Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2024

Dị chủng 2

Dị chủng 2

Hành động
Khoang phổ thông
Người sống sót của chuyến bay 753 Ansel Barbour ôm ấp vợ, Ann-Marie, và hai đứa con, Benjy tám tuổi và Haily năm tuổi, trên chiếc ghế sofa vải hoa xanh dương trong phòng kính của căn nhà ba phòng ngủ của họ ở Flatbush, New York. Thậm chí cả Pap và Gertie cũng tham gia, hai chú chó giống Saint Bernard lớn ấy cũng được phép vào nhà trong dịp đặc biệt này, vô cùng hạnh phúc khi thấy anh trở về, mấy bàn chân lớn như chân người của chúng đè lên đầu gối anh và cảm kích vỗ lên ngực anh.
Ansel đã ngồi ghế 39G gần lối đi, hạng phổ thông, trở về từ một chương trình tập huấn bảo mật dữ liệu do công ty chi trả tại Potsdam, Tây Nam Berlin. Anh là lập trình viên máy tính làm việc họp đồng bốn tháng với một nhà bán lẻ có trụ sở tại New Jersey, theo dõi những vụ trộm cắp điện tử đã lấy đi hàng triệu số tài khoản tín dụng của khách hàng. Trước giờ anh chưa từng ra nước ngoài, và anh nhớ gia đình mình da diết. Trong bốn ngày hội nghị, vẫn có thời gian nghỉ và các tour tham quan, nhưng Ansel chẳng bao giờ bén mảng ra khỏi khách sạn mà thích ở trong phòng với máy tính xách tay, nói chuyện với lũ trẻ qua webcam và đánh bạc trên mạng với những người lạ.
Vợ anh, Ann-Marie, là một phụ nữ nhát gan mê tín, và kết cục bi thảm của chuyến bay 753 chỉ càng củng cố nỗi sợ hãi thường trực của cô đối với du lịch hàng không và những trải nghiệm mới nói chung. Cô không lái xe hoi. Cô sống trong ràng buộc của hàng tá thủ tục ám ảnh-cưỡng chế quá mức, bao gồm sờ mó và liên tục lau sạch mọi tấm gương trong nhà, theo cô là để phòng tránh xui xẻo. Cha mẹ cô mất trong một tai nạn xe hơi khi cô bốn tuổi - cô sống sót sau vụ tai nạn đó - và cô được nuôi dạy bởi một bà cô không chồng, bà này qua đòi chỉ một tuần trước đám cưới của Ann-Marie và Ansei. Sau khi sinh con, sự cô lập của Ann-Marie càrig trầm trọng, những nỗi sợ bị phóng đại, tới mức có khi hàng mấy ngày liền cô chẳng chịu rời khỏi căn nhà an toàn của mình, hoàn toàn dựa dẫm vào Ansel trong bất cứ công việc gì liên quan tới giao dịch với thế giới bên ngoài.
Tin tức về cái máy bay hỏng đã khiến cô suy sụp hoàn toàn. Việc Ansel sống sót sau đó đã giúp cồ hồi sinh với sức mạnh của một niềm hạnh phúc mà cô chỉ có thể định nghĩa bằng những thuật ngữ tôn giáo, một sự hồi phục đã củng cố và thần thánh hóa sự thiết yếu của những thủ tục thừa thãi đang giúp duy trì sự sống của cô.
Về phần Ansel, anh cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm khi được trở về nhà. Cả Ben lẫn Haily đều cố nằm đè lên anh, nhưng anh phải ngăn chứng lại do con đau ở cổ vẫn chưa dứt. Sự căng cơ - các cơ của anh như nhũng sợi thừng xoắn chặt - tập trung ở vùng họng, nhưng lan qua cả khóp hàm tới tận tai. Khi bị xoắn, dây thừng sẽ ngắn lại, và các cơ của anh cũng có cảm giác y hệt. Anh duỗi cổ, hy vọng động tác nắn khớp...
RẮC... KHựC... BỐP..
hóa ra làm anh gần như gập làm đôi. Nỗ lực này chỉ khiến anh đau hon.
Lát sau, Ann-Marie bất ngờ bước vào bếp đúng lúc anh đang đặt lọ thuốc giảm đau Ibuprofen cỡ lớn của cô trở lại ngăn tủ cao phía trên lò nướng. Anh dùng liền một lúc sáu viên, liều lượng chỉ định hằng ngày - mà cơn đau gần như chẳng giảm chút nào.
Anh mắt sợ hãi của cô không còn chút dấu vết vui vẻ nào. "Chuyện gì vậy?"
"Không có gì đâu," anh nói, mặc dù đang thấy vô cùng khó chịu khi phải lắc đầu. Nhung tốt nhất là tránh gây lo lắng cho cô. "Chỉ là cứng cơ sau chuyến bay thôi. Có thể tại cách anh ngả đầu đấy."
Cô vẫn đứng ngay lối vào, kéo kéo ngón tay. "Có lẽ anh không nên xuất viện."
"Vậy thì làm sao em có thể yên tâm được?" anh đáp trả, tỏ ra cộc lốc với cô hơn dự tính.
RẮC, KHỤC VÀ BỐP...
"Nhưng lỡ như... lỡ như anh buộc phải quay lại? Lỡ như, lần này, họ muốn anh ở lại?"
Thật mệt mỏi khi phải dùng chính nỗi sợ của bản thân để rũ bỏ nỗi lo sợ cho cô. "Anh không thể lỡ thêm bất cứ công việc nào nữa. Em cũng biết tình hình tài chính của ta đang bấp bênh mà."
Họ là gia đình một nguồn thu nhập trong cái nước Mỹ toàn những gia đình hai nguồn thu nhập. Mà Ansel thì chẳng thể đảm đương công việc thứ hai, bải như vậy thì ai sẽ đi chợ?
Cô nói, "Anh biết đấy, em... em chẳng thể xoay xở được nếu thiếu anh." Bọn họ chưa từng thảo luận về căn bệnh của cô. Hay ít ra là, chưa từng nói về nó như một căn bệnh. "Em cần anh. Chúng em cần anh."
Anh gục đầu mà như thể cúi chào, khom cả eo thay vì chỉ uốn cổ xuống. "Chúa ơi, cứ nghĩ về tất cả những con người ấy là anh lại chẳng bình tâm được." Anh mường tượng lại những người ngồi gần anh trên chuyến bay dài. Gia đình có ba đứa con lớn ngồi hai hàng phía trước anh. Cặp vợ chồng lớn tuổi ngồi sát lối đi, gần như ngủ suốt, hai mái đầu bạc cùng chia sẻ một chiếc gối du lịch. Tiếp viên hàng không tóc nhuộm vàng làm rớt soda lên đùi anh. "Tại sao lại là anh, em biết đấy? Có lý do gì khiến anh sống sót?"
"Có một lý do đấy," cô nói, áp hai tay lên ngực. "Em."
Một lúc sau, Ansel đưa lũ chó về chuồng ở sân sau. Cái sân là lý do chính khiến họ mua căn nhà này: có rất nhiều chỗ choi cho bọn trẻ và lũ chó. Ansel đã nuôi Pap và Gertie trước cả khi anh gặp Ann-Marie, và tình yêu cô dành cho bọn chứng ít nhiều cũng ngang với tình yêu cô dành cho anh. Bọn chúng cũng yêu cô, vô điểu kiện. Ansel cũng vậy, và lũ trẻ cũng thế - mặc dù Benjy, đứa lớn hon, thỉnh thoảng đã bắt đầu thắc mắc về sự lập dị của cô. Đặc biệt là khi sự lập dị ấy xung đột với lịch tập và choi bóng chày của một thằng bé tám tuổi. Ansel có thể cảm nhận được Ann-Marie đã trở nên hơi xa cách thằng bé. Nhưng Pap và Gertie sẽ chẳng bao giờ chống đối cô, miễn là cô cho chúng ăn đến nứt cả bụng. Anh chỉ lo khi lũ trẻ lớn lên, sợ rằng chằng mấy mà chúng sẽ trưởng thành hơn mẹ mình, và sẽ chẳng bao giờ thực sự hiểu được tại sao cô có vẻ yêu lũ chó hơn chúng.
Bên trong chuồng chó cũ ngoài vườn, một cọc rào bằng kim loại gắn hai sợi xích được đóng vào những tấm ván sàn trung tâm. Đầu năm nay, Gertie đã bỏ đi và rồi quay về với chi chít vết gậy ở lưng và chân, hẳn đã bị ai đó dùng gậy đánh. Vì thế giờ cứ đến buổi tối, họ lại xích lũ chó lại để chúng được an toàn. Ansel - vẫn giữ thẳng cổ và đầu để giảm con đau - từ từ đặt thức ăn và nước uống cho chúng, rồi vuốt túm lông trên cái đầu khổng lồ của chúng trong lúc chúng ăn, cốt để cảm nhận rằng chúng có thật, cảm kích sự hiện diện của chúng vào cuối cái ngày may mắn này. Anh ra ngoài và đóng cửa chuồng sau khi đã xích chúng vào cọc, rồi đứng nhìn căn nhà của mình từ phía sau, cố tưởng tượng thế giới này nếu không có anh. Hôm nay Ansel đã thấy lũ trẻ khóc, và anh đã khóc cùng chúng. Gia đình anh cần anh hơn bất cứ điều gì.
Một cơn đau bất chợt nhói lên ở cổ khiến anh run rẩy. Anh bám lấy góc chuồng chó để khỏi ngã, và đứng sững như vậy một lúc, gập người nghiêng sang một bên, rùng mình chịu đựng cơn đau nhói như dao cắt này. Cuối cùng nó cũng qua, chỉ còn lại âm thanh ù ù như tiếng vỏ ốc ở một bên tai. Anh khẽ rờ ngón tay lên cổ, rón rén như đang chạm vào món đồ dễ vỡ. Anh cố rướn cổ, để cải thiện sự linh hoạt, ngửa đầu ra sau hết mức có thể, hướng mặt lên bầu trời đêm. Trên đó là ánh đèn máy bay, là ánh sao.
Mình đã sống sót, anh nghĩ. Chuyện tệ hại nhất âã chấm dứt. Cơn đau này chẳng mấy chốc cũng sẽ qua.
Đêm đó anh có một giấc mơ hãi hùng. Mấy đứa con anh bị rượt đuổi quanh nhà bởi một con quái vật dữ tợn, nhưng khi Ansel chạy tới để cứu chúng, anh nhận ra bàn tay mình là những móng vuốt quỷ. Anh choàng tỉnh, nửa giường chỗ anh nằm ướt đẫm mồ hôi, và anh vội trèo ra khỏi giường, nhưng rồi lại bị một con đau nữa giày vò.
RẤC
Tai, hàm và cổ họng anh cùng lúc hứng chịu một con đau tột độ, khiến anh đến nuốt nước bọt cũng không nổi.
KHựC
Con đau do co rút thực quản làm cho anh gần như tê liệt.
Rồi đến con khát. Con khát anh chưa từng cảm thấy - một nỗi thôi thúc không ngừng.
Khi có thể di chuyển trở lại, anh băng qua hành lang vào căn bếp tối. Anh mở tủ lạnh, rót cho mình một ly nước chanh lớn, một ly nữa, rồi lại một ly nữa... và chẳng mấy chốc anh uống thẳng từ bình. Nhưng chẳng cách nào dập tắt được con khát. Tại sao anh lại đổ mồ hôi nhiều như vậy?
Nhũng vết bẩn trên áo ngủ của anh bốc mùi nồng nặc - thoảng mùi xạ - còn mồ hôi thì có màu hổ phách. Ở đây nóng quá...
Khi đặt trả bình nước vào tủ lạnh, anh nhòm thấy một đĩa thịt ướp. Anh nhìn những vệt máu ngoằn ngoèo trộn lẫn dầu và giấm, và miệng tứa nước bọt. Không phải vì nghĩ đến cảnh nướng miếng thịt, mà vì muốn cắn nó - hoặc bập răng vào nó, xé nó, hút kiệt nó. Vì muốn uống máu.
BỐP
Anh thơ thẩn ngoài hành lang chính rồi ngó nhìn lũ trẻ. Benjy đang cuộn tròn bên dưới tấm khăn trải giường Scooby- Doo; Haily thì đang ngáy khẽ, cánh tay buông thõng một bên nệm, với về phía những cuốn sách tranh đã roi bên dưới. Nhờ ngắm nhìn lũ trẻ, anh có thể thả lỏng vai và thở đều một chút. Anh bước ra sân sau cho hạ nhiệt, khí lạnh ban đêm thổi khô mồ hôi trên da anh. Được ở nhà, được ở bên gia đình, anh cảm thấy điều đó có thể giúp anh chữa lành mọi thứ. Họ sẽ giúp anh.
Họ sẽ lo cho anh.
Cơ quan pháp y, Manhattan
KHÔNG HỀ CÓ MÁU trên áo vị bác sĩ pháp y gặp Eph và Nora. Riêng điều đó thôi cũng đã thật lạ. Thường thì máu sẽ chảy trên chiếc áo chống thấm của họ và vấy bẩn tới tận khuỷu tay áo ni lông của họ. Nhưng hôm nay thì không. Vị bác sĩ pháp y này có khi cũng là một bác sĩ phụ khoa ở Beverly Hills không biết chừng.
Anh ta tự giới thiệu là Gossett Bennett, một người đàn ông da nâu mắt nâu sẫm, một khuôn mặt quả quyết đằng sau tấm mặt nạ bằng nhựa. "Chứng tối chỉ vừa mới bắt đầu ở đây," anh ta nói, phẩy tay về phía dãy bàn. Phòng khám nghiệm tử thi là nơi ồn ào. Trong khi phòng mổ vô trùng và yên tĩnh thì nhà xác lại hoàn toàn trái ngược: một không gian ồn ào ngập tiếng cưa rền rĩ, tiếng nước chảy và tiếng trò chuyện của các bác sĩ. "Chúng tôi có tám tử thi từ cái máy bay của các anh."
Các thi thể nằm trên tám bàn thép không gỉ lạnh tanh. Những nạn nhân tử vong trên chuyến bay đang ở trong các giai đoạn mổ xẻ khác nhau, hai trong số đó đã "lên xuồng" xong xuôi: nghĩa là, ngực họ đã bị moi hết nội tạng, các cơ quan bị loại bỏ được đặt trên một túi nhựa mở toang nằm trên cẳng chân họ, một bác sĩ nghiên cứu bệnh học đang cắt các mẫu vật trên một cái thớt, trông như một kẻ ăn thịt người đang sửa soạn một đĩa sashimi thịt người. Phần cổ bị thương đã được giải phẫu, lưỡi được kéo ra, và da mặt được gấp xuống một nửa, trông như những chiếc mặt nạ cao su, để lộ chỏm sọ đã bị phanh ra bằng cưa đĩa. Một bộ não đang trong quá trình được gỡ ra khỏi các tủy sống, để sau đó đặt vào trong dung dịch formol cho rắn lại, cũng là bước cuối cùng trong quá trình mổ xác. Một nhân viên nhà xác đang đứng bên cạnh, cầm bông nỉ và một chiếc kim cong lớn đã xỏ chỉ tẩm sáp để nhồi hộp sọ rỗng.
Một cái kéo cắt cành có tay cầm dài mua ở cửa hàng cơ khí được chuyển từ bàn này sang bàn khác, tại đó một trợ lý khác đứng trên cái ghế để chân bằng kim loại kê phía trên thi thể đã rạch ngực và bắt đầu cắt từng xương sườn một, như thế mới có thể nhấc toàn bộ lồng ngực và xương ức lên. Một mùi hỗn tạp của phô mai Parmesan lẫn với metan và trứng thối bốc lên.
"Sau khi anh gọi, tôi đã bắt đầu kiểm tra cổ họ," Bennett nói. "Cho đến nay các thi thể đều cho thấy cùng một vết rạch mà anh đã nhắc tói. Nhưng không có sẹo. Một vết thương hở, chuẩn xác và gọn ghẽ nhất tôi từng thấy."
Anh ta cho họ xem thi thể một phụ nữ chưa mổ đang nằm trên bàn. Một khối kim loại mười lăm phân đặt dưới cổ cô khiến đầu cô ngửa về sau, ngực ưỡn lên, cổ căng ra. Eph rờ ngón tay mang găng lên vùng da phía trên cổ họng người phụ nữ.
Anh sờ thấy đường kẻ mờ - mỏng như một vết cứa bằng cạnh giấy - và khẽ tách vết thương ra. Anh vô cùng ngạc nhiên trước độ gọn ghẽ cũng như độ sâu rõ rệt của nó. Eph thả tay ra và vết cứa từ từ đóng lại, như đôi hàng mi ngái ngủ hay một nụ cười bẽn lẽn.
"Thứ gì có thể gây nên vết thương này nhỉ?" anh hỏi.
"Như tôi thấy thì không phải thứ gì trong tự nhiên," Bennett nói. "Hãy để ý tới độ chính xác như dao mổ. Gần như được định chuẩn, cả về vị trí và độ dài. Tuy nhiên, các cạnh vát tròn, có thể nói dường như có nguồn gốc hữu cơ."
"Sâu bao nhiêu?" Nora hỏi.
"Một vết rạch gọn, thẳng, đâm thủng vách động mạch cảnh chủ, nhưng chỉ dừng ở đó. Không đâm qua bên kia, không làm vỡ động mạch."
"Mọi trường họp đều vậy à?" Nora há hốc.
"Mọi trường họp tôi đã xem qua cho đến giờ. Mọi thi thể đều có vết rạch đó, mặc dù phải thừa nhận là nếu anh không báo trước thì chắc tôi đã không phát hiện ra. Nhất là khi còn có những thứ khác xảy ra với các thi thể này."
"Gì nữa?"
"Chúng ta sẽ nói đến việc đó ngay thôi. Các vết cứa đều nằm trên cổ, hoặc phía trước hoặc phía bên. Ngoại trừ một phụ nữ bị trên ngực, phía trên tim. Và một người đàn ông chúng tôi phải tìm mãi mới phát hiện ra vết cứa ở phía trên bắp đùi trong, trên động mạch đùi. Mọi vết thương đều đâm qua da và cơ, rồi kết thúc chính xác bên trong một động mạch chủ."
"Một mũi kim ư?" Eph đoán.
"Nhưng mảnh hơn thế. Tôi... tôi cần nghiên cứu thêm, ta mới chỉ đang trong giai đoạn khỏi đầu. Và vẫn còn rất nhiều thứ chết tiệt khác. Tôi nghĩ hai người đã biết điều này rồi chứ?" Bennett dẫn họ tới cánh cửa của một nhà lạnh. Không gian bên trong rộng hơn cả một cái gara hai xe. Có khoảng năm chục băng ca, hầu hết đều đặt một túi xác được mở xuống tới ngực người chết. Một số ít được mở khóa kéo hết cỡ, những thi thể này đều trần truồng - đều đã được cân, đo đạc, chụp ảnh - và sẵn sàng lên bàn mổ. Cũng có khoảng tám xác chết không liên quan tới chuyến bay 753 đang nằm trên những băng ca tron không có túi xác, đeo thẻ chân loại tiêu chuẩn màu vàng.
Việc ướp lạnh đã làm chậm quá trình phân hủy, y như trong bảo quản hoa quả, rau củ và đế giữ cho thịt nguội khỏi hỏng. Nhưng, những thi thể từ trên máy bay này không hề bị ươn. Đã ba mươi sáu tiếng đồng hồ, vậy mà những thi thể này trông chẳng khác gì vừa mới chết, gần như giống y lúc Eph đặt chân lên máy bay lần đầu tiên. Trái ngược hẳn với những xác chết đeo thẻ vàng đang trương phình, bốc mùi thối từ mọi chỗ hở trên cơ thể, thịt chuyển thành màu xanh lục thẫm và trông như da thuộc do quá trình bay hoi.
"Đây quả là những xác chết đẹp đẽ," Bennett nói.
Eph cảm thấy một cơn rùng mình chẳng hề liên quan đến nhiệt độ trong phòng lạnh. Cả anh và Nora cùng tiến vào, qua ba hàng dài. Các thi thể - không có vẻ khỏe mạnh, bởi chúng đều teo tóp và xanh xao do thiếu máu - nhưng trông như mới chết. Họ mang vẻ mặt đặc trưng của người chết, nhưng như thể chỉ vừa mới qua đòi, chưa đầy ba mươi phút trước.
Họ theo Bennett quay về phòng khám nghiệm tử thi, trở lại với xác chết của người phụ nữ - một phụ nữ trạc bốn mươi tuổi, không có bất cứ dấu vết đặc biệt nào ngoài một vết sẹo mổ đẻ hắn đã từ chục năm trước phía dưới thắt lưng - đang chuẩn bị được mố. Nhưng thay vì dùng dao mố, Bennett với lấy một dụng cụ chưa từng được sử dựng trong nhà xác. ông nghe.
"Lúc trước tôi đã đế ý thấy chuyện này rồi," anh ta nói, đưa ống nghe cho Eph. Eph đeo tai nghe, và Bennett gọi mọi người trong phòng dừng hết mọi việc, giữ im lặng. Người trợ lý bệnh học vội tắt vòi nước máy.
Bennett đặt đầu nghe của ống nghe vào ngực xác chết, ngay dưới vùng xương ức. Eph hồi hộp lắng nghe, lo sợ những gì anh có thể nghe thấy. Nhưng anh chắng nghe thấy gì. Anh lại nhìn sang Bennett, nhưng anh ta vẫn không bộc lộ cảm xúc gì, chỉ chờ đợi. Eph nhắm mắt và tập trung.
Yếu. Rất yếu. Một âm thanh trườn bò, gần giống một thứ gì đó đang len lỏi trong bùn. Một âm thanh chậm chạp, nhỏ đến phát điên, tới mức anh không chắc liệu có phải mình đang tưởng tưọng ra không.
Anh đưa ống nghe cho Nora đế cô nghe thử.
"Dòi ư?" cô nói, đứng thẳng dậy.
Bennett lắc đầu. "Thực ra không hề có chuyện nhiễm ký sinh, một phần bằng chứng là xác không phân hủy. Nhưng còn vài điều bất thường thú vị khác nữa..."
Bennett vẫy tay ra hiệu cho những người khác quay trở lại cồng việc, rồi lựa từ chiếc khay bên cạnh một lưỡi dao mổ số 6 lớn. Nhưng thay vì bắt đầu từ ngực bằng một đường rạch hình chữ Y như thường lệ, anh ta lấy một cái lọ miệng rộng từ bàn tráng men và đặt nó bên dưới bàn tay trái của xác chết. Anh ta rọc nhanh lưỡi dao mổ dọc theo mặt dưới cổ tay, xẻ nó ra như thể gọt vỏ cam.
Ban đầu, một chất lỏng trắng đục, nhọt màu phun ra, bắn một ít vào găng tay và hông của anh ta sau vết cắt đầu tiên, rồi nó chảy ra đều đều từ cánh tay, nhỏ xuống đáy lọ. Thứ chất lỏng này chảy nhanh, nhưng rồi, do thiếu áp lực lưu thông từ quả tim đã ngừng đập, nó bắt đầu chảy yếu dần sau khi được khoảng 90 mi li lít. Bennett hạ thấp cánh tay thi thể để lấy thêm.
Sự sửng sốt của Eph trước nhát cắt lạnh lùng kia nhanh chóng bị thay thế bởi nỗi kinh ngạc khi nhìn thấy thứ chất lỏng đang chảy. Thứ này không thể là máu. Máu sẽ đông lại sau khi chết. Nó không chảy ra như dầu máy như vậy.
Và nó cũng không chuyển thành màu trắng. Bennett đặt cánh tay trở lại bên sườn xác chết và giơ lọ lên cho Eph xem.
Thưa trung úy, các xác chết, chúng...
"Thoạt đầu tôi nghĩ có lẽ protein đang phân tách, như kiểu dầu nổi trên nước vậy," Bennett nói. "Nhung cũng không phải."
Thứ dung dịch này có màu trắng sền sệt, gần như thể sữa chua lẫn trong máu.
Thưa trung úy... ôi, Chúa cá...
Eph không tin nổi những gì anh đang thấy.
Nora nói, "Tất cả bọn họ đều như thế này ư?"
Bennett gật đầu. "Bị hút sạch máu. Họ không có máu."
Eph quan sát thứ vật chất trắng trong lọ, và sở thích uống sữa tươi nguyên chất khiến anh thấy buồn nôn.
Bennett nói, "Tôi còn vài thứ khác nữa. Thân nhiệt trung tâm tăng. Không biết vì lý do gì, những thi thể này vẫn còn sinh nhiệt. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã phát hiện những đốm đen trên một số cơ quan. Không phải do hoại tử, mà gần giống như... thâm tím."
Bennett đặt lọ dung dịch trắng đục trở lại bàn và gọi một trợ lý bệnh học. Cô ta mang theo một cốc nhựa giống loại chứa xúp cho khách mua mang về. Cô ta bóc nắp và Bennett thò tay vào, rút ra một bộ phận cơ thể, đặt nó lên thót như thể đặt một miếng thịt nướng nhỏ, tươi như vừa mua từ lò mổ. Đó là một quả tim người chưa mổ xẻ. Anh ta chỉ một ngón tay đeo găng vào vị trí nối quả tim với động mạch. "Thấy những van này chứ? Như thể chúng đã hở toác ra. Này nhé, chúng không thể hoạt động như vậy khi còn sống. Không đóng, mở và bơm máu. Vì thế thứ này không thể là bẩm sinh được."
Eph kinh ngạc. Sự dị thường này là một khiếm khuyết chí tử. Như mọi bác sĩ giải phẫu đều biết, sự khác biệt bên trong cơ thể con người cũng nhiều như sự khác biệt ở vẻ ngoài. Nhưng không thể hình dung nổi một người nào có thể sống sót tới độ tuổi trưởng thành với quả tim như thế này.
Nora hỏi, "Anh có bệnh án của bệnh nhân này không? Bất cứ gì ta có thể đối chiếu với thứ này?"
"Chưa có gì. Có lẽ phải tới sáng mai. Nhưng chuyện này làm tôi bị chậm tiến độ. Rất chậm. Tôi định dừng công việc lại, đóng cửa buổi đêm để có thể có thêm người hỗ trợ tại đây ngày mai. Tôi muốn kiểm tra từng chút một. Ví dụ như... thứ này."
Bennett đưa họ tới một thi thể đã giải phẫu hoàn toàn, của một người đàn ông trưỏng thành có cân nặng trung bình, cổ anh ta đã được mổ tới họng, để lộ thanh quản và khí quản, sao cho nếp thanh âm, hay dây thanh âm, có thể được nhìn thấy rõ trên thanh quản.
Bennett nói, "Thấy nếp tiền đình chứ?"
Chúng còn được gọi là "nếp thanh âm giả": những màng nhầy dày chỉ có một chức năng duy nhất là nằm trên để bảo vệ nếp thanh âm thật. Chúng quả thực là một thứ dị thường về mặt giải phẫu bởi chúng có thể tự tái tạo hoàn toàn, ngay cả sau khi mổ tách ròi.
Eph và Nora cúi gần hon. Cả hai đều thấy được sự phát triển nhanh bất thường của nếp tiền đình, một cục lồi lên màu hồng nhạt, đầy thịt - không vô tổ chức hay dị dạng như một khối u, mà nó chĩa ra từ bên trong cuống họng, phần dưới lưỡi. Một dạng phát triển lạ thường, có vẻ tự phát của phần mềm hàm dưới.
Họ kỳ cọ, làm sạch ở bên ngoài, kỹ lưỡng hơn mọi khi. Cả hai đều hết sức choáng váng bởi những gì đã thấy bên trong nhà xác.
Eph nói trước tiên. "Anh đang tự hỏi khi nào thì mọi thứ mới bắt đầu trở nên có thể hiểu được." Anh sấy khô cong hai bàn tay, cảm nhận luồng không khí táp vào hai bàn tay trần của mình. Sau đó anh sờ lên cổ, phía trên họng, ước chừng vị trí vết rạch. "Một vết thương do bị đâm, thẳng và sâu trên cổ. Và một loại vi rút, một mặt làm chậm quá trình phân hủy, mặt khác lại kích thích mô phát triển tự phát sau khi chết?"
Nora nói, "Đây là một thứ gì đó mới."
"Hoặc... một thứ gì đó rất, rất cũ."
Họ bước ra từ cửa chuyển hàng, tiến về phía chiếc Explorer đang đậu sai luật của Eph, tấm biển VẬN CHUYỂN MÁU KHẤN CÂP để trên bảng điều khiển. Những tia nắng ấm cuối cùng của ngày đang tắt dần trên bầu trời. Nora nói, "Ta cần kiểm tra các nhà xác khác, xem liệu họ có phát hiện những bất thường tương tự không."
Tiếng chuông báo vang lên từ điện thoại di động của Eph. Một tin nhắn từ Zack:
bố ở đâu???? z
"Chết tiệt," Eph nói. "Anh quên béng mất... buổi phân xử quyền nuôi con..."
"Ngay bây giờ ư?" Nora buột miệng, trước khi kịp kìm lại.
"Được rồi. Anh đi đi. Em sẽ gặp lại anh sau khi..."
"Không, anh sẽ gọi cho họ... sẽ ổn thôi." Anh nhìn quanh, cảm giác như bị chia làm hai nửa. "Ta cần kiểm tra viên phi công một lần nữa. Tại sao vết rạch của anh ta lại khép miệng, còn những người khác thì không? Ta cần nắm rõ sinh lý bệnh học của thứ này."
"Và những người sống sót khác nữa."
Eph cau mày, nhớ ra họ đã đi mất. "Sai sót như vậy thật không giống Jim chút nào."
Nora muốn bảo vệ Jim. "Nếu phát bệnh, họ sẽ trở lại thôi." "Chỉ có điều... có lẽ sẽ quá muộn. Cho họ, và cho chúng ta."
"Cho chúng ta ư, ý anh là sao?"
"Để tìm hiểu nguyên nhân thực sự của chuyện này. Phải có một câu trả lời ở đâu đó, một lời giải thích. Một cơ sở họp lý. Một chuyện phi lý nào đó đang diễn ra, ta cần tìm hiểu nguyên nhân và ngăn chặn nó."
Trên vỉa hè tại cổng chính ở phố 1, đoàn phóng viên đã chờ sẵn để lên sóng trực tiếp từ cơ quan pháp y. Sự việc này thu hút một đám đông khán giả, bầu không khí ngập tràn lo âu.
Nhưng một người đàn ông bứt ra khỏi đám đông, một người Eph đã để ý ngay từ lúc đến đây. Một ông lão tóc bạc màu bạch dương, chống một cây gậy, như một cây quyền trượng, quá cao so với thân người, siết chặt phần dưới tay nắm bằng bạc. Trông như người đóng vai nhà tiên tri Moses trên sân khấu ở nhà hàng, ngoại trừ việc ông ta ăn mặc không chê vào đâu được, lịch sự và theo mốt xưa, với chiếc áo khoác đen óng bên ngoài bộ com lê bằng vải gabardine, cùng một dây xích móc đồng hồ bằng vàng thòng xuống trên chiếc áo vest. Và - thật không ăn nhập với bộ quần áo đặc biệt kia - một đôi găng len màu ghi hở ngón.
"Bác sĩ Goodweather?"
Ông lão biết tên anh. Eph nhìn ông ta một lần nữa, rồi nói, "Tôi có biết ông không?"
Ông lão nói thổ âm, có lẽ là giọng Slav. "Tôi đã nhìn thấy anh trên ti vi. Tôi biết anh sẽ tới đây."
"Ông ở đây để đợi tôi à?"
"Điều tôi cần nói đây, thưa bác sĩ, vô cùng quan trọng. Nghiêm trọng."
Eph bị phân tâm bởi tay cầm trên đầu cây gậy của ông lão: một hình đầu sói bằng bạc. "ừm, giờ không phải lúc... hãy gọi điện tới văn phòng của tôi, và đặt lịch hẹn..." Anh bỏ đi, tay nhoay nhoáy nhấn nút điện thoại.
Ông lão có vẻ lo lắng, như một người đang kích động cố gắng nói chuyện một cách bình tĩnh. Ông cố mỉm cười lịch sự hết mức, rồi giới thiệu bản thân với cả Nora. "Tên tôi là Abraham Setrakian. Mà có lẽ nó cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với các vị." Ông giơ gậy chỉ về phía nhà xác. "Các vị đã thấy họ trong đó. Những hành khách trên máy bay."
Nora hỏi, "Ông biết gì về chuyện đó à?"
"Thật vậy," ông lão nói, mỉm cười cảm kích với,cô. Setrakian liếc nhìn nhà xác lần nữa, như một người đã chờ đợi quá lâu để được lên tiếng nên giờ không chắc phải bắt đầu từ đâu. "Hai người không thấy bọn họ biến đổi gì nhiều, đúng không?"
Eph tắt điện thoại trước khi nó kịp đổ chuông. Lời của ông lão đã nhắc lại nỗi sợ hãi khó hiểu của anh. "Không biến đổi như thế nào?" anh nói.
"Người chết ấy. Các thi thể không phân hủy."
Eph nói, cảm thấy lo lắng nhiều hơn là tò mò, "Vậy ra đó là thông tin mọi người ngoài này nghe ngóng được hả?"
"Chẳng cần ai nói gì cho tôi hết, bác sĩ à. Tôi biết chứ."
"Ông 'biết' ư," Eph nói.
"Nói chúng tôi nghe xem nào," Nora nói. "Ông còn biết những gì nữa?"
Ông lão hắng giọng. "Các vị có tìm thấy một chiếc... quan tài chứ?"
Eph cảm giác như Nora nẩy lên khỏi vỉa hè phải gần chục phân. Eph nói, "Ông nói gì?"
"Một chiếc quan tài. Nếu các vị giữ nó, vậy thì các vị vẫn giữ hắn."
Nora nói, "Hắn nào?"
"Tiêu hủy nó đi. Ngay lập tức. Đừng giữ nó để nghiên cứu.
Các vị phải tiêu hủy cái quan tài, không được chậm trễ."
Nora lắc đầu. "Nó biến mất rồi," cô nói. "Chúng tôi không biết nó ở đâu."
Setrakian nuốt khan với nỗi thất vọng cay đắng. "Đúng như tôi đã lo sợ."
"Tại sao phải tiêu hủy nó?" Nora hỏi.
Eph cắt ngang, nói với Nora, "Nếu cuộc nói chuyện kiểu này mà lọt ra ngoài, mọi người sẽ hoảng loạn đấy." Anh nhìn ông lão. "Ông là ai? Ông nghe được những điều này bằng cách nào?"
"Tôi là chủ một tiệm cầm đồ. Tôi chẳng nghe gì hết. Tôi biết những điều này."
"Ông biết?" Nora hỏi. "Làm sao ông biết?"
"Xin các vị." Giờ đây ông tập trung vào Nora, người tỏ ra dễ nói chuyện hon. "Điều tôi sắp nói đây không phải chuyện đùa. Tôi nói nó với thái độ tuyệt vọng và sự trung thực tuyệt đối. Các thi thể ở trong đó chứ?" Ông chỉ vào nhà xác. "Để tôi nói cho các vị biết, trước khi màn đêm buông xuống, chúng phải bị tiêu hủy."
"Tiêu hủy?" Nora hỏi, lần đầu tiên phản ứng một cách tiêu cực với ông lão. "Tại sao?"
"Tôi đề nghị hỏa táng. Hỏa thiêu. Đon giản và chắc chắn."
“Chính là lão ta," một giọng nói vang lên từ phía cửa bên, một nhân viên nhà xác đang dẫn một cảnh sát tuần tra New York mặc đồng phục tiến về phía họ. về phía Setrakian.
Ông lão lờ họ đi, giờ nói nhanh hon. "Xin các vị. sắp quá trễ rồi."
"Ngay kia kìa," nhân viên nhà xác nói, phăm phăm tiến tói, chỉ Setrakian cho viên cảnh sát. "Là lão ta đấy."
Viên cảnh sát, nhã nhặn và chán nản, nói với Setrakian, "Thưa ông?"
Setrakian phớt lờ anh ta, nài nỉ Nora và Eph. "Một thỏa thuận đã bị phá vỡ. Một hòa ước cổ, linh thiêng. Bởi một người giờ đây đã không còn là người nữa, mà là một thứ ghê tỏm. Một sinh vật ghê tởm, hung tàn."
"Thưa ông," viên cảnh sát nói. "Cho tôi nói vài lời với ông được không?"
Setrakian rướn tới trước và nắm chặt cổ tay Eph, buộc anh phải chú ý. "Hắn đang ở đây, ngay tại Tân Thế giới, trong thành phố này, chính hôm nay. Đêm nay. Anh hiểu chứ? Phải ngăn chặn hắn."
Những ngón tay đeo găng len của ông lão xương xẩu, như những móng vuốt. Eph giằng ra, không quá thô bạo nhưng đủ để đẩy ông lão ra sau. Cây gậy của ông lão đập mạnh vào vai viên cảnh sát, suýt chút nữa trúng mặt, và thái độ chán nản của viên cảnh sát đột ngột chuyển thành giận dữ.
"Được thôi, đủ rồi," viên cảnh sát nói, vặn cây gậy ra khỏi tay ông lão và kẹp lấy cánh tay ông. "Đi thôi."
"Các vị phải chặn hắn ta lại ngay," Setrakian vẫn cố nói trong khi bị dẫn đi.
Nora quay về phía nhân viên nhà xác. "Thế này là thế nào? Anh đang làm gì thế?"
Nhân viên này liếc nhìn hai tấm thẻ tên trên cổ họ - dòng chữ đỏ ghi rõ CDC - trước khi trả lời. "Lúc trước ông ta đã cô gắng vào trong, tự nhận là một người thân của nạn nhân. Nhất định đòi xem các thi thể." Người nhân viên nhìn theo ông lão đang bị đưa đi. "Cứ như một kẻ trộm xác."
Ông lão vẫn tiếp tục khẩn nài. "Ánh sáng tử ngoại," ông gọi với ra sau. "Rọi ánh sáng tử ngoại lên các thi thể..."
Eph sững người. Có phải anh vừa nghe thấy điều đó?
"Rồi anh sẽ thấy tôi nói đúng," ông lão gào lên, lúc bị dúi vào ghế sau một chiếc xe cảnh sát. "Tiêu hủy chúng đi. Ngay lập tức. Trước khi quá muộn..."
Eph nhìn theo trong lúc họ đóng sầm cánh cửa trước mặt ông lão, rồi viên cảnh sát trèo vào ghế lái và đi khỏi.
Hành lý quá cân
EPH GỌI ĐIỆN ĐẾN TRỄ bốn mươi phút so với buổi gặp mặt kéo dài năm mươi phút của anh, Kelly và Zack với bác sĩ Inga Kempner, chuyên gia tư vấn hôn nhân gia đình do tòa án chỉ định. Anh.cảm thấy nhẹ nhõm vì không phải ngồi trong văn phòng tầng một của căn nhà gạch nâu được xây từ trước chiến tranh tại Astoria, là nơi mà quyết định cuối cùng cho vấn đề quyền nuôi con sẽ được đưa ra.
Eph nài nỉ qua điện thoại để bàn của bác sĩ. "Hãy để tôi giải thích... cả kỳ nghỉ cuối tuần này tôi phải giải quyết một vụ vô cùng nghiêm trọng. Vụ máy bay chết ở tận Kennedy. Tôi không thể làm khác được."
Bác sĩ Kempner nói, "Đây không phải lần đầu tiên anh lỡ hẹn."
"Zack đang ở đâu?" anh hỏi.
"Bên ngoài khu chờ," bác sĩ Kempner nói.
Bà ta và Kelly đã nói chuyện mà không có anh. Mọi thứ đã được định đoạt. Nó đã kết thúc trước cả khi kịp bắt đầu.
"Bác sĩ Kempner này, tôi chỉ có duy nhất một đề nghị là bà hãy lên lại lịch hẹn cho chúng tôi..."
"Bác sĩ Goodweather, tôỉ e là..."
"Không, chờ đã, xin bà, chờ chút." Anh cắt ngang. "Nghe này, tôi có phải một người cha hoàn hảo không? Không, không hề. Tôi thừa nhận điều đó. Điểm cộng cho tính trung thực, phải không? Thực ra, tôi thậm chí còn không chắc mình có muốn thành người cha 'hoàn hảo' và nuôi dạy một đứa trẻ bình thường sẽ chẳng thể thay đổi thế giới hay không. Nhung tôi biết mình muốn trở thành người cha tốt nhất có thể. Bởi đó là những gì Zack xứng đáng được nhận. Và đó là mục tiêu duy nhất của tôi lúc này."
"Mọi thứ có vẻ ngược lại đấy," bác sĩ Kempner nói.
Eph giơ ngón tay thối với chiếc điện thoại. Nora chỉ đứng cách đó vài bước. Anh thấy giận dữ, nhưng đồng thời cũng yếu đuối và tổn thương đến lạ.
"Hãy nghe tôi," Eph nói, gắng gượng hết sức để giữ bình tĩnh. "Tôi biết là bà biết tôi đã điều chỉnh cuộc sống của mình vì hoàn cảnh này, vì Zack. Tôi đặc biệt mở văn phòng ở thành phố New York để có thể ở đây, gần mẹ thằng bé, để nó có thể nhận được những điều tốt nhất từ cả hai chúng tôi. Tôi thường dành ra vài giờ cố định trong tuần, một lịch trình không đổi, không nhận điện thoại. Tôi làm việc gấp đôi vào những ngày cuối tuần để có thể có được hai ngày nghỉ trọn vẹn với con."
"Anh đã tham dự buổi họp của hội cai rượu cuối tuần này chứ?"
Eph im bặt. Như một lốp xe bị xì sạch khí. "Bà có nghe tôi nói không vậy?"
"Anh vẫn thấy thèm uống chứ?"
"Không," anh càu nhàu, cố hết sức giữ bình tĩnh. "Tôi đã không say rượu hai mươi ba tháng nay rồi, bà biết mà."
Bác sĩ Kempner nói, "Bác sĩ Goodweather, đây không phải là vấn đề ai yêu con anh hon. Trong những trường họp thế này thì vấn đề không bao giờ nằm ở đó. Thật tuyệt vì cả hai anh chị đều quan tâm đến nó nhiều đến vậy, sâụ đậm đến vậy. Sự hy sinh của anh dành cho Zack hiển nhiên rất rõ ràng. Nhung, và vẫn thường là vậy, dường như chẳng có cách nào ngăn việc này trở thành một cuộc ganh đua. Bang New York có những nguyên tắc mà tôi cần tuân theo khi đưa ra lời tiến cử cho quan tòa."
Eph chua chát nuốt nước bọt. Anh cố ngắt lời, nhưng bà ta vẫn tiếp tục nói. "Anh đã chống lại quyết định ban đầu của tòa án trong vấn đề nuôi con, anh đã từng bước chiến đấu trong suốt cả quá- trình. Và tôi coi đó là thước đo tình yêu của anh dành cho Zachary. Anh cũng đã tiến bộ rất nhiều, và điều đó vừa rõ ràng vừa đáng ngưỡng mộ. Nhưng giờ đây có thể thấy rằng anh chỉ còn một phương án cuối cùng là đưa vụ này ra tòa, nếu anh muốn làm thế. Theo cách thức chúng tôi thường dùng để phân xử quyền nuôi con. Quyền thăm con, hiển nhiên không cần phải bàn cãi..."
"Không, không, không," Eph lầm bầm, như một người sắp bị đâm bởi một chiếc ô tô đang lao tói. Đúng hệt cái cảm giác nôn nao anh cảm thấy suốt dịp cuối tuần. Anh cố nhớ lại - anh và Zack ngồi trong căn hộ của anh, ăn đồ ăn Trung Quốc và choi điện tử. Cả kỳ nghỉ cuối tuần trải dài trước mắt họ. Một cảm giác mới vui sướng làm sao.
"Ý của tôi, bác sĩ Goodweather à," bác sĩ Kempner nói, "tôi chẳng thấy có ích gì khi phải tiếp tục vụ này nữa."
Eph quay sang Nora, lúc này đang ngước nhìn anh, và cồ lập tức hiểu anh đang phải trải qua chuyện gì.
"Bà có thể bảo tôi vụ này đã chấm dứt," Eph thì thào qua điện thoại. "Nhưng nó chưa chấm dứt đâu, bác sĩ Kempner. Không bao giờ." Và nói xong câu này, anh tắt máy.
Anh quay đi, biết rằng lúc này Nora sẽ tôn trọng anh và không cố tới gần. Và anh biết on cô vì điều đó, bởi anh không muốn cô nhìn thấy những giọt lệ đang đong đầy trên mắt mình.
Đêm thứ nhất
Chỉ vài giờ sau, bên trong nhà xác tại tầng hầm của Cơ quan
Pháp y Manhattan, bác sĩ Bennett đang kết thúc công việc sau một ngày dài đằng đẵng. Đáng ra anh ta phải thấy kiệt sức, nhưng trên thực tế, anh ta lại vô cùng phấn khích. Đang có một chuyện bất thường nào đó. Cứ như thể các quy luật của cái chết và sự phân hủy thông thường vốn đáng tin cậy giờ đây đang được viết lại, ngay trong căn phòng này. Thứ chết tiệt này vượt ra ngoài những kiến thức y học đã được chứng minh, vượt ra ngoài cả sinh học con người... nó thậm chí có lẽ còn gắn liền với thế giới siêu nhiên.
Theo như kế hoạch, anh ta đã tạm dừng mọi ca khám nghiệm tử thi trong tối nay. Một vài công việc không liên quan thì vẫn được tiến hành, các thanh tra giám định pháp y vẫn đang làm việc ở các phòng tầng trên, nhưng nhà xác là của Bennett. Trong thời gian các bác sĩ CDC ghé qua, anh ta đã để ý đến một vấn đề, một ván đề liên quan đến mẫu máu anh ta đã lấy được, thứ chất lỏng trắng đục đã được anh ta gom vào lọ xét nghiệm. Anh ta đã cất nó vào góc trong cùng của một trong những tủ mát chứa mẫu vật, giấu nó đằng sau vài món đồ thủy tinh như thể đó là món tráng miệng ngon lành cuối cùng đặt trong một tủ lạnh công cộng.
Lúc này, ngồi trên ghế, trước bàn xét nghiệm gần bồn rửa, anh ta mở nắp và quan sát nó. Sau một thoáng, bề mặt của khoảng 180 mi li lít máu trắng này gạn sóng lăn tăn, và Bennett rùng mình. Anh ta hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh. Anh ta nghĩ đến những việc cần làm, rồi lấy từ cái kệ bên trên xuống một cái lọ y hệt. Anh ta rót một luọng nước tương đương vào trong và đặt hai lọ sát cạnh nhau. Anh ta cần chắc chắn rằng chuyển động đó không phải kết quả do rung chấn từ một cái xe tải đi ngang qua hay gì đó tương tự.
Anh ta quan sát và chờ đợi.
Hiện tượng đó lại xảy ra. Chất lỏng trắng sệt gọn sóng lăn tăn - anh ta đã thấy thế - trong khi bề mặt nước loãng hơn rất nhiều thì chẳng hề rung rinh.
Thứ gì đó đang di chuyển bên trong mẫu máu.
Bennett ngẫm nghĩ một hồi. Anh ta đổ nước xuống bồn rửa, rồi từ từ rót thứ máu sền sệt kia từ bình này sang bình nọ. Chất lỏng này trông như xi rô và chảy từ từ nhưng gọn ghẽ. Anh ta không thấy có gì trôi theo dòng chảy nhỏ. Đáy của lọ đầu tiên vẫn bám một lóp máu trắng mỏng, nhưng anh ta chẳng thấy gì ở đó.
Anh ta đặt lọ mới xuống, rồi lại quan sát và chờ đợi.
Anh ta không phải quan sát quá lâu. Bề mặt gọn sóng lăn tăn và Bennett suýt chút nữa nhảy bật khỏi ghế.
Rồi anh ta nghe thấy một tiếng động phía sau, một tiếng sột soạt hoặc xào xạc. Anh ta giật mình quay người lại. Đèn trần rọi xuống các bàn thép không gỉ trống tron sau lưng anh ta, mọi bề mặt đều đã được lau chùi, những rãnh thoát nước dưới sàn đã được dọn sạch. Những nạn nhân của chuyến bay 753 đã được khóa kín bên trong phòng lạnh phía bên kia nhà xác.
Chuột, chắc vậy. Họ chẳng tài nào đuổi hết bọn chuột bọ ra khỏi tòa nhà - và họ đã thử mọi cách. Trên tường. Hay dưới rãnh thoát nước trên sàn. Anh ta lắng nghe hồi lâu, rồi quay trở lại với cái lọ.
Anh ta lại rót chất lỏng từ lọ này sang lọ khác, nhưng lần này chỉ rót một nửa. Lượng máu trong mỗi lọ gần như bằng nhau. Anh ta đặt chúng bên dưới đèn trần và quan sát bề mặt trắng đục hòng tìm kiếm một dấu hiệu của sự sống.
Đây rồi. Trong bình đầu tiên. Lần này có một tiếng tọp, gần giống tiếng một con cá nhỏ đóp nước trên mặt hồ đục ngầu.
Bennett quan sát lọ còn lại cho tới khi cảm thấy hài lòng, và rồi đổ nó xuống cống. Anh ta lặp lại quá trình, một lần nữa chia đôi lượng chất lỏng vào hai lọ thủy tinh.
Tiếng còi ré lên ngoài phố khiến anh ta giật mình. Nó qua đi, và rồi thay vì một bầu không khí yên lặng theo sau, anh ta lại nghe thấy tiếng động. Một âm thanh như tiếng di chuyển, phía sau. Anh ta lại quay ra sau, giờ cảm thấy mình vừa hoang tưởng vừa ngớ ngẩn. Căn phòng trống không, nhà xác đã được tiệt trùng và tĩnh mịch.
Tuy nhiên... một thứ gì đó đang tạo ra âm thanh kia. Anh ta đứng dậy khỏi ghế, im lặng, quay đầu khắp phía để tìm ra nguồn âm thanh.
Trực giác mách bảo anh ta hướng về phía cánh cửa thép của phòng lạnh. Anh ta tiến thêm vài bước lại gần nó, tập trung mọi giác quan để nghe ngóng.
Một tiếng sột soạt. Một tiếng lạch cạch. Có vẻ như từ bên trong. Anh ta đã ở dưới chỗ này đủ lâu để không còn thấy sợ hãi khi tiếp cận xác chết... nhưng rồi, anh ta chọt nhớ tới những dấu hiệu kỳ lạ ở những thi thể này. Rõ ràng, những mối lo ấy đã kéo anh ta trở lại với những điều kiêng kỵ cơ bản của con người liên quan tới cái chết. Mọi thứ liên quan tới nghề nghiệp của anh ta đều đối lập với bản năng của một con người bình thường. Cắt mổ tử thi. Làm ô uế xác chết, tách da mặt khỏi sọ. cắt rời các cơ quan và lột da bộ phận sinh dục. Anh ta mỉm cười một mình trong căn phòng trống. Vậy ra, rốt cuộc anh ta cũng bình thường như bao người.
Tâm trí đang đánh lừa anh ta. Có lẽ là một sự cố nhỏ ở quạt làm mát hay sao đó. Có một nút an toàn bên trong phòng lạnh, một nút đỏ lớn, phòng trường họp ai đó vô tình bị mắc kẹt bên trong.
Anh ta quay trở lại với những cái lọ. Quan sát chúng, đợi xem có thêm chuyển động nào không. Anh ta ước gì lúc trước mang theo laptop xuống đây để ghi lại suy nghĩ và cảm tưỏng của mình.
Tọp.
Lần này anh ta đã chuẩn bị sẵn tinh thần, tim anh ta nẩy lên nhưng cơ thể vẫn ở nguyên chỗ. vẫn lọ đầu tiên. Anh ta đổ lọ còn lại đi và chia đôi chất lỏng này lần thứ ba, xấp xỉ 30 mi li lít mỗi lọ.
Trong lúc đổ, anh ta hình như thấy thứ gì đó trôi theo dòng chất lỏng từ lọ thứ nhất sang lọ thứ hai. Thứ gì đó rất mảnh, không dài quá bốn phân - nếu quả thật anh ta đã nhìn thấy thứ anh ta nghĩ là mình đã thấy...
Một con giun. Một con sán. Bệnh ký sinh chăng? Có rất nhiều ví dụ về những loài ký sinh tái tạo hình dáng vật chủ để phục vụ cho mục đích sinh sản của chính nó. Liệu đây có phải là lời giải cho những thay đổi bất thường sau khi chết mà anh ta đã nhìn thấy trên bàn khám nghiệm?
Anh ta giơ cái lọ đang cần nghiên cứu lên, lắc nhẹ thứ chất lỏng trắng ít ỏi dưới ánh đèn. Anh ta quan sát bên trong cẩn thận, kỹ càng... và thật vậy... không chỉ một, mà tới hai lần, thứ gì đó trườn bò bên trong. Ngoe nguẩy. Mảnh như một sợi dây và trắng như màu chất lỏng xung quanh, di chuyển rất nhanh.
Bennett cần phải tách riêng nó. Ngâm nó trong formol, và nghiên cứu, nhận dạng nó. Nếu đã có được một, anh ta sẽ có hàng chục, có khi hàng trăm, hay có khi... ai mà biết được là bao nhiêu, cái thứ đang di chuyển bên trong những cơ thể khác trong...
Một tiếng rầm lớn từ phòng lạnh khiến anh ta giật bắn mình, để tuột mất cái lọ đang cầm trên tay. Nó roi xuống bàn, nhưng không vỡ, mà thay vào đó bật nẩy lên và roi đánh xoảng vào bồn rửa, đổ tung tóe chất đựng bên trong. Bennett bật ra một tràng chửi rủa, tìm kiếm con giun trong bồn rửa bằng thép không gỉ. Chợt anh ta cảm thấy mu bàn tay trái âm ấm. Một phần máu trắng đã bắn vào anh ta, và giờ đang châm vào da thịt anh ta đau nhói. Không cháy, nhưng ăn da nhẹ, đủ để thấy đau. Anh ta vội xịt nước lạnh lên và chùi nó lên áo choàng phòng thí nghiệm trước khi nó kịp gây tổn thương cho da.
Rồi anh ta quay ngoắt người lại, hướng về phía phòng lạnh. Tiếng rầm anh ta vừa nghe thấy chắc chắn không phải do trục trặc điện, mà nghe giống như thể hai xe cáng đâm sầm vào nhau hon. Không thể nào... và con giận của anh ta lại trỗi dậy. Con giun của anh ta vừa biến mất xuống cống. Anh ta sẽ lấy một mẫu máu khác, và tách riêng con ký sinh này. Phát hiện này là của anh ta.
vẫn đang chùi bàn tay lên vạt áo khoác, anh ta bước tới cánh cửa và kéo tay nắm, mở khóa buồng lạnh. Một luồng không khí lạnh hôi thối thổi ập vào anh ta khi cánh cửa mở toang.
***
Joan Luss, sau khi giải thoát cho chính mình và những người còn lại khỏi khu cách ly, thuê một chiếc xe tới thẳng căn nhà nghỉ cuối tuần ờ New Canaan, Connecticut, của một trong những người đồng sáng lập công ty luật của cô ta. Cô ta đã đề nghị tài xế dừng lại hai lần để có thể nôn ra ngoài cửa sổ. Tổng họp của bệnh cúm và căng thẳng. Nhưng không việc gì. Giờ đây cô ta vừa là nạn nhân vừa là luật sư. Bên bị hại lẫn luật sư khỏi tố. Đấu tranh đòi bồi thường cho các gia đình có nạn nhân thiệt mạng và cho bốn người may mắn sống sót. Công ty luật hàng đầu Camins, Peters và Lilly có thể kỳ vọng hưởng bốn mươi phần trăm trong khoản bồi thường lớn nhất của một công ty từ trước đến nay, lớn hơn cả vụ Vioxx, hay thậm chí là vụ WorldCom.
Joan Luss, cổ đông.
Ta cứ nghĩ cuộc sống tại Bronxville đã ổn lắm rồi cho tới khi lái xe tới New Canaan. Bronxville, nhà của Joan, là một khu dân cư cây cối xanh tun tại hạt Westchester, cách trung tâm Manhattan hai tư cây số về phía Bắc, hai tám phút đi tàu Metro-North. Roger Luss làm về mảng tài chính quốc tế cho công ty Clume và Fairstein, và đi công tác nước ngoài gần như hằng tuần. Joan từng đi du lịch khá nhiều, nhưng cô ta đã phải ngừng lại sau khi sinh con, bởi làm thế không hay ho gì cho lắm. Nhưng cô ta nhớ khoảng thời gian đó, và đã tận hưởng trọn cả tuần vừa qua tại Berlin, ở khách sạn Ritz-Carlton trên quảng trường Potsdamer Platz. Cô ta và Roger, do quá quen với cuộc sống trong khách sạn, đã bắt chước cách sống đó tại chính căn nhà của họ, với sàn sưỏi trong phòng tắm, một phòng xông hơi ở tầng dưới, đặt mua hoa tươi hai lần mỗi tuần, chăm sóc vườn bảy ngày một tuần, và đương nhiên có cả quản gia và thợ giặt. Tất cả mọi thứ, chỉ còn thiếu người dọn giường và một cái kẹo trên gối vào buổi đêm.
Việc gắn bó với Bronxville vài năm trước, dù nơi đây thiếu những công trình xây dựng mới và có mức thuế cao khủng khiếp, là một bước tiến lớn đối với họ. Nhưng giờ đây, sau khi đã trải nghiệm New Canaan - nơi người cộng sự chính Dory Camins đang sống như một vị vua thời phong kiến trong một biệt thự ba căn với đầy đủ hồ nuôi cá cảnh, chuồng ngựa và một bãi cưỡi ngựa - thì Bronxville, đối với cô ta, lại có vẻ kỳ quặc, tỉnh lẻ, thậm chí có phần... mệt mỏi.
Giờ đã ở nhà, cô ta chỉ vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ chập chờn lúc chiều muộn. Roger vẫn đang ở Singapore, và cô ta cứ không ngừng nghe thấy những tiếng động trong nhà, những tiếng động cuối cùng đã dọa cô ta đến tỉnh cả ngủ. Lo lắng khôn người. Cô ta đổ thừa cho cuộc họp, có lẽ sẽ là cuộc họp lớn nhất đòi cô ta.
Joan ra khỏi thư phòng, bám tường bước xuống tầng, đi vào bếp đúng lúc Neeva, bà vú tuyệt vòi của bọn trẻ, đang dọn dẹp đống thức ăn roi vãi sau bữa tối, dùng một mẩu khăn ướt quét những vụn bánh mì vương trên bàn. "ôi, Neeva, tôi có thể làm việc đó được mà," Joan nói, chỉ cho có lệ, rồi bước thẳng tới tủ kính cao cất thuốc. Neeva là một bà lão người Haiti sống ở Yonkers, cách đó một thị trấn. Bà đã hơn sáu mươi tuổi, nhưng về cơ bản trẻ như người không có tuổi, luôn mặc váy hoa dài tới mắt cá chân và đi đôi giày mềm Converse thoải mái. Neeva là một nhân tố thiết yếu giúp giữ gìn sự bình yên trong gia đình Luss. Họ là một nhóm người bận rộn, Roger thì công tác, Joan thì dành quá nhiều thời gian trên thành phố, và bọn trẻ thì tất bật với trường học và các chương trình của chúng, ai cũng tỏa đi bốn phương tám hướng. Neeva là bánh lái của gia đình, và cũng là vũ khí bí mật của Joan trong việc giữ gìn nhà cửa.
"Trông cô không được khỏe lắm, Joan."
"Joan" và "không" phát âm nghe như "Jon" và "khôn" theo giọng vùng đảo quê hương của Neeva.
"Ôi, tôi chỉ hơi mệt thôi." Cô ta uống vài viên Motrin cùng hai viên Flexerils và ngồi xuống đảo bếp, mở tờ tạp chí House Beautiful.
"Cô phải ăn gì đó đi," Neeva nói.
"Nuốt xuống đau lắm," Joan nói.
"Vậy thì ăn xúp nhé," Neeva đề nghị, và bắt đầu đi lấy xúp cho cô ta.
Đối với tất cả bọn họ, chứ không chỉ với lũ trẻ, Neeva chẳng khác gì một người mẹ. Và tại sao Joan lại không nên có một người chăm sóc mình cơ chứ? Có Chúa biết, mẹ đẻ của cô ta - đã hai lần ly dị, sống trong một căn hộ ở Hialeah, Florida - chẳng thể đáp ứng nhiệm vụ đó. Và phần tuyệt vòi nhất ư? Khi tính lẩm cẩm của Neeva trở nên quá đỗi khó chịu, Joan chỉ cần cho bà đi làm mấy việc lặt vặt cùng bọn trẻ. Sự sắp đặt. Hoàn hảo. Nhất trần đòi.
"Tôi có nghe nói về cái máy bay đó." Neeva rời mắt khỏi dụng cụ mở nắp lon và ngước nhìn Joan. "Không ổn. Một thứ ma quỷ."
Joan mỉm cười với Neeva và sự mê tín vặt vãnh đáng yêu miền nhiệt đói của bà - nụ cười đột ngột tắt ngúm bởi một cơn đau xương hàm dữ dội.
Trong khi bát xúp đang quay trong cái lò vi sóng kêu vo vo, Neeva bước tới nhìn Joan, đặt bàn tay nâu thô ráp lên trán Joan, sờ vùng cổ của Joan bằng những ngón tay son móng xám. Joan rụt lại vì đau.
"Sưng quá," Neeva nói.
Joan gấp cuốn tạp chí. "Có lẽ tôi nên trở lại giường."
Neeva lùi lại, nhìn cô ta bằng ánh mắt kỳ lạ. "Cô nên trở lại bệnh viện."
Nếu không phải đang bị đau hẳn Joan đã cười phá lên. Trở lại Queens ư? "Tin tôi đi, Neeva. Tôi sẽ khá hơn nhiều khi được bà chăm sóc ở đây. Hơn nữa - cứ tin tồi đi, tôi biết quá rõ ấy chứ. Toàn bộ vụ bệnh viện đó là một mánh bảo hiểm phục vụ cho hãng hàng không. Tất cả là vì lọi ích của họ - không phải của tôi."
Trong lúc xoa bóp cái cổ sưng đau của mình, Joan mường tượng ra vụ kiện sắp tói, và một lần nữa cô ta lại lên tinh thần. Cô ta liếc nhìn quanh bếp. Thật buồn cười làm sao khi căn nhà đã được cô ta dành rất nhiều thời gian và tiền bạc để bày biện và tân trang lại có thể đột nhiên có vẻ... tồi tàn đến vậy.
Camins, Peters, Lilly... và Luss.
Rồi lũ trẻ ùa vào bếp, Keene và Audrey, mếu máo vì tranh giành đồ choi gì đấy. Giọng chúng oang oang trong đầu Joan tới mức cô ta chỉ muốn vả mỗi đứa một cái cho chúng bay tới phía bên kia bếp. Nhưng cô ta đã cố gắng làm đưọc cái việc cô ta vẫn luôn làm, biến con giận dữ với lũ con thành một thái độ nhiệt tình giả tạo, như dựng lên một bức tường vây lấy cái tôi hằn học của mình bên trong. Cô ta gập tờ tạp chí lại và cao giọng để át tiếng bọn trẻ.
"Các con có thích mỗi đứa có một chú ngựa nhỏ và một cái hồ riêng không?"
Cô ta tin rằng món hối lộ hào phóng của mình đã khiến bọn trẻ im lặng, nhưng thực ra, chính nụ cười quái dị cùng ánh mắt trừng trừng đầy ghét bỏ của cô ta mới là thứ khiến chúng phải rún bặt vì sợ hãi.
Đối với Joan, sự im lặng nhất thời quả là một niềm hạnh phúc.
Có người gọi tới 911 cho biết có một người đàn ông đang khỏa thân tại lối ra đường hầm Queens-Midtown. Công vụ này được xếp mã 10-50, một vụ gây rối mang tính cá nhân cấp độ ưu tiên thấp. Một tổ cảnh sát đã tới nơi trong vòng tám phút, và chứng kiến một vụ tắc nghẽn giao thông thậm tệ, quá tệ so với một đêm Chủ nhật bình thường. Mấy tài xế bấm còi chỉ cho họ lên phố trên. Kẻ tình nghi, các tài xế hét lên, một gã béo chẳng mang gì trên người ngoài một thẻ đỏ ở ngón chân, đã rời đi rồi.
"Tôi đang chở trẻ con đây này!" Một người đàn ông trong chiếc Dodge Caravan cũ kĩ gào lên.
Cảnh sát Kam, người cầm lái, nói với cộng sự, cảnh sát Lupo, "Chắc lại cái kiểu đại lộ Park rồi. Khách quen của hộp đêm sex. Dùng quá nhiều chất kích thích trước kỳ động dục cuối tuần."
Cảnh sát Lupo tháo dây an toàn và mở cửa xe. "Tôi sẽ điều khiển giao thông. Gã trai kia nhường anh đấy."
"Cảm on nhiều," cảnh sát Karn nói khi cánh cửa xe đóng lại. Anh bật đèn xe cảnh sát và kiên nhẫn đợi đám xe ùn tắc phía trước mở lối cho đi - anh đâu có được trả thêm lương để mà vội vã.
Anh đi qua phố 38, đảo mắt dọc con đường. Chắc chẳng khó phát hiện một gã béo khỏa thân lang thang. Mọi người trên vỉa hè có vẻ ổn, không xôn xao gì. Một công dân tốt bụng đang hút thuốc bên ngoài quán bar nhìn thấy chiếc xe cảnh sát chậm chạp lăn bánh bèn bước tới trước, chỉ tay về hướng phố trên.
Cuộc gọi thứ hai và thứ ba đến, cả hai đều báo có một người đàn ông khỏa thân đang ăn cướp bên ngoài trụ sở Liên Hiệp Quốc. Cảnh sát Kam nhấn ga, quyết tâm chấm dứt vụ này. Anh phóng xe ngang qua dãy cờ phấp phói phía trước của các quốc gia thành viên, tiến tới cửa dành cho khách tham quan ở phía Bắc tòa nhà. Những thanh chắn màu xanh của Sở Cảnh sát New York nhan nhản khắp noi, cũng như các ụ xi măng chống xe bom.
Kam dừng xe trước một nhóm cảnh sát chán nản đứng gần các thanh chắn. "Tôi đang tìm một gã béo khỏa thân."
Một gã cảnh sát nhún vai. "Tôi có thể cho anh vài số điện thoại."
Gabriel Bolivar lên limousine trở về tổ ấm mới của mình tại Manhattan, hai ngôi nhà sát vách đang trong quá trình tổng tân trang trên phố Vestry, Tribeca. Sau khi hoàn thành, nơi đây sẽ có ba mươi mốt phòng, diện tích tổng cộng một ngàn ba trăm mét vuông, gồm một bể boi vách khảm, các phòng cho mười sáu người phục vụ, một phòng thu âm dưới tầng hầm, và một phòng chiếu phim hai mươi sáu chỗ.
Mới chỉ có tầng thượng được hoàn thiện và trang bị đồ đạc, được gấp rút hoàn tất khi Bolivar đang trong chuyến lưu diễn châu Âu. Các phòng còn lại ở những tầng dưới mới xong phần thô, vài phòng đã trát vữa, còn lại thì vẫn đang bít vải nhựa cách ly. Mùn cưa bám trên mọi bề mặt và ngóc ngách. Quản lý kinh doanh của Bolivar đã tóm tắt tiến trình xây dựng cho anh ta, nhưng Bolivar chẳng mấy quan tâm tới tiến trình mà chỉ quan tâm tới kết quả cuối cùng của cái cung điện hoang toàng phóng đãng tương lai của mình.
Chuyến lưu diễn "Nước mắt Jesus" của anh ta đã kết thúc không mấy tốt đẹp. Ban tổ chức đã phải làm việc cật lực để lấp đầy khán đài, sao cho Bolivar có thể thành thật tuyên bố khắp nơi rằng mình được choi trước khán đài chật kín khán giả - và quả thực anh ta đã làm vậy. Rồi giấy phép tổ chức tour ở Đức không được chấp thuận, và thay vì đợi cùng những người khác, Bolivar đã thỏa thuận để bắt một chuyến bay thương mại về nhà. Anh ta vẫn đang cảm thấy những di chứng của sai lầm khủng khiếp đó. Thực ra, tình hình đang càng lúc càng tồi tệ.
Anh ta bước vào cổng trước cùng đội vệ sĩ và ba cô gái từ câu lạc bộ. Vài món báu vật lớn của anh ta đã được chuyển vào trong, gồm một đôi báo bằng cẩm thạch đen đứng tạo dáng hai bên tiền sảnh cao sáu mét. Hai thùng trụ màu xanh đựng rác thải công nghiệp được cho là đã từng thuộc về Jeffrey Dahmer cùng mấy bộ tranh đóng khung của Mark Ryden, Robert Williams, Chet Zar - khổ lớn, đắt tiền. Một công tắc lỏng lẻo trên tường điều khiển một chuỗi đèn thi công chạy dọc theo cầu thang cẩm thạch, phía trên là một thiên thần có cánh đang than khóc cỡlớn không rõ lai lịch, được "giải cứu" khỏi một nhà thờ La Mã vào thời Ceausescu.
"Bức tượng đẹp quá," một cô gái nói, ngước nhìn lên các đường nét khuất bóng, mang dấu ấn thời gian của bức tượng thiên thần.
Bolivar vấp chân gần bức tượng thiên thần lớn, ruột gan đau đớn còn hơn cả bị chuột rút, y như bị đấm vào một cơ quan tiếp giáp. Anh ta chộp lấy cánh thiên thần cho khỏi ngã, và mấy cô gái đổ dồn về phía anh ta.
"Cung ơi," họ thủ thỉ, đỡ anh ta đứng dậy, còn anh ta thì cố gắng rũ bỏ con đau. Có ai bỏ thuốc anh ta ở hộp đêm ư? Đã từng có vụ như vậy rồi. Lạy Chúa, trước kia lũ gái đã từng bỏ thuốc anh ta rồi, khao khát đến tuyệt vọng để được làm tình với Gabriel Bolivar - để tiếp cận con người bên dưới lóp trang điểm của một huyền thoại. Anh ta đẩy ba cô gái ra, vẫy tay xua luôn cả đám vệ sĩ, cố gắng đứng thẳng bất chấp con đau. Đội vệ sĩ ở lại bên dưới trong khi anh ta dùng cây gậy mạ bạc của mình lùa các cô gái lên cầu thang uốn lượn lát đá cẩm thạch trắng vân xanh dẫn lên tầng thưọng.
Bolivar để các cô gái tự pha thêm đồ uống và sửa sang lại bản thân trong một phòng tắm khác. Còn anh ta thì khóa mình trong phòng tắm chính và moi đống Vicodin đã đưọc giấu kín ra, rồi uống hai viên nhỏ màu trắng ấy cùng một ngụm rượu scotch. Anh ta day cổ, mát xa vùng họng đau nhức, lo lắng cho giọng của mình. Anh ta muốn mở cái vòi hình đầu quạ và xối nước lên mặt cho tình táo, nhưng lại vướng lóp trang điểm. Nếu thiếu nó thì chẳng ai trong các hộp đêm có thể nhận ra anh ta. Anh ta nhìn chăm chăm vào vẻ tái nhợt bệnh hoạn mà nó tạo ra, lóp đánh bóng làm gò má hốc hác, hai con ngươi đen ma quái do kính áp tròng. Thực ra Bolivar là một gã đẹp trai, dù có trang điểm thế nào cũng không thể che giấu được vẻ đẹp đó, và anh ta ý thức rõ đó là một phần bí mật tạo nên thành công của mình. Toàn bộ sự nghiệp của anh ta nằm ở việc sử dụng và phá hủy cái đẹp. Quyến rũ thính giác bằng một thoáng âm nhạc đỉnh cao để rồi hủy hoại chính nó bằng những tiếng hét thô tục và âm thanh công nghiệp méo mó. Đó chính là thứ được giới trẻ hưởng ứng. Tàn phá cái đẹp. Hủy hoại cái tốt.
Sự thối nát đẹp đẽ. Có thể sẽ là tên cho CD tiếp theo của anh ta.
Thôi thúc kinh tởm đã đạt 600.000 bản ngay trong tuần đầu ra mắt ở Mỹ. Một con số khổng lồ trong kỷ nguyên hậu mp3 này, nhưng vẫn ít hơn gần nửa triệu bản so với Cái hung bạo hoang toàng. Mọi người đang dần trở nên quen với những trò nhố nhăng của anh ta, cả trên và ngoài sân khấu. Anh ta giờ không còn là kẻ chống-lại-tất-cả mà Wal-Mart từng muốn tẩy chay và nước Mỹ sùng đạo - bao gồm cả cha anh ta - thề sẽ phản đối. Thật nực cười làm sao khi cha anh ta cũng đồng tình với Wal-Mart, điều đó càng chứng minh luận điểm của anh ta rằng tất cả mọi thứ đều thật ngu ngốc. Tuy nhiên, ngoại trừ nhóm tôn giáo hữu khuynh, giờ càng lúc càng khó có thứ gì làm người ta sốc. Sự nghiệp của anh ta đang đâm vào ngõ cụt và anh ta biết điều đó. Bolivar chưa đến nỗi phải cân nhắc chuyển sang choi nhạc dân gian cho quán cà phê - mặc dù điều đó có thể gây sốc cho cả thế giới - nhưng mấy trò mổ xẻ, cắn xé và cắt chém trên sân khấu đã không còn mới mẻ gì nữa rồi. Chúng đã bị bắt bài, như một màn diễn lặp đi lặp lại. Anh ta đang chạy theo khán giả thay vì dẫn dắt họ. cần phải chạy đi trước họ, bởi nếu bị họ bắt kịp, anh ta sẽ bị giẫm bẹp.
Nhung chẳng phải anh ta đã đi xa hết mức có thể rồi sao? Giờ còn đi đâu được nữa chứ?
Bolivar lại nghe thấy những giọng nói ấy. Như một dàn họp xướng chưa từng tập cùng nhau, những giọng nói đau đón, nỗi đau dội lại từ chính con đau của anh ta. Anh ta quay người một vòng để chắc rằng không có ai khác trong phòng tắm. Anh ta lắc mạnh đầu. Âm thanh như khi ta áp vỏ ốc vào tai, chỉ khác ở chỗ thay vì nghe thấy tiếng vọng của đại dương, anh ta nghe thấy tiếng than khóc của những linh hồn từ cõi hư vô.
Khi anh ta ra khỏi phòng tắm, Mindy và Sherry đang hôn hít, Cleo thì cầm cốc rưọu nằm trên giường lớn, mỉm cười nhìn trần nhà. Tất cả bọn họ đều giật mình khi anh ta xuất hiện, rồi chuyển thành háo hức chờ đợi hành động tiếp theo của anh ta. Anh ta bò lên giường, cảm thấy ruột gan lộn tùng phèo, thầm nhủ đây chính xác là thứ mình đang cần. Một cuộc truy hoan dữ dội giúp thanh lọc cơ thể. Mindy tóc vàng sán lại đầu tiên, luồn tay vào mái tóc đen óng của anh ta, nhưng Bolivar chọn Cleo, có gì đó ở cô gái này, lướt bàn tay tái nhợt của mình lên lóp da thịt nâu ở cổ cô. Cô cỏi áo để anh ta dễ dàng tiếp cận hơn, rồi trưọt hai bàn tay xuống lóp quần da bên hông anh ta.
Cô nói, "Em đã hâm mộ anh từ khi..."
"Suỵtttt," anh ta nói, hy vọng có thể bỏ qua màn đưa đẩy của đám người hâm mộ mình. Mấy viên Vicodin hẳn đã có tác động tới những tiếng nói trong đầu anh ta, bói giờ đây chúng đã dịu đi, chỉ còn tiếng o o, gần giống dòng điện, có điều lẫn thêm tiếng thình thịch.
Hai cô gái còn lại trườn tới quanh anh ta, bàn tay họ như những con cua, sờ soạng, thăm dò anh ta. Bắt đầu cỏi quần áo của anh ta, để làm lộ ra cơ thể đàn ông bên trong. Mindy lại luồn tay vào tóc anh ta, và anh ta né ra, như thể động tác của cô có gì vụng về. Sherry kêu ré lên thích thú khi mở cúc quần anh ta. Anh ta biết những lời đồn thổi về mình, từ người tình này qua người tình khác, về kích thước phi thường và kỹ năng của mình. Cô lướt tay dọc theo chiếc quần da của anh ta, rồi tới chỗ ấy, và tuy không hề có một lời cằn nhằn thất vọng, nhung cũng chẳng có lấy một tiếng thốt ngạc nhiên. Chẳng có động tĩnh gì dưới đó hết. Dù anh ta có đang bệnh chăng nữa thì điều này cũng thật khó hiểu. Trước đây anh ta từng hết lần này tới lần khác chúng tỏ bản thân trong tình trạng sức khỏe còn kém hơn rất nhiều.
Anh ta chuyển sự chú ý của mình trở lại vai, cổ và họng của cô gái tên Cleo. Xinh xắn - nhưng còn hơn thế nữa. Anh ta cảm thấy trong miệng có một cảm giác nhộn nhạo. Không phải cảm giác buồn nôn, mà có lẽ ngược lại: một nhu cầu trộn lẫn ham muốn tình dục và cảm giác thèm ăn. Nhưng - lớn hơn nhiều. Một khao khát. Một con thèm muốn. Thôi thúc hãm hiếp, cưỡng đoạt, ngốn ngấu.
Mindy nhấm nháp cổ Bolivar, và cuối cùng anh ta cũng quay sang cô, đẩy cô ngã lưng xuống nệm giường - lúc đầu khá thô bạo, nhưng sau đó lại nhẹ nhàng gượng gạo. Anh ta ngả cằm cô gái về phía sau để phơi cổ ra, và mân mê những ngón tay ấm nóng của mình trên cái cổ họng rắn chắc và xinh đẹp của cô. Anh ta cảm nhận sức mạnh của những cơ bắp trẻ trung bên trong cô gái - và anh ta muốn chúng. hơn cả muốn ngực, mông và chỗ kín của cô gái. Tiếng o o đang ám ảnh anh ta chính là xuất phát từ cô.
Bolivar áp miệng vào cổ họng cô gái. Anh ta thử bằng môi, hôn lên, nhưng không mấy thỏa mãn. Anh ta thử nhấm nháp, và trực giác có vẻ đúng, nhưng phương pháp... trong chuyện này có gì đó rất sai.
Anh ta muốn - bằng cách nào đó - hơn nữa.
Tiếng o o giờ làm toàn thân Bolivar rung động, da anh ta như thể một cái trống đang bị nện trong một nghi lễ cổ xưa. Chiếc giường hơi chao đảo và cổ họng cùng lồng ngực anh ta rộn lên cảm giác vừa thèm muốn vừa kinh tỏm. Anh ta thấy đầu óc nùnh mê man trong chốc lát. Như trong con cực khoái, nhưng tiếng rú thất thanh của cô gái khiến anh ta choàng tỉnh. Anh ta đang đưa hai tay giữ cổ cô gái và mút nó với một lực quá mạnh vượt quá cả khái niệm cắn yêu của giới trẻ. Anh ta đang hút cho máu cô gái chảy ra hẳn ngoài da, và cô đang kêu thét còn hai cô gái nửa kín nửa hở kia đang cố kéo cô ra khỏi Bolivar.
Bolivar ngồi thẳng dậy, tự kiềm chế khi nhìn thấy vết bầm đỏ quạch trên cổ họng cô gái - rồi, chợt nhớ ra mình chính là người cầm trịch trong trò làm tình tập thể này, anh ta thể hiện quyền uy.
"Cút đi!" Anh ta quát lên, và họ tuân lời, qươ quần áo ôm vào người, Mindy tóc vàng vừa rên rỉ vừa thút thít suốt đoạn đường leo xuống cầu thang.
Bolivar loạng choạng rời giường vào phòng tắm, tới bên bàn trang điểm. Anh ta ngồi xuống chiếc ghế da và bắt đầu quá trình chăm sóc da hằng tối. Lóp trang điểm đã bong hết - anh ta biết vậy sau khi nhìn tờ khăn giấy - tuy nhiên nhìn trong gương, da thịt của anh ta trông vẫn y như cũ. Anh ta chùi mạnh hon, lấy cả móng tay cào má, nhưng chẳng có gì bong ra nữa. Chẳng lẽ lóp son phấn bám luôn vào da? Hay anh ta đã ốm đến mức này, hốc hác đến mức này?
Anh ta xé áo sơ mi ra kiểm tra toàn thân: da trắng như đá cẩm thạch, chằng chịt những mạch máu màu xanh nhạt cùng vết máu lốm đốm bắn vào.
Anh ta tiếp tục với kính áp tròng, cẩn thận gắp hai cái mắt kính bằng gel mỹ phẩm ra khỏi mắt, và thả chúng vào dung dịch trong hộp chứa. Anh ta chóp mắt vài cái cho dễ chịu, rồi lấy ngón tay dụi dụi mắt, và cảm thấy có gì đó kỳ quái. Anh ta cúi sát gương hon, chóp chóp mắt, nghiên cứu đôi mắt của mình.
Con ngươi đen sì. Như thể vẫn mang kính áp tròng, chỉ có điều là cấu trúc vân nhiều hơn - nhìn thật hon. Và khi chóp mắt, anh ta cảm thấy có hoạt động nào đó khác diễn ra trong mắt. Anh ta đứng bật dậy đối diện với gương, mắt mở trừng trừng, gần như sợ phải nhắm lại.
Một màng nháy đã hình thành bên dưới mí mắt, cái mí mắt thứ hai trong mờ nằm ngay bên dưới mí mắt ngoài, đóng mở nhãn cầu theo phương ngang. Như một lóp màng mờ đục che bên ngoài con ngươi đen, che cái ánh nhìn hoang dại và hãi hùng của anh ta.
Augustin "Gus" Elizalde ngồi sụp xuống một cái ghế ở phía cuối nhà hàng, chiếc mũ phớt đặt cạnh người, trên ghế. Đó là một quán ăn mặt phố chật hẹp, cách Quảng trường Thời đại một dãy nhà về phía Đông. Đèn nê ông tạo hình bánh burger phát sáng trên cửa sổ, và khăn trải kẻ ca rô đỏ trắng trên bàn. Một bữa ăn bình dân ở Manhattan. Ta bước vào gọi đồ ở quầy phía trước - sandwich, pizza hay đồ nướng gì đó - rồi trả tiền, lấy đồ và mang vào trong, một căn phòng không cửa sổ nêm chật bàn. Bao quanh họ là những bức tranh tường vẽ thành phố Venice cùng những chiếc thuyền đáy bằng. Felix ngấu nghiên đĩa mì ống trộn phô mai sền sệt. Nó chỉ ăn mỗi món đó, mì ống trộn phô mai, càng có màu cam càng ngon. Gus nhìn xuống chiếc bánh burger béo ngậy đang ăn dở của mình, bỗng nhiên thấy thích Coca hon, thích caffeine và đường, để nạp thêm chút năng lượng vào người.
Cậu vẫn cảm thấy có gì đó không ổn về chiếc xe tải. Gus lật chiếc mũ của mình dưới bàn ăn và kiểm tra lại dải băng nẹp trong lòng mũ một lần nữa. Năm tờ 10 đô đầu tiên cậu có được từ gã bảnh bao đó, cộng thêm 500 đô được trả vì đã lái chiếc xe tải vào thành phố, tất cả vẫn đang nhét trong đó. Cám dỗ cậu. Cậu và Felix có thể vui thú tẹt ga chỉ với một nửa số tiền đó. Và đem một nửa về cho mẹ, số tiền mà bà cần, số tiền bà có thể tiêu.
Vấh đề là, Gus hiểu rõ bản thân. Vấn đề là dừng lại ở một nửa. Vấn đề là đi loanh quanh với số tiền chưa tiêu trong người.
Cậu nên nhờ Felix đưa về ngay lập tức. Giải thoát bản thân khỏi một nửa món hòi này. Lén đưa cho mẹ mà không để thằng anh trai Crispin đê tiện biết. Lũ nghiện ma túy có thể đánh hơi thấy tiền thính ngang đánh hơi ma túy.
Nhưng nghĩ lại, đây là số tiền dơ bẩn. Cậu đã làm một chuyện sai trái mới có được nó - rõ là vậy, mặc dù cậu chẳng biết mình đã làm gì - và đưa số tiền này cho mẹ sẽ giống như trao đi một lời nguyền. Điều nên làm nhất với những đồng tiền dơ bẩn là tiêu thật nhanh, tống khứ nó đi - dễ kiếm, dễ tiêu.
Gus thấy hoang mang. Cậu biết một khi đã uống, cậu sẽ mất hết kiểm soát. Và Felix sẽ như đổ thếm dầu vào lửa. Cả hai sẽ đốt sạch 550 đô trước bình minh, và sau đó, thay vì mang về nhà một điều tuyệt vòi cho mẹ, thay vì đem về nhà một điều tốt đẹp, cậu sẽ lại lết cái xác say xỉn của mình về, với cái mũ toi tả và những cái túi rỗng tuếch.
"Nghĩ gì mà đăm chiêu thế, Gusto," Felix nói.
Gus lắc đầu. "Tao chính là kẻ thù lớn nhất của tao, mày à. Tao như con chó lai chết tiệt hít ngửi ngoài đường chẳng biết ngày mai ra sao. Tao có mặt tối, bạn hiền à, và đôi khi nó kiểm soát tao."
Felix nhấm nháp cốc Coca to đùng. "Thế chúng ta còn làm gì trong cái ổ dầu mỡ này nhỉ? Tối nay ra ngoài gặp gỡ vài cô nàng thôi."
Gus lướt ngón cái dọc theo vành da nẹp trong mũ, trên những tờ đô la gấp lại mà Felix chưa hề biết đến - cho tới lúc này. Chắc chỉ một trăm. Hai trăm, mỗi thằng một nửa. Cứ rút ra đúng từng ấy, đó là giới hạn của cậu, không hơn. "Muốn choi thì cứ chi, nhỉ?"
"Chuẩn mẹ nó rồi."
Gus nhìn sang và thấy một gia đình bên cạnh, ăn vận theo kiểu đi xem hát, họ đứng dậy rời đi mà chưa kịp ăn xong món tráng miệng. Gus đoán là do cách ăn nói của Felix. Cứ nhìn lũ trẻ con Trung Tây này thì rõ, hẳn chúng chưa từng nghe chửi, ừ thì, kệ mẹ chúng nó. Tới thành phố này, và để con mình ởngoài đường sau chín giờ, vậy là anh đang đánh liều cho chúng xem đủ thứ bậy bạ rồi.
Rốt cuộc Felix cũng đã uống xong phần của mình, Gus bèn nhẹ nhàng đặt chiếc mũ giấu tiền lên đầu và họ đi thơ thẩn trong đêm. Họ đang đi bộ trên phố 44, Felix đang hút thuốc lá, thì chợt nghe thấy những tiếng hét. Tiếng la hét ở trung tâm Manhattan chẳng khiến họ phải rảo bước nhanh hon. Cho tới khi họ nhìn thấy một gã béo khỏa thân đang lê bước trên đường, giữa phố 7 và Broadway.
Felix bật cười, suýt chút nữa phụt cả điếu thuốc ra. "Gusto, mày thấy của khỉ đó chứ?" Nó bước vội tới trước, như một người đứng ngoài bỗng dưng được mòi vào xem diễn.
Gus không quan tâm lắm. Cậu bước chậm chạp theo Felix.
Mọi người tại Quảng trường Thời đại đang nhường đường cho gã kia cùng cái mông ẽo ợt của gã. Phụ nữ nửa cười nửa la hét trước cảnh tượng ấy, che mắt, bịt miệng, hoặc cả hai. Một nhóm các cô gái trẻ chụp hình bằng điện thoại. Mỗi khi gã đó đổi hướng, một nhóm người khác lại nhìn thấy dương vật teo tóp, lút trong da thịt của gã, rồi la ó.
Gus tự hỏi lũ cóm đang ở đâu. Nước Mỹ của mày đây: một người anh em da nâu thậm chí còn chẳng thể nấp vào một góc cửa để đái bậy mà không gặp rắc rối, nhưng một gã da trắng thì lại có thể tự do thoải mái khỏa thân diễu hành qua giao lộ của thế giới như vậy.
"Xẻo cái mông thừa của hắn đi," Felix la hét và đi theo sau gã ngu xuẩn nọ, cùng một đám đông khác, rất nhiều người trong đó đang say xỉn, khoái trá thưỏng thức một màn diễn trên đường phố. Ánh đèn trên giao lộ sáng nhất thế giới - Quảng trường Thời đại là nơi giao nhau của các đại lộ, xung quanh là những biển quảng cáo và những hàng chữ chạy chói mắt, như trò đỡ bóng qua dòng giao thông bất tận - khiến gã béo hoa mắt, quay cuồng. Gã xổ tói, lảo đảo như một con gấu rạp xiếc bị xổng chuồng.
Đám đông những kẻ say xỉn, bao gồm cả Felix, cười lớn và lùi lại mỗi khi gã đổi hướng và loạng choạng về phía họ. Lúc này gã đã trở nên táo tợn hon, hoặc hơi hoang mang, như một con thú sợ hãi, rối loạn hơn và dường như đau đón hơn - thỉnh thoảng gã ấh bàn tay vào cổ họng, như bị nghẹt thở. Bầu không khí vẫn rất sôi nổi cho đến khi gã béo tái mét đó lao vào một người phụ nữ đang cười, chộp lấy gáy cô ta. Người phụ nữ hét lên xoay đầu, và một phần đầu cô ta rời ra trong tay gã đàn ông - nhìn thoáng qua cứ như cô ta đã bị xé toạc cả sọ - nhưng đó chỉ là phần tóc nối uốn xoăn màu đen của cô ta.
Vụ tấn công biến không khí từ vui vẻ trở thành sợ hãi. Gã béo xồ ra đường, vẫn cầm theo nắm tóc giả, và đám đông theo sau đuổi bắt hắn, giận dữ, la hét. Felix dẫn đầu, đuổi theo gã béo băng qua đảo phân dòng giao thông. Gus cũng đi theo, nhung tách khỏi đám đông, lách qua những chiếc xe đang bấm còi inh ỏi. Cậu gọi Felix rời khỏi đây, chấm dứt chuyện này đi. Sẽ chẳng có kết thúc tốt đẹp gì.
Gã béo tiến về phía một gia đình đang tập trung trên đảo phân dòng để chuẩn bị tham quan Quảng trường Thời đại buổi tối. Gã buộc họ lùi xuống đường nơi dòng xe cộ đang lao vun vút, và người cha bị đánh một cú rất mạnh khi cố gắng can thiệp. Gus nhận ra đó chính là gia đình trông như những người đi nhà hát lúc ở quán ăn. Người mẹ có vẻ lo che mắt lũ con khỏi người đàn ông trần truồng hơn là lo bảo vệ bản thân. Bà ta bị túm gáy kéo lại sát cái bụng phệ và bộ ngực chảy xệ của gã. Miệng gã điên há ra như thể muốn hôn. Nhưng rồi nó cứ tiếp tục há ra, như miệng một con rắn - rõ ràng đang làm trật các khóp hàm với tiếng rắc nhỏ.
Gus không khoái khách du lịch, nhưng cậu chẳng kịp nghĩ gì mà đã chạy tới phía sau và dùng tay khóa đầu gã. Cậu siết mạnh, cổ gã béo khỏe đến kinh ngạc dưới những ngấn thịt lùng nhùng. Tuy nhiên, Gus có lọi thế, và gã kia thả bà mẹ ra, bà ta ngã về phía ông chồng trước mặt lũ con đang la hét.
Giờ thì Gus bị mắc kẹt. Cậu đã khóa được gã khỏa thân, hai cánh tay to như tay gấu của gã qườ quạng. Felix lao tới phía trước để giúp đỡ... nhưng rồi dừng lại. Nó nhìn chằm chằm khuôn mặt của gã béo như thể có gì rất bất thường. Một vài người sau lưng Felix cũng phản ứng tương tự, những người khác quay mặt đi sợ hãi, nhưng Gus chẳng hiểu nổi tại sao. Cậu có thể cảm thấy cổ gã mấp mô dưới cẳng tay, một cách rất dị thường - gần như thể gã đang nuốt ở hai bên cổ. vẻ ghê tỏm của Felix khiến cậu nghĩ gã béo đang nghẹt thở do bị khóa chặt họng, vì thế cậu nói vòng tay ra một chút - vừa đủ để gã, với thứ sức lực điên cuồng của loài thú vật, quật nhào Gus bằng một khuỷu tay lông lá.
Gus ngã mạnh xuống lề đường, mũ roi khỏi đầu. Cậu quay ra vừa kịp nhìn thấy nó lăn qua vỉa hè xuống đường. Gus bật dậy, đuổi theo cái mũ cùng món tiền của mình - nhưng tiếng thét của Felix khiến cậu quay lại. Gã đó đã điên dại ôm cứng Felix, mồm gã kề cổ Felix. Gus thấy Felix đang rút thứ gì đó từ túi sau, vẩy cổ tay bật mở nó.
Gus chạy về phía Felix trước khi Felix kịp sử dụng dao, thúc mạnh vai vào gã béo, cảm thấy tiếng xương sườn gã nứt ra, đẩy cả tảng thịt ấy ngã lăn. Felix cũng ngã xuống, Gus thấy máu đang chảy xuống từ cổ Felix, và - kinh hoàng hơn cả - là vẻ hãi hùng trên khuôn mặt người bạn của cậu. Felix ngồi dậy, buông con dao để bịt chặt cổ, và Gus chưa thấy Felix như vậy bao giờ. Gus biết chuyện kỳ quái gì đó đã xảy ra - đang xảy ra - chỉ có điều cậu không biết đó là gì. Cậu chỉ biết là mình cần phải hành động để giúp bạn.
Gus với lấy con dao, và cậu nắm được cái chuôi gỗ đen của nó vừa kịp lúc gã đàn ông khỏa thân đứng dậy. Gã đứng đó, tay che miệng như thể đang cố gắng giữ thứ gì đó bên trong. Thứ gì đó đang ngọ nguậy. Máu dính hai bên má béo núc và trên cằm gã - máu của Felix - khi gã tiến về phía Gus với bàn tay rảnh rang vươn dài ra.
Gã béo tới rất nhanh - quá nhanh nếu xét đến thân hình gã - và xô Gus về phía sau, trước khi cậu kịp phản ứng. Đầu trần của Gus đập vào vỉa hè - và trong một thoáng mọi thứ lặng thinh. Cậu thấy những biển quảng cáo trên Quảng trường Thời đại nhấp nháy phía trên đầu cậu như một dòng chất lỏng đang từ từ chảy... một người mẫu trẻ chỉ mặc áo ngực và quần lót nhìn xuống cậu... và rồi gã đàn ông to béo. Sừng sững phía trên cậụ. Thứ gì đó đang cựa quậy trong mồm gã khi gã nhìn Gus bằng con mắt đen sâu hoắm...
Gã quỳ một gối, ọe cái thứ trong cổ họng ra. Màu hồng nhạt và đói khát, nó bắn thẳng vào Gus với vận tốc nhanh như cái lưỡi háu ăn của một con ếch. Gus chém thứ đó bằng con dao, cắt và đâm, như một người đang chiến đấu chống lại một sinh vật nào đó trong con ác mộng. Cậu không biết nó là gì - chỉ biết rằng cậu muốn nó tránh xa khỏi mình, muốn tiêu diệt nó. Gã béo lảo đảo lùi lại, phát ra thứ âm thanh như tiếng rít. Gus cứ tiếp tục chém, lia dao vào cổ, cắt toi tả cổ họng gã.
Gus lùi ra xa, và gã kia đứng lên, tay ôm miệng và họng. Gã chảy máu trắng - không phải đỏ - một chất giống như kem, đậm đặc và sáng màu hơn sữa. Gã vấp chân vào lề đường phía sau và ngã xuống dòng xe cộ đang di chuyển.
Chiếc xe tải cố gắng dừng lại. Đúng lúc tệ nhất. Sau khi đã cán qua mặt gã bằng bánh trước, bánh sau dừng lại ngay trên cái sọ vỡ của gã béo.
Gus loạng choạng đứng dậy. vẫn còn choáng từ cú ngã ban nãy, cậu nhìn xuống lưỡi dao của Felix trong tay. Nó bị nhuộm trắng.
Rồi cậu bị đánh từ phía sau, tay bị bẻ quặt lại, vai bị ấn sát xuống mặt đường. Cậu phản ring như thể gã béo vẫn đang tấn công mình, vật lộn và quẫy đạp.
"Bỏ con dao xuống! Bỏ nó xuống!"
Cậu quay đầu lại và nhìn thấy ba tên cóm mặt đỏ bừng đang đè mình, hai tên nữa ở phía sau đang chĩa súng.
Gus thả con dao. Cậu để mặc hai cánh tay của mình bị vặn ra sau lưng, rồi bị còng lại. Con giận của cậu bùng nổ. Cậu nói, "Giờ mới chịu chường mặt ra hả?"
"Cấm kháng cự!" tên cớm nói, đập mặt Gus xuống vỉa hè.
"Hắn đã tấn công gia đình này ngay tại đây... hỏi họ đi!" Gus quay đầu.
Những vị khách du lịch đã biến mất.
Gần như cả đám đông đã biến mất. Chỉ còn Felix ở lại, ngồi sững sờ trên rìa đảo phân dòng, tay ôm chặt cổ họng, rồi một tên cóm đeo găng xanh đẩy nó ngã xuống, ấn một đầu gối đè lên sườn nó.
Đằng sau Felix, Gus thấy một thứ nhỏ màu đen đang lăn xa hơn ra đường. Mũ của cậu, cùng toàn bộ đống tiền bẩn thỉu vẫn nằm trong vành mũ - một chiếc taxi chầm chậm lướt qua đè bẹp nó. Gus nghĩ, Nước Mỹ của mầy đây.
Gary Gilbarton rót cho mình một ly whiskey. Cả gia đình - một gia đình ba thế hệ, cả nội cả ngoại - và bạn bè rốt cuộc cũng đã về hết, để lại cả đống hộp các tông đựng đồ ăn mang đi trong tủ lạnh và mấy cái thùng rác chứa đầy giấy ăn. Ngày mai bọn họ sẽ trở lại với cuộc sống thường nhật, với một câu chuyện để kể.
Cháu gái mười hai tuổi của tôi ở trên cái máy bay đó...
Em họ mười hai tuổi của tôi ở trên cái máy bay đó...
Con gái mười hai tuổi của người hàng xóm của tôi ở trên cái máy bay đó...
Gary cảm thấy anh như một bóng ma đang lang thang trong ngôi nhà chín phòng của mình ở vùng ngoại ô Freeburg rọp cây xanh. Anh sờ các đồ vật - cái ghế, bức tường - nhưng chẳng cảm thấy gì cả. Giờ đây chẳng còn gì quan trọng nữa. Ký ức có thể an ủi anh, nhưng dễ làm anh phát điên hon.
Anh đã ngắt tất cả các điện thoại từ lúc bọn phóng viên bắt đầu gọi điện, muốn tìm hiểu về nạn nhân trẻ tuổi nhất trên máy bay. Để làm câu chuyện nhân văn hon. Cô bé là người thế nào? họ hỏi anh. Sẽ phải mất cả phần đòi còn lại để Gary có thể nói hết về cô con gái Emma của mình trong một đoạn văn. Đó sẽ là đoạn văn dài nhất trong lịch sử.
Anh nghĩ về Emma nhiều hơn về Berwyn, vợ anh, bởi lũ trẻ chính là hiện thân thứ hai của ta. Anh yêu Berwyn, và cô đã ra đi. Nhưng tâm trí anh không ngừng xoay quanh cô con gái nhỏ đã mất của mình, như dòng nước xoáy quanh trong đường ống không bao giờ cạn.
Chiều hôm đó, một người bạn luật sư - có lẽ đã phải đến một năm chưa từng ghé nhà Gary - đã kéo riêng anh vào thư phòng. Anh ta bảo Gary ngồi xuống và nói rằng anh sẽ trở thành người giàu có. Một nạn nhân trẻ như Em, mất cả một quãng đòi rất dài phía trước, hứa hẹn sẽ mang về một khoản đền bù lớn.
Gary không đáp lại. Anh không nhìn thấy dấu hiệu của tiền tài. Anh không tống khứ tên đó ra khỏi nhà. Anh thực sự không quan tâm. Anh chẳng cảm thấy gì.
Anh đã từ chối mọi lời đề nghị từ gia đình và bạn bè muốn ngủ lại qua đêm để anh cảm thấy đỡ cô đon. Gary đảm bảo với tất cả mọi người rằng anh vẫn ổn, mặc dù ý nghĩ tự tử đã bắt đầu hình thành trong anh. Không chỉ là ý nghĩ: một quyết định thầm lặng; một điều chắc chắn. Nhưng để sau đã. Lúc này thì chưa. Sự quả quyết đó như một niềm an ủi. Cũng là "món đền bù" duy nhất còn có ý nghĩa với anh. Giờ đây, cách duy nhất để anh có thể vượt qua toàn bộ chuyện này là việc biết rằng rồi sẽ có một kết thúc. Sau mọi nghi thức. Sau khi khu vui choi tưởng niệm mang tên Emma được dựng lên. Sau khi quỹ học bổng được cấp vốn. Nhưng trước khi anh bán ngôi nhà giờ đã trở thành một nơi đầy ám ảnh này.
Anh đang đứng giữa phòng khách thì chuông cửa vang lên. Vừa qua nửa đêm. Nếu đó là một phóng viên, Gary sẽ tấn công và giết chết hắn ta. Chỉ đon giản vậy thôi. Muốn phá rối nơi này bây giờ ư? Anh sẽ xé xác kẻ soi mới đó.
Anh mở tung cánh cửa... và rồi, con giận dữ kìm nén trong anh ngay lập tức biến mất.
Một bé gái chân trần đang đứng trên tấm thảm trước cửa. Emma của anh.
Gary Gilbarton nhăn mặt đầy hoài nghi, và anh quỳ gối trước con bé. Mặt nó không chút phản ứng, không chút cảm xúc. Gary vươn tay về phía con gái - rồi do dự. Liệu con bé có vỡ tan như bong bóng xà phòng và một lần nữa biến mất mãi mãi?
Anh chạm vào cánh tay con bé, nắm lấy bắp tay nhỏ bé của nó. Lóp vải váy của nó. Con bé là thật. Nó đang ở đây. Anh túm chặt con bé, kéo nó về phía mình, ôm siết nó trong vòng tay.
Anh lùi ra sau, nhìn lại con bé một lần nữa, vén mớ tóc bết bệt khỏi khuôn mặt tàn nhang của nó. Làm sao có thể chứ? Anh nhìn quanh bên ngoài, quét mắt khắp sân trước mù sương để xem ai đã mang con bé về.
Không có chiếc xe nào trên lối vào, không có tiếng động cơ xe rời khỏi.
Con bé có một mình thôi sao? Mẹ nó đâu rồi?
"Emma," anh nói.
Gary đứng dậy dẫn con bé vào nhà, đóng cửa trước và bật đèn. Emma có vẻ bị lóa mắt. Con bé mặc chiếc váy mà mẹ nó đã mua cho chuyến đi, trông nó trưởng thành biết bao lúc xoay vòng cho anh ngắm vào lần đầu thử váy. Đất dính trên một tay áo - có lẽ cả máu. Gary xoay con bé một vòng, nhìn khắp người nó và tìm thấy thêm nhiều vết máu trên đôi chân trần của nó - không giày ư? - và bùn lấm khắp noi, lòng bàn tay trầy xước, cổ bầm tím.
"Đã có chuyện vậy, Em?" anh hỏi con bé, áp lòng bàn tay lên mặt nó. "Làm sao con...?"
Sự nhẹ nhõm lại một lần nữa dâng trào, gần như khiến anh bị choáng, và anh ôm chặt con bé. Anh bế con bé về chỗ sofa, đặt nó ngồi đó. Con bé bị sốc và thụ động đến kỳ lạ. Thật khác với Emma tươi cười, bướng bỉnh của anh.
Anh áp tay lên mặt con bé, đứng như mẹ nó vẫn làm mỗi khi Emma cư xử kỳ lạ, và thấy mặt nó nóng bừng. Nóng đến mức da con bé có cảm giác nhóp nháp, và con bé nhợt nhạt kinh khủng, gần như trong suốt. Anh có thể thấy mạch máu chìm bên dưới, những mạch máu đỏ rực anh chưa từng thấy.
Màu xanh dương trong mắt con bé dường như đã phai. Có lẽ là chấn thương đầu. Nó đang bị sốc.
Anh thoáng nghĩ tới bệnh viện, nhưng giờ anh sẽ không để con bé ra khỏi ngôi nhà này, không bao giờ.
"Con đã về nhà rồi, Em," anh nói. "Con sẽ ổn thôi."
Anh nắm tay con bé kéo nó dậy, dẫn nó vào nhà bếp. Thức ăn. Anh đặt con bé vào ghế cạnh bàn ăn, quan sát nó từ quầy bếp trong khi nướng hai cái bánh quế sô cô la giòn, món khoái khẩu của nó. Con bé ngồi đó, thõng tay xuống hai bên, quan sát anh, không hẳn là nhìn chòng chọc, nhưng cũng chẳng tỏ ra nhận thức được không gian xung quanh. Không có những câu chuyện ngốc nghếch, không có những lời ríu rít về trường lóp.
Bánh nướng xong, anh phủ bơ và xi rô lên rồi đặt đĩa xuống trước mặt con bé. Anh ngồi xuống ghế quan sát. Chiếc ghế thứ ba, chỗ của mẹ nó, vẫn đang trống. Có lẽ chuông cửa sẽ lại reo lên lần nữa...
"Ăn đi," anh bảo nó. Con bé chẳng thèm nhấc dĩa lên. Anh cắt một góc bánh giơ lên trước miệng nó. Con bé không mở miệng.
"Không à?" anh hỏi. Anh làm mẫu, đưa miếng bánh quế vào miệng nhai. Anh thử đưa bánh cho con bé một lần nữa, nhưng phản ứng của nó vẫn như vậy. Một giọt lệ ứa ra khỏi mắt Gary, lăn dài trên má. Đến giờ anh đã hiểu có gì đó cực kỳ không ổn với con gái mình. Nhưng anh gạt phắt nó sang một bên.
Giờ con bé đã ở đây, nó đã trở về.
"Đi nào."
Anh dắt con bé lên tầng tới phòng ngủ của nó. Gary vào trước, còn Emma dừng ở ngưỡng cửa. Nó nhìn căn phòng, có vẻ đã nhận ra sự quen thuộc, nhưng như kiểu từ một ký ức xa xăm. Như ánh mắt một phụ nữ lớn tuổi nhờ phép mầu nào đó được trở về căn phòng ngủ của mình thuở niên thiếu.
"Con cần ngủ," anh nói, lục tìm bộ đồ ngủ trong ngăn kéo tủ.
Con bé vẫn đứng ở cửa, tay buông thõng hai bên.
Gary quay ra cầm theo một bộ đồ ngủ. "Con có muốn bố thay cho con không?"
Anh quỳ gối kéo váy con bé lên, và đứa con gái nhỏ thùy mị của anh chẳng hề phản kháng. Gary thấy thêm nhiều vết trầy xước, cùng một vết bầm tím lớn trên ngực con bé. Bàn chân nó bẩn thỉu, kẽ ngón chân bám đầy máu. Da con bé nóng ran.
Không tới bệnh viện. Anh sẽ không để con bé rời khỏi tầm mắt nữa.
Anh xả đầy bồn nước mát và đặt con bé vào trong. Anh quỳ bên cạnh bồn, nhẹ nhàng lau những vết xước bằng một khăn mặt thấm xà phòng, còn con bé thậm chí chẳng thèm cựa quậy. Anh cho dầu gội và dầu xả lên mái tóc bết bẩn thỉu của nó.
Con bé nhìn anh bằng đôi mắt đen thẳm nhưng chẳng có lấy một chút tình cảm. Có lẽ nó đang bị thôi miên. Sốc. Chấn thương.
Anh có thể giúp con bé khỏe hon.
Anh mặc bộ đồ ngủ cho con bé, lấy chiếc lược từ giỏ rom trong góc và chải thẳng mái tóc vàng của nó. Chiếc lược mắc vào tóc nhưng con bé chẳng hề rụt lại hay phàn nàn.
Mình đang tưởng tượng ra con bé, Gary nghĩ. Mình đã mất đi mối liên hệ với thực tế.
Và rồi, vẫn chải tóc cho con bé: Mình chẳng bận tâm.
Anh lật ga trải giường và cái chăn chần rồi đặt con bé nằm xuống giường, hệt như anh vẫn thường làm hồi nó còn chập chững. Anh kéo chăn tới cổ con bé, cuộn nó vào trong, và Emma nằm yên, trông như đang ngủ, chỉ có điều đôi mắt đen tuyền vẫn mở to.
Gary do dự một lát rồi cúi người hôn vầng trán vẫn đang nóng ran của nó. Con bé có phần giống với hồn ma của con gái anh hon. Một hồn ma anh hoan nghênh chào đón. Một hồn ma anh có thể yêu thương.
Những giọt nước mắt sung sướng của anh làm ướt đẫm lông mày con bé. "Ngủ ngon nhé," anh nói, chẳng nhận được lời đáp nào. Emma nằm yên dưới ánh đèn ngủ hơi hồng, nhìn chằm chằm trần nhà. Không để tâm tới anh. Không nhắm mắt. Không chờ giấc ngủ. Mà chờ đợi... một thứ gì đó khác.
Gary bước dọc hành lang về phòng ngủ của mình. Anh thay quần áo và trèo vào giường một mình. Anh cũng không ngủ. Anh cũng chờ đợi, dù chẳng biết lý do.
Cho đến khi anh nghe thấy nó.
Một tiếng cót két nhẹ ở ngưỡng cửa phòng ngủ. Anh ngửa đầu dậy và nhìn thấy bóng Emma. Cô con gái của anh đang đứng đó. Nó đã đến với anh, bước ra khỏi bóng tối, một hình hài nhỏ bé trong căn phòng tối tăm. Con bé dừng lại cạnh giường anh, há to miệng, như đang chuẩn bị ngáp.
Emma của anh đã trở lại với anh. Đó mới là điều quan trọng.
Zack bị mất ngủ. Thật đúng như mọi người vẫn nói: nó rất giống bố. Hiển nhiên nó còn quá nhỏ để bị bệnh này bệnh nọ, nhưng hai vai nó đã phải chịu biết bao gánh nặng. Nó là cậu bé giàu tình cảm, một cậu bé chân thành, và nó đã phải chịu đựng nhiều vì điều đó.
Nó vẫn luôn như vậy, Eph từng bảo nó thế. Nó vẫn thường nhìn ra từ trong cũi với vẻ hơi nhăn nhó lo âu, cặp mắt đen chan chứa cảm xúc xoáy vào người khác. Và vẻ lo âu đó của nó khiến Eph phải bật cười - bởi nó nhắc anh nhớ lại rất nhiều về bản thân - đứa bé lo âu trong cũi.
Trong vài năm trở lại đây, Zack đã cảm nhận được gánh nặng của vụ ly thân, ly hôn, và cuộc chiến giành quyền nuôi con. Phải mất một thời gian nó mới có thể tự thuyết phục bản thân rằng những chuyện đang xảy ra không phải lỗi của nó. Tuy nhiên, trái tim nó biết rõ ràng: bằng cách nào đó nó biết rằng, nếu đào bói đủ sâu, nó sẽ thấy toàn bộ cơn giận dữ đều liên quan tới nó. Hàng năm trời nghe những lời xì xào giận dữ sau lưng... những tiếng tranh cãi trong đêm muộn... bị thức giấc bởi tiếng nện tường cố kìm nén... Chuyện này gây ra không ít tác hại. Và giờ đây Zack, mới chỉ mười một tuổi, đã mắc chứng mất ngủ.
Có nhiều đêm nó bật iPod để át tiếng ầm ĩ trong nhà và nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ phòng ngủ. Những đêm khác, nó mở hé cửa sổ và lắng nghe từng tiếng động nhỏ nhất trong đêm, chăm chú tới mức tai nó ong lên bởi máu dồn về.
Như bao đứa trẻ khác, nó cũng mang một hy vọng muôn thuở rằng, con phố của nó, trong đêm, khi tin chắc không bị ai dòm ngó, sẽ hé lộ những bí ẩn của mình. Những bóng ma, kẻ giết người, cuộc yêu đương nồng nàn. Nhưng tất cả những gì nó từng thấy, cho tới khi mặt trời lại mọc lên từ chân trời, là thứ ánh sáng xanh lập lòe chán ngắt của chiếc ti vi xa xa trong căn nhà đối diện bên phố.
Thế giới chẳng tồn tại anh hùng hay quái vật, dù Zack vẫn luôn tìm kiếm cả hai trong trí tưởng tượng của mình. Con thiếu ngủ ảnh hưỏng xấu tới thằng bé, và nó cứ liên tục ngủ gật trong ngày. Nó bị tách biệt ở trường, và những đứa trẻ khác, chẳng bao giờ đủ khoan dung để bỏ qua một sự khác biệt, đã ngay lập tức tìm ra những biệt danh cho nó. Chúng đặt cho Zack những biệt danh từ phổ biến như "Lù Đù" cho tới khó hiểu hơn như "Xác Chết", mỗi nhóm lại có một cách đặt tên riêng mà chúng ưa thích.
Và Zack rầu rĩ trải qua những ngày tủi nhục cho tới khi bố nó lại tới thăm.
Khi ở cùng Eph, nó cảm thấy thoải mái. Ngay cả khi yên lặng - đặc biệt là khi yên lặng. Mẹ nó hoàn hảo, quá để ý, quá tử tế - những tiêu chuẩn yên lặng của mẹ, tất cả đều "vì lọi ích của nó", nó đều không thể thích ứng, và nó biết, theo một cách kỳ lạ, rằng ngay từ khi được sinh ra, nó đã khiến mẹ thất vọng. Bởi nó là một thằng con trai - bởi nó quá giống bố.
Khi ở cùng Eph, nó cảm thấy tràn đầy sức sống. Nó sẽ kể cho bố những điều mẹ luôn muốn biết: những điều vượt ra ngoài giới hạn mà mẹ thiết tha muốn hiểu. Không có gì quá nghiêm trọng - chỉ là chuyện riêng tư. Đủ quan trọng để không tiết lộ. Đủ quan trọng để dành riêng cho bố, và Zack đã làm như thế.
Giờ đây, nằm thao thức trên tấm ga trải giường, Zack nghĩ về tương lai. Nó biết chắc giờ đây họ sẽ không bao giờ có thể ở bên nhau như một gia đình nữa. Không thể. Nhưng nó tự hỏi việc này có thể tệ tới mức nào. Nói ngắn gọn thì Zack là thế đấy. Luôn luôn tự hỏi: việc này có thể tệ tới mức nào?
Câu trả lời luôn là tệ hơn rất nhiều.
ít nhất thì, nó hy vọng, giờ đây đám người lớn lo toan đó rốt cuộc cũng sẽ biến khỏi cuộc đòi nó. Các bác sĩ trị liệu, thẩm phán, nhân viên công tác xã hội, bạn trai của mẹ. Tất cả bọn họ đều giữ nó như một con tin để đảm bảo những nhu cầu và mục đích ngu ngốc của riêng họ. Tất cả bọn họ "quan tâm" tới nó, tới hạnh phúc của nó, và chẳng ai trong số họ thực sự làm được gì đó nên hồn.
Ban nhạc My Bloody Valentine đã im tiếng trong iPod, và Zack bỏ tai nghe. Bầu trời bên ngoài vẫn chưa sáng, nhưng cuối cùng nó cũng đã thấy mệt. Giờ nó muốn cảm thấy mệt. Nó muốn ngừng suy nghĩ.
Thế nên nó chuẩn bị đi ngủ. Nhưng ngay khi vừa nằm xuống, nó nghe thấy tiếng bước chân.
Bạch-bạch-bạch. Như tiếng chân trần trên mặt đường nhựa. Zack ngó ra cửa sổ và thấy một người đàn ông. Một người đàn ông khỏa thân.
Ông ta đi bộ dưới phố, làn da tái nhợt, ánh trăng sáng soi tỏ những vết rạn da chằng chịt trên cái bụng lép xẹp. Rõ ràng người đàn ông này từng rất mập - nhưng sau đó đã giảm cân nhiều đêh. nỗi giờ đây da ông ta nhăn nhúm đủ kiểu đủ chỗ, nhiều tới độ không thể nhận ra hình hài chính xác của ông ta nữa.
Ông ta già, nhưng trông như người không có tuổi. Cái đầu hói với mái tóc nhuộm xấu xí cừng những vết dãn tĩnh mạch ở chân cho thấy ông ta khoảng bảy mươi tuổi, nhưng bước chân mạnh mẽ và nhịp nhàng của ông ta khiến ta nghĩ tới một người đàn ông trẻ. Zack nghĩ về mọi điều này, để ý đến mọi điều này, do nó rất giống Eph. Mẹ hẳn sẽ bảo nó rời khỏi cửa sổ và gọi 911, trong khi Eph sẽ chỉ ra mọi chi tiết tạo nên hình dáng người đàn ông kỳ lạ kia.
Sinh vật nhợt nhợt đó đi quanh ngôi nhà đối diện bên phố. Zack nghe thấy một tiếng rên nhỏ, và rồi có tiếng lạch cạch ở chỗ hàng rào phía sân sau. Người đàn ông đó quay lại và tiến về phía cửa trước của người hàng xóm. Zack định gọi cảnh sát, nhưng làm thế sẽ khoi lên hàng đống câu hỏi mẹ dành cho nó: nó phải giấu mẹ chứng mất ngủ, nếu không nó sẽ phải khốn khổ chịu đựng những ngày và những tuần gặp bác sĩ để kiểm tra, chưa nói đến việc để mẹ lo lắng.
Người đàn ông này đi ra giữa phố và dừng bước. Cánh tay mềm oặt của ông ta buông thõng hai bên, ngực xẹp lép - ông ta CÓ đang thở không vậy? - mái tóc phất phơ trong cơn gió nhẹ buổi đêm. Từ ngọn đến tận chân tóc đều phoi ra màu hung đỏ xấu xí được nhuộm bởi thuốc nhuộm "Just for Men".
Ông ta ngước nhìn lên cửa sổ của Zack, và trong một thoáng kỳ quái, họ nhìn thẳng mắt nhau. Tim Zack đập rộn. Đó là lần đầu tiên nó nhìn trực diện người đàn ông này. Suốt từ nãy, nó mới chỉ có thể nhìn thấy phần cơ thể nhìn nghiêng hay cái lưng lùng nhùng da, nhưng giờ đây nó đã thấy cả khuôn ngực của ông ta - và một vết sẹo lớn nhọt màu hình chữ Y vắt ngang ngực.
Và đôi mắt của ông ta - chúng là mô chết, đờ đẫn và mờ đục ngay cả dưới ánh trăng dịu. Nhưng tệ hơn cả, chúng mang một thứ năng lượng điên cuồng, đảo khắp mọi phía, rồi dừng lại ở thằng bé - ngước nhìn nó với một cảm xúc khó lòng xác định.
Zack co người lại, rời khỏi cửa sổ, sợ chết khiếp trước vết sẹo và hai con mắt trống rỗng nhìn nó. Cái biểu cảm đó là gì...?
Nó biết vết sẹo đó, biết ý nghĩa của nó. Sẹo mổ tử thi. Nhưng làm sao có thể?
Nó liều mình ngó qua mép cửa sổ, hết sức thận trọng, nhưng con phố giờ vắng tanh. Nó ngồi hẳn dậy để nhìn rõ hon, và người đàn ông đã biến mất.
Có đúng là ông ta đã từng ở đó? Có lẽ con thiếu ngủ giờ đã thực sự tác động lên nó. Nhìn thấy xác chết đàn ông khỏa thân đi bộ dưới phố ư: không phải điều mà một đứa con của đôi vợ chồng ly hôn muốn chia sẻ với bác sĩ trị liệu.
Và nó chợt nghĩ ra: đói khát. Chính thế. Con mắt chết đó nhìn nó với vẻ đói khát dữ dội...
Zack chui vào chăn và vùi mặt vào gối. Sự biến mất của người đàn ông chẳng khiến nó bớt căng thẳng, mà ngược lại là đằng khác. Người đàn ông đó đã đi khỏi, nhưng giờ đây ông ta có thể ở khắp mọi noi. Ông ta có thể ở dưới tầng, đột nhập vào nhà qua cửa sổ phòng bếp. Chẳng mấy chốc ông ta sẽ ở trên cầu thang, leo lên chậm rì rì - có phải nó đã nghe thấy tiếng hước chân của ông ta? - và rồi tới hành lang bên ngoài cửa phòng nó. Khẽ lạch cạch với ổ khóa - cái ể khóa hỏng chẳng cài nổi chốt. Chẳng mấy chốc ông ta sẽ tiến tới giường Zack và rồi - gì nữa? Nó sợ giọng nói và cái nhìn chòng chọc chết chóc của ông ta. Bởi nó có một niềm tin ghê rợn rằng, mặc dù có thể di chuyển, người đàn ông đó không còn sống nữa.
Xác sống...
Zack trốn dưới gối, cả tâm trí lẫn trái tim đều quay cuồng, sợ hãi, cầu nguyện cho bình minh lên và cứu thoát nó. Dẫu sợ hãi trường học đến mức đó, nó vẫn khẩn cầu cho trời chóng sáng.
Phía bên kia phố, trong ngôi nhà hàng xóm, cửa sổ kính vỡ và ánh đèn ti vi tắt phụt.
Ansel Barbour thì thào một mình trong khi thơ thẩn trên tầng hai của ngôi nhà. Anh vẫn mặc chiếc áo phông và quần đùi thể thao anh đã mặc lúc cố gắng ngủ ban nãy, và mái tóc rối tung chĩa ra đủ hướng kỳ cục do liên tục bị vò bị bứt. Anh không biết chuyện gì đang xảy ra với mình nữa. Ann-Marie ngờ rằng anh đang bị sốt, nhưng khi cồ mang nhiệt kê tói, anh lại chẳng thể chịu nổi ý nghĩ để cho cây que đầu thép đó mắc vào bên dưới cái lưỡi đang nóng bừng của mình. Họ có một cặp nhiệt độ tai, dùng cho bọn trẻ, nhưng anh thậm chí chẳng thể ngồi yên đủ lâu để đo cho chính xác. Lòng bàn tay đầy kinh nghiệm của Ann-Marie đặt lên trán anh để đo nhiệt - rất nóng - nhưng mà, đáng ra anh nên nói trước với cô.
Cô đã chết điếng, anh dám chắc thế. Cô còn chẳng cố che giấu biểu hiện đó. Đối với cô, bất cứ căn bệnh dù thế nào đi nữa cũng đều là một mối nguy hại cho sự bất khả xâm phạm của gia đình họ. Chỉ mỗi việc trẻ con nôn mửa thôi cũng đã đủ khiến cô xây xẩm hãi hùng, chả khác nào khi người khác đón nhận kết quả thử máu xấu hay sự xuất hiện của một khối u không giải thích đưọc. Chính là nó. Sự khỏi đầu của tấn bi kịch kinh khủng mà cô luôn tin chắc một ngày nào đó sẽ ập xuống với mình.
Sự khoan dung của anh dành cho tính lập dị của Ann- Marie giờ đã gần cạn kiệt. Lúc này đây anh đang phải đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng, và anh cần cô giúp đỡ, chứ không phải bồi thêm căng thẳng. Giờ anh chẳng thể là người mạnh mẽ nữa rồi. Anh cần cô gánh vác trách nhiệm.
Thậm chí lũ trẻ cũng đang tránh xa anh, hoảng hốt bởi ánh nhìn không còn thân quen trong mắt cha chúng, hoặc có lẽ - anh lờ mờ nhận ra - do mùi từ căn bệnh của anh, thứ mùi anh ngửi thấy giống với mùi váng dầu ăn để quá lâu trong một lon thiếc gỉ phía dưới bồn rửa. Thỉnh thoảng anh lại thấy bọn trẻ nấp sau lan can ở chân cầu thang, quan sát anh băng qua đầu cầu thang trên tầng hai. Anh muốn xoa dịu nỗi sợ của chúng, nhưng lại sợ anh sẽ mất kiên nhẫn khi cố gắng giải thích cho chúng hiểu, và rồi sẽ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hon. Cách chắc ăn nhất để khiến chúng yên tâm là khỏe mạnh hon. Là vượt qua con chóng mặt và đau đón đang dâng trào này.
Anh dừng bước trong phòng ngủ của cô con gái, cảm thấy bức tường tím quá tím, và rồi quay trở lại hành lang. Anh đứng yên lặng ở đầu cầu thang - yên lặng hết mức - cho tới khi lại có thể nghe thấy nó. Tiếng thình thịch đó. Một tiếng đập - khẽ và rất gần. Tách biệt hoàn toàn với con đau đầu đang nện thùm thụp trong sọ anh. Gần như thể... trong một rạp chiếu phim của thị trấn nhỏ, nơi ta có thể nghe thấy tiếng lách cách của phim chạy qua máy chiếu đằng sau lưng trong những khoảng lặng của bộ phim. Nó khiến ta phân tâm, và kéo ta trở lại thực tế rằng đây không phải đời thực, như thể ta và chỉ một mình ta nhận ra sự thật đó.
Anh lắc mạnh đầu, nhăn mặt lại bởi con đau đi kèm động tác đó... cố gắng sử dụng con đau như một liều thuốc giúp loại bỏ những suy nghĩ trong đầu... nhưng tiếng đập đó. Tiếng thình thịch đó. Nó ở khắp mọi noi, khắp xung quanh anh.
Cả lũ chó nữa. Cư xử một cách lạ thường quanh anh. Pap và Gertie, hai chú chó giống Saint Bernard lớn, vụng về. Gầm gừ y như khi có một con vật lạ tiến vào vườn.
Lát sau Ann-Marie tói, một mình, thấy anh đang ngồi bệt dưới chân giường, hai tay ôm đầu như thể ôm một quả trứng dễ vỡ. "Anh nên ngủ đi," cô nói.
Anh túm chặt tóc như đang ghì cương một con ngựa điên và cố kìm nén thôi thúc mắng chửi cô. Có gì đó không ổn trong cổ họng anh, và mỗi khi anh nằm xuống, bất kể lâu hay mau, nắp thanh quản của anh ngừng hoạt động, chặn cứng đường thở, làm anh bị ngạt cho tới khi anh tự bóp cổ mình, gắng sức thở trở lại. Giờ anh chỉ sợ sẽ chết trong giấc ngủ.
"Em phải làm gì đây?" cô hỏi, vẫn đứng ở ngưỡng cửa, ấn lòng bàn tay và ngón tay lên trán.
"Lấy cho anh ít nước," anh nói. Giọng anh rít lên qua cổ họng đau buốt, bỏng rát như lò hấp. "Âm ấm nhé. Hòa một ít Advil hay Ibuprofen - gì cũng được."
Cô không di chuyển. Cô đứng đó nhìn, lo lắng. "Anh không thấy đỡ hơn một chút nào ư...?"
Sự nhút nhát của cô, thông thường sẽ khoi dậy bản năng che chở mạnh mẽ trong anh, giờ chỉ khiến anh tức điên, "Chết tiệt, Ann-Marie, lấy cho tôi một chút nước, rồi đem lũ trẻ ra ngoài hay làm gì cũng được, miễn là để chúng tránh xa khỏi tôiì"
Cô chạy vọt đi, nước mắt giàn giụa.
Nghe thấy họ đã ra tới ngoài sân sau tối tăm, Ansel đánh liều xuống tầng, một bàn tay ghì chặt tay vịn. Cô đã để lại một cốc nước trên quầy bếp cạnh bồn rửa, đặt trên một chiếc khăn ăn đã gập lại, những viên thuốc đã tan làm đục nước. Anh cầm cốc nước bằng hai tay rồi đưa lên miệng, ép mình phải nuốt. Anh rót nước vào trong cổ họng, không cho cổ họng mình có lựa chọn nào ngoài nuốt xuống. Anh uống được một chút trước khi nôn sạch phần còn lại và ho sặc sụa vào cửa sổ trên bồn rửa nhìn ra sân sau. Anh thở hổn hển, quan sát những giọt nước bắn trên ô cửa kính chảy xuống, làm nhòe hình ảnh Ann-Marie đứng sau lũ trẻ đang ngồi trên xích đu, nhìn lên bầu trời tối đen, hai tay khoanh lại, chỉ đôi lúc đẩy Haily đong đưa nhè nhẹ.
Cái cốc trượt khỏi tay anh, đổ vào bồn rửa. Anh rời bếp để tới phòng khách, rồi ngẩn ngơ ngồi sụp xuống chiếc sofa ở đó. Cổ họng anh nghẹn cứng và anh thấy ốm hơn bao giờ hết.
Anh phải quay trở lại bệnh viện. Ann-Marie sẽ phải tự xoay xở một thời gian. Cô có thể làm được nếu như không còn lựa chọn nào khác. Có lẽ điều này thậm chí còn tốt cho cô...
Anh cố tập trung, xác định những gì cần làm trước khi đi. Gertie tiến vào cửa phòng, thở khẽ. Pap theo ngay sau, dừng lại gần lò sưỏi, rồi nằm rạp xuống. Pap bắt đầu khẽ gầm gừ, rồi tiếng thình thịch lại vang lên trong tai Ansel. Và Ansel nhận ra: âm thanh đó đến từ chúng.
Có thật thế không? Anh xuống khỏi sofa, chống hai tay hai chân bò về phía Pap, tới gần hơn để lắng nghe. Gertie rên rỉ và lùi về tường, nhưng Pap vẫn giữ nguyên tư thế nằm rạp căng thẳng. Tiếng gầm gừ lớn dần trong cổ họng nó, và Ansel tóm lấy vòng cổ của nó ngay khi con chó gắng sức nhổm dậy bỏ đi.
Bụp... Bụp... Bụp...
Nó ở trong chúng. Bằng cách nào đó. Ở đâu đó. Thứ gì đó.
Pap rên rỉ vùng ra, nhưng Ansel, một người đàn ông to lớn hiếm khi phải sử dụng đến co bắp của mình, quặp cánh tay còn lại quanh cổ chú chó Saint Bernard, giữ nó trong tư thế khóa đầu. Anh ép tai mình vào cổ con chó, lông của nó chọc vào phía bên trong tai anh.
Phải rồi. Một tiếng mạch đập. Có phải tiếng máu chảy bên trong con vật này?
Chính âm thanh đó. Con chó kêu ăng ẳng, gắng sức thoát ra, nhung Ansel ép mạnh tai hơn vào cổ con chó, cần tìm hiểu cho ra.
"Ansel?"
Anh quay phắt lại - cử động quá nhanh khiến một con đau tê buốt nhói lên - và nhìn thấy Ann-Marie tại cửa, Benjy và Haily đúng sau cô. Haily đang ôm chân mẹ, còn thằng bé thì đứng một mình, cả hai đứa đều nhìn chằm chằm. Ansel nói lỏng tay kẹp và con chó tránh xa ra.
Ansel vẫn đang quỳ. "Em muốn gì?" anh thét lên.
Ann-Marie chết đứng ở cửa, vẻ kinh hoàng. "Em... Em không... Em định dẫn chúng đi dạo."
"Được thôi," anh nói. Anh hơi mềm lòng trước ánh nhìn chằm chằm của lũ trẻ, một con nghẹn cổ nữa khiến anh khản giọng. "Bố vẫn ổn," anh nói với bọn trẻ, và lấy mu bàn tay lau sạch nước bọt. "Bố sẽ ổn thôi."
Anh quay đầu về phía phòng bếp, lũ chó đang ở đó. Mọi suy nghĩ tốt đẹp mờ nhạt dần khi tiếng đập lại một lần nữa nổi lên. Lớn hơn trước. Đập theo nhịp.
Chúng.
Một nỗi hổ thẹn ghê tởm dâng trào trong anh, và anh rùng mình, tì nắm đấm vào thái dương.
Ann-Marie nói, "Em sẽ đưa lũ chó ra ngoài."
"Không!" Anh bừng tỉnh, giơ lòng bàn tay để mở về phía cô, trong lúc vẫn quỳ trên sàn phòng khách. "Không," anh nói một cách bình tĩnh hơn. Anh cố lấy lại hơi thở, cố gắng tỏ ra bình thường. "Chúng ổn mà. Cứ để chứng trong nhà."
Cô do dự, muốn nói thêm gì đó. Muốn làm gì đó, bất cứ điều gì. Nhưng cuối cùng, cô quay người bước ra, kéo theo Benjy phía sau.

Ansel bám tường để đứng dậy và đi vào phòng tắm tầng một. Anh kéo dây bật đèn gắn trên gương, muốn nhìn rõ mắt mình. Trông như hai quả trứng màu ngà tái sáng rực với những gân đỏ. Anh gạt mồ hôi trên trán và môi trên, rồi mở miệng và cố nhìn xuống họng. Anh tưởng sẽ thấy amiđan bị viêm, hay một dạng phát ban sưng trắng gì đó, nhưng nó chỉ tối đen. Anh nhấc lưỡi, bất chấp đau đớn, và nhìn xuống. Lóp đệm phía dưới đỏ và lở loét, viêm tấy, nóng đỏ như một cục than hồng. Anh chạm vào nó và cơn đau buốt như cắt não chạy qua cả hai bên hàm, siết chặt những dây thần kinh cổ. Cổ họng anh co thắt phản ứng lại, gây nên một cơn ho dữ dội, anh khạc lên gương những đốm sẫm màu. Máu, trộn với thứ gì đó trắng, có lẽ là dòm. Một vài vệt có màu gần với màu đen hơn những vệt khác, như thể anh đã mửa ra thứ cặn bã, thối rữa nào đó từ cơ thể mình. Anh với đầu ngón tay giữa quết một trong những đốm màu đen đó đưa lên mũi ngửi, rồi chà nó vào đầu ngón cái. Nó giống như một cục máu phai màu. Anh đưa nó vào đầu lưỡi, và nếm, trước khi kịp nhận ra việc mình vừa làm. Anh nhấm nháp cái cục nhỏ và mềm đó trong miệng, và rồi, sau khi nó đã tan, anh quệt tiếp một đốm nữa từ gương, và lại nếm. Không rõ vị mấy, nhưng lưỡi anh có cảm giác gì đó gần như sự phục hồi.
Anh nhoài người về phía trước, liếm những vệt máu khỏi mặt gương mát lạnh. Lưỡi anh đáng ra phải thấy đau khi làm vậy, nhưng, ngược lại, con đau buốt trong miệng và họng đã dịu đi. Ngay cả phần nhạy cảm nhất bên dưới lưỡi anh cũng đã đỡ đau hẳn, chỉ còn ngứa ngáy. Tiếng đập cũng đã nhỏ dần, mặc dù chẳng thể nào biến mất hẳn. Anh nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trên chiếc gương nhuốm đỏ và cố hiểu ra vấn đề.
Con dễ chịu này ngắn tới phát điên. Cảm giác nghẹt thở như thể cổ họng bị siết chặt bởi một bàn tay khỏe mạnh một lần nữa trở lại, và anh rời mắt khỏi gương, lảo đảo đi ra hành lang.
Gertie rên rỉ và sợ hãi lùi bước trên hành lang, tránh xa anh, rồi phi vào phòng khách. Pap đang cào cửa sau, muốn thoát ra ngoài. Khỉ thấy Ansel bước vào bếp, nó lủi đi mất. Ansel đứng đó, cổ họng rần rật, rồi anh với tay vào ngăn tủ đựng đồ của chó, lấy ra một hộp đồ ăn Milk-Bone. Anh kẹp một miếng vào giữa nhũng ngón tay, như thường lệ, rồi đi vào phòng khách.
Gertie đang nằm dưới chân cầu thang gỗ, thu chân trong tư thế sẵn sàng vọt chạy. Ansel ngồi xuống cái ghế để chân và dứ dứ món ăn. "Lại đây nào, bé," anh nói, bằng giọng thì thào vô cảm đến tan nát con tim.
Cái mũi nhám của Gertie phình ra, đánh hơi trong không khí.
Bụp... bụp...
"Lại đây nào, cô bé. Lây thức ăn của mày đi."
Nó chậm chạp dựng cả bốn chân dậy. Nó tiến lên một bước nhỏ, rồi lại dừng và đánh hoi. Bằng bản năng của mình, nó biết có gì đó không ổn với món hòi này.
Nhưng Ansel vẫn giữ yên miếng bánh quy, khiến nó có vẻ an tâm. Nó bước chậm chạp trên tấm thảm, đầu cúi thấp, mắt cảnh giác. Ansel gật đầu động viên, tiếng đập lớn dần trong đầu anh khi con chó tiến gần.
Anh nói, "Lại đây nào, Gertie, cô bé thân yêu."
Gertie đi tới và thè cái lưỡi dày liếm nhanh cái bánh quy, quẹt lưỡi qua ngón tay anh. Nó làm thế lần nữa, muốn tin tưởng anh, muốn được ăn. Ansel giơ bàn tay còn lại ra đặt lên đầu nó, vuốt ve nó theo cách nó thích. Nước mắt anh trào ra khi anh làm vậy. Gertie cúi mình về phía trước để hàm răng ghé sát lại cái bánh, để đóp lấy nó từ tay anh, và chính lúc đó Ansel him vòng cổ của nó và đè cả người lên nó.
Con chó vùng vẫy bên dưới, gầm gừ cố cắn anh, con hoảng loạn của nó đã làm lộ ra một điểm yếu cho con thịnh nộ của anh. Anh lấy tay ép ngược hàm dưới của nó, rồi nâng đầu nó, khóa mồm nó một cách hiệu quả, sau đó kề miệng vào cái cổ đầy lông của nó.
Anh bập răng vào. Anh cắn ngập qua lóp lông mềm mại, hơi tron của nó, mở ra một vết thương. Con chó tru lên trong khi anh nếm lông của nó, lóp thịt dày mềm mại của nó nhanh chóng biến mất dưới dòng máu nóng ứa ra. Con đau từ vết cắn khiến Gertie, đang nằm bên dưới anh, trở nên điên tiết, nhưng Ansel vẫn siết chặt tay, thậm chí giữ đầu con chó ngẩng lên cao hon, để cổ nó lộ ra hoàn toàn.
Anh đang uống máu con chó. Bằng cách nào đó, uống mà không hề nuốt. Hấp thụ. Như thể có một dạng cơ chế mới đang hoạt động trong họng mà anh không hề hay biết. Anh không tài nào hiểu nổi; anh chỉ có thể hiểu sự thỏa mãn mà anh đang cảm thấy. Hành động đó mang lại một cảm giác dễ chịu do cơn đau được xoa dịu. Và năng lượng. Phải rồi - năng lượng. Theo đúng kiểu rút sự sống từ sinh vật này sang sinh vật khác.
Pap tiến vào phòng, nó tru lên. Một âm thanh trầm tang thương như tiếng kèn fagot, và Ansel phải khiến con chó giống Samt Bernard với đôi mắt buồn rười rượi này thôi làm hàng xóm sợ hãi. Trong khi Gertie đang co giật một cách yếu ớt bên dưới, anh chồm dậy, và bằng tốc độ và sức mạnh vừa được phục hồi, anh rượt theo Pap ngang qua căn phòng, xô đổ một cây đèn trong khi anh nhào tới và ôm chặt con chó lớn, vựng về trong sảnh.
Việc uống máu con chó thứ hai này đem lại cho anh một niềm khoái cảm không thể nào tả nổi. Nó đang đạt đến đỉnh điểm trong anh, như lúc áp suất trong một ống truyền dịch đạt đến mức mong muốn. Chất lỏng dễ dàng được rút ra, lấp đầy trong anh.
Ansel ngồi dậy khi đã xong xuôi, chết lặng trong một thoáng, sửng sốt, mãi mới có thể trở lại với thực tại trong căn phòng. Anh nhìn xuống con chó chết trên sàn, dưới chân anh, và đột nhiên bừng tỉnh, và ớn lạnh. Cảm giác hối hận lập tức dâng trào.
Anh đứng dậy nhìn Gertie, rồi nhìn xuống ngực mình, bấu lấy chiếc áo phông ướt nhẹp máu chó.
Chuyện gì đang xảy ra với mình thế này?
Vết máu trên chiếc thảm ca rô tạo thành một vệt đen bẩn thỉu. Nhưng không nhiều lắm. Và chính lúc đó, anh nhớ ra mình đã uống nó.
Ansel tiến tới bên Gertie trước, sờ lông nó, biết rằng nó đã chết - biết rằng anh đã giết nó - và rồi, gạt nỗi ghê tỏm sang một bên, anh quấn nó bên trong tấm thảm hỏng. Rên lên một tiếng, anh nâng cả bó đó lên cánh tay bê qua bếp, ra bên ngoài và đi xuống thềm tới chuồng chó ở sân sau. Vào bên trong, anh quỳ xuống, lăn tấm thảm cho con chó giống Saint Bernard nặng trịch roi ra, rồi để Gertie ở đó mà quay trở lại với Pap.
Anh đặt chúng bên cạnh nhau sát vách chuồng, bên dưới bảng treo dụng cụ. Nỗi ghê tởm của anh trở nên xa xăm, lạ lẫm. Cổ anh còn cứng nhưng không đau, họng anh đột ngột nguội lại, đầu óc tỉnh táo. Anh nhìn vào đôi bàn tay nhuốm máu của mình và buộc phải chấp nhận điều anh chẳng thể hiểu nổi.
Chuyện anh đã làm khiến anh khỏe hon.
Anh quay trở vào trong nhà, tới phòng tắm tầng trên. Anh cỏi áo và quần đùi dính máu, thay sang bộ đồ thể thao cũ, biết rằng Ann-Marie và lũ trẻ có thể trở về bất cứ lúc nào. Trong khi đang tìm kiếm đôi giày mềm trong phòng ngủ, anh cảm thấy tiếng đập quay trở lại. Anh không nghe thấy nó: anh cảm thấy nó. Và ý nghĩa của nó khiến anh kinh hãi.
Những tiếng nói tại cửa trước.
Gia đình anh đã về nhà.
Anh xuống lại tầng dưới và ra khỏi cửa sau, vừa kịp để không bị nhìn thấy, đôi chân trần giẫm lên mặt cỏ sân sau, cố trốn chạy khỏi cảm giác rộn ràng đang tràn ngập trong đầu.
Anh hướng về lối xe vào, nhưng rồi nghe thấy những giọng nói trên con phố tối. Anh đã để cửa chuồng mở, và vì thế, trong nỗi tuyệt vọng, anh núp vào bên trong chuồng chó để trốn, đóng cả hai cửa phía sau lưng. Anh chẳng biết làm gì khác.
Gertie và Pap nằm chết sát tường. Tiêhg khóc suýt chút nữa bật khỏi môi Ansel.
Mình đã làm gì thế này?
Mùa đông New York đã khiến những cánh cửa chuồng bị vênh, bởi vậy chúng không còn đóng khít hoàn toàn nữa. Anh vẫn có thể, qua khe cửa, lén nhìn Benjy đang lấy một cốc nước từ bồn rửa phòng bếp, đầu thằng bé ở chỗ khung cửa sổ, bàn tay nhỏ bé của Hailey đang với lên.
Chuyện gì đang xảy ra với mình thế này?
Anh giống như một con chó lên con. Một con chó dại.
Mình đã mắc phải một dạng bệnh dại.
Giờ là những giọng nói. Bọn trẻ đang bước xuống các bậc thềm ở sân sau, được chiếu sáng bởi ánh đèn cảm biến trên trần, vừa đi vừa gọi lũ chó. Ansel quáng quàng nhìn quanh và chộp lấy một cái cào ở góc chuồng, xỏ nó vào các tay nắm cửa một cách nhanh chóng và nhẹ nhàng hết mức. Khóa lũ trẻ bên ngoài. Khóa chính anh bên trong.
"Ger-tie! Pa-ap!"
Giọng chúng không thật sự lo lắng, vẫn chưa. Lũ chó từng đi lạc vài lần mấy tháng trước, bởi vậy Ansel đã phải chôn một cọc thép xuống nền chuồng, để chúng có thể được xích lại an toàn vào ban đêm.
Tiếng gọi của lũ trẻ nhỏ dần đi trong tai anh, nó bị lấn át bởi tiếng đập trong đầu: nhịp đập ổn định của dòng máu tuần hoàn trong tĩnh mạch tươi trẻ của chúng. Những quả tim nhỏ bé đang đập mạnh và khỏe khoắn.
Chúa cả.
Haily tới sát cửa. Ansel thấy đôi giày mềm màu hồng của con bé qua khe cửa dưới và co rúm người lại. Nó thử mở cửa. Cửa kêu cọt kẹt nhưng không mở ra.
Con bé gọi anh trai. Benjy tới và lắc cánh cửa bằng tất cả sức mạnh của một cậu bé tám tuổi. Bốn bức tường lung lay, nhung cái cào chốt cửa vẫn giữ chắc.
Bùm bụp... bùm bụp... bùm...
Máu của chúng. Đang mời gọi anh. Ansel rùng mình và hướng hết sự tập trung vào cọc xích chó phía trước. Nó được chôn sâu gần hai mét, bọc trong một khối bê tông vững chãi. Đủ khỏe để giữ hai con chó giống Saint Bernard trong con dông ngày hè. Ansel nhìn lên giá tường và thấy một chiếc vòng cổ có xích nữa vẫn còn dán nhãn giá. Anh nhớ mình còn có một cái móc cũ ở đâu đó trong đây.
Anh đợi cho tới khi lũ trẻ đã cách một khoảng đủ an toàn rồi mới với tay kéo chiếc vòng cổ bằng thép xuống.
Cơ trưởng Redfern, trong trang phục bệnh nhân, được đặt nằm trên cáng bên trong tấm rèm nhựa trong suốt, môi anh ta mở ra trông gần như nhăn nhó, hơi thở sâu nặng nhọc. Do Redfern ngày càng trở nên khó chịu khi đêm xuống, anh ta được cho đủ liều thuốc mê để thiếp đi trong vài giờ. Họ cần anh ta nằm yên để chụp hình. Eph hạ độ sáng đèn trong phòng và bật cái đèn Luma của anh, một lần nữa rọi vào vệt sáng tím trên cổ Redfern, muốn nhìn lại vết sẹo lần nữa. Nhưng giờ đây, khi các ánh đèn khác chỉ sáng lờ mờ, anh thấy một thứ khác. Một chuyển động gọn sóng kỳ lạ chạy dọc lóp da Redfern - hay, đúng hơn là bên dưới da anh ta. Như bệnh khảm, hay vảy nến, ung nhọt xuất hiện ngay dưới da thịt, có màu đen và xám.
Khi anh đưa đèn Luma tới gần để xem xét kỹ hon, vết mờ dưới da phản ling lại. Nó cuộn lại và ngọ nguậy, như thể cố gắng thoát khỏi ánh sáng.
Eph lùi lại, chiếu đèn ra chỗ khác. Khi ánh sáng tử ngoại rời khỏi da Redfern, người đàn ông đang ngủ này trông có vẻ bình thường.
Eph lại rọi đèn, lần này ánh đèn tử ngoại chiếu trên mặt Redfern. Hình ảnh hiện lên dưới ánh sáng, phần dưới da vằn vện, trông giống như mặt nạ. Như thể có con người thứ hai ẩn náu bên dưới khuôn mặt của viên phi công, lão hóa và dị dạng. Một bộ mặt hung dữ, một cái ác đã thức dậy bên trong khi người đàn ông bị ốm đang ngủ. Eph đưa đèn tới gần hơn... và bóng đen bên trong lại gạn sóng, gần như làm thành vẻ mặt nhăn nhó, cố gắng trốn đi.
Redfern mở mắt. Dường như tỉnh giấc bởi ánh sáng. Eph giật mình lùi lại, bất ngờ trước cảnh tượng đó. Lượng thuốc gây mê trong người viên phi công này phải đủ cho hai người. Anh ta đã được gây mê quá sâu để có thể tỉnh lại.
Mắt Redfern mở to, nhìn chòng chọc. Anh ta nhìn thẳng lên trần nhà, có vẻ sợ hãi. Eph hướng đèn đi chỗ khác và tiến vào tầm nhìn của anh ta.
"Cơ trưởng Redfern?"
Môi viên phi công mấp máy. Eph cúi gần hon, muốn nghe rõ điều Redfern đang cố nói.
Anh ta khó nhọc mấp máy đôi môi, "Hắn đang ở đây." "Ai đang ở đây, cơ trưởng Redfern?"
Mắt Redfern nhìn trừng trừng, như thể phải chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng đang diễn ra trước mắt.
Anh ta nói, "Ông Đỉa."
Hồi lâu sau, Nora quay trở lại, bắt gặp Eph đang đi ra hành lang từ phòng chụp X-quang. Họ đứng nói chuyện trước một bức tường đầy những tranh chì màu của các bệnh nhân nhỏ tuổi thể hiện lòng biết ơn. Anh kể cho cô nghe về những gì mình đã thấy bên dưới da Redfern.
Nora nói, "Ánh sáng tử ngoại từ đèn Luma của chúng ta - chẳng phải đó là ánh sáng cực tím quang phổ thấp sao?"
Eph gật đầu. Anh cũng đang nghĩ về ông lão bên ngoài nhà xác.
"Em muốn xem," Nora nói.
"Redfern giờ đang ở trong phòng chụp X-quang," Eph bảo cô. "Ta cần gây mê anh ta sâu hơn nữa để chụp cộng hưởng từ."
"Em đã có kết quả từ máy bay," Nora nói, "thứ chất lỏng bắn quanh đó ấy. Hóa ra anh đã đúng. Có amoniac và phốt pho..."
"Anh biết mà..."
"Nhưng còn có cả oxalic, sắt và axít ùric. Huyết tương."
"Cái gì?"
"Huyết tương nguyên chất. Và rất nhiều enzim."
Eph đỡ trán như thể đang tự đo thân nhiệt. "Giống trong quy trình tiêu hóa ư?"
"Giờ nó có gọi anh nghĩ đến thứ gì không?"
"Chất thải. Chim, doi. Giống như phân chim, doi. Nhưng làm sao..."
Nora lắc đầu, cảm thấy vừa phấn khích vừa hoang mang. "Ai đó, hay thứ gì đó trên cái máy bay... đã thải ra một bãi lớn trong khoang."
Trong khi Eph đang cố vắt óc suy nghĩ về điều đó, một người đàn ông trong trang phục nhân viên bệnh viện hối hả chạy xuống hành lang, gọi tên anh. Eph nhận ra anh ta, nhân viên kỹ thuật trong phòng chụp MRI.
"Bác sĩ Goodweather... tôi không biết có chuyện gì nữa. Tôi chỉ vừa mới ra ngoài lấy ít cà phê. Tôi đi khỏi chưa tới năm phút."
"Ý anh là sao? Chuyện gì vậy?"
"Bệnh nhân của anh. Anh ta đã biến mất khỏi phòng chụp."
Jim Kent đang ở tầng dưới, gần cửa hàng quà tặng đã đóng cửa, tách biệt khỏi những người khác, nói vào điện thoại. "Giờ họ đang chụp chiếu cho anh ta," anh ta nói với người ở đầu dây bên kia. "lình hình anh ta có vẻ tệ đi khá nhanh, thưa ông. Vâng, họ sẽ có ảnh chụp scan sau vài giờ nữa thôi. Không... không có tin gì về những người sống sót khác. Tôi nghĩ ông muốn biết. Vâng, thưa ông, tôi đang ở một mình..."
Anh ta bị phân tâm khi nhìn thấy một người đàn ông dáng cao tóc đỏ mặc bộ đồ bệnh nhân, đang đi loạng choạng xuôi hành lang, kéo lê theo những ống truyền dịch đang cắm trên tay. Nếu Jim không nhầm, đó là cơ trưởng Redfern.
"Thưa ông, tôi... có chuyện gì đó đang xảy ra... tôi sẽ gọi lại cho ông sau."
Anh ta dập máy và gỡ tai nghe khỏi tai, tống nó vào túi áo khoác rồi đuổi theo người đàn ông đang cách vài chục mét. Bệnh nhân này hơi chậm lại một thoáng, quay đầu lại như thể đã nhận thấy kẻ bám đuôi.
"Cơ trưởng Redfern?" Jim nói.
Bệnh nhân này tiếp tục rẽ qua một khúc quanh, và Jim đuổi theo, nhưng rồi khi tới đúng khúc quanh đó, anh ta phát hiện ra hành lang vắng tanh.
Jim kiểm tra các biển gắn cửa. Anh ta thử mở cánh cửa có tấm biển ghi THANG BỘ và ngó xuống khe cầu thang hẹp tại khu vực trung gian giữa các tầng. Anh ta nhìn thấy một ống truyền dịch đang chuyển động xuống các bậc.
"Cơ trưởng Redfern?" Jim gọi, giọng vang vọng qua các tầng cầu thang. Anh ta lớng ngóng vừa xuống tầng vừa rút điện thoại, muốn gọi Eph. Màn hình hiển thị MÂT SÓNG, bởi lúc này anh ta đang ở dưới tầng hầm. Anh ta đẩy cánh cửa thông vào sảnh tầng hầm và, bị chiếc điện thoại làm sao nhãng, chẳng hề nhìn thấy Redfern đang lao tới từ bên hông.
Trong lúc đang tìm kiếm khắp bệnh viện, Nora đi qua cánh cửa dẫn từ cầu thang vào sảnh tầng hầm và thấy Jim đang ngồi dựa tường, chân giạng ra. Mặt anh ta có vẻ buồn ngủ.
Cơ trưởng Redfern đang đứng chân trần ngay bên anh ta, tấm lưng trần trong trang phục bệnh nhân quay về phía cô. Thứ gì đó lủng lẳng trên miệng anh ta, nhỏ máu xuống sàn.
"Jim!" cô thét lên, nhưng Jim chẳng có bất cứ phản ứng nào trước giọng nói của cô. Tuy nhiên, cơ trưởng Redfern thì cứng người lại. Khi anh ta quay về phía cô, Nora không nhìn thấy gì trong miệng anh ta. Cô bị sốc bởi màu da anh ta, trước đó khá tái, giờ lại đỏ hồng và căng tràn sức sống. Mặt trước của bộ đồ bệnh nhân nhuốm máu, máu cũng dính cả quanh môi anh ta. Thoạt đầu, cô nghĩ anh ta đã bị lên cơn động kinh. Cô sợ anh ta đã tự cắn phải lưỡi và đang nuốt máu.
Tới gần hon, phán đoán của cô trở nên thiếu chắc chắn hon. Đồng tử của Redfern đen kịt, củng mạc đỏ, trong khi đáng ra phải có màu trắng. Mồm anh ta há ra một cách lạ thường, lỏng lẻo, như thể hàm anh ta vừa được hạ xuống thấp hon. Và anh ta toát ra hơi nóng vô cùng, nóng hơn bất kỳ con sốt tự nhiên thông thường nào.
"Cơ trưởng Redfern," cô nói, liên tục gọi anh ta, cố gắng kéo anh ta thoát khỏi con chấn động. Anh ta tiến về phía cô với vẻ thèm khát trong đôi mắt mờ đục. Jim vẫn ngồi sụp trên sàn, không cử động. Redfern tỏ ra vô cùng hung bạo, và Nora ước gì mình có một thứ vũ khí. Cô nhìn quanh, chỉ thấy một chiếc điện thoại bệnh viện, mã báo động 555.
Cô chộp lấy ống nghe trên tường, chỉ vừa kịp cầm lấy nó trên tay thì Redfern tấn công, ném cô xuống sàn. Nora vẫn giữ ống nghe, dây điện thoại bị kéo tuột khỏi tường. Redfern mạnh đến điên cuồng, anh ta đè lên cô và ghì chặt cánh tay cô xuống mặt sàn bóng loáng. Mặt anh ta căng ra và cổ họng giật giật. Cô nghĩ anh ta sắp nôn vào người cô.
Nora đang la hét thì Eph lao tới từ cửa cầu thang, nhào người vào nửa thân trên của Redfern, khiến anh ta ngã nhoài, tách khỏi Nora. Eph đứng thẳng dậy và giơ một tay cảnh cáo về phía bệnh nhân của mình, lúc này đang lết dậy khỏi sàn. "Đợi đã..."
Redfern phát ra một tiếng rít. Không giống tiếng rắn, mà là tiếng khàn từ cổ họng. Đôi mắt đen vô cảm và trống rỗng khi anh ta hé miệng mỉm cười. Hay có vẻ mỉm cười, dùng chính những cơ mặt đó - chỉ có điều, khi mồm anh ta mở ra, nó cứ mở mãi.
Hàm dưới anh ta xệ xuống và một thứ thịt hồng gì đó, nhưng không phải lưỡi, ngọ nguậy thò ra. Nó dài hon, khỏe hon, phức tạp hon... và uốn éo. Như thể anh ta đã nuốt phải một con mực sống, và một trong những xúc tu của nó vẫn đang qườ quạng một cách vô vọng trong miệng anh ta.
Eph bật lùi lại. Anh chộp lấy giá treo túi truyền dịch để khỏi ngã, và rồi lộn ngược nó lại, sử dựng nó như một cây gậy để giữ không cho Redfern cùng thứ trong miệng anh ta lại gần. Redfern vồ lấy cái giá thép và thứ trong miệng anh ta phóng ra. Nó vươn dài hơn cả cái giá hai mét treo túi truyền dịch, Eph xoay người tránh vừa kịp lúc. Anh nghe thấy tiếng đập vào tường của phần đầu cái thứ đó - hẹp và trông như một cái ngòi chích bằng thịt. Redfern vung cái giá sang một bên, đập nó vỡ thành hai khúc, và Eph cùng nó ngã ngửa vào một căn phòng.
Redfern theo sau tiến vào, đôi mắt đen-đỏ vẫn toát lên vẻ đói khát. Eph điên cuồng tìm kiếm xung quanh bất cứ thứ gì có thể giúp anh giữ tên kia tránh xa khỏi mình, nhưng chỉ thấy một cái khoan trephine đang cắm trong ổ sạc trên kệ tủ. Khoan trephine là dụng cụ phẫu thuật có một lưỡi dao hình trụ xoay tròn thường được dùng để cắt mở hộp sọ trong khám nghiệm tử thi. Lưỡi dao vù vù khỏi động, và Redfern tiến tói, ngòi chích của anh ta rụt lại gần hết nhưng vẫn còn thè ra, những hạch thịt nổi lên ở hai bên. Trước khi Redfern có thể tấn công lần nữa, Eph cố gắng cắt đứt thứ đó.
Anh trượt, nhưng dù sao cũng phạt được một nhát vào cổ người phi công. Máu trắng phụt ra, giống thứ anh đã thấy ở nhà xác, không bắn tóe ra mà chảy xuống phía trước. Eph hạ cưa xuống trước khi lưỡi dao quay vù vù có thể làm bắn thứ đó vào anh. Redfern túm cổ anh, và Eph nhặt vật nặng gần nhất anh có thể tìm thấy, một bình cứu hỏa. Anh dùng đáy bình đập liên hồi vào mặt Redfern - nhắm chủ yếu vào cái đầu chích gớm guốc của anh ta. Eph đập hai phát nữa, đầu Redfern bật ngửa ra sau cú nện cuối cùng, cột sống kêu rắc một tiếng.
Redfern đổ nhào, cơ thể bất động. Eph thả bình cứu hỏa và loạng choạng lùi ra sau, khiếp sợ nhìn việc mình đã làm.
Nora xông tói, cầm sẵn một khúc gãy của giá treo túi truyền dịch làm vũ khí, và rồi thấy Redfern đã nằm một đống. Cô vứt gậy nhào tới Eph, và anh ôm cô trong vòng tay.
"Em ổn chứ?" anh hỏi.
Cô gật đầu, đưa tay lên bịt miệng. Cô chỉ vào Redfern, và Eph nhìn xuống, thấy những con giun đang trườn ra từ cổ anh ta. Những con giun đỏ, như thể đầy ặc máu, tràn ra khỏi cổ Redfern như lũ gián bò khỏi căn phòng khi đèn bật sáng. Eph và Nora quay trở ra cánh cửa đang mở.
"Chuyện quái gì vừa xảy ra vậy?" Eph nói.
Nora bỏ tay ra khỏi miệng. "Ông Đỉa," cô nói.
Họ nghe thấy một tiếng rên từ hành lang - Jim - và lao ra xem tình hình anh ta.
PHỤ LỤC III
Bạo loạn, 1943
CẢ THÁNG TÁM NÓNG NHƯ Đổ LỬA VÀ ABRAHAM Setrakian, đang đặt các thanh xà để làm mái treo, cảm thấy sức nặng của nó rõ hơn ai hết. Mặt trời thiêu đốt anh, ngày nào cũng như ngày nào. Dù vậy, anh còn kinh sợ buổi đêm hơn - sợ chiếc giường tầng và những giấc mơ về quê nhà, thứ từng là cách duy nhất giúp anh vực dậy tinh thần trước sự ghê rạn trong trại hành quyết - và giờ đây anh trở thành con tin của hai kẻ tàn ác như nhau.
Sinh vật Bóng tối, Sardu, giờ viếng thăm trại của Setrakian theo một lịch trình đều đặn hai lần mỗi tuần, và có lẽ với các trại khác cũng thế. Nhiều cái chết xảy ra mà cả lính gác lẫn tù nhân đều không hề hay biết. Lính gác người Ukraine thường gạch tên những người chết coi đó là do tự sát, còn đối với ss, đó chỉ là một thay đổi trong sổ sách.
Suốt nhiều tháng sau ngày Sardu đến trại lần đầu, Setrakian - bị ám ảnh bởi mong muốn đánh bại con quỷ đó - đã tận dụng mọi cơ hội có thể để tìm hiểu từ những tù nhân người địa phương về một hầm mộ La Mã cổ nằm ở đâu đó trong rừng sâu. Giờ thì anh tin chắc đó chính là hang ổ của Sinh vật kia, là nơi nó xuất phát hằng đêm để đi giải tỏa con khát vô đạo của mình.
Chính vào hôm đó, Setrakian đã thực sự hiểu thế nào là một cơn khát đúng nghĩa. Các bình nước liên tục được các tù nhân chuyền tay nhau, dù vậy nhiều người vẫn trở thành nạn nhân của con sốc nhiệt. Ngày hôm đó cái hố cháy được no nê xác chết. Setrakian đã xoay xở thu thập đủ những thứ cần thiết: một cây gậy dài thô bằng gỗ sồi trắng, một mẩu bạc để làm đầu bịt. Đó là phương cách cổ xưa để trừ khử bọn Strigoi, ma cà rồng. Anh đã dành nhiều ngày vót nhọn đầu gậy trước khi gắn bạc lên. Nguyên việc lén đem nó vào trại cũng đã chiếm tới quá nửa thời gian của hai tuần lên kê hoạch. Anh giấu nố trong một khoảng trống ngay dưới giường của mình. Nếu lính gác mà phát hiện ra nó, anh sẽ bị hành hình ngay tại chỗ, bởi hiển nhiên một vật bằng gỗ cứng có hình dạng như vậy chính là vũ khí.
Đêm hôm trước, Sardu đã tới trại muộn, muộn hơn thường lệ. Setrakian nằm im, kiên nhẫn chờ cho tới lúc nó bắt đầu đánh chén một nạn nhân Romania yếu ớt. Anh thấy kinh sợ và hối hận, thầm cầu xin được tha thứ - nhưng đó là phần cần thiết cho kế hoạch của anh, vì cái sinh vật đã lung lửng bụng sẽ ít cảnh giác hon.
Ánh sáng xanh nhạt lúc sắp bình minh chiếu qua các ô cửa sổ nhỏ có lắp mắt lưới ở đầu phía Đông của trại. Đó chính là thời điểm Setrakian chờ đợi. Anh chích ngón tay trỏ của mình, làm một giọt máu đỏ thẫm nhỏ ra từ lóp da khô. Ây thế nhưng anh vẫn hoàn toàn bất ngờ trước những gì xảy ra tiếp theo.
Anh chưa lần nào nghe thấy Sinh vật đó phát ra âm thanh. Nó tiến hành bữa tiệc vô đạo của mình trong sự im lặng tuyệt đối. Nhưng bây giờ, trước mùi máu trẻ trung của Setrakian, nó rên lên. Âm thanh gọi Setrakian nhớ đến tiếng ken két của gỗ khô bị vặn xoắn, hoặc tiếng róc rách của nước chảy vào một ống xả bị tắc.
Chỉ trong tích tắc, Sinh vật đó đã tới bên Setrakian.
Trong khi chàng trai thận trọng rút tay lại để với lấy chiếc cọc, cả hai nhìn thẳng vào mắt nhau. Setrakian không thể rời mắt khỏi nó trong khi nó tiến tới gần giường anh.
Sinh vật đó mỉm cười với anh.
"Lâu lắm rồi chúng ta không nhìn vào mắt người sống trong lúc ăn," Sinh vật đó nói. "Lâu lắm rồi..."
Hoi thở của nó có mùi của đất và xác chết, còn lưỡi nó lách cách trong miệng. Giọng trầm đục của nó nghe như tập họp của rất nhiều giọng nói, tuôn ra như được làm tron bằng máu người.
"Sardu..." Setrakian thì thầm, không thể giữ riêng cái tên đó cho mình.
Đôi mắt tròn nhỏ rực cháy của Sinh vật đó mở to ra, và trong thoáng chốc, chứng trông gần giống như mắt người.
"Đâu phải chỉ một mình ông ta trong cơ thể này," nó rít lên. "Sao ngươi dám gọi tên ông ta?"
Setrakian nắm chặt cây cọc sau giường, từ từ kéo nó ra...
"Một người đàn ông có quyền được gọi bằng chính tên của mình trước khi về với Chúa," Setrakian nói, với sự ngay thẳng của tuổi trẻ.
Sinh vật đó cười khùng khục thích thú. "Vậy thì, chàng trai trẻ, ngươi có thể nói với ta tên của ngươi..."
Đúng lúc đó Setrakian hành động, nhưng cái đầu gậy bọc bạc gây ra một tiếng soạt nhỏ, làm lộ sự hiện diện của nó một tích tắc trước khi nó kịp lao vào tim của Sinh vật kia.
Nhưng một tích tắc thôi đã đủ. Sinh vật đó xòe móng vuốt chặn đứng vũ khí của anh khi nó cách ngực Sinh vật kia chưa đầy ba phân.
Setrakian cố thoát ra, chống trả bằng cánh tay còn lại, nhưng Sinh vật đó cũng chặn nốt cánh tay ấy. Ngòi đốt của nó cứa vào một bên cổ Setrakian - một vết cắt dài và sâu, được thực hiện nhanh như chóp, đủ để tiêm vào người anh chất gây tê liệt.
Lúc này nó giơ cả hai tay túm chặt chàng trai. Nó nhấc anh lên khỏi giường.
"Nhưng ngươi sẽ không về với Chúa," Sinh vật đó nói. "Bởi ta quen biết hắn, và ta biết hắn hết thời rồi..."
Setrakian sắp ngất đi do hai bàn tay bị những móng vuốt của nó siết chặt với sức mạnh của một chiếc kẹp ê tô. Hai bàn tay đã giúp anh sống sót lâu đến thế trong cái trại này. Não anh muốn vỡ tung vì đau, miệng há hốc, thở hổn hển cố hấp thụ không khí vào phổi, nhưng anh quyết không kêu một tiếng.
Sinh vật kia nhìn sâu vào mắt Setrakian, nhìn thấu tâm hồn anh.
"Abraham Setrakian," nó rên lên vì khoái trá. "Một cái tên mới mềm mại, ngọt ngào làm sao, cho một chàng trai tràn trề sức sống..." Nó gí sát mặt lại gần. "Mà tại sao lại muốn tiêu diệt ta, nhóc? Sao ta lại đáng nhận sự phẫn nộ của ngươi, trong khi ngươi còn thấy nhiều cái chết hơn thế những khi ta vắng mặt. Ở đây ta không phải quái vật. Chính là Chúa. Chúa của ngươi và của ta, người Cha lơ đãng, kẻ đã bỏ roi chúng ta từ cách đây rất lâu... Trong mắt người, ta nhìn thấy thứ mà người sợ hơn cả, anh bạn trẻ Abraham, và đó không phải ta... Đó là cái hố. Vậy thì nguoi sẽ thấy chuyện gì xảy ra khi ta cho nó tiêu hóa người, và Chúa chả làm gì để ngăn chặn chuyện đó."
Và rồi, với một tiếng rắc tàn bạo, Sinh vật đó bóp vỡ xương hai bàn tay của chàng Abraham trẻ tuổi.
Chàng trai đổ vật xuống sàn, cuộn người đau đớn, nhũng ngón tay bị nghiền nát thu vào trước ngục. Anh ngã vào trong một vùng ánh nắng nhợt nhạt.
Bình minh.
Sinh vật nọ rít lên, định xấn lại gần anh lần nữa.
Nhung tù nhân trong trại bắt đầu lục tục thức dậy, và trong khi Abraham trẻ tuổi ngất đi, Sinh vật đó biến mất.
Trước khi điểm danh, Abraham được phát hiện bị thuong và chảy máu. Anh được chuyển đến trạm xá nơi các tù nhân bị thuong một đi không trở lại. Một thợ mộc với đôi tay hỏng thì chẳng còn tác dụng gì cho trại, và ngay lập tức giám thị chấp thuận loại bỏ anh. Anh bị lôi ra hố cháy cùng những người đã không qua nổi buổi điểm danh, bị bắt quỳ xuống thành một hàng. Khói đen đặc nhầy nhụa che khuất vầng mặt trời trên cao đang tàn nhẫn trút lửa xuống. Setrakian bị lột trần, bị kéo đến sát mép hố, và anh thu đôi tay bị hủy hoại vào lòng, rùng mình khiếp hãi nhìn xuống hố.
Hố cháy. Nhũng ngọn lửa đói khát vặn vẹo, khói nhóp nhúa cuộn lên cao trong một vũ điệu ba lê thôi miên. Và nhịp điệu của nghi thức hành hình - tiếng súng nổ, tiếng lên đạn, tiếng lanh canh của vỏ đạn roi xuống và lăn trên mặt đất bẩn - ru anh vào trạng thái ngủ liệm. Anh trừng trừng nhìn ngọn lửa đang tiêu hủy thịt và xương, đem một con người trở lại thành thứ vốn hình thành nên anh ta: đơn thuần là vật chất. Những bị thịt không còn dùng được, có thể tiêu hủy, có thể cháy - dễ dàng chuyển về trạng thái carbon nguyên thủy.
Sinh vật đó là một chuyên gia gieo rắc kinh hoàng, nhưng nỗi kinh hoàng do con người gây ra này còn vượt ra ngoài mọi sự tưởng tượng. Không chỉ là một hành động máu lạnh, mà còn vì nó được thực thi một cách có lý trí, không hề bị ép buộc. Đó là một lựa chọn. Việc giết chóc không liên quan gì tới cuộc chiến, và không phục vụ cho một mục đích nào khác ngoài cái ác. Con người đã chọn làm điều này với đồng loại của mình và nghĩ ra những lý do, những địa điểm cùng những chuyện hoang đường để thỏa mãn mong muốn của mình theo một cách logic và có hệ thống.
Trong khi tên sĩ quan Quốc Xã máy móc bắn vào gáy từng người một và đá họ roi xuống cái hố đang cháy, ý chí của Abraham dần tiêu tan. Anh thấy buồn nôn, không phải do mùi hay cảnh tượng mà do nhận thức - một sự chắc chắn - rằng Chúa không còn ở trong trái tim anh nữa. Chỉ có cái hố này.
Chàng trai đang khóc than cho sự thất bại của mình và sự sụp đổ của lồng tin thì cảm thấy nòng của khẩu Luger áp vào làn da trần...
Một nòng súng khác chĩa vào cổ...
Và rồi anh nghe thấy tiếng súng. Từ phía bên kia bãi, một nhóm tù nhân lao công đã chiếm được các tháp canh và đang giành quyền kiểm soát trại, bắn vào bất cứ ai mặc quân phục trong tầm ngắm.
Người đàn ông ở phía sau anh bỏ đi. Để mặc Setrakian vẫn đang quỳ bên miệng hố.
Một tù nhân người Ba Lan kế bên anh trong hàng đứng bật dậy và bắt đầu chạy - và ý chí bỗng trở lại trong cơ thể chàng trai Setrakian. Hai tay áp vào sát ngực, anh vùng dậy chạy, trần truồng, về phía hàng rào dây thép gai được ngụy trang.
Súng nổ khắp quanh anh. Lính gác và tù nhân tóe máu và ngã xuống. Giờ là khói, không chỉ từ hố cháy: lửa bắt đầu bốc lên khắp trại. Anh tới được chỗ hàng rào, cùng một số người khác, rồi bằng cách nào đó, được những cánh tay không quen biết nâng lên cao, một việc anh không thể làm với hai bàn tay bị thương, anh roi xuống phía bên kia hàng rào.
Anh nằm trên mặt đất, đạn súng trường và súng máy cày tung đất xung quanh - và lại một lần nữa, những bàn tay và cánh tay tử tế lại xốc anh dậy, nâng anh đứng thẳng. Và khi những người trợ giúp vô danh ấy bị đạn băm nát, Setrakian vẫn chạy và chạy, và anh nhận ra mình đang khóc... vì khi Chúa vắng mặt, anh đã tìm thấy Con Người. Con người giết con người, con người giúp con người, cả hai đều vô danh: tai ương và phúc lành.
Vấn đề là sự lựa chọn.
Anh chạy hàng dặm, trong lúc quân tiếp viện Áo tới gần. Hai bàn chân rách toạc, ngón chân tả toi vì đá, nhưng không gì có thể ngăn Setrakian được nữa khi giờ đây anh đã ở bên ngoài hàng rào. Chỉ có một mục đích^choán lấy tâm trí anh khi anh cuối cùng cũng chạy tới bìa rừng và ngã vào bóng tối, trốn trong bóng đêm.
Bình Minh
Trụ sở cảnh sả số 17
Phố 51 đông manhattan
Setrakian trở mình, cố lấy tư thế thoải mái trên chiếc ghế dài đặt sát tường phòng tạm giam của trụ sở cảnh sát. Ông đã phải đợi suốt đêm trong khu vực đăng ký ốp kính, mắc kẹt cùng một đám trộm cắp, say rưọu, biến thái hiện lúc này cũng đang ở cùng ông. Trong quãng chờ đợi dài dằng dặc đó, ông đã có đủ thời gian suy nghĩ về cảnh tượng mình đã gây ra bên ngoài văn phòng pháp y, và nhận ra ông đă làm hỏng cơ hội tốt nhất để tiếp cận bác sĩ Goodweather của cơ quan kiểm soát dịch bệnh liên bang.
Rõ ràng ông đã bị đưa đi như một ông già điên. Có lẽ ông đã trật bước. Lảo đảo như một con quay trong những vòng quay cuối của nó. Có thể những năm tháng chờ đợi thời điểm này, sống trong cái lằn ranh giữa nỗi sợ hãi và niềm hy vọng, đã gây nên tác hại.
Một phần của tuổi già là liên tục tự kiểm soát mình. Bám chắc tay vịn cầu thang. Đảm bảo ta vẫn là chính ta.
Không. Ông biết mình biết điều gì. Vấn đề duy nhất của ông bây giờ là ông đã phát điên vì tuyệt vọng. Giờ ông ở đây, bị giam giữ trong một trụ sở cảnh sát ở Midtown Manhattan, trong khi quanh ông...
Động não đi, lão già ngu ngốc. Hãy tìm cách thoát khỏi đây. Lão đã từng thoát khỏi những hoàn cảnh còn tệ hơn thế này rất nhiều kia mà.
Ông tua lại trong đầu cảnh tuọng lúc ở khu vực đăng ký. Giữa lúc ông đang khai tên tuổi địa chỉ, và nghe giải thích vì sao mình lại bị buộc tội phá rối trật tự và xâm nhập bất họp pháp, đồng thời ký vào tờ khai những vật sở hữu theo người là chiếc gậy đi đường ("Đây là một món đồ cá nhân cực kỳ quan trọng đối với tôi," ông nói với viên trung sĩ) cùng mấy viên thuốc trợ tim, một thanh niên gốc Mexico khoảng muôi tám, mười chín tuổi được đưa vào, tay bị còng sau lưng. Cậu ta trông toi tả vì bị đánh, mặt mũi xước xát, áo rách toang.
Cái đập vào mắt Setrakian là mấy lỗ thủng cháy sém trên chiếc quần đen và áo sơ mi của cậu ta.
"Chuyện này thật vớ vẩn'." cậu thanh niên nói, hai tay vẫn bị còng phía sau, ngả người ra sau trong lúc vẫn bị mấy thanh tra đẩy về phía trước. "Thằng đó bị điên. Nó bị dại, trần truồng, chạy trên đường phố. Tấn công mọi người. Nó xông vào chúng tôi'." Mấy thanh tra đẩy mạnh cậu ta xuống ghế. "Các anh không nhìn thấy nó. Thằng chó chết đó đổ máu trắng. Trong mồm nó có cái thứ... cái thứ chết giẫm nào đó! Nó không phải người'."
Một trong những thanh tra đó tiến lại chỗ quầy đăng ký của viên trung sĩ mà Setrakian đang làm thủ tục, lau mồ hôi mặt bằng một chiếc khăn giấy. "Một thằng Mễ điên khùng. Hai tiền án vị thành niên, vừa qua mười tám. Lần này nó giết một người đàn ông, khi đánh nhau. Nó và thằng bạn, hẳn là đã xông vào ông ta, lột quần áo của ông ta. Định trấn lột ông ta ngay chính giữa Quảng trường Thời đại."
Viên trung sĩ tròn mắt tỏ vẻ ngạc nhiên rồi lại tiếp tục mổ bàn phím. Anh ta hỏi Setrakian thêm một số câu khác, nhưng ông đâu còn nghe thấy anh ta. Ông gần như không còn cảm thấy chiếc ghế bên dưới mình, hay đôi bàn tay bị biến dạng do chấn thương ngày nào nữa. Một cơn hoảng loạn xâm chiếm lấy ông khi nghĩ tới chuyện một lần nữa phải đối mặt với kẻ vô hình đó. Ông nhìn thấy tương lai. Ông thấy những gia đình tan nát, sự hủy diệt, cơn hấp hối của sự diệt vong. Bóng tối chế ngự ánh sáng. Quỷ dữ trên trái đất.
Tại thời điểm đó Setrakian có cảm giác mình như người đàn ông già nhất hành tinh. >
Đột ngột, cỡn hoảng loạn tăm tối của ông bị thay thế bởi một thôi thúc cũng tăm tối như vậy: trả thù. Cơ hội thứ hai. Sự phản kháng, trận chiến - cuộc chiến tranh sắp diễn ra - nó sẽ phải bắt đầu bởi ông.
Strigoi.
Đại dịch đã bắt đầu.
Khu vực cách ly, Trung tâm Y tế Jamaica
JIM KENT, vẫn đang mặc bộ quần áo đi đường, nằm trên giường bệnh, lắp bắp, "Thật là vớ vẩn. Tôi thấy khỏe mà."
Eph và Nora đứng ở hai bên giường. "Vậy chúng ta cứ coi đó là biện pháp phòng ngừa nhé," Eph nói.
"Chẳng có chuyện gì cả. Anh ta chắc đã húc ngã tôi khi tôi đi qua cửa. Có lẽ tôi bị choáng một lúc. Có lẽ bị chấn động nhẹ."
Nora gật đầu. "Chỉ là... anh là một trong số chúng ta, Jim. Chúng tôi cần chắc chắn là mọi thứ đều đã được kiểm tra."
"Nhưng... sao lại ở khu cách ly?"
"Sao lại không chứ?" Eph cố mỉm cười. "Chứng ta ở đây sẵn rồi. Và nhìn kìa - có cả một khu của bệnh viện này dành cho anh. Chế độ tốt nhất ở thành phố New York này đấy."
Nụ cười của Jim cho thấy anh ta không bị thuyết phục. "Thôi đưọc," cuối cùng anh ta nói. "Nhưng ít ra cũng cho tôi lấy lại điện thoại cửa mình chứ, để tôi còn cảm thấy là mình đang đóng góp gì đó?"
Eph nói, "Tôi nghĩ chúng ta có thể thu xếp việc này. Sau vài xét nghiệm nữa."
"Và... xin hãy nói với Sylvia rằng tôi ổn. Cô ấy sẽ hoảng loạn lắm."
"Tất nhiên rồi," Eph nói. "Chứng tôi sẽ gọi cho cô ấy ngay khi ra khỏi đây."
Họ bước ra, bàng hoàng, dừng lại trước khi rời khỏi khu cách ly. Nora nói, "Chúng ta phải nói cho anh ấy biết."
"Nói cái gì?" Eph nói, hơi quá xẵng giọng. "Trước hết chúng ta cần tìm hiểu mình đang đối mặt với thứ gì đã."
Bên ngoài khu cách ly, một phụ nữ với mớ tóc xù được buộc ra sau bằng một dải băng rộng đứng dậy khỏi chiếc ghế nhựa đã được cô kéo vào từ hành lang. Jim sống trong một căn hộ ở East Eighties với bạn gái, Sylvia, một biên tập viên chuyên mục tử vi của tờ New York Post. Cô mang theo năm con mèo đến với mối quan hệ này, còn anh ta thì góp một con chim sẻ, và họ làm nên một hộ gia đình vô cùng đông đúc. "Tôi có thể vào không?" Sylvia hỏi.
"Xin lỗi, Sylvia. Quy tắc của khu cách ly - chỉ cán bộ y tế. Nhưng Jim bảo tôi nói với cô rằng anh ấy vẫn khỏe."
Sylvia nắm chặt cánh tay Eph. "Anh thì nói sao? "
Eph nói khéo, "Anh ấy trông rất khỏe mạnh. Chúng tôi muốn làm một số xét nghiệm, chỉ là đề phòng thôi."
"Họ nói anh ấy đã bất tình, anh ấy hơi chóng mặt. Tại sao lại là khu cách ly?"
"Cô biết cách chúng tôi làm việc mà, Sylvia. Loại bỏ tất cả những thứ có hại. Đi từng bước."
Sylvia nhìn sang Nora, chờ được trấn an kiểu phụ nữ.
Nora gật đầu nói, "Chúng tôi sẽ trả anh ấy lại cho cô sớm nhất có thể."
Dưới cầu thang, trong tầng hầm bệnh viện, Eph và Nora thấy người quản lý đang chờ họ trước cửa nhà xác. "Bác sĩ Goodweather, đây là trường họp cực kỳ bất thường. Cánh cửa này không bao giờ khóa, và bệnh viện khăng khăng đòi được thông báo chuyện gì đang xảy ra..."
"Tôi xin lỗi, bà Graham," Eph nói, đọc thấy tên bà trên thẻ bệnh viện, "nhưng đây là công việc của cơ quan CDC thuộc chính phủ." Anh ghét phải trương ra danh phận theo kiểu một ông quan liêu, nhưng đôi khi việc mang danh viên chức chính phủ cũng có những lọi thế của nó. Anh lấy chiếc chìa khóa dành riêng cho mình ra và mở cửa, cùng Nora bước vào trong. "Cảm on bà đã họp tác," anh nói, và khóa cánh cửa lại phía sau.
Anh sáng tự động bật lên. Thi thể của Redfern nằm dưới một tấm khăn phủ trên mặt bàn thép. Eph chọn một đôi găng tay từ chiếc hộp gần công tắc đèn và mở cái xe đẩy chứa dụng cụ khám nghiệm tử thi.
"Eph," Nora nói, xỏ găng tay vào. "Thậm chí chúng ta còn chưa có giấy khai tử. Anh không thể mổ xẻ anh ta."
"Chúng ta không có thời gian cho các thủ tục. Không, nhất là khi Jim đang ở trên đó. Và ngoài ra - anh thậm chí chưa biết phải giải thích cái chết của anh ta thế nào. Dù nhìn dưới bất cứ góc độ nào thì anh cũng đã giết người đàn ông này. Bệnh nhân của anh."
"Để tự vệ."
"Anh biết thế. Em biết thế. Nhưng chắc chắn là anh không thể phí phạm thời gian giải thích như vậy với cảnh sát."
Anh cầm con dao mổ lớn và rạch lên ngực Redfern, tạo ra hình chữ Y bắt đầu từ các xương đòn phải và trái chéo xuống chỗ xương ức, rồi từ đó thẳng một đường xuống dưới bụng, tới xương mu. Rồi anh bóc lóp da và cơ bên dưới, làm lộ ra lồng ngực và màng bụng. Anh không có đủ thời gian để thực hiện cuộc khám nghiệm tử thi hoàn chỉnh. Nhưng anh cần xác nhận một số thứ mà hình ảnh chụp cộng hưỏng MRI dang dở của Redfern đã chỉ ra.
Anh sử dụng một ống cao su mềm để rửa sạch cái chất rỉ ra giống máu màu trắng và quan sát những cơ quan chính bên dưới lồng ngực. Khoang ngực là một mớ hỗn độn những khối màu đen gớm ghiếc được cấp liệu nhờ những ống mảnh giống như tĩnh mạch nối với những cơ quan teo tóp của viên phi công.
"Chúa ơi," Nora nói.
Eph xem xét những khối lạ phía dưới xương sườn. "Nó đã kiểm soát anh ta. Nhìn quả tim kìa."
Nó bị biến dạng, thu nhỏ lại. Cấu trúc động mạch cũng bị thay đổi, hệ tuần hoàn phát triển đơn giản hon, động mạch bị phủ một lóp màu tối tăm, chết chóc.
Nora nói, "Không thể tin nổi. Mới có ba mươi sáu tiếng đồng hồ kể từ khi máy bay hạ cánh."
Tiếp đó Eph lột da cổ của Redfern, làm lộ ra cổ họng của anh ta. Một cấu trúc mới ăn sâu vào giũa cổ, phát triển ra từ nếp gấp tiền đình. Cái phần lồi ra có chúc năng rõ ràng của một cái vòi chích giờ nằm ở trạng thái co lại. Nó được nối thẳng với khí quản, đúng hơn là họp nhất với khí quản, giống khối u ung thư. Eph quyết định không mổ xẻ thêm nữa, hy vọng một lúc nào đó có thể lấy ra nguyên vẹn khối cơ, hay cơ quan, hay bất cứ tên gọi gì cho thứ đó, để nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để chức năng của nó.
Điện thoại của Eph vang lên. Anh xoay mình sao cho Nora có thể lôi nó ra từ trong túi quần của anh bằng chiếc găng tay sạch của cô. "Văn phòng của bác sĩ pháp y trưởng," cô nói, đọc màn bình. Cô thay anh trả lời điện thoại, và sau khi nghe một lát, cô bảo người gọi, "Chúng tôi sẽ tới ngay."
Cô quan Pháp y, Manhattan
GIÁM ĐỐC BARNES tới Cơ quan Pháp y trên phố 30 và phố 1 cùng lúc với Eph và Nora. Ông bước ra khỏi xe, không thể nhầm lẫn với ai khác bởi chòm râu dê và bộ đồng phục hải quân. Ngã tư đông nghịt xe của cảnh sát và các nhóm phóng viên truyền hình chờ sẵn ngoài mặt tiền màu lam ngọc của nhà xác.
Nhờ giấy phép đặc biệt của mình, họ được đưa vào trong, thẳng tới chỗ bác sĩ Julius Mirnstein, bác sĩ pháp y trưỏng của New York. Đầu Mimstein hói, ngoại trừ vài đám tóc màu hung ở hai bên và phía sau đầu, mặt ông dài, vẻ nghiêm khắc, và trùm bên trên chiếc quần màu ghi của ông là một chiếc áo choàng bệnh viện trắng bắt buộc.
"Chứng tôi nghĩ chúng tôi bị đột nhập đêm qua... chúng tôi không biết nữa." Bác sĩ Mimstein nhìn màn hình vi tính bị lật ngược và bút chì đổ ra khỏi một cái cốc. "Chúng tôi không thể liên lạc với bất kỳ nhân viên trực đêm nào." Ông kiểm tra lại thông tin này với người trợ lý đang áp điện thoại vào tai, và cô ta lắc đầu xác nhận. "Đi theo tôi."
Ở khu nhà xác dưới tầng hầm, mọi thứ có vẻ vẫn đâu vào đấy, từ những chiếc bàn mổ tử thi sạch sẽ cho tới bàn làm việc, cân và dụng cụ đo lường. Không có sự phá hoại nào ở đây. Bác sĩ Mimstein dẫn mọi người tới phòng lạnh, dừng lại chờ cho đủ mặt Eph, Nora và giám đốc Barnes.
Phòng lạnh trống tron. Những chiếc cáng vẫn còn đó, cùng vài tấm vải trùm và quần áo. Mấy thi thể vẫn còn nguyên ở mé tường bên trái, nhưng tất cả các nạn nhân máy bay đã biến mất.
"Họ đâu rồi?" Eph hỏi.
"Chỉ có thế thôi," bác sĩ Mimstein nói. "Chúng tôi không biết."
Giám đốc Bames nhìn ông chằm chằm trong giây lát. "Có phải ông đang nói với tôi rằng ông tin ai đó đã lẻn vào đây trong đêm và ăn cắp hơn bốn mươi xác chết?"
"Tôi cũng không biết gì hơn ông, bác sĩ Bames. Tôi đang hy vọng người của ông có thể giúp tôi làm sáng tỏ."
"Ùm," Bames nói, "họ không thể cứ thế mà đứng dậy bỏ đi."
Nora nói, "Thế còn Brooklyn? Queens nữa?"
Bác sĩ Mirnstein nói, "Tôi không nghe nói gì về Queens. Nhưng Brooklyn đã báo cáo chuyện tương tự."
"Chuyện tương tự?" Nora nói. "Xác chết của hành khách trên chuyến bay biến mất ư?"
"Chính xác," bác sĩ Mimstein nói. "Tôi gọi các ông tới đây với hy vọng có lẽ bên các ông đã yêu cầu nhận lại những xác chết này mà không cho chúng tôi biết."
Bames nhìn Eph và Nora. Họ lắc đầu.
Bames nói, "Chúa ơi. Tôi phải gọi FAA mới được."
Eph và Nora chặn lại trước khi ông làm thế, và tránh ra khỏi chỗ bác sĩ Mimstein. "Chúng ta cần nói chuyện," Eph nói.
Vi giám đốc hết nhìn người này lại chuyển qua người khác. "Jim Kent sao rồi?"
"Anh ấy có vẻ ổn. Anh ấy nói anh ấy thấy khỏe."
"Tốt," Barnes nói. "Gì vậy?"
"Anh ấy có một vết thủng ở cổ, xuyên qua họng. Giống hệt những vết chúng tôi đã phát hiện trên các nạn nhân của chuyến bay 753."
Bames cau mày. "Sao có thể thế được?"
Eph kể vắn tắt chuyện Redfern đã trốn khỏi phòng chụp và cuộc tấn công diễn ra sau đó. Anh lấy ra một ảnh chụp cộng hưởng từ từ một chiếc phong bì X-quang cỡ lớn và dính nó vào bảng đọc, rồi bật đèn chiếu lên. "Đây là hình ảnh 'trước' của viên phi công."
Các cơ quan chính ở trong tầm nhìn, trông có vẻ khỏe khoắn. "Sao nào?" Bames hỏi.
Eph nói, "Đây là hình ảnh 'sau'." Anh dính lên bảng một ảnh scan cho thấy phần thân trên của Redfern bị che phủ bởi những cái bóng.
Bames kéo cao chiếc kính bán nguyệt của mình lên. "Những khối u ư?"
Eph nói, "Ùm... cũng khó mà giải thích, nhưng đó là mô mới, chúng ăn hết các cơ quan mà mới chỉ hai mươi bốn giờ trước còn hoàn toàn khỏe mạnh."
Giám đốc Barnes kéo kính xuống và lại cau mày. "Mô mới? Anh định nói cái quái gì thế?"
"Ý tôi là cái này." Eph lấy ra ảnh scan thứ ba, hiển thị phần bên trong cổ của Redfern. Thứ mới sinh ra bên dưới lưỡi hiện lên rõ ràng.
"Cái gì vậy?" Bames hỏi.
"Một cái vòi châm," Nora trả lời. "Đại loại thế. Cấu tạo như cơ bắp. Có thể co rút, bằng thịt."
Barnes nhìn Nora như thể cô bị điên. "Một vòi chích ư?"
"Vâng, thưa ông," Eph nói, vội vàng hỗ trợ cô. "Chúng tôi tin nó có liên quan tới vết cắt ở cổ Jim."
Barnes nhìn tới nhìn lui giữa heli người. "Anh chị đang nói với tôi rằng một trong những người sống sót của thảm họa máy bay đã mọc ra một cái vòi châm và dùng nó tấn công Jim Kent sao?"
Eph gật đầu và lại dùng những ảnh scan để làm bằng chứng. "Everett, chúng ta cần cách ly những người sống sót còn lại."
Barnes nhìn sang Nora dò hỏi, và cô vội vã gật đầu, hoàn toàn tán thành ý kiến của Eph.
Giám đốc Barnes nói, "Kết luận lại là anh chị tin... sự phát triển của khối u này, sự biến đổi sinh học này... là có thể lây nhiễm, bằng cách nào đó?"
"Đó là giả thuyết và cũng là nỗi lo của chúng tôi," Eph nói. "Jim rất có thể đã bị nhiễm bệnh. Chúng ta cần xác định tiến triển của hội chứng này, dù nó là gì chăng nữa, nếu chúng ta muốn có bất cứ cơ hội nào để ngăn chặn nó và chữa trị cho anh ấy."
"Có phải anh chị bảo tôi là anh chị đã nhìn thấy cái... cái vòi châm có thể co rút này, theo nhu cách nói của anh chị?"
"Cả hai chúng tôi đều thấy."
"Và cơ trưởng Redfern giờ đang ở đâu?"
"Ở bệnh viện."
"Dự đoán bệnh thế nào?"
Eph trả lời trước khi Nora kịp nói gì. "Không chắc chắn." Barnes nhìn Eph, bắt đầu cảm thấy có gì đó không ổn.
Eph nói, "Tất cả những gì chúng tôi yêu cầu là một lệnh buộc những người khác phải chịu sự điều trị..."
"Cách ly ba người đồng nghĩa với nguy cơ gây hoảng loạn cho ba trăm triệu người khác." Barnes kiểm tra lại sắc mặt họ lần nữa, như thể để xác nhận lần cuối. "Anh có nghĩ rằng việc này có bất kỳ liên quan gì tới sự biến mất của những thi thể kia không?"
"Tôi không biết," Eph nói. Anh suýt nữa đã nói, Tôi không muốn biết.
"Tốt thôi," Barnes nói. "Tôi sẽ bắt đầu quy trình."
"Bắt đầu quy trình ư?"
"Việc này cần vài thủ tục."
Eph nói, "Chúng ta cần làm bây giờ. Ngay bây giờ."
"Ephraim, điều anh vừa trình bày với tôi thật kỳ quái và đáng lo, nhưng có vẻ nó đã được cách ly. Tôi biết anh lo lắng cho sức khỏe của đồng nghiệp, nhưng để cố được lệnh cách ly cấp liên bang, tôi phải đệ trình và nhận lệnh hành pháp từ tổng thống, và tôi không tha mấy thứ này trong ví của mình. Tôi chưa thấy bất cứ dấu hiệu gì của một đại dịch tiềm tàng, và do vậy tôi phải đi theo các kênh thông thường. Trước lúc đó, tôi không muốn anh quấy rầy những người sống sót khác."
"Quấy rầy ư?" Eph nói.
"Dù chúng ta chưa đi quá bổn phận của mình thì cũng đã có đủ sự hoảng loạn rồi. Tôi có thể chỉ ra cho anh chị thấy, nếu những người còn sống kia quả thực bị bệnh, thì tại sao cho tới lúc này chúng ta vẫn chưa nghe tin tức gì về họ?"
Eph không có câu trả lời.
"Tôi sẽ giữ liên lạc với hai người."
Bames đi ra để gọi điện.
Nora nhìn Eph. Cô nói, "Đừng."
"Đừng cái gì?" Cô có thể nhìn thấu anh.
"Đừng đi xem những người sống sót khác. Đừng phá hỏng cơ hội cứu Jim bằng việc đụng đến bà luật sư kia hoặc làm những người khác hoảng sợ."
Eph vẫn đang rối trí thì cửa ra vào mở. Hai chuyên viên cấp cứu y tế đẩy băng ca chở một túi xác vào, và được đón bởi hai nhân viên nhà xác. Cái chết sẽ không chờ cho đến khi chuyện bí hiểm này qua đi. Nó vẫn cứ tiếp tục diễn ra. Eph nhìn thấy trước chuyện gì sẽ xảy ra với thành phố New York dưới ảnh hưỏng của một trận đại dịch. Một khi các nguồn lực của thành phố bị chế ngự - cảnh sát, cứu hỏa, y tế, tang ma - toàn bộ hòn đảo, chỉ trong vòng vài tuần, sẽ biến thành một đống phân hủy hôi thối.
Nhân viên nhà xác kéo khóa túi xác xuống một nửa - rồi bật kêu lên hoảng hốt. Anh ta lùi lại khỏi chiếc bàn, hai bàn tay đeo găng tay nhỏ ra những giọt màu trắng, thứ chất lỏng trắng đục đang rỉ ra từ túi cao su đen, tràn ra băng ca và chảy xuống sàn.
"Cái quái gì thế này?" anh nhân viên nhà xác hỏi chuyên viên cấp cứu, lúc này đang đứng ở cửa, vẻ mặt lộ rõ sự kinh tởm.
"Tai nạn giao thông," anh ta nói, "sau khi đánh nhau. Tôi không rõ... chắc là một xe tải chở sữa hay gì đó."
Eph lấy một đôi găng tay từ chiếc hộp trên bàn và tiến đến gần túi xác, nhìn vào bện trong. "Đầu đâu rồi?"
"Trong đó," chuyên viên cấp cứu kia nói. "Ở đâu đó."
Eph thấy cái xác đã bị cắt mất đầu, phần cổ còn lại tung tóe những khối bèo nhèo màu trắng.
"Và ông ta trần truồng," chuyên viên cấp cứu bổ sung. "Không thể tưỏng được."
Eph kéo mở hết khóa ra. Xác chết không đầu này là một người quá cân, nam, khoảng năm mươi tuổi. Rồi Eph để ý đến bàn chân.
Anh thấy một sọi dây quấn quanh ngón chân cái. Có vẻ như ở đó từng gắn một thẻ nhận dạng người chết.
Nora cũng nhìn thấy sọi dây ở ngón chân, và mặt cô tái đi.
"Anh nói là đánh lộn hả?" Eph hỏi.
"Ấy là họ nói với chúng tôi như vậy," chuyên viên cấp cứu vừa nói vừa mở cửa bước ra ngoài. "Chúc các anh một ngày tốt lành, và chúc may mắn."
Eph đóng khóa túi trở lại. Anh không muốn bất cứ ai khác nhìn thấy dây thẻ. Anh không muốn bất cứ ai đặt cho anh những câu hỏi mà anh không thể trả lời.
Anh hướng về phía Nora. "Ông lão đó."
Nora gật đầu. "Ông ấy muốn chúng ta tiêu hủy các xác chết," cô nhớ lại.
"Ông ấy biết về tia cực tím." Eph tháo đôi găng dính mủ ra, lại nghĩ về Jim, đang nằm trong khu cách ly - cùng với cái thú chịu chẳng biết là gì đang phát triển trong cơ thể anh ta. "Chúng ta phải tìm hiểu xem ông ấy còn biết gì nữa."
Trụ sỏ cành sát số 17, phố 51 Đông, Manhattan
SETRAKIAN ĐẾM được mười ba người nữa trong phòng giam, tính cả một kẻ bồn chồn với những vết xước mới tinh trên cổ đang ngồi xổm ở một góc và xoa nước bọt liên hồi lên hai bàn tay.
Dĩ nhiên, Setrakian đã từng ở trong hoàn cảnh tệ hơn thế này - tệ hơn rất nhiều. Trên một lục địa khác, trong thế kỷ khác, bị giam cầm vì là một người Do Thái Romania trong Thế Chiến II, trong trại hành quyết gọi là Treblinka. Ông mười i chín tuổi khi trại được giải phóng vào năm 1943, vẫn còn là một cậu trai. Nếu tầm tuổi này mà vào trại, có thể ông không sống sót nổi quá vài ngày - thậm chí không qua nổi chuyến xe lửa đến đó.
Setrakian nhìn cậu thanh niên Mexico cạnh ông trên băng ghế, người ông đã thấy lúc đăng ký, và nghĩ cậu ta chắc trạc tuổi ông hồi chiến tranh kết thúc. Má cậu ta tái xanh giận dữ, máu khô đen bám trên vết rách dưới mắt. Nhưng có vẻ cậu ta không bị nhiễm.
Setrakian lo lắng hơn về cậu bạn của chàng trai, đang nằm co tròn trên băng ghế kế bên ông, không nhúc nhích.
Về phần mình, Gus, cảm thấy giận dữ cay đắng và bồn chồn vì thấy chả còn chút năng lưọng nào, trở nên cảnh giác với ông lão đang nhìn mình. "Có vấn đề gì không?"
Những người khác ở trong nhà tạm giam hoạt bát hẳn lên trước triển vọng về một cuộc đánh đấm giữa một tên tội phạm và một ông già Do Thái.
Setrakian nói với cậu, "Tôi đúng là có một vấn đề rất lớn."
Gus ném ánh nhìn tối tăm sang ông. "Ai chả thế nhỉ."
Setrakian cảm thấy mọi người đều quay đi chỗ khác, vì giờ làm gì có cuộc đấu nào cho họ giải buồn. Setrakian nhìn kỹ lại người bạn đang nằm cuộn tròn của anh chàng Mexico. Tay cậu ta đặt lên mặt và cổ, đầu gối co lên áp chặt người, gần như tư thế của bào thai.
Gus nhìn sang Setrakian, giờ đã nhận ra ông. "Tôi biết ông." Setrakian gật đầu, vốn đã quen với việc này, "Phố 118." "Cửa hàng Đồ cổ và Cho Vay Knickerbocker. Phải rồi...
khỉ thật. Ông đã có lần đá đít anh trai tôi."
"Cậu ta đã ăn trộm?"
"Định ăn trộm. Một sọi dây chuyền vàng. Hắn giờ là một con nghiện chó chết, tàn tạ như một thây ma. Nhưng hồi đó hắn rất khỏe. hơn tôi vài tuổi."
"Đáng ra cậu ta nên biết phải quấy hon."
"Hắn từng như thế đấy. Vì sao hắn định ăn cắp. Thật ra sọi dây chuyền vàng đó chỉ là chiến lọi phẩm. Hắn muốn thách thức đám đường phố. Mọi người đều cảnh báo hắn, 'Chớ có dây vào lão chủ hiệu cầm đồ'."
Setrakian nói, "Ngay tuần đầu tiên tôi tiếp quản cửa hàng, ai đó đã làm vỡ cửa sổ trước của tôi. Tôi thay nó - rồi tôi rình và chờ đợi. Tóm được một nhóm định đến đập vỡ cửa. Tôi cho chúng có thứ để mà nhớ, cũng như để chứng kể lại với bạn bè. Chuyện đã xảy ra hơn ba mươi năm trước rồi. Từ đó tôi chả gặp vấn đề gì với kính cửa sổ của mình nữa."
Gus nhìn những ngón tay không khoèo của ông lão, được bao trong găng tay len. "Bàn tay ồng," cậu nói. "Chuyện gì vậy, ông từng bị bắt quả tang khi ăn trộm à?"
"Không phải ăn trộm, không," ông lão nói, xoa bàn tay qua lóp len. "Một vết thương cũ. Tôi không được chăm sóc y tế cho đến khi đã quá muộn."
Gus giơ cho ông già xem hình xăm trên tay mình, nắm bàn tay lại sao cho phần da giữa ngón cái và ngón trỏ phồng lên. Nó làm lộ ra ba vòng tròn đen. "Giống như thiết kế trên biển hiệu của cửa hàng ông."
"Ba quả bóng là biểu tưọng cổ chỉ một chủ tiệm cầm đồ. Nhưng của cậu mang nghĩa khác."
"Dấu hiệu băng đảng," Gus nói, ngồi ngả ra sau. "Nghĩa là kẻ trộm."
"Nhưng cậu chưa từng trộm gì của tôi."
"Chắc gì ông đã biết," Gus mỉm cười.
Setrakian nhìn quần của Gus, những cái lỗ thủng cháy sém trên vải đen. "Tôi nghe nói cậu giết một người đàn ông."
Nụ cười của Gus vụt biến.
"Cậu không bị thương đấy chứ? vết rách trên mặt cậu, là do cảnh sát à?"
Gus lừ mắt nhìn ông, như thể ông già có khả năng là một kẻ do thám trong nhà tù. "Việc này liên quan gì tới ông?"
Setrakian nói, "Cậu đã nhìn vào miệng hắn chưa?"
Gus quay qua ông. Ông lão đang ngả người về phía trước, gần như đang cầu nguyện. Gus hỏi, "Ông biết gì về chuyện đó?"
"Tôi biết," ông lão nói mà không nhìn lên, "rằng một bệnh dịch đã lan rộng khắp thành phố này. Và sẽ sớm lan ra cả thế giới."
"Đó không phải bệnh dịch. Đó là một gã tâm thần nào đó với một... một cái lưỡi chết tiệt thò ra từ..." Gus cảm thấy thật vớ vẩn khi nói ra điều đó. "Vậy nó là cái quái gì thế?"
Setrakian nói, "Thứ đánh nhau với cậù là một người đàn ông đã chết, bị kiểm soát bởi một căn bệnh."
Gus nhớ lại vẻ mặt của gã béo, trống rỗng và đói khát. Máu gã màu trắng. "Cái gì... kiểu như xác sống ư?"
Setrakian nói, "Hãy nghĩ thiên về thứ giống với một người đàn ông mặc áo choàng đen. Răng nanh. Khẩu âm buồn cười." Ông quay đầu lại để Gus có thể nghe được rõ hon. "Giờ thì bỏ áo choàng và răng nanh. Cả khẩu âm buồn cườị nữa. Bỏ mọi thứ buồn cười ở nó."
Gus suy nghĩ về lời của ông lão. Hẳn là ông biết. Giọng nói ảm đạm của ông, nỗi sợ hãi u sầu của ông, nó lây lan.
"Nghe tôi nói đây," ông lão tiếp tục. "Người bạn này của cậu. Cậu ấy đã bị nhiễm. Hay có thể nói... bị cắn."
Gus nhìn sang Felix đang bất động. "Không. Không, nó chỉ... cảnh sát đấy, họ đã đánh nó."
"Cậu ấy đang biến đổi. Cậu ấy bị chế ngự bởi một thứ nằm ngoài sự hiểu biết của cậu. Một bệnh biến con người thành thứ không phải là người. Người này không còn là bạn cậu nữa. Cậu ấy đã bị biến đổi."
Gus nhớ lúc gã béo đè lên trên Felix, nhớ cái ghì siết điên cuồng của hai người, miệng gã kề cổ Felix. Và vẻ mặt của Felix - kinh sợ và hãi hùng.
"Cậu thấy cậu ấy nóng cỡ nào? Sự trao đổi chất trong cậu ấy đang tăng nhanh. Cần một năng lưọng lớn để thay đổi - những thay đổi thảm khốc, đau đón diễn ra bên trong cơ thể cậu ấy. Sự phát triển của hệ cơ quan ký sinh để thích ứng với trạng thái mới của cậu ấy. Cậu ấy đang biến thành một sinh vật chỉ biết ăn. Sớm thôi, từ mười hai đến ba mươi sáu tiếng đồng hồ kể từ lúc bị nhiễm, nhưng rất có khả năng là đêm nay, cậu ấy sẽ đứng dậy. Cậu ấy sẽ khát. Cậu ấy sẽ không dừng lại trước bất cứ trở ngại nào để thỏa mãn con khát."
Gus nhìn chằm chằm ông lão, thẫn thờ.
Setrakian nói, "Cậu có yêu bạn mình không?"
Gus trả lời, "Cái gì?"
"Tôi nói 'yêu' có nghĩa là quý mến, tôn trọng. Nếu cậu yêu bạn mình, cậu phải tiêu diệt cậu ấy trước khi cậu ấy trở lại."
Mắt Gus tối lại. "Tiêu diệt?"
"Giết cậu ấy. Nếu không cậu ấy sẽ biến đổi cậu."
Gus chậm chạp lắc đầu. "Nhưng... ông nói bạn tôi đã chết... nếu vậy sao tôi có thể giết nó?"
"Có nhiều cách lắm," Setrakian nói. "Cậu đã giết kẻ tấh công cậu như thế nào?"
"Bằng dao. Thứ đó vọt ra khỏi mồm ông ta... tôi cắt phăng nó đi."
"Còn họng thì sao?"
Gus gật đầu. "Cả cái đó nữa. Rồi một xe tải đâm vào ông ta, hoàn thành công việc."
"Cắt đầu khỏi cơ thể là cách chắc ăn nhất. Anh nắng cũng được - ánh nắng trực tiếp. Và còn nhiều cách nữa, nhiều phương thức cổ xưa nữa."
Gus quay lại nhìn Felix. Nằm ở đó, không nhúc nhích. hơi thở thoi thóp. "Tại sao chả ai biết về chuyện này?" cậu nói. Rồi cậu nhìn sang Setrakian, tự hỏi ai mới là người điên. "Thật ra ông là ai, ông già?"
"Elizalde! Torrez!"
Gus bị cuốn vào cuộc nói chuyện tới mức không hề nhận ra là có mấy viên cảnh sát đã vào phòng tạm giam. Cậu ngẩng lên khi nghe gọi tên mình và Felix, thấy bốn cảnh sát đeo găng cao su tiến về phía trước, đồ nghề sẵn sàng để trấn áp. Gus bị lôi dậy khi còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang diễn ra.
Họ vỗ vai Felix, đập vào đầu gối nó. Khi thấy không thể đánh thức được Felix, họ xốc nó lên, khóa tay xuống dưới cánh tay nó. Đầu nó rũ xuống và chân kéo lê trên sàn trong khi bị họ lôi đi.
"Xin hãy nghe tôi." Setrakian đứng lên đằng sau họ. "Anh chàng này... cậu ấy bị bệnh. Ôm nặng. Cậu ấy bị bệnh truyền nhiễm."
"Vậy nên chúng tôi mới đeo găng tay, bố già," một gã cóm nói với lại. Họ vặn cánh tay rũ rưọi của Felix trong khi kéo nó qua cửa. "Chúng tôi đối mặt với bọn bị bệnh lây truyền qua đường tình dục hoài."
Setrakian nói, "Cậu ấy phải được tách riêng, cậc anh có nghe thấy không? Nhốt riêng một mình."
"Đừng lo, bố già. Chúng tôi luôn có chế độ ưu đãi cho lũ giết người."
Mắt Gus vẫn dán vào ông lão trong khi cửa phòng đóng lại và đám cảnh sát lôi cậu đi.
Tập đoàn Stoneheart, Manhattan
ĐÂY LÀ PHÒNG NGỦ của người đàn ồng vĩ đại.
Điều kiện môi trường được kiểm soát và hoàn toàn tự động, các chế độ mặc định có thể đưọc điều chỉnh thông qua một bàn điều khiển nhỏ chỉ cách đó đúng một tầm tay với. Tiếng xào xạc của máy làm ẩm trong góc phòng hòa với tiếng vo ve của máy tạo ion cùng tiếng xì xào của máy lọc không khí nghe như tiếng dỗ dành khe khẽ của một bà mẹ. Mọi người, Eldritch Palmer nghĩ, nên ngủ hằng đêm trong một cái dạ con. Ngủ như một đứa bé.
Tận mấy tiếng nữa trời mới tối, và ông ta thấy sốt ruột. Giờ khi mọi thứ đã chuyển động - sự căng thẳng đã lan tràn khắp thành phố New York theo cấp số mũ của lãi kép, cứ gấp đôi và gấp đôi hằng đêm - ồng ta ngâm nga trong miệng niềm hân hoan của một ông chủ nhà băng tham lam. Chưa từng có một thành công tài chính nào, vốn ông ta có thừa, mang lại cho ông ta niềm phấn chấn đến thế.
Chuông điện thoại đầu giường của ông ta reo lên một tiếng, tay cầm nhấp nháy. Mọi cuộc gọi đến số điện thoại này đều phải thông qua y tá và trợ lý của ông ta, Fitzwilliam, một người đàn ông cực kỳ thông minh và thận trọng. "Xin chào, thưa ngài."
"Ai đó, Fitzwilliam?"
"Anh Jim Kent, thưa ngài. Anh ta nói có chuyện khẩn cấp. Tôi đang nối máy cho anh ta."
Trong giây lát, Kent, một trong nhiều thành viên Hiệp hội Stoneheart của Palmer đang được cài cắm ở vị trí rất tốt, nói, "Vâng, xin chào?"
"Vào việc đi, anh Kent."
"Vâng... ngài có nghe rõ tôi nói không? Tôi phải nói khẽ..."
"Tôi vẫn nghe rõ, anh Kent. Lần trước chúng ta đã bị cắt ngang."
"Vâng. Viên phi công đã trốn thoát. Khỏi cuộc xét nghiệm."
Palmer mỉm cười. "Và giờ anh ta đã đi rồi?"
"Không. Tôi không chắc phải làm gì, vậy là tôi theo anh ta suốt bệnh viện cho tới khi bác sĩ Goodweather và bác sĩ Martinez đuổi kịp anh ta. Họ nói Redfern ổn, nhưng tôi không thể xác nhận tình trạng của anh ta. Tôi nghe một y tá khác nói chỉ có một mình tôi ở đây. Và các thành viên dự án Canary đã trưng dựng một căn phòng bị khóa dưới tầng hầm."
Palmer sa sầm. "Anh đang một mình ở đâu?"
"Trong khu cách ly. Chỉ là biện pháp phòng ngừa. Redfern chắc đã đánh tôi hoặc sao đó, anh ta cho tôi đo ván."
Palmer im lặng giây lát. "Tôi hiểu."
"Giá như ngài có thể giải thích cho tôi chính xác những gì tôi phải tìm, tôi có thể hỗ trợ ngài tốt hơn..."
"Anh nói họ đã trưng dụng một phòng trong bệnh viện?"
"Ở tầng hầm. Có thể là nhà xác. Tôi sẽ tìm hiểu sau." Palmer nói, "Bằng cách nào?"
"Ngay khi tôi ra khỏi đây. Họ chỉ muốn thực hiện một số xét nghiệm với tôi."
Palmer tự nhắc mình rằng Jim Kent không phải một bác sĩ dịch tễ, mà đúng hơn là một người hỗ trợ dự án Canary, không hề được đào tạo y khoa. "Anh nói như thể đang bị đau họng, anh Kent."
"Tôi bị thật. Rất nhẹ thôi."
"Hừm. Chúc một ngày tốt lành, anh Kent."
Palmer gác máy. Việc Kent bị nhiễm chỉ gây bực mình, nhung thông tín về nhà xác của bệnh viện thì thật đáng quan ngại. Dù sao thì mọi cuộc đầu cơ lớn đều luôn kèm theo những chướng ngại cần phải vượt qua. Cả đòi làm kinh doanh đã dạy cho ông ta một bài học rằng chính những bước lùi và khó khăn như thế sẽ làm cho thắng lọi cuối cùng càng thêm ngọt ngào.
Ông ta lại nhấc điện thoại cầm tay và nhấn nút ngôi sao.
"Vâng, thưa ngài?"
"Fitzwilliam, chứng ta đã mất người có liên hệ với dự án Canary. Anh phải phớt lờ mọi cuộc gọi từ điện thoại di động của anh ta."
"Vâng, thưa ngài."
"Và chúng ta cần cử một nhóm đến Queens. Dường như có cái gì đó ở tầng hầm của Trung tâm Y tế Bệnh viện Jamaica cần được xử lý."
Flatbush, Brooklyn
ANN-MARIE BARBOUR kiểm tra một lần nữa để chắc chắn cô đã khóa tất cả các cửa, sau đó đi khắp nhà hai lần - từng phòng một, từ trên xuống dưới - chạm tay hai lần vào từng tấm gương để trấn tĩnh. Cô không thể đi qua bất kỳ bề mặt phản chiếu nào nếu không chạm hai ngón tay phải vào nó, sau mỗi lần chạm lại gật đầu, một thủ tục hằng ngày giống như người ta phải quỳ gối khi tế lễ. Sau đó cô đi khắp nhà lần thứ ba, lau sạch mọi bề mặt bằng hỗn họp năm mươi phần trăm nước lau kính Windex
và năm mươi phần trăm nước thánh cho đến khi thấy thỏa mãn.
Khi đã bình tĩnh trở lại, cô gọi điện thoại cho chị dâu, Jeanie, vốn sống ở trưng tâm New Jersey.
"Chúng ổn," Jeanie nói, nhắc đến lũ trẻ chị đã đến đón ngày hôm trước. "Rất ngoan. Ansel thì sao rồi?"
Ann-Marie nhắm mắt lại. Nước mắt ứa ra. "Em không biết."
"Chú ấy đỡ hơn chưa? Em đã cho chú ấy ăn xúp gà chị mang đến chưa?"
Ann-Marie chỉ sợ giọng cô sẽ để lộ là hàm cô đang run bần bật. "Lát nữa. Em... em sẽ gọi lại chị sau."
Cô tắt máy và nhìn ra cửa sổ sau nhà, về chỗ những ngôi mộ. Hai miếng đất mới xói. Nghĩ đến những con chó nằm ở đó.
Ansel. Điều anh đã làm với chúng.
Cô cọ rửa hai bàn tay, sau đó lại đi khắp nhà, lần này chỉ dưới lầu. Cô lấy cái hộp gỗ gụ từ tủ bát đĩa trong phòng ăn, mở nắp và làm lộ ra bộ đồ ăn bằng bạc, quà cưới của cô. Lấp lánh và bóng loáng. Bảo vật bí mật của cô, đưọc cất giấu như những người phụ nữ khác giấu kẹo hay thuốc. Cô sờ từng món đồ, đầu ngón tay hết chạm vào bạc lại đưa lên môi. Cô cảm thấy mình sẽ gục ngã nếu không chạm tay vào từng thứ một.
Rồi cô đi tới cửa sau. Cô dừng lại ở đó, kiệt sức, bàn tay trên tay nắm cửa, cầu nguyện được soi lối, được cho sức mạnh. Cô cũng cầu nguyện được thấu hiểu, được hiểu ra đang có chuyện gì, được chỉ dẫn cho hành động đúng đắn.
Cô mở cửa, bước xuống bậc thềm dẫn tới chuồng chó. Cái chuồng cô đã kéo xác chó ra mang tới một góc sân, không biết phải làm gì khác. May mắn thay, có một cái xẻng cũ dưới hiên trước, vậy nên cô không phải vào lại chuồng chó nữa. Cô đã chôn chúng trong hố đất nông và khóc trên nấm mồ của chúng. Khóc cho chúng và cho các con của cô, cho cả chính cô nữa.
Cô bước đến bên hông nhà kho, nơi những cây hoa vàng và cam được trồng trong một chiếc hộp đặt dưới cái cửa sổ bốn ô kính. Cô do dự một hồi rồi mới nhìn vào bên trong, che mắt tránh ánh mặt trời. Dựng cụ làm vườn treo trên các bảng ghim gắn trên tường, những công cụ khác thì chất đống trên các giá để đồ và một cái bàn thợ nhỏ. Anh nắng chiếu qua cửa sổ tạo thành hình chữ nhật hoàn hảo trên sàn nhà bẩn, bóng Ann-Marie đổ dài trên cây cọc kim loại cắm xuống đất. Một sọi xích giống nhu cái ở trên cửa có một đầu được gắn vào cọc, còn đầu kia bị khuất ở đâu đó do góc nhìn của cô. Sàn chuồng cho thấy dấu vết đào bói.
Cô quay trở về phía trước, dừng lại trước cánh cửa bị xích. Nghe ngóng.
"Ansel?"
Cô thì thầm. Cô lắng nghe một lần nữa, và, chẳng nghe thấy gì, cô bèn ghé sát miệng vào khoảng hở giữa hai cánh cửa bị mưa làm cho cong vênh.
"Ansel?"
Một tiếng sột soạt. Cái âm thanh mơ hồ giống tiếng một con thú đó làm cô khiếp hãi... tuy nhiên cũng đồng thời khiến cô an tâm.
Anh vẫn còn bên trong, vẫn còn với cô.
"Ansel... Em không biết phải làm gì... xin anh... hãy cho em biết nên làm gì... em không thể làm được chuyện này nếu thiếu anh. Em cần anh, anh yêu. Xin hãy trả lời em. Em phải làm gì?"
Tiếng sột soạt nhiều hon, như tiếng giũ đất. Một âm thanh phát ra từ cổ họng, như tiếng ống nước tắc.
Giá mà cô có thể nhìn thấy anh. Khuôn mặt làm yên lòng của anh.
Ann-Marie thò tay vào bên trong ngực áo, lấy ra một chiếc chìa khóa móc trong dây giày. Cô cầm ổ khóa đang khóa sợi xích móc qua các tay nắm cửa và tra chìa vào, xoay chìa cho tới khi một tiếng cạch vang lên, móc khóa tách ra khỏi ổ khóa bằng thép dày. Cô xổ sọi xích và rút nó ra khỏi tay nắm cửa bằng thép, thả nó roi xuống mặt cỏ.
Hai cánh cửa tách ra, xoay ra ngoài vài phân. Mặt trời giờ đang ở thẳng trên đỉnh đầu, bên trong chuồng là bóng tối, nếu không kể một chút ánh sáng lọt qua ô cửa sổ nhỏ. Cô dừng lại một lúc trước khi mở, cố nhìn xem bên trong.
"Ansel?"
Cô thấy một cái bóng động đậy.
"Ansel... anh phải yên lặng hơn nữa, vào ban đêm ấy... Lão Otish ở bên kia đường đã gọi cảnh sát, đinh ninh là bọn chó... bọn chó..."
Nước mắt cô chỉ chực tràn ra.
"Em... em suýt nữa đã nói với lão về anh. Em không biết phải làm gì, Ansel. Đâu là điều đúng đắn? Em thật sự bối rối. Xin anh... Em cần anh..."
Cô đang với tay về phía cửa thì giật mình vì nghe thấy một tiếng kêu như rên rỉ. Anh lao ra cửa - về phía cô - tấn công từ bên trong. Nhưng sọi xích cố định vào cọc đã giật ngược anh trở lại, bóp nghẹt tiếng gầm của một con thú trong cổ họng anh. Nhưng khi cánh cửa mở bung ra, cô đã thấy - trước khi cô kịp thét lên, trước khi cô kịp sập mạnh cửa lại trước mặt anh như một con lốc hung dữ đóng sập cánh cửa chóp - chồng của cô bò trên đất, trên người chẳng có gì ngoại trừ chiếc vòng cổ chó siết chặt ở cổ, miệng anh đen ngòm và mở to. Anh đã bứt gần hết tóc của mình cũng như đã xé bỏ toàn bộ quần áo; cơ thể trắng nhợt, nổi gân xanh trông vô cùng dơ dáy do ngủ - giấu mình - dưới đất bẩn, như một thứ đã chết tự đào mộ và vùi mình vào đó. Anh nhe hàm răng nhuốm máu, đôi mắt co rụt lại, trốn tránh ánh mặt trời. Một con quỷ. Cô run rẩy lồng sọi xích trở lại hai tay nắm cửa và đóng khóa, rồi quay người chạy biến vào nhà.
Phố Vestry, Tribeca
CHIẾC LIMOUSINE đưa Gabriel Bolivar tới thẳng văn phòng bác sĩ riêng của anh ta trong một tòa nhà có bãi để xe dưới tầng hầm. Bác sĩ Ronald Box là bác sĩ chính cho nhiều người nổi tiếng trong lĩnh vực điện ảnh, truyền hình và âm nhạc ở New York. Ông không phải là một thầy kê đơn, hay bác sĩ Feelgood[I], nhũng cái máy viết đơn thuốc chính hiệu, dù ông cũng rất hào phóng với chiếc bút điện tử của mình. Ông là một bác sĩ nội khoa được đào tạo bài bản, biết rất rõ về các trung tâm cai nghiện, giỏi điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, viêm gan siêu vi c, và các căn bệnh khác liên quan đến người nổi tiếng.
Bolivar ngồi xe lăn lên thang máy, chỉ mặc áo choàng đen, trầm ngâm như một ông lão. Mớ tóc đen dài óng ả đã trở nên xơ xác và rụng từng mảng. Anh ta che mặt bằng hai bàn tay xương xẩu như bị viêm khớp để không ai nhận ra. cổ họng sưng to và đau buốt đến nỗi không thể nói.
Bác sĩ Box nhận ra vấn đề của anh ta ngay lập tức. Ông đang xem những hình ảnh được truyền đến từ phòng lâm sàng. Những hình ảnh đi kèm với tin nhắn xin lỗi từ trưởng nhóm lâm sàng, ông này chỉ nhìn thấy kết quả chứ không thấy bệnh nhân, hứa sẽ sửa chữa thiết bị và đề nghị tổ chức một buổi kiểm tra khác trong một hai ngày tới. Nhưng, nhìn Bolivar, bác sĩ Box không cho rằng vấn đề là do thiết bị hỏng. Ông mang ống nghe đến gần Bolivar, nghe nhịp tim, bảo anh ta hít thở. Ông muốn xem họng Bolivar, nhưng bệnh nhân từ chối, không nói ra lời, đôi mắt đen-đỏ rực lên đau đớn.
"Anh đeo kính áp tròng bao lâu rồi?" bác sĩ Box hỏi.
Miệng Bolivar mấp máy thành tiếng gầm gừ khô khốc và anh ta lắc đầu.
Bác sĩ Box nhìn tên hộ vệ đứng ở cửa, mặc đồng phục tài xế. Vệ sĩ của Bolivar, Elijah - cao hai mét, nặng gần một trăm hai mươi cân - có vẻ lo lắng, và bác sĩ Box bắt đầu thấy hoảng. Ông kiểm tra tay của ngôi sao nhạc rock, nhăn nheo và lở loét, nhưng không hề yếu ớt. Ông cố kiểm tra hạch dưới quai hàm, nhưng anh ta quá đau. Nhiệt độ đo được từ phòng khám là 50°C, một nhiệt độ không tưởng ở con người, thế nhưng khi đứng đủ gần đến độ có thể cảm thấy được hơi nóng phát ra từ người Bolivar, bác sĩ Box tín con số đó.
Bác sĩ Box lùi lại.
"Tôi thật sự không biết nói thế nào về chuyện này, Gabriel. Có vẻ cơ thể anh bị nghi là có những khối u ác tính.
Đó là ung thư. Tôi đang nghĩ tới ung thư biểu bì, ung thư mô liên kết, ung thư máu, và tất cả đều đã di căn trầm trọng. Tôi chưa từng biết tới một tiền lệ y học nào như thế này, dù sao thì tôi nhất định sẽ mòi các chuyên gia trong lĩnh vực này cùng xem xét."
Bolivar chỉ ngồi đó, lắng nghe, đôi mắt mất màu của anh ta ánh lên cái nhìn hiểm ác.
"Tôi không biết nó là cái gì, nhưng thứ gì đó đang khống chế anh. Tôi nói điều đó theo nghĩa đen. Tất cả những gì tôi có thể nói là, trái tim anh đã ngưng đập. Có lẽ bệnh ung thư đang... điều khiển cơ quan đó. Làm nó đập. Phổi của anh cũng vậy. Chúng đã bị xâm chiếm và... gần như bị hấp thụ, bị biến đổi. Như là..." Bác sĩ Box chợt nhận ra điều này. "Như là anh đang trong quá trình hóa thân, về mặt lâm sàng, anh có thể được coi như đã chết. Có lẽ ung thư đang giữ cho anh sống. Tôi không biết phải nói thế nào với anh nữa. Các cơ quan của anh đang bị tàn phá hoàn toàn, nhưng ung thư của anh... ờ, ung thư của anh đang rất sung sức."
Bolivar trừng đôi mắt ghê rọn ngồi nhìn vào khoảng không. Cổ hơi phồng lên, như thể anh ta đang cố nói, nhưng không thể đẩy tiếng nói của mình qua cục tắc nơi cổ họng.
Bác sĩ Box nói, "Tôi muốn chuyển anh qua trung tâm Sloan-Kettering ngay lập tức. Chúng ta có thể làm vậy với một cái tên giả và thẻ bảo hiểm xã hội giả. Đó là bệnh viện điều trị ung thư tốt nhất nước. Tôi muốn anh Elijah chở anh tới đó ngay bây giờ..."
Bolivar phát ra một tiếng rên ùng ục trong ngực chỉ có thể được hiểu là không. Anh ta chống hai tay vào thanh tì tay của xe lăn trong khi Elijah bước tới giữ lấy tay cầm sau của nó để Bolivar có thể đứng lên. Bolivar mất một lúc mới lấy lại được thăng bằng, rồi anh ta túm dây lưng của chiếc áo choàng và giật mở tung nút thắt.
Lộ ra dưới áo choàng của anh ta là dương vật ỉu xìu, thâm đen và nhăn nheo, chỉ chực roi ra khỏi háng giống như một quả sung thối trên một cái cây đang chết héo.
Bronxville
NEEVA, NGƯỜI TRÔNG TRẺ NHÀ LUSS, vẫn rất bối rối sau những sự kiện xảy ra trong hai mươi bốn giờ qua, giao lũ trẻ lại cho cháu của bà, Emile, trong khi con gái của bà, Sebastiane, lái xe đưa bà trở lại Bronxville. Bà đã dỗ hai đứa trẻ nhà Luss, Keene và em gái tám tuổi của nó, Audrey, ăn món ngũ cốc sấy Frosted Flakes thay cho bữa trưa, cùng trái cây xắt vuông, vốn đã được bà Neeva đem theo khi chạy khỏi nhà Luss.
Giờ bà đang quay lại để lấy thêm đồ. Những đứa trẻ nhà Luss có thể sẽ không ăn các món nấu kiểu Haiti của bà, và - bức bách hơn cả - Neeva đã để quên thuốc hen Pulmicort của Keene ở nhà. Thằng bé đang thở khò khè và nhìn rất nhợt nhạt.
Họ đánh xe vào và thấy chiếc xe màu xanh lá cây của Guild ở lối vào nhà Luss, Neeva chững lại. Bà bảo Sebastiane đỗ lại đó đợi, còn bà xuống xe, vuốt thẳng lại chiếc quần thụng dưới váy, và cầm theo chìa khóa đi về phía cửa hông. Cánh cửa mở ra không một tiếng động, hệ thống báo động đã ngắt. Neeva bước ngang qua một tiền phòng được trang bị đầy đủ với những giá để đồ gắn tường, móc treo áo choàng, và sàn lát gạch được sấy nóng từ bên dưới - một tiền phòng không bao giờ dính chút bùn đất - rồi đẩy cánh cửa nhiều ô kính thông vào bếp.
Không có dấu hiệu nào chứng tỏ đã có ai đó vào phòng này kể từ lúc bà rời đi cùng lũ trẻ. Bà đứng yên tại cửa, căng tai nghe ngóng, nín thở lâu hết mức có thể rồi mới thở ra. Bà không nghe thấy gì cả.
"Xin chào?" Bà gọi vài lần, không biết liệu cô Guild, người có mối quan hệ khá lạnh nhạt với bà - bà ngờ là người quản gia này ngầm có tư tưởng phân biệt chủng tộc - có trả lời bà. Không biết liệu Joan - một bà mẹ rất thiếu bản năng làm mẹ, chỉ toàn tâm vì sự nghiệp luật sư của mình, như một đứa trẻ không hơn - có trả lời bà. Và bà biết cả hai người chắc sẽ không trả lời bà.
Chẳng nghe thấy gì, bà bước ngang qua căn phòng tới đảo bếp giữa nhà và nhẹ nhàng đặt túi xách xuống, giữa bếp và bồn rửa. Bà mở tủ để đồ ăn nhẹ, và vội vàng, giống một tên trộm hơn bà tưỏng, nhét ngũ cốc sấy, nước quả, bỏng ngô Smartfood vào đầy chiếc túi Food Emporium - thỉnh thoảng dừng lại một lát để nghe ngóng.
Sau khi càn quét phô mai thỏi và sữa chua từ tủ lạnh, bà nhìn thấy số của ông Luss trên tờ danh bạ điện thoại dán trên tường, gần chiếc điện thoại nhà bếp. Bà đột nhiên thấy lưỡng lự. Bà có thể nói gì với ông ấy? Vợ ông bị ốm. Cô ấy không ổn. Vì thế tôi đã đưa lũ trẻ đi. Không. Bà có mấy khi nói chuyện với người đàn ông đó đâu. Có gì đó ma quỷ trong ngôi nhà tráng lệ này, và bổn phận đầu tiên cũng là duy nhất của bà - vừa là người làm thuê vừa là một người mẹ - là đảm bảo an toàn cho lũ trẻ.
Bà kiểm tra tủ thuốc phía trên tủ mát âm tường trữ rượu, nhưng hộp Pulmicort trống rỗng, đúng như bà đã lo sợ. Bà phải xuống kho chứa dưới tầng hầm. Tại đầu cầu thang trải thảm xoáy trôn ốc, bà dừng lại và lấy từ trong túi ra một cây thánh giá tráng men. Bà cầm nó theo khi đi xuống dưới, để phòng ngừa. Dưới chân cầu thang, tầng hầm rõ ràng rất tối so với thời điểm đó của ngày. Bà bật tất cả các công tắc đèn trên bảng điện, đứng lắng nghe động tĩnh sau khi đèn đã sáng lên.
Họ gọi nó là tầng hầm, nhưng thực ra đó là một tầng khác với đầy đủ tiện nghi của ngôi nhà này. Họ đã lắp đặt một rạp hát gia đình ở dưới này, có đủ cả ghế nhà hát và một xe làm bỏng ngô. Phòng kế bên chứa đầy đồ choi và bàn game; một phòng khác nữa là nơi cô Guild chứa quần áo và đồ vải của gia đình. Ngoài ra còn có phòng tắm thứ tư, phòng thực phẩm và một hầm rượu mới lắp đặt có trang bị thiết bị kiểm soát nhiệt độ. Hầm rượu được làm theo kiểu châu Âu, những người thợ đã phải đục phá móng nhà để tạo ra một lóp nền chỉ toàn là đất.
Hoi nóng ùa ra kèm theo một tiếng động nghe như có ai đá vào lò sưỏi - bộ máy hoạt động của tầng hầm thực tế được bố trí khuất sau một cánh cửa nào đó - và âm thanh đó thiếu chút nữa khiến bà phải ba chân bốn cẳng chạy lên tầng trên. Bà đã quay ra đến cầu thang, nhung thằng bé cần thuốc, màu da nó không được tốt.
Bà quả quyết băng ngang tầng hầm, và khi đến giữa hai chiếc ghế nhà hát bằng da, nửa đường tới cánh cửa xếp của phòng thực phẩm, bà nhận thấy có thứ gì đó lù lù chặn ở cửa sổ. Đó là lý do dưới này tối thế dù đang giữa ban ngày: đồ choi và hộp các tông cũ chất trên một cái giá đỡ để sát tường, chặn cửa sổ nhỏ, cùng với quần áo và giấy báo chắn mọi tia sáng của mặt trời.
Neeva chăm chú nhìn, tự hỏi ai đã làm việc này. Bà bước vội đến phòng thực phẩm, lục trên một cái giá thép tìm thuốc hen của Keene cũng như thuốc vitamin và những tuýp canxi dạng kẹo nhiều màu của Joan. Bà lấy xuống hai hộp dài chứa các lọ nhựa, bỏ qua mọi thứ đồ ăn còn lại vì vội, và hối hả đi ra chẳng buồn đóng cửa lại.
Khi bắt đầu băng qua tầng hầm, bà nhận thấy cửa vào phòng chứa quần áo hé mở. Có gì đó bất thường với cánh cửa vốn không bao giờ để mở này, cho thấy một sự vi phạm trật tự thông thường mà Neeva đã rất quen thuộc trong ngôi nhà.
Rồi bà nhìn thấy nhiều vết bẩn tối màu trên lóp thảm nhung, cách quãng gần bằng bước chân người. Mắt bà dõi theo chứng cho tới cửa hầm rượu bà buộc phải đi ngang qua để ra tới cầu thang. Bà thấy đất lem trên tay nắm cửa.
Neeva cảm thấy nó khi gần đến cửa hầm rượu. Từ cái phòng nền đất đó, một cái tổ đen giống như nấm mồ. Một thứ vô hồn. Tuy nhiên... không phải một thứ lạnh lẽo. Mà ngược lại, là một thứ ấm áp. Một thứ nóng, lén lút và xáo động.
Tay nắm cửa bắt đầu quay khi bà chạy ngang qua để lên cầu thang. Neeva, một phụ nữ năm mươi ba tuổi viêm khóp đầu gối, vấp chân vào các bậc cầu thang trong khi chạy lên trên. Bà trượt chân, bèn vịn tay vào tường để lấy lại thăng bằng, cây thánh giá cào vỡ một mảng vữa nhỏ. Thứ gì đó ở phía sau, đuổi theo bà lên cầu thang. Bà la hét bằng tiếng Tây Ban Nha khi lên đến tầng một rực sáng ánh mặt trời, chạy dọc phòng bếp dài, chộp lấy túi xách, làm đổ cái túi Food Emporium, đồ ăn nhẹ và thức uống roi tung tóe xuống sàn, nhung bà quá sợ không dám quay lại.
Sebastiane nhảy ra khỏi xe khi nhìn thấy mẹ mình trong bộ váy hoa dài đến mắt cá chân và đôi giày đen vừa chạy ra khỏi ngôi nhà vừa la hét. "Đừng!" mẹ cô hét to, ra hiệu cho cô vào lại trong xe. Bà chạy như thể đang bị đuổi theo, nhưng thực ra chả có ai ở phía sau bà. Sebastiane ngồi trở lại vào ghế, cảnh giác.
"Mẹ, chuyện gì vậy?"
"Lái đi!" Neeva kêu to, lồng ngực rộng phập phồng, đôi mắt vẫn hoảng loạn, nhìn chằm chằm cánh cửa mở bên hông nhà.
"Mẹ," Sebastiane nói, lùi xe để vòng lại. "Thế này là bắt cóc đấy. Họ có luật. Mẹ đã gọi cho ông chồng chưa? Mẹ đã nói là mẹ sẽ gọi cho ông chồng mà."
Neeva mở lòng bàn tay, thấy nó đẫm máu. Bà đã nắm cây thánh giá đính cườm chặt đến nỗi thanh ngang của nó cứa đứt thịt bà. Bà để nó roi xuống sàn xe.
Trụ sỏ cành sát số 17, phố 51 Đông, Manhattan
VỊ GIÁO SƯ GIÀ ngồi ở tít cuối băng ghế trong phòng tạm giam, tránh xa hết mức người đàn ông cỏi trần đang ngáy khò khò sau khi vừa ỉa đùn một bãi do không muốn làm phiền bất cứ ai chỉ chỗ toilet ở góc phòng, hay thậm chí là cỏi quần mình ra.
"Setraykeen... Setarkian... Setrainiak..."
"Tôi đây," ông trả lời, đúng lên bước về phía người mặc cảnh phục không biết đọc cho đúng đứng ở chỗ cửa phòng đang mở. Viên cảnh sát để ông bước ra và đóng cánh cửa lại phía sau.
"Tôi được thả ra à?" Setrakian hỏi.
"Chắc vậy. Con trai ồng đã tới đón ông rồi."
"Con..."
Setrakian dừng lại. Ông theo viên cảnh sát vào một phòng thẩm vấn không ghi gì ở ngoài. Anh ta mở cửa và ra hiệu cho ông bước vào.
Setrakian chỉ mất một thoáng, vừa kịp cho cánh cửa phía sau lưng đóng lại, để nhận ra nhân vật ngồi phía bên kia chiếc bàn trống là bác sĩ Ephraim Goodweather của Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Bệnh dịch.
Kế bên là nữ bác sĩ lúc trước đã đi cùng anh ta. Setrakian mỉm cười tán thưởng mưu mô của họ, dù ông chẳng hề ngạc nhiên khi họ xuất hiện.
Setrakian nói, "Vậy là nó đã bắt đầu."
Bác sĩ Goodweather nhìn ông từ trên xuống dưới bằng đôi mắt thâm quầng vì mệt mỏi và mất ngủ. "Ông muốn ra khỏi đây, chứng tôi có thể đưa ông ra. Trước hết chúng tôi cần ông giải thích. Tôi cần thông tin."
"Tôi có thể trả lời nhiều câu hỏi của anh. Nhưng chứng ta đã mất quá nhiều thời gian. Chúng ta phải bắt đầu bây giờ - ngay lập tức - nếu muốn có bất cứ cơ hội nào để ngăn chặn thứ quỷ quái này."
"Tôi cũng đang muốn nói đến chuyện đó đây," bác sĩ Goodweather nói, chìa bàn tay khá thô ráp của mình ra. "Thứ quỷ quái này là gì vậy?"
"Hành khách từ cái máy bay đó," Setrakian nói. "Người chết sống lại."
Eph không biết phải trả lời thế nào. Anh không thể nói gì. Anh không muốn nói gì.
"Anh cần bỏ qua nhiều thứ, bác sĩ Goodweather," Setrakian nói. "Tôi biết là anh nghĩ mình đang mạo hiểm tin vào lời nói của một ông già lạ hoắc. Nhưng, trên một phương diện nào đó, tôi đang mạo hiểm gấp trăm ngàn lần khi giao trách nhiệm này cho anh. Điều chúng ta đang thảo luận ở đây chính là số phận của loài người - dù tôi không kỳ vọng anh hoàn toàn tin vào điều đó, hoặc hiểu được nó. Anh nghĩ anh đang kéo tôi vào công việc của anh. Sự thật là, tôi đang kéo anh vào công việc của tôi."
Chú thích:
[I] “Dr. Feelgood” nguyên là tên một bài hát của ban nhạc Motley Crue, kể về một người buôn bán ma túy. Từ lóng: chỉ loại bác sĩ có xu hưởng kê thuốc an thần, gây ảo giác cho bệnh nhân.
Guillermo Del Toro - Chuck Hogan
Nhật Minh, Ngọc Diệp, Minh Hiếu dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXNhà thơ lãng tử

Nhà thơ lãng tử Chương 1 Một chuyến du lịch. Tâm Sứt huýt gió một hơi dài, trao trả bé Thơ tấm hình: - Trời ơi! Công viên đẹp vô cùn...