chủ đề tranh cãi và áo khoác da. Các máy nghe nhạc còn mới mà đã sớm lỗi thời, cùng mấy cái radio và ti vi mà giờ ông chẳng muốn nhận thêm nữa. Và cũng có bảo vật chỗ này chỗ kia: một đôi két sắt cổ tuyệt đẹp (được phủ amiăng bên trong, nhưng đừng có ăn nó); một đầu đọc đĩa Quasar VCR bằng gỗ và sắt to cỡ chiếc va li được sản xuất từ thập niên 1970, một máy chiếu phim 16 mi li mét cổ.
Nhưng, ngẫm cho kỹ thì, cả đống thứ tạp nham chẳng đáng tiền. Một cửa hàng cầm đồ vừa như tiệm tạp hóa vừa như bảo tàng, vừa như một hòm thánh tích của địa phương. Người chủ hiệu cầm đồ cung cấp loại dịch vụ mà không ai khác có thể.
Ông là chủ ngân hàng của người nghèo, là nơi người ta có thể tới vay hai mươi lăm đô mà chẳng phải bận tâm tới lịch sử tín dụng, việc làm, hay các chứng nhận. Và, trong cảnh suy thoái kinh tế, hai mươi lăm đô có thể là cả một gia tài đối với nhiều người. Hai mươi lăm đô có thể là sự khác biệt giữa có nơi ở và vô gia cư. Hai mươi lăm đô có thể giúp mua thuốc. Vì thế, miễn sao có vật thế chấp, người ta có thể bước ra khỏi cửa hiệu của ông với tiền trong tay. Thật tuyệt.
Ông lê bước lên tầng, vừa đi vừa tắt thêm đèn. Ông thật may mắn khi sở hữu căn nhà này, mua nó hồi đầu thập niên 1970 với giá bảy đô cùng ít xu lẻ. Thồi được, có lẽ không rẻ đến thế, nhung cũng không đắt quá. Hồi đó họ còn phải đốt nhà để sưỏi ấm. Cửa hàng Đồ Cổ và Cho Vay Knickerbocker (biển đề gì thì dịch vụ nấy) chưa bao giờ là một phương tiện làm giàu đối với Setrakian, mà nói cho đúng hon, nó là một cánh cửa, một đường dẫn vào khu chợ đen thời tiền Internet ở thành phố giao lộ của thế giới, đối với một người dam mê nhũng vật dụng, đồ tạo tác, đồ cổ, hay những bí ẩn khác của Cựu Thế giới.
Ba mươi lăm năm, ban ngày mặc cả trang sức rẻ tiền, ban đêm tích cóp dụng cụ và vũ khí. Ba mươi lăm năm đợi thời cơ, chuẩn bị và chờ đợi. Giờ đây thời gian của ông đang cạn dần.
Trước cửa, ông chạm tay vào chiếc hộp mezuzah[1] rồi hôn lên nhũng đầu ngón tay cong nhăn nheo của mình trước khi bước vào. Chiếc gương cổ tại hành lang trầy xỉn đến nỗi ông phải nghển cổ lên mới tìm ra được một chỗ phản chiếu để soi mình. Mái tóc trắng như thạch cao của ông, bắt đầu từ tít trên cao vầng trán nhăn nheo chạy xuống tới tận dưới tai và cổ, đã quá lâu chưa được cắt tỉa. Mặt ông tiếp tục xệ xuống; cằm, dái tai và đôi mắt ông đều chịu khuất phục trước kẻ áp bức mang tên trọng lực. Bàn tay ông, đã bị gãy nặng và không được chữa trị tử tế mấy chục năm về trước, cong queo vì viêm khóp và luôn luôn được ông giấu dưới lóp găng tay len hở ngón. Tuy nhiên, ẩn chứa sâu bên trong dáng vẻ tàn tạ của người đàn ông này: sức mạnh. Ngọn lửa lòng. Tinh thần sắt đá.
Bí mật của sức sống thanh xuân bên trong ông? Một yếu tố đon giản.
Sự báo thù.
Rất nhiều năm về trước, tại Warsaw và sau là Budapest, có một người đàn ông tên Abraham Setrakian, một giáo sư đáng kính về văn học và văn hóa dân gian Đông Âu. Một người Sống sót sau thảm họa diệt chủng Holocaust đã sống sót qua vụ tai tiếng do kết hôn với sinh viên của mình, và là người đã được lĩnh vực nghiên cứu của mình dẫn đến nhiều góc khuất tăm tối nhất của thế giới.
Giờ đây, ông là một chủ tiệm cầm đồ lâu năm ở Mỹ, vẫn còn bị ám ảnh bởi nhiệm vụ chưa hoàn thành.
Ông đang còn thừa một ít xúp ngon, món xúp gà ngon tuyệt ăn cùng bánh chẻo và mì trứng, được một khách hàng quen cất công mang từ cửa hàng Liebman ở khu Bronx sang cho. Ông cho bát vào lò vi sóng và loay hoay thắt lại nút cà vạt lỏng lẻo của mình bằng nhũng ngón tay xương xẩu. Sau tiếng bíp, ông mang chiếc bát nóng hổi đặt lên bàn, với tay lên giá đỡ lấy một chiếc khăn ăn bằng vải lanh - chớ bao giờ dùng khăn giấy! - và nhét gọn gàng vào cổ áo.
Thổi xúp. Một nghi thức an ủi, trấn an. Ông nhớ bà ông, bubbeh của ông - nhưng nó không chỉ là ký ức đon thuần; nó là ý thức, là cảm giác - vẫn thường thổi xúp cho ông hồi ông còn bé, ngồi cạnh ông bên chiếc bàn gỗ ọp ẹp trong căn bếp lạnh lẽo tại nhà của họ ở Romania. Trước biến cố. hơi thở già nua của bà khuấy động làn hơi đang cuộn lên khiến nó phả vào khuôn mặt trẻ con của ông, một phép mầu âm thầm từ động tác giản đon. Giống như thổi sự sống vào thân xác đứa trẻ. Và lúc này, khi ông đang thổi, một ông lão già nua, ông quan sát làn hơi nước nhào nặn hơi thở của mình, băn khoăn không biết mình còn lại bao lần hít thở nữa đây.
Bằng những ngón tay trái cong queo, ông lấy một chiếc thìa ra khỏi ngăn kéo chứa đầy những món đồ đẹp đẽ, lộn xộn.
Giờ thổi lên cái thìa, tạo ra gạn sóng lăn tăn trong bể xúp tí hơn đó, rồi mới đưa vào miệng. Hương vị đến rồi đi, các gai vị giác trên lưỡi ông đang chết dần như những chiến binh già, nạn nhân của nhiều thập kỷ hút tẩu, một thói xấu của vị giáo sư.
Ông tìm thấy cái điều khiển mỏng của chiếc ti vi Sony lỗi thời - mẫu ti vi màu trắng dành cho phòng bếp - và màn hình 13 inch sống dậy, soi sáng căn phòng. Ông đứng dậy bước tới chạn thức ăn, vịn tay vào những giá sách đã ép hành lang này thành một tấm thảm hẹp cũ kĩ - sách khắp mọi noi, chất đống bên các bức tường, nhiều cuốn đã đọc xong, không cuốn nào bỏ được - rồi mở nắp hộp bánh và lấy nốt mẩu bánh mì đen ngon lành ông đã để dành. Ông mang ổ bánh mì bọc giấy trở lại chiếc ghế đệm trong phòng bếp, nặng nề ngồi xuống và bắt đầu loại bỏ các vết mốc trong lúc húp thêm một thìa xúp ngon lành.

Dần dần, hình ảnh trên màn hình thu hút sự chú ý của ông: một phi cơ lớn đỗ trên đường băng ở đâu đó, sáng bừng như một món trang sức bằng ngà bày trên lóp nỉ đen. Ông rút cái kính gọng đen đang móc trên ngực áo, nheo mắt cố nhìn ra dòng chữ chạy phía dưới. Thảm họa hôm nay xảy ra ở bên kia bờ sông, sân bay JFK.
Vị giáo sư già chăm chú theo dõi, tập trung vào cái máy bay có vẻ còn mới. Một phút trở thành hai phút, rồi ba phút, căn phòng mờ dần xung quanh ông. Ông đờ người - gần như choáng váng - trước bản tin kia, thìa xúp vẫn ở trên bàn tay giờ không còn rim rẩy của ông.
Hình ảnh cái máy bay không hoạt động trên màn hình ti vi vắt ngang hai cái mắt kính của ông như điềm báo tương lai. Nước xúp trong bát nguội dần, làn hơi nước mờ dần, tan biến dần, lát bánh mì đen vừa được lấy ra vẫn còn nguyên chưa đưọc ăn.
Ông biết.
Cộc-cộc-cộc.
Ông lão biết...
Cộc-cộc-cộc.
Hai bàn tay dị hình của ông bắt đầu đau nhức. Thứ ông nhìn thấy trước mắt không phải một điềm báo - nó là một cuộc tấn công. Nó là một động thái. Thứ ông vẫn luôn chờ đợi. Thứ ông vẫn luôn sẵn sàng đối phó. Suốt cả cuộc đòi cho đến tận thời khắc này.
Ban đầu dù ông có cảm thấy nhẹ nhõm chút nào - vì đã không bị tiêu diệt bởi cái điều kinh hoàng; vì đến phút chót vẫn giành được một cơ hội để báo thù - thì giờ nó cũng lập tức bị thế chỗ bởi một nỗi sợ hãi rõ ràng, gần như đau đớn. Từ ngữ buột ra khỏi môi ông.
Hắn ở đây rồi... Hắn ở đây rồi...
Chú thích
[1] Một cuộn giấy da chép những đoạn thơ và lời cầu nguyện của người Do Thái, đặt trong một chiếc hộp treo trước cửa các gia đình Do Thái để ngăn tai ương xâm nhập ngôi nhà.
Đến nơi
Kho bảo trì máy bay regis air
Do JFK cần đường lăn thông thoáng, cái máy bay được giữ nguyên trạng và được kéo vào kho bảo trì dài tít tắp của hãng Regis Aữ trước bình minh. Ai nấy đều im lặng khi chiếc 777 què quặt chứa đầy hành khách đã chết lăn bánh qua như một quan tài trắng khổng lồ.
Khi các miếng chặn bánh đã đưọc đặt vào vị trí và cái máy bay đã được cố định, những tấm vải bạt đen được trải ra phủ lên sàn xi măng lem luốc. Các tấm rèm y tế đi mưọn được dựng thẳng lên, tạo ra một khu cách ly rộng ở khoảng giữa cánh trái và mũi máy bay. Cái máy bay bị cô lập trong kho chứa, như xác chết trong một nhà xác khổng lồ.
Theo yêu cầu của Eph, Cơ quan Pháp y (OCME) New York đã cử tới một số điều tra viên pháp y cấp cao từ Manhattan và Queens, mang theo vài thùng đựng túi cứu hộ bằng cao su. OCME, cơ quan pháp y lớn nhất thế giới, đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý thảm họa thương vong lớn và hỗ trợ quá trình thu hồi xác.
Các nhân viên HAZMAT của Cơ quan Quản lý Cảng mặc đồ bảo hộ đưa viên cảnh sát hàng không ra trước tiên - mọi người nghiêm trang cúi chào khi túi thi thể xuất hiện nơi cửa cánh - rồi lần lượt từng hành khách ngồi hàng đầu trong khoang. Tiếp theo, họ tháo bỏ những ghế trống đó, sử dụng khoảng trống mới có này để cho xác chết vào túi trước khi đưa ra. Lần lượt từng thi thể được buộc vào cáng và hạ từ cánh máy bay xuống mặt sàn lót vải bạt.
Quá trình này diễn ra vô cùng thận trọng và, đôi lúc, ghê rợn. Sau một lúc, khi đã đưa được khoảng ba mươi thi thể ra, một nhân viên Quản lý Cảng bất ngờ ngã ra khỏi hàng ngũ thu hồi xác, vừa rên rỉ vừa tàm chặt lấy mũ trùm đầu. Hai nhân viên HAZMAT xúm lại hỗ trợ nhưng anh ta đá chân, xô họ ngã vào mấy tấm màn y tế, phá thủng ranh giới cách ly. Hoảng loạn bùng phát, mọi người dạt hết ra để cho anh nhân viên có khả năng đã bị đầu độc hoặc bị nhiễm bệnh này vừa cấu xé bộ đồ bảo hộ vừa tun đường thoát khỏi cái kho hun hút. Eph bắt kịp anh ta tại thềm đế máy bay, và ở đây, dưới ánh mặt tròi buổi sáng, anh nhân viên cuối cùng cũng thành công vứt chiếc mũ trùm và cỏi bỏ bộ đồ bảo hộ đang như một lóp da co khít. Eph túm lấy anh nhân viên, và anh này ngồi thụp xuống thềm đế máy bay, nước mắt đầm đìa.
"Thành phố này," anh ta nức nở. "Cái thành phố chết tiệt này."
Sau này, người ta đồn rằng nhân viên Quản lý Cảng này đã trải qua vài tuần làm việc đầu tiên kinh khủng bên đống đổ nát tại Khu vực Số 0[I], ban đầu làm nhiệm vụ giải cứu, rồi về sau là hỗ trợ công cuộc tái thiết. Bóng ma ngày 11/9 vẫn lơ lửng trên đầu rất nhiều nhân viên Quản lý Cảng, và cái thảm họa chết người hàng loạt đầy bí ẩn này lại một lần nữa khoi dậy nó.
Một nhóm phản ứng nhanh bao gồm các chuyên viên phân tích và điều tra viên từ ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia tại Washington D.c. đã đến trên một máy bay Gulfstream của FAA. Họ có mặt để phỏng vấn tất cả những người liên quan tới "sự cố" trên chuyến bay 753 của Regis Air, thu thập tư liệu về những giờ phút hoạt động cuối cùng, thông số chuyến bay cùng băng ghi âm buồng lái. Các điều tra viên từ Sở Y tế thành phố New York, vốn đã bị CDC qua mặt trong cuộc ứng phó khủng hoảng, được báo cáo vắn tắt về vụ việc, tuy nhiên Eph đã bác bỏ quyền tài phán của họ. Anh biết mình cần phải kiểm soát công cuộc ứng phó và ngăn chặn thảm họa nếu muốn mọi thứ diễn ra tốt đẹp.
Đại diện hãng Boeing trên đường từ Washington tới đã phủ nhận việc chiếc 777 hoàn toàn ngưng hoạt động là do "vấn đề kỹ thuật". Phó chủ tịch Regis Air, vừa thức dậy ở Scarsdale, khăng khăng rằng đội kỹ thuật riêng của Regis phải là nhóm người đầu tiên lên kiểm tra máy bay một khi lệnh cách ly bệnh dịch được dỡ bỏ. (Hiện tại, hỏng hóc hệ thống thông khí đang là giả thuyết chính về nguyên nhân tử vong.) Đại sứ Đức tại Hoa Kỳ cùng đội ngũ nhân viên của ông vẫn đang chờ nhận túi ngoại giao, Eph đã để mặc họ đợi tại phòng chờ Lufthansa's Senator trong nhà ga số 1. Thư ký truyền thông của thị trưởng đã lên kế hoạch cho buổi họp báo buổi chiều, còn ủy viên cảnh sát cũng có mặt cùng cục trưởng Cục Chống Khủng bố bên trong buồng điều khiển của xe phản ứng khẩn cấp của Sở Cảnh sát New York (NYPD).
Tới giữa buổi sáng, chỉ còn lại tám mươi thi thể chưa được mang ra. Quá trình xác định danh tính được triển khai nhanh chóng nhờ các bản scan hộ chiếu và kê khai hành khách chi tiết.
Trong thời gian nghỉ để thay đồ, Eph và Nora hội ý với Jim bên ngoài khu vực cách ly, tại một góc nhỏ của thân máy bay khổng lồ lộ ra phía sau những tấm màn chắn. Ngoài kia, các máy bay lại đang cất cánh và hạ cánh; họ có thể nghe thấy tiếng động cơ lúc to lúc nhỏ trên đầu, cảm nhận sự khuấy động trong bầu khí quyển, trong luồng không khí.
Eph vừa hỏi Jim vừa cầm chai nước uống từng ngụm một, "Bộ phận Giám định Pháp y ở Manhattan có thể xử lý được bao nhiêu thi thể vậy?"
Jim nói, "Queens có quyền hạn ở đây, nhưng anh có lý, trụ sở Ở Manhattan được trang bị tốt hơn cả. Chúng ta sẽ chia các nạn nhân ra giữa hai nơi này và Brooklyn cùng Bronx. Vậy, khoảng năm mươi người mỗi noi."
"Ta tính vận chuyển họ thế nào?"
"Xe tải đông lạnh. Giám định pháp y nói đó là cách họ xử lý những thi thể còn lại ở Trung tâm Thương mại Thế giới. Họ đã liên lạc với chợ cá Fulton ở Lower Manhattan."
Eph thường coi công việc kiểm soát dịch bệnh như một nỗ lực phản kháng thời chiến, anh và đồng đội chiến đấu cam go trong khi phần còn lại của thế giới cố duy trì cuộc sống thường ngày dưới nguy cơ bị chiếm đóng, bị lây nhiễm bởi vi rút và vi khuẩn. Trong tình huống ấy, Jim là phát thanh viên ngầm, thông thạo ba ngôn ngữ, người có thể kiếm được mọi thứ từ bơ sữa đến vũ khí hay một lối thoát an toàn ra khỏi thành phố.
Eph hỏi, "Không có gì từ phía Đức sao?"
"Vân chưa. Họ đã đóng cửa sân bay hai giờ, kiểm tra an ninh toàn diện. Không có nhân viên nào phát bệnh ở sân bay, không một ca bệnh đột ngột nào đưọc báo cáo cho các bệnh viện."
Nora lo lắng nói, "Chuyện này thật khó hiểu."
Eph gật đầu đồng tình. "Tiếp đi."
"Chúng ta có một máy bay đầy xác chết. Nếu nguyên nhân là khí độc, hay một sol khí nào đó trong hệ thống thông khí - dù có phải là tai nạn hay không - thì tất cả bọn họ đã không ra đi một cách... tôi phải nói là, cực kỳ thanh thản đến thế. Đáng ra họ phải bị ngạt, giãy giụa. Nôn mửa. Xanh tái. Người có cơ địa khác nhau sẽ gục ở những thời điểm khác nhau. Và kèm theo sự hoảng loạn. Này nhé - nếu như thay vì thế, đây là một vụ lây nhiễm, vậy thì chúng ta có một dạng mầm bệnh mới toanh cực kỳ lạ lùng, một thứ chưa ai trong chúng ta từng thấy. Ý tôi là, thứ gì đó do con người tạo ra, trong phòng thí nghiệm. Và trong cùng một thời điểm, hai người nhớ chứ, không chỉ các hành khách chết - cả cái máy bay cũng chết. Như thể là một thứ gì đó, một thứ có khả năng phá hủy nào đó, đã tấn công máy bay và xóa sổ mọi thứ bên trong, kể cả hành khách. Nhưng cũng chưa chắc là thế, phải không? Bởi vì, và tôi cho rằng đây mới là câu hỏi quan trọng nhất hiện giờ, ai đã mở cửa?" Nora nhìn qua nhìn lại giữa Eph và Jim. "Ý tôi là - cũng rất có thể là do thay đổi áp suất. Có thể cánh cửa vốn không khóa, và vì máy bay giảm áp suất nên nó đã mở ra. Ta có thể đưa ra những lời giải thích khôn khéo cho bất cứ vấn đề gì, bởi chúng ta là những chuyên gia y tế, đó là công việc của chúng ta."
"Còn những tấm che cửa sổ nữa," Jim nói. "Mọi người luôn nhìn ra ngoài cửa sổ trong lúc hạ cánh. Ai đã đóng hết chúng?"
Eph gật đầu. Suốt cả sáng nay, anh đã quá tập trung vào chi tiết, cũng tốt thôi nếu lùi lại và đứng từ xa mà nhìn các sự kiện kỳ lạ. "Bổi vậy nên bốn người sống sót mới chính là chìa khóa. Biết đâu họ đã được chứng kiến bất cứ điều gì."
Nora bổ sung, "Hoặc là có liên quan."
Jim nói, "Cả bốn người đều trong tình trạng nguy kịch nhưng ổn định tại khu cách ly của Trung tâm Y tế Bệnh viện Jamaica. Cơ trưởng Redfern, phi công thứ ba, nam, ba hai tuổi. Một luật sư từ hạt Westchester, nữ, bốn mốt tuổi. Một nhà lập trình máy tính từ Brooklyn, nam, bốn bốn tuổi. Và một nhạc sĩ, một nhân vật nổi tiếng từ Manhattan & Miami Beach, nam, ba sáu tuổi. Tên anh ta là Dwight Moorshein."
Eph nhún vai. "Chưa nghe tên đó bao giờ."
"Anh ta biểu diễn dưới nghệ danh Gabriel Bolivar."
Eph nói, "Ồ."
Nora nói, "Eo."
Jim nói, "Anh ta đang đi du lịch bí mật, ở khoang hạng nhất. Không lóp trang điểm đáng sợ, không cặp kính áp tròng điên rồ. Thế nên giới truyền thông hẳn sẽ phát rồ hơn nữa."
Eph nói, "Có bất cứ mối liên hệ nào giữa những người sống sót không?"
"Chưa thấy gì hết. Có thể các phân tích y tế sẽ tiết lộ gì đó. Họ ngồi rải rác trên máy bay, lập trình viên ở khoang thường, luật sư ở khoang thương gia, ca sĩ ở khoang hạng nhất. Và cơ trưởng Redfern, dĩ nhiên, ở buồng lái."
"Thật khó hiểu," Eph nói. "Nhưng dù sao nó cũng có ý nghĩa gì đó. Nếu họ tình lại, tất nhiên. Đủ lâu để chúng ta có thể thu được vài câu trả lời từ họ."
Một nhân viên Quản lý Cảng đêh tìm Eph. "Bác sĩ Goodweather, ông nên trở vào đó thì hon," anh ta nói. "Khoang hàng. Họ vừa tìm thấy một thứ."
Qua cánh cửa sập bên của khoang hàng, trong bụng dưới chiếc 777, họ đã bắt đầu đưa các tủ đựng hành lý bằng thép có bánh xe xuống, để đội HAZMAT Quản lý Cảng mở và kiểm tra. Eph và Nora bước vòng tránh các thùng chứa hàng còn lại được nối với nhau và khóa bánh vào đường ray trên mặt sàn.
Ở cuối khoang chứa hàng là một hộp chữ nhật dài, màu đen, bằng gỗ và trông rất nặng, giống như một chiếc tủ lớn để ngửa. Gỗ mun không đánh véc ni, dài khoảng hai mét rưỡi, rộng một mét hai, cao một mét. Cao hơn một cái tủ lạnh. Mặt trên phủ kín các hình chạm khắc tinh xảo, đường nét trang trí phức tạp cùng những ký tự cổ hoặc được-làm-cho-giống-ngôn- ngữ-cổ. Rất nhiều đường xoáy na ná các hình thù, các hình người trôi nổi - và có lẽ, với một chút tưởng tưọng, các khuôn mặt đang la hét.
"Chưa ai mở nó ư?" Eph hỏi.
Các nhân viên HAZMAT đều lắc đầu. "Chúng tôi chưa hề chạm vào thứ đó," một người nói.
Eph kiểm tra mặt sau của nó. Ba sợi dây chằng màu cam nằm trên sàn bên cạnh cái hòm, móc thép của chúng vẫn còn gài vào các khoen trên sàn. "Những dây đai này?"
"Lúc chúng tôi vào thì đã gỡ sẵn rồi," một người khác nói.
Eph nhìn quanh khoang hàng. "Không thể có chuyện đó," anh nói. "Nếu thứ này không được buộc cố định khi đang bay, nó sẽ gây hư hại nặng cho các thùng chứa hành lý, thậm chí là các vách trong của khoang hàng." Anh nghiên cứu lại nó lần nữa. "Thẻ thông tin của nó đâu? Bảng kê khai hàng hóa cho biết gì?"
Một nhân viên cầm một tập giấy được đóng kẹp tròn trong bàn tay đeo găng. "Nó không có ở đây."
Eph bước tới để tự mình kiểm tra. "Không thể thế được."
"Hàng hóa bất thường duy nhất được liệt kê ở đây, ngoài ba bộ gậy đánh golf, là một xuồng kayak." Người nhân viên chỉ sang bức vách bên, nơi một chiếc xuồng kayak để trong túi nhựa dán nhãn hành lý máy bay cũng được buộc bằng một loại dây đai màu cam có khóa móc.
"Gọi cho bên Berlin," Eph nói. "Họ phải có biên bản. Hẳn phải có người còn nhớ thứ này. Nó dễ phải nặng tới gần hai trăm cân."
"Chúng tôi đã làm rồi. Không có biên bản nào cả. Họ sẽ cho gọi đội quản lý hành lý và hỏi từng người một."
Eph quay lại với cái hòm đen. Bỏ qua lối chạm khắc kỳ quái, anh cúi rạp người, xem xét các bên, tìm ra ba bản lề tại mỗi cạnh trên. Nắp hòm là một cánh cửa xẻ dọc ở giữa, tạo thành hai nửa có thể mở ra. Eph chạm bàn tay đeo găng vào nắp hòm chạm khắc, rồi luồn tay xuống dưổi, cố mở cánh cửa nặng trịch. "Ai muốn giúp tôi một tay không?"
Một nhân viên bước lên, vòng những ngón tay mang găng xuống dưới mép chiếc nắp phía đối diện với Eph. Eph đếm đến ba, và họ cùng lúc mở cả hai cánh cửa nặng.
Hai cánh cửa mở toang trên những bản lề rộng bản chắc chắn. Một mùi giống mùi xác chết phả ra, như thể cái hòm đã bị khóa kín một trăm năm nay. Nó có vẻ rỗng, cho đến khi một nhân viên bật đèn pin soi vào trong.
Eph thò tay vào, ngón tay anh chìm vào trong một lóp đất mùn dày màu đen. Lóp mùn mềm dễ chịu như bột bánh và ngập tới hai phần ba cái hòm.
Nora lùi một bước khỏi cái hòm đang mở. "Nó trông như một chiếc quan tài," Nora nói.
Eph rút ngón tay ra, vẩy cho hết những thứ bám vào tay rồi quay về phía Nora, vô vọng chờ đợi một nụ cười của cô. "Hoi lớn so với một chiếc quan tài nhỉ?"
"Tại sao lại có người muốn vận chuyển một thùng đất chứ?" cô hỏi.
"Họ không làm thế đâu," Eph nói. "Hẳn phải có thứ gì đó bên trong."
"Nhưng bằng cách nào?" Nora nói. "Máy bay này đã bị cách ly hoàn toàn."
Eph nhún vai. "Chúng ta giải thích được bất cứ điều gì ở đây cơ chứ? Tất cả những gì anh biết chắc là ở đây, ta đang có một cái hòm mở khóa và không được gài dây, cũng không có hóa đon vận chuyển." Anh quay về phía những người còn lại. "Ta cần lấy mẫu đất. Đất lưu giữ dấu vết chứng cứ rất tốt. Như bức xạ chẳng hạn."
Một nhân viên nói, "Anh cho rằng tác nhân được dùng để hạ các hành khách...?"
"Được vận chuyển trong này? Đó là giả thuyết tốt nhất tôi được nghe trong suốt cả ngày hôm nay đấy."
Giọng của Jim vọng lên từ phía dưới họ, bên ngoài máy bay. "Eph? Nora?"
Eph đáp lại, "Gì vậy, Jim?"
"Tôi vừa nhận được điện thoại từ khu cách ly của bệnh viện Jamaica. Hai người thể nào cũng muốn tới đó ngay lập tức đấy."
Trung tâm Y tế Bệnh viện Jamaica
BỆNH VIỆN CHỈ CÁCH JFK mười phút ô tô về phía Bắc, dọc theo đường cao tốc Van Wyck. Jamaica là một trong bốn Trung tâm Phòng chống Khủng bố Sinh học ở New York. Nó là một thành viên đủ tư cách trong Hệ thống Giám sát Hội chứng, và Eph từng tổ chức một cuộc hội thảo của Canary tại đó chỉ mới vài tháng trước. Vì vậy anh biết rõ đường tới khoa cách ly bệnh nhân lây nhiễm qua đường hô hấp trên tầng năm.
Cánh cửa kim loại hai lóp có biểu tượng nguy hiểm sinh học ba cánh hoa màu cam lửa đặc trưng, ám chỉ nguy hiểm thực sự hoặc tiềm tàng đối với các thành phần tế bào hay cơ thể sống. Dòng chữ cảnh báo in:
KHU VỰC CÁCH LY: YÊU CẦU MẶC ĐÓ BẢO HỘ, KHÔNG PHẬN Sự MIỄN VÀO.
Eph giơ thẻ CDC tại bàn, và người quản lý đã nhận ra anh từ những lần tập huấn phòng chống sinh học trước kia. Bà đưa anh vào trong. "Chuyện gì vậy?" anh hỏi.
"Tôi thực sự không muốn tỏ ra kịch tính quá mức đâu," bà vừa nói vừa quẹt thẻ bệnh viện của mình trên máy quét và mở cửa vào khu cách ly, "nhung anh phải xem tận mắt mới được."
Lối đi bên trong nhỏ hẹp, vốn là vòng ngoài của khu cách ly, phần lớn diện tích được dành cho trạm y tá. Eph theo bà quản lý bước qua một tấm rèm xanh nước biển, vào một sảnh rộng đặt các khay đựng đồ bảo hộ - áo choàng, kính, găng tay, giày, mặt nạ phòng độ - và một thùng rác xoay lớn lót túi rác sinh học màu đỏ. Mặt nạ phòng độc là loại nửa mặt N95, hiệu suất lọc 95 phần trăm các hạt từ 0.3 micrômet trở lên. Nghĩa là nó có thể giúp bảo vệ người đeo khỏi phần lớn các vi rút lây qua đường hô hấp và các mầm bệnh do vi khuẩn, nhưng không thể chống lại chất độc hóa học hay khí độc.
Sau bộ đồ bảo hộ kín mít tại sân bay, Eph cảm thấy như thể đang bị phoi ra với chiếc khẩu trang y tế, mũ phẫu thuật, kính bảo hộ, áo choàng và bao giày bệnh viện. Bà quản lý, cũng đang mặc bộ đồ tương tự, nhấn một cái nút bấm, mở một dãy cửa bên trong, và khi bước vào, Eph cảm thấy một lực hút giống như chân không, do hệ thống áp suất âm hút không khí vào trong khu cách ly để không một phân tử nào có thể thoát ra.
Bên trong, một hành lang chạy dọc từ trái qua phải phía ngoài trạm cung cấp trung tâm. Trạm này gồm một xe đẩy chứa thuốc và các dụng cụ cấp cứu, một máy tính xách tay bọc nhựa và hệ thống liên lạc nội bộ giúp giao tiếp với bên ngoài, cùng các vật dụng cách ly phụ trợ.
Khu bệnh nhân là một dãy tám phòng nhỏ. Tổng cộng tám phòng cách ly cho một quận hơn hai triệu hai trăm năm mươi ngàn dân. "Năng lực vượt tràn" là một thuật ngữ ứng biến thảm họa chỉ khả năng mở rộng nhanh quy mô hoạt động bình thường của một cơ sở y tế để đáp ứng nhu cầu sức khỏe cộng đồng khi có trường họp khẩn cấp gầy nguy hại trên diện rộng. Số giường bệnh ở bang New York là khoảng 60.000 và đang giảm sút. Riêng dân số thành phö'New York đã là 8,1 triệu và đang tiếp tục tăng. Dự án Canary được cấp vốn với hy vọng cải thiện sự thiếu hụt mang tính thống kê này, như một dạng phương án ứng biến thảm họa tạm thời. CDC đánh giá động cơ chính trị này là "lạc quan". Eph thích thuật ngữ "tư duy hão huyền" hon.
Eph theo chân bà quản lý vào phòng đầu tiên. Đây không phải một phòng cách ly sinh học hoàn toàn; không có khóa không khí hay cửa thép. Chỉ là phòng bệnh bình thường được tách riêng. Căn phòng lát gạch vuông sáng ánh đèn huỳnh quang. Thứ đầu tiên Eph nhìn thấy là cái khoang Kurt bỏ đi đặt sát bức tường bên. Khoang Kurt là một loại cáng nhựa hình hộp dùng một lần, trông giống một chiếc quan tài trong suốt, mỗi bên có hai lỗ tiếp xúc tròn gắn kèm găng tay, khoang còn được trang bị bình dưỡng khí lắp ngoài có thể tháo ròi. Một cái áo choàng, áo sơ mi và quần dài, đã được cắt khỏi người bệnh nhân bằng kéo phẫu thuật, gom thành một đống bên cạnh, logo vương miện có cánh của Regis Air lộ ra trên chiếc mũ phi công để ngửa.
Một lóp rèm nhựa trong suốt bao quanh giường bệnh ở giữa phòng, bên ngoài đặt thiết bị giám sát và một khung truyền dịch tĩnh mạch điện tử chất đầy những túi dịch. Chiếc giường có tay vịn phủ khăn trải giường xanh chất mấy cái gối trắng lớn được dựng lên ở tư thế ngồi.

Cơ trưởng Doyle Redfern ngồi giữa giường, tay đặt trên đùi. Anh ta để chân trần, chỉ mặc một bộ quần áo bệnh nhân, vẻ cảnh giác. Nhưng, nhìn mũi kim truyền dịch trên bàn tay và cánh tay Redfern, cùng vẻ mặt mệt mỏi của anh ta - anh ta có vẻ đã sụt mất năm cân kể từ khi được Eph tìm thấy trong buồng lái - anh ta trông hệt như một bệnh nhân đang chờ kiểm tra sức khỏe tổng quát.
Anh ta ngước lên đầy hy vọng khi Eph tiến lại gần. "Anh ở bên hãng hàng không à?" anh ta hỏi.
Eph lắc đầu, chết lặng. Đêm qua, người này đã hổn hển ngã nhào xuống sàn buồng lái chuyến 753, mắt trọn ngược, trông như sắp chết đến noi.
Chiếc nệm mỏng kêu sột soạt khi người phi công cựa mình. Anh ta cau mày như thể đang bị đau, rồi hỏi, "Chuyện gì đã xảy ra trên máy bay vậy?"
Eph không giấu nổi nỗi thất vọng. "Tôi tới đây cũng vì muốn hỏi anh câu đó đấy."
Eph đứng trước mặt ngôi sao nhạc rock Gabriel Bolivar, người đang ngồi trên mép giường như một con quái vật vận quần áo bệnh nhân. Không có lóp trang điểm kinh dị, trông anh ta đẹp trai đến lạ, theo kiểu kham khổ, đầu bù tóc rối.
"Mệt vãi," Bolivar nói.
"Anh còn thấy khó chịu chỗ nào nữa không?" Eph hỏi.
"Đủ chỗ. Trời ạ." Anh ta xọc tay vào mái tóc đen dài. "Chớ bao giờ đi máy bay thương mại. Bài học rút ra từ vụ này đấy."
"Anh Bolivar, anh có thể cho tôi biết điều cuối cùng anh nhớ được về quá trình hạ cánh là gì không?"
"Hạ cánh nào? Nghiêm túc đấy. Tôi đã nốc khá nhiều vodka tonic trong suốt chuyến bay - chắc tôi đã ngủ say." Anh ta ngước lên, nheo mắt trước ánh sáng. "Cho tôi chút Demerol*[II]* chứ? Khi xe đẩy đi ngang qua ấy?"
Eph nhìn thấy những vết sẹo chằng chịt trên cánh tay trần của Bolivar, và nhớ ra một trong những trò điển hình của anh ta trên sân khấu là tự rạch lên người mình. "Chứng tôi đang cố khóp các hành khách với hành lý của mỗi người."
"Đon giản thôi. Tôi chẳng có gì cả. Không hành lý, chỉ mỗi điện thoại thôi. Máy bay riêng bị hỏng nên tôi lên chuyến bay này vào phút chót. Quản lý của tôi chưa nói cho anh biết à?"
"Tôi chưa nói chuyện với ông ta. Tôi đang muốn hỏi về một cái hòm lớn."
Bolivar nhìn anh chằm chằm. "Đây là một dạng kiểm tra tâm lý à?"
"Trong khoang hành lý. Một cái hòm cũ, chứa đầy đất."
"Chẳng biết anh đang nói về cái gì."
"Anh không mang nó từ Đức về ư? Nó có vẻ giống kiểu mà những người như anh thích sưu tầm."
Bolivar cau mày. "Chỉ là diễn thôi, ông ơi. Một chương trình chết tiệt, một màn biểu diễn. Trang điểm kiểu gothic và lời nhạc nặng đô. Google tôi đi - cha tôi là một nhà truyền giáo theo Hội Giám lý, và thứ duy nhất tôi sưu tầm là gái. Mà nhân nói đến chuyện đó, đến lúc quái nào tôi mới có thể ra khỏi đây?"
Eph nói, "Chúng tôi còn một vài lượt kiểm tra nữa. Chúng tôi muốn xác nhận tình trạng sức khỏe của anh hoàn toàn tốt trước khi để anh đi."
"Khi nào tôi có thể lấy lại điện thoại của mình?"
"Sớm thôi," Eph nói, rồi bước ra ngoài.
Bà quản lý đang gặp rắc rối với ba người đàn ông bên ngoài cửa vào khu cách ly. Hai trong số đó cao hơn hẳn Eph, hẳn phải là vệ sĩ của Bolivar. Gã thứ ba nhỏ con hơn mang một chiếc cặp hồ sơ, sặc mùi luật sư.
Eph nói, "Các quý ông, đây là khu vực cấm."
Gã luật sư nói, "Tôi tới đây để đón thân chủ của tôi, Gabriel Bolivar."
"Ông Bolivar đang trải qua một số cuộc kiểm tra và sẽ được xuất viện trong thời gian sớm nhất có thể."
"Và đó là khi nào?"
Eph nhún vai. "Hai, hay có lẽ là ba ngày, nếu mọi việc thuận lọi."
"Ông Bolivar đã yêu cầu được xuất viện để bác sĩ riêng của ông ấy chăm sóc. Tôi không chỉ có quyền của một luật sư, tôi còn là người đại diện chăm sóc sức khỏe của ông Bolivar trong trường họp ông ấy bị bất kỳ thương tật gì."
"Không ai được vào gặp anh ta ngoại trừ tôi," Eph nói. Rồi anh nói với bà quản lý, "Hãy lập tức bố trí bảo vệ tại đây."
Gã luật sư sấn tói. "Nghe này, bác sĩ. Tôi không biết nhiều về luật cách ly kiểm dịch, nhưng tôi khá chắc cần phải có sắc lệnh hành pháp từ tổng thống khi muốn giữ ai đó trong khu cách ly y tế. Tôi có thể xem sắc lệnh đó đưọc chứ?"
Eph mỉm cười. "Anh Bolivar giờ là bệnh nhân của tôi và cũng là người sống sót sau một tai nạn thương vong lớn. Nếu anh để lại số điện thoại của mình tại bàn y tá, tôi sẽ cố gắng hết sức cập nhật tình hình phục hồi của anh ta cho anh - tất nhiên là với sự ưng thuận của anh Bolivar."
"Này, bác sĩ." Gã luật sư đặt tay lên vai Eph theo cái kiểu mà Eph chẳng thích một chút nào. "Tôi có thể đạt được kết quả nhanh hơn so với đợi lệnh của tòa án chỉ đơn giản bằng cách huy động lực lượng fan cuồng của thân chủ tôi." Gã đe dọa cả bà quản lý. "Hai người có muốn đám gái mặc đồ gothic cùng một lũ đồng bóng biểu tình bên ngoài bệnh viện, càn quét qua những hành lang này chỉ để được gặp anh ấy không?"
Eph nhìn vào bàn tay tên luật sư cho tới khi hắn bỏ ra khỏi vai anh. Anh phải gặp hai người sống sót nữa. "Này, tôi thực sự không có thời gian cho chuyện này. Vì thế tôi sẽ hỏi thẳng anh một số câu. Thân chủ của anh có bất cứ bệnh lây truyền qua đường tình dục nào mà tôi cần biết không? Anh ta có tiền sử dùng ma túy không? Tôi hỏi thế bởi vì nếu tôi phải đi lục lại toàn bộ hồ sơ bệnh án của anh ta, chậc, những thứ này có khi lại lọt vào tay kẻ xấu không chừng. Anh đâu muốn toàn bộ bệnh án của anh ta bị tiết lộ cho giới báo chí, phải không?"
Gã luật sư nhìn anh chòng chọc. "Đó là những thông tin riêng tư. Làm lộ nó nghĩa là phạm trọng tội."
"Và cũng là một nỗi ô nhục khủng khiếp nữa," Eph nói, rồi nhìn thẳng vào mắt gã luật sư thêm vài giây để đạt được hiệu quả tối đa. "Ý tôi là, hãy thử tưởng tượng lỡ ai đó đưa toàn bộ hồ sơ bệnh án của anh lên mạng cho mọi người cùng thấy mà xem."
Gã luật sư đờ ra khi Eph bước qua hai tên vệ sĩ.
Joan Luss, đồng sở hữu một công ty luật, bà mẹ hai con, tốt nghiệp Đại học Swarthmore, sống tại Bronxville, thành viên Junior League11*, đang ngồi trên tấm nệm xốp trên giường bệnh khoa cách ly, vẫn trong trang phục bệnh nhân lố bịch ấy, nguệch ngoạc ghi chép trên mặt sau của tấm ga trải giường. Nguệch ngoạc, chờ đợi và ngọ nguậy những ngón chân trần. Họ không trả lại điện thoại cho cô ta; cô ta thậm chí đã phải tán tỉnh và hăm dọa chỉ để xin được một chiếc bút chì.
Cô ta lại vừa định lẩm bẩm gì đó thì y tá cuối cùng cũng bước vào. Joan liền nở một nụ cười cầu cạnh. "Xin chào, cô đây rồi. Tôi đang băn khoăn quá. Tên của bác sĩ vừa ở đây là gì ấy nhỉ?"
"Anh ấy không phải bác sĩ ở bệnh viện này."
"Tôi biết chứ. Tôi hỏi tên anh ta thôi mà."
"Anh ấy là bác sĩ Goodweather."
"Họ Goodweather." Cô ta nguệch ngoạc ghi lại. "Còn tên?"
"Bác sĩ." Cô y tá cười nhạt. "Với tôi, họ đều có một cái tên như nhau - Bác sĩ."
Joan nheo mày, như thể không chắc mình đã nghe chính xác, và hơi cựa mình trên tấm ga trải giường thô cứng. "Và anh ta đã được cử tới đây từ Trung tâm Kiểm dịch?"
"Vâng, tôi đoán vậy. Lúc ra về anh ta có yêu cầu kiểm tra vài thứ..."
"Có bao nhiêu người khác sống sót sau vụ va chạm?"
"ừm, không có vụ va chạm nào cả."
Joan mủn cười. Đôi khi, để hiểu được vấn đề, ta cần phải giả vờ như tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai của họ. "Tôi đang muốn hỏi cô là còn bao nhiêu người nữa không chết trên chuyến bay 753 từ Berlin đến New York?"
"Ngoài cô ra, còn ba người khác trên chuyến bay này. Nào, bác sĩ Goodweather muốn lấy máu và..."
Joan ngay tức khắc phớt lờ cô y tá. Lý do duy nhất khiến cô ta vẫn còn ngồi trong phòng bệnh này là bởi cô ta biết mình [III]
CÓ thể tìm hiểu thêm về sự việc bằng cách vờ họp tác. Nhưng âm mưu này đang sắp đến hồi kết. Joan Luss là một luật sư lo những vụ thiệt hại ngoài họp đồng, "thiệt hại ngoài họp đồng" là thuật ngữ pháp lý mang nghĩa "một sai phạm dân sự", được xem là cơ sở để kiện tụng. Một cái máy bay chở đầy hành khách đã chết, ngoại trừ bốn người - một trong số đó là luật sư dân sự.
Tội nghiệp Regis Air. Đối với họ mà nói, có một hành khách lẽ ra không nên sống sót.
Joan nói, át tiếng chỉ dẫn của cô y tá, "Tôi muốn một bản sao hồ sơ bệnh án của tôi cho đến thời điểm hiện tại, cùng danh sách tất cả các xét nghiệm đã được thực hiện, và kết quả của chúng..."
"Cô Luss? Cô chắc mình vẫn ổn chứ?"
Trước đó Joan đã bất tỉnh một lát, nhưng đấy chỉ là tàn dư của bất cứ thứ gì đó đã chế ngự họ vào cuối chuyến bay khủng khiếp ấy. Cô ta mỉm cười và lắc đầu nguầy nguậy, tỏ rõ ý kiến của mình. Nỗi căm phẫn mà cô ta đang cảm thấy đây sẽ tiếp sức cho cô ta trong hàng ngàn tiếng đồng hồ đáng đồng tiền bát gạo sắp tới cốt để rà soát lại thảm họa này và mang hãng hàng không cẩu thả đến mức nguy hiểm kia ra tòa.
Cô ta nói, "Tôi sẽ sớm cảm thấy vô cùng ổn thôi."
Kho bảo trì máy bay Regis Air
"KHÔNG CÓ RUỒI," EPH NÓI.
Nora hỏi, "Gì cơ?"
Họ đang dring trước dãy túi xác xếp trước máy bay. Bốn xe tải đông lạnh đã đậu trong kho, hai bên thùng xe được cẩn thận căng bạt đen để che dấu hiệu của chợ cá. Cơ quan Pháp y New York đã nhận diện và đeo thẻ chân có mã vạch cho mọi thi thể. Thảm kịch này là một tai nạn chết người hàng loạt "trong không gian kín", theo cách nói của họ, với con số thương vong cố định và có thể biết được - trái ngược với vụ sập Tháp đôi. Nhờ bản scan hộ chiếu, thống kê hành khách và tình trạng nguyên vẹn của các thi thể, công việc nhận dạng người thiệt mạng khá đơn giản và dễ dàng. Việc xác định nguyên nhân tử vong mới chính là thử thách thực sự.
Tấm bạt vải nhăn nhúm lại dưới đế giày của đội HAZMAT trong khi những túi nhựa dẻo màu xanh dương được nhấc bổng lên nhờ hai sọi dây ở hai đầu và chất lên các xe tải đang chờ sẵn với thái độ trang trọng.
Eph nói, "Đáng ra phải có ruồi chứ." Các đèn đặt quanh kho máy bay cho thấy không gian phía trên các xác chết khá thoáng đãng, chỉ có một vài con bướm đêm lười nhác. "Tại sao không có ruồi nhỉ?"
Sau khi ai đó chết, các vi khuẩn trong hệ tiêu hóa, vốn trước đó sống cộng sinh trong vật chủ khỏe mạnh, bắt đầu tự sinh tồn. Đầu tiên chúng ăn ruột, sau đó ăn tới khoang bụng và tàn phá các cơ quan. Ruồi có thể đánh hơi thấy mùi thối rữa của xác chết phân hủy từ cách xa cả dặm.
Hai trăm lẻ sáu bữa ân đã được bày sẵn tại đây. Kho máy bay đáng lẽ phải vo ve đầy ruồi nhặng.
Eph đi sang phía bên kia tấm bạt vải, tới nơi hai nhân viên HAZMAT đang niêm phong một túi xác. "Chờ chút," anh bảo họ. Họ vươn thẳng người lên và lùi lại trong khi Eph quỳ xuống mở khóa kéo, để lộ ra xác chết bên trong.
Đó là cô bé đã chết khi vẫn đang nắm tay mẹ. Eph đã vô thức ghi nhớ vị trí thi thể cô trên sàn. Người ta luôn luôn nhớ đến trẻ con.
Mái tóc vàng của cô bé xõa xưọi, một mặt dây chuyền hình ông mặt tròi mỉm cười xỏ sợi dây màu đen nằm trên hõm cổ. Chiếc váy trắng khiến cô trông như một cô dâu.
Hai nhân viên chuyển sang niêm phong cái túi kế tiếp. Nora bước tới sau Eph, quan sát anh. Bằng hai bàn tay mang găng, anh nhẹ nhàng giữ hai bên đầu cô bé, rồi xoay nhẹ.
Tử thi sẽ hoàn toàn cứng lại khoảng mười hai giờ sau khi chết, rồi duy trì trạng thái đó trong muôi hai đến hai tư giờ - hiện giờ các thi thể đang ở giữa giai đoạn này - cho tới khi các liên kết canxi cố định bên trong các cơ bị đứt lần nữa và cơ thể quay trở lại trạng thái mềm.
"Vẫn mềm," Eph nói. "Không bị Cling."
Anh nắm lấy vai và hông cô bé rồi lật úp cô lại. Anh tháo cúc ở lưng váy, làm lộ ra phần thịt ở thắt lưng và các đốt xương sống nhỏ. Da cô xanh xao và lấm tần tàn nhang.
Sau khi tim ngừng đập, máu sẽ ngập hệ tuần hoàn. Vách mao mạch, chỉ có độ dày bằng một tế bào, sẽ nhanh chóng đầu hàng trước áp lực, bục ra và làm tràn máu vào các mô lân cận. Máu này nằm ở vùng thấp nhất, vùng "phụ thuộc" của cơ thể, và sẽ đông rất nhanh chóng, sắc bầm tím nghe nói sẽ ổn định sau khoảng mười sáu giờ.
Đến lúc này thì đã quá giới hạn thời gian đó.
Khi ngừng thở trong tư thế ngồi, rồi sau đó lại được đặt nằm thẳng, lóp máu dày tràn lẽ ra phải khiến lóp da phần lưng dưới có màu tím đậm.
Eph nhìn dãy túi xác. "Tại sao các thi thể này không phân hủy như lẽ thường chứ?"
Eph nhẹ nhàng đặt cô bé nằm ngửa lại, rồi bằng bàn tay lành nghề của mình, anh mở mắt phải của cô. Giác mạc mờ đục, đúng như phải thế, và màng cứng, lóp trắng đục bảo vệ mắt, khô như lẽ thường. Anh kiểm tra các đầu ngón tay phải của cô bé - bàn tay lúc trước đã lồng trong bàn tay mẹ - và nhận thấy chúng hơi nhăn do mất nước, cũng đúng như lẽ thường.
Anh ngồi xuống, bối rối trước những dấu hiệu lẫn lộn, rồi anh đặt hai ngón cái mang găng vào giữa cặp môi khô của cô bé. Tiếng động nghe như hơi thở bật ra từ cái miệng vừa được tách ra chỉ đon giản là tiếng thoát khí. Bên trong miệng cô bé có vẻ không có gì bất thường, nhưng anh vẫn luồn một ngón tay vào để ấn lưỡi cô bé xuống, kiểm tra độ khô.
Vòm miệng và lưỡi đều trắng bệch, như thể được chạm ngà. Trông giống một chiếc netsuke®. Lưỡi cứng và cương lên một cách kỳ lạ. Eph đẩy cái lưỡi sang một bên, đê’ lộ phần còn lại của miệng, cũng khô tương tự.
1. Netsuke là một loại trang sức nhỏ chạm ngà của Nhật, thường có hình tròn và được móc vào trang phục kimono.
Khô ư? Rồi gì nữa đây? anh nghĩ. “Các thi thể đều kiệt nước - không còn một giọt máu." Nếu không phải câu thoại đó thì là một câu trong một bộ phim truyền hình kinh dị thập niên 1970 của đạo diễn Dan Curtis: “Thưa Trung úy, các xác chết - chúng đều... bị hút kiệt máu!" Tiếng đàn organ vang lên.
Eph bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Anh giữ cái lưỡi cứng giữa ngón cái và ngón trỏ, rồi dùng một đèn pin nhỏ để soi kỹ xuống cổ họng trắng phớ của cô bé. Đối với anh, việc này có gì đó hơi giống với khám phụ khoa. Netsuke khiêu dâm?
Rồi cái lưỡi chuyển động. Anh giật nảy người ra sau, rút ngón tay ra. "Chúa ơi!" Khuôn mặt cô bé vẫn giữ nguyên chiếc mặt nạ tử thần vô hồn, môi vẫn hơi hé mở.
Nora, đứng ngay cạnh anh, nhìn chằm chằm. "Gì vậy?"
Eph chùi ngón tay đeo găng vào quần. "Phản xạ bình thường thôi," anh nói và đứng dậy. Anh nhìn xuống khuôn mặt cô bé một lúc cho tới khi không thể chịu nổi nữa, rồi kéo khóa lên dọc thân túi, khóa cô lại bên trong.
Nora nói, "Đó có thể là gì nhỉ? Một thú bằng cách nào đó làm chậm quá trình phân hủy các mô? Những người này đã chết..."
"Chết đúng nghĩa ngoại trừ quá trình phân hủy." Eph lắc đầu bực bội. "Chúng ta không thể trì hoãn việc vận chuyển. Điều quan trọng là, ta cần đưa những thi thể này đến nhà xác. Mổ phanh ra. Tìm hiểu thứ này từ bên trong."
Anh để ý thấy Nora đang nhìn chằm chằm về hướng cái hòm chạm khắc hoa văn, đang được đặt trên sàn kho máy bay, tách biệt khỏi những đống hành lý chưa dỡ. "Chuyện này không ổn chút nào," cô nói.
Eph nhìn về hướng khác, về phía cái máy bay khổng lồ phía trên. Anh muốn trở lại máy bay. Họ chắc hẳn đã bỏ sót gì đó. Câu trả lời hẳn phải nằm trong đấy.
Nhưng chưa kịp làm thế, anh đã nhìn thấy Jim Kent đang tháp tùng giám đốc CDC bên trong nhà kho. Bác sĩ Everett Barnes đã sáu mươi mốt tuổi, nhưng trông vẫn chả khác gì so với ngày ông bắt đầu sự nghiệp là một bác sĩ miền Nam. Dịch vụ Y tế Công cộng (PHS), mà CDC là một phần trong đó, bắt nguồn từ hải quân, và mặc dù PHS đã tách ra từ lâu, nhiều nhân sự cấp cao của CDC, gồm cả giám đốc Bames, vẫn ưa loại đồng phục quân đội. Vậy nên mới sinh ra một quý ông bình dân, giản dị, để một chỏm râu bạc phớ nhưng lại ăn vận như một thượng tướng về hưu trong bộ đồng phục chiến đấu kaki cùng mề đay trên ngực. Trông hệt như một phiên bản đóng quân phục của Đại tá Sanders[4].
Sau màn chào hỏi và xem xét qua loa một xác chết, giám đốc Barnes hỏi về những người sống sót.
Eph bảo ông, "Không ại trong số họ có bất kỳ ký ức nào về chuyện đã xảy ra. Họ không giúp ích được gì cả."
"Các triệu chứng?"
"Đau đầu, có người rất nặng. Đau cơ, ù tai. Chóng mặt. Khô miệng. Mất thăng bằng."
Giám đốc Bames nói, "Nói chung là cũng chẳng tệ hơn là mấy so với bất cứ ai vừa trải qua một chuyến bay vượt Đại Tây Dương."
"Lạ lắm, Everett à," Eph nói. "Tôi và Nora là hai người đầu tiên lên máy bay. Mấy hành khách này - cả bốn người họ - đều đã chết. Tắt thở. Quá bốn phút không có ôxy là não sẽ bị tổn thương vĩnh viễn. Những người này, họ có lẽ đã thiếu ôxy trong hơn một giờ."
"Rõ là không thể vậy rồi," giám đốc nói. "Và họ không thể nói cho anh biết bất cứ điều gì ư?”
"Họ còn hỏi tôi nhiều hơn tôi hỏi họ."
"Có bất cứ tương đồng nào giữa bốn người này không?"
"Tôi đang tìm hiểu đây. Tôi định nhờ ồng giúp giữ họ lại cho tới khi công việc của ta hoàn tất."
"Giúp ư?"
"Ta cần bốn bệnh nhân này họp tác."
"Ta có sự họp tác của họ đấy chứ."
"Lúc này thôi. Chỉ là... chúng ta không thể liều được."
Giám đốc vừa nói vừa chải bộ râu bạc của ông. "Tôi chắc rằng, chỉ cần khôn khéo một chút trong cách ứng xử với bệnh nhân, ta có thể khoi dậy lòng cảm kích của họ vì đã thoát khỏi số phận bi thảm này và khiến họ họp tác." Ông mỉm cười, để lộ hàm răng trên bọc sứ.
"Hay là áp dụng Đạo luật Quyền Y tế[5]..."
"Ephraim, anh biết việc cách ly một vài hành khách tự nguyện điều trị phòng bệnh khác xa với việc giam giữ họ trong thời gian cách ly mà. Ta có những vấn đề lớn hơn - thực lòng mà nói là những vấn đề truyền thông - cần giải quyết."
"Everett, tôi buộc lòng phải phản đối..."
Bàn tay nhỏ của ông giám đốc nhẹ nhàng hạ xuống vai Eph. Ông nói với giọng lè nhè hơi cuông điệu, có lẽ nhằm xoa dịu tình hình. "Để tôi tiết kiệm chút thời gian cho cả hai ta nhé, Ephraim. Nhìn nhận một cách khách quan mà nói, sự cố bi thảm này, may mắn thay - hay người ta có thể nói là, thần kỳ thay - đã được chặn lại. Ta không có ca tử vong hay nhiễm bệnh nào khác trên bất kỳ chuyên bay hay sân bay nào khác trên toàn cầu, trong vòng xấp xỉ mười tám giờ kể từ khi cái máy bay kia hạ cánh. Đó là những điểm tích cực, và ta phải nhấn mạnh vào đó. Hãy gửi thông điệp tới toàn thể công chúng, củng cố niềm tin của họ vào hệ thống hàng không của ta. Tôi tin chắc, Ephraim ạ, chỉ cần giành được cảm tình của nhũng người may mắn sống sót này, kêu gọi ý thức và trách nhiệm của họ, thế là đã đủ để buộc họ họp tác." Giám đốc bỏ tay ra, mủn cười với Eph nhu thể một quân nhân đang vỗ về cậu con trai theo chủ nghĩa hòa bình của mình. "Thêm nữa," Bames tiếp tục, "vụ này có đầy đủ dấu hiệu của một vụ rò khí ga chết tiệt, phải không? Rất nhiều nạn nhân chết đột ngột? Không gian kín? Và nhũng người sống sót đã bình phục sau khi đuọc đua ra khỏi máy bay?"
Nora nói, "Ngoại trừ việc hệ thống thông khí ngừng hoạt động khi mất điện, ngay sau khi hạ cánh."
Giám đốc Bames gật đầu, khoanh tay suy nghĩ về điều đó. "Ùm, còn rất nhiều điều phải xem xét, dĩ nhiên. Nhưng, xem này, đây quả là một đợt huấn luyện cực tốt cho nhóm của anh. Anh đã xử lý rất tốt. Và giờ đây mọi thứ có vẻ như đã trong tầm kiểm soát, cú chờ mà xem anh giải quyết triệt để vụ này. Ngay khi cuộc họp báo chết tiệt này xong xuôi."
Eph nói, "Khoan đã. Gì cơ?"
"Thị trưởng và thống đốc đang chuẩn bị tổ chức họp báo, cùng các đại diện bên hãng hàng không, nhân viên Quản lý Cảng, vân vân. Tôi và anh sẽ đại diện cho lực lưọng phản ứng y tế liên bang."
"Ôi, không. Thưa ông, tôi không có thời gian. Jim có thể làm việc đó..."
"Jim có thểỉầm việc này, nhưng hôm nay sẽ là anh, Ephraim. Như tôi đã nói, đã đến lúc anh trở thành người tiên phong. Anh là người đứng đầu dự án Canary, và tôi muốn có một người từng tiếp xúc trực tiếp với các nạn nhân. Ta cần một gương mặt đại diện cho những nỗ lực của chúng ta."
Bởi vậy mới có màn cao giọng về việc tránh giam giữ hay cách ly kiểm dịch. Bames đang choi trò bè phái. "Nhưng tôi thực sự vẫn chưa biết được điều gì," Eph nói. "Sao phải sớm như vậy?"
Giám đốc Bames mủn cười, lại khoe bộ răng sứ. "Nguyên tắc của bác sĩ là 'Trên hết - không làm tổn thương'. Nguyên tắc của chính trị gia là 'Trên hết - lên sóng truyền hình'. Thêm vào đó, theo tôi hiểu còn dính đến cả yếu tố thời gian nữa. Kiểu như muốn lên sóng trước sự kiện nhật thực chết tiệt kia. Các vết đen mặt tròi ảnh hưởng tới sóng vô tuyến hay gì gì đó."
"Nhật thực..." Eph đã quên béng vụ này. Hiện tượng nhật thực toàn phần hiếm có sẽ xảy ra vào khoảng ba giờ ba mươi ngay chiều hôm đó. Lần đầu tiên có một sự kiện nhật thực như thế ở khu vực New York trong hơn bốn trăm năm qua, kể từ khi khai phá lục địa Mỹ. "Chúa ơi, tôi quên mất."
"Thông điệp của chúng ta gửi tới toàn bộ người dân cả nước sẽ đon giản thôi. Ở đây đã có thiệt hại nhân mạng đáng kể, và đang được CDC điều tra toàn diện. Đây là một thảm họa về người, nhưng sự cố đã được kiểm soát, và có vẻ như đây là trường họp duy nhất, đồng thời chắc chắn không có gì cần phải lo lắng thêm."
Eph giấu vẻ giận dữ không để viên giám đốc nhìn thấy. Anh đang bị ép phải đứng trước máy quay để nói rằng mọi thứ đều rất ổn. Anh rời khỏi khu vực cách ly, lách qua khe hở hẹp giữa hai cánh cổng lớn của kho máy bay, bước ra vùng ánh sáng ban ngày ảm đạm. Anh vẫn đang cố hình dung ra một cách nào đó thoát ra khỏi vụ này thì chiếc điện thoại trong túi quần rung lên phía trên bắp đùi anh. Anh rút điện thoại ra, một biểu tượng phong bì đang chậm rãi xoay tròn trên màn hình LCD. Một tin nhắn từ di động của Matt. Eph ấn mở:
Yanks 4 Sux 2. ghe dep, uoc j bo o day, z.
Eph đứng nhìn chằm chằm tin nhắn từ cậu con trai cho tới khi mắt nhòa đi. Anh bị bỏ lại một mình nhìn không chóp mắt xuống cái bóng của chính mình đang in trên cái thềm đế máy bay, không biết có phải là ảo giác của anh không, đã bắt đầu biến mất.
Chú thích

[1] “Khu vực số 0” là tên gọi của tòa tháp đôi New York sau vụ khùng bố ngày 11 tháng Chín năm 2001.
[2] Một loại thuốc giảm đau cực mạnh.
[3] Một tổ chức tình nguyện của phụ nữ.
[4] Người sáng lập chuỗi nhà hàng KFC.
[5] Health Powers Act: đạo luật này cho phép các cơ quan lập pháp có quyền sửa đổi luật y tế công cộng để giúp kiểm soát bệnh dịch và phòng chống khủng bố sinh học.
Che Khuất
Đạt đến toàn phần
Nỗi háo hức lan tỏa trên mặt đất khi một vệt mỏng bên phía Tây vầng mặt trời - "tiếp điểm đầu tiên" với mặt trăng - chuyển thành một quầng đen đang từ từ trườn đến, như một vết cắn hình tròn đang dần nuốt trọn mặt trời chiều. Ban đầu, khó có thể thấy rõ sự khác biệt trong số lượng hay chất lượng của ánh sáng rọi xuống mặt đất. Chỉ là một quầng đen trên bầu trời cao, đang biến mặt trời sáng rạng thường ngày trở thành một hình lưỡi liềm, đánh dấu hôm nay là một ngày khác những ngày khác.
Thuật ngữ "nhật thực" thực ra là sai. Thiên thực xảy ra khi một vật thể di chuyển vào trong bóng của một vật thể khác. Ở nhật thực, mặt trăng không di chuyển vào trong bóng của mặt trời, mà thay vào đó đi qua giữa mặt trời và trái đất, che khuất mặt trời - tạo ra bóng. Thuật ngữ chính xác phải là "che khuất". Mặt trăng che khuất mặt trời, tạo nên một bóng nhỏ trên bề mặt trái đất. Nó không phải nhật thực, mà thực ra là hiện tượng trái đất bị che khuất.
Khoảng cách từ trái đất tới mặt trời gấp khoảng bốn trăm lần khoảng cách từ mặt trăng tới trái đất. Một sự trùng họp đáng chú ý là đường kính của mặt trời cũng gấp khoảng bốn trăm lần đường kính của mặt trăng. Chính vì vậy nhìn từ trái đất, diện tích mặt trăng và quang quyển của mặt trời - hay đĩa sáng của nó - gần như cùng kích thước.
Hiện tượng che khuất toàn phần chỉ có thể xảy ra trong tuần trăng mới, khi mặt trăng gần điểm cận địa, vị trí gần trái đất nhất. Thời gian che khuất toàn phần phụ thuộc vào quỹ đạo của mặt trăng, nhưng không bao giờ vượt quá 7 phút 40 giây. Lần che khuất này được dự đoán sẽ kéo dài chính xác 4 phút 57 giây: chỉ chưa đầy năm phút chập choạng tối giữa buổi chiều thu đẹp trời.
Lúc này trăng non (hay trăng vô hình) đã che lấp được một nửa mặt trời, bầu trời sáng bắt đầu mang sắc tối: giống như hoàng hôn, chỉ có điều thiếu ánh sáng ấm áp. Ở mặt đất, ánh mặt trời nhờ nhờ, như thể đã bị lọc sáng hay khuếch tán. Bóng đổ mờ dần đi. Cả thế giới dường như đang được vặn giảm độ sáng.
Khi hình lưỡi liềm tiếp tục mỏng đi do bị đĩa mặt trăng nuốt lấy, ánh sáng âm ỉ của nó rực lên như thể trong con hoảng loạn. Sự che khuất có vẻ đã lấy được đà và một loại tốc độ khủng khiếp trong lúc cảnh vật dưới mặt đất trở nên xám ngoét, màu sắc trượt ra khỏi quang phổ thông thường. Bầu trời phía Tây tối nhanh hơn phía Đông khi bóng của mặt trăng tiến tói.
Ở phần lớn Mỹ và Canada sẽ có nhật thực một phần, nhật thực toàn phần chỉ xảy ra trên một dải đất dài hẹp, dài khoảng 16.000 rộng khoảng 160 ki lô mét, nơi bóng đen toàn phần của mặt trăng bao phủ lên trái đất. Hành trình che khuất từ Tây sang Đông, hay còn gọi là "đường đi của nhật thực toàn phần", bắt đầu từ vùng sừng châu Phi, vòng ra Đại Tây Dương rồi kết thúc ngay phía Tây hồ Michigan, di chuyển với tốc độ hơn 1.600 ki lô mét trên giờ.
Khi mặt trời lưỡi liềm tiếp tục hẹp dần, màu trời hóa sắc tím ngột ngạt. Bóng tối phía Tây tập trung sức mạnh, như một con giông âm thầm lặng gió đang lan rộng khắp bầu trời và rồi khép lại quanh vầng mặt trời suy yếu, như một sinh vật vĩ đại đang chịu thua trước một thế lực hắc ám lan tràn từ bên trong.
Mặt trời mảnh đi tới mức đáng sợ, cảnh tượng - qua lóp kính bảo vệ - trông như thể được nhìn qua một nắp cống đang trượt đóng phía trên cao, bóp nghẹt ánh sáng ban ngày. Hình lưỡi liềm rực trắng, rồi chuyển thành màu bạc trong thời khắc hấp hối đón đau.
Những dải bóng râm kỳ dị, lộn xộn bắt đầu trải ra trên mặt đất. Nhìn qua khóe mắt, dao động tạo thành do khúc xạ ánh sáng qua bầu khí quyển của trái đất - tương tự hiện tượng ánh sáng lay động dưới đáy hồ bơi - quằn quại như những con rắn bóng đen. Trò choi ma quái này của ánh sáng làm mọi người dựng tóc gáy.
Kết thúc tới một cách nhanh chóng. Cơn đau cuối cùng ón lạnh và dữ dội, lưỡi liềm co rút lại thành một đường cong, một vết sẹo rạch trên bầu trời, rồi tan thành từng đốm trắng lập lòe, hiện thân của những tia mặt trời cuối cùng lọt qua được những thung lũng sâu thẳm nhất của bề mặt mặt trăng. Những đốm sáng ấy chóp nháy và rồi nối tiếp nhau biến mất, vụt tắt như ánh nến đang lụi tàn bị lóp sáp đen của chính nó nhấn chìm. Một dải màu đỏ thẫm của sắc quyển, một lóp mỏng trên bề mặt mặt trời, bùng lên ở vài giây quý giá cuối cùng - và rồi mặt trời biến mất.
Toàn phần.
Phố Kelton, Woodside, Queens
KELLY GOODWEATHER không tin nổi trời tối nhanh đến vậy. Cô đứng trên vỉa hè, y như những người hàng xóm phố Kelton - trên phần đường bình thường vào tầm giờ này hằng ngày vốn chói chang ánh nắng - ngước nhìn bầu trời sập tối qua cặp kính gọng bìa được tặng kèm cùng hai chai soda Eclipse hai lít cho người ăn kiêng. Kelly là một phụ nữ có học. Cô hiểu một cách khoa học về chuyện đang xảy ra. Dù vậy cô vẫn cứ cảm thấy một nỗi hoang mang, gần như choáng váng, trào dâng trong lòng. Một thôi thúc muốn tháo chạy, trốn tránh. Hiện tượng xếp hàng như thế này của các thiên thể, sự di chuyển vào trong bóng mặt trăng: nó chạm đến một cái gì đấy sâu thẳm trong cô. Chạm đến cái sinh vật kinh sợ bóng tối bên trong.
Những người khác hẳn cũng cảm thấy như vậy. Con phố trở nên tĩnh lặng vào thời khắc nhật thực toàn phần. Họ đều đang đứng trong thứ ánh sáng kỳ dị này. Và những cái bóng uốn éo lúc nãy còn quằn quại trên bãi cỏ, giờ đã vượt ngoài tầm nhìn của họ, hắt lên hông nhà, trông như những linh hồn đang giãy giụa. Như thể một luồng gió lạnh đã ùa xuống phố, chẳng hề lay động một sọi tóc mà chỉ làm họ lạnh buốt tâm can.
Người ta thường nói sau khi ai đó rùng mình: Có người vừa giẫm lên nấm mồ của bạn. Đó chính xác là cảm giác mà lần "che khuất" này mang lại. Một ai đó, hoặc một thứ gì đó đang cùng lúc giẫm lên nấm mồ của tất cả mọi người. Mặt trăng chết băng qua trái đất sống.
Và rồi, ngước lên cao: vành nhật hoa. Mặt trời bị che khuất, tối đen và vô hình, rực sáng xung quanh cái hư vô của mặt trăng, nhìn chằm chằm xuống trái đất với mái tóc trắng bồng bềnh rực rỡ. Một cái đầu thần chết.
Hàng xóm của cô, Bonnie và Donna, cặp đôi thuê nhà bên cạnh, đang đứng choàng tay qua hông nhau, Bonnie đút tay vào túi sau chiếc quần jean cạp trễ của Donna. "Tuyệt quá nhỉ?" Bonnie hớn hở gọi sang.
Kelly chẳng thể đáp lại. Họ không hiểu được sao? Đối với cô, đầy không phải một cảnh lạ đơn thuần, không phải một thú vui ban chiều. Tại sao không ai thấy nó như một dạng điềm báo? Quỷ tha ma bắt những giải thích thiên văn và lý luận khoa học đi: làm sao mà thứ này lại không mang một ý nghĩa gì? Thực chất, cũng có thể nó không có một ý nghĩa cố hữu. Chỉ đơn giản là một sự hội tụ của các quỹ đạo. Nhưng làm sao loài người có tri giác lại không gán cho nó một ý nghĩa nào đó được, dù tích cực hay tiêu cực, tôn giáo hay tâm linh, hay bất cứ thứ gì khác? Ta biết một sự việc diễn ra như thế nào không có nghĩa là ta hiếu nó...
Họ lại gọi với sang Kelly, đang đứng một mình trước nhà, bảo cô lúc này đã an toàn để có thể bỏ kính ra được rồi. "Chị không muốn bỏ lỡ cái này đâu!"
Kelly sẽ không bỏ kính ra. Dù ti vi đã nói làm vậy lúc "toàn phần" là an toàn. Ti vị cũng từng nói với cô rằng cô sẽ không già đi nếu mua các loại kem và thuốc đắt tiền đấy thôi.

Nhũng tiếng ồ à vang lên khắp phố, một sự kiện cộng đồng đích thực khi người ta thích thú với hiện tượng có một không hai này và tận hưởng khoảnh khắc này. Ngoại trừ Kelly. Có chuyện gì với mình vậy? cô tự hỏi.
Một phần là do cô vừa nhìn thấy Eph trên ti vi. Anh không nói gì nhiều tại cuộc họp báo, nhung qua ánh mắt và cách nói của anh, Kelly biết có gì đó không ổn. Rất không ổn. Thứ gì đó vượt quá những lời quả quyết sáo rỗng của thị trưỏng và thống đốc. Thứ gì đó nằm ngoài nhũng cái chết bất ngờ và khó hiểu của 206 hành khách trên chuyến bay xuyên Đại Tây Dương.
Vi rút? Một cuộc tấn cồng lãnh hoàng? Một vụ tự sát tập thể?
Và giờ đến chuyện này.
Cô muốn Zack và Matt ở nhà. Cô muốn họ ở đây cùng cô ngay lúc này. Cô muốn cái vụ che khuất mặt trời này chấm dứt, muốn biết chắc rằng sẽ không bao giờ phải trải nghiệm cảm giác này lần nữa. Qua lóp kính màu, cô ngước nhìn sát thủ mặt trăng với thắng lọi hắc ám của nó, lo sợ mình có thể chẳng bao giờ còn nhìn thấy lại ánh mặt trời.
Sân vận động Yankee, Bronx
ZACK ĐỨNG TRÊN GHẾ NGỒI CỦA NÓ NGAY CẠNH MATT, anh ta đang chằm chằm nhìn nhật thực, mũi chim lại miệng há hốc như một anh tài xế nhìn dòng xe đang chạy. hơn năm mươi ngàn người hâm mộ đội Yankees đeo những chiếc kính quan sát nhật thực kẻ sọc, phiên bản đặc biệt cho dân sưu tầm, đã đứng hẳn lên, ngửa mặt nhìn mặt trăng đang phủ tối bầu trời trong một buổi chiều hoàn hảo để choi bóng chày. Tất cả, ngoại trừ Zack Goodweather. Nhật thực cũng hay ho đấy, nhưng nó đã xem đủ rồi, thế nên Zack chuyển sự chú ý sang hàng ghế dự bị. Nó đang cố quan sát các cầu thủ Yankees. Có Jeter, đeo cái lánh giống hệt Zack, quỳ một gối trên bậc cao nhất như đang trong tư thế chờ lệnh vụt bóng. Các cầu thủ giao bóng và bắt bóng ở trên sân tập, túm tụm trên bãi cỏ bên cánh phải sân bóng giống mọi người, hoàn toàn bị cuốn hút bởi nhật thực.
"Kính thưa quý vị," bình luận viên Bob Sheppard nói, "thưa các bạn, lúc này các bạn có thể bỏ kính an toàn ra."
Và bọn họ làm theo. Năm mươi ngàn người, gần như cùng lúc. Một tiếng thở hổn hển ngưỡng mộ vang lên, tiếp theo là vài tiếng pháo tay, rồi tiếng reo hò vang dội, như thể đám đông đang cổ vũ anh chàng Matsui nhút nhát bước ra khỏi băng ghế dự bị để ngả mũ chào sau khi được lưu danh tên tuổi trong bảo tàng truyền thống ngoài trời của Yankees ở Monument Park.
Ở trường, Zack được học rằng mặt trời là một lò phản ứng hạt nhân 6.000 độ Kelvin, thế nhưng vành nhật hoa, rìa ánh sáng chung quanh nó, chứa khí hydro cực nóng - chỉ có thể nhìn thấy từ trái đất khi có nhật thực toàn phần - thậm chí còn nóng hơn đến khó hiểu, nhiệt độ của nó có thể đạt tới 2.000.000 độ Kelvin.
Thứ thằng bé thấy khi bỏ kính là một đĩa đen hoàn toàn nằm giữa một viền lửa mỏng màu đỏ thẫm, xung quanh là vầng hào quang trắng lót phớt. Giống như một con mắt: mặt trăng là con ngươi đen khổng lồ; vành nhật hoa là lòng trắng; và những tia đỏ chói phát ra từ viền con ngươi - những lóp khí cực nóng phun trào từ bề mặt mặt trời - là những mạch máu đỏ ngầu. Trông như con mắt của một xác sống.
Tuyệt.
Bầu trời Xức Sống. À không: Các xác sống của nhật thực. Các xác sống của sự che khuất. Các xác sống che khuất từ hành tinh mặt trăng! Chờ đã - mặt trăng không phải một hành tinh. Mặt trăng Xác Sống. Đây có thể là chủ đề cho bộ phim mà nó và hội bạn sẽ cùng làm vào mùa đông năm nay. Tia mặt trăng trong thời điểm nhật thực toàn phần đã biến các thành viên của đội New York Yankees thành xác sống ăn não - tuyệt vòi! Và thằng bạn Ron của nó trông gần giống cầu thủ Jorge Posada thời trẻ. "Này, Jorge Posada, liệu tôi có thể xin chữ ký của anh... đợi đã, anh làm gì... ê, đó là... mắt anh... bị sao vậy... ặc... không... KHÔÔÔNG!!!"
Lúc này tiếng organ vang lên, và vài kẻ say xỉn bỗng trở thành những chỉ huy dàn nhạc, khua tay hô hào nhóm của mình hát theo kiểu như bài "Bóng trăng dõi theo tôi" cổ lỗ. Những cổ động viên bóng chày thường luôn ầm ĩ mà chẳng cần lý do. Những người này thậm chí vẫn có thể vui vẻ ngay cả khi sự che khuất này là một thiên thạch đang lao về phía họ.
Chà. Zack đột nhiên nhận ra, đây hẳn là những lời bố sẽ nói nếu bố ở đây.
Matt, đang ngồi bên cạnh ngắm nghía chiếc kính miễn phí, huých Zack. "Một món lưu niệm khá thú vị nhỉ? Chú dám cá là giờ này ngày mai trên eBay sẽ tràn ngập thứ này."

Rồi một gã say xm xô vai Matt, bắn bia vào giày của anh ta. Matt dơ người trong chốc lát, rồi đảo mắt về phía Zack, với vẻ mặt kiểu Cháu-sẽ-làm-gì? đây. Nhưng thằng bé chẳng nói gì hay làm gì. Nó thậm chí còn chẳng quay lại nhìn. Zack chọt nhận ra nó chưa từng thấy Matt uống bia, chỉ toàn vang trắng hay đỏ trong những đêm ở nhà với mẹ. Lúc đó Zack có cảm tưỏng rằng Matt, dù có say mê trận đấu đến đâu, về cơ bản vẫn e sợ những cổ động viên ngồi xung quanh họ.
Giờ thì Zack thực sự mong bố có mặt ở đây. Nó rút điện thoại của Matt ra khỏi túi quần jean và kiểm tra tin nhắn hồi âm lần nữa.
Đang dò tin hiệu, điện thoại thông báo. vẫn không có sóng. Sự biến dạng bức xạ và vết sáng của mặt trời gây nhiễu sóng vô tuyến và ảnh hưởng tới các vệ tinh; họ đã cảnh báo có thể xảy ra chuyện đó. Zack cất điện thoại và vươn cổ về phía sân bóng, lại tìm kiếm Jeter.
Trạm vũ trụ quốc tế
TẠI ĐỘ CAO 350 ki lô mét cách bề mặt trái đất, phi hành gia Thalia Charles - kỹ sư hàng không Mỹ trong Đoàn Thám hiểm 18 cùng một chỉ huy người Nga và một kỹ sư người Pháp - đang trôi nổi trong môi trường không trọng lực dọc theo hành lang nối mô đun Unity với cửa sập sau của phòng thí nghiệm Destiny. Cơ sở nghiên cứu ISS bay theo quỹ đạo quanh trái đất một ngày muôi sáu lần, hay khoảng một tiếng rưỡi một lần, với tốc độ 27.000 ki lô mét trên giờ. Các hiện tượng che khuất chẳng phải điều gì to tát trên quỹ đạo thấp quanh trái đất: chỉ cần dùng bất cứ vật thể tròn nào che lên cửa sổ để chắn mặt trời là có thể nhìn thấy vành nhật hoa tuyệt đẹp. Vì thế mối quan tâm của Thalia không nằm ở sự thẳng hàng giữa mặt trăng và mặt trời - từ góc nhìn với tốc độ di chuyển nhanh này, quả thực chẳng có sự che khuất nào - mà nằm ở tác động của hiện tượng này lên trái đất đang chậm chạp quay kia.
Destiny, phòng thí nghiệm chính trên ISS, kích cỡ tám mét tư và bốn mét hai - tuy vậy, do số lượng các trang thiết bị gắn vào các vách khá lớn nên không gian làm việc bên trong mô đun hình trụ này chật hơn thế, bề dài chỉ vừa chừng năm người và bề ngang chừng một người. Mọi đường dây, ống dẫn và kết nối cáp đều có thể được tiếp cận trực tiếp và vì thế được đặt lộ thiên, khiến cho toàn bộ bốn bức tường của Destiny trông như mặt sau của một bo mạch chủ. Đôi khi Thalia cảm thấy mình chẳng khác gì một bộ vi xử lý tí hơn đang cần mẫn thực hiện những phép tính bên trong một cỗ máy tính khổng lồ trong vũ trụ.
Thalia lướt bàn tay dọc mặt dưới, tức là "mặt sàn" của Destiny - trong không gian làm gì phân biệt trên hay dưới - tới một vòng tròn rộng, trông như ống kính, có đóng chốt. Tấm cửa chắn được thiết kế để bảo vệ mô đun nguyên vẹn trước bụi vũ trụ hay sự va chạm với các mảnh vỡ di chuyển trên quỹ đạo. Cô tì hai bàn chân đang mang tất vào một cái hốc bám trên tường và dùng tay mở tấm chắn, làm lộ ra một cửa sổ quang đường kính sáu mươi phân.
Quả cầu trái đất trắng-xanh lọt vào tầm nhìn.
Nhiệm vụ của Thalia là chụp một vài tấm hình trái đất bằng một chiếc máy ảnh Hasselblad điều khiển từ xa. Nhung ngay khi cô nhìn thấy trái đất từ góc nhìn khác thường này,
những gì trước mắt khiến cô rùng mình. Vệt đen lớn vốn là bóng của mặt trăng trông như một điểm chết trên bề mặt trái đất. Một vệt bẩn tăm tối đáng sợ trên quả cầu xanh tràn đầy sức sống, ngôi nhà của cô. Đáng sợ hơn cả, đó là cô chắng thể nhìn thấy bất cứ thứ gì bên trong sự che khuất toàn phần, phần trung tâm tăm tối nhất của bóng mặt trăng, đó là cả một vùng đã biến mất vào bên trong một hố đen thăm thẳm. Giống như thể cô đang quan sát một bản đồ vệ tinh sau thảm họa, như thể một ngọn lửa khủng khiếp đã thiêu rụi thành phố New York và giờ đang lan ra khắp vùng đất rộng lớn trên bờ biển phía Đông.
Manhattan
CƯ DÂN NEW YORK TỤ TẬP tại Công viên Trung tâm, bãi cỏ Great Lawn rộng hai mươi hai héc ta đông nghịt người như thể đang trong một buổi hòa nhạc mùa hè. Những người đã trải bạt và bày ghế gấp từ ban sáng giờ đây cũng đều phải đứng như bao người khác, trẻ con vắt vẻo trên vai cha, bé sơ sinh được ẵm trong vòng tay mẹ. Lâu đài Belvedere sừng sững màu tím sẫm trên công viên, một nét chấm phá ma quái đậm tính gothic cho không gian đồng quê rộng mở này, trông có vẻ nhỏ bé trước những tòa nhà cao chọc trời của Bờ Đông và Bờ Tây.

Hòn đảo lớn sầm suất dừng mọi hoạt động, ai cũng có thể cảm nhận được sự tĩnh mịch của thành phố khi đó. Cảm giác sợ hãi bóng tối lan truyền trong cả cộng đồng. Hiện tưọng che khuất đã áp đặt một kiểu bình đẳng lên thành phố và những cư dân của nó, khoảng thời gian năm phút phá vỡ phân tầng xã hội. Ai cũng đều như nhau dưới mặt trời - hay đúng hơn là dưới sự thiếu mặt trời.
Tiếng radio vang vọng tứ phía trên bãi cỏ, mọi người cùng hát theo Bonnie Tyler bản karaoke được yêu thích dài bảy phút "Khoảng tối trong tim" phát trên sóng Z100.
Dọc theo cầu East Side nối Manhattan với phần còn lại của thê giới, người đứng bên ô tô, người ngồi trên mui xe, vài nhiếp ảnh gia trên lối dành cho người đi bộ đang chụp bằng những chiếc máy ảnh có kính lọc sáng đặc biệt.
Nhiều tiệc rượu sớm, dạng như lễ mừng năm mới, được tổ chức trên các mái nhà, nhất thời chững hẳn lại bởi cảnh tượng đáng sợ trên bầu trời.
Màn hình Panasonic Astrovision khổng lồ, giữa Quảng trường Thời đại lờ mờ tối, phát sóng vụ che khuất cho đám đông trên mặt đất, vành nhật hoa ma quái mập mờ phía trên "giao lộ của thế giới" như một lời cảnh báo từ một nơi xa xôi trong thiên hà, hình ảnh trên màn hình bị gián đoạn bởi những đoạn nhiễu chập chờn.
Tổng đài khẩn cấp 911 và tổng đài không khẩn cấp 311 nhận được vô vàn cuộc gọi, cả một đống là từ những bà bầu báo cáo đẻ non do "ảnh hưởng của nhật thực". Đội chuyên viên cấp cứu cần mẫn đi làm nhiệm vụ, bất chấp tình trạng tắc nghẽn giao thông trên toàn hòn đảo.
Hai trại tâm thần trên đảo Randall tại phía Bắc sông East đã phải nhốt những bệnh nhân có xu hướng bạo lực trong phòng và yêu cầu đóng tất cả các rèm cửa. Những bệnh nhân không có xu hướng bạo lực được mòi tập trung tại các nhà ăn tắt hết điện để xem phim - phim hài - tuy nhiên, trong mấy phút che khuất toàn phần, không ít người trở nên bồn chồn, lo lắng muốn rời phòng mà không rõ nguyên nhân. Tại Bellevue, khu tâm thần cũng đã nhận thấy số ca nhập viện tăng nhẹ vào sáng hôm đó, trước lúc nhật thực.
Nằm giữa Bellevue và Trung tâm Y tế của Đại học New York, hai trong số những bệnh viện lớn nhất trên thế giới, có một tòa nhà có thể coi là xấu xí nhất Manhattan. Tòa nhà trụ sở chính của cơ quan pháp y New York là một hình chữ nhật không cân đối màu ngọc lam tang tóc. Khi những túi xác được dỡ khỏi xe chở cá, đưa lên cáng rồi di chuyển vào các phòng mổ và các nhà lạnh dưới tầng hầm, Gossett Bennett, một trong số mười bốn bác sĩ pháp y của cơ quan, bước ra ngoài để nghỉ ngơi một lát. Anh chẳng thể nhìn thấy hình ảnh mặt trăng che mặt trời từ công viên nhỏ phía sau bệnh viện - tòa nhà đã chắn đường anh - nên thay vào đó, anh quan sát khán giả. Suốt dọc đường cao tốc FDR, trồng từ công viên ra, mọi người đứng giữa những chiếc xe đang đỗ, trên một xa lộ chưa từng ngoi nghỉ. Dòng sông East phía xa tối đen, một dòng hắc ín phản chiếu bầu trời chết. Bên kia bờ sông, bóng tối bao trùm toàn bộ quận Queens, chỉ trừ vài ô cửa sổ cao nhất hướng Tây phản chiếu ánh sáng rực rỡ của vành nhật hoa, giống như ngọn lửa nóng trắng từ một đám cháy nhà máy hóa chất nào đó.
Cảnh tượng mở màn cho ngày tận thế hẳn là trông sẽ giống thế này, anh tự nhủ, trước khi quay trở lại văn phòng pháp y để hỗ trợ công việc kê khai người chết.
Sân bay quốc tế JFK
GIA ĐÌNH CÁC HÀNH KHÁCH và phi hành đoàn đã thiệt mạng trên chuyến bay 753 của hãng Regis Air được khuyến nghị tạm dừng các công việc giấy tờ cùng thứ cà phê của Hội Chữ Thập Đỏ (loại cà phê không caffein dành riêng cho những người đang buồn phiền) và đi bộ ra bên ngoài thềm đế máy bay, tới khu vực cấm sau nhà ga số 3. Tại đó, những người đưa tang đôi mắt thâm quầng, chẳng có gì chung ngoài nỗi đau mất mát, cùng tụ tập lại nhìn nhật thực, tay trong tay - một số tựa vào người khác vì tình đoàn kết, một số lại vì cần cử chỉ động viên - mặt cùng hướng tới bầu trời phía Tây tối mịt. Họ chưa biết chẳng mấy chốc họ sẽ phải chia thành bốn nhóm và di chuyển bằng xe buýt trường học tới những cơ quan pháp y tương ứng để rồi lần lượt từng gia đình sẽ được mòi vào một phòng giám sát và được cho xem một bức ảnh nạn nhân sau khi chết rồi được yêu cầu chính thức nhận diện người thân của họ. Chỉ những gia đình yêu cầu được xem thi thể người thân mới được cho phép làm vậy. Sau đó, họ sẽ được tặng các voucher phòng ở khách sạn Sheraton sân bay, với một bữa tối buffet miễn phí tại đó cùng những cố vấn tâm lý túc trực suốt đêm đó cho tới ngày hôm sau sẵn sàng phục vụ họ.
Còn lúc này, họ nhìn chằm chằm lên cái đĩa đen đang rực sáng như một đèn chiếu đảo ngược, hút sạch ánh sáng khỏi thế giới này để mang tới thiên đường. Với họ, hiện tượng hủy diệt này là một biểu tượng hoàn hảo cho mất mát của họ lúc này. Với họ, nhật thực hoàn toàn không phải là thứ gì đó phi thường. Có vẻ nó chỉ là thứ mà Chúa và bầu trời thấy phù họp để biểu lộ sự cảm thông với nỗi đau họ đang mang.
Bên ngoài kho bảo trì máy bay Regis Air, Nora đứng tách biệt khỏi những điều tra viên khác, đợi Eph và Jim quay lại từ cuộc họp báo. Mắt cô hướng về phía hố đen báo hiệu điềm gở trên bầu trời, nhung không tập trung. Cô cảm giác như bị cuốn vào một thứ gì đó mà cô không hiểu được. Như thể một kẻ thù mới xa lạ đã xuất hiện. Mặt trăng chết che khuất mặt trời sống. Đêm che khuất ngày.
Một cái bóng lướt qua cô. Cô thấy cái bóng lờ mờ qua khóe mắt, ngay trước thời khắc che khuất toàn phần, một thứ gì đó giống như bóng những con giun đang trườn bò, nhấp nhô trên thềm đế máy bay. Một thứ gì đó nằm ngoài trường nhìn của cô, chỉ vừa đủ để cô có thể nhận thấy. Đang trốn thoát khỏi kho bảo trì, như một linh hồn bóng tối. Cái bóng cô vừa cảm thấy.
Chỉ trong một tích tắc cô cần để rời con ngươi về phía đó, cái bóng đã biến mất.
Lorenza Ruiz, nhân viên điều khiển xe băng tải hành lý sân bay, người đầu tiên lái xe ra chỗ cái máy bay chết, nhận thấy mình đã bị trải nghiệm đó ám ảnh. Lo chẳng thể gạt bỏ khỏi tâm trí cảnh cô đứng dưới bóng cái máy bay đêm qua. Cô mất ngủ, trở mình trằn trọc, cuối cùng bèn dậy đi đi lại lại. Một ly vang trắng giữa khuya cũng không giúp ích gì. Nó đè nặng lên cô như một thứ gì đó cô chẳng thể rũ bỏ. Cuối cùng, khi bình minh lên, cô nhận thấy mình đang nhìn đồng hồ, háo hức được quay trở lại với công việc. Cô nhận ra mình đang nóng lòng muốn quay lại JFK. Nhung chẳng phải là do một nỗi hiếu kỳ bệnh hoạn nào. Chính hình ảnh cái máy bay không hoạt động đã tác động lên tâm trí cô, như một luồng ánh sáng rọi thẳng vào mắt. Cô chỉ biết một điều là cô cần quay lại để nhìn nó lần nữa.
Giờ lại đến vụ nhật thực này, và lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ, sân bay phải ngừng hoạt động. Lần tạm nghỉ này đã được lên kế hoạch từ hàng tháng trước - FAA đã lên khung thời gian mười lăm phút ngừng hoạt động cho các sân bay trong thời gian nhật thực, vì lo lắng cho tầm nhìn của các phi công, bởi họ khó có thể đeo kính lọc sáng trong lúc hạ cánh hoặc cất cánh - tuy nhiên, một phép toán đon giản nhưng đáng sợ chợt nảy ra trong đầu cô:
Máy bay chết + Nhật thực = Không ổn.
Khi mặt trăng dập tắt mặt trời, như một bàn tay bịt miệng để ngăn tiếng thét, Lo lại thấy rùng mình hoảng loạn hệt như khi đứng trên đầu băng tải bên dưới bụng chiếc 777 tối om. vẫn là thôi thúc tháo chạy ấy, nhưng lần này cô cũng biết rằng, tuyệt đối chẳng có nơi nào để chạy.
Giờ cô lại nghe thấy nó. vẫn tiếng ồn mà cô đã nghe thấy khi mới tới ca trực, chỉ có điều nay đã đều hon, to hon. Tiếng o o. Một âm thanh vo ve, và điều kỳ lạ là, bất kể có đeo tai nghe chống ồn hay không, cô vẫn nghe thấy nó với cùng một âm lượng. Kiểu như một cơn đau đầu. Từ bên trong. Nhưng, như một tín hiệu dẫn đường, nó mạnh dần lên trong tâm trí cô khi cô quay trở lại với công việc.
Với mười lăm phút sân bay tạm dừng hoạt động trong thời gian nhật thực, cô đã quyết định cất bước đi tìm kiếm nguồn gốc thứ âm thanh này, bám theo nó. Cô không hề ngạc nhiên nhận ra giờ đây mình đang đứng trước nhà kho bảo trì đã bị phong tỏa của Regis Air, nơi chiếc 777 chết đang đậu.
Tiếng ồn này không giống bất cứ loại máy móc nào cô từng nghe. Một âm thanh vội vã, gần như tiếng cuộn xoáy, như tiếng chất lỏng đang chảy. Hay như tiếng rì rầm của hàng chục, hàng trăm giọng nói khác nhau, đang cố gắng thể hiện điều gì đó. Có lẽ CÔ đang bắt được các dao động ra đa qua lóp trám răng của mình. Có một nhóm người ở phía trước, các nhân viên đang mê mải nhìn vầng mặt trời bị che lấp - nhung không có ai như cô, đang lẩn lút ở đây, lo lắng hoặc thậm chí ý thức rõ về âm thanh vo ve. Vì vậy, cô quyết định giữ kín việc này. Ay vậy mà, vì một lý do kỳ cục nào đó, cô cảm thấy nhất thiết phải có mặt ngay tại đây, vào chính lúc này, lắng nghe tiếng ồn này và mong ước - để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình, hay còn gì hơn thế? - rằng giá như cô có thể vào bên trong kho để nhìn cái máy bay lần nữa. Như thể việc nhìn thấy cái máy bay sẽ bằng cách nào đó loại bỏ được tiếng vo ve trong đầu cô.
Và rồi, bất chợt, cô cảm thấy một sự chấn động trong không khí, như một luồng gió đổi chiều, và giờ thì - đúng vậy - có vẻ nguồn âm thanh này đã di chuyển tới đâu đó phía bên phải cô. Thay đổi đột ngột này khiến cô giật thót, và cô bám theo nó dưới ánh sáng âm của mặt trăng đang tỏa sáng, cầm theo tai nghe và kính bảo hộ. Các thùng rác và toa xe chở hàng nằm ngay phía trước, đằng sau là một vài thùng hàng lớn, tiếp đó là mấy bụi cây và đám thông phong trần màu xám với những tán lá vương đầy rác rưỏi. Xa hơn là hàng rào lưới, phía sau đó là hàng chục héc ta bụi cây dại.
Những giọng nói. Giờ đây cô thấy nó giống những giọng nói hon. Đang cố gắng bật lên thành một giọng nói duy nhất, một từ... một cái gì đó.
Khi Lo đến gần các toa xe, một tiếng sột soạt bất ngờ vang lên trong đám cây, một cái gì đó chồm lên, khiến cô giật mình lùi lại. Những con mòng biển bụng xám, có lẽ hoảng sợ vì nhật thực, bay túa ra từ các cành cây và thùng rác, như những mảnh vỡ thủy tinh có cánh bắn ra tung tóe từ một ô cửa sổ vỡ.
Những giọng nói ê a lúc này đã trở nên rõ ràng hơn, nghe gần như đau đớn. Kêu gọi cô. Giống như một dàn họp xướng những tiếng nói từ địa ngục, với cường độ dao động từ thì thầm cho đến gầm rú rồi ngược lại, cô phát âm rõ một từ, cô phải cô lắm mới hình dung ra, giống như:
"... đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ-ĐÂY."
Cô đặt tai nghe xuống rìa thềm đế máy bay, vẫn đeo kính bảo hộ chờ đến khi nhật thực chấm dứt. Cô bước tránh các thùng rác bốc thứ mùi đặc trưng và đi về phía các toa hàng lớn. Âm thanh được phát ra dường như không phải từ bên trong các toa xe, mà có lẽ từ phía sau chúng.

Sau khi bước qua giữa hai thùng hàng cao gần hai mét và vòng qua một chiếc lốp máy bay cũ nát, cô thấy một dãy các thùng hàng khác cũ hơn màu xanh nhạt. Bây giờ cô đã cảm thấy nó. Không chỉ nghe thấy những âm thanh đều đều mà còn cảm thấy nó, cái tổ của những giọng nói đang rung lên trong đầu óc và lồng ngực cô. Đang vẫy gọi cô. Cồ đặt bàn tay lên thùng hàng nhưng không cảm thấy rung động nào ở đó, rồi cô tiếp tục tiến về phía trước, chậm lại khi tới góc thùng, vươn người ra.
Nằm trên mớ rác rưởi bị gió thổi đến và lóp cỏ không được cắt xén, trắng phớ bởi ánh nắng, là một cái hộp gỗ lớn màu đen được chạm khắc trang trí, trông có vẻ cổ xưa. Cô đánh bạo bước hẳn ra khoảng trống nhỏ ấy, tự hỏi sao ai đó lại có thể quảng một thứ đồ cổ rõ ràng đưọc bảo quản tốt như thế ra tận chỗ này. Nạn trộm cắp - dù có tổ chức hay không - thật sự tồn tại ở sân bay này; có lẽ ai đó đã giấu nó ở đây, dự định sau này tạt qua lấy nó đi.
Rồi cô nhìn thấy lũ mèo. Mèo hoang nhung nhúc ngoài sân bay. Vài con từng là thú nuôi xổng khỏi lồng vận chuyển. Số khác thì đon giản là những thú nuôi không được yêu thích bị chủ, những người dân địa phương, đem ra bỏ ở sân bay. Tệ hơn cả là nhiều hành khách đã bỏ roi mèo của mình tại sân bay để tránh phải thanh toán phí thuê chuồng đắt đỏ. Mèo nhà, vốn không biết tự vệ trong môi trường hoang dã, nếu tránh được số phận làm mồi cho những động vật lớn hơn thì sẽ gia nhập vào tập đoàn mèo hoang lang thang giữa hàng trăm héc ta đất còn bỏ hoang của sân bay.
Những con mèo gầy còm ngồi chồm hỗm, đối diện cái hộp. Có khoảng vài chục con mèo bẩn thỉu ghẻ lở ở đó, nhưng tới khi nhìn vào đám cây cối vương rác rưởi và dọc theo hàng rào mắt lưới, Lo nhận ra còn có hàng trăm con mèo hoang khác đang ngồi đối diện cái hộp gỗ, hoàn toàn không để ý tới cô.
Cái hộp không rung, không phát ra tiếng ồn đã lôi cuốn cô. Sau khi đã đi cả một quãng đường như thế, cô thấy bối rối vì phát hiện ra cái thứ lạ lùng này ở rìa sân bay, và thứ đó thực ra lại không phải thứ mà cô đang tìm kiếm. Dàn họp xướng những âm thanh đều đều tiếp tục vang lên. Lũ mèo có nghe thấy không? Không. Chúng vẫn đang tập trung vào cái hộp đóng kín.
Đúng lúc cồ định quay về thì đám mèo cứng đờ lại. Lông trên lưng chúng dựng đứng lên - tất cả chúng, cùng một lúc. Những cái đầu ghẻ lở của chúng đồng loạt quay về phía cô, cả trăm cặp mắt mèo hoang nhìn cô chòng chọc trong ánh sáng nhập nhoạng nửa đêm nửa ngày. Lo cứng người, lo sợ bị tấn công - và rồi bóng tối chụp lên người cô, giống như nhật thực thứ hai.
Lũ mèo quay đầu bỏ chạy. Chúng chạy trốn khoảng trống, móng vuốt điên cuồng vồ lấy hàng rào cao, hoặc chui qua những cái lỗ đã được đào sẵn phía dưới.
Lo không thể xoay mình. Cô cảm thấy một luồng hơi nóng phả tới từ phía sau, như hơi lò nướng khi ta vừa mở nắp lò. Một sự hiện diện. Khi cô cố di chuyển, những âm thanh trong đầu cô kết tụ lại thành một tiếng nói đon độc khủng khiếp.
"ĐÂY."
Rồi cô bị bốc lên khỏi mặt đất.
Khi đàn mèo quay trở lại, chúng phát hiện ra thi thể cô với cái đầu nát bét, bị ném ra xa tới tận phía bên kia hàng rào chẳng khác nào một thứ rác rưỏi. Lũ mòng biển tìm thấy cô đầu tiên - nhưng bọn mèo đã nhanh chóng xua chúng đi và hăm hở lao vào, đói khát xé nát quần áo cô để tận hưởng bữa tiệc bên trong.
Cửa hàng Đồ Cổ và Cho Vay Knickerbocker,
phố 118 Đông, Spanish Harlem
ÔNG LÃO NGÔI TRƯỚC dãy ba cửa sổ liền kề ở phía Tây của căn hộ mờ tối, chăm chú nhìn lên mặt trời đang bị che khuất.
Năm phút ban đêm vào giữa trưa. Sự kiện thiên văn diễn ra một cách tự nhiên kỳ vĩ nhất trong suốt bốn thế kỷ.
Không thể bỏ qua cách chọn lựa thời gian.
Nhung vì mục đích gì?
Sự khẩn trương như một bàn tay nóng hầm hập tóm lấy ông. Hôm nay ông không mở cửa hàng mà thay vào đó, dành mấy tiếng đồng hồ từ lúc tảng sáng để đem các thứ từ xưởng làm việc dưới tầng hầm lên trên. Những vật dụng và đồ cổ ông đã kiếm được trong nhiều năm...
Những dụng cụ từ lâu đã bị quên mất chức năng. Những đồ dùng hiếm lạ không rõ nguồn gốc. Những món vũ khí chẳng có lai lịch.
Vậy nên giờ ông mệt mỏi ngồi đây, hai bàn tay xương xẩu nhức nhối. Không ai khác ngoài ông có thể thấy trước những gì đang đến. Mọi dấu hiệu đều chỉ ra, thứ đó đã xuất hiện ở đây.
Sẽ không ai khác tin ông.
Goodfellow. Hay Goodwilling. Anh chàng với cái họ gì gì đấy đã phát biểu trong buổi họp báo lố bịch kia, cạnh vị bác sĩ mặc đồng phục hải quân. Những người xung quanh mang vẻ lạc quan dè dặt. Hoan hỉ về bốn người sống sót, trong khi tuyên bố không nắm rõ tổng số thương vong. Chúng tôi muốn dỏm bảo với công chúng rằng mối đe dọa này đã bị ngăn chặn. Chỉ có mấy ông quan được bầu mới dám mạnh miệng tuyên bố mọi chuyện đã kết thúc, đã an toàn trong khi thậm chí còn không biết đó là chuyện gì.
Anh ta là người duy nhất phía sau micro có lẽ cho rằng chuyện này không chỉ đơn thuần là một máy bay gặp sự cố chứa đầy xác hành khách.
Goodwater?
Từ trung tâm kiểm soát dịch bệnh, ở Atlanta. Setrakian không chắc lắm, nhưng ông nghĩ có lẽ cơ hội lớn nhất của ông là với người này. Có lẽ là cơ hội duy nhất của ông.
Bốn người sống sót. Giá mà họ biết...
Ông lại nhìn lên cái đĩa đen rực rỡ trên bầu trời. Như nhìn vào một con mắt mù do đục thủy tinh thể.
Như nhìn vào tương lai.
Tập đoàn Stoneheart, Manhattan
CHIẾC TRỰC THĂNG nhẹ nhàng hạ cánh xuống sân bay lên thẳng của trụ sở Tập đoàn Stoneheart ở Manhattan, một tòa nhà bằng thép đen và kính ở trung tâm Phố Wall. Ba tầng cao nhất là dinh thự riêng của Eldritch Palmer tại New York, một penthouse đế vương với sàn lát đá mã não, các mặt bàn chất đầy các tác phẩm điêu khắc của Constantin Brancusi, còn tường thì được trang trí bằng tranh của Francis Bacon.
Palmer ngồi một mình trong phòng truyền thông hạ hết rèm, con ngươi đen viền đỏ thầm với quầng lửa sáng trắng bao quanh đang nhìn thẳng vào ông ta từ cái màn hình 72 inch. Nhiệt độ của căn phòng này, cũng như tại ngôi nhà ở Dark Harbor hay trong ca bin chiếc trực thăng y tế của ông ta, luôn được giữ chính xác ở mức 17°c.
Đúng ra ông ta có thể ra ngoài. Dù sao thì ngoài trời cũng đủ lạnh; đúng ta ông ta có thể lên tầng thượng theo dõi vụ che khuất. Nhưng công nghệ mang ông ta lại gần hơn với chính cái sự kiện - không phải bóng tối kết quả, mà là hình ảnh mặt trời thất thế trước mặt trăng - vốn là màn dạo đầu của sự tàn phá. Ông ta sẽ không lưu lại Manhattan lâu. Chẳng bao lâu nữa, thành phố New York sẽ không còn là điểm du lịch quá thú vị.
Ông ta gọi vài cú điện, mấy câu trao đổi thận trọng qua đường dây bảo mật. Món hàng của ông ta đã đến như dự định.
Ông ta mỉm cười đúng dậy khỏi ghế, chậm rãi bước thẳng về phía cái màn hình khổng lồ, như thể đó không phải một cái màn hình ti vi mà là một cái cổng mà ông ta sắp bước qua. Ông ta với tay chạm vào màn hình LCD ngay vị trí của chiếc đĩa đen hung dữ, những phần tử tinh thể lỏng chạy ngoằn ngoèo như những con vi khuẩn dưới các đầu ngón tay nhăn nheo của ông ta. Như thể ông ta đang xuyên qua màn hình để chạm vào con mắt của thần chết.
Sự che khuất này là một hiện tượng thiên văn lầm lạc, một sự vi phạm trật tự tự nhiên. Một thiên thể chết, lạnh lẽo chế ngự một ngôi sao sống cháy bỏng. Đối với Eldritch Palmer, đó chính là bằng chứng rằng bất cứ thứ gì - bất cứ thứ gì, kể cả sự vi phạm khủng khiếp nhất những quy luật của tự nhiên - cũng đều là có thể.
Trong số tất cả những người đang theo dõi sự che khuất ngày hôm đó, hoặc trực tiếp hoặc thông qua truyền hình trên toàn cầu, ông ta có lẽ là người duy nhất ủng hộ mặt trăng.
Tháp không lưu sân bay quốc tế JFK
MỌI NGƯỜI TRONG BUỒNG QUAN SÁT của tháp không lưu cách mặt đất gần một trăm mét đều có thể thấp thoáng nhìn thấy thứ ánh sáng chập choạng kỳ quái kiểu như ánh hoàng hôn ở xa xa phía Tây, bên ngoài tầm với của cái bóng mặt trăng khổng lồ, ở phía bên kia phần bị che khuất. Bầu trời ờ nơi nửa tối đó, được chiếu sáng bởi quang quyển rực rỡ của mặt trời, biến thành màu vàng và vàng cam, không khác mấy miệng của một vết thương đang lành.
Bức tường ánh sáng này đang tiến về thành phố New York, nơi giờ đây đã trải qua chính xác bốn phút ba mươi giây trong bóng tối.
"Đeo lánh vào!" Ai đó yêu cầu và Jim Kent đeo kính vào, lo lắng trước sự trở lại của ánh nắng. Anh ta nhìn xung quanh tìm kiếm Eph - mọi người ở cuộc họp báo, kể cả thống đốc và thị trưởng, đã được mòi lên tháp không lưu để quan sát - và, vì không nhìn thấy Eph, Jim đoán anh đã lén trở lại nhà bảo trì máy bay.
Thực ra, Eph đã tận dụng thời gian nghỉ bắt buộc này theo cách tốt nhất mà anh biết: túm lấy một chiếc ghế ngay khi mặt trời vừa biến mất và ngồi nghiên cứu kỹ lưỡng mớ bản vẽ cấu trúc mặt trong và sơ đồ chiếc Boeing 777, phớt lờ vụ che khuất.
Kết thúc che khuất toàn phần
Sự KẾT THÚC ĐƯỢC ĐÁNH DẤU BỞI một hiện tượng phi thường. Những tia sáng chói lọi hiện ra dọc đường viền phía Tây của mặt trăng, họp lại thành một chuỗi hạt ánh sáng mặt trời rực rỡ, như một vết rạch giữa màn đêm, tạo thành hiệu ứng giống một viên kim cương sáng chói gài trên chiếc nhẫn bạc mặt trăng. Nhưng cái giá của vẻ đẹp ấy là hơn 270 người trong toàn thành phố, 93 trong số đó là trẻ em, bị mù vĩnh viễn do quan sát sự xuất hiện trở lại đầy ấn tượng của mặt trời mà không đeo kính bảo vệ đúng tiêu chuẩn, bất chấp một chiến dịch tuyên truyền rầm rộ trong công chúng về bảo vệ mắt trong thời gian che khuất. Võng mạc không có những phần tử mẫn cảm với con đau, nên nạn nhân không hề biết họ đang làm hỏng mắt mình cho tới khi đã quá muộn.
Chiếc nhẫn kim cương từ từ mở rộng, thành một chiếc vòng đá quý được biết đến với tên "chuỗi hạt Baily", họp nhất với vầng mặt trời khuyết tái sinh, về bản chất đã đẩy lui kẻ xâm lược mặt trăng.
Trên trái đất, những dải bóng tối trở lại, lập lờ trên mặt đất giống như những linh hồn mới đang phát đi thông điệp về sự chuyển đổi từ một dạng sống này sang dạng sống khác.
Khi ánh sáng tự nhiên bắt đầu quay trở lại, loài người trên mặt đất như gỡ được gánh nặng ngàn cân. Những tiếng hò reo, ôm ấp, những tiếng vỗ tay đồng loạt. Tiếng còi ô tô vang lên khắp thành phố, và tiếng hát của Kate Smith vang lên từ những chiếc loa trên sân vận động Yankee.

Chín mươi phút sau, mặt trăng hoàn toàn rời khỏi đường đi của mặt trời, và sự che khuất kết thúc. Một cảm giác rất thực xuất hiện, rằng chưa từng có chuyện gì xảy ra cả: chẳng có gì trên bầu trời bị thay đổi hay bị ảnh hưỏng, cũng chẳng có gì thay đổi trên mặt đất ngoại trừ vài phút nhập nhoạng tối bao phủ trên phần Đông Bắc nước Mỹ. Thậm chí ngay ở New York, mọi người cứ thế thu dọn đồ đạc như thể chỉ vừa xem một màn trình diễn pháo hoa, còn những người đã lặn lội đường xa thì chuyển hướng nỗi lo sợ của họ từ mặt trời chiều bị che khuất sang tình trạng giao thông đang chờ họ phía trước. Một hiện tượng thiên văn kỳ thú đã phủ cái bóng khiếp sợ và âu lo lên toàn bộ năm quận của thành phố. Nhưng đây là New York, và một khi cái gì đã qua thì tức là qua luôn.
Thức giấc
Kho bảo trì máy bay regis
Eph quay trở lại kho máy bay bằng xe điện, để Jim ở lại với giám đốc Barnes, cho anh ta và Nora có chút thời gian nghỉ ngơi.
Các rèm che y tế đã đưọc đưa hết ra khỏi khu vực dưới cánh chiếc 777, tấm bạt nhựa thì đã được kéo lên. Thang lên xuống lúc này đã được áp vào các cửa thoát hiểm trước và sau, một nhóm nhân viên úy ban An toàn Giao thông Quốc gia (NTSB) đang làm việc gần khoang chứa hàng phía đuôi máy bay. Lúc này cái máy bay đang được xem như một hiện trường vụ án. Eph thấy Nora đang mặc áo liền quần Tyvek và mang găng tay cao su, tóc đã được buộc lên bên dưới chiếc mũ giấy. Cô mặc như vậy không phải để phòng chống sinh học mà chỉ đon giản là để bảo vệ hiện trường.
"Thật đáng kinh ngạc, phải không?" cô nói, thay cho lời chào.
"Phải," Eph nói, tập sơ đồ máy bay kẹp dưới cánh tay. "Cả đòi mới có một lần."
Cà phê đã bày biện trên bàn, nhưng Eph chỉ lôi ra một túi sữa lạnh từ bát đựng đá, xé mở và dốc cạn xuống cổ họng. Kể từ khi bỏ rượu, Eph, như một đứa trẻ chập chững đang thiếu canxi, luôn thèm khát sữa tươi nguyên chất.
Nora nói, "Ở đây vẫn chưa có gì. NTSB đang lấy băng ghi âm buồng lái và dữ liệu bay. Em không hiểu sao họ lại cho rằng  hộp đen sẽ vẫn hoạt động trong khi mọi thứ khác trên máy bay đều bị hư thê thảm, nhưng phải nói em khâm phục tinh thần lạc quan của họ. Cho tới lúc này, công nghệ chưa đưa được ta tới đâu. Đã hai mươi tiếng đồng hồ, và vụ này vẫn còn vô cùng mập mờ."
Nora có lẽ là người duy nhất anh quen có khả năng làm việc dựa theo cảm tính một cách hiệu quả và thông minh hơn bất kỳ cách nào khác. "Đã có bất cứ ai vào trong máy bay kể từ khi các thi thể được đưa ra chưa?"
"Em nghĩ là chưa. Chưa có ai hết."
Eph mang các bản sơ đồ lên cầu thang và vào trong máy bay. Các ghế giờ đều trống, ánh sáng bên trong đã bình thường. Còn một khác biệt nữa với Eph và Nora, đó là họ không còn bị bó buộc trong những bộ đồ bảo hộ. Lúc này, cả năm giác quan của họ đều sẵn sàng.
Eph hỏi, "Em ngửi thấy chứ?"
Nora ngửi ngửi. "Gì vậy nhỉ?"
"Amoniac. Có mùi này."
"Và... phốt pho?" Thứ mùi ấy khiến cô nhăn mặt. "Có phải nó đã khiến họ bất tỉnh?"
"Không. Không khí trong máy bay sạch. Nhưng..." Anh nhìn quanh - tìm kiếm thứ gì đó mà họ không thể nhìn thấy. "Nora, lấy mấy cây gậy phát sáng Luma đi, được chứ?"
Trong lúc cô trở ra lấy chúng, Eph đi xuyên qua khoang hành khách và đóng các cửa sổ, như đêm trước, khiến cả khoang trở nên tối tăm.
Nora trở lại với hai cây gậy Luma phát ra ánh sáng cực tím, giống kiểu ánh sáng người ta hay dùng trên đu quay công viên, khiến vải cotton trắng phát sáng quang phổ. Eph vẫn nhớ bữa tiệc sinh nhật chúi tuổi của Zack tại một sân bowling "vũ trụ", và cứ mỗi lần Zack mỉm cười, răng thằng bé lại sáng rực lên.
Họ bật đèn, và ngay lập tức khoang máy bay tối biến thành một dải màu cuộn xoáy điên cuồng, những vết nhuộm màu lớn loang lổ khắp sàn và trên các ghế, chừa lại những khoảng tối tại nơi hành khách từng ngồi.
Nora nói, "Ôi Chúa ơi..."
Một ít vật chất phát sáng này thậm chí bám cả trên trần dưới dạng vết bắn tóe.
"Không phải máu," Eph nói, sững sờ trước cảnh tượng này. Toàn bộ khoang hành khách phía đuôi máy bay trông như một bức họa của Jackson Pollock. "Nó là một loại vật chất sinh học gì đó."
"Dù là gì thì nó cũng đã bắn tung tóe khắp noi. Như thể thứ gì đó đã phát nổ. Nhưng từ đâu chứ?"
"Từ đây. Từ ngay nơi ta đang đứng." Anh quỳ xuống, kiểm tra tấm thảm, tại đó mùi nồng hơn cả. "Chứng ta cần lấy mẫu kiểm tra."
"Anh chắc chứ?" Nora hỏi.
Anh đứng lên, vẫn còn kinh ngạc. "Nhìn này." Anh cho cô xem một trang sơ đồ máy bay. Nó cho thấy vị trí cửa thoát hiểm của dòng máy bay Boeing 777. "Em thấy khu vực tô đen này ở đầu máy bay chứ?"
Cô có thấy. "Trông như một cầu thang."
"Ngay phía sau buồng lầi."
"OFCRA là viết tắt của cái gì vậy?"
Eph đi tới quầy bếp trước cửa buồng lái. Những chữ viết tắt này được in trên tấm ốp tường tại đó.
"Khu nghỉ tầng trên của phi hành đoàn," Eph nói. "Tiêu chuẩn trên những phi cơ lớn bay đường dài như thế này."
Nora nhìn anh. "Đã ai kiểm tra ở đây chưa?"
Eph nói, "Anh biết là chúng ta thì chưa."
Anh cúi xuống quay một cái tay nắm giấu trong hốc tường, kéo mở một cánh cửa. Một cái cửa gấp ba cánh dẫn tới một cầu thang xoắn hẹp hướng vào bóng tối phía trên.
"Ôi, chết tiệt," Nora thốt lên.
Eph chĩa đèn Luma lên cầu thang. "Anh hiểu điều đó có nghĩa là em muốn anh đi trước."
"Đợi đã. Hãy gọi thêm người."
"Không. Họ sẽ không biết cần phải tìm thứ gì."
"Vậy ta thì biết hả?"
Eph lờ đi, và leo lên dãy cầu thang xoắn chật hẹp.
Gian trên hẹp, trần thấp. Không có cửa sổ. Đèn Luma có vẻ thích họp để giám định pháp y hơn là để chiếu sáng trong nhà.
Bên trong mô đun đầu tiên, họ có thể thấy hai cái ghế cỡ hạng thương gia đặt cạnh nhau, được gập xuống. Đằng sau là hai giường nghiêng, cũng cạnh nhau, không gian chỉ đủ rộng để mà trườn người vào. Anh sáng tối cho thấy cả hai mô đun đều trống.
Tuy nhiên, ánh sáng cũng cho thấy thêm một mớ hỗn độn nhiều màu sắc tương tự những gì họ đã phát hiện bên dưới. Trên sàn, bám thành vệt trên các ghế và một giường ngủ. Nhưng dấu vết ở đây nhòe nhoẹt, như thể đã bám vào khi còn đang ẩm.
Nora hỏi, "Cái quái gì vậy?"
Tại đây cũng có mùi amoniac - và mùi gì đó khác. Mùi hăng hăng.
Nora cũng nhận ra, bèn đưa mu bàn tay lên che lỗ mũi. "Thứ gì vậy?"
Eph đứng gần như gập người giữa hai chiếc ghế bên dưới cái trần thấp. Anh đang cố tìm từ. "Như giun đất vậy," anh nói. "Hồi nhỏ anh từng đào chúng lên. cắt chúng làm đôi để quan sát từng phần ngoe nguẩy. Mùi của chúng là mùi đất, thứ đất lạnh chúng trườn qua."
Eph lia ánh đèn cực tím vào tường và sàn, sục sạo cả khoang. Đứng lúc định dừng lại thì anh chợt nhận thấy thứ gì đó phía sau đôi ủng giấy của Nora.
"Nora, đừng di chuyển," Eph nói.
Anh nghiêng người sang một bên để có góc nhìn rõ hơn mặt sàn trải thảm phía sau cô, Nora thì bất động như thể sắp giẫm phải một trái mìn.
Một cục đất nhỏ nằm trên tấm thảm hoa văn. Không quá vài gam đất, cực kỳ nhỏ, màu đen tuyền.
Nora nói, "Nó có đúng là thứ em đang nghĩ không nhỉ?"
Eph nói, "Cái hòm."

HỌ trèo xuống cầu thang bên ngoài tới khu vực trữ hàng trong kho máy bay, nơi các xe đẩy phục vụ đồ ăn đang được mở ra và kiểm tra. Eph và Nora rà soát đống hành lý, túi gậy đánh golf và chiếc xuồng kayak.
Cái hòm gỗ màu đen đã biến mất. nơi trước đó đã đặt cái hòm, trên rìa tấm bạt nhựa, giờ trống không.
"Chắc ai đó đã chuyển nó đi," Eph nói, vẫn đang quan sát. Anh bước tránh ra vài bước, quét mắt khắp phần còn lại của kho máy bay. "Họ không thể đưa nó đi xa được."
Mắt Nora sáng rực. "Họ mới chỉ bắt đầu xem qua toàn bộ những thứ này. Chưa có gì được mang đi cả."
Eph nói, "Thứ này đã được mang đi."
"Đây là khu vực được bảo vệ, Eph. Thứ này khoảng bao nhiêu nhỉ, hai nhân một nhân một mét? Nó dễ nặng tới hàng trăm cân. Phải bốn người đàn ông mới có thể bê nổi."
"Chính xác. Vậy là ai đó biết nó đang ở đâu."
Họ tới chỗ nhân viên trực cổng kho máy bay, người giữ nhật ký ra vào khu vực. Anh chàng này tra cứu danh mục, một biên bản ghi chép thời gian ra vào của mọi người mọi vật. "Không có gì ở đây," anh ta nói.
Eph cảm nhận-được Nora đang định phản đối, vì thế anh chặn trước. "Anh đã ở đây, đứng ngay tại đây, được bao lâu rồi?"
"Từ khoảng mười hai giờ."
"Không nghỉ ư?" Eph nói. "Vậy trong thời gian nhật thực?" "Tôi đứng ngay tại đây." Anh ta chỉ vào một vị trí cách cổng vài mét. "Không ai bước qua tôi cả."
Eph nhìn sang Nora.
Nora nói, "Cái quái gì đang diễn ra vậy?" Cô nhìn anh nhân viên trực cổng. "Có ai khác có thể đã nhìn thấy một chiếc quan tài lớn không?"
Eph cau mày trước từ "quan tài". Anh nhìn lại kho máy bay, rồi ngước lên những máy quay an ninh trên xà nhà.
Anh chỉ. "Chúng đấy."
Eph, Nora và nhân viên trực ban Quản lý Cảng bước lên cầu thang thép dài tới phòng kiểm soát bao quát toàn bộ kho bảo trì. Bên duói, công nhân đang tháo mũi máy bay để kiểm tra bên trong.
Bốn máy quay hoạt động liên tục trong nhà kho: một tại cửa dẫn ra cầu thang lên phòng kiểm soát; một chĩa về phía các cửa nhà kho; một trên xà nhà - chính là chiếc Eph chỉ - và một trong căn phòng họ đang đứng lúc này. Tất cả đều hiển thị trên một màn hình bốn khung vuông.
Eph hỏi người quản lý kho bảo trì, "Sao lại có máy quay trong phòng này?"
Người quản lý nhún vai. "Chắc do đây là nơi để tiền mặt chi lặt vặt."
Anh ta ngồi xuống một chiếc ghế văn phòng xấu xí có chỗ để tay dính đầy băng keo, rồi loay hoay bấm bàn phím phía dưới màn hình, mở rộng hình ảnh thu bởi máy quay trên xà nhà ra toàn màn hình. Anh ta tua ngược lại video ghi an ninh. Đây là thiết bị kỹ thuật số, nhưng đã dăm năm tuổi, và quá nhiễu đến nỗi chẳng thể xem được gì trong lúc đang tua lại.
Anh ta dừng hình. Trên màn hình, cái hòm nằm chính xác tại vị trí cũ, ở một góc của đống hàng hóa đã dỡ xuống. "Nó đây rồi," Eph nói.
Nhân viên trực gật đầu. "Được rồi. Để xem nó đã đi đâu nào."
Người quản lý nhấn nút chạy xuôi. Hình ảnh chạy chậm hơn so với khi tua ngược, nhưng vẫn khá nhanh. Anh sáng trong nhà kho tối đi lúc che khuất, và khi nó sáng trở lại, cái hòm đã biến mất.
"Dừng, dừng lại," Eph nói. "Chạy lùi lại."
Người quản lý tua lại một chút, rồi lại nhấn play. Mã hiển thị thời gian bên dưới cho thấy hình ảnh đang chạy chậm hơn ban nãy.
Nhà kho tối đi và lập tức cái hòm lại biến mất.
"Cái quái gì...?" quản lý nói, nhấn nút dừng.
Eph nói, "Tua lại một chút thôi."
Người quản lý tua lại, sau đó để hình chạy theo đúng thời gian thực.
Nhà kho mờ tối, vẫn được chiếu sáng bởi những đèn làm việc bên trong. Cái hòm đang ở đó. Và rồi nó biến mất.
"Trời," nhân viên trực nói.
Người quản lý dừng video. Anh ta cũng bối rối.
Eph nói, "Có một khoảng trống. Một đoạn cắt."
Người quản lý nói, "Không cắt đâu. Anh đã thấy mã hiển thị thời gian rồi đấy."
"Vậy hãy tua lại một chút. Một chút nữa... ngay chỗ đó... lại lần nữa nào."
Người quản lý cho chạy lại đoạn video.
Và một lần nữa, cái hòm biến mất.
"Houdini*[I]’," quản lý làu bàu.
Eph nhìn Nora.
"Nó không chỉ biến mất," nhân viên trực cổng nói. Anh ta chỉ tay về phía những hành lý xung quanh. "Mọi thứ khác vẫn y nguyên chỗ cũ. Không hề nhúc nhích."
Eph nói, "Chạy lại lần nữa đi. Phiền anh."
Người quản lý cho chạy lại. Và cái hòm lại một lần nữa biến mất.
"Chờ đã," Eph nói. Anh đã thấy thứ gì đó. "Cho chạy lại đi - chậm thôi."
Người quản lý tua lại, và cho chạy video một lần nữa.
"Đó," Eph nói.
"Chúa ơi," người quản lý thốt lên, gần như nhảy bật khỏi chiếc ghế cọt kẹt. "Tôi thấy rồi."
"Thấy gì?" Nora hỏi, cùng lúc với nhân viên trực.
Người quản lý lúc này đã bình tâm trở lại, anh ta tua lại một đoạn ngắn.
"Sắp rồi..." Eph nói, căng mắt quan sát. "Sắp rồi..." Người quản lý giữ tay trên bàn phún như thể một thí sinh game show đang chờ nhấn chuông. "... đó."
Cái hòm lại biến mất. Nora cúi xuống sát hon. "Gì cơ?" Eph chỉ vào một bên màn hình. "Ngay đó."
Rành rành bên mép phải của hình ảnh là một bóng đen mờ. Eph nói, "Có thứ gì đó đang lướt qua máy quay." "Trên xà nhà ư?" Nora nói. "Gì thế, một con chim chắc?" "Quá lớn," Eph nói.
Nhân viên trực, đang cúi sát vào màn hình, nói, "Nhiễu hình đấy. Một cái bóng."
"Được," Eph nói, bước lui lại. "Bóng của cái gì?"
Nhân viên trực đứng thẳng người lại. "Anh có thể chạy từng khung hình một được không?"
Người quản lý thử làm theo. Cái hòm biến mất khỏi sàn... gần như cùng lúc với sự xuất hiện của cái bóng mờ trên xà nhà. "Tôi chỉ có thể làm được như vậy trên cái máy tính này."
Nhân viên trực nghiên cứu màn hình một lần nữa. "Trùng họp thôi," anh ta tuyên bố. "Làm sao có thứ gì di chuyển với tốc độ như vậy được?"
Eph hỏi, "Anh có thể phóng to chứ?"
Người quản lý đảo mắt. "Đây không phải trong CSIa) - đây là RadioShack chết tiệt."
"Vậy là, nó đã biến mất," Nora nói, quay sang Eph, những người kia không giúp ích được gì. "Nhưng tại sao, và bằng cách nào?"
Eph khum tay quàng ra sau gáy. "Đất từ cái hòm... hẳn nó phải giống với đất ta vừa tìm thấy. Vậy nghĩa là..."
Nora nói, "Có phải ta đang đưa ra một giả thuyết rằng có ai đó từ khoang chứa hàng đã lên khu vực nghỉ tầng trên của phi hành đoàn?"
Eph nhớ lại cảm giác khi đứng trong buồng lái cùng thi thể các phi công - ngay trước khi phát hiện ra Redfern vẫn còn sống. Cảm giác về một sự hiện diện. Thứ gì đó ở gần.
Anh kéo Nora tránh xa hai người kia. "Và để lại dấu vết của... một thứ vật chất sinh học nào đó trên khoang hành khách."
Nora ngoái nhìn hình ảnh bóng đen mờ trên xà nhà.
Eph nói, "Anh nghĩ ai đó đã ẩn nấp trong căn buồng đó khi ta vào máy bay lần đầu."
"ừ..." cô nói, bám lấy gọi ý đó. "Nhung vậy thì... giờ nó đang ở đâu?"
Eph nói, "Bất cứ nơi đâu có cái hòm."
Gus
GUS ĐI LỮNG THỮNG dọc làn xe ô tô trong bãi đỗ xe dài hạn trần thấp của sân bay JFK. Tiếng lốp xe mòn rít vang rẽ xuống con đường dốc ở lối vào làm cho nơi này nghe giống như một trại tâm thần. Cậu rút từ túi áo một tấm thẻ ghi chú gập đôi và cẩn thận kiểm tra lại số ô đậu xe được một người nào khác viết. Sau đó cậu kiểm tra lại để chắc chắn không có ai khác gần đó.
Cậu tìm thấy chiếc xe tải, một chiếc Econoline trắng xước xát, bẩn thỉu và thiếu cửa sổ sau, đỗ tận cuối làn, tại một khu vực đang thi công có đặt cọc tiêu, phất phơ vải dầu, vương vãi đá vụn và bị tróc một phần trần.
Cậu rút một cái khăn lau tay ra để cố thử cánh cửa trước không khóa, như được dặn trước. Cậu lùi khỏi chiếc xe tải và nhìn quanh góc gara tách biệt, hoàn toàn yên tĩnh, chỉ có âm thanh như tiếng khỉ ré xa xa, thầm nghĩ bẫy chăng. Họ có thể đặt một máy quay trong bất cứ xe nào quanh đây, theo dõi cậu. Cậu đã từng xem một vụ như vậy trên chương trình Cops: Sở Cảnh sát gắn những máy quay nhỏ bên trong các xe tải và đưa chúng tới một con phố, hình như ở Cleveland, rồi theo dõi lũ trẻ con và mấy thằng đần khác nhảy lên xe mà phóng đi choi hoặc lái xuống cửa hàng chuyên mua bán phụ tùng ô tô trộm cắp gần đó. Bị bắt đã tệ lắm rồi, nhưng bị lừa như vậy, rồi bị tung lên chương trình ti vi giờ vàng, thế thì còn tệ hơn nhiều. Gus thà bị bắn chết khi mặc độc đồ lót còn hơn bị dán nhãn một thằng ngu.
Nhưng cậu đã cầm năm mươi đô tiền thưởng từ gã nọ cho vụ này. Một món hòi được Gus nhét trong dải băng bên dưới chiếc mũ phớt của mình, để làm bằng chúng phòng trường họp mọi sự vỡ lở.
Gã đó đang ở trong siêu thị khi Gus tạt vào mua một chai Sprite. Đứng ngay sau cậu lúc cậu xếp hàng trả tiền. Ở bên ngoài, cách đó nửa khối nhà, Gus nghe tiêhg ai đó bước vượt lên rồi quay ngoắt lại. Chính là gã ấy - tay chìa ra, cho thấy rõ hai bàn tay trống không. Muốn biết liệu Gus có muốn kiếm chác một chút không.
Gã da trắng, quần áo gọn gàng, có phẩn lạc lõng. Gã không giôhg cớm, cũng chẳng giống người đồng tính. Giống kiểu một nhà truyền giáo.
"Một xe tải trong bãi đỗ xe sân bay. Cậu lên xe, lái tới Manhattan, đỗ xe, rồi biến."
"Một xe tải," Gus nói.
"Một xe tải."
"Có gì bên trong?"
Gã kia chỉ lắc đầu. Đưa một tấm thẻ ghi chú gập đôi kẹp năm tờ mười đô mới cứng. "Chỉ là màn chào hỏi thôi."
Gus rút xấp tiền ra, như thể đang kéo miêhg thịt ra khỏi một chiếc sandwich. "Nếu ông là cớm, thì đây là một vụ giăng bẫy."
"Thời gian lấy xe được ghi trên đó. Đừng đến sớm, cũng đừng đêh muộn."
Gus vân vê những tờ mười đô gấp đôi trên tay như thể đánh giá một chất vải mịn. Gã kia nhìn thấy. Gus nhận ra gã cũng nhìn thấy cả hĩnh xăm ba vòng tròn nhỏ trên phần da giữa ngón trỏ và ngón cái của Gus. Dấu hiệu trộm cướp của băng đảng Mexico, nhưng gã này làm sao mà biết được chứ? Liệu đó có phải lý do gã quay trở lạí cửa hàng này? Lý do gã chọn cậu?
"Chìa khóa và các hướng dẫn tiếp theo có ở trong ngăn chứa đồ trên xe."
Rồi gã bắt đầu bỏ đi.
"Này," Gus gọi với theo. "Tôi đã đồng ý dầu."
Gus kéo mở cửa - chờ đợi; không có báo động - rồi leo vào trong. Không nhìn thấy bất cứ máy quay nào - nhưng dù có máy quay thì cậu cũng chẳng thể nhìn ra, phải vậy không? Đằng sau ghế trước là một tấm ngăn bằng kim loại không có ô cửa sổ. Được bắt chặt bằng bu lông, đồ gia công thay thế. Không chừng trong chiếc xe tải này lúc nhúc cả một lũ cớm cũng nên.
Tuy nhiên, trong xe có vẻ yên ắng. Cậu lại dùng khăn lau tay để mở ngăn chứa đồ. Rón rén, như thể có một con rắn đồ choi có thể xổ ra, rồi bóng đèn nhỏ bật sáng. Nằm bên trong là chìa khóa xe, vé gửi xe để cậu ra ngoài, và một phong bì màu nâu.
Cậu nhìn vào trong phong bì và thấy ngay số tiền công. Năm tờ 100 đô mới cứng, khiến cậu vừa hài lòng vừa bực mình. Hài lòng bởi nó nhiều hơn mức cậu kỳ vọng, còn bực mình bởi sẽ chẳng có ai, đặc biệt là ở vùng này, chịu cầm tờ một lít từ cậu mà không thắc mắc. Ngân hàng thậm chí cũng sẽ quét đi quét lại những tờ tiền này, khi thấy chúng đưọc rút ra từ túi một thằng Mexico mười tám tuổi xăm trổ đầy mình.
Gấp đôi lại kẹp bên ngoài những tờ tiền này là một thẻ ghi chú khác ghi địa điểm đến và mã số vào cửa bãi đậu xe tại đó, CHỈ DÙNG MỘT LẦN.
Cậu so sánh hai cái thẻ. Cùng một nét chữ.
Lo lắng nhạt dần khi cảm giác háo hức trỗi dậy. Thằng khờ! Tin tưỏng giao cho cậu chiếc xe này! Trong đầu Gus ngay lập tức nảy ra ba cơ sở khác nhau ở Nam Bronx để đưa con xe này tới chỉnh trang. Và cũng là để nhanh chóng thỏa mãn nỗi tò mò muốn biết thứ đồ lậu cậu phải vận chuyển phía sau là gì.
Thứ cuối cùng trong chỉếc phong bì lớn là một phong bì nhỏ hơn, cỡ bì thư. Cậu rút ra vài tờ giấy, mở ra, và chợt thấy nóng bừng cả người.
AUGUSTIN ELIZALDE, dòng đầu tiên ghi. Đó là lý lịch tư pháp của Gus, bị kết tội ngộ sát khi còn ở tuổi vị thành niên, và rồi được thả tự do vào sinh nhật lần thứ mười tám, mới chỉ ba tuần trước.
Trang thứ hai là bản sao bằng lái của cậu và, bên dưới, của mẹ cậu, với cùng một địa chỉ số 115, phố Đông. Rồi một bức hình nhỏ chụp mặt trước tòa nhà Taft Houses của họ.
Gus nhìn chằm chằm tờ giấy đó trong hai phút liền. Tâm trí bấn loạn, hết nghĩ đến cái gã có dáng truyền giáo kia lại băn khoăn không biết gã đã biết được những gì, rồi lại nghĩ đến mẹ cậu, và rằng lần này Gus đã dây vào thứ công việc chết tiệt gì đây.
Gus không thích bị đe dọa. Nhất là khi dính líu tới mẹ mình: cậu đã khiến bà chịu đựng quá đủ rồi.
Trang thứ ba đưọc in bằng cùng kiểu chữ viết tay như trên những tấm thẻ ghi chú. Nó viết: CẤM DÙNG.
Gus ngồi bên cửa sổ quán Insurgentes, ăn món trứng rán rưới tương ớt Tabasco, quan sát chiếc xe tải trắng đang đỗ song song với một xe khác trên đại lộ Queens. Gus thích đồ ăn sáng, và từ hồi ra tù, gần như bữa nào cậu cũng chỉ ăn đồ ăn sáng. Lần này cậu gọi món đặc biệt, bởi cậu có thể: thịt hun khói chiên giòn, bánh mì nướng cháy.
Mẹ kiếp, CAM DƯNG. Gus không thích trò choi này, nhất là khi dính dáng đến mẹ cậu. Cậu quan sát chiếc xe tải, cân nhắc các phương án, chờ đợi một điều gì đó xảy ra. Liệu cậu có đang bị theo dõi? Nếu có, thì sát sao tới mức nào? Và nếu chúng có thể theo dõi cậu thì tại sao chúng không tự mình lái chiếc xe luôn? Cậu đã đâm đầu vào chuyện chết tiệt gì đây?
Có gì ở bên trong chiếc xe tải đó?
Mấy thằng lang thang xuất hiện soi mới quanh đầu xe tải. Chúng hụp đầu xuống rồi chạy tán loạn khi Gus bước ra từ quán ăn. Chiếc áo sơ mi flannel cài cúc cổ của cậu phấp phói sau lưng trong gió chiều, hai cẳng tay trần của cậu kín đặc những đường xăm màu đỏ tươi bao quanh hình nhà tù màu đen. Tinh thần tương trợ lẫn nhau được thực thi trong toàn cộng đồng cư dân gốc Trung Mỹ trải rộng từ Bắc và Đông khu Spanish Harlem cho tới Bronx, và vươn xa tới tận khu Queens ở phía Nam. Họ ít người, nhưng ảnh hưởng thì trải rộng. Chớ có dây dưa với bất cứ ai trong số đó trừ phi muốn gây chiến với tất cả bọn họ.
Cậu lái xe vào một con phố lớn, theo hướng Tây đi về phía Manhattan, mắt vẫn trông chừng xem có ai bám đuôi hay không. Chiếc xe tải nẩy lên tại đoạn đường đang làm và cậu dỏng tai lên nhung chẳng nghe thấy có gì xê dịch đằng sau. Tuy nhiên, thứ gì đó đang đè nặng lên hệ thống giảm xóc.
Gus thấy khát, nên lại tấp vào lề đường bên ngoài một khu chợ ở góc phố để mua hai lon Tecate 700ml. Cậu nhét một trong hai lon đỏ-vàng đó vào khay cốc và tiếp tục lên đường, những tòa nhà cao tầng giờ đang hiện lên phía bên kia bờ sông, mặt trời bắt đầu khuất bóng phía sau chúng. Trời sắp tối. Cậu nghĩ về ông anh trai ở nhà, Crispin, một tên gàn dở nghiện ngập, xuất hiện đúng lúc Gus đang gắng hết sức đối xử tốt với mẹ. Toát mùi ma túy nồng nặc trên ghế sofa ở phòng khách, và Gus chỉ muốn thọc lưỡi dao gỉ vào giữa những cái xương sườn kia của hắn. Mang bệnh về nhà họ. Thằng anh cậu là một con quỷ, một xác sống đúng nghĩa, nhung mẹ sẽ không đẩy hắn ra khỏi nhà. Bà cứ để hắn ở đó, vờ như không biết hắn chích thuốc trong phòng tắm của bà, kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi hắn lại bỏ đi cùng một số đồ đạc của bà.
Gus cần để dành một ít tiền bất hợp pháp này cho mẹ. Sẽ đưa bà sau khi Crispin biến đi. Nhét thêm một ít vào mũ và để đấy cho bà. Khiến bà vui. Làm điều đúng đắn.
Gus rút điện thoại ra trước khi lái vào hầm. "Ê, Felix. Đến đón tao đi."
"Ở đâu vậy ông tướng?"
"Tao sẽ ở dưới công viên Battery."
"Công viên Battery? Tít tận dưới đó á, Gusto?
"Lái xe tới đại lộ 9 rồi đâm thẳng xuống, con chó. Chúng ta sẽ đi choi. Tự thưởng cho mình một bữa tiệc nào. Số tiền tao nợ mày đó... hôm nay tao kiếm được một chút. Đem cho tao cái áo khoác hay thứ gì đó để mặc, giày sạch. Đưa tao vào hộp đêm nào đấy."
"Mẹ kiếp, cần gì nữa không?"
"Chỉ cần mày bỏ tay ra khỏi cái hĩm của con bồ mày và tới đón tao, hiểu chứ?"
Gus lái xe ra khỏi hầm vào Manhattan và đi dọc theo thành phố trước khi rẽ về hướng Nam. Cậu ngoặt vào phố Church, phía Nam phố Canal, và bắt đầu kiểm tra các biển chỉ đường. Địa chỉ là một tòa nhà chưng cư nằm phía sau một giàn giáo, cửa sổ dán đầy giấy phép xây dựng, nhưng chẳng hề có bất cứ xe tải công trường nào xung quanh. Đường phố yên lặng, nằm trong khu dân cư. Bãi để xe vẫn làm việc như đã được báo trước, mã số vào bãi kéo cánh cửa cuốn bằng thép lên vừa đủ cho chiếc xe tải đi vào và lăn bánh xuống một con dốc bên dưới tòa nhà.
Gus đỗ xe và ngồi yên một lúc, nghe ngóng. Bãi đỗ xe bẩn thỉu và thiếu sáng, trông hệt như một cái bẫy, bụi cuộn bay lên dưới ánh sáng đèn mờ từ lối vào đang mở toang. Gus chỉ muốn rút lui lập tức, nhưng cậu cần chắc chắn thoát khỏi vụ này mà không để lại một dấu vết. Cậu đợi cửa bãi hạ xuống hẳn.
Gus gập mấy tờ giấy và chiếc phong bì lấy từ ngăn chứa đồ nhét vào túi, nốc cạn bia và bóp nát lon rồi bước ra khỏi xe tải. Sau một phút suy tính, cậu cầm khăn lau tay trở vào trong, chùi sạch vô lăng, các núm radio, ngăn chứa đồ, tay nắm cửa trong và ngoài, mọi thứ mà cậu nghĩ mình đã có thể chạm vào.
Cậu nhìn quanh bãi đỗ xe, thứ ánh sáng duy nhất giờ đây lọt vào là từ giữa những chiếc cánh của một cái quạt thông gió, rọi những tía sáng yếu ớt vào đám bụi cuốn lên trông như sương mù. Gus chùi chìa khóa xe rồi bước vòng tới cửa sau xe tải. Cậu thử kéo nắm cửa. Chúng bị khóa.
Cậu đắn đo một lát, rồi sự tò mò lại thắng thế. Cậu thử dùng chìa khóa.
o khóa khác với khóa công tắc xe. Cậu có phần thấy nhẹ nhõm.
Khủng bố, cậu nghĩ. Có khi giờ đây mình đã thành một thằng khủng bố chết tiệt. Lái một xe tải chứa đầy thuốc nổ.
Việc cậu có thể làm là lái chiếc xe tải ra khỏi đây. Đỗ nó bên ngoài trạm cảnh sát gần nhất, để lại một lời nhắn trên kính chắn gió. Để họ xem bên trong xe có gì không.
Nhưng những gã chết tiệt kia đã có địa chỉ của cậu. Địa chỉ của mẹ cậu. Bọn chúng là ai chứ?
Gus giận dữ, cảm thấy vô cùng nhục nhã. Cậu nện nắm đấm vào thành chiếc xe tải trắng, hối tiếc đã dây vào vụ này. Một âm thanh tương tự vọng lại bên trong, phá tan sự yên lặng. Vậy là chịu thua, cậu liền quăng chìa khóa vào ghế trước và đóng sầm cửa trước bằng khuỷu tay - lại một tiếng dội nữa.
Nhưng rồi - thay vì nhanh chóng trở nên yên tĩnh trở lại - cậu nghe thấy tiếng gì đó. Hoặc tưởng như đã nghe thấy: thứ gì đó bên trong. Dưới ánh sáng lờ mờ chiếu qua lưới quạt thông gió, Gus vội bước đến bên cánh cửa sau đang khóa để lắng nghe, tai gần như chạm vào xe tải.
Thứ gì đó. Gần như... giống tiếng sôi dạ dày. Dạng như tiếng bụng đói kêu ùng ục. Sôi sục.
Ôi dào, kệ mẹ nó, cậu tự nhủ, bước lùi lại. Công việc đã xong. Miễn là quả bom không nổ xuống tận phố 110, thì việc gì ta phải quantum?
Một tiếng rầm nghèn nghẹt nhưng dễ dàng nhận thấy từ bên trong xe tải đẩy Gus lùi lại một bước. Túi giấy chứa lon bia thứ hai tuột khỏi tay cậu, và lon bia vỡ tung, bắn bia khắp sàn nhà đầy cát bụi.
Nước bắn ra chuyển thành một đám bọt lăn tăn, và Gus cúi người xuống để thu dọn mớ hỗn độn, rồi cậu dừng lại, vẫn lom khom, tay đặt trên chiếc túi giấy ướt nhèm.
Xe tải hơi nghiêng. Lò xo giảm xóc khẽ cọt kẹt một tiếng.
Thứ gì đó đã di chuyển hoặc cử động bên trong.
Gus đứng thẳng dậy và lùi lại, mặc kệ chỗ bia đổ trên mặt đất, tiếng cát sỏi sột soạt dưới đế giày. Lùi được vài bước, cậu lấy lại bình tĩnh, cố tỏ ra thoải mái. Mánh này là để phòng trường họp có ai đó đang theo dõi và muốn thấy cậu mất bình tĩnh. Cậu quay người, thong thả bước tới cửa bãi xe đang đóng kín.
Lò xo lại cót két, khiến Gus khựng lại, nhưng cậu không dừng bước.
Cậu tới chỗ một cái bảng đen cạnh cửa, có gắn một nút bấm đỏ. Cậu ấn cạnh bàn tay lên cái nút, nhưng không có gì xảy ra.
Cậu ấn tiếp hai lần nữa, ban đầu từ tốn nhẹ nhàng, sau đó mạnh và nhanh, lò xo trong nút bấm mắc kẹt như thể đã lâu không sử dụng.
Chiếc xe tải lại kẽo kẹt, và Gus không cho phép mình ngoái lại.
Cửa bãi xe được làm bằng thép tron, không có tay cầm. Chẳng có gì để kéo. Cậu đạp cửa một cái, nhưng chỉ có thể làm cho nó kêu lên lạch cạch.
Một tiếng rầm nữa vang lên từ trong xe, gần như đáp lại tiếng đạp của cậu, tiếp theo sau là tiếng kẽo kẹt dữ dội, và Gus lao về phía chiếc nút bấm. Cậu lại nhấn nút, nhấn liên tục, rồi có tiếng ròng rọc kêu vo vo, động cơ cuốn lách cách, và dây xích bắt đầu chạy.
Cửa cuốn bắt đầu nâng lên khỏi mặt đất.
Gus đã ra tới bên ngoài trước cả khi cửa cuốn lên được một nửa, vọt ra vỉa hè như một con cua và nhanh chóng lấy lại hoi. Cậu quay lại và chờ đợi, quan sát cánh cửa mở ra, dừng một lúc, rồi hạ lại xuống. Cậu muốn chắc chắn nó đã đóng chặt và không có gì hiện ra từ bên trong.
Sau đó cậu nhìn quanh, rũ bỏ cơn sợ hãi, kiểm tra lại mũ của mình, bước tới góc phố, bước nhanh như vừa phạm tội, mong muốn cách xa chiếc xe tải này thêm một khối nhà nữa. Cậu băng qua phố Vesey và thấy mình đang đứng trước những thanh chặn cùng hàng rào công trường bao quanh khu vực trước đây từng là Trung tâm Thương mại Thế giới. Giờ nó đã bị xới tung lên thành một hố trũng khổng lồ trải rộng trên những con phố quanh co của khu trung tâm Manhattan, xung quanh là cần cẩu và xe tải công trường đang tái thiết khu vực này.
Gus rũ sạch cơn ớn lạnh. Cậu mở điện thoại áp vào tai.
"Felix, đang ở đâu rồi, bạn hiền?"
"Phố 9, đang vào khu trung tâm. Sao vậy?"
"Không có gì. Cứ đến đây nhanh lên. Tao vừa trải qua một chuyện mà tao cần phải quên ngay lập tức."
Khu cách ly, Trung tâm Y tế Jamaica
EPH TỚI TRUNG TÂM Y TẾ Jamaica, vô cùng giận dữ. "Bà nói họ đã đi rồi nghĩa là sao?"
"Bác sĩ Goodweather," người quản lý nói, "chúng tôi không thể làm gì để buộc họ tiếp tục ở lại đây."
"Tôi đã bảo bà phải cử một bảo vệ để giữ gã luật sư vô liêm sỉ đó của Bolivar ở ngoài mà."
"Chúng tôi đã cử một bảo vệ. Một sĩ quan cảnh sát hẳn hoi. Anh ta xem lệnh và nói với chúng tôi anh ta chẳng thể làm được gì. Và... đó không phải luật sư của ngôi sao nhạc rock đâu. Là cô luật sư Luss. Công ty của cô ta. Họ đã qua mặt tôi, làm việc trực tiếp với ban giám đốc bệnh viện."
"Vậy sao không ai thông báo cho tôi biết việc này?"
"Chúng tôi đã cố liên lạc với các anh. Chúng tôi đã gọi vào số của anh ta."
Eph quay ngoắt lại. Jim Kent đang đứng cùng Nora. Anh ta có vẻ sửng sốt. Anh ta rút điện thoại ra lướt qua danh sách cuộc gọi. "Tôi không thấy..." Anh ta nhìn lên với vẻ biện hộ. "Có lẽ là do vết đen của mặt trời lúc nhật thực, hay gì đó. Tôi không hề nhận được những cuộc gọi đó."
"Tôi gửi vào hộp thư thoại của anh," người quản lý nói.
Anh ta kiểm tra lại. "Chờ đã... có vài cuộc gọi có thể tôi đã bỏ qua." Anh ta ngước nhìn Eph. "Có quá nhiều chuyện xảy ra, Eph... E là tôi đã phạm sai lầm."
Thông tin này đã dập tắt con thịnh nộ của Eph. Thật chẳng giống Jim chút nào khi mắc sai lầm, đặc biệt là trong thời điểm nguy cấp như lúc này. Eph nhìn chằm chằm người cộng sự đáng tin cậy, con giận xẹp dần thành nỗi thất vọng. "Bốn manh mối quan trọng nhất của tôi giúp giải quyết vụ này vừa mới bước ra khỏi cánh cửa đó."
"Không phải bốn," người quản lý nói từ phía sau. "Chỉ ba thôi.
Eph quay lại nhìn bà. "Ý bà là sao?"
Bên trong khu cách ly, Cơ trưởng Doyle Redfern ngồi trên giường, bên trong lóp rèm nhựa. Anh ta có vẻ phờ phạc;
hai cánh tay tái nhợt đặt trên chiếc gối trong lòng. Y tá nói anh ta không chịu ăn gì do cứng họng và liên tục buồn nôn, thậm chí không uống một ngụm nước nào. Mũi kim ở cánh tay đang truyền nước cho anh ta.
Eph và Nora đứng bên anh ta, đeo mặt nạ và găng tay, tránh mang đồ bảo hộ toàn thân.
"Nghiệp đoàn muốn tôi ra khỏi đây," Redfern nói. "Nguyên tắc của ngành công nghiệp hàng không là, 'Luôn luôn đổ lỗi cho phi công'. Dù là quá tải hay cắt giảm bảo trì thì cũng chẳng bao giờ là lỗi của hãng hàng không cả. Dù gì họ cũng sẽ truy cứu cơ trưởng Moldes trong vụ này. Và có lẽ là cả tôi nữa. Nhưng... có gì đó không ổn. Bên trong. Tôi không còn cảm thấy là chính mình nữa."
Eph nói, "Sự họp tác của anh là tối quan trọng. Tôi không biết cảm ơn anh sao cho đủ vì đã ở lại, tôi chỉ có thể nói chúng tôi sẽ bằng mọi giá giúp anh có thể khỏe lại."
Redfern gật đầu, và Eph có thể thấy cổ anh ta cứng đờ. Eph xem xét phần dưới hàm của anh ta, sờ thấy các hạch bạch huyết, lúc này đang sưng phồng. Phi công này chắc chắn đang chiến đấu chống lại một thứ gì đó. Thứ gì đó liên quan tới những cái chết trên máy bay - hay có thể chỉ là thứ gì đó anh ta đã mắc phải trong chuyến bay của mình?
Redfern nói, "Một cái máy bay còn mới như thế, một cỗ máy tuyệt đẹp. Tôi chỉ không thể hiểu nổi sao nó tắt ngóm như vậy. Chắc hẳn là bị phá hoại."
"Chúng tôi đã kiểm tra hỗn họp không khí cùng các bồn chứa nước, cả hai đều sạch. Chẳng có gì chỉ ra được nguyên do chết người hay mất điện máy bay." Eph xoa bóp vùng nách của phi công, phát hiện thêm những hạch bạch huyết cỡ hạt đậu ở đó. "Anh vẫn không nhớ gì về cuộc hạ cánh à?"
"Chẳng nhớ gì cả. Nó đang khiến tôi phát điên."
"Anh có thể nghĩ ra bất cứ lý do tại sao cửa buồng lái không khóa không?""Không. Hoàn toàn trái quy định của FAA."
Nora nói, "Anh có từng lên khu nghỉ tầng trên của phi hành đoàn không?"
"Chỗ giường ngủ ư?" Redfern nói. "Có chứ. Đánh vài giấc khi đang trên Đại Tây Dương."
"Anh có nhớ đã gập ghế xuống không?"
"Chúng đã gập sẵn xuống rồi. Cô cần phải có chỗ để chân nếu muốn duỗi thẳng người ở đó. Sao vậy?"
Eph nói, "Anh không thấy gì bất thường ư?"
"Trên đó ư? Không có gì. Có gì mà thấy cơ chứ?"
Eph lui lại. "Anh có biết bất cứ gì về một cái hòm lớn được đưa vào khu vực chứa hàng không?"
Cơ trưởng Redfern lắc đầu, cố gắng suy nghĩ. "Không. Nhưng có vẻ anh đã nắm được điều gì đó."
"Không hẳn. Cũng đang bối rối y như anh vậy." Eph khoanh tay. Nora bật chiếc đèn Luma của cô và chiếu qua cánh tay Redfern. "Đó chính là lý do hiện tại, việc anh đồng ý ở lại vô cùng quan trọng. Tôi muốn kiểm tra toàn diện cho anh."
Cơ trưởng Redfern dõi nhìn ánh sáng tím chiếu rọi lên da thịt mình. "Nếu anh nghĩ anh có thể hình dung được chuyện gì đã xảy ra, tôi sẵn sàng làm chuột bạch cho anh."
Eph gật đầu cảm kích.
"Anh bị vết sẹo này từ khi nào vậy?" Nora hỏi.
"Vết sẹo nào?"
Cô đang nhìn vào cổ Redfern, phía trước họng. Anh ta hơi nghiêng đầu để cô có thể chạm vào đường kẻ mảnh, ánh lên màu xanh dương thẫm dưới ánh đèn Luma. "Trông gần giống một vết mổ."
Redfern tự sờ lên. "Chẳng có gì cả."
Đứng vậy thật, khi cô tắt đèn, đường kẻ đó hoàn toàn biến mất. Cô lại bật đèn để Eph kiểm tra đường kẻ này. Có lẽ dài hơn một phân, dày vài li. Lớp da non trên vết thương chỉ vừa mới mọc lại gần đây thôi.
"Trong tối nay chúng ta sẽ lấy hình ảnh. Chụp MRI chắc sẽ cho ta biết gì đó."
Redfern gật đầu, và Nora tắt gậy phát sáng. "Anh biết đấy... còn một điều nữa." Redfern do dự, sự tự tin của một phi công nhất thời phai nhạt. "Tôi nhớ một chuyện, nhung nó sẽ chẳng có ích gì cho các anh đâu, tôi không nghĩ..."
Eph nhún vai rất nhẹ. "Chúng tôi sẽ xem xét bất cứ thông tin gì anh cung cấp."
"ừm, khi tôi ngất đi... tôi mơ thấy một thứ... một thứ rất xưa..." Cơ trưởng nhìn quanh, gần như xấu hổ, rồi bắt đầu nói bằng giọng rất khẽ. "Hồi tôi còn nhỏ... buổi tối... tôi thường hay ngủ trên chiếc giường lớn trong căn nhà của bà tôi. Và mỗi tối, lúc nửa đêm, khi tiếng chuông nhà thờ gần đó vang lên, tôi thường thấy thứ gì đó hiện ra từ phía sau chiếc tủ lớn cũ. Mỗi tối, không bao giờ bỏ lỡ, nó thò cái đầu đen sì, những cánh tay dài ngoằng, đôi vai xương xẩu... và nhìn tôi chằm chằm..."
"Nhìn chằm chằm?" Eph hỏi.
"Nó có một cái miệng lởm chỏm răng, đôi môi đen mỏng... và nó nhìn tôi, và chỉ... mỉm cười."
Eph và Nora đều sững sờ, quá bất ngờ trước cả sự riêng tư lẫn giọng điệu mơ màng của lời thú nhận này.
"Rồi tôi bắt đầu la hét, và bà tôi bật đèn đưa tôi vào giường bà. Chuyện như vậy cứ tiếp diễn hàng năm trời. Tôi gọi nó là Ông Đỉa. Vì da của nó... cái màu da đen hệt như lũ đỉa khát máu chúng tôi vẫn thường hay bắt được ở con suối gần đó. Các bác sĩ tâm lý trẻ em nhìn tôi, nói chuyện với tôi, gọi nó là 'nỗi sợ ban đêm' và đưa ra những lý do để tôi đừng tin vào thứ kia, nhưng... mỗi đêm nó đều quay trở lại. Mỗi đêm tôi đều vùi mặt vào gối, trốn khỏi nó... nhưng vô ích. Tôi biết nó ở đó, trong căn phòng..." Redfern nhăn mặt. "Vài năm sau, chúng tôi chuyển đi nơi khác và bà tôi đã bán cái tủ cũ đó đi, và tôi không bao giờ nhìn thấy nó nữa. Không bao giờ mơ thấy nó nữa."
Eph chăm chú lắng nghe. "Xin lỗi, cơ trưỏng... nhưng việc này có liên quan gì tói...?"
"Tôi đang nói đến đó đây," anh ta nói. "Thứ duy nhất tôi nhớ được trong khoảng thời gian giữa lúc chúng tôi đang hạ cánh và tỉnh lại ở đây... là nó đã trở lại. Trong giấc mơ của tôi. Tôi lại thấy nó, Ông Đỉa... và nó đang mủn cười."
Chú thích
1. Loạt phim truyền hình điều tra, tâm lý tội phạm của Mỹ.
PHỤ LỤC II
Hố cháy
CÁC CƠN ÁC MỘNG CỦA ÔNG LUÔN GIỐNG HỆT NHAU: Abraham, hoặc già hoặc trẻ, trần truồng quỳ gối trước một cái hố khổng lồ trên mặt đất, các thi thể đang cháy dưới hố trong khi một sĩ quan Đức Quốc xã đi dọc hàng tù nhân đang quỳ gối, bắn vào phía sau đầu họ.
Hố cháy này nằm ở đằng sau bệnh xá trong trại hành quyết có tên Treblinka. Các tù nhân quá ốm yếu hoặc quá già không thể làm việc sẽ bị đưa ngang qua một khu trại màu trắng có sơn một chữ thập đỏ, vào trong cái hố. Abraham trẻ từng thấy rất nhiều người chết ở đó, nhưng anh mới chỉ đến gần nó có một lần.
Anh đã cố gắng tránh gây chú ý, làm việc âm thầm, xa cách mọi người. Mỗi sáng anh đều chích đầu ngón tay và bôi một giọt máu lên mỗi bên má, để trông cho thật khỏe mạnh khi điểm danh.
Anh nhìn thấy cái hố lần đầu khi đang sửa giá kệ trong bệnh xá. Ở tuổi mười sáu, Abraham Setrakian, mang trên ngực áo miếng vá hình ngôi sao David màu vàng (1>, là một thợ thủ công. Anh không nịnh nọt ai; anh không được ai ưu ái, chỉ đon thuần là một nô lệ có tài làm mộc, mà trong một trại hành quyết, đó là một tài năng giúp sống sót. Anh có chút giá trị đối với một đại úy Quốc xã, kẻ đã lọi dụng anh một cách không thương tiếc, không quan tâm và không ngừng nghỉ. Anh dựng hàng rào thép gai, đóng tủ sách, sửa chữa đường sắt. Anh cũng đã chạm khắc những tẩu thuốc tinh tế cho tên đại úy cai ngục người Ukraina đó vào mùa Giáng sinh năm 1942.
Chính đôi bàn tay ấy đã giúp Abraham tránh xa cái hố. Lúc chạng vạng, anh có thể nhìn thấy cái hố sáng rực, và đôi khi, mùi thịt và xăng trộn lẫn ám cả vào mùn cưa trong xưởng gỗ. Khi nỗi sợ hãi xâm chiếm trái tim anh, cái hố cũng hiện diện ở đó.
Đến tận bây giờ, Setrakian vẫn còn cảm thấy nó bên trong ông, mỗi khi nỗi sợ dâng lên - cho dù là khi băng qua con đường tối, đóng cửa hiệu ban đêm hay tỉnh giấc từ con ác mộng - những mảnh ký ức của ông lại sống dậy. Hình ảnh ông đang quỳ gối, trần truồng, cầu khẩn. Trong những giấc mơ, ông có thể cảm thấy họng súng đang ấn vào cổ.
Các trại hành quyết chẳng có nhiệm vụ gì ngoài giết chóc. Treblinka được ngụy trang để trông như một ga tàu, với những áp phích du lịch, lịch trình chuyến đi và cây cỏ đan trên hàng rào thép gai. Anh tới đó vào tháng Chín năm 1942 và đã dành trọn thời gian để làm việc. "Làm việc để được thở," anh gọi nó như thế. Hồi đó, anh là người trầm lặng, còn trẻ nhưng được dạy dỗ tốt, hiểu biết và đầy trắc ẩn. Anh giúp đỡ nhiều tù nhân hết mức có thể và luôn âm thầm cầu nguyện. Dù phải hằng ngày chứng kiến sự tàn bạo, anh vẫn tin Chúa đang che chở cho tất cả mọi người.
Nhưng một đêm mùa đông, Abraham đã nhìn thấy ác quỷ, trong hình hài của chết chóc. Và hiểu rằng sự đời khác xa những gì anh tưởng.
Đã quá nửa đêm, và trại vẫn yên tĩnh như Setrakian thường thấy. Tiếng xào xạc trong rừng đã lặng đi và không khí lạnh thấu xương. Anh lặng lẽ xoay người trên giường và nhìn vô định vào bóng tối xung quanh. Rồi anh nghe thấy nó...
Cộc-cộc-cộc.
Hệt như bà anh từng kể... âm thanh giống hệt như bà từng kể... và không hiểu vì sao việc đó khiến cho mọi chuyện càng đáng kinh hãi hon...
Anh nghẹt thở, và cảm thấy cái hố cháy trong tim. Tại một góc trại, bóng tối đang di chuyển. Một sinh vật, một hình hài cao ngất đáng sợ tách rời khỏi bóng tối thăm thẳm và lướt qua những người bạn đang say giấc của anh.
Cộc-cộc-cộc.
Sardu. Hoặc một Sinh vật đã từng là hắn. Da nó héo quắt và đen, cùng màu với nếp áo choàng đen, lụng thụng của nó. Như một vệt mực đen đang chuyển động. Sinh vật này di chuyển nhẹ nhàng, một bóng ma không trọng lượng lướt qua sàn nhà. Những móng chân giống vuốt sắc của nó kéo lê trên mặt sàn gỗ êm như ru.
Nhưng... không thể nào. Thế giới này là thực - cái ác là thực, và luôn hiện diện xung quanh anh - nhưng thứ này không thể là thực. Nó là một câu chuyện của bà. Một câu...
Cộc-cộc-cộc...
Chỉ trong vài giây, sinh vật chết chóc dài thượt ấy đã tiến tới giường ngủ đối diện Setrakian. Lúc này Abraham có thể ngửi thấy nó: lá khô, đất và mốc. Anh có thể loáng thoáng thấy khuôn mặt tối đen đó khi nó hiện ra từ bóng tối thăm thẳm của cơ thể và cúi về phía trước, hít ngửi cổ Zadawski, một anh chàng người Ba Lan, một công nhân chăm chỉ. Sinh vật đó đứng bằng chiều cao khu trại, đầu ngang tầm những xà nhà phía trên, hơi thở mạnh và sâu, phấn khích, đói khát. Nó di chuyển tới giường tiếp theo, và ánh sáng từ cửa sổ bên cạnh thoáng viền quanh khuôn mặt nó.
Lóp da đen trở nên trong mờ, như một miếng thịt khô dưới ánh sáng. Nó khô cong và mờ XÙI - ngoại trừ đôi mắt: hai quả cầu lập lòe dường như đang sáng nhấp nháy, như những cục than cháy đón làn gió mới. Cặp môi khô của nó hé ra, để lộ vùng lọi lốm đốm cùng hai hàm răng nhỏ, vàng, sắc nhọn đến không tưởng.
Nó dừng lại bên trên cơ thể yếu ớt của Ladizlav Zajak, một ông lão từ Grodno, một người đến sau mắc bệnh lao. Setrakian đã giúp đỡ Zajak từ khi ông mới đến, hướng dẫn công việc và bảo vệ ông khỏi những ánh mắt soi mới. Chỉ riêng căn bệnh của ông đã quá đủ đê khiến ông phải bị xử tử ngay lập tức - nhung Setrakian nhận ông là phụ tá, giúp ông tránh khỏi tầm mắt của các giám thị ss và lính gác Ukraina trong những thời khắc nguy hiếm. Nhưng giờ Zajak không còn nữa. Lá phối của ông đã kiệt quệ, và, quan trọng hon, ông đã không còn thiết sống: chán chường, hiếm khi nói chuyện, và thường xuyên khóc thầm. Ông đã trở thành gánh nặng trong cuộc đấu tranh sinh tồn của Setrakian, nhưng những lời cầu khẩn của anh cũng chắng thê lên tinh thần cho ông lão - Setrakian nghe thấy ông rùng mình trong những con ho thắt ruột lặng lẽ và khóc thầm cho tới tận lúc bình minh.
Nhung lúc này đây, sừng sững phía trên Zajak, Sinh vật đó đang quan sát ông. Nhịp thở hỗn loạn của ông lão dường như khiến nó hài lòng. Như một thiên sứ tử thần, nó bao trùm bóng tối lên cơ thể kiệt quệ của ông lão và hăm hở bật ra tiếng khục khặc từ vòm miệng khô của nó.
Những gì Sinh vật đó làm tiếp theo... Setrakian không thể nhìn thấy. Có tiếng ồn, nhưng đôi tai anh không thế nghe ra là gì. Cái Sinh vật khống lồ, hau háu đó cúi xuống đầu và cổ ông lão. Tư thế của nó có vẻ như... đang ăn. Cơ thế già yếu của Zajak co giật rất nhẹ, nhưng, lạ lùng thay, ông lão không hề tính giấc.
Không bao giờ nữa.
Setrakian bịt tay lên mồm, chặn tiếng thở hổn hển. Và Sinh vật đang ăn đó dường như không thèm bận tâm đến anh. Nó dành thời gian cho những người bệnh tật ốm yếu. Đến khi hết đêm, ba xác chết nằm lại, còn sinh vật đó trông thật thỏa mãn - da nó mềm hơn nhưng vẫn đen như cũ.
Setrakian chứng kiến Sinh vật đó khuất dần vào bóng tối và biến mất. Thận trọng, anh ngồi dậy tới gần các thi thể. Anh xem xét họ dưới ánh sáng yếu ớt, và không có dấu hiệu chấn thương nào - ngoài một đường cắt mỏng ở cổ. Một vết mỏng đến độ gần như không thể nhìn thấy. Nếu không phải anh tận mắt chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng đó...
Rồi anh chợt hiểu ra. Sinh vật này. Nó sẽ trở lại - sớm thôi. Trại này là một vùng đất kiếm ăn màu mỡ, và nó sẽ ghé thăm những kẻ không còn được chú ý, những kẻ bị lãng quênr những kẻ không còn quan trọng. Nó sẽ ăn bọn họ. Tất cả bọn họ.
Trừ phi ai đó đứng dậy chống lại nó.
Ai đó.
Anh.
Chú thích:
1. Biểu tượng cho nhân dạng Do Thái và Do Thái giáo.
Guillermo Del Toro - Chuck Hogan
Nhật Minh, Ngọc Diệp, Minh Hiếu dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXNhà thơ lãng tử

Nhà thơ lãng tử Chương 1 Một chuyến du lịch. Tâm Sứt huýt gió một hơi dài, trao trả bé Thơ tấm hình: - Trời ơi! Công viên đẹp vô cùn...