Thứ Năm, 10 tháng 10, 2024

Phía sau trận chiến

Phía sau trận chiến

Nhà văn Vũ Quốc Khánh sinh ngày 15.6.1950, quê gốc ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên nhưng theo gia đình lên khai hoang ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Khi học đến năm thứ 5 Trường Đại học Nông nghiệp I thì ông nhập ngũ và trở thành bộ đội địa phương Tỉnh đội Quảng Nam Đà Nẵng. Đất nước thống nhất ông ra quân về học tiếp trở thành giảng viên khoa Cơ điện Trường Đại học Nông nghiệp I, rồi cán bộ quản lý, Giám đốc Công ty Chè. Từ năm 2005 ông chuyển sang làm Giám đốc Công ty xây dựng và bắt đầu sự nghiệp sáng tác.
Vũ Quốc Khánh trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam sau khi truyện ngắn đầu tay của ông gây được sự chú ý, được lựa chọn đọc trong chương trình “Đọc truyện đêm khuya” của đài VOV và tiểu thuyết đầu tay “Seo Sơn” của ông được trao giải Ba cuộc thi Tiểu thuyết lần thứ IV của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó đến nay các tiểu thuyết của ông liên tục được trao các giải chính thức của Hội Nhà văn, của Hội VHNT các DTTS Việt Nam, của cuộc thi Cây bút vàng Bộ Công an. Điều đó khẳng định vị thế và thương hiệu của nhà văn Vũ Quốc Khánh trong đội ngũ những người viết văn ở Phú Thọ.
Vốn sống có được trong chiến tranh cách mạng, sự trải nghiệm trong nghề nghiệp kỹ thuật và quản lý, tình yêu cuộc sống sâu đậm đã gắn kết mối quan hệ giữa xã hội và văn chương, kèm theo năng lực học hỏi trong sáng tác tiểu thuyết đã tạo cho nhà văn Vũ Quốc Khánh những thế mạnh không dễ gì người khác có được.
Văn phong Vũ Quốc Khánh chân chất, giàu cảm xúc; dễ đọc và đọc cuốn hút, đầy sự lịch lãm, tế nhị sau trước, khiến đã mến văn lại cảm thêm người.
Vanvn.vn trân trọng trích giới thiệu đến bạn đọc tiểu thuyết Phía sau trận chiến của nhà văn Vũ Quốc Khánh.
Chương X
… Mưa tầm tã đã mấy hôm. Dòng sông Thu ngầu đỏ phù sa, dâng nước lên ngập bờ trên, bãi dưới. Con đường thường ngày gùi hàng vẫn đi qua giờ chìm trong nước. Hón bồn chồn, lòng dạ không yên. Hàng mua về, tập kết ở các kho không chuyển về cứ được. Không cẩn thận, tạnh mưa, địch tổ chức vây ráp, phát hiện ra thì gay to. Mọi người trong nhà ông Năm mỗi người một việc, hoặc giúp người này sửa nhà, hoặc giúp người kia dọn vườn cây đổ. Chỉ còn mình Hón trong căn nhà vắng ngơ vắng ngắt.
Ngoài kia dòng sông Thu đục ngầu, mênh mông ngút mắt. Có con thuyền nhà ai nhỏ nhoi trong sóng nước đang từ bờ Bắc chèo sang. Bất giác, Hón nhớ lại ngày anh bị lũ cuốn. Anh nhớ mệ Hai, nhớ em Miên đã không quản hiểm nguy cứu anh thoát chết. Giờ này không biết mệ đang làm gì trong mưa bão?
Mưa ở miền Trung sợ thật, cứ kéo dài ra như không bao giờ dứt!
Hón bỗng nhớ đến bầm Hón ở nhà. Nhớ những ngày mưa ngâu tháng bẩy, bầm ngồi cần mẫn vót những nan cật giang để đan những chiếc ráng xinh xinh, những chiếc ớp đựng đồ hoặc kíu những ráng bông tách hạt ra khỏi múi để thợ bật bông đến bật chăn. Không biết năm nay sức vóc bầm thế nào, căn bệnh thấp khớp kinh niên có hay hành hạ bầm khiến chân bầm đau nhức? Hón đi xa, Mậu và Lèng có thường qua lại động viên thăm nom bầm cho Hón? Bản Mẫn của Hón năm nay lúa má có tốt không? Thóc hợp tác xã cho bầm liệu có tằn tiện đủ ăn? Bao nhiêu câu hỏi đan qua, đan lại trong đầu Hón mà không sao có được câu trả lời.
Nhiều lá thư gửi đi mà không có một lá nhận về. Chiến tranh như con quái vật nuốt hết mọi thứ, đẩy mẹ xa con, đẩy anh xa em, đẩy vợ xa chồng, đẩy Hón xa những người thương yêu, xa bản Mẫn không biết ngày nào trở lại.
Ngồi một mình thơ thẩn trong mưa, Hón lại nhớ những ngày đầu mới từ đơn vị trinh sát chiến đấu được điều động về đại đội vận tải này.
Bỡ ngỡ.
Chân ướt, chân ráo.
Choáng.
Hón như rớt từ ngọn cây xuống đất. Bao ước mơ vượt Trường Sơn đi đánh Mỹ thế là tan thành mây khói. Vừa ngày hôm qua đang là lính trinh sát của Trung đoàn thiện chiến Núi Thành, Hón và đồng đội tả xung hữu đột tiêu diệt căn cứ Hiệp Đức. Thế rồi được bổ sung về tỉnh đội. Hón hy vọng vẫn sẽ được đầu đội mũ tai bèo, vai đeo AK xung phong vượt qua những hàng rào dây thép gai, lùng sục vào các công sự hầm ngầm tiêu diệt giặc. Thế mà giờ chẳng thấy được chiến đấu đâu, chỉ thấy suốt ngày đi gùi hàng, ngày này sang ngày khác…
Mà sức gùi của con người cũng đến lạ. Nhìn thấy các chiến sĩ nam nữ nhỏ bé đứng bên cạnh các gùi hàng to hơn cả người mà Hón phát khiếp, có lẽ đến hàng tạ chứ chẳng chơi! Hón lấy hết sức để vần gùi hàng mà chỉ thấy hơi nhúc nhích. Ấy thế mà anh chị em cứ gùi đi bình thường. Hón sợ quá, mình mà gùi cái gùi hàng kia chắc không những không gùi được mà còn bị nó đè dúi xuống bẹp dí đằng khác.
Như hiểu được tâm trạng của Hón, đại đội trưởng Bẩy Tiền ân cần chỉ bảo:
– Hón đừng lo, ai ban đầu cũng sợ thế cả! Muốn gùi được cả tạ hàng phải biết vận dụng sức của toàn bộ các cơ bắp trong người. Bình thường nếu Hón gánh năm mươi kí thì chỉ có một vai Hón chịu sức nặng của nó. Không những thế sức nặng ấy chỉ đè lên phần cơ rộng chừng ba đầu ngón tay mà đòn gánh đè trên vai thôi. Đúng không?
Dừng lời một lát như để cho Hón hiểu hết lời mình nói, Bẩy mới nói tiếp:
– Nếu ta gùi trên hai vai, quai gùi ít nhất có vị trí áp lên các cơ ở vai, ở lưng và cánh tay lớn gấp sáu lần vị trí đòn gánh đè lên vai khi gánh. Như vậy nếu gùi năm mươi cân sẽ cảm thấy nhẹ hơn rất nhiều so với gánh.
Hón thử gùi thì quả như vậy, nhưng gùi cứ như muốn vít người về phía sau. Ngày đầu đi gùi về người đau như dần, chân rồi vai bỏng rát, rộp nước. Bẩy Tiền ân cần hướng dẫn cho Hón cách đóng gùi sao cho gọn nhất, kéo trọng tâm gùi hàng dịch về phía trước, rồi cách khom người để giữ trọng tâm gùi hàng rơi vào gót hai bàn chân đồng thời để lưng gánh bớt một phần trọng lượng đỡ vai. Đây là cả một kinh nghiệm được chắt lọc ra từ thực tiễn gùi hàng mà những người Pa Kô, Vân Kiều nằm sâu trong đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ đã đúc rút nên. Bẩy cũng chỉ bảo cho Hón cách pha nước muối ấm để ngâm chân, đắp vai cho da mau chai, không bị vỡ mụn nước, đỡ phồng rát.
Giá như ở nhà đi gùi nặng như thế này thì hôm sau bầm sẽ bắt Hón phải nghỉ. Nhưng ở đây Bẩy Tiền không cho Hón nghỉ, Hón vẫn phải gùi như hôm trước. Lại ê ẩm hết cả người, lại phồng da mọng nước. Bẩy lại pha nước muối ấm cho Hón ngâm chân, bóp vai.
Cứ thế suốt cả một tuần, cả hai tuần. Cuối cùng thì Hón cũng quen việc lấy cân bằng trọng tâm, nâng gùi lên là ổn định tư thế đi đứng. Không những thế da chân, da vai cũng thành chai, không phồng rộp nước nữa.
Bẩy còn hướng dẫn cho Hón đóng gùi cao lên để khi gùi một phần hàng sẽ áp lên đầu, rồi làm thêm quai đeo lên trán để tăng khả năng gùi. Vị trí buộc quai trên gùi hàng để sao cho phân bổ được một phần trọng lượng hàng lên đầu, lên vai người gùi, đến bản rộng của dây gùi sao cho hợp lí đều được Bẩy hướng dẫn chi tiết.
Thế là trọng lượng của gùi hàng gần trăm ký đã được Hón phân bổ lên toàn bộ cơ thể, lưng một phần, vai một phần, đầu trán một phần, nơi nào cũng có phần của nơi ấy.  Lại còn cây gậy chống nữa. Nó cũng chia sẻ với con người những nặng nhọc của người lính vận tải. Hón đã trở thành một chiến sĩ gùi hàng thực thụ như mọi chiến sĩ gùi hàng trong đại đội vận tải này.
Hón thầm biết ơn Bẩy Tiền đã tạo cơ hội cho Hón làm quen với công việc. Có những lúc Hón cũng cảm thấy khó chịu vì tính nghiêm khắc của Bẩy, nhưng rồi qua sự chăm lo của Bẩy, Hón đọc được ở đấy cả một sự quan tâm chân thành hết mực mà Bẩy dành cho Hón. Hình như ngoài tình đồng đội, Bẩy còn dành cho Hón một tình cảm gì thiêng liêng, cao quý hơn. Và sau buổi tránh Thái Bình hôm vừa rồi dưới căn hầm nhà ông Năm thì Hón càng hiểu rõ tình cảm đó, một tình cảm mà không dễ gì ai dám nói ra, nhất là đối với Bẩy Tiền.
Tự nhiên Hón bỗng nhớ đến Mậu, một nỗi nhớ da diết cồn cào. Hón nhớ nụ hôn ngọt ngào đầu đời với mối tình bỏng cháy của người con gái vừa bước vào lứa tuổi biết yêu mà Mậu đã dành cho anh. Bên tai Hón vẫn văng vẳng câu hát xẩm hôm nào mà Lèng đã cất lên. Câu hát không buồn và cũng chẳng vui, hình như là một lời man mát trách cứ và ai oán:
Đời người có mấy ước mơ
Chàng mơ chinh chiến, em mơ bóng chàng.
Hón tự hỏi mình bây giờ Mậu đang làm gì ở quê hương bản Mẫn thân yêu?
Hón đang miên man với bao nỗi nhớ quằn quại trong lòng thì Chín Hạnh về. Hóa ra con thuyền vượt sông Thu mà Hón vừa nhìn thấy là thuyền của Chín. Bất giác Hón chợt lóe ra ý nghĩ, vội bảo:
– Này Chín, hay mình dùng thuyền chở hàng lên Tam Cốc?
– Em cũng nghĩ đến, nhưng ngặt nỗi bọn bảo an đóng ở điền trại Phú Tam xăm soi đoạn sông ấy kĩ lắm, mần răng mà qua được hè.
– Thì nhổ nó đi mà qua! Nếu vận chuyển được bằng thuyền thì đỡ bao nhiêu là công gùi. Mỗi thuyền chở ít nhất cũng bằng bốn năm người gùi chứ ít đâu.
– Nhưng nhổ mần răng chừ? Du kích mình lực mỏng, bộ đội đằng mình thì ở xa…
– Anh nghĩ nhất định mình phải tìm ra cách. Phải đánh địch từ trong lòng địch. Phải xây dựng hệ thống cung ứng hậu cần cho bộ đội từ trong nhân dân vùng vựa lúa này mới bền chặt. Không gì an toàn và vững chắc bằng thế trận lòng dân. Tình thế cách mạng giờ đang thay đổi. Không thể chỉ giữ nguyên nếp cung ứng theo kiểu tập trung về kho trung tâm rồi phân cấp cho các đơn vị mãi thế được nữa.
Dừng một lát như để lấy hơi, Hón bộc bạch tiếp:
– Cần xây dựng một mô hình dự trữ tổng hợp cả ở tổng kho và ngay ở trong dân vùng tạm chiếm. Nếu được thế, khi cần ta có thể vừa huy động nhanh, vừa an toàn, theo kiểu đánh địch ở đâu huy động ở đó. Mỗi nhà dân giữ cho bộ đội vài tạ gạo, đôi tạ gạo sấy thì cả Hà Tam này có dư sức vài trăm tấn. Chỉ cần mở thông đường bộ, đường sông vận chuyển là khi cần ta có thể cung cấp ngay cho bộ đội các nơi mà không cần mở rộng các kho tập trung, tránh tổn thất khi địch thả bom, bắn pháo.
– Ừa nhỉ, anh tính giỏi ghê ta! Vậy làm sao mình triệt được cái đồn bảo an, mở lối vận chuyển hàng anh hè?
– Anh tin rồi mình sẽ có cách.
Hai người đang đăm chiêu thì Bẩy Tiền người ướt như chuột lột dẫn y tá Liên cùng mấy chiến sĩ nữa đội mưa xăm xăm bước tới.
Hóa ra ở nhà, Bẩy cũng sốt ruột không kém. Bộ đội đã bị giảm khẩu phần ăn xuống còn một nửa đã mấy ngày nay. Không thông được tuyến đường này thì sự chi viện hậu cần cho tỉnh đội sẽ ách tắc, bộ đội còn đói nữa. Cả tỉnh bây giờ đâu đâu cũng ngập. Mà ngập thì chợ búa không họp được. Không ai nghĩ mưa cuối mùa lại dai như đỉa đói thế. Các cung đường vận chuyển từ quân khu xuống đều tắc nghẽn, bộ đội chủ lực cũng trong tình trạng đói ăn huống chi bộ đội tỉnh. Hàng mấy nghìn người biết trông mong vào đâu trong lúc cuối mùa giáp hạt này?
Không thể để tình trạng này kéo dài. Bằng cách nào cũng phải mở được đường lên núi. Bộ đội đang chờ. Phong, Chín Hạnh, Tư Thới, Miên, bà Hai được mời gấp về họp tại  nhà ông Năm Long.
Từ hôm được bà Hai và Miên cứu, mặc dù về Hà Tam có đến cả tháng nhưng Hón chỉ hỏi thăm được bà qua Miên và Chín mà chưa sang Bắc Hà Tam thăm bả được. Có lẽ cũng bởi vì công việc ngập lút đầu lút cổ, nhưng cũng còn bởi vì Hón e gặp đồn trưởng Thái Bình bất chợt về nhà.
Bà Hai Thái Bình gặp lại Hón thì mừng lắm. Không hiểu sao bà rất quý chàng trai người Bắc này. Có lẽ Hón làm bà nhớ lại nơi quê xa chôn rau cắt rốn của bà. Thấm thoát bà vào đây sinh cơ lập nghiệp cũng đã hơn hai mươi năm, từ ngày đầu còn xanh, tuổi còn trẻ. Hình ảnh quê hương với những triền đê dài dọc hai bờ con sông Luộc mầu mỡ phù sa, với những cánh đồng đay trải dài ngút tầm mắt vẫn nôn nao trong bà. Người mẹ già, trước lúc nhắm mắt xuôi tay thều thào dặn hai chị em bà ráng đùm bọc rau cháo nuôi nhau cho qua đận đói năm nào còn in đậm trong tâm khảm bà. Rồi hình ảnh người chị khắc khổ vẫy vẫy cái nón mê khi đưa tiễn bà theo chồng vào đây sinh cơ lập nghiệp cũng cứ đi về trong lòng bà, bất chấp nắng mưa gió bão.
Mọi người chụm đầu bên nhau, bàn cách mở đường thông tuyến từ Hà Tam lên căn cứ để cung cấp gạo cho bộ đội. Nghe Hón nói muốn dùng thuyền chở quân lương nhưng chưa nghĩ ra cách gì để lọt qua trạm Phú Tam, mọi người ai cũng băn khoăn suy nghĩ.
Chợt bà Hai vỗ hai tay vào nhau đánh roẹt:
– Mệ nghĩ ra cách rồi!
Mọi người xúm lại:
– Cách chi mệ?
– Ngày kia là ngày giỗ ông Hai, mệ sẽ làm mấy mâm cơm cúng ổng, rồi kêu tụi bảo an đóng ở điền trại Phú Tam qua nhậu. Bọn ni sợ Thái Bình chắc không thể không đến. Em Miên và Chín Hạnh phụ giúp mệ sẽ căn giờ gà lên chuồng mới rước bọn ni vào bữa. Khi đó thuyền mình cứ thế kéo qua, chắc là êm ru hà.
Ông Năm Long cũng cho là phải. Ông bảo:
– Hôm đó, tui cũng sang thắp hương cho ảnh và xin dùng chén rượu giỗ ảnh giữ chưn bọn lính để anh em mình vượt sông cho êm thấm.
Bẩy Tiền cùng Hón và Phong xáp vô chỉ đạo theo ý mệ Hai và ông Năm, một mặt lấy việc theo dõi kĩ động tĩnh của tụi lính ngụy làm trọng, mặt khác bố trí du kích Hà Tam và đội công tác tăng cường của Phong tập trung hỏa lực bám sát khúc sông đó. Yên được thì tốt nhất, nếu địch có động tĩnh gì là xử lý êm lẹ, hỗ trợ cho đoàn thuyền nhanh chóng vượt sông.
Dù sao trong lúc cấp bách này, kế sách đó cũng coi là hợp lý hơn cả. Nhưng xét cho cùng, đó chỉ là cách thức giải quyết trước mắt để cứu đói cho bộ đội chứ không phải là cách thức lâu dài. Cách thức lâu dài là phải làm sao vô hiệu hóa cái đồn bảo an này theo hướng mà Hón đã có suy nghĩ.
Tối hôm giỗ, tổ công tác của Phong và ba chiến sĩ trong đội du kích Hà Tam do Tư Thới phụ trách đã áp sát bờ sông nơi đồn bảo an đồn điền Phú Tam đồn trú để đề phòng các tình huống bất trắc xẩy ra ảnh hưởng tới đoàn thuyền vận chuyển của Hà Tam lên căn cứ.
Rất may, mọi việc đúng như ý định của mệ Hai và ông Năm. Bọn địch lâu nay mưa bão không thấy bên ta có động tĩnh gì, chủ quan nhậu tới bến. Hơn chục chiếc thuyền nhất tề chèo ngược sông Thu đến vùng kiểm soát của ta an toàn tuyệt đối. Chỉ còn toán cuối cùng gần chục chiếc do chờ bốc xếp nên xuất phát muộn. Khi đoàn thuyền bắt đầu qua khúc sông có đồn bảo an canh gác, thì bất chợt có ánh đèn pha loang loáng, nhưng sau đó lập tức tắt ngấm. Thế là đoàn thuyền nhanh chóng mất hút trên dòng sông an toàn. Gần chục tấn gạo và gạo sấy đã được chuyển lên căn cứ. Bộ đội ta đã giải quyết được khó khăn trước mắt là chống đói trong những ngày mưa bão.
Sau chiến công đó, Hón tiếp tục trình bầy với Bẩy Tiền phương án biến Hà Tam thành tổng kho thứ hai của cơ quan Tỉnh đội, một tổng kho được phân tán trong dân, được bảo vệ bằng thế trận nhân dân.
Kể từ đó, mỗi nhà dân ở Hà Tam đều ý thức tích trữ quân lương cho giải phóng. Mọi sự ủng hộ của đồng bào ở các ấp, ở các thị tứ bị tạm chiếm, ở các thành phố xung quanh đều như những mạch ngầm chẩy về Hà Tam, lặng lẽ và âm thầm, tích tụ mỗi ngày một ít. Mệ Hai, Chín Hạnh và Miên nắm tin tức hàng ngày giúp cho Bẩy Tiền và Hón lên phương án điều động quân lương.
Chương XII
Chiến tranh đã hút hết nhân lực trai tráng ở bản Mẫn này ném ra chiến trường.
Đám thanh niên hết lứa này đến lứa khác được gọi lên đường nhập ngũ. Đầu tiên sức khỏe B2 còn bị loại cho ở nhà, sau này B2 cũng huy động hết miễn là đủ 17 tuổi. Đám thanh nữ cũng nô nức, người đi thanh niên xung phong, người đi dân công hỏa tuyến, người vào công nhân.
Những người con trai từ lớp tuyển quân đánh Mỹ những năm đầu không được đi, ở lại xã đều đã qua tuổi trung niên. Thời gian dần dần đẩy họ đến với tuổi già. Vì vậy, cán bộ xã bây giờ phần nhiều thanh niên nữ phải gánh vác.
Lèng là cán bộ thuộc diện đó.
Trong bản Mẫn, con trai lứa tuổi như anh Khang người yêu của Lèng giờ bói cũng chẳng có ai. Hết bộ đội, lại đến các nông, lâm trường, xí nghiệp lôi kéo họ. Tính cả các bản trong xã, cánh đàn ông sêm sêm tuổi Lèng cũng chỉ còn vài người, nhưng đều không đủ sức khỏe để nhập ngũ, cho nên việc Lèng trở thành xã đội trưởng cũng chẳng có gì là lạ.
Đúng là lúc đầu cũng có mấy ông tóc đã điểm bạc xì xầm bàn tán:
– Con gái bản mường mình xưa nay chỉ quen với việc xe tơ, dệt vải, chứ đâu có biết việc súng ống, đạn dược. Bắt nó làm khác nào bắt bò kéo cầy ruộng chằm, ba bẩy hai mốt buổi có mà sa lầy sớm. Lúc ấy gọi cả mường, cả tổng ra mà khênh à?
Nhưng rồi những người khác lại bảo:
– Con trai quen chân đi, miệng nói xông pha ra tiền tuyến hết cả rồi, bây giờ chả con gái gánh vác việc làng, việc bản thử hỏi lấy đâu ra nam giới mà gánh vác. Huống chi cô Lèng là đảng viên, cô ấy phải đầu tầu gương mẫu chứ. Chẳng lẽ lấy người bưng mo cơm không vững như các ông ra mà làm à?
– Ừ nhỉ! Gay thật! Con trai đi ra trận mạc hết thì ở nhà biết lấy ai gánh vác bây giờ?
Thế là nghiễm nhiên mọi việc làng trên, bản dưới đều đổ vào vai đàn bà cả.
Lèng cũng không sao vin vào câu ca “việc quan ai bắt nữ nhi đàn bà” để chống chế, đành lấy cái xanh-tuya-rông to bản thắt vào ngang lưng, chỉ huy huấn luyện dân quân tập đội ngũ quay phải, quay trái, đi đều mốt hai mốt ở sân kho hợp tác. Đầu tiên còn ngượng ngập, sau quen dần, nghe cũng dõng dạc ra phết.
Thế là chẳng mấy tuần sau Lèng đã trở thành người chỉ huy quân sự có cá tính và bản lĩnh ở địa phương...
Vừa đi cấy ở đồng Lau về, mặt trời đã xối trên đỉnh đầu rồi, nghe tin bủ Hón ốm, Léng vội xăm xăm bước thấp, bước cao sang thăm:
– Bầm mỏi người à, để con lấy đồng bạc trắng đánh gió cho bầm nhé?
– Bầm hơi khó ở thôi, chị cứ về cơm nước chiều còn đi làm, mặc bầm!
– Mặc là mặc thế nào, con bẳng ù cho bầm nồi cháo, rồi đánh gió cho bầm, xong về ăn cơm cũng vừa!
Vừa nói Lèng vừa tay năm, tay mười thổi lửa, bẳng cái xoong nhôm đúc lên nấu cháo. Lại ù té chạy về nhà lấy đồng bạc hoa xòe, nắm tóc rối, mấy lá trầu không, đĩa dầu hỏa sang đánh gió cho bủ Hón.
– Đúng là bầm bị đậu rồi. Đồng bạc đen sì lại như thế này cơ mà. Nổi đỏ hết lưng lên rồi đây này. Bầm để yên con nhể đậu cho, xong ăn bát cháo tía tô, ra mồ hôi là nhẹ người ngay đấy mà!
– Thế như?
Lèng lấy cái kim khâu nhể từng nốt đỏ trên lưng bủ Hón, rồi nặn máu. Tay Lèng làm nhanh thoăn thoắt. Vừa làm Lèng vừa thủ thỉ:
– Bầm dạo này có ngủ được không?
– Ít ngủ thôi, nằm mãi mà chẳng thấy trời sáng.
– Chắc bầm lại nhớ anh Hón chứ gì?
– Chả biết anh ấy bây giờ ở đâu mà chẳng có thư từ gì về cho bầm.
– Ối dào, bộ đội nay đây mai đó, mà chiến tranh có ai thư từ gì được, cánh Thuận Phiến cũng có thư từ về đâu.
– Thế như?
– Mà bầm nhớ Hón vừa vừa thôi, kẻo Hón nóng ruột hay vấp ngã đấy!
– Ừ, thôi bầm không nhớ nữa.
Bủ Hón vừa mếu máo, vừa chớp chớp mắt.
Nhể đậu xong, vừa lúc xoong cháo chín. Lèng lấy bát, thái tía tô rồi múc cháo ép bủ Hón ăn. Được lưng bát, bủ kêu đau người, đi nằm, quay mặt vào vách và giục Lèng về ăn cơm còn đi làm chiều. Lèng biết bủ bảo Lèng về để khỏi nhìn thấy bủ khóc.
Hôm sau.
Mới quá nửa buổi sáng mà trời đã nóng như nung. Những trận gió Lào khô khốc thổi qua bản Mẫn như hút khô mọi thứ. Những trái bòng đang xanh nhưng chỉ qua hai cơn nắng đã trở nên vàng bệch. Mấy bụi chuối hột lá vốn xanh cứng nay cũng héo rũ trước trận gió hầm hập nóng. Những con trâu uể oải thở phì phò nép mình trong những gốc cọ tránh nắng nóng. Đàn vịt im ắng rủ nhau áp mình xuống đất ẩm lấy hơi mát mặc những chú chó từ đâu cũng xà xuống tranh chỗ nằm. Giờ ra chơi nhưng sân trường vắng tanh bởi đám trẻ sợ nắng nóng chỉ ở lỳ trong các lớp học. Bầu trời xanh đến rợn người, không có một gợn mây.
Đột nhiên từ trên đỉnh núi Phòng Không, những hồi kẻng liên thanh ba tiếng một rền rĩ vang lên. Rồi tiếng phản lực Mỹ ầm ì từ bên kia núi Thằn Lằn vọng lại. Hình như máy bay địch đang quần đảo đằng mạn thành phố Việt Trì.
Tiếng kẻng trên đồi Phòng Không mỗi lúc một dồn dập báo hiệu máy bay Mỹ sẽ bay qua thung lũng Thằn Lằn. Lèng hối hả giục bà con xã viên đang làm cỏ ngô trên đồng Ràng tìm nơi ẩn nấp. Cánh dân quân chụp vội súng hình thành đội hình chiến đấu.
Bỗng một tốp F4 như tia chớp gầm rú vượt qua. Một chiếc đùn ra luồng khói đen cố bay qua dẫy núi Cẩn Kheo lết về phia biên giới Việt Lào. Chắc là nó bị trúng đạn phòng không.
Lèng đang mải nhìn theo tốp F4 thì bất chợt một tốp “thần sấm” phía sau ào đến. Rồi có tiếng rít chói tai. Những quầng lửa bùng cháy và những tiếng bom nổ đinh tai nhức óc vang lên ở phía khu Đầm São. Lèng và chị em dân quân vội lội qua sông Bứa chạy tới nơi bom nổ.
Thì ra giặc Mỹ cắt bom. Bom rơi trúng vào trường cấp I của xã.
Nhà trường trước chiến tranh tọa lạc trên khu đất bằng phẳng ngoài trung tâm xã. Khi có chiến tranh, trường được chia làm hai phân hiệu. Một phân hiệu 8 lớp sơ tán vào khu Đầm São này, học trong các lớp học tranh tre nứa lá. Lớp nọ cách lớp kia vài chục mét ẩn dưới những bóng cây mý già ven con suối nhỏ. Sân trường cũng phân tán thành sân các lớp.
Khi Lèng tới nơi, khu Đầm São vốn yên bình là thế đã trở nên tan hoang. Một hố bom sâu hoắm nuốt hết cả sân khấu ngoài trời được giáo viên và học sinh ngụy trang bằng dàn dây bìm bìm nở hoa tím thẫm. Sân khấu này mỗi khi nhà trường tổ chức văn nghệ các cháu học sinh thường biểu diễn ca hát. Tất cả bây giờ chỉ còn là một hố sâu. Thêm một hố bom trúng khu vườn thực nghiệm. Nơi đây học trò có thể tập làm quen với các loại cây trồng. Những giò phong lan, những luống ngô, những bụi dong giềng dập nát, tơi tả. Mùi khói bom khét lẹt xông lên nồng nặc.
Ngôi nhà tập thể của giáo viên gần đấy bị bom thổi tung. Những tấm phên nứa vương vãi khắp nơi. Những trang giáo án bay tơi tả. May mà các cháu học sinh kịp xuống hầm trú ẩn nên không có cháu nào thương vong. Chỉ có cô giáo Tâm trẻ măng dính mảnh bom thoi thóp nằm trên vũng máu. Khắp nơi vang lên tiếng khóc, tiếng nhốn nháo của giáo viên và học sinh.
Các y tá của bệnh xá xã đã kịp thời đến sơ cứu cho cô giáo Tâm. Người ta để cô nằm trên chiếc chõng tre trong gian phòng hiệu bộ. Mặt cô bệch ra vì mất máu, đôi mắt như thất thần, mệt mỏi. Người cô thỉnh thoảng lại giật giật. Cô rên nhẹ. Dáng chừng đau lắm.
Lèng nhanh chóng tập hợp trung đội dân quân tại chỗ. Mệnh lệnh chiến đấu của xã đội trưởng được phát ra. Một số dân quân chia ra hướng dẫn cho các cháu học sinh men theo các con đường mòn dưới tán cây rừng tản ra về nhà. Bốn dân quân võng cáng cô giáo Tâm ra bệnh viện huyện. Số còn lại cùng với các cô giáo dọn dẹp nhà trường sau bom Mỹ tàn phá.
Từ trước đến giờ Seo Sơn chỉ chứng kiến máy bay Mỹ gầm rú trên bầu trời thung lũng Thằn Lằn này. Đầu tiên dân bản còn sợ, nhưng sau cũng quen dần. Tâm lý chủ quan coi thường địch bắt đầu xuất hiện. Nhiều người không chịu chấp hành các quy định về phòng không của xã. Nay bị bom Mỹ, những người đó lại trở nên hoảng loạn, chẳng biết ứng sử thế nào. Nhiều nhà không dám cho con đi học. Các lớp học vắng gần nửa. Không khí lo sợ lan rộng trong xã.
Cô giáo Hiệu trưởng đành phải lên gặp lãnh đạo xã nhờ can thiệp.
Quả thật tình huống này không sớm được giải quyết thì sẽ ảnh hưởng tới tất cả hoạt động trong xã.
Lèng đề xuất dùng lực lượng dân quân xã làm nòng cốt vận động các gia đình cho các cháu tiếp tục đến trường học và tổ chức các biện pháp phòng chống đến mức cao nhất bom đạn của máy bay Mỹ để ổn định tình hình.
Thế là công việc lại búi lên.
Lèng đi làm về, lùa vội bát cơm độn một phần gạo hai phần sắn duôi, quay đi quay lại, chưa kịp tăm răng, cô Thu bí thư xã đoàn đã nhanh chân đến trình bầy:
– Chiều nay mời chị cùng đi kiểm tra hầm trú ẩn cho các cháu ở trường cấp I với chúng em. Xem ra hầm đào đã lâu, các cô giáo yêu cầu phụ huynh học sinh sửa chữa và bổ xung nhưng tiến độ chậm quá.
– Thế à? Hay các em cứ đi kiểm tra rồi cho ý kiến chấn chỉnh, chị đang định tạt qua trạm xá xem cơ số thuốc dự phòng còn thiếu không. Vừa qua dịch sốt xuất huyết tiêu tốn nhiều thuốc quá, không kịp bổ sung e có chuyện gì thì trở tay không kịp.
– Chị ơi, cả chuyện đội mũ rơm đi học của các cháu nữa, xem ra có vẻ chủ quan lắm. Những việc này tiếng nói của chị trọng lượng hơn, chị nên cho ý kiến đỡ bọn em.
– Thôi được, ta sẽ đi luôn, qua ngọ rồi còn gì, tranh thủ kiểm tra xong còn đốc thúc việc làm cỏ lúa nốt mấy thửa trên đồng Lau để mai về đồng Hóp cho kịp thời vụ. Việc kiểm tra thuốc ở trạm xá đành để tối vậy.
Thu ngập ngừng nói tiếp:
– Ở bản Măng, cậu Phanh đào ngũ, chị giao cho đoàn thanh niên sử lý, cho đi tập trung lao động cải tạo trên xã, cậu ấy đã chấp hành tốt. Nhưng đến khi đi các bản hô khẩu hiệu “ai cũng như tôi thì mất nước” thấy nhục quá, cậu ấy trốn về bên vãi ở tận trên Vèo đã mấy ngày nay. Gia đình xin đợt tới cho cậu ấy nhập ngũ lại. Chị xem có được không?
– Cái đó cứ từ từ. Cần phải xem tư tưởng cậu ấy thế nào, có thực sự thông suốt không? Đành rằng chiến trường đang cần người, nhưng đấy không phải cái chợ, lúc nào muốn đến thì đến, muốn đào ngũ thì đào. Trốn lính như cậu ấy còn nhục đến đời con, đời cháu chứ không phải chỉ nhục đời cậu ấy đâu. Đoàn phải giáo dục cho thanh niên thấm sâu vào lòng điều ấy mới được.

– Vâng. Nhưng xin chị giơ cao đánh khẽ. Cậu Phanh là người yêu của cô em họ nhà em. Em không muốn vì việc này mà dòng họ nhà em mang tiếng là có người trốn lính, nhục lắm. Chị giúp em đợt tuyển quân tới cho cậu ấy nhập ngũ lại hộ em nhé.
– Thôi được, chị sẽ lưu ý!
Tối mít Lèng mới về đến nhà. Máng dẫn nước từ trên mó xuống thích nhà Lèng không biết hỏng chỗ nào, chẳng có lấy một giọt nước. Bố bầm Lèng già cả, chẳng đi sửa được, đành chờ Lèng về. Lèng phải đốt đuốc đi xăm soi, mãi mới tìm thấy. Hóa ra mấy cái cột đỡ lâu ngày mục sụp xuống. Loay hoay một lúc mới làm xong. Đáo qua nhà bủ Hón thấy tối thui, bủ nằm như gốc cây mục trên ván, Léng sợ quá vào lay bủ xem thế nào. Bủ hấp hay đôi mắt kèm nhèm bảo không sao, chỉ đắng mồm đắng miệng. Cứ để bủ nằm qua đêm nay là khỏe thôi.
Thế là hết cơm nước cho bố bầm ở nhà lại lo cháo lão cho bủ Hón, đến nửa đêm Lèng mới được chợp mắt.
Vừa thiếp đi được một lúc, Lèng đã thấy đường vào bản Mẫn rầm rập bộ đội hành quân qua. Đi đầu là anh Khang của Lèng ngực đầy huân chương, đội mũ tai bèo, vai đeo ba lô, vừa đi vừa hát. Rồi sau đó là ba chàng trai bản Mẫn hồ hởi theo sau. Hón vẫn nhu mỳ như ngày nào, Phiến vẫn nở nụ cười hồn nhiên, Thuận vẫn bô lô bô la y chang thủa trước. Cả Mậu nữa, vẫn mái tóc dài, vẫn đôi mắt đẹp. Họ xúng xính trong bộ quân phục mới, hùng dũng hiên ngang bước đi, giơ tay vẫy Lèng. Lèng lao ra đường bản gọi họ, bảo họ chờ Lèng cho Lèng theo với, lại định bảo họ nhớ viết thư về cho gia đình, cho Lèng nhưng họ đi nhanh quá, Lèng cứ rối chân lại, mỏi nhừ không làm sao đuổi kịp. Hóa ra Lèng mơ ngủ.
Tỉnh giấc khi trời mới lờ mờ, Lèng lại băn khoăn với những ý nghĩ đứt nối từ mấy ngày nay. Không thể để tình trạng các bủ già cô đơn có người thân ra trận sống như thế này được. Gay quá. Các bủ mỗi người một nhà, đôi khi ốm đau trái nắng trở trời không thể tự chăm sóc cho mình được. Đám thanh niên đi làm hết, ngộ nhỡ xẩy ra chuyện gì thì biết ăn nói thế nào với người ra trận.
Hay là mình đón bủ Hón sang nhà nhà mình? Nếu được như thế thì nhà mình sẽ có ba bủ già cùng ở. Một bủ thì không tự chăm lo cho mình khi đau ốm được, chứ có ba bủ thì người nọ dựa vào người kia như cây có bụi, chắc sẽ tốt hơn. Còn nữa, các bủ già có bầu bạn tâm tình, dễ dàng bầy tỏ được tâm sự, nỗi nhớ nhung người đi xa cũng vơi bớt một phần, cuộc sống cũng thêm thanh thản. Hơn thế, mình đi làm về cơm nước cho hai nhà nhưng chỉ cần một bếp, nắm rau chỉ việc nấu một nồi, lẻ gạo cũng không để lãng phí.
Nhưng, liệu có điều gì khiến bà con dân bản dị nghị không nhỉ? Có ai cho rằng cán bộ lợi dụng chính sách hậu phương quân đội thu lợi cho bản thân mình không? Ngộ nhỡ anh Khang về có cho rằng mình quan hệ yêu đương, bắt cá hai tay với Hón? Thời buổi này mật ít, khoai nhiều, cánh con gái bọn mình như khoai cả rổ, vô tình “làm phúc phải tội” thì khổ. Ai biết mà thanh minh cho mình được. Lại còn không biết bố bầm mình có chịu cho không? Rồi bủ Hón có đồng ý không nữa?
Dù sao cũng phải giải quyết tư tưởng cho các bủ cái đã. Trong đã ấm thì ngoài chắc yên thôi. Lo gì. Lèng tự nhủ vậy.
Trăn trở mãi gà gáy sáng đã rộ. Lèng bật dậy chuẩn bị đi cấy. Cánh đồng Hóp đã bừa kỹ từ hôm qua, hôm nay chỉ cần bừa vạt là xuống mạ đẹp.
Trống đi làm. Cả đội Mẫn ùa ra đồng, người bừa vạt, người nhổ mạ, người xuống cấy. Làm hợp tác vui như đi trẩy hội. Những bàn tay thoăn thoắt ra mạ, lối cấy thẳng như căng dây, hàng sông, hàng con đều tăm tắp.
Nước lắp xắp. Những thợ bừa vạt cấy trước đây phải là đàn ông giỏi mới được làm, thì giờ cánh đàn bà con mọn, cứ gọi là làm băng băng. Bùn sánh lên mầu đồng điếu, nhuyễn phẳng, mát tay rười rượi, lúa cấy đến đâu xanh mầu hy vọng đến đó.
Giải lao. Cánh thợ bừa, thợ cấy hè nhau đi bắt cua, bắt tép. Các con đìa dọc bờ mương dẫn nước từ đập Hóp xuống được be lại, tát nước. Những con mài mại, cá cờ nằm phơi bụng trên đáy đìa được nhặt bỏ vào chiếc ráng đeo ở bên hông, các chú cua bò loăng ngoăng được vặt càng vào nằm cùng lũ cá, cả những chị niềng niễng, những anh cà cuống chậm chân cũng chịu chung số phận trong chiếc ráng của những người thợ cấy. Thêm một nắm măng chua hoặc một nắm rau sắn muối là trưa nay cả nhà có nồi canh ngọt lịm.
Lèng bắt được có nhẽ đến bát ô tô cá tôm cua lẫn lộn. “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới”. Âu cũng là quy luật của đời. Ở nhà con lợn, con gà chăn nuôi được đã phải bán nghĩa vụ cho Nhà nước để phục vụ chiến trường, phục vụ cho các công, nông trường, xí nghiệp. Hạt thóc gặt về trước tiên là lo phơi khô quạt sạch gửi ra tiền tuyến nuôi quân đánh giặc, còn lại chia đều ra các tháng để gọi là không có tình trạng đứt bữa. Thế nên đa phần bữa ăn chỉ có bốn phần gạo còn sáu phần độn lót, sắn sảng ngô khoai. Nồi sắn luộc ra, ăn cho vui thì bùi, nhưng ăn để lấy no thì bụng dạ lúc nào cũng háo như có lửa. Nhiều nhà có sáng kiến thái sắn nhỏ như hạt lựu, ngâm nước rồi đãi bớt bột đi, ghế vào cơm ăn cho đỡ ngán như kiểu trước đây ăn củ nâu chống đói vậy. Cơm sắn ăn với canh rau sắn, quanh đi quẩn lại vẫn chỉ thấy sắn là sắn. Như thế cũng vẫn là may, đồng rừng còn có sắn, ở đồng bằng làm gì có sắn mà ăn, chẳng ao ước chán vạn ra ấy chứ. Thôi thì chẳng bằng lòng cũng phải bằng lòng, biết làm thế nào được. Trăm cái tội chung quy vẫn là cái tội do thằng Mỹ xâm lược mà ra cả. Trông xa chẳng được thì trông gần. Bà con đi làm đồng kiếm thêm được tý gì hay tý ấy để cải thiện bữa ăn cho cụ già, cháu nhỏ ở làng bản. Đó cũng là niềm vui, niềm hý hửng của những chị thợ cấy đâu phải chỉ ở bản Mẫn này.
Trưa.
Mặt trời đã leo lên gần đỉnh đầu, phả cái nóng xuống bứt rứt sống lưng. Trống báo tan tầm cũng vừa điểm. Mọi người lục tục lên đập Hóp rửa chân. Chẳng có mống đàn ông nào. Những đôi chân trần bê bết bùn được chị em kéo lên đến tận đùi non. Họ lấy những nắm cỏ mần trầu dứt vội ven bờ mương lên cọ rửa. Cái anh bùn non này, té tý nước vào là trơn tuột đi ngay, nhưng lại ngấm vào lỗ chân lông đến kỹ. Nếu lơ là không cọ sạch là đến lúc khô, đọng lại một lớp mầu nâu nhạt trên da thịt, ngứa như sát lá han. Thế là gãi đến đâu là bựa trắng nổi lên đến đấy, trông phát khiếp.
Lèng cũng cọ rửa đến lúc da chân đỏ ửng lên mới thôi.
Những mạch máu ly ty xanh mờ, chạy khắp từ bàn chân lên bắp vế của Lèng phô ra một đôi chân trần nõn nà và cân đối. Cái vẻ đẹp ấy chứa đựng sự khao khát của một cơ thể mạnh khỏe và đầy sức quyến rũ. Lèng xoa ấm bắp vế mình. Một cảm giác rừng rực trào dâng trong lòng người con gái xứ mường đang đẫy đà sức sống. Càng xoa xát bao nhiêu cái cảm giác chộn rộn trong lòng càng bùng lên dữ dội. Mắt Lèng hoa lên, dại đi, đờ đẫn. Ruột gan phừng phừng như có hòn than đỏ dục dã. Tự nhiên Lèng muốn xát thật mạnh, xoa thật mạnh vào nơi bắp vế cho thỏa nỗi khát khao cháy bỏng.
Bất giác Lèng nén một tiếng thở dài. Ở nhà, ở bản, ở xã, ở hậu phương còn bao nhiêu là việc. Phải nén lòng lại thôi chứ còn biết làm thế nào. Cả đám con gái hơ hớ sức xuân trông vào Lèng. “Lòng vả cũng như lòng sung”, Mình thế nào chúng nó cũng vậy.
Thế mới biết trong thời buổi đất nước có chiến tranh, ai cũng phải kìm nén, ai cũng khổ. Chẳng cứ người ra trận mới khổ. Đàn bà, con gái ở hậu phương khổ nào có kém gì. Đã thế làm cán bộ, đảng viên lại còn phải đầu tầu gương mẫu. Lơ mơ là bị kiểm điểm lên, kiểm điểm xuống, bia miệng cả đời chứ đâu phải chuyện đùa.
Trưa hôm đó cũng chửa cơm xong, cái Tâm lại hớt hải chạy về báo với Lèng:
– Chết rồi chị ơi, tay Thuận bản mình đảo ngũ, chạy sang hàng ngũ địch hồi chánh rồi!
– Làm gì có chuyện đó. Em nghe tin ở đâu?
– Bọn trực chiến nghe trộm đài địch. Chúng nó bảo đài Sài gòn trong buổi phát thanh “Nhịp cầu thân yêu” ra rả mấy ngày nay rồi. Nó nói đúng tên tuổi tay Thuận, cả địa chỉ bản Mẫn mình nữa. Phen này thì còn nhục gấp mấy lần đào ngũ ấy chứ. Rồi điểm thi đua, thành tích của xã mình cũng mất hết.
– Này, ai cho các cô ấy nghe đài địch hả? Chúng nó tuyên truyền bậy bạ cũng tin à? Chết thôi.
Lèng nhăn mặt khiến Tâm cuống, lúng búng như ngậm hột thị. Không khí ngột ngạt như trời có giông bão. Lát sau Lèng hạ giọng:
– Em không được để lộ tin này ra đâu nhé. Bà con trong xã mình chẳng mấy người có đài. Mà có cũng không dám mở đài địch ra nghe đâu. Chiều nay chị sẽ cùng em lên trận địa phòng không. Phải tuyệt đối gìn giữ, không để dân bản hoang mang. Nghe chưa?
– Vâng, em nhớ rồi!
Thế là chiều hôm đó dù bận bao nhiêu là việc nhưng Lèng cũng phải bỏ công, bỏ buổi lên tận trận địa phòng không của dân quân xã trên đỉnh núi Suối Reo, gặp mặt tổ trực chiến.
Sau khi nói rõ tác hại của việc nghe đài địch, Lèng đặt những giả định kẻ địch nhặt được giấy tờ của Thuận hoặc thu lượm được các thông tin từ đâu đó, phát lên đài để gây hoang mang cho nhân dân miền Bắc hậu phương thì sao? Nếu mình cả tin, phát ngôn thiếu suy nghĩ là mắc mưu gây rối hậu phương của địch. Thế là có tội với dân, với nước chứ còn gì nữa.
Lèng nói tiếp:
– Các em là những Đoàn viên Thanh niên, là cánh tay phải của Đảng, các em không được xao nhãng lập trường cách mạng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta đang vào giai đoạn cần tập trung sức người, sức của cho tiền tuyến để đánh thắng kẻ thù. Trách nhiệm của chị em ta ở hậu phương là phải giữ yên được lòng dân để phục vụ cho tiền tuyến.
Ngừng lời một lát. Lèng xúc động nói thêm:
– Bà con dân bản mình khổ quá rồi. Đàn ông đàn ang xung phong ra trận cả, trăm việc ở nhà dồn vào vai người già và đàn bà chân yếu, tay mềm. Bây giờ lại nhận được tin dữ thế này, rồi người này nghi hoặc, người khác lời ong tiếng ve, đàm tiếu việc này việc nọ là trút thêm nỗi lo, trút thêm gánh nặng cho dân bản mình. Chẳng hóa thế làm cho kẻ địch càng mừng a? Cho nên các em đã trót nghe đài địch rồi thì thôi, nghe đâu bỏ đó, đừng mắc thêm khuyết điểm tuyên truyền không công cho địch là thành phản động đấy.
– Vâng, chúng em xin nhận khuyết điểm là tò mò nghe đài địch. Xin chị tin chúng em, chúng em sẽ giữ bí mật tin này. Nếu có người khác nghe được, chúng em sẽ nói lại những điều như chị nói với chúng em hôm nay cho mọi người hiểu.
– Ừ, thế thì tốt rồi. Các em nên nhớ thêm điều này. Làm người lính ra trận gian lao vất vả lắm, nhưng chỉ có một việc là đánh giặc, nhất “xanh cỏ” nhì “đỏ ngực” thôi. Còn chúng ta ở hậu phương có đến trăm mối lo, mà toàn mối lo không tên, phải đâu ai cũng biết. Làm tốt thì không sao chứ sơ sẩy một tý là ai ai cũng chì chiết. Rồi khi người đi đánh giặc thắng lợi trở về, mình biết ăn biết nói thế nào trong ngày chiến thắng ấy?
– Chị ơi, chúng em xấu hổ lắm rồi. Chị bận trăm công nghìn việc, hết việc xã rồi lại việc bản. Thế mà chúng em vẫn làm chị bận lòng. Thôi, chúng em đã biết lỗi, chị đừng buồn nữa nhé!
– Ừ, chị em mình cùng cố lên! Thôi, các em ở lại, chị về!
Tiễn Lèng ra về mọi người nhìn theo với niềm tin yêu và kính trọng.
Người nữ xã đội trưởng này mới ngày nào còn như mầm cây vừa nứt vỏ, vô tư “ăn chưa no, lo chưa tới” giờ đã phải gánh vác trọng trách quá lớn trước tập thể Đảng bộ xã. Cái áo thì quá rộng mà bản thân con người còn mảnh mai. Thật là vất vả đến tội nghiệp.
Đêm hôm ấy Lèng thưa với bố bầm về ý định đón bủ Hón sang nhà mình để tiện trông nom và chăm sóc khi ốm đau, trái nắng trở trời. Bầm Lèng nghe thế vội hỏi:
– Thế ra mày đã có ý định với thằng Hón à. Ừ, bầm thấy thằng ấy ngoan hiền và chịu khó lắm. Nhà mình mà được nó làm rể thì còn gì bằng.
Bố Lèng lại bảo:
– Không được đâu con ơi! Nhà dạ ra nhà dạ, nhà vãi ra nhà vãi. Bà dạ không ở chung với ông vãi một nhà được. Lề thói bản mình không cho làm thế đâu.
Lèng phải thưa lại:
– Không phải thế bố bầm ạ. Con và Hón chỉ như bạn bè với nhau thôi. Mậu mới là người yêu của Hón. Nhưng bây giờ cả Hón và Mậu đều đang ở chiến trường. Bủ Hón thành ra cô đơn. Bổn phận con ở hậu phương phải chăm lo cho bủ để an lòng người ở chiến trường. Bố bầm đồng ý để bủ Hón sang nhà mình là giúp con hoàn thành nhiệm vụ, giúp Hón an lòng chiến đấu. Bố bầm nghe con nhé.
Hiểu ra việc con gái làm, bố bầm Lèng đều vui vẻ, chuẩn bị chỗ nghỉ để đón bủ Hón.
Trưa hôm sau Lèng lại sang nói chuyện với bủ Hón. Đầu tiên bủ cũng giẫy như đỉa phải vôi, một mực không chịu. Người bản Mẫn mình xưa nay nhà ai nhà ấy ở, chẳng ở chung đụng với nhau thế bao giờ, xem ra không quen được. Nhưng nghe Lèng nói, bây giờ mọi việc làm của những người ở hậu phương đều vì người ở tiền tuyến, để người tiền tuyến an lòng, chóng đánh xong hết giặc còn về hậu phương thì bủ nghĩ lại, người ngoài còn lo cho con bủ để con bủ an lòng đánh giặc, huống chi bủ. Cho nên thôi thì bủ cũng vì thế mà bằng lòng.
Thế là Lèng đã thuyết phục được mọi người trong nhà thay đổi cái nếp xưa nay chưa có, để chung sức gìn giữ hậu phương, lo đỡ cho người đi đánh giặc.
Hôm sau Lèng đưa ý định của mình ra cuộc họp chi bộ thường kỳ để xin ý kiến. Dù sao Lèng cũng là đảng viên, mà đã là đảng viên thì mọi việc làm và lời nói nhất nhất phải tuân theo nghị quyết của Đảng. Rất may, chi bộ hoàn toàn đồng ý với cách thu xếp của Lèng. Các đảng viên còn đề nghị ủng hộ Lèng mỗi người hai ngày công một vụ nhưng Lèng không đồng ý.
Kể từ hôm đó, trong ngôi nhà của Lèng, ba bóng bủ già cùng nương tựa vào nhau, không còn cảnh bủ Hón lủi thủi một mình nữa. Lèng đi làm, đi họp cũng an tâm hơn.
Thế rồi, chẳng mấy chốc trên cánh đồng Lau, đồng Ràng, đồng Hóp lúa đã uốn câu, tỏa ra mùi hương đầm ấm, báo hiệu một mùa cơm mới ngọt lành cho bản Mẫn.
Chương XIII
Thế là mọi việc đã rõ như ban ngày. Điều mà Thái Bình nghi ngờ bấy lâu, đêm nay đã đúng là sự thực. Mệ y, người mà Thái Bình luôn luôn yêu quý hết lòng vẫn ngấm ngầm giấu y liên hệ với tổ chức cộng sản, chống đối lại quốc gia, chống đối cả y, một trung úy đồn trưởng được cấp trên hết sức tin cậy và ưu ái.
Trước đây, qua lời nói của bả, Thái Bình thấy toát lên sự thân thiện với những người ở phía bên kia chiến tuyến, nhưng y chỉ nghĩ mệ y theo đạo Phật nên yêu thương tất cả mọi chúng sinh. Còn bây giờ, bằng việc làm thực tế, bả đã chính thức tiếp tay giúp cộng sản, giúp những người cách mạng chống lại y. Mà họ là ai? Họ chính là những người đã giết ba y, vì sợ ông khai ra các cơ sở của cộng sản trong quá khứ đánh Pháp. Mệ y, bả cũng biết sự thật tàn nhẫn đó.
Đấy là điều mà y không thể hiểu nổi!
Thái Bình luôn luôn mang trong lòng ý thức căm thù những người cộng sản. Không thể có lý do gì mà một người con lại có thể ủng hộ những người đã giết cha mình. Vậy thì sao lại một người vợ có thể thân thiện, giúp đỡ, thậm chí đứng về phía những kẻ đã giết chồng mình như mệ y được nhỉ?
Y nghĩ mãi mà không ra!
Hay mệ y bị đám người kia mua chuộc, dụ dỗ? Cũng có thể lắm! Mà đám người ấy là ai mới được chứ? Họ là ông Năm Long, là Chín Hạnh, là những người Thái Bình mới đây thôi còn trọng vọng, còn yêu thương và bây giờ vẫn trọng vọng, yêu thương. Trong đám người ấy còn có cả Miên, người mà Thái Bình luôn coi như người em gái.
Vậy là thế nào?
Tại sao mọi người lại đi ngược lại con đường của y?
Trong bữa giỗ cha y hôm qua, những người ấy đến. Lẽ ra việc họ đến là điều bình thường, bởi gì thì gì nhất thiết họ phải đến. Trong mối quan hệ thân tình từ ngày cha y còn sống, ông Năm Long vốn là chỗ coi như anh em với cha y và vì thế Chín Hạnh, con ông tất phải theo cha mà đến phụ giúp lo cơm canh cho đám giỗ. Ấy là chưa nói đến Chín còn là người yêu của y. Điều ấy tuy hai nhà chưa có lễ lạt gì nhưng cũng không có gì phải bàn nhiều. Còn Miên cũng vậy, Miên là cháu, nếu Miên không đến chẳng hóa ra là điều lạ lắm sao?
Thế nhưng, chính trong đám giỗ cha, y lại thấy băn khoăn lắm lắm. Nhìn thái độ ân cần chúc rượu của ông Năm Long, nhìn ánh mắt của Miên, nhìn cung cách mời mọc thân tình của Chín Hạnh và nghe những lời khen của mệ y với đám lính đang đồn trú ở đồn điền Phú Tam làm cho y có chút gờn gợn trong lòng.
Sao lại thế nhỉ?
Thái Bình tự đặt câu hỏi và đi tìm câu trả lời, nhưng đến nửa bữa giỗ y vẫn chưa tìm ra.
Kể từ ngày thượng sỹ nhất Hùng Cường được thượng cấp rút về thường trực tại đồn Núi Vũ và nhất là việc Hùng Cường được gắn hàm thiếu úy đồn phó khi chưa đến thời hạn và chưa có chiến tích gì đáng kể luôn làm Thái Bình thấy bất an.
Qua cách giao tiếp của Hùng Cường với viên cố vấn Mỹ, Thái Bình cảm thấy Hùng Cường rất được lòng viên cố vấn này.
Hùng Cường vốn khác hẳn với Thái Bình. Hắn là một hạ sỹ quan võ biền, không học hành, chỉ lấy đánh đấm, bắn giết làm cách thức tiến thân trên con đường binh nghiệp. Đối với hắn không có gì gọi là lòng yêu con người, trọng lương tâm danh dự cả và vì thế hắn chiến đấu không phải như khẩu hiệu mà tổng thống đã căn dặn là chiến đấu vì Danh dự, Tổ quốc và Trách nhiệm vốn luôn được treo trong các nơi đồn trú. Hắn chỉ chiến đấu vì quyền lực của hắn, vì túi tiền của hắn mà thôi.
Cứ xem cách hành xử của Hùng Cường với binh sĩ trong đồn thì rõ. Đối với những binh sĩ được học hành tử tế, có lối sống nghiêm chỉnh, không xu nịnh thì hắn tỏ vẻ khinh khi, coi thường. Còn đối với người ít hiểu biết văn hóa, tính tình bặm trợn, ra dáng anh chị, nếu biết lấy lòng hắn thì hắn vuốt ve chiều chuộng, kích động thói côn đồ, kéo bè kéo cánh, ăn nhậu, bù khú với nhau.
Ngay cả với Thái Bình cũng vậy, bề ngoài, hắn tỏ ra ngoan ngoãn, phục tùng. Nhưng trong ánh mắt mầu tro xám kia, vẫn loé lên một tia bông phèng, ngạo mạn. Chắc hắn cho rằng đồn trưởng Thái Bình chưa có một ngày ra trận, chỉ vung tay vung chân, khua môi múa mép ở nơi không có tiếng súng mà thôi, đâu thể so sánh với hắn được.
Chẳng thế mà có lần trong một bữa rượu, hắn đã dám bỡn cợt hỏi Thái Bình:
– Thưa trung úy, trong cuộc đời binh nghiệp của trung úy, trung úy đã bao nhiêu lần được giáp mặt với cộng sản?
Thái Bình đã dằn mặt hắn:
– Tui chưa giáp mặt trực tiếp với cộng sản lần nào, nhưng tui đã giữ yên được hàng nghìn lòng dân trung thành với quốc gia. Vậy còn thiếu úy, thiếu úy đã giết được bao nhiêu cộng sản rồi ha?
Biết là đã lỡ lời phạm thượng, nên Hùng Cường im thit thít, nhưng trong đầu hắn ai biết được hắn đang nghĩ gì?
Chính vì thế mà binh sĩ trong đồn, từ ngày Hùng Cường lên chức đồn phó, tự nhiên chia làm hai phái rõ rệt; phái theo và phái không theo hắn. Thái Bình cố gắng lập lại kỉ cương mà chưa được. Y cũng không muốn khơi sâu khoảng cách bè phái trong đồn, bởi làm thế khác gì đổ thêm dầu vào lửa. Thượng cấp sẽ cho rằng y cũng đang kéo bè kéo cánh, khác gì viên đồn phó võ biền kia. Nhưng càng hành xử có văn hóa bao nhiêu, lòng y càng dâng lên nỗi bực tức bấy nhiêu. Bực tức mà không làm gì được.
Tự nhiên Thái Bình thấy mình cô độc trong cái đồn mà chính y là người xây dựng, chính y là người làm chủ.
Bây giờ, y lại bị chính người mệ mang nặng đẻ đau ra y cô lập. Còn gì khổ tâm hơn thế nữa?
Mải suy tư, đến giữa bữa giỗ hắn mới giật thót người. Tại sao mọi người ở đây lại cưng chiều đám lính tráng ở đồn điền Phú Tam thế nhỉ?
Y nhìn lũ lính và điểm mặt chúng, không thiếu một đứa nào. Thì ra chúng bỏ hết vị trí canh gác để đến đây uống rượu nhân ngày giỗ cha y. Thôi đúng rồi! Có người đã lợi dụng ngày giỗ cha y mời chúng nó. Mà đã bảo giỗ cha y thì đứa nào dám không đến thắp hương tưởng nhớ. Thế là bỏ vị trí canh gác. Mà ở đó, canh là canh con đường thủy trên dòng sông Thu ấy.
Nghĩ đến đây Thái Bình bấm tên lính cận vệ đi theo tháp tùng y. Hai thầy trò lên xe Jeep phóng thẳng đến cổng đồn điền. Bỏ xe ở cổng, y nhẹ nhàng đi đến tháp canh. Từ đây y đã nhìn rõ những chiếc thuyền đầy hàng đang ngược sông lên chiến khu của cộng sản. Để kiểm tra cho chắc, y lóe đèn coi cho rõ. Chỉ lóe đèn lên thôi, xong tắt và lỉnh ngay khỏi tháp canh bởi y hiểu những chiếc thuyền này không chỉ đi một mình, đằng sau đó phải là những tay súng thiện xạ của phía bên kia. Y không muốn mình là vật thí mạng cho đám lính ngu dốt ở cái trạm canh này.
Y ngao ngán trở về đồn, không vào dự nốt bữa giỗ cha y nữa.
Suốt đêm tới sáng Thái Bình không sao ngủ được. Y giận mệ y, giận ông Năm Long, giận Chín Hạnh, giận Miên, giận thằng cha đồn phó Hùng Cường, giận lây sang cả đám lính.
Y quyết định phải làm rõ trắng đen, môn ra môn, khoai ra khoai, chứ để như thế này y không sao chịu được. Còn vong linh cha y nữa chứ! Y không thể để tình cảm nơi trần gian, dương thế phụ bạc công đức sinh thành của cha y, có tội với cha y lắm! Cần thiết, mệ thì không bỏ được chứ người yêu thì dứt khoát y bỏ.
Trưa hôm sau, Thái Bình về thắp hương cho cha. Xong, y mời bà Hai Thái Bình lên trước bàn thờ, y khấn:
– Cha đã cả một đời vì vợ vì con, nay sống khôn, chết thiêng cha về chứng giám cho con hỏi mệ một câu và chỉ một câu thôi, vì sao mệ tiếp tay cho cộng sản, tiếp tay cho những kẻ đã giết cha. Như thế có phải mệ đã phản bội cha không hè?
Bà Hai Thái Bình rơm rớm nước mắt, bảo:
– Trước bàn thờ cha, con không được nói thế, tội cho vong linh cha con. Mệ chưa bao giờ phản bội cha con cả.
– Mệ không phản bội cha con răng mệ lợi dụng ngày giỗ cha con, biểu tất cả lính tráng bốt canh đồn điền Phú Tam qua uống rượu tùm lum để cộng sản có cơ hội dùng thuyền vận chuyển hàng trên sông Thu là mần răng?
– Thôi, đến nước này mệ sẽ đưa con sang gặp chú Năm Long để hai năm rõ mười câu chuyện.
– Được, con sẽ đi. Sẽ có vong linh cha con làm chứng!
Thái Bình đưa bà Hai sang nhà ông Năm Long. Ông Năm vồn vã:
– Chị Hai sang chơi.
– Cháu Thái Bình vừa chất vấn tui là phản bội cha nó, tiếp tay cho cộng sản. Chú xem nó quy tội cho tui thế có đúng không?
– Chị Hai cứ bình tĩnh, chuyện đâu còn có đó mà!
Thái Bình tiếp lời:
– Mọi người đều biết cộng sản giết cha cháu để bịt đầu mối. Chính vì thế mà quốc gia đã nuôi nấng cháu ăn học. Nay lại giao cho cháu làm đồn trưởng đồn Núi Vũ, canh giữ đất Hà Tam này. Vậy sao mọi người lại ủng hộ cộng sản? Như thế không phải đã phản bội cha cháu là chi vậy?
Ông Năm Long nhẹ nhàng:
– Chuyện không phải như cháu nghĩ đâu hè! Cha cháu là người trước sau như một, kiên trung, không bao giờ phản bội cách mạng. Mấy ông quốc gia đánh cha cháu chết vì cha cháu kiên quyết không khai, không phản bội cách mạng đó.
– Làm chi có bằng chứng cha cháu bị quốc gia đánh chết?
– Đây là việc cơ mật mà cháu nên biết. Cha mệ cháu và chú xưa nay là người trung thành với cộng sản. Việc cha cháu bị quốc gia đánh chết được người của cách mạng nằm trong tổ chức quốc gia báo ra. Trong buồng nhà cháu hiện nay vẫn còn căn hầm bí mật mà trước đây cha mệ cháu nuôi giấu một ông cán bộ cách mạng cấp cao của tỉnh này. Cha cháu bị bắt, người có trách nhiệm bên phía cách mạng định dời ổng đi nơi khác để đảm bảo an toàn, nhưng lúc đó cách mạng chưa kịp gây dựng được cơ sở, chưa có chỗ nuôi giấu ổng, hơn nữa mệ cháu và chú đứng ra bảo lãnh trước tổ chức. Kết quả là quốc gia không bắt được ổng. Vậy chẳng phải cha cháu không phản bội cách mạng là chi hè!
Dừng một lát, ông Năm nói tiếp:
– Cha cháu không phản bội thì hà tất chi cách mạng lại thủ tiêu ổng! Vả lại như ở đồn của cháu có giam người cộng sản, liệu cộng sản có ba đầu sáu tay lọt vô để thủ tiêu họ được không hè? Vậy nếu không phải quốc gia đánh chết cha cháu thì ai vào đây?
– Theo cháu những ý kiến của chú vẫn chỉ là võ đoán, chưa có bằng chứng chi xác thực. Ngay cả ông cán bộ cấp cao đó bây giờ ở đâu cũng không ai biết thì mần răng cháu tin được?
– Ổng cán bộ đó là người luôn khiến quốc gia mất ăn mất ngủ mà các cháu đã biết. Đó chính là “con hùm xám” Tây Nguyên, sư đoàn trưởng sư đoàn Chu Lai của cộng sản đấy. Chính ổng là người chỉ huy màng lưới tình báo của cách mạng trong tổ chức quốc gia. Ổng là người tiếp nhận tin nội gián mật báo cha cháu không phản bội cách mạng nên bị quốc gia đánh chết. Vì vậy ổng đã đứng ra đảm bảo lòng trung thành của cha cháu với cách mạng. Đây là giấy chứng nhận của ổng trước khi ổng về cứ.
Ông Năm rút trong ống nứa cất ở tủ ra đưa cho Thái Bình môt tờ giấy đã ố vàng, chữ đã ngả mầu:
– Cháu hãy giữ để sau này trình với cách mạng, lấy lại thanh danh cho cha cháu.
Thái Bình run run đón nhận tờ giấy ông Năm đưa. Y ấp úng:
– Ổng là sư đoàn trưởng Nguyễn, “con hùm xám” Tây Nguyên của cộng sản ư? Thì ra cha mệ cháu và chú đã nuôi ổng? Vậy quốc gia biết thế sao vẫn lo lắng cho cháu?
– Đấy là mưu sâu kế hiểm của họ cháu ạ. Họ dùng bàn tay sắt bọc nhung, vừa li gián mệ con cháu với cách mạng, vừa dùng chính cháu để chống phá cách mạng, vừa lấy lòng dân chúng mà cháu vẫn phải hàm ơn quốc gia, trung thành với họ.
Thái Bình chới với trước sự thực phụ phàng này. Y không thể ngờ rằng cha mệ y lại là người đã từng che giấu, nuôi dưỡng một vị bây giờ là sư đoàn trưởng tài ba của cộng sản. Y trộm nghĩ, chưa chừng chính vì thế mà cộng sản không nỡ tiêu diệt cái đồn của y như tiêu diệt Hiệp Đức.
– Thế mần răng chú và mệ cháu không nói cho cháu biết sớm hơn?
– Bởi vì chưa đến lúc cần cho cháu biết. Cháu không là đồn trưởng đồn Núi Vũ, quốc gia sẽ đưa người khác về. Biết đâu người ấy là ác ôn thì càng khó cho nhân dân và cách mạng. Chi bằng cứ để cháu ở đó, cách mạng còn dễ bề cảm hóa. Bây chừ cách mạng đã chiếm được Hiệp Đức, Núi Hàm, Đá Động là những căn cứ mạnh của quân lực Việt Nam Cộng hòa rồi, cháu cũng nên mau tỉnh ngộ không thì không kịp nữa!
Thái Bình thực sự lúng túng. Hình ảnh Hùng Cường lại ám ảnh và khiến y thêm hoài nghi sự thân thiện của viên cố vấn và đám lính Mỹ trong đồn, đẩy sự cảnh giác của y cao lên. Bây giờ y mới hiểu y chỉ là công cụ trong tay chính quyền quốc gia, đúng như sự phân tích của ông Năm và mệ y. Mọi nhận thức mà y tiếp thu ở quân trường và đem ra vận dụng ở Hà Tam từ trước đến nay chỉ như bức tường đất mong manh bị con nước thực tế phũ phàng đập vào, rã rời ra từng mảng.
Y hối hận vì đã nhầm lẫn khi đặt cược cả sức lực và tuổi trẻ vào cửa chống đối cách mạng trong canh bạc mà y đã theo đuổi suốt bao năm qua.
Y như con thuyền đang loanh quanh trong vùng rốn lũ. Dù đã nhìn thấy bến bờ nhưng nước xiết, chưa làm cách nào thoát ra khỏi vùng xoáy để đến chỗ bình yên.
Y chỉ còn biết bấu víu vào tình yêu. Đó là cứu cánh của y bây giờ!
Đêm hôm ấy, khi chỉ có hai người, Thái Bình mạnh dạn ngồi sát bên Chín Hạnh. Từ trước đến nay, bao giờ Chín cũng giữ khoảng cách nhất định khi gặp y. Hai người thủ thỉ tâm sự cùng nhau những điều mà trước đây Thái Bình còn ngập ngừng chưa dám nói. Cuộc đời y giờ có lẽ đã bước sang một trang mới.
Bất giác, Thái Bình ôm chặt lấy Chín Hạnh như sợ Chín sẽ lìa xa y. Chín Hạnh mỉm cười, khẽ khàng nói nhỏ trong hơi thở:
– Em tin anh sẽ hiểu những người cách mạng!
Trong lòng Thái Bình bỗng nhiên thanh thản lạ. Từ giờ, y đã hiểu ra nhiều điều, trong những điều đó có cả những điều trước đây y còn mờ mịt. Y đã có lòng tin của Chín Hạnh bởi Chín Hạnh tin rằng có thể cảm hóa được y. Y cũng hiểu rằng có được lòng tin đó tức là y đã đặt được một chân vào ngôi nhà hạnh phúc của chính mình. Có điều, tất cả bây giờ còn phụ thuộc vào mối quan hệ của y với những người cộng sản. Chưa bao giờ y tin vào cha mệ y, tin vào gia đình ông Năm Long như bây giờ.
Bầu trời đêm nay đầy sao. Chòm sao bẩy ngôi hình chiếc gầu sòng đặt ngược lung linh. Ngôi sao Bắc Đẩu nhấp nháy sáng như đang mỉm cười với Thái Bình.
Càng ngày Bẩy càng nhận thấy ở Hón phẩm chất của một người chỉ huy với những quyết sách táo bạo và hợp lí. Hình như ở anh hội tụ đủ tính cương nghị của người cầm quân biết lấy mục tiêu cần đến làm trọng. Anh biết lượng sức để lấy thế yếu của mình chế ngự thế mạnh của kẻ thù. Anh có gan tổ chức, khi thời cơ đến biết đem cái cương trường của người thắng thế ra áp đảo cái nhu thời của đối phương, để giành thắng lợi.
Chương XV
Thuận tỉnh lại lúc đêm đã về khuya. Anh đoán thế. Xung quanh tối om om. Bốn bề không gian yên tĩnh, chỉ có tiếng côn trùng rả rích như báo rằng ở đây vẫn còn sự sống. Anh nằm yên, bất động, lắng nghe con tim mình đang đập trong lồng ngực và cố gắng hình dung mình đang ở đâu, nhưng anh chịu không tưởng tượng ra được.
Anh lờ mờ nhớ rằng mình đang nằm trong chuồng cọp giữa trời. Nhưng mà không phải. Chuồng cọp nằm dưới cột đèn sáng trắng đêm cơ mà. Anh lại láng máng nhớ rằng minh đang nằm trên cát. Cũng không phải. Dưới lưng anh là lớp nệm mịn màng. Trong ký ức của anh, hình như anh bận trên mình mỗi cái xà lỏn và nhớp nháp lắm. Càng không đúng. Anh đang mặc bộ quần áo bằng vải mềm. Một tấm đắp mỏng và ấm đang ru anh ngon giấc.
Anh véo vào làn da tay. Thấy đau. Chứng tỏ những gì diễn ra bên anh là có thật, chẳng phải mê ngủ.
Kệ!
Chẳng biết đang ở đâu thì cứ ngủ cái đã. Anh lại thiếp đi.
Rồi thì anh cũng tỉnh lại thật.
Trời rõ ban ngày. Ngó ra ngoài cửa kính, Thuận thấy nắng. Nắng vàng cươm. Nhưng mà sao không thấy nóng mà lại mát rượi thế này?
Thôi chết! Bây giờ anh mới nhớ ra. Anh là tù nhân ở trại tù Phú Quốc và đang bị nhốt trong chuồng cọp, sao lại ở đây nhỉ?
Không biết.
Anh đang ở một căn phòng nhỏ, quét vôi mầu xanh nhạt, trần nhà đóng bằng gỗ, nền lát gạch hoa. Không có quạt nhưng mà mát lắm bởi có điều hòa. Cựa quậy chân tay, anh thấy không bị trói. Bộ quần áo anh mặc mầu kem, sạch sẽ, xem ra không đến nỗi nào.
Có tiếng lách cách mở cửa phòng. Anh nghển cổ. Một cô gái.
– A, anh đã tỉnh rồi! Anh đói chưa? Em lấy đồ ăn cho anh nhé!
Ừ, bây giờ thì Thuận thấy đói thật. Dạ dầy anh lép kẹp như lâu lắm chưa được cái gì bỏ vào thì phải. Cô gái bưng đến cho anh một li sữa.
Mặc!
Từ khi sa ngã, xa rời anh em đồng đội, đến lúc xác định được đường đi lối bước, Thuận đã sống trong môi trường khi nhung lụa, lúc tối tăm quen rồi. Vì thế anh cũng không vồ vập hoặc lạnh nhạt với bất cứ điều gì.
Bất giác anh nhớ tới cuốn kinh Phật anh đọc được của bầm anh hồi còn ở nhà. Bây giờ anh dửng dưng như một kẻ tu hành thờ ơ với mọi thứ trên đời.
Anh không Tham Lam, Ham Muốn một thứ gì hết, mặc dù ham muốn và tham lam là nhu cầu bẩm sinh của con người kể từ lúc biết làm người. Cứ xem cách đòi ăn thì biết, ngay từ khi mới lọt lòng con người ta đều được mẹ cho một bầu sữa nhưng lại muốn cả hai mặc dù chẳng có ai tranh giành cả. Đối với anh lúc này những cái nhỏ nhất trong cuộc sống của mình anh còn chẳng định đoạt được thì Ham Muốn và Tham Lam phỏng mang lại cho anh ích lợi  gì.
Anh cũng không còn cảm giác Nóng Giận trước mọi sự đối xử của thiên hạ đối với anh nữa, bởi thân thể anh chỉ là một kẻ thân tù thấp kém nhất rồi, đến cái tự do tối thiểu cũng không còn, vậy thì lấy gì để dọa nạt được ai mà nóng giận.
Anh cũng không Si Mê bất cứ điều gì, bởi biết rằng ở hoàn cảnh của anh si mê chỉ là cái bánh vẽ hoàn toàn ảo vọng, chẳng nên vướng víu làm chi cho bận lòng, anh có si mê cũng chẳng bao giờ được.
Tất cả những điều Tham Lam, Nóng Giận và Si Mê ấy chẳng cho anh được cái gì. Trong những lúc như thế này, chúng chỉ mang lại sự phiền toái cho anh mà thôi. Hình như cuộc đời này đã đẩy anh xô dạt về phía những tín đồ trung thành với triết lý của Phật tử. Anh thanh thản đón nhận những điều chẳng có được trong anh không một chút phiền muội.
Bây giờ anh có uống sữa hay ăn cơm, cao lương mĩ vị hay gạo mục, cá thối cũng thế. Tất cả những cái đó chỉ là các thứ để anh tồn tại trên cõi đời này. Cai ngục có đánh anh, hành hạ anh hay chăm sóc anh cũng vậy cả, bởi đó là công việc của họ. Họ làm để họ lĩnh lương nuôi vợ, nuôi con, để họ thỏa mãn khát vọng thăng quan, tiến chức của họ, đâu có ảnh hưởng gì đến anh.
Xét ra cho cùng, giữa anh và họ thì rõ ràng anh quan trọng hơn. Họ cần sự tồn tại của anh để thỏa mãn cái Tham Sân Si trong họ chứ anh đâu cần họ. Vì vậy chẳng cần vội vã làm gì. Anh cứ thủng thẳng làm cái gì anh muốn. Đối với anh, sống hay chết cũng vậy, suy nghĩ làm gì cho bận lòng!
Anh đưa li sữa lên miệng. Tự nhiên các tuyến nước bọt trong anh ứa ra. Cái dạ dầy lôi cuốn anh vào mê hồn trận của nó, thúc giục bản năng con người trong anh vùng lên đòi sự sống. Ừ thì uống, chẳng ảnh hưởng gì cả! Anh nhấp một ngụm nhỏ, sữa ngọt và mát. Anh nhấp thêm ngụm nữa, có vị béo ngậy. Cũng ngon.
Sữa làm anh tỉnh táo, tinh thần xem ra phấn chấn.
Bây giờ anh mới để ý đến xung quanh. Hình như anh ở gần bãi biển thì phải. Loáng thoáng đâu đây nghe như có tiếng sóng. Mà ngoài ấy là tự do, trong đây là tù ngục. Tự do dù khổ cực thế nào vẫn là tự do, vẫn là ánh sáng, còn tù ngục dẫu có nhung lụa cũng mãi mãi là tù ngục, là tối tăm, mù mịt. Anh muốn ra ngoài ấy lắm. Cánh thằng Hón, thằng Phiến chúng nó sướng thật. Chúng nó thà chịu đói khổ mà được tự do, chứ không lầm lỡ như Thuận để chịu tù đầy thế này.
Tự nhiên Thuận thấy rạo rực trong lòng. Cơ thể anh bỗng như có gì háo hức, nó cứ rung lên những sợi tơ ham muốn, thèm khát.
Sao thế nhỉ? Cơ thể anh còn cái gì để mà đòi hỏi nữa. Hay vì cốc sữa đã cho anh lấy lại được cái bản năng làm người đàn ông trong sự ọp ẹp, bệ rạc của thể xác?
Hình như cô gái ban nẫy lại đến. Mùi nước hoa êm dịu và quyến rũ lan tỏa đến cánh mũi của anh. Tự nhiên Thuận cảm thấy phập phồng trong ý thức. Anh nhìn cô.
Thì ra đây là một người đàn bà đẹp và quyến rũ. Cái cảm giác xa xỉ được nhìn họ lôi cuốn anh. Nó thức dậy mạnh mẽ trong anh sự đam mê, rạo rực và háo hức mà đấng tối cao đã ban phát, luôn luôn thường trực, ẩn nấp trong mỗi con người. Cơ thể anh rung lên những khát khao mà bà mụ đã thổi sinh khí vào anh tự khi mới lọt lòng. Tự nhiên, anh muốn nhìn vào cái cổ áo khoét sâu đang phô ra gần hết sự nõn nà của đôi bầu ngọc mĩ. Anh run run thèm khát. Tất cả có vẻ đang chờ đợi anh. Bên trong cái mi-ni-juyp kia là cả một kỳ công của tạo hóa, dầy dặn và nồng ấm hình như đang cố tình mời mọc anh.
Người đàn bà ấy đang mơn man nhìn anh, lả lượt khoe đôi môi man dại cùng anh. Giọng nói không gì êm dịu hơn, như thứ nước cam lồ rót vào lòng anh:
– Anh nằm xuống, em xoa bóp cho, khổ thân anh quá! Hôm vào đây tưởng anh không qua được. Em đã tắm rửa cho anh, thuốc thang cho anh mà anh nào có biết gì.
Câu nói như một lời trách cứ dịu dàng. Giọng Nam bộ nghe êm mà quyến rũ. Từ bé đến giờ hình như chưa ai nói với Thuận ngọt ngào được như thế.
– Tôi đang ở đâu?
Thuận hỏi lại. Anh thấy lòng cuộn lên những cảm xúc dâng trào tưởng chừng không gì ngăn lại được.
– Anh đang ở với em chứ còn ở đâu nữa!
Cô gái trả lời ỡm ờ, cái ỡm ờ cùng cách ăn mặc khiến lí trí Thuận phải nghi ngờ. Thế nhưng bản năng trong lòng Thuận lại cố lấp liếm lí trí, khiến anh lưỡng lự. Giữa lúc đó, đôi tay trần của cô mơn man bóp lưng cho anh. Bàn tay mát rười rượi. Chiếc áo mỏng tang và lửng lơ, đủ để anh nhìn thấy trọn vẹn cái trái đời xôn xao của tạo hóa. Cô đặt cặp chân no tròn, day day trên ngực anh. Chiếc váy ngắn cuộn lên khiến anh cảm được sự mềm êm của một vùng mênh mang khát vọng.
Giữa lúc sóng lòng Thuận bồng lên như cơn bão lũ thì cô dịu dàng:
– Anh chịu khổ mà làm gì, hãy về với em! Mấy ông quốc gia chỉ cần anh quy thuận hồi chánh là dành ngay cho anh một cuộc sống no đủ, sung túc. Sao anh không nghe họ, tội gì mà chịu khổ cực, đời người sống được bao lâu anh?
Thuận giật mình đánh thót. À thì ra là vậy. Ả kia đã lộ nguyên hình là con chim mồi xảo quyệt đang gài bẫy giăng anh. Tự nhiên cảm giác ham muốn trong anh tan ra, loãng chẩy như đám bọt xà phòng. Hóa ra cái cảm giác thèm muốn kia là chúng bơm vào anh qua cốc sữa để anh sa đà vào đó mà chiêu hồi, phản lại đồng đội. Anh như rơi từ lưng chừng đám mây dục vọng xuống vực thẳm thực tế. Những con mắt của đồng đội, đồng chí, bố mẹ, anh em và nhất là của Mậu nhìn anh, nửa như trách cứ, nửa như khích lệ động viên. Lí trí anh được thức tỉnh. Sự thức tỉnh kịp thời khiến anh co rúm người lại như con nhím bị tấn công. Anh gầm lên:
– Cút ngay!
Ả nọ vẫn mơn trớn:
– Em có làm gì anh đâu? Em yêu anh nên mới nói thế mà!
Anh kiên quyết gạt li sữa ả đưa cho khiến nó văng xuống nền nhà tung tóe. Lập tức, từ ngoài cửa mấy tên mặc quần áo rằn ri, mặt mày ngổ ngáo xông vào:
– Thằng này muốn ăn đất thì cho nó ăn đất! Sung sướng không muốn lại muốn ở chuồng cọp thì cho nó vào chuồng cọp lần nữa. Các chiến hữu, lột quần áo nó ra, tống nó vào trại!
Thì ra sau khi anh ngất đi trong cái chuồng cọp hở ấy, bọn cai ngục đã đưa anh về đây, chạy chữa cho anh, lập ra màn kịch “mỹ nhân kế” để lôi kéo anh. Khi không được, chúng lại lộ nguyên hình là hùm beo, rắn rết. Cả bọn xông vào lột trần Thuận và đấm đá anh không thương tiếc.
Rồi chúng đẩy anh vào trại tù T5.
Gọi là trại bởi đấy là một dẫy nhà lợp tôn mười gian, hai bên là hai sàn đất kê các tấm gỗ cho tù nhân nằm, lúc ít thì mỗi trại chứa khoảng trăm người tù, lúc đông lên tới trăm rưỡi. Những người tù chen chúc nhau, mỗi người nằm trên diện tích chừng hai gang bề rộng, chật đến ngạt thở.
Trại T5 là một trong mười lăm trại được địch dựng lên trên một khu đất rộng trống huơ trống hoác. Bên ngoài khu trại có nhiều lớp rào thép gai bùng nhùng kiểu Úc, giữa các lớp rào có đường tuần tra của lính. Bốn góc khu trại có bốn chòi canh của quân cảnh trực gác.
Lúc Thuận nhập trại là lúc tù nhân ăn cơm trưa. Từng người mang cà mèn của mình ra cho người chia cơm xúc vào đó chừng lưng xơi cơm gạo hẩm, một miếng cá khô bốc mùi khăm khẳm và lưng chén canh, lèo tèo vài cọng rau úa vàng nổi lều bều.
Một tù nhân đứng tuổi gầy và đen khẽ chạm vào vai anh, giọng khu bốn nằng nặng:
– Mới nhập trại à? Em tên là gì?
Một cảm giác ấm cúng giữa con người với con người dâng trào trong Thuận. Anh khẽ trả lời:
– Vâng! Em tên là Thuận.
– Anh là Bằng.
Mấy hôm sau, vào buổi chiều sâm sẩm, anh Bằng bảo Thuận cùng anh khênh thùng phân của trại đi đổ. Hai anh em vừa đi vừa tâm sự. Qua đó, Thuận biết anh Bằng có vợ con ở quê. Anh đã ở trại tù Phú Quốc ba năm, trước ở T4 mới bị địch hoán đổi sang T5 và được trại viên bầu là trại trưởng. Anh giải thích sở dĩ địch hay hoán đổi tù nhân vì sợ anh em ta đào hầm vượt ngục.
Thuận tròn mắt hỏi lại anh:
– Đào hầm vượt ngục? Sao mà đào được anh? Mà ra được ngoài biết trốn đâu cho thoát khi xung quanh đảo toàn biển là biển thế này?
– Đào được chứ em. Ở đảo này bên ngoài là rừng rậm, mà ở đâu có rừng là ở đó có du kích mình em ạ. Anh biết em là người lính trung thành với cách mạng nên cứng đầu không chịu chiêu hồi địch nên tụi nó mới dằn em vào chuồng cọp. Em có muốn vượt ngục ra ngoài không?
– Em có!
Thuận thật thà trả lời.
Thế là sau hôm đó, Thuận thấy le lói một tia hi vọng được trở về cuộc sống tự do, được cầm súng đánh quân thù. Niềm ao ước đó cứ lớn dần, nhất là một hôm anh Bằng bảo nhỏ với Thuận:
– Chi bộ Đảng nhà tù quyết định tổ chức đào hầm cho anh em vượt ngục, em ạ!
Một lần nữa Thuận lại ngơ ngác:
– Ở trong tù cũng có chi bộ hở anh?
– Có chứ em. Trên đất nước mình, Đảng có mặt ở mọi nơi. Chi bộ giao cho anh vận động em, nếu em có chí khí phấn đấu, một lòng một dạ trung thành với Đảng thì chi bộ sẽ kết nạp em vào Đảng.
– Em không xứng đáng đâu anh ạ, em là kẻ đã một lần đào ngũ.
Nói rồi Thuận kể cho anh Bằng nghe lầm lỗi của mình. Anh Bằng không những không trách cứ mà còn an ủi:
– Khuyết điểm của em là nhất thời. Cốt lõi là sau đó em đã xác định lại và thể hiện được phẩm chất của một đoàn viên. Em hoàn toàn có thể phấn đấu trở thành đảng viên cộng sản.
– Thật thế hả anh?
Thuận sung sướng hỏi lại.
– Ừ. Anh lấy danh dự của đồng chí bí thư chi bộ nhà tù Phú Quốc bảo đảm cho em, miễn là em xứng đáng!
Từ hôm đó, Thuận thấy cuộc sống dù là bị tù đầy nhưng vẫn có thể có ích. Cái cảm giác Tham, Si, Sân trong anh như một bản năng sống lại trỗi dậy. Nó khuyến khích anh, thôi thúc anh hãy sống xứng đáng với bạn bè đồng chí của anh, xứng đáng với người con của bản Mẫn quê hương anh.
Công việc đào hầm vượt ngục của tù nhân trại T5 bắt đầu ngay sau đó.
Việc đầu tiên là phải tìm được dụng cụ để đào hầm. Trong tù kiếm một đoạn sắt nhỏ cũng khó huống chi là cuốc thuổng. Nhưng không có thì lấy gì đào đất, chẳng lẽ dùng tay mà bới? Thế là những sáng kiến được đề ra. Người có nắp cà mèn hỏng, người có muỗng thìa giấu được, người có ca ấm cũ. Tất cả đều được bàn tay người tù khéo léo biến thành dụng cụ, thôi thì chẳng to thì nhỏ, những vật dụng ngoài đời chỉ là đồ bỏ đi bỗng chốc trong tù trở thành cuốc thuổng đào đất, xúc đất.
Rồi vị trí miệng hầm đặt ở đâu cho hợp lý. Trong tù đào được một tấc hầm đã là rất quý, cho nên miệng hầm được chọn là vị trí sát tường thẳng ra bìa rừng gần nhất. Nơi đây chỉ phải đào chừng hơn trăm mét hầm, vượt qua một trảng cỏ gianh là đã đến tự do.
Anh Bằng chọn miệng hầm làm chỗ kê tấm phản nằm. Nói thế nào anh cũng không nghe. Anh bảo:
– Nếu địch phát hiện ra, để mình tôi chịu!
Thuận xin đổi cho anh. Lý do Thuận đưa ra thật đơn giản:
– Em chưa bận tâm gì về vợ con, anh đổi cho em, có gì em xin gánh chịu!
Nhưng ý kiến của Thuận cũng chẳng lay chuyển được ý chí của anh Bằng. Vì thế mọi công việc vẫn được tiến hành như đã định. Mọi người trong trại ai ai cũng kính trọng anh.
Thế rồi miệng hầm cũng được đào xong. Nó rộng chỉ vừa người chui lọt. Đất moi lên trước mắt còn ít nên được anh em đem rải mỏng lên nền trại giam rồi xoa đi xoa lại giống y chang nền đất cũ.
Ban ngày anh em ngắm kiểm tra phương hướng để khi xuống đường hầm đào không bị chệch đường.
Cứ chín giờ đêm, sau buổi điểm danh của cai ngục là công việc đào hầm bắt đầu. Mỗi tốp đào có bốn người, người thứ nhất đào, người thứ hai cho đất vào túi, người thứ ba, thứ tư lôi ra ngoài. Hầm đào sâu dưới lòng đất chừng mét rưỡi và càng xa càng được đào cao lên. Cứ chục mét lại đào một hàm ếch và có một lỗ thông hơi để lấy khí thở cho người trong hầm.
Khi đất đã nhiều anh em cho bớt vào thùng chứa phân và nước tiểu. Anh Bằng xin cai ngục cho đào thêm hố vệ sinh. Lấy cớ đó anh em chuyển đất đào hầm ra ngoài mà địch không hề nghi ngờ gì cả.
Thuận càng đào càng quen việc. Vốn mảnh người nên Thuận chui ra chui vào xem chừng dễ dàng hơn mọi người. Hơn nữa công việc đào hầm cũng không nặng nhọc lắm nên gần như hôm nào Thuận cũng xung phong xuống hầm. Đề phòng địch điểm danh bất thường anh Bằng có sáng kiến dùng dây buộc vào lon sữa bò cũ rồi ròng xuống hầm, khi có địch đến, người ở trên giật dây báo động cho anh em lên. Cũng may là hầm ở cuối nhà mà cửa trại lại ở đầu, nên mấy lần Thuận đều lên kịp.
Một hôm, anh em đang đào thì hầm bị sập. Đất cát ở trên sụt xuống bít mất một đoạn cuối hầm, Tin báo đến anh Bằng. Cơ sự này không giải quyết ngay thì đến ban ngày bọn lính đi tuần sẽ phát hiện ra. Làm thế nào bây giờ?
Thông thường “cái khó ló cái khôn“. Anh Bằng bảo anh em chịu đựng, gần sáng vấy bẩn thùng vệ sinh rồi kêu la khiến cai ngục phải mở cửa trại để tù nhân mang đi đổ. Y như rằng cai ngục trúng kế. Thuận được giao khênh thùng. Đến chỗ sụt, Thuận giả vờ vấp ngã, phân và nước giải đổ ra tung tóe, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Bọn địch đi tuần ngang qua không dám đến gần, quát lác ầm ĩ, bắt Thuận lấp đất lên. Thế là thoát nạn. Hầm lại được đào tiếp, có điều phải đào vòng mất một đoạn.
Cuối cùng, sau hơn bốn tháng ròng rã con đường hầm bí mật cũng đã được hoàn thành. Chi bộ nhà tù quyết định tổ chức cho anh em vượt ngục. Rất nhiều người xung phong để tiếp tục cầm súng chiến đấu đánh giặc. Nhưng thời gian một đêm chỉ đủ để bốn chục người trốn thoát. Trong số những người được chi bộ lựa chọn có Thuận vì Thuận là người tích cực đào hầm chuẩn bị cho kế hoạch vượt ngục nhất. Thế nhưng Thuận chối từ, nhường cho anh em bạn tù khác về với tự do. Anh nói với anh Bằng:
– Anh để cho em ở lại, sự lầm lỡ của em trước đây đáng phải thế. Đây chính là trường đời để em gột rửa vết nhơ mà em mắc phải!
– Không, khuyết điểm của em đã hoàn toàn được xóa bỏ. Anh tin em, Đảng tin em, chi bộ nhà tù tin em và đã đồng ý kết nạp em vào Đảng. Hôm nay, trước lúc tổ chức cho anh em vượt ngục, chi bộ sẽ kết nạp em. Mong em cố gắng xứng đáng với danh hiệu người Đảng viên chân chính!
Thuận mừng đến phát khóc. Anh rưng rưng cảm động:
– Em xin thề trung thành với Đảng đến cùng! Em sung sướng quá. Đời em chưa lúc nào nghĩ được như thế này. Em đã mãn nguyện vì được Đảng tin cậy, vì đã xứng đáng với bạn bè của em, với quê hương bản Mẫn thân yêu của em.
Cố gắng nén xúc cảm trào dâng trong lòng nhưng khóe mắt của Thuận những giọt nước mắt nóng hổi vẫn trào ra. Anh nói tiếp:
– Nhưng em cũng đã quyết rồi, anh cứ để cho em ở lại, coi như đây là việc làm vinh dự đầu tiên của em khi là người Cộng sản. Biết đâu sau này em lại tổ chức cho anh em vượt ngục một lần nữa.
Anh Bằng và anh em khác lần lượt ôm hôn Thuận trước khi xuống hầm. Họ lặng lẽ trườn vào bóng tối để đến với tự do, đến với cuộc chiến đấu mới.
Sáng hôm sau, địch điên cuồng khi phát hiện ra đường hầm vượt ngục ở trại T5. Mọi tù nhân đều bị đánh đập dã man. Dù hết sức khó khăn nhưng cuối cùng địch cũng tìm ra người đã tích cực đào hầm cho tù nhân vượt ngục.
Thế là Thuận bị nhốt vào phòng biệt giam.
Cai ngục Sầm trực tiếp hỏi cung anh:
– Tôi biết anh là người trung thành với lí tưởng của anh. Việc các anh đào được đường hầm để tổ chức vượt ngục là việc làm quá sức tưởng tượng của chúng tôi. Tội trạng của anh thật không thể tha thứ được!
Nói rồi, hắn đưa anh đi thăm phòng tra tấn các tù nhân mà hắn gọi là cứng đầu không chịu hồi chánh của hắn. Thôi thì đủ loại cực hình tra tấn man rợ nhất mà bộ óc văn minh kiểu Mỹ đã nghĩ ra. Nào là dùng búa đánh bật móng tay tù nhân, dùng đinh ba phân đóng vào mười đầu ngón tay. Nào là lấy đinh mười phân đóng vào các khớp xương chân, dùng đục đục bánh chè khiến tù nhân còn chân mà không đi nổi, chỉ có thể lết đi như người bại liệt. Nào là dùng thước gỗ bẩy từng cái răng tù nhân, dùng ván ép ép ngực rồi siết bu-loong gẫy hết xương sườn, dập phổi khiến tù binh chết trong đau đớn. Nào là buộc dây treo chân tay cho đi tầu bay, tra điện, ngâm tù binh vào phi nước rồi dùng vồ vỗ khiến đinh tai lộng óc mà chết. Nào là dùng lửa đốt cháy bộ phận sinh dục khiến người ta sống không ra sống, chết không ra chết.
Tù nhân bị tra tấn với các nhục hình ấy, đau đớn quằn quại, rên xiết hàng ngày hàng buổi, muốn chết cho xong mà nào có được chết.
Ý đồ lớn nhất của Sầm là buộc Thuận sợ các cực hình ấy, phải hồi chánh chứ bây giờ hầm cũng đã đào rồi, tù nhân đã trốn trại rồi thì Thuận cũng chẳng còn mấy tác dụng với đám tù nhân cứng đầu cứng cổ kia nữa. Nhưng nếu buộc Thuận hồi chánh quốc gia Sầm sẽ được thăng quan tiến chức, sẽ được cao lương dầy thưởng, được thượng cấp vinh danh.
Đấy mới là mong ước của y, y cố làm cho bằng được. Bây giờ chẳng còn gì mất nữa y quyết đánh canh bạc cuối cùng, được thì được cả, nếu thua bất quá giết thêm một mạng người. Với tù cộng sản y đã giết quá nhiều, giờ có giết thêm nữa cũng không vì thế mà tội lỗi của y dầy thêm bao nhiêu.
Cai ngục Sầm ra điều kiện với Thuận:
– Tôi biết anh cứng đầu cứng cổ. Nhưng tôi cũng tiếc cho anh còn trẻ, chưa được thưởng thức những ân huệ của cuộc đời. Thế mà chết thì phí phạm quá. Mà có phải như ra trận, đòm một cái là chết ngay đâu. Kiểu chết ở đây rất đau đớn, dai dẳng anh biết rồi đấy!
Hắn dừng lại như muốn Thuận ngấm đòn đến xương tủy rồi mới nói tiếp:
– Tôi cho anh hai lựa chọn. Nếu anh chịu quy thuận chánh nghĩa quốc gia, chấp nhận hồi chánh, anh sẽ được sống cuộc sống đầy đủ. Nếu anh không chịu, tôi sẽ cho đao phủ áp dụng từng hình phạt một cho đến khi anh hồi chánh thì thôi. Chắc chắn anh không chịu nổi các cực hình ấy đến ngày thứ ba. Thôi thì đằng nào cũng hồi chánh, chi bằng hồi chánh trước cho khỏi đau đớn. Anh chọn đi!
Thuận bình thản, nhẹ nhàng đáp:
– Việc tra tấn là việc của các anh, việc có chấp nhận hồi chánh hay không là việc của tôi. Nếu có ý định hồi chánh có lẽ tôi đã hồi chánh lâu rồi không đợi đến bây giờ.
Biết không lung lay được Thuận, Cai ngục Sầm tím mặt:
– Thôi được, tôi sẽ chiếu cố yêu cầu của anh!
Nói xong hắn bắt Thuận úp tay lên bàn rồi dùng búa sắt bất thình lình nện thẳng cánh vào đầu ngón tay giữa của Thuận. Cú nện hơi chếch, móng tay Thuận lập tức bật ra chỉ còn dính tí da. Thuận thét lên đau đớn khôn cùng, rụt tay lại vẫy vẫy xuýt xoa, máu từ đầu ngón tay nhểu ra lành lạnh.
Sầm đắc ý, cười lên chuỗi cười man dại:
– Thế nào, có đau không? Mới là một ngón thôi mà. Thôi, chấp nhận hồi chánh đi anh bạn! Anh làm sao mà chịu nổi khi lần lượt cả mười móng tay của anh sẽ bị bóc ra như tôm bóc vỏ thế này.
Thuận nghiến chặt hai hàm răng đến mức cằm bạnh ra, mắt anh tóe lửa. Anh không trả lời.
Sầm không nói không rằng trừng mắt thét tên lính đứng bên lôi tay Thuận đặt lên bàn. Hắn gại gại chiếc búa lên mu bàn tay Thuận và lại bất chợt vung lên giáng mạnh xuống móng tay anh. Một chiếc móng tay Thuận lại bung ra. Cảm giác đau đớn tưởng chừng đến lộng cả óc, nhưng lần này anh kiên cường nghiến răng chịu đựng, nuốt những tiếng kêu rên vào trong lòng. Anh thầm bụng bảo dạ:
– Đằng nào tao cũng chết! Coi như tao chết rồi! Nhưng chết tao cũng không để mày hả lòng, hả dạ nữa!
Đến bây giờ anh mới thấy thấm thía những chuẩn mực về lí tưởng mà môi trường xã hội miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã giáo dục anh. Trước đây đọc sách báo, anh kinh ngạc trước hình ảnh các chiến sĩ cách mạng kiên cường vượt qua những cám dỗ vật chất, vượt qua những đau đớn thể xác, vượt qua những ham muốn dục vọng của khi phải đối mặt với kẻ thù.
Từ chỗ kinh ngạc anh cho rằng những điều ấy người ta viết ra chỉ là tô vẽ cho lý tưởng của người cộng sản chứ không có thật.

Bây giờ ở trong hoàn cảnh chịu sự tra tấn của kẻ thù từng bước từng bước một, từ khắc nghiệt này đến khắc nghiệt khác đã tạo cho anh khả năng chịu đựng. Câu nói của các chiến sỹ cách mạng mà anh đọc được ở đâu đó “Nhà tù của địch đúng là trường học giáo dục lý tưởng cho ta” đang được anh chiêm nghiệm bằng thực tế. Cái nghị lực mà anh được tiếp thu thoạt nghĩ chỉ là vô hình vô dạng thì bây giờ tự nhiên trở thành nguồn sức mạnh thực sự trong anh, nâng đỡ anh lên. Lắm lúc chính anh cũng tự hỏi: tại sao anh có thể giữ vững khí tiết trước cực hình của kẻ thù như vậy? Cái gì là động lực cho anh? Và anh tự kiểm chứng và trả lời: đó chính là những bài học về tình yêu quê hương đất nước mà anh đã được học từ những ngày thơ bé.
Tất cả những điều đó thấm trong huyết quản của anh cũng như thấm trong mỗi người thanh niên khác, tạo ra trong mỗi người một bản lĩnh. Bình thường không ai nhận ra bản lĩnh này, nhưng khi rơi vào hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng như anh thì bản lĩnh ấy mới trỗi dậy, hình thành sức mạnh giúp mọi người vượt qua giông tố. Giống như con tầu được thiết kế chuẩn, vững chắc thì dù to lớn bao nhiêu cũng không thể bị nước nhấn chìm, trong khi một thỏi sắt tuy nhẹ bẫng, nhưng khi ném xuống nước lập tức bị chìm nghỉm bởi quy luật lực và phản lực.
Thuận đã trở thành Đảng viên Cộng sản. Khí tiết của người Cộng sản đã giúp anh vượt qua mọi sự tra tấn của kẻ thù giống như con tầu kia được thiết kế chắc chắn. Dẫu nước có thể nhấn chìm mọi thứ nhưng không thể nhấn chìm con tầu có phản lực luôn cân bằng với trọng lực của nó. Cơ thể con người cũng vậy, bạch cầu ở trong máu luôn có khả năng chống lại mọi sự tấn công của vi-rút gây bệnh, tạo ra kháng nguyên, khi đủ sức, cơ thể sẽ được miễn dịch với bệnh tật. Lí tưởng đã thấm vào máu người Cộng sản khiến anh tạo ra được kháng nguyên, chống được mọi sự hành hạ, mua chuộc của kẻ thù. Bây giờ nhờ có chất “kháng nguyên miễn dịch” đó mà kẻ thù đàn áp anh bao nhiêu thì tự khắc trong anh sinh ra phản đàn áp bấy nhiêu, đủ sức giữ anh không bị sự đàn áp của kẻ địch nuốt chửng.
Anh không kêu rên khiến cho Sầm càng điên tiết, cặp mắt ốc nhồi trắng dã của hắn long lên sòng sọc. Hắn cứ thế vung búa và liên tiếp giáng xuống theo những tiếng gầm của hắn:
– Gan này. Gan này!…
Sau mỗi tiếng gầm của hắn là một cái móng tay của Thuận long ra. Nỗi đau đớn của Thuận cứ xối xả hết đợt này đến đợt khác. Đầu óc anh tưởng như nổ tung, nhão chẩy như bị bóp nát. Cuối cùng cả mười đầu ngón tay của anh nát tươm, nhoe nhoét máu. Máu nhểu ra đỏ lòm cả mặt bàn tra tấn. Mắt Thuận hoa lên, anh gục xuống mê man bất tỉnh.
Trước khi ngất, anh còn nghe thấy cai ngục Sầm chửi đổng:
– Đ ..mạ mi! Thần kinh của mấy thằng cộng sản này bằng thép hay sao mà giỏi chịu đựng vậy?
Rồi hắn quát lính:
– Thôi tau mệt với thằng ni quá trời rồi, hôm nay hãy dừng ở đây đã! Ném nó về phòng giam! Mai tính tiếp.
Hơi đất ẩm khiến Thuận tỉnh lại. Đêm hôm ấy, các ngón tay anh sưng tấy lên tựa  những trái chuối mắn, nhức nhối như có ai sát muối. Anh đau đớn, nước mắt cứ thế trào ra mặn chát đôi môi nứt nẻ. Anh muốn được chết để khỏi phải chịu những nỗi đau khủng khiếp dày vò anh mà không có cách nào chết được.
Bỗng nhiên anh thèm được gặp bố bầm. Giá như bây giờ anh được xà vào lòng bố bầm mà khóc cho thỏa thích thì còn gì bằng. Từ bé đến giờ, anh chưa bị bố bầm đánh đến nửa cái roi. Anh nhớ có lần đi học về đói bụng, anh hấp tấp trèo cầu thang bị ngã thâm tím chân tay, bầm anh khóc đỏ hết cả mắt, còn bố bỏ không uống rượu cả ngày, mặt buồn rười rượi. Hôm nay, giá như bố bầm nhìn thấy anh thế này chắc không sao sống nổi. Anh nhớ hôm đi gùi hàng nặng, thấy anh loạng choạng, Hón và anh em xúm lại mỗi người mang đỡ anh một ít, thế mà về đến đơn vị mọi người lại lăng xăng hòa nước muối ấm bóp chân cho anh. Thương anh em quá! Liệu anh còn cơ hội gặp lại mọi người không nhỉ?
Thuận muốn báo tin cho Hón và Phiến là Thuận đã được kết nạp vào Đảng rồi. Thuận đã là đồng chí của Phiến và Hón, đã xứng đáng là chàng trai bản Mẫn chứ không còn yếu đuối như xưa nữa.
Nghĩ đến đây Thuận thấy mình vững tin hơn. Nỗi đau còn đó nhưng có phần dịu đi. Anh như được tiếp thêm sức mạnh. Bóng dáng bố bầm như hiện lên động viên anh. Nỗi nhớ bè bạn như nâng đỡ anh. Lời thề trước Đảng như thôi thúc anh. Đôi mắt của Mậu như trìu mến nhìn anh. Anh bỗng tin ở mình hơn bao giờ hết. Anh phải sống, sống để đấu tranh vì lí tưởng của Đảng! Sống để xứng đáng với gia đình và quê hương! Sống để còn gặp đồng đội, bạn bè trong ngày chiến thắng!
Hôm sau, cai ngục Sầm lại cho lính lôi Thuận lên phòng tra tấn.
Hắn nói luôn:
– Không lẽ tau chịu thua mấy thằng cộng sản chúng mi à!
Không đợi cho Thuận kịp trả lời hắn xỉa ra bàn nắm đinh mười phân to thô lố:
– Tau sẽ cho mi bò không bò được, để phải  bỏ ý nghĩ vượt ngục.
Thế là hắn ướm chiếc đinh vào khớp gối Thuận và bất chợt dùng búa giáng mạnh. Chiếc đinh đâm xuyên lút từ bên này sang bên kia gối. Xương bánh chè anh vỡ lạo xạo. Thuận choáng váng đau đớn đến lộng óc, mắt đổ hoa cà hoa cải, chân cẳng như muốn rụng rời, tim loạn nhịp như muốn nhẩy ra khỏi lồng ngực. Anh cắn vào môi đến bật máu.
Sầm rống lên:
– Chưa hết đâu!
Nói rồi hắn lại nhử nhử chiếc đinh vào bên gối còn lại và lại giáng mạnh. Thuận không chịu được nữa. Anh hộc lên một tiếng rồi vật xuống, ngất đi, không biết gì nữa.
Con mãnh thú Sầm chu lên một tiếng ghê rợn.
Chương XVI
Hón được Tỉnh đội đề bạt đại đội phó đại đội hậu cần sau những chiến công ở Hà Tam. Anh không những đã hoàn thành nhiệm vụ vận động, tổ chức đồng bào cung ứng quân lương cho bộ đội, mà còn cùng chi bộ Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của Hà Tam. Khí thế của nhân dân lên cao, lấn át địch. Đồn lính canh ở đồn điền Phú Tam thực sự hoảng loạn sau trận đánh chống càn, buộc phải theo sự áp đặt của quần chúng cách mạng, trở thành lực lượng ủng hộ giải phóng. Lính ngụy ở đồn Núi Vũ bị phân tâm, già nửa khiếp nhược, manh nha tâm lí phản chiến.
Giữa lúc đó, Bẩy Tiền và Hón được lệnh của Tỉnh đội triệu tập gấp lên gặp Tư lệnh sư đoàn Chu Lai để bàn công việc hiệp đồng chiến đấu.
Khi hai người lên đến sở chỉ huy dã chiến của sư đoàn thì đã thấy tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn có mặt tại đấy rồi. Tỉnh đội trưởng giới thiệu với sư đoàn trưởng:
– Đây là cặp bài rất ăn ý trong việc cung ứng hậu cần cho toàn tỉnh đội của chúng tôi. Không những thế các đồng chí đó còn có khả năng lấn lướt địch, vừa lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, vừa ép địch bằng cả sức mạnh quân sự và cả sức mạnh tinh thần.
Tỉnh đội trưởng quay sang giới thiệu với Bẩy và Hón:
– Còn đây là sư đoàn trưởng sư đoàn Chu Lai, người khiến địch phải run sợ gọi là “con hùm xám” Tây Nguyên.
Sư đoàn trưởng Nguyễn nở nụ cười thân mật như gắn bó với Bẩy và Hón tự bao giờ. Ông bắt tay từng người. Giọng ông đục và khàn, âm lượng phát ra như được trộn với lửa khói chiến trận nhưng ấm cúng, đầy tình nghĩa:
– Cho mình gửi lời chào đồng bào Hà Tam, đặc biệt thăm bà Hai Thái Bình nhé!
– Thế ạ, sư đoàn trưởng biết bả ạ?
– Biết chớ, mình đã ăn mòn bát, mòn đũa nhà bả và ông Năm Long mà.
– Dạ, chúng em sẽ thưa lại!
– Bây giờ ta bàn vào việc chính. Tới đây bộ đội giải phóng sẽ tổ chức đánh địch quyết liệt hơn tiêu diệt căn cứ Núi Cấm của chúng. Sư đoàn cần có đủ lương thảo nuôi quân. Hiện nay lực lượng hậu cần của sư đoàn đang gặp khó khăn, cần huy động lực lượng tại chỗ chừng hai trăm tấn gạo để kịp tiến độ đánh địch. Các đồng chí giúp sư đoàn được không?
Bẩy và Hón cùng bật dậy hỏi:
– Thời gian bao lâu ạ?
– Từ nay đến lúc tập kết đủ tại tổng kho Làng Mười là năm ngày.
Tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn nói thêm:
– Biết rằng bà con đang vào vụ giáp hạt nhưng Tỉnh đội không thể không giúp sư đoàn, giúp sư đoàn tiêu diệt căn cứ xương sống của Mỹ ngụy thực chất là giúp chính mình để mở rộng vùng giải phóng của tỉnh. Thời gian gấp gáp và công việc hết sức khẩn trương, các đồng chí phải mở rộng địa bàn hoạt động ra các thành phố quanh Quảng Nam mới kịp. Tài chính sư đoàn sẽ cung ứng nhưng chắc chưa đủ, vẫn cần sự hỗ trợ của đồng bào. Đây là công việc rất khó, các đồng chí có một tiếng đồng hồ bàn bạc để trả lời sư đoàn trưởng!
– Dạ!
Sư đoàn trưởng Nguyễn và tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn kéo nhau sang phòng bên hội ý để Bẩy và Hón ở lại bàn bạc. Bẩy thầm thì giọng đầy lo lắng:
– Anh thấy công việc thế nào? Em thấy đuối sức quá à! Liệu mình có gánh được không hè?
– Hai trăm tấn gạo tức là khoảng bốn chục xe đò nhỉ?
– Vâng! Mà không phải giao ở Hà Tam đâu. Từ đây lên làng Mười còn là cả một chặng đường xa, ngoài căn cứ Núi Vũ còn ba đồn bốt địch án ngữ dọc đường nữa.
– Mua đủ số gạo đó tại các thành phố, thị xã địch chiếm có thể thực hiện được, cái khó là khâu đảm bảo bí mật và khâu vận chuyển đến địa điểm tập kết.
– Anh nghĩ ra cách gì chưa chứ em thấy bí quá ta! Trước đây mình thu mua vài chục tấn trong cả tháng còn lừa mắt địch được chớ bây chừ
Bẩy bỏ lửng câu nói trong tâm trạng rối bời.
– Hón định …
Đến lúc Hón băn khoăn. Một phút trôi qua mà sao Bẩy thấy lâu quá vậy. Cuối cùng Bẩy phải giục:
– Hón nói đi! Hón làm em sốt ruột quá trời luôn.
– Hón nghĩ mình phải phát huy kinh nghiệm vận chuyển quân lương qua trại lính Phú Tam, giải tỏa sự khống chế của địch ở tất cả các căn cứ án ngữ, mở thông tuyến đường vận chuyển từ Hà Tam lên Làng Mười. Đối với những đồn chưa xử lí được bằng binh vận thì phải căng địch ra mà đánh buộc chúng phân tán lực lượng, không còn sức nhòm ngó đến việc vận chuyển của ta.
– Nhưng lấy lực lượng ở đâu mà đánh địch?
– Việc này phải đề nghị tỉnh đội sử dụng các tiểu đoàn chiến đấu của tỉnh. Đại đội vận tải của ta tập trung cùng các hạt nhân cơ sở, trong đó lấy Hà Tam làm trung tâm tổ chức thu gom lương thực không chỉ ở địa phương mà phải tung lực lượng ra Đà Nẵng, vào Tam Kỳ, nếu sư đoàn cấp và nhân dân ủng hộ đủ tiền mua quân lương thì chỉ ba ngày ta có thể thu gom đủ theo yêu cầu của sư đoàn.
– Ồ, anh tính toán rất chu đáo, hết phần của em rồi đó nghen!
– Tất nhiên việc này phải có ý kiến thống nhất của tỉnh đội.
– Dạ, tí nữa anh trình bầy với chú Sáu Ngạn hè!
Bẩy Tiền âu yếm nhìn Hón.
Càng ngày Bẩy càng nhận thấy ở Hón phẩm chất của một người chỉ huy với những quyết sách táo bạo và hợp lí. Hình như ở anh hội tụ đủ tính cương nghị của người cầm quân biết lấy mục tiêu cần đến làm trọng. Anh biết lượng sức để lấy thế yếu của mình chế ngự thế mạnh của kẻ thù. Anh có gan tổ chức, khi thời cơ đến biết đem cái cương trường của người thắng thế ra áp đảo cái nhu thời của đối phương, để giành thắng lợi. Điều đó không chỉ bớt hi sinh cho ta mà còn bớt cả đổ máu cho địch. Hình như trong con người anh, ta và địch chỉ là khái niệm mang tính ý chí, còn lại vẫn mang nặng tình người. Các trận chiến đấu vừa qua cho thấy anh thiên về đánh thắng địch bằng thế, chứ không thắng bằng cách giết nhiều người không cùng chiến tuyến. Phải chăng đó là tâm thế của anh trong cuộc chiến này?
Hón biết vận dụng phương châm “Bám thắt lưng địch” của một người thượng võ. Cứ xem trận chống càn vừa rồi ở Hà Tam thì thấy. Khi sức liên quân Mỹ ngụy đồn Núi Vũ đang hăng, nếu ai sợ, không dám đến gần địch thì máy bay, phi pháo địch có thừa lực công kích sát thương. Nhưng Hón thì khác, Hón biết lựa thời bám địch, khiến pháo địch không dám bắn vì sợ “Pháo mi lại bắn vào lưng mi”. Hón cho anh em vừa đánh vừa lùi, dụ địch vào bãi mìn để vỗ mặt, khiến địch sợ mà lui binh. Khi đã hoảng loạn, lập tức địch sa vào thế phục kích vu hồi của anh. Thế là ý chí của đối phương bất ngờ bị tan như bong bóng xà phòng, địch buộc phải tháo chạy. Mặc dù tháo chạy nhưng chúng cũng không dám dùng sức mạnh của phi pháo để chế ngự ta, bởi còn lính Mỹ bị thương và chết nằm tại chiến trường.
Hón đánh giặc mà như chèo thuyền trên nước lũ, lúc nào cũng ở trên thế nước. Hón dám cùng mệ Hai xông vào đồn điền Phú Tam, dùng uy của người thắng dọa kẻ non gan đang hoảng loạn, khiến chúng “thần hồn nát thần tính”, phải chấp nhận để nhân dân qua mặt chuyển quân lương cho cách mạng.
Thế là đạn không mất một viên, người không đổ một giọt máu mà vẫn áp chế được kẻ thù. Đồn địch còn mà hóa mất, lại còn trở thành lá chắn bảo vệ ta.
Giống như người đánh cờ, Hón biết dùng thế thủ có mưu lược của mình chế ngự thế công, khiến đối phương buộc phải bộc lộ điểm yếu trong cách điều xe, khiển pháo. Thế là Hón ung dung đem tốt vây thành buộc đối phương thua trận.
Và bây giờ cũng vậy, bài toán tập trung và vận chuyển quân lương sẽ có lời giải khi Hón “căng địch ra mà đánh”.
Đúng là Hón biết cầm quân, lại có phong thái “Nhàn”. Phải chăng, chính phong thái đó đã tạo ra bản lĩnh đàn ông khiến cho Bẩy si mê Hón đến độ “chết mê chết mệt” thế này.
Nhiều lúc Bẩy tự hỏi mình: “Hón ơi, Hón có biết em yêu Hón đến thế nào không?”
Có những đêm, Bẩy mơ thấy được ở bên Hón, được thổ lộ hết nỗi lòng để cho Hón biết rằng ngoại trừ những lúc bận công bận việc, còn lại Bẩy nhớ Hón cả lúc ăn lúc ngủ, cả lúc bận lúc rỗi.
Bẩy nhớ Hón đến mức trăng lên quên ngắm, con nai giác quên nghe, lội qua suối nước trong không nghe tiếng róc rách reo vui, đi đường rừng vắng không nhìn đóa hoa nồng nàn khoe sắc.
Con mắt Hón như biết thôi miên Bẩy. Hón quay sang trái Bẩy muốn đi về phía trái, quay sang phải Bẩy muốn có luôn ở đằng bên phải. Bẩy ngơ ngẩn cùng Hón như tự bảo mình Hón là của Bẩy. Bẩy không thể hình dung không có Hón Bẩy sẽ thế nào? Không biết Hón có hình dung ra được không chứ Bẩy thì đúng là Bẩy chịu.
Bẩy da diết nhìn Hón.
Ở đây là sở chỉ huy sư đoàn, bao nhiêu con mắt cấp trên để ý, chứ nếu ở chỗ khác có lẽ Bẩy không thể giữ được lòng mình. Bẩy muốn chạy đến ôm ghì lấy Hón, muốn tỏ cùng Hón tình yêu say đắm của mình còn sau đó mặc kệ, muốn ra sao thì ra. Chưa bao giờ Bẩy thấy lòng mình man dại và cũng chưa bao giờ Bẩy thấy mình quyết liệt như thế này. Hón ơi là Hón!
Giữa lúc đó sư đoàn trưởng và tỉnh đội trưởng bước vào.
Nhìn thấy Hón đăm chiêu dáng chừng đang tập trung suy nghĩ, tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn băn khoăn:
– Khó dữ hè! Tìm ra được cách gì chưa vậy ta?
Bẩy nhanh miệng:
– Đồng chí Hón đã có cách, đang chờ xin ý kiến thủ trưởng ạ!
Sư đoàn trưởng hồ hởi:
– Thế thì tốt rồi, đồng chí cứ trình bầy, có gì ta cùng bàn thêm!
Hón trình bầy kĩ càng kế hoạch với cấp trên.
Kế hoạch của anh sẽ có hai bước:
Bước một, đại đội vận tải sẽ tập trung lực lượng cùng các hạt nhân ở cơ sở tổ chức vừa vận động thu gom gạo, tiền bạc ủng hộ của nhân dân, vừa thu mua quân lương ở các vùng địch tạm chiếm, sao cho trong ba ngày phải đủ số lượng sư đoàn trưởng yêu cầu.
Bước hai, đêm ngày thứ tư, tiểu đoàn chiến đấu của Tỉnh đội sẽ uy hiếp các căn cứ địch trên dọc tuyến đường Hà Tam đi Làng Mười. Binh vận được thì binh vận, không binh vận được thì đánh tiêu diệt, tạo điều kiện cho các xe hàng của ta chuyển gạo lên kho của sư đoàn.
Như thế sau năm ngày đại đội vận tải sẽ hoàn thành nhiệm vụ.
Tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn nghe xong tỏ ý phân vân và cũng là cách khơi dậy tính tự chủ của cấp dưới:
– Hiện tại, cả bốn tiểu đoàn chiến đấu của tỉnh đang tập trung kìm chế địch phản kích tại các căn cứ vừa chiếm được của địch. Vì vậy nếu rút bớt ra đánh các đồn bốt trên đường vận lương của các đồng chí sẽ không đảm bảo an toàn cho các căn cứ đang giữ.
Bỗng Bẩy Tiền bật dậy:
– Hay là dùng lực lượng du kích các xã vây hãm?
– Du kích xã làm sao đủ sức đánh chiếm các đồn bót này?
Hón ngẫm ngợi một lát rồi chậm rãi:
– Em nghĩ ý kiến đồng chí Bẩy cũng có thể thực hiện được. Hiện nay, tinh thần binh lính ở các đồn bót này đang suy sụp. Ta chỉ cần dùng một lực lượng nhỏ bộ đội chủ lực mạnh để lấy danh còn lại kết hợp với du kích địa phương tấn công tiêu diệt đồn bót cứng đầu nhất. Quân địch đêm hôm đồn nào phải lo đồn ấy, không thể ứng cứu cho nhau được nên các đồn bót còn lại ta sẽ kêu gọi binh lính ngụy phản chiến. Chịu thì thôi, không chịu ta lại dồn quân áp chế tiếp.
Tỉnh đội trưởng thống nhất:
– Nếu thế thì được. Ngày mai tỉnh sẽ rút mỗi tiểu đoàn chiến đấu một trung đội về phối hợp với du kích các xã trong vùng để trinh sát, điều nghiên lập kế hoạch khống chế các đồn bốt này.
Hón rụt rè:
– Thưa sư trưởng. Con trai bà Hai bây giờ là đồn trưởng đồn Núi Vũ, tinh thần anh ta đang chán nản, không muốn tham chiến. Trận càn vào Nam Hà Tam vừa qua anh ta cáo bệnh không tham gia. Em muốn xin sư trưởng vài chữ về khuyên anh ta phản chiến.
– Thế à, thế thì tốt! Tớ sẽ ghi thư ngay. Núi Vũ là căn cứ Mỹ kép mạnh. Nếu đồn trưởng phản chiến, ta sẽ đỡ phải điều thêm quân tấn công.
– Dạ!
Chợt có một giọng hát ví Mường mượt mà từ xa vọng lại. “Đi đâu mà vội mà vàng/ Dừng chân đứng lại ăn nang ăn trầu/ Ăn rồi xin nhớ đến nhau/ Đừng như vôi bạc mà sầu lòng em”.
Câu hát thật tình tứ, ý nhị. Hón biết đó là những câu hát của người Mường trong những lễ hội mùa xuân, nơi có sự thách đố giữa các nhóm trai gái. Cũng có khi là lời ca đối đáp trên nương rẫy. Người bên kia suối cất tiếng hát “ra lời”, người bên này “bắt tín hiệu” và đối lại. Câu hát qua, lời đối lại xua bớt đi nỗi vất vả của công việc, gắn kết thêm tình người.
Cái chất giọng này Hón nghe quen quen, vừa mềm mại, vừa thiết tha, đầm ấm. Anh đảo mắt ngước nhìn về phía nơi phát ra tiếng hát.
Động tác xoay người của Hón không qua được mắt sư đoàn trưởng:
– Hình như đồng chí Hón thích nghe bài hát này?
– Thưa sư trưởng, đây là bài hát ví của dân tộc Mường chúng em ạ.
– Thế à? Đấy là đơn vị văn công quân khu vừa mới về sư đoàn biểu diễn cho các đơn vị. Để tớ bảo anh chị em sang biểu diễn phục vụ các đồng chí một vài tiết mục.
– Thôi ạ. Công việc đang bận, xin cho chúng em về ngay kẻo tối!
Bẩy ý tứ xin phép.
– Ôi dào, nửa tiếng nữa hãy về! Mấy khi giữa chiến trường bom rơi đạn nổ mà được nghe văn công Quân khu biểu diễn. Các đồng chí chờ một chút.
Nói rồi sư trưởng gọi đồng chí liên lạc.
Lát sau, đội văn công lục tục kéo sang biểu diễn ngay tại lán của sư trưởng. Họ ríu rít hát các bài ca ngợi những người lính Trường Sơn, về sự hi sinh đóng góp của đồng bào các dân tộc Thượng cho cách mạng. Hón nghe như nuốt từng lời. “Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn/ Hai đứa ở hai đầu xa thẳm/ Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nối Trường Sơn Tây”
Hết bài hát, cô văn công có nụ cười xinh và đôi lúm đồng tiền duyên dáng tươi cười hỏi Bẩy:
– Chị ơi, chị thích nghe bài nào để em phục vụ!
Bẩy cũng cười:
– Tui chỉ biết gùi đạn, gùi gạo thôi, chưa bao giờ được nghe văn công Quân khu hát. Chị xem có bài nào hợp xin chị một bài!
– Thế em hát bài “Em là hoa pơ-lang” chị nhé!
– Dạ, nhưng có phải hoa pơ-lang là hoa gạo không chị?
Sư đoàn trưởng đỡ lời:
– Đúng thế! Vùng đồng bằng kêu bằng hoa gạo, vùng Tây Nguyên gọi là hoa pơ-lang đó.
– Dạ, chúng em đến các buôn của đồng bào thấy hoa này nhiều lắm.
Cô văn công cất giọng. Lời ca của người viết đã hay mà giọng người hát lại cao và sáng làm cho không gian như díu lại, khiến người nghe không khỏi nao lòng. “Tây Nguyên ơi, hoa rừng bao nhiêu thứ/ cánh hoa nào đẹp nhất rừng/ Tây Nguyên ơi ơi. Anh có nhớ buôn làng/ nhớ người con gái/ nhớ cánh hoa pơ-lang đẹp nhất rừng Tây Nguyên/ Tây Nguyên ơi… ơi, quê hương ơi… ơi/ Lòng nhớ anh em chờ như đá bên dòng suối/ dù nước cuốn không rời bên bờ đâu anh ơi/  có thương nhau xin nhớ lời.”
Cô văn công luyến láy đến đôi lần câu “ Lòng nhớ anh em chờ như đá bên dòng suối/ dù nước cuốn không rời bên bờ đâu anh ơi/ có thương nhau xin nhớ lời” như một lời nhắc nhở, như một lời thỉnh cầu đầy ân tình, nghĩa cả khiến lòng Hón không khỏi xao xuyến, bồi hồi. Anh bất chợt nhớ về Mậu, người con gái anh yêu. Anh thầm nghĩ, anh mãi mãi xứng đáng với tình yêu của em, mãi mãi nhớ lời thề bồi cùng em nơi bản Mẫn yêu quý.
Bài hát đã kết thúc rồi mà dư âm của nó vẫn còn đọng lại, khiến không gian như dòng thác đổ xuống vụng, lưu luyến, quẩn quanh mãi mới theo dòng về suối lớn.
Bất chợt như nhớ ra điều gì sư trưởng Nguyễn vội hỏi:
– Còn bài hát ví ai đó vừa hát, sao các đồng chí chưa biểu diễn.
– Dạ thưa, bài hát ấy do đồng chí Thúy Mẫn hát, nhưng không nằm trong chương trình phục vụ của đoàn ạ.
– Không sao, đồng chí Hón đây muốn nghe, tôi thấy đồng chí ấy có vẻ thích lắm. Mời đồng chí Thúy Mẫn ra biểu diễn nhé! Ngày mai, các đồng chí này sẽ sống trong đạn lửa trước kẻ thù. Tôi muốn tiếp thêm tình yêu quê hương cho các đồng chí.
– Dạ!
Tự nhiên Hón thấy bồn chồn. Tại sao cô diễn viên này lại có tên trùng với bản Mẫn của Hón? Tại sao người này lại hát giọng hát ví quê Mường của Hón. Ruột anh bỗng nóng như có lửa đốt. Mắt anh nháy liên tục như nghe chim khách báo tin có người thân sắp đến nhà vậy.
Cô văn công quân phục đã bạc mầu, đầu đội mũ tai bèo lấp ló ngoài lán. Hón càng thấy bóng dáng thật quen.
– Dạ, em chào sư đoàn trưởng, chào các anh chị!
Cô quay lại. Bốn mắt gặp nhau. Cô văn công bỗng ngẩn người:
– Anh Hón!
– Mậu! Sao Mậu lại ở đây?
Hón lao đến ôm chặt người yêu trong tay. Mậu cũng không kịp để ý đến mọi người, ào tới, mềm người trong vòng tay của Hón.
Mọi người ngơ ngác. Hón vội reo lên phân bua:
– Thưa thủ trưởng, đây là cô Mậu, người yêu của em!
– Ô, thế à? Gặp nhau ở chiến trường thế này thì vui quá nhỉ?
Rồi sư đoàn trưởng quay lại nói với mọi người:
– Thôi, ta nhường chỗ này cho đôi bạn trẻ! Được không anh Sáu?
– Đồng ý, nhưng thời gian cho hai đồng chí chỉ được ba mươi phút thôi nhé! Sau khi hoàn thành công việc sư đoàn trưởng giao cho, Tỉnh đội và sư đoàn sẽ thu xếp cho đồng chí Hón và đồng chí Mậu gặp nhau mấy ngày, tha hồ mà tâm sự. Được không?
– Rõ!
Mọi người lui ra ngoài. Trong căn lán, chỉ còn Hón và Mậu. Họ xiết chặt nhau trong vòng tay yêu thương và mong nhớ. Mậu nép vào lòng Hón thổn thức:
– Anh vào chiến đấu ở đây à? Có nhớ em không?
– Anh vào Trường Sơn ngay sau đợt về phép ấy. Đánh nhau rồi lo hậu cần cho bộ đội miết đến giờ. Nhớ em nhiều lắm! Em có nhớ anh không?
– Em nhớ anh nhiều mà! Ngày nào cũng nhớ, chả ngày nào không!
– Anh cũng vậy!
Hón chưa kịp hỏi thăm gì về bầm thì Mậu đã hôn như mưa, như gió vào mặt anh. Mắt Mậu đầm đìa nước. Đôi môi mọng chín của Mậu tìm môi anh. Nghiến ngấu. Nồng nàn. Đắm đuối. Hón cũng đáp lại. Man dại. Cuồng si. Da diết.
Không ai nói với ai câu nào. Họ như đôi chim công quấn quýt bên nhau sau bao mùa xa cách, như đôi hoàng mang vần vũ cùng nhau cho bõ những năm tháng ngóng chờ. Không còn khoảng cách nào giữa hai bầu ngực nóng. Bàn tay đan chặt. Đôi chân áp sát. Hai con tim đổ dồn thình thịch. Hơi thở gấp gáp và hổn hển.
Thời gian và không gian câm lặng như chết.
Rồi họ cũng đến lúc hiểu rằng, ba mươi phút không phải là vô tận.
Mậu thủ thỉ kể cho Hón nghe, sau thời gian học ở trường văn hóa, cô được tuyển vào đoàn văn công Quân khu. Chính điệu hát ví quê Mường đã tạo cho Mậu chỗ đứng trong đoàn. Nhưng chiến tranh càng ác liệt, nhiệm vụ phục vụ các chiến sĩ đã đưa Mậu gắn bó với phòng chính trị Quân khu. Mậu đã đi khắp dẫy Trường Sơn từ A Sầu, A Lưới qua Khâm Đức, Trà My, Trà Bồng. Mậu đến những cánh rừng Ngọc Linh với bao nhiêu huyền thoại, rồi vượt sông Sê-rê-pôk đến các đơn vị chiến đấu, đến các thương binh ở các trạm phẫu tiền phương.
Hón cũng kể cho Mậu nghe chuyện của mình, về Phiến và Thuận. Anh kể cho Mậu nghe tin Thuận bị địch bắt nhưng không chịu chiêu hồi, không phản lại đồng đội. Rồi nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ bầm, nỗi nhớ Mậu. Họ bịn rịn buông tay nhau ra khi có tiếng đằng hắng của sư đoàn trưởng Nguyễn ở ngoài.
Mọi người bước vào lán. Hón kéo Mậu lại gần Bẩy giới thiệu:
– Đây là chị Bẩy Tiền, đại đội trưởng của anh.
– Chào chị Bẩy!
– Chào đồng chí Mậu!
– Nhờ chị giúp đỡ anh Hón hộ em!
Bẩy bắt tay Mậu, Mậu đáp lại. Bàn tay Bẩy như run rẩy bấu vào tay Mậu.
Sư đoàn trưởng chủ động:  .
– Đồng chí Hón phải cám ơn tớ đấy nhé! Không có nhiệm vụ của sư đoàn thì các cậu làm gì có dịp gặp nhau. Đúng không?
– Vâng ạ!
Tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn tiếp lời:
– Thế thì cậu phải cố hoàn thành nhiệm vụ sư trưởng giao cho nghen! Bây giờ chia tay được chưa hè?
– Vâng, được rồi ạ!
Hón quay lại bảo Mậu:
– Em ở lại, anh đi!
– Anh đi nhớ giữ gìn sức khỏe nhé!
Mậu rưng rưng đáp lại.Hai người bịn rịn chia tay nhau.
Hón gằn bước đuổi theo Bẩy Tiền đang phăm phăm ở phía trước.
Đằng sau, xa, tiếng hát của người chiến sĩ văn công vút lên như lời chào tạm biệt họ, hẹn những mùa vui chiến thắng.
“Đăk-Krông ơi, Tây Nguyên ơi/ Cái suối đổ về sông, cái sông ra biển lớn/ Ta nối tấm lòng dân bằng tình yêu Cách mạng, đi suốt Truờng Sơn xanh, nghe dòng sông chảy mãi/ Đăk-Krông ơi, dòng sông xanh thắm”.
Bẩy Tiền lầm lũi đi như chạy trên con đường mòn xuyên qua cánh rừng le đổ về hướng Hà Tam. Từ lúc bất ngờ gặp đoàn văn công tại lán của sư đoàn trưởng Nguyễn đến giờ, chứng kiến cảnh Hón gặp người yêu, Bẩy bàng hoàng người như lên cơn sốt. Sự choáng váng ập đến tựa cơn sóng lừng, tấp lên cái mong manh của Bẩy, khiến Bẩy hụt hơi, mặt tái đi, mồ hôi túa ra, mồm miệng đắng ngắt. Khi sư trưởng bảo ra ngoài dành căn lán cho Hón và Mậu, Bẩy ù hết cả tai, chẳng hiểu sư đoàn trưởng bảo gì. Đến lúc tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn cầm tay kéo đi Bẩy mới tinh tỉnh, loạng choạng đứng lên, bước theo. Tỉnh đội trưởng phải hỏi:
– Đồng chí Bẩy làm sao thế ni. Sốt à?
– Dạ, em sốt!
– Gay nhỉ? Đang nước sôi lửa bỏng thế ni mà sốt thì nguy to hè!
Bẩy chẳng biết trả lời ra sao, đành nương theo ý thủ trưởng, ấp úng trả lời bừa, cốt cho xong chuyện:
– Không răng đâu ạ. Em đã mang thuốc phòng đây rồi. Chắc tí nữa sẽ đỡ thôi hà!
Bây giờ, Bẩy vẫn thấy nghẹn trong cổ.
Sự thật sao tàn ác thế! Hón không hề nói với Bẩy là Hón đã có người yêu và Bẩy cũng chưa bao giờ nghĩ rằng Hón có thể giành trọn trái tim mình cho kẻ khác.
Quả thực Mậu xinh như thế cơ mà, Hón nếu có yêu cũng là phải. Con mắt ấy đẹp đến vậy, sẵn sàng hút hồn mọi kẻ bất chợt đến gần chứ đừng nói đã kết giao bè bạn từ ngày nảo, ngày nào như họ. Mậu lại là văn công, tiếng hát bay bổng ngọt ngào chứ đâu có sóng gió và cát mặn như tiếng xứ Quảng của Bẩy.
Chưa bao giờ Bẩy lại đem mình đi so sánh với người khác để phải chịu thiệt đơn thiệt kép như thế này. Bẩy bỗng thấy tủi thân cho mình khi gặp Mậu.
Cơn mưa rừng bỗng đâu ập đến, nhanh như đường bay của con chim cắt. Tiếng lộp bộp đầu tiên còn ra chừng dọa nạt, sau mau dần, quất ràn rạt trện đầu Bẩy. Bẩy chạy nhanh tránh mưa. Trong ánh chớp nhì nhằng, Bẩy chợt thấy ven rẫy của đồng bào có chiếc chòi canh nương. Bẩy vụt đến, lao lên chiếc cầu thang lồ ô.
Bỗng nhiên Bẩy mới nhớ, mình không đi một mình, còn Hón nữa. Thôi chết, Hón đâu rồi nhỉ? Sao không thấy Hón? Bẩy thực sự lo lắng. Bẩy tự trách mình đã bỏ rơi Hón. Không biết bây giờ Hón đang ở đâu? Bẩy tự trấn an mình, dầu sao Hón còn có Mậu để mà thương nhớ. Còn Bẩy, Bẩy biết thương nhớ ai?
Nhưng không được. Bẩy vẫn yêu Hón lắm. Bẩy muốn quay lại lội mưa đi tìm nhưng lại tự ái, băn khoăn lòng tự hỏi liệu người ta có cần đến mình nữa không mà quay lại?
Tự nhiên Bẩy lo sợ, không có được Hón, Bẩy sống thế nào?
Trong căn chòi vắng ngắt, không gian nhờ nhờ như bảo rằng trời chưa tối hẳn. Cơn mưa rừng ào ạt là thủ phạm khiến thời gian như vật vã trôi nhanh, làm chặng đường về Hà Tam của Bẩy kéo dài ra và chập chờn trong hoang lạnh.
Bỗng một ánh chớp xanh lét tóe ra, soi sáng rõ cả bụi cây ngọn cỏ. Một tiếng sét ré lên, ùng ục lan dài như trời cũng chơi trốn tìm, đuổi nhau về phía núi. Bẩy thấy Hón đang lui cui ngoài con đường mòn, một mình cô đơn và lạnh lẽo.
Tim Bẩy bỗng dâng trào một niềm thương xót. Sao Bẩy lại nhẫn tâm với Hón thế nhỉ? Hón rời bỏ quê hương Miền Bắc vào đây đâu phải để tìm tình yêu với Bẩy. Cả Mậu nữa, bao nhiêu năm rồi họ mới bất chợt gặp nhau. Yêu nhau mà chưa kịp chăm sóc cho nhau đã phải xa nhau. Bây giờ Bẩy còn có Hón ở bên, còn Mậu vẫn một mình một bóng. Thế thì Mậu còn khổ hơn Bẩy, trách cứ họ là điều không phải đạo.
Chiến tranh quả là tàn khốc. Bao nhiêu người ngã xuống. Bao nhiêu tình yêu lỡ làng và dang dở. Những vành khăn tang tròn vo chít trên những mối tình tưởng chừng bách niên giai lão. Thật là oan nghiệt cho những chàng trai, cô gái đã ngã xuống. Nhưng mà biết làm thế nào. Cuộc chiến tranh của chúng ta là cuộc chiến tranh vệ quốc mà. Không mất mát hi sinh sao giành được thắng lợi.
Bẩy bỗng rùng mình, lạnh toát dọc đốt sống lưng. Ngày mai, biết đâu mình chẳng thế, mình sẽ chết mà chưa được một lần yêu!
Bẩy hốt hoảng, líu ríu gọi tên Hón như sợ Hón biến mất trên cõi đời này. Tiếng Bẩy chìm trong tiếng mưa ào ạt, dập vùi quất xuống nơi rừng hoang lối vắng. Hai tay Bẩy kéo Hón lên sàn. Hón chưa kịp đứng vững Bẩy đã lao lên ôm chầm lấy  Hón như sợ Hón lại lầm lũi bỏ đi. Người Hón ướt sũng. Tấm áo mưa không ngăn được những làn mưa quất như điên dại ngoài trời. Không biết làm thế nào Hón đành yên lặng, không ra đón nhận và cũng không ra từ chối.
Mặc!
Bẩy cứ ôm lấy Hón. Vòng tay Bẩy xiết chặt đến ngạt thở. Nước mưa từ quần áo Hón thấm sang quần áo Bẩy.
Bẩy thầm thì:
– Anh giận em ha? Cho em xin nhe!
Tiếng Hón cũng như người hụt hơi ngạt thở:
– Bẩy có làm gì đâu mà Hón giận!
– Em vừa ghen với chị Mậu đó, anh có biết không hè?
Hón bất chợt lặng đi vì sự thật thà của Bẩy. Tính cách người con gái xứ Quảng là vậy. Họ không biết giấu lòng mình, yêu là bảo rằng yêu không chờ con trai ướm lời ngỏ ý, cứ ào đến, không quanh co đôi hồi như con gái Bắc.
– Nhưng mà … lỗi đâu phải do Mậu?
Đến lượt Hón ấp úng.
– Em biết vậy nhưng em vẫn cứ ghen. Em xấu quá anh hỉ?
– Không! Tình yêu không bao giờ xấu cả. Tiếc rằng chúng ta gặp nhau quá muộn.
– Dạ. Em biết!
Nói thế, nhưng Bẩy vẫn ôm ghì lấy Hón, người Bẩy rung lên từng chặp như lên cơn sốt rét. Hón lần lần theo vòng ôm mãnh liệt định gỡ tay Bẩy ra nhưng không làm sao gỡ nổi. Bẩy hổn hển:
– Em xin anh! Anh hãy cho em được yêu anh! Ngộ nhỡ ngày mai …
Hón vội rụt tay lại, bịt miệng Bẩy:
– Em đừng nói gở!
– Thật mà. Em yêu Hón lắm lắm Hón ơi! Nhưng em không muốn cướp anh của chị Mậu đâu. Dù sao chị ấy cũng là người đến trước …
Bẩy không cưỡng được lòng mình, cô vít đầu Hón xuống hôn như điên như dại vào đôi môi của anh. Hón mất đà đổ người xuống sàn. Bẩy phủ phục lên anh, môi Bẩy vẫn tìm môi Hón. Bẩy nói vội vã như người lạc giọng:
– Em không mần răng chịu nổi nữa đâu. Mặc kệ anh đó!
Vừa nói Bẩy vừa giật phăng chiếc áo đang mặc, áp cặp vú căng cứng vào ngực Hón, đè xuống, sàng đi sàng lại, di di như kẻ mộng du vậy.
– Ấy chết, em đừng bắt anh phản bội Mậu!
Bẩy cương quyết:
– Phản bội chi mà phản bội. Anh đâu có phản bội chị ấy. Đây là em xin anh cơ mà. Chỉ một lần thôi anh. Từ mai trở đi em không đòi hỏi gì anh nữa!
– Ngộ nhỡ…
– Không ngộ nhỡ gì cả. Em chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Em còn mười lăm, mười bẩy gì nữa đâu. Em cần anh yêu một lần, một lần rồi thôi để em có thêm sức đánh giặc, để nếu có ngã xuống em không có gì phải ân hận nữa. Anh hiểu cho em không?
Hón hết đường chùn. Người anh nóng hôi hổi. Hai người hoàn toàn không còn mảnh vải che thân. Những đợt sóng trào dâng như chẳng có gì cưỡng nổi. Những tiếng kêu rên miên man và những nhịp thở dồn dập. Căn chòi rung lên nhè nhẹ.
Ngoài kia, mưa rừng vẫn sầm sập. Nhưng bây giờ tiếng sầm sập ấy không còn lạnh lẽo và vô cảm nữa, nó đã trở nên ấm áp như cũng thấu hiểu tình người.
Chị đã ở bên Hón trong giây phút lâm chung, đã nhận những lời trăng trối của Hón mang về cho bủ. Bủ đã làm mẹ nên bủ hiểu nỗi vất vả mang nặng đẻ đau của chị. Hôm nay chị lại đưa thằng cháu đích tôn Trường Sơn của bủ về đây để bủ nhìn thấy hình bóng của con trai bủ. Nếu không có Bẩy Tiền thì làm sao bủ còn được thấy hình hài của Hón qua vóc dáng Trường Sơn này nữa.
Chương XVII
Các trung đội trong đại đội vận tải C45 được lệnh điều động về những vùng chỉ đạo việc thu gom quân lương cho bộ đội. Không khí sôi sục hẳn lên, mặc dù đang vào mùa giáp hạt, lúa ngoài đồng chưa chín mà thóc trong bồ đã cạn. Nồi cơm các gia đình bà con chòm ấp chỉ toàn khoai mì là khoai mì. Người ta giành từng hạt gạo gửi ra tiền tuyến nuôi bộ đội. Ai cũng coi như là trách nhiệm và nghĩa vụ.
Ở các chợ, gạo được mua bằng đủ loại tiền, tiền đô xanh, đô đỏ, thậm chí tiền Miên, tiền Lào đều được cả. Rồi vàng ta, vàng tây, bạc thỏi, bạc đồng, dây chuyền, khuyên, nhẫn… Tất cả đều được tính đổi ra gạo. Sức đóng góp ủng hộ của đồng bào ta thật to lớn.
Các gia đình có người thân nhẩy núi đóng góp đã lắm mà bố mẹ, vợ con binh lính quốc gia ủng hộ cũng nhiều. Gia đình nọ bảo gia đình kia, vợ lính này rỉ tai vợ lính khác, ai cũng muốn mình có được tờ xác nhận của cách mạng rằng đã đóng góp nuôi bộ đội giải phóng.
Trung đội của Liên được tăng cường về Hà Tam.
Từ ngày được bổ nhiệm làm tiểu đội trưởng rồi trung đội phó, công việc cứ cuốn hút Liên như chong chóng, chẳng còn thời gian đâu mà nghĩ về chuyện quá khứ. Hình ảnh thằng thám báo ngụy có vết sẹo chạy dài bên má trái và cặp mắt trắng dã như mắt lợn cũng bị những lo toan hàng ngày chôn sâu, nén chặt mặc dù thỉnh thoảng vẫn làm Liên thấy kinh tởm khi bất chợt nghĩ lại.
Đại đội trưởng Bẩy Tiền trực tiếp chỉ đạo trung đội công tác ở Hà Tam, đồng thời lấy đây làm đại bản doanh của đại đội. Các đồng chí lãnh đạo khác được phân xuống từng mũi. Đại đội phó Hón được giao phụ trách mũi tấn công đồn Núi Vũ, đồng thời cùng các trung đội chiến đấu khác phối hợp với du kích địa phương bức hàng các đồn bốt địch.
Gọi là phân công như thế để các bộ phận chủ động công việc, chứ thực tế ở Hà Tam Bẩy và Hón vẫn lấy nhà ông Năm Long và nhà bà Hai làm chốn đi về, ngủ nghỉ. Dù sao, đây cũng là những cơ sở huyết mạch của toàn vùng.
Ngay hôm đầu ra quân, các trung đội báo về đã thu mua được tám mươi tấn gạo. Số tiền, vàng nhân dân đóng góp và tiền sư đoàn đầu tư, dư sức mua được bẩy chục tấn nữa. Nhưng đến ngày thứ hai thì chỉ dồn sức thu mua được gạo chứ khả năng đóng góp của đồng bào chững lại. Sức dân xem chừng đã cạn.
Bẩy lo lắm, cầu cứu Hón:
– Anh xem có cách gì vận động được dân nữa không chứ cứ đà này không kịp tiến độ là cái chắc!
Hón bảo:
– Bẩy cứ bình tĩnh! Để chiều nay làm việc với đồn trưởng Thái Bình xong rồi tối ta cùng tính.
Chiều hôm đó, mệ Hai nhắn Thái Bình về nhà có việc gấp.
Kể từ hôm Thái Bình biết rõ công việc ủng hộ, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng mà cha mệ mình đã làm và hiểu bộ mặt thật của bộ máy chính phủ quốc gia, anh không còn thù hận những người cộng sản nữa. Thay vào đó là mối thiện cảm ngày càng tăng lên vì biết cả mệ anh, gia đình ông Năm Long, Chín Hạnh, Miên và  những người thân thiết với anh đều ủng hộ cách mạng, ủng hộ bộ đội giải phóng. Thậm chí anh còn tự hào vì họ, tự hào vì tờ giấy đã ố vàng mà ông tướng Nguyễn đã chứng thực cho cha anh.
Trong những người cùng chí hướng được anh nhiều lần tâm sự có viên thượng sĩ nhất Huỳnh Lâm, trung đội phó dưới quyền anh. Lâm là người đã tốt nghiệp văn khoa Sài Gòn. Hôm nay anh rủ cùng về nhà thăm mệ.
Ba mệ con đang ngồi nói chuyện thì Chín Hạnh đưa Bẩy và Hón bước vào. Họ chào nhau làm quen. Hón tự giới thiệu:
– Tôi là Hón, đại đội phó đại đội vận tải của bộ đội chủ lực tỉnh, còn đây là đại đội trưởng Bẩy Tiền.
Thái Bình và Huỳnh Lâm bất ngờ giật thót người nhưng cả mệ Hai, Chín Hạnh, Bẩy và Hón đều coi như không biết. Hón nói tiếp:
– Sư đoàn trưởng sư đoàn Chu Lai của quân giải phóng, người đã chịu ơn nuôi dưỡng của cha mệ anh có thư gửi thăm anh.
Nói rồi Hón lấy phong thư của tướng Nguyễn đưa cho Thái Bình. Thái Bình giơ hai tay đón phong thư, run run lấy tờ giấy gấp tư ra đọc. Nét mặt anh từ lo sợ chuyển sang rạng rỡ, hân hoan. Anh đưa phong thư cho Huỳnh Lâm đọc. Hai người líu ríu ôm lấy nhau, ngỡ ngàng như người vừa thoát ra khỏi con đường hầm tăm tối, đến với ánh sáng mặt trời rộng mở.
Thái Bình sung sướng ôm chầm lấy Chín Hạnh:
– Anh cám ơn mệ và gia đình em đã đưa anh về với cách mạng!
Nói rồi anh giơ hai tay ra nắm chặt hết tay Hón lại đến tay Bẩy:
– Em cám ơn các anh, các chị bộ đội giải phóng đã chỉ cho em con đường đến với nhân dân, đến với Tổ quốc! Em như được cách mạng sinh ra lần thứ hai vậy!
Sau những phút giây cảm động đó, Hón bảo mọi người cùng ngồi lại bàn bạc cách áp chế đồn Núi Vũ và các đồn bốt trên đường vận lương cho Giải phóng.
Thái Bình và Huỳnh Lâm phấn khởi lắm vì là lần đầu tiên được cách mạng tin tưởng giao việc. Mọi sự băn khoăn áy náy về cách đối phó của cách mạng với họ đã được giải tỏa. Phía trước họ là cửa đường hầm đầy ánh sáng và niềm tin. Họ đã hoàn toàn bị khuất phục, từ bỏ lí tưởng “cần lao nhân vị” của quốc gia về với chính nghĩa, về với nhân dân, về với cách mạng.
Thái Bình và Huỳnh Lâm hiến kế:
– Đồn Núi Vũ xem ra khó hơn cả bởi có tụi Mỹ và viên đồn phó Hùng Cường, còn các đồn kia chúng em sẽ đến từng đồn vận động các đồn trưởng. Ở đấy toàn người Việt, đồn trưởng nói chắc các binh sĩ sẽ nghe bởi tinh thần lính tráng coi thế nhưng rệu rã lắm rồi. Bây giờ khí thế cách mạng đang lên, binh sĩ chẳng dại gì chết cho quốc gia uổng phí. Chỉ có một số ác ôn có nhiều nợ máu với cách mạng là điên cuồng chống phá thôi. Cách mạng nên coi chừng bọn này.
– Nếu được thế thì các anh tranh thủ đi ngay rồi về cho chúng tôi nắm lại để đỡ đổ máu cho cả hai bên. Riêng tại đồn Núi Vũ, các anh chủ động bố trí lính gác trung thành mở cửa đồn, nửa đêm rạng sáng ngày kia chúng tôi sẽ cho bộ đội và du kích vào áp sát các mục tiêu, sau đó kêu gọi đầu hàng. Nếu không được chúng tôi mới đánh tiêu diệt.
– Dạ, chúng em đi liền!
– Xong việc các anh về đây ngay nhé!
– Dạ!
Thái Bình và Huỳnh Lâm đi khỏi, Bẩy Tiền cùng Hón và Chín Hạnh chụm đầu bên mệ Hai tìm cách tháo gỡ nốt năm chục tấn gạo còn lại. Ai cũng biết sức lực của nhân dân trong vùng đã ủng hộ đến đồng tiền, bát gạo cuối cùng rồi, chừ không thể ủng hộ thêm được nữa.
Đang lúc bí, mệ Hai bỗng nhớ ra:
– Ừa, mệ có người bà con họ hàng cùng quê ngoài Bắc chủ một sạp gạo lớn ngoài chợ Cồn Đà Nẵng. Người này có thể nhờ được. Những năm trước đây, mệ có làm ăn với bả. Mua bán chịu nợ chỉ cần có vật làm tin là xong. Mệ có vật khiến người ấy có thể tin được.
– Thế ạ, thế thì may quá! Mệ có vật gì quý vậy?
Mọi người xúm vào hỏi mệ.
Mệ Hai lụi cụi mở chiếc rương gỗ lấy ra một chiếc hộp nhỏ. Chín Hạnh mở ra.
Bỗng Hón giật thót người, tay run lập cập khi cầm lấy cái hộp, giọng lẩy bẩy:
– Mệ … cũng có … cái nấm … này à?
– Sao thế con?
– Bầm con … cũng có … một cái.
Đến lượt mệ Hai ngỡ ngàng:
– Thật không … Hón.
– Thật … ạ!
Mệ Hai chới với, quờ lấy Hón nhưng không kịp. Mệ vật xuống ghế. Hón cũng lắp bắp, ú a ú ớ. Mọi người không hiểu sao, vội xoa dầu giải cảm cho mệ. Lát sau, hai mệ con mới bình tĩnh lại. Mọi người xúm xít quanh mệ và Hón. Ai cũng muốn hiểu cho ra đầu đuôi câu chuyện thế nào.
Mệ Hai thì thào:
– Có phải ngón chân cái bàn chân bên trái của bầm con bị tật, ngón cứ chĩa ra không?
– Vâng đúng rồi mệ ạ!
– Con ơi, Hón ơi. Thế thì may cho mệ con mình quá!
Mệ xoay người nói rành rẽ:
– Anh Hón đây là cháu gọi mệ bằng dì ruột. Mẹ anh Hón là chị ruột mệ. Thằng Thái Bình nhà mệ với anh Hón là đôi con dì con già. Thái Bình là em, anh Hón là anh.
Mọi người ngỡ ngàng, ồ lên vui mừng khôn tả.
Mệ Hai tiếp lời:
– Ngay từ đầu gặp con, mệ đã nghi nghi. Nhưng khi con nói quê ở trên rừng mệ mới thôi. Con giống bà ngoại con từ khổ người cho đến con mắt. Còn dì lại giống ông ngoại. Trước khi bà ngoại con mất, có để lại cho hai chị em mệ đôi nấm bạc này, mỗi người một bên làm của hồi môn. Nhà nghèo chỉ có thế thôi. Rồi hai chị em ta lưu lạc, người Bắc, kẻ Nam. May nhờ có đôi nấm bạc này mà bây giờ chị em, dì cháu mới nhận được nhau.
Ngừng một lát mệ nói tiếp:
– Đôi nấm này do chính ông nội người bà con ngoài Đà Nẵng của mệ kéo cho từ khi ổng còn trẻ. Đằng sau mỗi chiếc đều có chữ T làm dấu, đó là chữ đầu quê Tiên Lữ của mệ. Chính vì vậy, mệ đã dùng nó là vật làm tin khi cần mua bán chịu nợ cùng bả. Thôi chuyện còn dài, mệ con, anh em còn nhiều dịp đôi hồi. Bây giờ Chín Hạnh sửa soạn để hai cô cháu ra Đà Nẵng cho kịp kẻo tối.
Mệ Hai và Chín lên xe đò. Chỉ còn Bẩy và Hón ở lại nhà chờ tin Thái Bình.
Bẩy thì thầm với Hón:
– Thiệt là bất ngờ anh hỉ?
– Ừ, anh thấy như có Trời Phật run rủi cho mình vậy. Không biết bầm anh ở nhà có nóng ruột không? Anh nhớ bầm quá!
– Bầm bao nhiêu tuổi rồi anh hè?
– Năm nay bầm gần bẩy chục tuổi. Bẩy chục tuổi mà ở một thân một mình, chưa dâu, chưa cháu. Chẳng biết ngày chiến thắng anh về bầm còn chờ được không nữa?

Tự nhiên như buột miệng, Hón chợt cất lên điệu xẩm chợ: “Con đi, con lớn lên rồi, Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con. Nhớ con bầm nhé đừng buồn, Giặc tan con lại sớm hôm cùng bầm. Mẹ già tóc bạc hoa râm, Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con”. Giống như giọng xẩm của Lèng ngày nào, lời thơ và giọng ca của Hón nghe như vừa nao nao vừa da diết, chẳng ra vui, cũng chẳng ra buồn. Nó cứ âm ỉ trong lòng y câu ca Hón nghe ngày năm cũ: “Đời người được mấy ước mơ, Chàng mơ chinh chiến, em mơ bóng chàng”
Bất giác Hón nắm chặt bàn tay của Bẩy. Bàn tay rung rung. Nơi khóe mắt anh như thoáng mờ giọt lệ.
 Xẩm tối, Thái Bình và Huỳnh Lâm mới về. Họ vui vẻ báo tin, ngoại trừ viên đồn trưởng đồn Phú Hà họ không gặp gỡ bởi biết y trung thành với quốc gia, còn các đồn trưởng đồn Phú Thọ và Phú Hiệp đều ủng hộ kế hoạch phản chiến của ta. Tuy nhiên, ở đồn Phú Hà, viên đồn phó và đa phần binh sĩ ở đấy đều đã ngả theo cách mạng. Họ cũng mong được phản chiến khi đồn bị tấn công. Thái Bình đã mang thư và giấy đảm bảo của tướng Nguyễn, sư đoàn trưởng sư đoàn Chu Lai, người được mệnh danh “con hùm xám” Tây Nguyên ra cho họ đọc. Ai ai cùng vui mừng. Sức vóc họ có là bao để mà chống chọi với thế mạnh của cách mạng. Họ chỉ yêu cầu có trận đánh tượng trưng để vợ con lính tráng ở nhà không bị chính quyền quốc gia cắt lương và gây khó dễ mà thôi.
Chín giờ đêm, mệ Hai và Chín từ Đà Nẵng cũng về đến nhà. Mệ cho hay việc thương thuyết mua gạo ở Đà Nẵng đã thành công. Theo thống nhất giữa hai bên, đến tối ngày hôm sau, các xe gạo sẽ tập kết ở Hà Tam để chuyển lên kho theo kế hoạch.
Thế là toàn bộ số gạo sư đoàn trưởng yêu cầu đã được đại đội hậu cần tỉnh đội chuẩn bị xong, chỉ còn chờ đến giờ hiệp đồng là lên đường về kho sư đoàn chuẩn bị cho trận đánh lớn giải phóng Núi Cấm.
Thái Bình vô cùng bất ngờ khi được mệ cho biết anh Hón với Thái Bình là đôi con già con dì. Hai anh em mừng rỡ khôn xiết ôm lấy nhau trong niềm hân hoan vô bờ bến. Bây giờ họ không còn là hai kẻ xa lạ như trước nữa. Truyền thống gia đình đã kéo họ xích lại gần nhau trong cùng một chiến hào đánh giặc.
Hai người thắp chung một nén nhang trước bàn thờ ông Hai. Trong hương trầm thơm ngát, Thái Bình như thấy hình bóng của cha về nhìn anh độ lượng và trìu mến, khích lệ anh vững bước trên con đường cách mạng mà ông đã chọn.
Ngay đêm ấy, Hón lập tức về báo cáo gấp với tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn. Thấy tình hình các đồn bót giặc như vậy, tỉnh đội trưởng chỉ thị điều các trung đội chiến đấu áp sát các đồn bót Phú Thọ và Phú Lộc làm lực lượng dự bị chờ lệnh. Nếu việc vận lương thuận buồm xuôi gió thì không cần đánh chiếm, cứ để hai đồn bốt đó ở nguyên làm lực lượng hậu thuẫn cho bộ đội giải phóng. Như vậy, đồn địch chỉ còn vỏ mà không có ruột, hay nói cho đúng là ruột đã là của ta. Còn đồn Phú Hà, trung đội chiến đấu được cử về sẽ cùng du kích bí mật liên lạc với lực lượng phản chiến trong đồn, tổ chức hợp đồng trong đánh ra ngoài đánh vào, xóa sổ đồn Phú Hà.
Riêng trung đội chiến đấu của Phiến, được tăng cường cho Hà Tam khống chế đồn Núi Vũ, giúp đại đội hậu cần khẩn trương tập trung vận lương theo kế hoạch.
Chương XVIII
Trung đội trưởng Phiến đã đưa quân về lót ổ ở Hà Tam từ nhập nhoạng tối. Đêm nay, đơn vị của anh cùng với trung đội du kích của Tư Thới sẽ áp sát đồn Núi Vũ, tấn công tiêu diệt bọn Mỹ và ác ôn đầu sỏ nếu chúng kháng cự. Đồn trưởng Thái Bình và lực lượng phản chiến sẽ mở cổng đồn, để bộ đội và du kích lọt vào bằng cổng chính, không phải mất thời gian điều nghiên, trinh sát, đánh bộc phá phá hàng rào và bãi mìn làm cửa mở tấn công. Ta sẽ đỡ phải đổ xương máu mà nhiệm vụ cũng vẫn hoàn thành.
Tám giờ tối, bộ đội và du kích cùng tập trung để thống nhất hợp đồng tác chiến. Theo thống nhất chung, cứ một bộ đội sẽ đi cùng một du kích. Ban chỉ huy trận đánh sẽ gồm Hón, Phiến và Tư Thới, do Hón làm chỉ huy trưởng. Liên được giao chỉ huy mũi hậu cần, sơ cứu, tải thương. Về phía lực lượng phản chiến, Thái Bình và Huỳnh Lâm sẽ phụ trách các khâu tổ chức cắt đứt các đường dây hữu tuyến, phong tỏa liên lạc vô tuyến, mở cổng chính để lực lượng bộ đội và du kích vào đồn khống chế bọn Mỹ và các tên ác ôn đồng thời chiếm lĩnh các vị trí xung yếu cần thiết. Khi có hiệu lệnh tấn công, dùng loa kêu gọi binh lính đầu hàng, nộp vũ khí.
Gần mười hai giờ đêm, binh sĩ trong đồn Núi Vũ đã ngon giấc. Lực lượng ta bắt đầu tiến vào đồn. Huỳnh Lâm chỉ huy tốp lính gác mở cửa đồn cho quân ta áp sát các vị trí. Phiến vác khẩu B40 lắp quả đạn hình bắp chuối cùng một tiểu đội có trung liên RPD hỗ trợ đã hướng nòng súng vào căn nhà bọn lính Mỹ đóng. Tư Thới chỉ huy anh em áp sát nhà viên đồn phó Hùng Cường. Các tiểu đội phối thuộc mang AK, đạn lên nòng, bám sát các trại lính. Cả đồn Núi Vũ chìm trong giấc ngủ yên tĩnh. Các mũi tấn công của ta đang chờ lệnh của Hón.
Chính trong lúc ta đang triển khai đội hình chiến đấu thì viên đồn phó Hùng Cường tỉnh giấc. Cũng chẳng phải có linh tính gì mách bảo mà bản chất của một tên thám báo vẫn ngự trị trong con người hắn. Hắn nhìn qua khe cửa sổ thấy những bóng đen đang tiến tới ngôi nhà chỉ huy của hắn. Nhanh và êm như một con mèo hắn dắt theo khẩu Colt Mỹ, rồi vội lỉnh ra ngoài qua một cánh cửa đặc biệt do hắn khéo léo thiết kế và chỉ mình hắn biết. Hắn đã lọt ra khỏi vòng vây của bộ đội và du kích, nép mình vào khe tối chờ thời cơ trốn chạy.
Đúng giờ G, một tràng AK chỉ thiên vang lên. Cả đồn Núi Vũ chợt bừng tỉnh. Điện tắt ngóm. Tiếng loa trong đồn vang lên lời của đồn trưởng Thái Bình:
– Hỡi anh em sĩ quan và binh lính. Tôi là trung úy Thái Bình, đồn trưởng của anh em. Tôi thông báo để anh em biết, hiện nay bộ đội chủ lực Giải phóng đã áp sát tất cả các mục tiêu trong căn cứ của chúng ta. Lực lượng binh sĩ trong đồn đã phản chiến, mở cửa đồn đầu hàng và nộp vũ khí cho quân giải phóng. Anh em binh sĩ hãy theo gương đó ra hàng quân giải phóng và nộp vũ khí để tránh đổ máu.
Thái Bình chuyển loa cho Hón. Hón nghiêm giọng:
– Đối với lính Mỹ và các đối tượng khác, quân giải phóng yêu cầu hạ vũ khí đầu hàng để hưởng lượng khoan hồng của cách mạng. Kẻ nào ngoan cố, có hành động chống cự sẽ bị tiêu diệt.
Thái Bình chưa nói dứt câu, một tràng AR15 rèn rẹt từ trại lính số hai vang lên, đạn bay đỏ lừ, rồi lựu đạn Mỹ từ đó tung ra nổ chói tai, đáp lại như khẳng định sự kiên quyết phản kháng của bọn ác ôn ngoan cố.
Theo sự mật báo của Thái Bình, đấy là trại có nhiều tên ủng hộ Hùng Cường nhất nên sự phản kháng này đã nằm trong tiên lượng của ban chỉ huy. Lập tức, hai khẩu trung liên của ta đặt ở vị trí thuận lợi bên ngoài bắn chéo cánh sẻ, đạn nổ như ngô rang khiến bọn địch trong nhà kêu oai oái. Các mũi tấn công trại lính Mỹ và mũi tấn công nhà viên đồn phó Hùng Cường cũng đồng loạt nổ súng thị uy.
Bên trại dành riêng cho tụi lính Mỹ vẫn im lặng như tờ, không có phản ứng gì.
Phiến được lệnh chuyển sang tấn công theo phương án hai, đánh địch có hầm ngầm công sự. Lúc này tụi Mỹ đã rúc xuống hầm ngầm cố thủ. Theo sơ đồ mà Thái Bình cung cấp, dưới nền trại là căn hầm ngầm kiên cố, đủ lương thực thực phẩm cho cả trung đội Mỹ ẩn nấp hàng tuần, có đường hầm dẫn xuống các ngách ở chân đồi để tẩu thoát. Qua lớp bao cát dầy hàng mét trên nóc hầm là những trái mìn có sức công phá lớn. Chỉ cần ta xông vào là mìn nổ.
Phiến lệnh cho mọi người tản ra, triển khai kế hoạch đánh phản kích nếu tụi Mĩ đồng loạt xông lên hoặc là trực diện, hoặc tại các vị trí cửa hầm. Phía trực diện đã có B40, mìn clâymo và trung liên chờ chúng. Các cửa hầm ở chân đồi nhanh chóng được quân ta đặt các khối bộc phá lớn và các trái mìn clâymo chờ đợi.
Mũi áp sát nhà viên đồn phó Hùng Cường cũng yên lặng như tờ. Tư Thới đoán rằng hắn nấp ở trong nhà tử thủ. Được Thái Bình cho biết trong nhà hắn không có hầm ngầm nên Tư Thới lập tức triển khai kế hoạch vây bắt và nếu cần sẽ tiêu diệt Hùng Cường.
Phương án địch hoảng loạn đầu hàng đã không xẩy ra, thay vào đó là sự điên cuồng tử thủ của địch, buộc ta đồng loạt chuyển sang phương án đánh tiêu diệt.
Mũi tấn công trại lính số hai do Hón chỉ huy, dùng trung liên và AK khống chế tụi lính ngoan cố. Bọn địch lợi dụng giao thông hào điên cuồng chống trả. Tiểu đội thọc sâu được lệnh áp sát địch. AK điểm xạ tằng tằng hai viên một ròn rã, lựu đạn nổ ầm ầm, chát chúa dồn tụi địch vào từng ngách hào. Tiếng tiểu liên cực nhanh và cối cá nhân toóc đùng của địch cũng đua nhau không ngớt chặn bộ đội và du kích.
Một thằng lính ngụy không còn đường lùi, cảm tử lao lên miệng giao thông hào cắp khẩu trung liên xiết một băng dài. Đạn ré lên như xé vải, cát-tút vãi ra tung tóe. Hón bình tĩnh nâng khẩu AK xiết cò, mới hai điểm xạ nó đã đổ vật xuống, chưa kịp nằm vắt lên bờ bao cát chắn thì một tiếng lựu đạn mỏ vịt rít lên, xác nó bung ra từng mảng bay tơi tả. Chắc là nó giật chốt lựu đạn nhưng không kịp tung thì đã chết.
Giữa lúc đó, tại trại lính Mỹ, sau khi cho phong tỏa các cửa hầm, Phiến lệnh cho phân đội mũi nhọn chập điện. Những quả mìn clâymo hướng vào nền trại đồng loạt phát nổ, kích hoạt các quả mìn bọn Mỹ gài trong đó nổ theo. Đất dưới chân rung chuyển như động đất. Các tấm tường tung tóe, các tấm tôn bay như bươm bướm. Một biển lửa ngùn ngụt soi sáng khắp căn cứ, nhấn chìm trại lính Mỹ.
Ở phía trại ác ôn, xem cơ sự không thể không dùng đến hỏa lực mạnh để đè bẹp ý chí phản kích của tụi này. Hón vẫy một chiến sỹ B40 lên, chỉ vị trí miệng hầm nơi qua ánh lửa cháy có nhiều bóng rằn ri lố nhố, co cụm. Lập tức một quầng lửa bùng lên, quả B40 gầm như tiếng pháo, xác địch tóe ra, khét lẹt.
Tiếng AR15 ở các ngách hầm khác tự nhiên câm tịt. Một chiếc áo trắng ngoắc vào đầu súng rụt rè nhô lên. Tiếng bọn lính tử thủ run rẩy, hoảng loạn:
– Xin các anh giải phóng đừng bắn! Chúng em xin hàng ạ!
Hón thét lớn:
– Ra hàng ngay, giơ súng lên đầu, đi hàng một!
Bọn địch lố nhố từ các ngách hào chui lên như lũ chuột ra hàng.
Theo mật báo của đồn trưởng Thái Bình, phía trại lính số một và số ba, phần đông là con nhà lao động, có ý định phản chiến từ đầu nên im ắng, không có bất cứ sự chống cự nào. Các mũi tấn công của ta áp sát vòng ngoài chờ đợi thời điểm thuận lợi cho binh sĩ giao nộp vũ khí đầu hàng.
Giờ đã đến lúc, cửa trại được mở, anh em binh lính trật tự ra hàng. Súng xếp vào đống, người tự giác tập trung trước sân đồn chờ hiệu lệnh của bộ đội giải phóng. Có bốn tên ngoan cố định tử thủ, bị anh em binh lính phản chiến trói, dồn lại giao cho bộ đội giải phóng.
Liên dẫn đội hình lên sơ cứu cho anh em bị thương, nhẹ thì tạm nghỉ tại chỗ, nặng thì cáng về tuyến sau. Bốn bộ đội và du kích hi sinh, họ được anh chị em đưa ra ngoài chờ truy điệu và an táng
Tư Thới cho anh em áp sát nhà Hùng Cường. Chờ mãi vẫn không có động tĩnh gì. Tư Thới cho du kích lùng sục xung quanh, phát hiện có cánh cửa mở. Anh phán đoán, hoặc hắn đã lỉnh ra ngoài, hoặc hắn nghi binh rồi tử thủ, chết cùng chết với quân giải phóng.
Một du kích được lệnh bất ngờ tung vào nhà trái lựu đạn US. Vẫn không thấy động tĩnh gì. Tư Thới đạp cửa xông vào. Căn phòng không một bóng người. Bộ đội và du kích lùng sục khắp phòng. Tất cả không hề có dấu vết của Hùng Cường. Anh cho quân ra truy tìm bên ngoài.
Ở sân đồn, Hón cho binh lính phản chiến tự nguyện ra hàng tập trung thành đội hình, giao cho Thái Bình chỉ huy chờ biên chế thành đơn vị giữ đồn, chuẩn bị cùng bộ đội và du kích tiếp tục vây bắt bọn Mỹ đang ở dưới hầm và đánh phản kích nếu địch ở các căn cứ khác tổ chức tấn công.
Số ác ôn ngoan cố chỉ chịu làm tù binh khi hết đường chống cự, được tập trung lại, dẫn giải lên căn cứ theo chính sách tù hàng binh của cách mạng.
Hùng Cường im lặng nấp vào khe tối giữa hai bức tường nhà chỉ huy, đối diện với sân đồn. Qua ánh lửa đỏ rực hắn nhìn rõ những tên lính đàn em của hắn lũ lượt kéo nhau ra chỗ tù binh. Những khuôn mặt méo mó, những cặp mắt cụp xuống lấm lét, những cánh tay run rẩy và những bước đi loạng choạng, sợ đến mức không còn sinh khí, chứng tỏ sự bạc nhược của tụi lính anh chị một thời này đã đến cực điểm.
Thế là thời chinh chiến oai hùng của Hùng Cường đã hết!
Hùng Cường nhớ lại khi hắn mới chập chững bước vào đời.
Ngày ấy, hắn là đứa trẻ bụi đời, lang bạt, tứ cố vô thân, gặp đâu là nhà, ngã đâu là giường. Hắn lăn lóc ở bến xe, bến tầu trong cái thành phố phồn thịnh vào loại bậc nhất miền Trung này. Thành phố Đà Nẵng với những buynh-đinh chọc trời dành cho những nhà thế lực, giầu có, quan chức và tướng lĩnh. Đó cũng là thành phố với những căn nhà ổ chuột tồi tàn, xọp xẹp của người dân lao động suốt ngày bán lưng cho đất, bán cật cho trời và đĩ điếm chuyên bán trôn, nuôi miệng.
Cha mệ hắn là những người vừa “cha căng chú kiết”, vừa là những kẻ ba lăng nhăng, vô trách nhiệm. Họ chẳng cần nghĩ đến ngày mai, chỉ biết đến những gì cho họ những thú vui tạm bợ. “Nhà có móng” thì chẳng ai có cái nào, kể cả nhà cốt gọi là có, mái thỏa thích ngắm sao trời, vách vô tư đón gió, nhưng “nhà có chân” thì ai cũng có đôi ba. Chính vì thế, hắn sớm bị quẳng ra đường. Và rồi sau đó cha mệ hắn cũng chẳng nhớ rằng họ có một đứa con là hắn sống ở trên đời này. Thói đời bệ rạc vốn dĩ là thế. Ừ, thế càng hay! Tự nhiên hắn chẳng phải mang ơn, chẳng phải nghĩ đến trách nhiệm với ai cả. Cha mệ còn chẳng ăn ai nữa là người dưng nước lã. Hắn nghĩ vậy.
Suốt ngày hắn mon men quanh các quán bar, dọc con đường Bạch Đằng ven sông Hàn dẫn từ mạn Bắc thành phố xuống đến chân cầu Trịnh Minh Thế. Gặp gì hắn làm nấy, từ bán nhật trình, đánh giầy, móc túi và xin ăn. Lúc thì hắn bị bọn Mỹ đá đít, lúc lại bị bọn cảnh sát dồn chạy toán loạn. Cũng có khi hắn bị những chiếc xe nhà binh lính lái say rượu ép vọt mất cả dép.
Cầu Trịnh Minh Thế là cây cầu sắt duy nhất bắc qua sông Hàn dẫn sang bán đảo Sơn Trà. Nơi ấy là khu quân sự của tụi lính Mỹ. Bên bán đảo có nhiều đồ ve chai, nếu lượm bán cũng được bộn tiền. Hắn muốn sang lượm nhưng đội quân cảnh cấm ngặt.
Hắn thường xuyên đói.
Có khi cả ngày hắn chẳng kiếm được cái gì bỏ bụng. Nhiều cái có thể trở thành thói quen, chứ bảo quen với cái đói thì hắn chịu. Có câu cửa miệng “đói ăn vụng, túng làm càn” nhưng mà ăn vụng đâu có dễ. Người nghèo ai ai cũng thuộc câu “chó treo mèo đậy”. Còn kẻ giầu thì cửa đóng then cài, có mấy đồng bọ trong túi mà hết lớp khuy cài này đến lớp phéc-mơ-tuya khác, ai mà trộm cắp được.
Thế là hắn đành làm liều. Thừa cơ quân cảnh không để ý, hắn luồn lách qua các bóng cây, sang bên bán đảo Sơn Trà lượm được một tải vỏ đồ hộp, lon sữa, lon bia. Khốn nạn thân hắn, khi sắp qua được cầu Trịnh Minh Thế thì hắn bị quân cảnh bắt. Người ta nghi hắn đi do thám cho cộng sản. Hắn nào biết cộng sản là gì. Hắn chỉ đói thôi. Thế là hắn bị tống vào bót quân cảnh giam một buổi. Rồi quân cảnh cũng điều tra ra là hắn đói. Vậy là hắn được tha. Không những được tha mà hắn còn được vào một lớp học võ của quân đội. Hình như người ta thấy hắn có một năng khiếu bẩm sinh nào đó, có thể sử dụng được. Khi ấy hắn mới mười lăm tuổi.
Hai năm sau, hắn được học nhẩy dù. Cấp trên bảo sẽ cho hắn nhẩy dù ra ngoài Bắc làm gián điệp. Nếu làm tốt, hắn sẽ có nhiều tiền. Hắn mừng lắm!
Thế nhưng trong một buổi trốn quân trường đi chơi gái, quen thói ngổ ngáo, lại cậy có tí võ, hắn gây sự đánh nhau và bị đám giang hồ anh chị xỉa cho một nhát vào má trái cảnh cáo. Thế là tịt ước mong ra miền Bắc làm gián điệp, hắn được thượng cấp giao chỉ huy một toán thám báo thuộc đồn Mỹ kép Núi Vũ.
Bây giờ hắn đã là thiếu úy đồn phó, được mấy ông Mẽo nâng đỡ vì tính liều lĩnh bẩm sinh. Miếng cơm hắn đang ăn, giờ bị tay đồn trưởng Thái Bình phản bội ngả theo cộng sản cướp mất. Hắn căm giận đến tột cùng! Hắn thề không đội trời chung với kẻ phản nghịch này.
Vừa lúc đó ngoài sân đồn, trung úy đồn trưởng Thái Bình, sếp của hắn đang đứng trước đội quân phản chiến vốn hôm qua còn là chiến hữu của hắn úy lạo binh sĩ.
Không thể kìm nén được nữa, Hùng Cường giơ khẩu colt lên, nhằm thắng Thái Bình bóp cò.
Hón đi kiểm tra một vòng quanh đồn, chỉ đạo việc phong tỏa hầm ngầm bọn Mỹ đang ẩn nấp. Công việc đánh chiếm đồn Núi Vũ có chút khó khăn nhưng đã thành công. Trên kia, đồn Phú Hà cũng đã thất thủ, hai đồn Phú Thọ và Phú Hiệp binh sĩ phản chiến chủ động xin hàng. Bộ đội và du kích ta đã hoàn toàn làm chủ tuyến đường Hà Tam đi Làng Mười.
Phi pháo địch chưa dám động tĩnh gì bởi chúng hoàn toàn bất ngờ, chưa biết nơi nào còn, nơi nào mất, chỗ nào cộng sản đã chiếm, chỗ nào chưa, đâu là nơi lính Mỹ và binh sĩ Quốc gia đang ẩn nấp. Thành ra sau những tiếng nổ dữ dội ở đồn Núi Vũ, tất cả đều chưa có động tĩnh gì cả.
Từ đỉnh đồi đồn Núi Vũ, Hón đã nhìn thấy đoàn xe chở gạo của ta từng tốp bốn năm chiếc một, rầm rầm chạy trên đường đi Làng Mười.
Anh hình dung thấy dưới ấy, đại đội trưởng Bẩy Tiền của anh đang chỉ huy đường dây vận chuyển quân lương. Khuôn mặt chữ điền với hàng lông mày rậm toát lên ở người nữ chỉ huy xông xáo nhiệt tình ấy một ý chí kiên cường trước công việc, một tình cảm son sắt thủy chung với cách mạng. Người đồng chí ấy, người con gái ấy, người chị, người em ấy đã dành cho anh cả một tình yêu vô bờ bến. Anh bỗng rưng rưng trong lòng với bao nỗi niềm khắc khoải.
Thế là nhiệm vụ sư đoàn trưởng Nguyễn và tỉnh đội trưởng Sáu Ngạn giao cho đại đội của anh đã sắp sửa hoàn thành. Trong các nhiệm vụ đã hoàn thành của đại đội từ trước đến nay, đây là nhiệm vụ đòi hỏi quyết tâm rất lớn, khối lượng công việc nhiều nhất, trong thời gian ngắn nhất.
Có được sự hoàn thành đó là do sự phối hợp, sự đóng góp, sự hy sinh sức người, sức của dựa trên lòng tin tưởng vào cách mạng của nhân dân Hà Tam, của nhân dân xứ Quảng. Sau nhiệm vụ này, có thể anh sẽ được gặp người yêu. Anh lại được ôm hôn Mậu trong vòng tay đầy thương nhớ của anh, được nghe Mậu hát những bài giang, bài ví của bản Mẫn quê hương anh, được nghe Mậu thổn thức kể cho anh nghe những nỗi nhớ thương dằng dặc Mậu giành cho anh.
Bỗng Hón thấy từ trong bóng tối của bức tường trước mặt hình như có bóng gì lay động. Linh tính mách bảo anh có mối nguy hiểm đang rình rập Thái Bình. Trong giây phút bất chợt đó, anh bỗng thấy có sợi dây huyết thống ràng buộc anh và Thái Bình. Trước mắt anh, không còn là Thái Bình một thời lầm đường lạc lối, từng giương súng Mỹ bắn vào cách mạng, mà chỉ còn hình bóng của đứa em mang một phần máu thịt của quê hương dòng tộc. Anh vội lao ra, gọi tên Thái Bình cảnh báo và xiết cò khẩu AK. Tiếng AK chát chúa xen lẫn tiếng súng colt khô khốc. Anh thấy nhói ở ngực và nghe tên địch rít lên một tiếng man rợ.
Thấy có người hấp tấp gọi tên mình, ngay lập tức theo phản xạ của người lính, của một sĩ quan chuyên nghiệp được đào tạo bài bản ở trường võ bị Đà Lạt, Thái Bình gập người lăn một vòng rồi ẩn sau một chướng ngại vật. Anh thấy có bóng người đổ vật xuống từ phía bên bức tường đối diện. Vừa lúc đó có tiếng thất thanh:
– Anh Hón bị thương rồi!
Thái Bình vội lao ra ôm lấy Hón. Mọi người xúm lại.
Thì ra thằng chó đẻ Hùng Cường định bắn lén anh! May mà anh Hón phát hiện ra, hô hoán và đã hứng trọn những viên đạn của nó để cứu anh.
Thái Bình thấy đau nhói trong tim. Trước mặt Thái Bình không chỉ là một anh Hón ruột rà máu mủ đã không quản thân mình, nhận phần hi sinh, che chắn cho anh thoát chết mà còn là một anh bộ đội Cụ Hồ hết lòng thương yêu nhân dân, dũng cảm chiến đấu vì độc lập dân tộc, lo cho Nam Bắc một nhà, không màng vinh hoa phú quý, không vì lợi ích cá nhân. Tự nhiên Thái Bình thấy hổ thẹn vì bộ quân phục sĩ quan cộng hòa đang khoác trên mình. Thái Bình muốn nhanh chóng được về nhà, cởi bỏ bộ quân phục dơ bẩn đó cho tâm hồn được phần nào thanh thản.
Liên ào đến như một cơn lốc. Cô khóc nấc lên, lấy bông băng sơ cứu cho Hón. Ánh đèn pin soi rõ vẻ mặt tái nhợt của Hón. Vết thương xuyên qua ngực khiến anh thủng phổi, máu đùn ra từng đống bọt. Đồng đội đặt anh lên cáng, vội vã khiêng anh chạy về nhà mệ Hai.
Liên hấp tấp định lao theo nhưng Phiến đã ngăn lại. Phiến chỉ cho Liên tên địch bị Hón bắn đang quằn quại kêu rên như con chó bị cắt tiết. Liên thét lên:
– Mặc kệ nó!
Phiến vội bảo:
– Không được, đây là chính sách nhân đạo!
Anh soi đèn pin cho Liên để Liên băng bó. Tên địch bị đạn bắn gẫy cánh tay phải. Vết thương ở bụng khiến ruột hắn xổ ra một đống. Liên khéo léo ấn ruột hắn vào ổ bụng, úp chiếc bát sắt lên rồi lấy băng, băng quanh bụng hắn. Cô lấy nẹp tre, đặt cánh tay gẫy của hắn cho thẳng thắn rồi buộc lại, bảo đội tải thương khiêng về tuyến sau.
Chính lúc đó, ánh đèn pin lóe lên, soi rõ vết thẹo dài bóng nhẫy trên má trái của hắn. Liên hét lên một tiếng rồi gục xuống. Anh em xúm lại, xốc Liên đứng dậy. Bất chợt, như nhớ ra điều gì Liên đòi mượn cây đèn pin trong tay Phiến. Cô dọi thẳng vào mặt tên địch bị thương. Đúng là thằng thám báo khốn nạn. Không trộn đi đâu được. Vết sẹo này, đôi mắt một mí trắng dã lồi như mắt lợn này, khuôn mặt đểu cáng và lỳ lợm này. Chính nó. Chính nó đã cướp đi đời con gái trong trắng của Liên.
Không thể chịu được nữa, Liên vung cây đèn lên, nhằm vào mặt thằng địch bổ xuống. Cây đèn chưa kịp bổ xuống thì bàn tay chắc khỏe của Phiến đã ghì chặt lại. Liên rít lên một tiếng đầy căm giận. Phiến ôm lấy cô, dìu cô ngồi xuống bên vệ cỏ. Anh lấy tay lau nước mắt cho Liên. Liên bải hoải, người rũ ra như tầu chuối héo. Lát sau Phiến giục:
– Thôi về đi em, về còn lo cho anh Hón!
Nghe tên anh Hón, Liên như bừng tỉnh lại, vội khoác túi bông băng chạy như bay xuống chân đồi. Lúc này trời đã rạng. Phía ngoài biển từng đám mây phớt hồng đã lan ra về đất mẹ.
Hón ơi… là Hón con ơi!… Bầm nhận con dâu, nhận cháu nội rồi đây này…! Con sống khôn, chết thiêng…. phù hộ độ trì cho bầm…, cho vợ con con luôn mạnh chân khỏe tay…, con nhé!
Chương XIX
Hón thoi thóp nằm trên tấm phản gỗ trong buồng nhà mệ Hai. Máu từ vết thương anh vẫn rỉ ra dù đã được băng bó. Vị bác sĩ được Thái Bình cho xe đi đón từ bệnh viên Tam Kỳ lên đang túc trực truyền huyết thanh cho anh. Tấm phản này chính là tấm phản Hón đã nằm trước đây khi được Miên vớt lên từ dòng sông Thu hồi đầu mùa lũ.
Thái Bình đã tìm mọi cách để cứu sống Hón, nhưng vết thương của anh quá nặng cho nên sự sống chỉ còn đếm được bằng giờ. Xung quanh Hón, những cặp mắt lo âu đổ dồn vào anh.
Mệ Hai, Miên, Liên và Chín Hạnh thay nhau ngồi bóp trán, nặn tay, nặn chân cho anh khỏi mỏi. Thỉnh thoảng họ lại chạy ra sân lau những giọt nước mắt. Phiến, Thái Bình, Tư Thới đang túc trực ở ngoài nhà, ngóng Bẩy Tiền. Chị theo đoàn xe chở gạo nên chưa hay tin dữ. Mọi tin tức về việc Hón bị thương đang cố được giữ kín. Nhân dân Nam, Bắc Hà Tam vốn đã quen thuộc với chàng trai xứ Bắc xông xáo, ham lam, ham làm nếu hay tin anh bị thương, chắc chắn chẳng cản được họ kéo đến thăm.
Hón mệt mỏi, khe khẽ hé mắt nhìn mọi người rồi lại nhắm nghiền lại.
Từ trong ký ức của anh, hình bóng người mẹ già nua, mái tóc gần như bạc trắng hiện lên đăm đắm nhìn anh. Anh hình dung ra trong căn nhà vắng tuềnh toàng, người mẹ già đang tựa cửa, nhìn lên dẫy núi Lưỡi Hái mờ mịt trong sương trắng chờ anh về. Nắng chiều nhạt nhòa, đọng lại trong ánh mắt mầu tro lạnh của bầm một nỗi buồn thảng thốt. Dáng lưng còng của bầm đi như gập người xuống, lần hồi, hắt vào đêm những tiếng thở dài não nề vì xa con, vì một thân một mình buồn tủi.
Cả một đời bầm lam lũ, lầm than, cơ hàn, cặm cụi. Miếng ăn nửa chừng như nghẹn đắng trong cổ họng vì nhớ con đến cháy dạ, bào gan mà con thì biền biệt nơi xa vắng. Giấc ngủ chập chờn, thoáng lại giật mình đánh thót, nghe tiếng mọt kêu nơi cánh ván tưởng như đạn réo bên con. Miếng trầu khô đắng, nằm yên trong miệng bởi không có cháu con đâm giã hộ. Bầm như người cô độc, lang thang trên con đường mòn hoang vắng dẫn về thung sâu lam sơn chướng khí. Tiếng con chim “bắt cô trói cột” như lầm lũi dắt mẹ đi.

Thế là con sắp lại đi xa, xa người mẹ già vĩnh viễn. May sao, con đã tìm lại được cho bầm người em gái mà bầm đã bặt tin từ thủa hàn vi, khổ hạnh. Biết đâu chẳng mang lại cho bầm chút hơi ấm khúc ruột trên, khúc ruột dưới lúc nhắm mắt xuôi tay.
Ở đời nước mắt chẩy xuôi. Cả đời bà ngoại tảo tần chỉ dành dụm được đôi nấm bạc để lại cho chị em bầm. Chính nhờ đôi nấm đó mà người Nam, kẻ Bắc dẫu chưa bao giờ biết mặt vẫn nhận được nhau, nhận được núm ruột họ hàng mình.
Dẫu sao, đến lúc này, lá xanh có phải rụng trước lá vàng thì cũng là để ý nghĩa ngày gặp lại thêm minh triết, rạng rỡ mà thôi. Con đi xa nhưng còn bạn bè con ở lại. Bao người con bản Mẫn mình dù ở nơi đâu vẫn chung thủy với quê hương dân bản. Họ là Lèng, Thuận. Họ là Mậu, Phiến. Họ sẽ ở lại bên bầm của con, bầm nhỉ?
Bỗng đôi mắt của Mậu hiện lên trong trái tim anh. Con mắt ấy đã theo anh suốt chặng đường hành quân đánh giặc. Lại nữa văng vẳng bên tai Hón, vẫn đâu đây câu hát xẩm hôm nào mà Lèng đã ca lên trong cái đêm thơ mộng đó.
Tất cả đã theo anh suốt con đường anh đi thăm thẳm từ Bắc vào Nam. Đằng xa ấy là bản quán nuôi anh khôn lớn, là núi Thằn Lằn, Cẩn Kheo, là dãy núi Lưỡi Hái cao ngân ngất trong mây mù, là dòng sông vòng vèo từ những cánh rừng xa thẳm đổ nước về tưới cho cánh đồng Lau, đồng Ràng, đồng Hóp của bản Mẫn mùa này, mùa khác trĩu bông, dầy hạt. Nơi ấy, có biết bao người gắn bó với cuộc sống, với Hón.
Hón mệt lắm rồi. Hơi thở đã đầy vẻ khó khăn. Đôi con mắt hấp háy của anh chưa khép được, dáng chừng như còn muốn chờ đợi một người bạn, một người chị, một người em, một người đồng đội thủy chung son sắt mà Hón đã may mắn được gặp trong bước đường chiến chinh đầy rẫy hòn tên, mũi đạn.
Phải đến non trưa thì Bẩy mới về đến Hà Tam. Dẫu cho pháo giặc vẫn ì oàng dội vào xung quanh các đồn bốt thì Bẩy vẫn muốn reo to lên rằng chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ. Chưa ai thông tin cho Bẩy cái tin sét đánh đó nên Bẩy vẫn hồn nhiên vừa đi, vừa chạy về nhà mệ Hai.
Phiến đón Bẩy ở ngõ. Nhìn bộ dạng thất thần của Phiến, Bẩy đã lờ mờ hiểu có chuyện gì nghiêm trọng lắm. Bẩy run run vội hỏi:
– Có chuyện gì vậy anh?
Đến khi nhìn thấy mệ Hai giàn giụa nước mắt, còn Liên thì bệt bã như người mất hồn thì Bẩy hoàn toàn hiểu ra cơ sự. Cô vội nhào tới, lạc cả giọng:
– Anh Hón đâu, anh ấy làm sao?
Mọi người ôm lấy Bẩy, bịt miệng không để những tiếng kêu của Bẩy loang ra. Thái Bình và Chín Hạnh khẽ bảo với cô đừng để cho Hón xúc động. Tính mạng của anh đang ngàn cân treo sợi tóc, chỉ cần một chút sơ tâm là anh sẽ rơi xuống đáy vực thẳm. Bây giờ, chỉ có thể giữ anh ở lại với đời giây nào quí giây ấy mà thôi.
Đất bằng như sụp xuống dưới chân Bẩy. Trời xanh như quay cuồng trên đầu Bẩy. Cô rẽ mọi người, rũ như cuộng rau héo đi vào căn buồng nơi Hón đang nằm thiêm thiếp.
Bẩy Tiền đau đớn đến cùng cực. Chẳng lẽ nào cuộc đời lại bất công đến thế này sao? Vừa mới mấy hôm trước, Bẩy còn lo rằng mình sẽ ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù mà không được hưởng ân huệ Trời Phật ban cho. Cô đã bằng mọi cách để có được anh trong giờ khắc điên loạn đó, dẫu biết rằng anh đến với cô chỉ bằng tình thương và lòng trách nhiệm. Thế mà ngày hôm nay, anh đã sắp vĩnh viễn ra đi.
Nghe mọi người Bẩy không dám khóc thành tiếng, nhưng nước mắt cứ trào ra ràn rụa. Cô rũ rượi như con gà bị cắt tiết ngồi bên anh.
Khuôn mặt anh đã trắng bệch như sáp, nhưng không vì thế mà phai đi vẻ hiền lành, phúc hậu. Sự chất phác của con người có nhiều ân điển của núi rừng như còn nguyên trên đầu môi, khóe mắt anh. Bẩy nhớ vẻ rụt rè của Hón khi lần đầu gọi Bẩy bằng em, nhớ cái bối rối của anh khi được Bẩy xiết chặt trong vòng tay đê mê cuồng nhiệt, nhớ cái si mê man dại, tưởng đến ngỡ ngàng, khi Bẩy chủ động dâng hiến tất cả cho anh trong cái đêm giữa rừng cùng tiếng mưa sà sã. Hình bóng anh luôn đi về trong nỗi nhớ vô bờ của Bẩy.
Thế mà tất cả đã sắp trôi về vô cùng, vô tận.
Chiến tranh như con xoáy nước nhấn chìm hết thẩy, chỉ để lại ở giữa một vòng tròn định tâm hun hút. Ở dưới sâu kia, mọi sự đau thương mất mát, mọi sự dũng cảm kiên cường đều hòa trộn vào nhau, tạo thành lực đẩy khiến cho dòng sông tiếp tục chẩy xuôi, đưa phù sa bồi đắp nên những cánh đồng phì nhiêu nơi hạ lưu quê hương mầu mỡ.
Bẩy như tê dại cả tâm hồn và thể xác trước nỗi đau quằn quại này. Tự nhiên Bẩy nhớ tới Mậu. Tất cả mọi người ở đây trừ Hón ra, chưa ai nhìn thấy Mậu. Bẩy chưa thấy ai xinh như Mậu, dù cho chính Mậu đã làm lòng Bẩy như thất điên bát đảo khi gặp trong buổi chiều hôm đó.
Tình yêu của họ nào có tội tình gì. Dẫu cho Bẩy có đem cả đời mình che chở, thương yêu, săn sóc cho Hón thì cô cũng như hòn đá tảng ở bên bờ, chẳng được như cái lá trôi theo cùng dòng nước. Tình yêu của Hón và Mậu mãi mãi quyện vào nhau. Dẫu cho vật đổi sao dời, họ vẫn tan ra cùng nhau ở đâu đó trên thiên hà định mệnh này.
Còn Bẩy, Bẩy là người đến sau, có muốn tan ra cùng họ cũng không được. Mà Bẩy cũng không muốn thế. Bẩy vẫn chỉ muốn là mình, là hòn đá tảng để cho họ vui, tung xoáy nước vào Bẩy, thậm chí neo đậu vào Bẩy; để rồi sau phút giây yên tĩnh họ lại cùng nhau rong ruổi đến cùng trời cuối đất, đem tình yêu đến xây đắp nên những miền đất lạ.
Tự nhiên, Bẩy ước ao đến ngày thống nhất được ra quê Hón đón bầm Hón vào ở với Bẩy, chăm sóc bầm để Hón thanh thản đi về nơi bất tử. Anh ơi, em thay bầm, thay chị Mậu ở với anh đến giây phút cuối cùng trước lúc anh vời vợi đi xa cùng mênh mang trời đất! Anh có hiểu lòng em không?
Bất giác, Bẩy nắm lấy bàn tay của Hón. Bàn tay mềm nhưng lạnh. Cái mềm của sự sống và cái lạnh của định mệnh, của chia phôi.
Hình như Hón đã chờ đợi giây phút này từ trong sâu thẳm. Miệng anh mấp máy, rung lên. Lời nói của anh xem chừng rất mệt mỏi:
– Bẩy ơi … gạo … đã về … kho đủ … chưa?
– Đủ rồi anh ạ.
– Cho anh … chào … mọi người … chào …anh em … đồng … chí nhé! Em .. ôm … hôn anh … đi! …
Bẩy choàng dậy, ôm lấy Hón hôn như điên như dại vào đôi môi khô ráp và lạnh lẽo của anh.
Người anh khẽ rung lên như mãn nguyện. Anh nấc một tiếng, hai tay đang ôm Bẩy nhẹ buông thõng xuống. Lọ huyết thanh truyền cho anh ngừng chẩy. Anh đã trôi vào khoảng không vô tận.
Một loạt AK chỉ thiên nổ giòn thay cho muôn lời vĩnh biệt.
Bẩy hộc lên như điên như dại. Nước mắt trào ra cùng tiếng lòng nhức buốt, nức nở. Xung quanh Bẩy cũng vậy, đầy tiếng khóc. Người thì khóc tu tu như đứa trẻ, người thì ngậm ngùi như em khóc anh, người thì sà sã như mẹ gọi con, như vợ khóc chồng…
Tư Thới dìu ông Năm Long sang khâm liệm cho Hón, rồi phủ trên quan tài anh lá cờ Tổ quốc thắm đỏ. Thái Bình chít khăn tang trắng, đờ đẫn bên linh cữu anh. Phiến phát cho mọi người chiếc băng tang đen. Bẩy Tiền xin được chít khăn xô. Khi mệ Hai lóng ngóng quấn khăn xô trắng lên mái đầu xanh của Bẩy thì Bẩy chợt nhớ ra xin được chít thêm vòng xô trắng nữa:
– Cho con thay chị Mậu để tang cho anh Hón!
Bà con Hà Tam đưa Hón về yên nghỉ trên doi đất đầu ấp, hướng ra sông Thu, như muốn anh luôn gần gụi với mảnh đất Hà Tam, với dòng sông Thu gắn bó.
Đêm hôm anh về với đất, pháo ta công kích đỏ rực trời phía đằng Núi Cấm. Đồng bào ở Hà Tam, ở xứ Quảng, người trẻ, người già, con trai, con gái hân hoan mong chờ ngày giải phóng. Họ bắt tay nhau, chào đón nhau, ôm hôn nhau trong niềm vui chuẩn bị cho ngày chiến thắng. Ai cũng nghĩ đến Hón và thương tiếc vì anh không được chứng kiến cảnh này.
Bẩy thất thần trước ngôi mộ còn thơm mùi đất mới. Chị thắp thêm hương cho Hón như để anh khỏi lạnh.
Xa xa, chòm sao Bắc Đẩu đã nằm ngang, in hình trên nền trời đầy sao chi chít. Trong các ngôi sao đó, có một ngôi sao chính Bắc đang đau đáu rọi sáng trên bầu trời.
Chương XX
Tin miền Nam hoàn toàn giải phóng như liều thuốc thần tiên khiến bản Mẫn rung lên vì hân hoan, sung sướng. Người già như trẻ lại, tiếng cười rộn rã như trút được nỗi lo âu triền miên qua những ngày đạn bom, khói lửa. Đám đàn bà có chồng đi bộ đội má như hồng lên, người răng đen tưởng như óng lại, người răng trắng trông có vẻ bóng ra, tiếng nói họ trở nên êm ái dịu dàng và tay chân họ cũng tựa hồ mềm mại.
Nhưng nào đã có ai trở về. Dần dần cuộc sống lại trở về nhịp cũ, ai nấy vẫn phải lo làm lo ăn. Nỗi niềm mong ngóng riêng tư đều gửi về đêm cùng những tiếng thở dài chờ đợi.
Bà bủ Hón cũng vậy. Già rồi, chẳng có công có việc gì làm nên bủ suốt ngày ra ngẩn vào ngơ, hết ngóng ra con đường liên tỉnh chạy ngang qua xã, lại rũ người ngồi trên thích nước, ruồi bậu không thèm đuổi.
Bủ nóng lòng chờ anh Hón con bủ về.
Người già tính khí thất thường, lắm lúc như con trẻ. Nhiều khi mắt bủ rạng lên. Hỏi bủ, bủ bảo anh Hón nhà bủ sắp trở về. Bủ sẽ cưới vợ cho anh Hón, anh Hón sẽ đón nàng dâu về cho bủ. Bủ sẽ được chăm con trai, con dâu. Bủ sẽ được ê a cùng cháu nội, sẽ được lũn cũn đi theo chơi cùng với nó.
Lắm lúc bủ lại ngơ ngác hỏi Lèng:
– Lèng ơi, sao anh Hón nhà bủ chẳng thấy thư từ gì về cho bủ nhỉ? Anh Phiến đã có thư về rồi, anh ấy bảo đang ở mặt trận biên giới Tây Nam. Tây Nam là ở đâu? Giải phóng rồi cơ mà, sao lại phải ở đấy nữa? Còn anh Hón nhà bầm ở mặt trận nào vậy Lèng?
Rồi bủ lại hỏi:
– Cả chị Mậu nữa, chẳng biết có ở gần anh Hón không? Thằng Mỹ cút rồi, sao các anh, các chị ấy chưa về với bầm?
Hỏi rồi bầm lại rưng rưng khóc. Lèng phải nói cứng:
– Bầm lại thế rồi! Thằng Mỹ đã cút nhưng vẫn còn thằng giặc muốn xâm chiếm nước mình. Anh Hón, chị Mậu còn phải đi đánh nó chưa về được. Như anh Phiến đấy, thư về mà người đã về được đâu. Bầm cứ mong nhiều anh Hón nóng ruột là không đánh giặc được đâu. Bầm nghe con, đừng mong nữa nhé!
Bà cụ thần người ra, thôi không hỏi nữa, nhưng trong lòng bủ, có họa là gỗ đá mới thôi mong nhớ con trai mình biền biệt chưa về. Nhiều ngày bủ bần thần nhìn lên đỉnh núi Lưỡi Hái xa mờ ẩn hiện trong màn sương trăng trắng. Xa vời vợi nơi phương trời mịt mùng đó, khuất đằng sau những nhấp nhô đèo núi kia là nơi bủ chẳng bao giờ có thể leo đến được. Đấy là phía trời Nam, nơi con trai bủ đang cầm súng một mất một còn với kẻ thù của dân tộc.
Những nếp nhăn nheo trên khuôn mặt già nua của bủ thỉnh thoảng lại rung lên thoắt hồng, thoắt tím. Chặng đường suốt mấy chục năm trước đây bủ đã đi qua, lúc ẩn lúc hiện, kéo bủ về với những quá khứ thời bủ cùng chồng còn trẻ. Lúc ấy, bủ sức còn dài, vai còn rộng. Cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc đã bứt bủ ra khỏi cuộc sống bên lũy tre làng cùng với cây đa, mái đình, giếng nước nơi quê hương thân yêu để lên với đồng đất trung du theo cách mạng.
Rồi bủ đến nơi đèo heo hút gió, sơn cùng thủy tận này. Người bạn đời đầu gối tay ấp của bủ đã gửi xương cốt nơi đây, bách tuế vân du, đi về cùng thế giới những người hết lo hết nghĩ, để bủ lại bơ vơ cùng núi rừng trập trùng, hoang vắng. May mà bủ còn có Hón, giọt máu nghĩa tình cốt nhục nối dõi đời bủ với đời sau, làm sợi dây thắt chặt giống nòi nội ngoại. Chiến tranh và giặc giã chưa cho bủ có điều kiện đưa con về nơi quê cha đất tổ để ân đền, nghĩa trả, hương khói tổ tiên thì con bủ lại lên đường đánh giặc.
Đất nước mình liên miên giặc giã. Cả cuộc đời bủ đã chìm trong khói súng và đời con trai bủ cũng vẫn phải đương đầu với đạn bom chết chóc, mãi chưa thôi. Con đường bủ đã đi, kéo một vệt dài từ đồng bằng lên miền núi tưởng đã là xa, thế mà con đường con trai bủ đi “xẻ dọc Trường Sơn” lại còn xa hơn từ Bắc vào Nam hàng ngàn dặm thẳm. Mắt bủ đã mờ khi nhìn lên đỉnh núi hướng con bủ hành quân mà chưa thấy bóng con trở về, dẫu biết rằng đất nước mình đã chiến thắng. Bủ thấy lòng như có lửa đốt.
Công việc của Lèng bây giờ mỗi ngày một bận thêm, bởi Lèng đã được Đại hội Đảng bộ bầu vào trọng trách Bí thư Đảng ủy xã. Bây giờ không còn những đợt tuyển quân ồ ạt như trước, nhưng thay vào đó là việc lo cơm ăn, áo mặc, nhu cầu học hành, khám chữa bệnh của nhân dân ngày một cao hơn, khiến Lèng vẫn đầu tắt mặt tối, có khi còn hơn ngày trước.
Thực ra tờ giấy báo tử của Hón đã nằm trong tủ của Lèng hàng tháng nay, nhưng Lèng xin xã chưa làm lễ truy điệu vội. Bủ Hón đã bẩy chục tuổi rồi, nhận được tin này liệu có chịu nổi không? Rút kinh nghiệm bà bủ mẹ anh Khang tháng trước đấy, xã đưa giấy báo tử con bủ về, chưa kịp làm lễ truy điệu thì bủ đã xốc, rồi “đi” luôn, khiến cả bản như đứt từng khúc ruột.
Lèng cũng đau đớn không kém. Với anh Khang, tuy hai người chưa có một lời thề thốt yêu thương, nhưng Lèng vẫn luôn coi anh Khang như người có nhiều duyên nợ. Ít ra anh cũng là chỗ để Lèng bấu víu. Thời buổi chiến chinh này, mật ít khoai nhiều, không hy vọng bấu víu vào một mối tình nào thì chẳng hóa ra bơ vơ, cơ nhỡ à? Bây giờ anh Khang hy sinh, chỗ dựa và hy vọng của Lèng thế là tan biến. Lèng đau đớn cũng như chồng mình là liệt sỹ vậy.
Còn với Hón, từ lâu Lèng coi Hón như người tri kỷ. Chẳng được yêu nhau bởi không có duyên, hợp số, chứ ngày ấy Lèng mặc kệ tình cảm của Mậu, cứ chen vào thì biết đâu bủ Hón đã là mẹ chồng và bủ đã có cháu bồng, cháu bế.
Bây giờ thì cả Khang và Hón đã trở thành liệt sỹ. Tấm bằng Tổ Quốc ghi công đã lưu danh thiên cổ tên tuổi họ. Lèng chua chát nghĩ chẳng bao giờ còn gặp lại họ, trừ là có thế giới bên kia.
Lắm lúc Lèng thon thót giật mình. Ngồi trong bếp nhìn ra thích nước, Lèng thấy bủ Hón thẫn thờ nhìn ra con đường, nơi những người lính chiến thắng giặc giã trở về, mà lòng Lèng đau như dao cắt.
Hón đâu có thể trở về được nữa. Anh đã hòa vào núi sông, hòa vào mầu đỏ thiêng liêng trên lá cờ Tổ Quốc. Những bài hát sau ngày đất nước chiến thắng là lời của dân tộc ru anh ngủ mãi mãi ngàn thu.
Hón đã đi vào cõi vĩnh hằng. Tổ Quốc và nhân dân đã đón Hón về với thế giới người hiền, nhưng bủ Hón thì vẫn còn đó với những vết nhăn nheo trên khuôn mặt hàng ngày mong ngóng con trai trở về.
Chỉ có Lèng biết sự mong ngóng của bà bủ già nua kia đã là vô vọng. Nhưng biết làm sao bây giờ. Liệu Lèng giấu bủ cái tin dữ dằn ấy được bao lâu nữa?
Thế rồi bản xa, bản gần lại chộn rà, chộn rộn. Bắt đầu là những anh lính giải phóng đầu đội mũ tai bèo xanh, chân đi dép râu, vai đeo ba lô bạc mầu còn nồng mùi thuốc súng vội vã hành quân trên đường. Họ vượt qua chiến trận đạn bom chiến thắng trở về. Trên nắp những chiếc ba lô ấy lủng lẳng chiếc khung xe đạp nữ điệu đàng, hoặc những con búp bê nhựa to bằng đứa trẻ mới đẻ, mắt biết nhắm mở như ước mơ thẳm sâu của họ dành cho hậu phương. Những vật dụng ấy, người dân sơn cước coi như là của lạ.
Họ đi một mình, thỉnh thoảng mới có một nhóm hai người. Hình như nóng ruột về nhà nên bước chân họ cứ vội vã, mặc những ánh mắt đầu tiên là vui mừng vì tưởng người bản mình, rồi sau đó lại thất vọng vì hóa ra chẳng phải.
Dân bản Mẫn hết rộ lên nỗi niềm mừng vui lại sa vào hụt hẫng. Họ khắc khoải mong chờ người thân yêu. Bao nhiêu người ra đi cơ mà, sao mãi chưa thấy ai trở lại?
Cuối cùng, mong ngóng mãi cũng đến lúc thành hiện thực.
Một buổi trưa giữa thu, khi những cánh chuồn chuồn ớt đang chơi vơi trên khoảng sân hợp tác vắng lặng thì một chiếc xe con đít vuông, biển đỏ của cơ quan quân sự hấp tấp đỗ xịch trên con đường giữa bản. Mọi người từ các ngôi nhà sàn quanh đấy túa ra.
Anh cán bộ mang quân hàm trung tá mở cửa xe, dìu anh bộ đội chân đi không vững xuống. Anh bộ đội đầu trọc lốc, mặt mày hốc hác, mắt thô lố, chỉ cái miệng là cười tươi, giơ tay chào mọi người:
– Xin chào bà con dân bản!
Mọi người ngỡ ngàng. Bỗng bủ Phúc kêu lên thất thanh:
– Ối bà ơi, anh Thuận nhà mình về! Có phải Thuận đấy không con?
– Vâng! Con đây bố bầm ơi!
– Trời ơi con tôi! Đúng con tôi thật rồi!
Dân bản ồ lên, xúm đông, xúm đỏ vây lấy Thuận. Bà bủ Phúc hớt hải rẽ mọi người xô lại, ôm chầm lấy con, hết nắn đôi tay khẳng khiu lại nắn đôi chân tàn tạ, nước mắt giàn giụa:
– Ối trời ơi! Sao con tôi lại ra nông nỗi này! Trời ơi là trời!
Đúng là thế thật. Anh Thuận con bủ khi nhập ngũ là một thanh niên đỏ da thắm thịt, mạnh khỏe, nhanh tay nhanh chân, khôi ngô tuấn tú. Thế mà giờ đây da thịt nhăn nheo, tàn tạ thế này, sao mà chẳng xót ruột xót gan?
Thuận đứng giữa vòng vây của dân bản Mẫn. Mọi người nhốn nháo nhộn nhạo. Tiếng thăm hỏi mừng vui khi gặp lại Thuận rộ lên. Người ta hân hoan trước việc Thuận trở về. Anh là người lính đầu tiên về cùng dân bản sau ngày giải phóng.
Thế nhưng bên cạnh những ồn ào vui mừng đó cũng có những ánh mắt nghi hoặc và những lời to nhỏ thầm thì:
– Sao bảo hắn chiêu hồi địch cơ mà. Thế là thế nào nhỉ?
Thuận đưa tay vịn vào đồng chí trung tá đứng bên, cố gắng đứng vững trong sự hoan hỉ lẫn ái ngại của gia đình và dân bản. Anh nói rành rọt:
– Thưa bố bầm, thưa bà con dân bản! Đây là anh Bằng, trước là bí thư chi bộ nhà tù Phú Quốc, người đã dìu dắt tôi vào Đảng. Hôm nay, anh thay mặt cấp trên về thăm bản Mẫn ta.
Anh Bằng cười rất tươi chào mọi người. Anh thay mặt Ban chỉ huy Quân sự tóm tắt những hành động anh hùng của Thuận đã kiên quyết giữ vững khí tiết người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trước những mua chuộc và đòn roi của kẻ thù trong nhà tù; xứng đáng với danh hiệu Đảng viên cao quý. Anh xin phép dân bản đọc quyết định của Chủ tịch nước trao tặng Huân chương Chiến công cho quân nhân Hà Văn Thuận để ghi nhận công lao và thành tích của anh trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.
Những tiếng ồn ào lại nổi lên:
– Có thế chứ! Người bản Mẫn mình anh hùng như thế chứ!
Người ta xúm vào, công kênh Thuận lên. Ai cũng muốn được dành cho Thuận những niềm tôn kính.
Thì ra sau hiệp định Pa-ri, anh Thuận được trao trả từ trại tù Phú Quốc. Khi ấy anh chỉ còn da bọc xương, hai bánh chè bị vỡ, các đầu ngón tay nát bét không còn cảm giác do bị cai ngục đóng đinh tra tấn dã man tàn ác; nội tạng của anh bị phá hủy do chế độ hà khắc của nhà tù nên ăn gì lại đi ngoài ra như thế. Được Nhà nước đưa về chữa trị ở quân y viện theo chế độ đặc biệt, anh nghĩ mình suốt đời tàn phế nên xin cấp trên chưa báo về gia đình vội sợ ảnh hưởng tới tâm lý gia đình và dân bản khi đất nước còn chiến tranh.
Còn anh Bằng, sau khi vượt ngục thành công đã bắt liên lạc với du kích trên đảo Phú Quốc. Anh được tổ chức đưa vượt biển về đất liền tham gia bộ đội Miền chiến đấu ở mặt trận Tây Nam bộ.
Sau giải phóng, biết tin Thuận được trao trả, anh đã lặn lội đi tìm và dành nhiều thời gian tâm sự động viên Thuận an tâm chữa bệnh, trở thành người anh tinh thần của Thuận.
Sau mấy năm được các bác sĩ hết lòng chữa trị, giờ Thuận đã khá lên nhiều. Anh Bằng được cấp trên giao cho việc trực tiếp đưa Thuận về thăm gia đình trước khi đưa về Hà Nội tiếp tục chữa trị.
Niềm vui và lòng hãnh diện vì người con bản Mẫn chiến thắng trở về trào lên được một lúc rồi lại lắng xuống. Trước hình ảnh da thịt tiều tụy của con mình, vợ chồng ông Phúc đau đớn thương con, giàn giụa nước mắt. Bà con dân bản cũng không kìm được xúc động, nhiều người khóc rưng rức. Ai cũng muốn được ôm lấy Thuận, chia sẻ những tổn thất không gì bù đắp được cho anh. Chàng trai bản Mẫn ra đi đã đóng góp sức lực, trí tuệ và máu xương cho công cuộc giải phóng đất nước của toàn dân tộc. Đó là vinh quang của tất cả mọi người. Vì vậy đối với dân bản Mẫn, Thuận đã là người anh hùng của cả bản.
Sau giờ phút đau đớn, xúc động, mọi người xúm vào động viên vợ chồng bủ Phúc:
– Thôi bủ ạ, anh Thuận còn về được là bản ta còn phúc! “Còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây” lo gì! Rồi anh ấy sẽ mạnh khỏe lại mà bủ!
Thằng em chú xốc anh Thuận lên lưng, chạy lên cầu thang. Mọi người rầm rập lên theo, mừng vui như người nhà mình về vậy.
Nhìn tấm huân chương chiến công Nhà nước trao tặng anh Thuận được treo trang trọng trên vách gỗ, bủ Phúc xúc động vì sự đóng góp của con mình, mắt bủ rưng rưng lệ.
Thế rồi một buổi chiều mùa đông. Sương buông nhẹ trên cánh đồng lấp xấp nước vừa bừa ngả rạ. Gió vi vút đuổi nhau khiến đàn trâu chen vào nhau, mõ kêu lốc cốc trên đường về bản.
Chuyến xe khách cuối cùng từ từ dừng lại ở cuối bến. Anh thanh niên tay ôm chiếc va li da đỡ bà bủ già dáng chừng là mẹ cùng một cô gái mặc quân phục đã bạc mầu, đầu đội mũ tai bèo, bế đứa trẻ chừng hơn ba tuổi xuống xe.
Họ hỏi thăm đường về bản Mẫn.
Lèng đang lúi húi nấu cơm. Bủ Hón như mọi ngày ngồi trên sàn thích nước. Đôi mắt xám tro thất thần nhìn con đường dẫn về bản Mẫn. Bủ chẳng chú ý gì ngoài việc xem có anh bộ đội nào vào bản.
Mãi đến khi anh thanh niên vận bộ véc sẫm nói giọng miền Trung nằng nặng hỏi thăm, bủ mới ngẩng lên, ngơ ngác:
– Anh hỏi ai?
Lèng từ trong bếp chạy ra. Anh thanh niên từ tốn:
– Cho con hỏi nhà bủ Hón ạ?
– Vâng… là tôi đây!
Bà bủ cùng đi mặt méo xệch, nói không ra tiếng:
– Trời Phật ơi, chị Thiện… đó như? Em là Thà… đây mà! Có nhận… ra em không?
Nói rồi, bủ lẩy bẩy trèo lên cầu thang. Lèng nhanh chân đỡ bủ, dìu lên nhà. Bủ Hón sau phút giây ngơ ngác bởi không tin vào mắt mình, lập cập ôm choàng lấy bủ Thà:
– Ối giời ơi… em đấy như? Đúng là em tôi thật rồi!… Em ơi là em ơi!… Sao em lại lên được đây?
Hai bà bủ ôm lấy nhau nức nở.
Thằng bé con thấy lạ, khóc ré lên. Lèng xuống tận chân cầu thang đón họ lên nhà. Hai bủ bố bầm Lèng cùng xúm lại. Bủ Hón hấp háy đôi mắt đầy nước, lập cập hỏi:
– Thế các người… này là ai?
Anh thanh niên vội thưa:
– Con là Thái Bình, cháu ruột của già đây già ơi!
– Thế như?… To lắm rồi nhỉ? Anh Hón nhà này… cũng to bằng anh đấy!
– Còn đây là cháu nội của già, con anh Hón đấy già ạ!
Bủ Hón ngơ ngác như đứa trẻ. Bủ loạng choạng ôm lấy Trường Sơn mừng rỡ như đón mẹ về chợ vậy:
– Ối con ơi là con… ối cháu ơi là cháu! Sao dẫn nhau về không bảo bà lấy một nhời? Thế mẹ cháu đâu?
Người phụ nữ mặc quân phục bạc mầu lúc này mới lên tiếng, giọng chị đẫm nước mắt:
– Là con đây bầm ơi! Con là Bẩy Tiền mẹ của cháu ạ!
Lèng hơ hới đến bên người phụ nữ:
– Thế ra chị là vợ anh Hón?
– Chưa ạ. Em chỉ có con với anh Hón thôi. Khi hi sinh, ảnh cũng chưa biết…
Lèng vội giơ tay định bịt miệng không cho Bẩy Tiền nói ra điều này vội nhưng không kịp nữa. Bủ Hón vội hỏi, giọng méo đi, thảng thốt:
– Chị nói… sao? Thế ra… anh Hón… con tôi… đã hy sinh… rồi như?
Chẳng kịp nghe câu trả lời, hai tay bủ run run như bắt chuồn chuồn rồi gục xuống. Lèng đã chuẩn bị cho tình huống này từ khi có giấy báo tử Hón, vội lấy chai dầu gió ra, bảo Bẩy Tiền xoa khắp người cho bủ, lại lấy sơ-ranh, bẻ mấy ống thuốc tiêm cho bủ. Lúc sau, bủ mới dần hồi tỉnh.
Vừa tỉnh lại bủ đã lại rên rẩm khóc con:
– Ối Hón ơi… là Hón ơi! Sao anh vội vã bỏ bầm ở lại… mà ra đi thế Hón… ơi! Bầm sao mà sống nổi khi vắng con, ơi… con ơi! Giời ơi là giời… lá vàng giời còn để trên cây, mà sao lá xanh giời… vội bắt đi thế? Ới giời ơi là giời….
Tiếng khóc đứt đoạn và ai oán của bủ Hón khiến mọi người không sao kìm được nước mắt. Mệ Hai và Bẩy cũng vật vã, ngần ngật. Thái Bình đau đớn nuốt nước mắt vào trong, khư khư ôm lấy chiếc va li đựng hài cốt của Hón.
Lèng chẳng biết làm sao nữa. Dù đã biết tin này từ trước nhưng chỉ đêm đêm chị mới dám thút thít khóc thầm, còn sớm mai, với trọng trách Bí thư Đảng bộ xã chị vẫn phải tỏ ra bình thản. Bây giờ cơn đau này mới được bung ra. Lèng ôm chặt cháu Trường Sơn vào lòng như cứu cánh, nấc lên rấm rứt.
Bủ Hón yên được một tí, lại vật vã, đau đớn gọi con. Khuôn mặt già nua chằng chịt những đường nhăn của bủ, hết đỏ rồi lại chuyển sang xanh tái. Mắt bủ thất thần. Bủ không còn làm chủ được mình nữa. Mồm miệng bủ méo xệch đi, tiếng khóc nghẹn lại. Bủ chìm sâu vào cơn mê sảng.
Trong lúc mê bủ thấy anh Hón con trai bủ đang bay từ đỉnh núi Lưỡi Hái xuống, giang tay ra dắt bủ. Vẫn mái tóc rễ tre húi vội, vẫn nụ cười đôn hậu, Hón đang nựng con như ngày nào bủ nựng Hón. Tiếng Hón như da diết, van nài bủ hãy dành tình thương của bủ cho giọt máu của anh, hãy dành tình yêu của bủ cho người con gái miền Trung đã đến cùng bủ.
Rồi bủ lại tỉnh.
Rất nhiều bà con trong bản kéo nhau đến nhà Lèng. Họ muốn nói lời an ủi cùng bủ Hón. Mệ Hai cùng con cháu và mọi người xúm lại quanh bủ. Những bàn tay ấm nóng nắm lấy bàn tay nhăn nheo của bủ. Những lời động viên chia sẻ cùng bủ trước nỗi đau mất mát to lớn này.
Bẩy Tiền thưa xin được lập bàn thờ thắp hương cho anh Hón.
Lèng lập tức cho chi đoàn thanh niên xóm đến dọn dẹp căn nhà của bủ Hón, rồi tự mình thu dọn đưa bủ về nhà. Bức ảnh Hón có dải băng tang, được Bẩy đặt lên bàn thờ, dưới di ảnh của bố. Chiếc va li hài cốt Hón, được đặt ngay ngắn dưới bàn thờ.
Những nén hương thơm được thắp lên. Những cái vái tay run run. Những giọt nước mắt hôi hổi. Bức ảnh Hón đang cười với mọi người như nhòe đi. Thái Bình cúi đầu lậy trước bàn thờ. Bủ Hón nhìn trân trân vào di ảnh Hón.
Lát sau mệ Hai lựa lời nói với chị:
– Thôi, già ạ, anh Hón đã trọn vẹn tấm lòng son với nhân dân, với Tổ Quốc. Anh ấy hy sinh nhưng còn để lại giọt máu của mình cho già. Vậy xin già cho cháu nội Trường Sơn về nhận ông, nhận bà, nhận bố, nhận tiên tổ họ mạc. Cũng xin già rộng lòng thương cho chị Bẩy Tiền được làm dâu con nhà mình, mẹ nhận con, con nhận mẹ để vong linh anh Hón dưới chín suối được thanh thản.
Vừa nói bủ vừa dắt tay Trưởng Sơn lại trước bà nội. Cặp mắt Trường Sơn trong veo, con ngươi đen nhánh thơ ngây nhìn bà nội.
Bủ Hón run run. Bủ nhìn Trường Sơn như ngây như dại.
Đúng rồi.
Con mắt này, cái nhìn này là của Hón khi còn bé tý khát sữa, vừa rít lấy rít để, vừa nhìn bủ ra chiều tin cậy vì được mẹ ôm ấp đây mà.
Nét mặt này là nét mặt của Hón lúc còn trẻ con mỗi khi mải chơi bị mẹ quở mắng, biết thân biết phận chịu lỗi đây mà.
Nết cười này chính là nết cười của con trai bủ hân hoan khi đi cầy đồng Ràng tháng một, đi bừa đồng Hon tháng chạp, đi gánh lúa đồng Lau tháng năm, đi trục lúa đêm tháng mười. đi bắt giặc lái ngày mưa ngâu tháng bẩy đây mà.
Tất cả như được tạc ra từ nguyên mẫu. Làm sao mà trộn lẫn đi đâu được.
Không còn nghi ngờ gì nữa Trường Sơn đúng là hình bóng của con trai bủ.
Nó chính là phiên bản của giọt máu bủ dứt ruột đẻ ra. Nó đúng là ân tình nối dài của người chồng đầu gối tay ấp quá cố của bủ.
Bủ thấy thấp thoáng đâu đây ánh mắt của con trai bủ đang nũng nịu nhìn bủ như hồi còn thơ dại. Con bủ đã về Giời nhưng Giời đã để bóng dáng của nó lại cho bủ đây rồi.
Thế là từ nay bủ lại được âu yếm, cưng nựng Trường Sơn. Bủ lại được để dành khúc sắn nướng bở tung, lóng cơm lam thơm phức, bát cháo hoa mộc mạc cho nó. Bủ lại được dắt tay đưa nó bi bô đến lớp, lại được ôm nó mỗi khi nó đi học về.
Giấc mơ vừa qua như lời Hón nhắc nhở bủ. Bủ tự trách mình vì nỗi đau thương con đã lơ là với cháu. Trường Sơn chính là hạnh phúc mới của bủ do chính con trai bủ mang lại cho bủ. Dù con bủ hy sinh nhưng con bủ đã tạc lại dáng hình để lại để bủ lấy đó làm chỗ dựa. Phúc Đức này thất là to lớn.
Cũng tự nhiên, trong lòng bủ trào dâng nỗi niềm cám ơn người phụ nữ miền Trung kia đã chia sẻ cùng con trai bủ trong khi nó đi đánh Mỹ. Chị đã ở bên Hón trong giây phút lâm chung, đã nhận những lời trăng trối của Hón mang về cho bủ. Bủ đã làm mẹ nên bủ hiểu nỗi vất vả mang nặng đẻ đau của chị. Hôm nay chị lại đưa thằng cháu đích tôn Trường Sơn của bủ về đây để bủ nhìn thấy hình bóng của con trai bủ. Nếu không có Bẩy Tiền thì làm sao bủ còn được thấy hình hài của Hón qua vóc dáng Trường Sơn này nữa. Chính Bẩy đã là người đã mang nặng đẻ đau, nối dài sợi dây huyết thống dòng họ của bên nội, bên ngoại con trai bủ, điều mà không chỉ bủ mà cả dòng họ nội ngoại của Hón phải biết ơn. Nhờ Bẩy, tình thương yêu của bủ trước chỉ chăm chút dành cho một mình con trai, nay lại được yêu thương nhiều hơn cho cả con dâu và cháu nội.
Thế là chính Bẩy Tiền là người mang lại tất cả niềm vui và tiếp theo bủ biến lòng hãnh diện của người phụ nữ tề gia nội trợ thành hiện thực trong gia tộc và trong bản quán quê hương. Vậy thì sao bủ nỡ thơ ơ với con người ân nghĩa này được?
Tự nhiên ngọn lửa đượm nồng của tình mẫu tử như được thổi bùng lên sưởi ấm cõi lòng đang lạnh giá, già nua của bủ.
Bủ nghẹn ngào:
– Vâng, anh Hón mất đi… tôi đứt từng khúc ruột. May mà Giời còn thương tôi… cho chị Bẩy đem cháu tôi về đây! Đấy là cái tình của chị Bẩy đối với cả nhà này, cả người đã khuất và người còn sống. Trường Sơn… là giọt máu của anh Hón. Tôi không nhận chị ấy, không nhận cháu tôi thì nhận ai… Âu đấy cũng là phúc đức… Con ơi, con lại đây với bầm… Cháu ơi cháu lại đây với bà nào!
Bẩy Tiền đưa con lại với bủ Hón.
Bủ vừa khóc vừa ôm lấy cháu nội, ôm lấy con dâu, lại cầm tay cháu cho cháu vái trước di ảnh bố nó:
– Hón ơi… là Hón con ơi!… Bầm nhận con dâu, nhận cháu nội rồi đây này…! Con sống khôn, chết thiêng…. phù hộ độ trì cho bầm…, cho vợ con con luôn mạnh chân khỏe tay…, con nhé!
Nước mắt bủ lại ứa ra, lăn dài trên gò má nhăn nheo, rỏ từng giọt vào đầu cháu nội, thấm sang cả vai áo quân phục đã bạc mầu của Bẩy.
25/7/2024
Vũ Quốc Khánh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chân dung người mẹ qua thơ Nguyễn Ngọc Tung

Chân dung người mẹ qua thơ Nguyễn Ngọc Tung Người mẹ vốn cao đẹp trong cuộc đời, khởi đầu của sự sống và suối nguồn yêu thương không bao g...