Thứ Hai, 23 tháng 12, 2024

Chiều Ghềnh Ráng

Chiều Ghềnh Ráng

Võ Quảng, niềm cảm hứng thôi thúc văn chương trong tôi,..
Sáng nay, một sáng đầu đông, cuối tuần, dù giờ không phải bận công sở, việc làm thêm thì không thời gian, nhưng tôi vẫn giừ cái thói quen cũ, ngủ dậy muộn hơn ngày thường một chút. Một thói quen công chức ăn vào đầu óc, ám vào da thịt, thật khó bỏ. Thủng thắng nhấm nháp chén trà Thái ngon trong tiết trời se lạnh vì gió mùa về đêm qua, lơ đãng ngó mặt ti vi,...
Ngày đi học ở quê, tôi đã say mê đọc truyện "Quê nội" của nhà văn Võ Quảng. Ngày ấy, sách hiếm lắm, và sách cho thiếu nhi lại càng ít. Thế nên, cùng với "Dế mèn phiêu lưu ký: của Tô Hoài, "Đội du kích thiếu niên Đình Bảng" của Xuân Sách, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Quê nội" của Võ Quảng đã cho tôi, và tôi tin cả một thế hệ học sinh, thiếu nhi ngày ấy niềm say mê, lòng khao khát với bao ước mơ, hoài bão...
Với riêng tôi, nhà văn Võ Quảng đã ít nhiều bồi đắp nên trong tôi tình yêu văn học, để tôi tiến gần hơn với nghiệp cầm bút, làm báo, viết văn sau này. Tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về điều đó...
Hơn chục năm trước, tôi có vài năm biệt phái vào Văn phòng miền Trung của Đài Tiếng nói Việt Nam đóng chân ở Đà Nẵng, nên có điều kiện qua lại nhiều lần vùng Đại Lộc, Quảng Nam. Đây là quê hương của nhà văn Võ Quảng, vùng đất mà ông nhớ thương suốt mấy mươi năm "ngày Bắc đêm Nam". Vùng đất này thật tươi đẹp, trù phú bình yên bên con sông Thu Bồn nên thơ. Thảo nào, những năm xa quê đằng đẵng ấy, ký ức tuổi thơ đi học đã cho nhà văn Võ Quảng cảm xúc thương nhớ dạt dạt và sự thôi thúc để ông bảy tỏ ra mặt giấy...
Vậy mà với ông đã trăm năm rồi đấy, và ông vắng bóng trên thế gian này cũng đã hơn chục năm nay, nhưng tác phẩm của ông thì người ta mãi còn phải nhắc đến...
Vô tình, chuyện về ông lại thức dậy trong tôi, thôi thúc tôi viết một điều gì đấy. Và những câu chuyện bên lề, nhưng ồn ào này nọ, dư âm từ Đại hội nhà văn vừa qua, bỗng bay đi hết. Chỉ còn lại ký ức và sự mong muốn viết ra được mà thôi!...
Chương trình văn nghệ sáng cuối tuần, "Người lưu giữ tuổi thơ", phim tài liệu về nhà văn Võ Quảng. Tôi bị cuốn hút, không hẳn vì phim hay, mà vì những hình ảnh về nhà văn Võ Quảng, những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi của ông một thời, rồi con phố Hàng Chuối nơi gia đình Võ Quảng từng sinh sống quanh năm vắng vẻ, và cả vùng quê ông, Đại Lộc, Quảng Nam nằm bên con sông Thu Bồn trong mát, đã gợi lên và sống dậy trong tôi biết bao ký ức tuổi thơ....
Ý tường cuối năm
Những ngày giáp Tết, tự dưng nảy ý định làm TUYỂN TẬP THƠ LỤC BÁT của mình. Ý tưởng này bắt nguồn từ phác họa nhanh của nhà thơ Ngô Đức Hành nhân đọc tập thơ Xương rồng khô đã lên xanh của mình, đã nhặt ra một số câu lục bát mà gã thấy thú vị. Nghĩ thế, làm ngay, bén lọc ra từ khoảng 250 bài thơ lục bát trong 8 tập thơ của mình (7 tập đã xuất bản, 1 dự định xuất bản). bước đầu chọn 200 bài. Ra giêng ngày rộng tháng dài sẽ lược bớt đi...
Ngày cuối năm, thử đăng lại một bài lục bát làm từ tết Ất Mùi trong số những bài được chọn, xem ra vẫn phù hợp thời tiết?...
Cuối năm ta lại về quê,
Trước làm giỗ mẹ, sau về tuổi thơ,
Ruộng đồng tái dại bơ phờ
Mẹ đi từ bấy đến giờ... vẫn đây,
Vườn nhà đã mấy lần cây
Ngôi thờ tự mới sao tày công ơn,
Nhớ ngày mái rạ sân trơn
Cuối năm gió bấc từng cơn cả chiều,
Lui cui gom những thương yêu
Mẹ lo cỗ tết bao nhiêu cho vừa,
Bánh chưng, giò chả, rau dưa,
Chè kho, bánh mật vẫn chưa yên lòng,
Rồi ra, ngoài ngõ sân trong,
Mẹ thu lá cả mùa đông vun đầy,
Đốt lên đống rấm khói bay,
Nay ngồi nhớ, lại chợt cay mắt mình...
Mong là ý tưởng này thực hiện được trong năm Tân Sửu,
Cánh chim chơ-rao của buôn làng Cơ-tu
Tôi biết đến tên loài chim Chơ-rao là qua thơ ca từ hồi đi học...
Quả là như vậy...
Ngày học phổ thông, sách Trích giảng văn học dùng trong nhà trường, phần văn học cách mạng, có tác phẩm "Bài ca chim Chơ-rao" của nhà thơ Thu Bồn. Ngày đó, tôi yêu thích trường ca này bởi chất bi tráng và sực hơi thở Tây Nguyên, nên đã từng thuộc lòng phần trích đoạn, như sau này thuộc trường ca "Nước non ngàn dặm" của nhà thơ Tố Hữu vậy... Nhưng ngày đó, chỉ là lòng yêu văn chương thuần khiết thôi, chứ chưa thấu hiểu cội nguồn của cảm hứng thi ca, chữ nghĩa, nhất là những gì ẩn giấu, chất chứa trong mỗi câu thơ, khổ thơ ấy...
"... Chim chơ-rao ơi, chào chim nhé/ Con chim không bao giờ chịu lẻ đàn/ Chim hãy đến rãy rừng ta ca hát/ Đem nguồn vui đến nóc buôn Sang... Chim chơ-rao ơi, bay về buôn vắng/ Báo tin buồn đi khắp mọi nơi/ Mặt trời đã rụng hai tia nắng/ Rừng Tây ánh lửa đỏ sáng ngời...". Qua những vần thơ bi tráng ấy, loài chim chơ-rao đã được nhà thơ Thu Bồn nâng lên thành biểu tượng cho ý chí và sức mạnh tinh thần của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên một lòng theo cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương... Rồi nữa, trong ca khúc "Tiếng đàn Ta-lư", nhạc sĩ Huy Thục cũng nhắc đến loài chim này, dù chỉ thoáng thôi "...Con chim chơ-rao xinh, hót trên canh vui mừng công anh...", song cũng để lại ấn tượng về một loài chim rừng khác lạ. Ngày ấy, nghe thì biết vậy chứ đâu biết loài chim ấy thế nào....
May sao, đến một ngày, tôi có cơ hội tìm hiểu và đắm sâu vào một vùng đất với cảnh vật, con người, sắc thái bản vị địa phương, để từ đó sống lại nguồn cảm xúc thi ca mà trường ca về loại chim chơ-rao của nhà thơ Thu Bồn mang lại, từ thuở học trò...
Ngày ấy, cũng đã mười năm rồi...
Đầu năm 2008, cầm tờ quyết định và đôi lời dặn dò của Lãnh đạo Đài TNVN (VOV) vào Đà nẵng, phụ trách Cơ quan tại khu vực miền Trung, thú thật, ngoài quyết tâm, tôi chưa hình dung là mình sẽ thực hiện việc lên sóng phát thanh chương trình tiếng dân tộc thiểu số trong khu vực như thế nào. Địa bàn miền Trung dài dằng dặc, hàng ngàn cây số, với 9 tỉnh, từ Quảng Bình đến tận Khánh Hòa, có khá nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, vậy lựa chọn tiếng dân tộc nào đây?
Ý tưởng chị thành hình hài khi tham khảo bản khảo sát cũ của cơ quan từ người tiền nhiệm, và ý kiến của một vài đồng nghiệp cùng những người có vốn hiểu biết về các dân tộc thiểu số trong địa bàn, để đi đến quyết định lựa chọn tiếng Cơ-tu. Điều tra, khảo sát thấy, người dân tộc Cơ-tu chiếm số đông hơn cả, và sự ảnh hưởng của họ khá tốt với các dân tộc thiểu số khác trong vùng như Giẻ-triêng, Pa-cô, Vân kiều v,v... Thêm nữa, tiếng Cơ-tu đã từng được La-tinh hóa trước đó, nên sẽ thuận lợi cho việc làm chương trình phát thanh...
Có một sự cảm tính, song lại củng cố lòng quyết tâm trong tôi khi lựa chọn ngôn ngữ này, ấy là tình yêu văn học từ các tác phẩmBài ca chim chơ-rao của Thu Bồn và Nước non ngàn dặm của Tố Hữu. Câu chuyện của nhà thơ Tố Hữu trong trường ca của mình thể hiện đậm nét, ấy là cảm tình và lòng kiên trung của người dân làng Rô, một buôn làng người dân tộc Cơ-tu ở huyện Giằng (Quảng Nam), một lòng hướng theo cách mạng, đã che giấu, đùm bọc, bảo vệ ông và đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ thoát khỏi sự truy tìm của giặc Pháp, khi hai người vượt ngục Đak Glei vào năm 1942 để tiếp tục hoạt động cách mạng...
Còn về Bài ca chim chơ-rao của Thu Bồn, từ trích đoạn trong sách Giảng văn thời đi học, tôi cũng đã đọc cả trường ca và thật sự yêu thích tác phẩm này. Ai cũng biết, trường ca này, tác giả sáng tác về đề tài Tây nguyên, về tình thần bất khuất của bà con các dân tộc Tây nguyên, một lòng theo cách mạng, thông qua hai nhân vật điển hình là Hùng (người Kinh) quê miệt biển miền Trung và Rin (người dân tộc thiểu số) ở vùng núi cao, cùng nhau hoạt động, vận động đồng bào dân tộc đi theo cách mạng, đánh đuổi giặc Tây... Nhà thơ Thu Bồn, người quê Điện Bàn (Quảng Nam), sớm hoạt động cách mạng, làm báo ở Liên khu 5, rồi được cử lên địa bàn Tây Nguyên, nhà thơ đã sáng tác trường ca này khi đang hoạt động của vùng Chư Prông (Gia Lai), nơi có ngon núi cao nhất Tây Nguyên,... Đương nhiên, các địa danh, cảnh sắc, hơi thở và tính chất con người Tây nguyên hiện hữu trong trường ca. song ai dám bảo, Thu Bồn không phả vào đó hình ảnh của trai tráng quê hương miền biển Quảng Nam và chính bản thân mình vào trường ca qua nhân vật Hùng? Còn Rin, người dân tộc thiểu số, nhưng nhân vật này quê đâu trong mênh mông đại ngàn Trường Sơn miền Trung? Quảng Nam quê hương của nhà thơ với các huyện miền núi Hiên, Giằng, Phước Sơn, Trà My... tuy khác về đơn vị hành chính ngày nay, nhưng lại hòa chung một tính chất dân tộc miền núi cả vùng đại ngàn Tây nguyên, phía đông Trường Sơn... Vì thế, Rin và đồng bào của mình có thể ở ngay chính vùng Chư Prông, nơi nhà thơ sáng tác trường ca, hay bất cứ một buôn làng nào đó trong bạt ngàn Tây Nguyên, như loài chim chơ-rao tự do chao lượn trên bầu trời đại ngàn Trường Sơn?...
Sau đó, khi chuẩn bị lên sóng tiếng Cơ-tu, tôi và các đồng nghiệp ở VOV Miền Trung có điều kiện gặp gỡ với đồng bào Cơ-tu, nhất là những người có kiến thức và sự hiểu biết về văn hóa phong tục dân tộc Cơ-tu như ông Arất Hơn (Chủ tịch Hội Khuyến học Tây Giang), một người có công sưu tập và truyền bá tiếng Cơ-tu, và ông Bríu Liếc (Chủ tịch UBND huyện Tây Giang), người biên soạn cuốn từ điển văn hóa phong tục Cơ-tu, thì được biết, người Cơ-tu rất yêu quý nhà thơ Thu Bồn, người con ưu tú của quê hương Quảng Nam mình, và họ cho rằng, trường ca Bài ca chim Chơ-rao là viết về cộng đồng Cơ-tu vốn sinh sống ở vùng Hiên, Giằng, Hòa Vang (Quảng Nam) và có thể cả khu vực Nam Đông, A Lưới của Thừa Thiên Huế... Trong một lần tâm sự, ông Bríu Liếc bày tọ sự tự hào, rằng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, không có một người dân Cơ-tu nào theo địch, một lòng kiên trong theo cách mạng, chống ngoại xâm, như nhân vật Rin và buôn làng anh, là điển hình trong trường ca Bài ca chim chơ-rao của nhà thơ Thu Bồn, của đất Quảng Nam son sắt, kiên trung... Vậy nên, người dân Cơ-tu thấy ở đó có bóng dáng văn hóa, phong tục, tập quán (như tục cà răng, căng tai, tượng nhà mồ, âm nhạc, hát lý, dân vũ, và nhiều nét sinh hoạt thường ngày... nhất là loài chim chơ-rao, loài chim thân thuộc hay đậu nóc nhà gươl )... Lẽ dĩ nhiên, cho rằng như vậy, vừa có căn cứ, vừa là cảm tính bởi sự yêu quý... Riêng mình, tôi thấy ở trường ca này của nhà thơ Thu Bồn có tính phổ quát cho các dân tộc sinh sống cả một dải đông Trường Sơn bao gồm phía tây miền núi các tỉnh từ Thừa Thiên Huế cho đến Khánh Hòa và các tỉnh Tây Nguyên...
Quả là, vẻ đẹp văn chương đã lan tỏa đến những người làm báo chúng tôi, thêm yêu quý những người con của buôn làng Cơ-tu... Với riêng tôi, tình cảm yêu quý ấy, củng cố lòng quyết tâm thực hiện việc lập và phát sóng chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu. Một dân tộc có tiếng nói, chữ viết đã được La-tinh hóa, bản sắc văn hóa độc đáo, có truyền thống yêu nước cao độ, cư dân khá đông, sống rải rác dọc dãy Trường Sơn và vùng biên giới Việt-Lào, họ xứng đáng có một chương trình của mình trên sóng phát thanh của Đài quốc gia!...
Rồi đó những ngày tất bật, quan trọng nhất là yếu tố con người. Chúng tôi đã tuyển được bốn nhân sự (2 cặp nam nữ) người dân tộc Cơ-tu ở các huyện Đông Giang, Nam Giang. Cái khó là, người Cơ-tu sống ở các vùng khác nhau (cao, trung, thấp) thì tiếng nói cũng ít nhiều khác nhau, vậy phải làm sao để tất cả cộng đồng dân tộc Cơ-tu và một số các dân tộc khác hiểu tiếng Cơ-tu như người Giẻ-triêng, Pa-cô, Vân-kiều... cũng nghe được chương trình phát thanh này trong khi họ chưa có chương trình của riêng minh. Trình độ văn hóa đào tạo của các phát thanh viên Cơ-tu tương lai này cũng không đồng đều, duy nhất một em tốt nghiệp đại học Văn hóa, người thì sau khi tốt nghiệp phổ thông có học thêm một vài lớp sơ cấp chuyên ngành ngắn hạn, người lại vừa tốt nghiệp phổ thông. Nghe nói tiếng Cơ-tu chỉ là một việc, song chuyển ngữ sang mẫu tự La-tinh sao đây, để thể hiện linh hoạt và sinh động văn bản Cơ-tu la-tinh trên sóng là rất khó,... Chúng tôi đã đưa các em lên thị trấn Prao (huyện lỵ của Đông Giang) nhờ ông Arất Hơn, một chuyên gia tiếng Cơ-tu, có kinh nghiệm giảng dạy, hường dẫn, chỉ bảo, kèm cặp hàng tháng giời mới tạm ổn. Hàm ý, chúng tôi ý thức việc cho các em được sống trong môi trường cộng đồng văn hóa, phong tục của mình mới là quan trọng, để ngay từ đầu, biết cách thể hiện bản sắc dân tộc mình trong sản phẩm báo chí. Rồi nữa, việc lựa chọn tên phát thanh viên, xây dựng và đặt tên các chuyên mục, âm nhạc, âm thanh, tiếng động sao cho mang hơi thở, sức sống, gợi không gian đẫm chất Cơ-tu...
Vậy là, công sức của VOV miền Trung, sự nỗ lực của bản thân các em, sự hỗ trợ của địa phương và các đơn vị chức năng của VOV, được đến đáp, khi ngày 15 tháng 9 năm 2009, chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu lần đầu tiên lên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi và vài đồng nghiệp lên Đài phát sóng trên đỉnh cao Bà Nà kiểm tra khâu cuối cùng và chờ đợi... Đúng giờ phút, nhạc hiệu chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu vang lên, và lời chào của các phát thanh viên Cơ-tu lần đầu cất lên chào đồng bào Cơ-tu và thính giả xa gần,... khiến mấy anh em đồng nghiệp trong phòng máy kỹ thuật phát sóng mừng chảy nước mắt... Rồi cả hai đầu, Bà Nà và văn phòng cơ quan tại Tp.Đã nẵng nối điện thoại, thông báo cho nhau tín hiệu hai đầu đều tốt, cảm xúc mừng vui chộn rộn khi làn sóng phát thanh truyền tiếng nói Cơ-tu như những cánh chim chơ-rao bay lượn khắp bầu trời, trên bạt ngàn nương rãy và buôn làng Cơ-tu báo tin vui...
Ngay sau giờ phút lên sóng cảm động ấy, mọi người lại vùi đầu cho việc thăm dò, tìm tòi, điều chỉnh, để gần một tháng sau, vào ngày 12 tháng 10 năm 2009, Lễ công bố phát sóng chương trình tiếng Cơ-tu chính thức được diễn ra tưng bừng tại Đà Nẵng, có sự hiện diện của các bên cơ quan, chính quyền địa phương, đặc biệt là nhiều thính giả người dân tộc Cơ-tu từ buôn làng đến... Bà con vui mừng rưng rưng vô hạn, khi nghe tiếng nói của dân tộc mình trên làn sóng quốc gia, chào đón cánh sóng-cánh chim chơ-rao từ nay ngày ngày bay đến từng nhà sàn của buôn làng Cơ-tu... Với những người làm nghề chúng tôi, chung sự xúc động, còn mang ý nghĩa, đứa con thứ 12 của Hệ chương trình phát thanh tiếng dân tộc (VOV4) đã chào đời!...
Nhanh quá, mới ngày nào, vậy mà đã ngót 10 năm rồi đấy. Ngần ấy tháng ngày, có biết bao lo toan, khó khăn để duy trì và nâng cao chất lượng cho chương trình phát thanh này... Nhớ những ngày đầu. làm theo lối tắt, đường truyền của chương trình từ máy tính ở cơ quan qua internet đến mày tình của đài phát sóng trên đỉnh cao Bà Nà, rồi từ đó tung lên trời, có những ngày mưa bão, mưa giông, đứt cáp truyền, chúng tôi lo đến thắt lòng làm sao nối lại cáp truyền, thậm chí, tính cả phương án nếu không kịp khôi phục đường truyền, phải cóp chương trình vào USB phi xe máy mang lên núi cao cho kịp giờ phát sóng... Lại nữa, lo nơi ăn chốn ở cho các bạn trẻ Cơ-tu đảm bảo cuộc sống hàng ngày để họ yên tâm làm việc... Ngần ấy khó khăn, rồi cũng vượt qua tất cả, khi đài phát sóng phải di dời từ đỉnh cao Bà Nà, nhường đất cho dự án phát triển du lịch khu vực, để xuống đỉnh cao Sơn Trà, mất vị thế độ cao vì độ cao thấp bằng nửa so với cũ... Mừng nữa, các chàng trai cô gái Cơ-tu ngày nào bỡ ngỡ rời núi về phố làm phát thanh viên, nay đã phương trưởng, tu nghiệp bằng cấp đầy đủ, kinh nghiệm dày lên, và nhiều người không chỉ là phát thanh viên đơn thuần, mà đã trở thành cây bút thực thụ... Mới đây, trong một lần đến Tây Nguyên, tôi có gặp nhà báo Đỗ Trọng Phụng, người từng công tác tại Cơ quan VOV Tây Nguyên ở Buôn-ma-thuột. Chuyện nghề, nhà báo Đỗ Trọng Phụng bảo, ngày ấy, ông đang chịu trách nhiệm quản lý Phòng Phát thanh tiếng dân tộc của VOV Tây Nguyên, với 6 thứ tiếng hàng ngày. Khi VOV Miền Trung lên sóng chương trình tiếng Cơ-tu, ông đã thích thú và khâm phục những người làm chương trình vì thấy ở đấy cái mới và sự sinh động. Ông đã nhắc nhở các biên tập viên của mình, hãy biết cách gạt đi sự tự hào và ỷ lại, để lắng nghe và học tập các bạn trẻ Cơ-tu. Tôi tin, ông thực lòng, khi bộc lộ điều này...
Sau này, theo xu thế mới, phát thanh hiện đại, đa phương tiện, đa nền tảng để thích nghi với công nghệ 4.0, tiếng Cơ-tu cũng như toàn bộ chương trình tiếng dân tộc VOV4 đều ra thêm trang thông tin điện tử, thay vì cánh sóng, kỹ thuật internet đưa các chương trình tiếng dân tộc vươn xa khắp mọi nơi, đến với từng con người bằng lợi thế của mình.
Khi một ngôn ngữ của dân tộc nào đó được sử dụng trên phương tiện báo chí, văn học nghệ thuật, ấy là dân tộc ấy có điều kiện phát triển mà vẫn có điều kiện bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Thế giới phẳng ngày nay, văn mình thế giới ùa vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu, sự giao thao văn hóa là một tất yếu, song vô hình chung, đã xảy ra một cuộc "xâm lăng" về mặt văn hóa của các nước mạnh... Có một ví dụ nho nhỏ, ngay trên chính những buôn làng Cơ-tu, ngày nào, bà con chỉ biết đến nương rãy, chiêng trống, múa hát... thì nay, thanh niên trai gái lại thích diện áo phông, quần bò, áo sơ-mi, váy tây, vợ chồng trẻ cưới nhau, sinh nở đặt tên toàn là tên nhân vật trong phim, hay tên các ngôi sao điện ảnh Hàn Quốc vì bội thực phim Hàn Quốc trên các kênh ti vi... Sự phai nhạt bản sắc dân tộc từ những điều nhỏ nhất ấy, không mấy ai để ý, diễn ra hàng ngày, và rồi đến một lúc nào đó, ta ngỡ ngàng nhận ra, nhiều biểu hiện của bản sắc văn hóa dân tộc mình đã phai màu, thậm chí không còn nữa. Của cải, vật chất có thể mất đi, rồi lấy lại không mấy khó, còn khi bản sắc văn hóa mất đi, có thể sẽ mất đi vĩnh viễn, khó lấy lại lắm thay... Tuy nhiên, của cải là của mỗi người nên của ai nấy giữ, còn bản sắc văn hóa kia lại là của chung cộng đồng, dân tộc, thì ai giữ đây?!...
Một câu hỏi khó giải đáp, ở quy mô cộng đồng, dân tộc, quốc gia, trong khi sự đa dạng về văn hóa vốn là tài sản quý báu của loài người, lại đang bị đồng hóa bởi số ít thực thể văn hóa của các nước mạnh. Sẽ là nhàm chán bao nhiêu, thậm chí sẽ là thấy bại, khi không còn sự đa dạng về văn hóa?
Với suy nghĩ đó, chỉ từ một thứ tiếng dân tộc, tiếng Cơ-tu, một trong 12 tiếng dân tộc được lên sóng đài phát thanh quốc gia, tôi đã bàn thêm về vai trò, sự quan trọng của nó trong công cuộc bảo tồn ngôn ngữ và qua đó góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số... Hiện giờ, chỉ là con số 12, nhưng một ngày nào đó, có thể sẽ là ngôn ngữ khác như Tày Nùng, Pa-cô, Vân-kiều lên sóng...
Các bạn trẻ Cơ-tu của tôi ơi, các bạn đã lớn lên nhiều, đã thật sự trưởng thành rồi, hãy biết yêu quý và trân trọng những ngày tháng qua... Ơi, những A-lăng Lợi, Vơ-ních Oang, A-lanh Kim Cương, Hoith Nhàn, A-viết Sĩ, các bạn đã là những cánh chim chơ-rao của đại ngàn, của buôn làng Cơ-tu rồi đấy,... Các bạn đã gặt hái được những thành công, đó là những Giải Vàng trong Liên hoan Phát thanh toàn quốc, nhưng hơn cả, các bạn đã ở trong lòng mỗi người dân Cơ-tu, bởi ngày ngày các bạn đã làm bà con buôn làng Cơ-tu “ưng cái bụng”... Hãy cùng các đồng nghiệp yêu quý của tôi ở VOV Miền Trung, cần cù và sáng tạo, biết chắt chiu để góp gió, nâng cao cánh sóng Cơ-tu nhé...
Giờ đây, vẫn những câu thơ của nhà thơ Thu Bồn theo tôi trong dòng ký ức về một thời: "Chim chơ-rao ơi, chào chim nhé/ Con chim không bao giờ chịu lẻ đàn/ Chim hãy đến rãy rừng ta ca hát/ Đem nguồn vui đến nóc buôn Sang..."./
Chuyện học sinh giỏi văn
Ngày xưa, hồi tôi đi học phổ thông, ngành Giáo dục ở ta đã sớm ý thức việc đào tạo học sinh giỏi các cấp. Tôi nhớ không nhầm, ngày ấy, người ta chỉ tập trung và hai môn chính, là Toán (Tự nhiên) và Văn (Xã hội). Hằng năm, theo hệ phổ thông 10/10, đều tổ chức kỳ thi học sinh giỏi tất cả các lớp từ 1-10. Nhưng, chỉ riêng các lớp cuối cấp là 4 (cấp I), 7 (cấp II) và 10 (cấp III) là lần lượt tổ chức kỳ thi học sinh giỏi từ cấp huyện, tỉnh thành phố và sau cùng là Toàn miền Bắc (khi ấy chưa thống nhất đất nước, còn phân miền Bắc-Nam). Riêng lớp 10 thì tổ chức kỳ thi từ cấp tỉnh, rồi toàn miền Bắc. Sau năm 1975, thống nhất chung ngành Giáo dục cả nước, thì cấp thi cao nhất là Toàn quốc, và theo đà phát triển mở rộng, các môn thi cũng được mở rộng sang các môn tự nhiên, xã hội khác (ngoài Toán và Văn)...
Thực ra, ngày ấy, cũng chưa có trường chuyên lớp chọn mang tính phổ biến ở các cấp và nhiều môn học như sau này. Thường là, sau mỗi kỳ thi học sinh giỏi các cấp, phát hiện ra một số học sinh giỏi, đúng ra là có năng khiếu Toán hoặc Văn, tập trung thành đội tuyển, mời một số giáo viên được cho là dạy giỏi hai bộ môn này, đến giảng dạy cho đội tuyển trong một thời gian ngắn. Cách đào tạo này na ná như huấn luyện gà nòi để thi đấu vậy.
Năm học lớp 4, tức là cuối cấp 1, tôi được chọn vào đội tuyển của cấp huyện, cũng tập trung ôn luyện chừng nửa tháng rồi tham dự kỳ thi học sinh giỏi Văn cấp tỉnh. Ngày ấy, tôi còn nhỏ và cũng không đạt kết quả gì, nên không nhớ kỹ, song tôi mang máng, chúng tôi cũng được rèn theo kiểu đề bài mở, chẳng hạn như "Em phải xa một làng quê một thời gian dài. Khi xa em nhớ nhất những gì ở làng quê mình? Em hãy kể chuyện đó...". Vậy cũng là khó rồi.
Cho đến lớp 10, cuối cấp 3, tôi lại may mắn trúng vào đội tuyển học sinh giỏi môn văn của rỉnh Hải Hưng. Đề thi ở cấp tỉnh, không phải là đề mở, vẫn là kiểu cách bình giảng một chủ đề cúa tác phẩm văn học được giảng dạy trong chương trình học, tuy khó nhưng không có gì đặc biệt.
Mùa xuân, 1975, đội tuyển học sinh giỏi mon Văn lớp 10 của Hải Hưng có 20 người được triệu tập về Trường cấp III Hồng Quang, tại thị xã Hải Dương, hầu hết các huyện trong tỉnh đều có học sinh được chọn, tôi thuộc huyện Mỹ Hào. Năm lớp 8 tôi học ở Trường Cấp III Văn Lâm, nhưng sang lớp 9 thì tôi xin chuyển trường về Mỹ Hào cho gần nhà, đi học đỡ vất vả. Năm ấy, cấp III Văn Lâm, trường cũ của tôi không có ai được tuyển, nên tôi thấy buồn buồn. Tề tựu về cấp III Hồng Quang, tôi biết tin đội tuyển của mình có nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa nên mừng lắm. Từ khi học cấp I, tôi đã nghe danh về nhà thơ thiếu nhi này rồi, tuy nhiên chỉ nghe trên đài nói này nọ chứ đâu có sách báo để đọc mà biết thơ của Trần Đăng Khoa hay thế nào. May mắn, năm tôi học lớp 8 ở trường cấp III Văn Lâm, thầy giáo dạy Văn lớp tôi là thầy Lê Thường, một giáo viên giỏi bộ môn Văn của Ty giáo dục Hải Hưng. Thầy Lê Thường người Hà Nội, trước đó có nhiều năm công tác ở Ty Giáo dục Hải Hưng, và từng được Ty phân công tìm kiếm, phát hiện, theo dõi và kèm cặp các học sinh có năng khiếu Văn học, đặng ươm mầm tài năng, mong có được những Trần Đăng Khoa khác nữa. Thầy Lê Thường đi về nhiều địa phương trong tỉnh, và thầy cũng đã nhiều lần gặp gỡ, nói chuyện, với Trần Đăng Khoa, và sau đó viết bài phê bình, nghiên cứu về thơ Khoa. Tôi nhớ, khi dạy chúng tôi, thầy Lê Thường hay nói chuyện về thơ Trần Đăng Khoa. Thầy đăng đàn ngoại khóa Văn học nói chuyện cả buổi về Trần Đăng Khoa và tài năng thơ ca của thần đồng thơ. Thầy thuộc hầu hết thơ Khoa và hay chọn những bài điển hình đọc cho chúng tôi nghe. Tôi thích lắm, noi theo tập tọng làm thơ...
Hôm đầu gặp mặt cả đội tuyển, tôi háo hức lần đầu gặp mặt thần đồng thơ mà tôi ngưỡng mộ bấy lâu. Vì thiếu cơ sở vật chất, nhà trường lầy tạm một căn phòng rộng, mà giữa phòng vẫn kê một chiếc bàn bóng bàn. Tất cả hai mươi đứa từ các trường cấp 3 trong tỉnh, được lựa chọn về đội tuyển, ngồi xung quanh chiếc bàn bóng bàn. Thầy giáo phụ trách đội tuyển là thầy Hậu, giáo viên dạy mon văn của trường Hồng Quang, được Ty Giáo dục cử phụ trách, đồng thời cũng là người dạy chính cho đội tuyển. Thầy Hậu dáng vè hiền lành, cử chỉ điềm đạm, phổ biến nội quy chung. Tôi nhìn quanh điểm qua tất cả các gương mặt, thầm tìm kiếm ai là thần đồng thơ Trần Đăng Khoa. Tôi quan sát một khuôn mặt nam sinh đeo cặp kính cận dày cộm, vì đoán đó là Khoa. Cậu ta luôn cúi xuống, chốc chốc ngước mình, mủm mỉm cười, tay cầm một chiếc bút vạch vạch vào mặt bàn bóng. Tôi hơi khó chịu, bởi là người biết chơi bóng bàn, tôi hiểu, việc đó rất có thể gây xước mặt bàn làm lệch đường bay của quả bóng nếu trúng vào vết xước. Thậm chí tôi bực mình, nhẩm bụng chê thần đồng thơ gì mà lại nghịch như vậy. Đến khi thày Hậu mời Trần Đăng Khoa phát biểu, thấy anh chàng phục phịch thấp lùn đứng lên, tôi thầm à lên, biết mình "bé cái nhầm". Anh chàng cận thị kia là Trịnh Bá Ninh, cùng trường cấp 3 Nam Sách với Trần Đăng Khoa. Thời gian ở đội tuyển, ba chúng tôi thân nhau như anh em, và tình bạn thân bộ ba ấy theo đến bây giờ...
Trở lại câu chuyện đội tuyển văn. Ngày ấy, mỗi đứa trong đội tuyển được đưa về ở nhờ nhà của một học sinh trong trường, nên ba đứa tôi không được ở cùng nhau. Thời gian ở đội tuyển, chúng tôi phải học cả ngày, buổi sáng bồi dưỡng văn, buổi chiều học các môn học khác cho kịp chương trình và để còn thi tốt nghiệp. Thày Hậu là người dạy văn chính, còn có thày Trị được mời từ một trường trong tỉnh lên giảng một số tiết. Chương trình bồi dưỡng môn văn, chúng tôi được ôn luyện các thể loại văn nghị luận chính như chứng minh, giải thích, bình giảng và sự kết hợp các thể loại này. Cùng đó, chúng tôi tập phân tích một số bài văn mẫu. Thêm nữa, có một số buổi ngoại khóa, nói chuyện văn thơ theo chủ để, nhằm mở mang kiến thức văn học chung... Năm ấy, thày Lê Thường không được gọi dạy đội tuyển, nhưng một lần đi công tác Ty Giáo dục, thày Lê Thường ghé thăm đội tuyển. Thày rất vui khi gặp lại tôi, người học trò cưng của thày khi tôi học ở trường cấp 3 Văn Lâm. Khi đó, tôi đứng đầu khối về môn văn, được thày Lê Thường tin tưởng, nhờ chép lại vào sổ lưu trữ một số bài văn hay của học sinh các trường mà thày tuyển chọn ra. Thày vui hơn khi gặp lại Trần Đăng Khoa. Khi còn công tác ở Ty giáo dục Hải Hưng, thày Lê Thường được giao nhiệm vụ tìm kiếm học sinh có năng khiếu văn học, nên thày từng qua lại nhà Trần Đăng Khoa nhiều lần, thân tình với gia đình Khoa, bố mẹ, anh ruột Khoa là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Thời gian ấy, chúng tôi còn được gặp gỡ một số văn nghệ sĩ của tỉnh nhà như nhà thơ Ngô Hoàng Anh, nhà văn Nguyễn Phúc Lai, nhà văn Triều Dương (Triều Dương khi đó ở Đài Phát thanh tỉnh, sau về tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn). Ngày ấy, ấn tượng nhất đối với tôi, không phải là các nhà văn, nhà thơ địa phương, mà là một cán bộ Tỉnh đoàn, chị Trần Thị Duyên. Chị Duyên, quê Thái Bình, cơ duyên đưa chị về công tác ở Tỉnh đoàn Hải Hưng, và chị là một cán bộ đoàn gương mẫu, người chị-người bạn thân thiết với Trần Đăng Khoa từ thời Khoa còn là thiếu nhi mới tập làm thơ. Chủ nhật, Khoa hay dẫn chúng tôi đến Tỉnh đoàn thăm chị Duyên, khi đó chị ở một căn phòng khu tập tập thể. Tôi nhận từ chị thứ tình cảm trìu mến, ấm áp. Biết chị bị bệnh tim, ngày càng nặng thêm, khó qua khỏi, biết chị nhiều lúc cô đơn, khi chị từng từ chối tình cảm luyến ái của vài ba đàn ông vì không muốn làm phiền đến cuộc sống của họ... Mỗi khi chúng tôi đến, chị vui lắm. Mấy chị em líu ríu cả buổi. Sau khi giải tán lớp, mọi người về lại trường cũ, chị Duyên giữ địa chỉ, hay gửi thư thăm hỏi, động viên, nhất là mỗi khi có chuyện buồn. Khoa vào bộ đội, chúng tôi vào đại học, tứ tán dần, chỉ còn lại bộ ba Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh- và tôi là giữ mối liên lạc thường xuyên, qua lại nhà nhau. Mấy năm sau, chị Duyên mất vì căn bệnh tim, không ai trong số chúng tôi biết lúc đó. Sau Khoa biết tin, báo cho chúng tôi, mọi người rất buồn và thương nhớ chị. Riêng Khoa viết bài bài thơ “Bến đò” về chị, hay và cảm động. Câu kết thức dậy trong lòng người về một thuở “... Ta đi theo/ lòng vẫn ở nơi đây/ ai cũng chỉ có một lần/ cái thuở thơ ngây...”... Gần đây, xem bộ phim tài liệu “Thế giới nhỏ của Khoa” do truyền hình Pháp thực hiện từ ngày Khoa mới làm thơ, cùng hình ảnh nhà thơ Xuân Diệu, thấp thoáng bóng hình chị Trần Thị Duyên, tôi bồi hồi nhớ vê một thuở học trò giỏi văn ngày ấy....
Lại chuyện thi. Năm ấy, kỳ thi được tổ chức lập Hội đồng thi tại từng tỉnh, khi đọc đề thi, mọi người ngơ ngác với dòng chữ cụt lủn "Văn học với việc xây đắp tâm hồn anh (chị)". Thể loại gì? Làm thế nào đây? Ai cũng bần thần. Tôi mất nửa tiếng đồng hồ, không biết bắt đầu như thế nào... Sau cái mở bài khá chật vật, tôi viết liên hồi kỳ trận, viết như kẻ mộng du, viết về sự say mê văn học từ ngày còn nhỏ, viết về văn học đã tác động lại mình như thế nào... Tóm lại là nghĩ sao viết vậy, viết như một sự giải tỏa, trài lòng... Mươi trang giấy kín đặc, viết đến mỏi rã tay cho đến hêt giờ. Nộp bài thi, cũng chẳng hiểu bài mình thuộc thể loại nào. Sau này, khi đã trưởng thành, cầm bút viết văn, tôi nghĩ, bài văn ngày ấy của tôi là tùy bút cũng nên.
Kỳ thi ấy, đội tuyển Hải Hưng không ai được giải, kể cả thần đồng thơ Trần Đăng Khoa. Nghe nói, đội tuyển Hải Hưng người cao điểm nhất cũng không vượt quá điểm 10/20 (theo qui chế, từ điểm 11.20 mới được xét giải). Thi xong, cả đội cười đùa vui vẻ, trêu nhau việc không biết làm theo thể loại nào. Cũng chẳng ai áp lực gì, có chăng Trần Đăng Khoa, bởi chàng ta là thần đồng thơ, lại giật giải Nhất kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc hồi cấp 2 (lớp 7/10). Kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 toàn miền Bắc cuối cùng ấy (4.1975), người đoạt giải nhất là một nữ học sinh chuyên văn trường cấp 3 Thái Phiên, Hải Phòng, được chấm điểm 16;20. Mãi về sau, khi các loại sách tuyển chọn này nọ được xuất bản, tôi mới biết, đấy là năm đầu tiên Ngành giáo dục của ta dùng đề thi mở, và đáp án của đề thi ấy, yêu cầu thí sinh phải nêu được các chức năng cơ bản của văn học, rồi dùng các tác phẩm văn học đã đọc và học để chứng minh cho từng chức năng ấy... Thảo nào, ngày ấy, đội tuyển chúng tôi trượt hết, bởi chẳng một ai nghĩ ra vậy...
Song chẳng hề hấn gì, cái chính là chúng tôi được gặp và quen nhau, trở thành bạn thân đi bên nhau dọc chặng đường đời. Chúng tôi chia tay thày Hậu, thày Trị và những thày cô khác ở trường cấp 3 Hồng Quang. Chúng tôi, hai mươi thành viên đội tuyển chia tay nhau với những dòng lưu bút... Tất cả cùng ghi nhớ, bữa cơm liên hoan chia tay, trưa ngày 15/4/1975. Lưu luyến lắm, đã có nước mắt, và cả những mối tình lứa đôi nảy nở... Ai về trường ấy, riêng Trần Đăng Khoa đến tỉnh đội để nộp đơn xin nhập ngũ... Lúc ấy, tin chiến thắng dồn dập bay về từ chiến trường Miền Nam, những ngày sôi sục của chiến dịch Hồ Chí Minh...
Về đến trường, bắt đầu những ngày ôn thi, thi học kỳ 2 và chuẩn bị thi tốt nghiệp. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Niềm hân hoan vỡ òa, khiến lũ học sinh cuối cấp chúng tôi như muốn bay lên. Từ đây, tha hồ học hành, để bay đến mọi miền khi non sông liền một dải... Phần lớn những thành viên chúng tôi vào đại học, những lạ thay, không một ai học ngành văn học cả. Tôi và Trịnh Bá Ninh học đại học nông nghiệp, Trần Đăng Khoa vẫn miệt mài quân ngũ, hay như Nguyễn Việt An học ngành điện, vào quân đội rồi thành chủ doanh nghiệp, song lòng yêu văn chương thì vẫn theo cùng. Có sao đâu, khi mầy chúng tôi vẫn theo đuổi văn chương, báo chí, để sau này và cho đến bây giờ, đều là dân báo chuyên nghiệp, văn thơ đủ loại.
Nhớ lại chuyện học sinh giỏi văn, còn là cái cớ để bàn thêm việc đào tạo gà chọi thi đấu, và việc ra đề mở của ngành giáo dục. Nên hay không nên đây?
Theo tôi, việc đào tạo học sinh giỏi văn kiểu gà chọi, nhằm thì thố giật giải này giải nọ, cho đến cùng, vẫn là "thành tích chủ nghĩa", giờ không nên duy trì nữa vì thực sự không cần thiết. Thành tích ấy chẳng nói lên điều gì. Với mỗi cá nhân, không riêng gì môn văn học, để có kiến thức cơ bản, đương nhiên việc giảng dạy ở các cấp học là cần thiết, nhưng để có một tài năng, thành nhân tài, có đóng góp cho sự tiến bộ và phát triển xã hội, lại phần lớn nhờ tư chất thông minh, sáng tạo và sự khổ luyện, nỗ lực của cá nhân đó. Điều ấy, lại mang tính chất cá biệt, chẳng thể đào tạo, bồi dưỡng. huấn luyện mà thành. Thực tiễn đời sống xã hội đông tây kim cổ đã cho thấy chân lý đó. Trong một hội thảo bàn về giáo dục do Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức, có sự tham gia của một số vị lãnh đạo cao nhất ngành và các chuyên gia giáo dục xã hội, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã tham luận, đưa ra ý kiến, rằng anh có mười năm đi học, và sau đó phải mất mười năm để thoát ra khỏi cái vỏ kén kiến thức phổ thông mà trưởng thành như bây giờ. Như vậy, không có nghĩa là phủ nhận vai trò của giáo dục, mà hàm ý, chỉ coi giáo dục như những chất liệu cơ bản, để mỗi người tự thiết kế, tạo nên sản phẩm mang dấu ấn cá nhân; rằng giáo dục ban đầu, không phải là cái bục cao, để rồi người ta đứng trên cái bục ấy thành cao hơn... Xin nói gọn trong lĩnh vực văn học, năng khiếu thiên bẩm là quan trọng nhất, còn việc học tập, bồi dưỡng kiến thức là góp cho tài năng thiên bẩm ấy phát sáng thôi.
Riêng việc ra đề mở môn văn học (và có thể mở rộng sang các môn xã hội khác như lịch sử, địa lý, triết học,...) là rất nên. Cần khuyến khích các nhà trường, các kỳ thi sử dụng đề mở. Những năm gần đây, ngành giáo dục sốt sắng thực hiện cải tiến, trong đó có việc làm sách giáo khoa, tổ chức thi cử, cấu trúc đề thi... Điều đó là chủ trương đúng, nhưng khi thực hiện, lại rất chi lúng túng, được cái này thì hỏng cái khác, tránh tả khuynh lại chạy sang hữu khuyên. Vì lẽ ấy, hầu như sau mỗi kỳ thi (vào bậc THCS, tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng), cả xã hội lại được dịp bàn tán, chê bai này nọ. Chê chán, người ta lại mang so sánh với các quốc gia có nền giáo dục tiến bộ. Việc ra đề mở cũng vậy... Đã có bao nhiêu bài viết trên mạng xã hội bàn luận về việc đề thi mở trong các kỳ thi tú tài ở Trung Quốc...
Tôi nhớ, hơn chục năm trước, năm 2007, tôi tình cờ đọc một bài viết bàn về đề thi tú tài môn văn ở Bắc Kinh, yêu cầu thí sinh thẩm 2 câu thơ trong bài thơ Biệt Nghiêm Sĩ Nguyên của Lưu Trường Khanh, đời Đường: " / ",(Tế vũ thấp y khan bất kiến / Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh, dịch nghĩa là: mưa phùn làm ướt áo, có nhìn mà chẳng thấy/ hoa rơi từ từ xuống đất, nghe không tiếng động). Khi đó, tôi đã nghĩ là khó nhưng rất hay. Những năm gần đây đề mở họ ra còn thú vị hơn nhiều. Ví như mùa hè 2019, đề thi văn ở tỉnh Giang Tô, khiến mọi người phải lè lưỡi công nhận là hay và cực khó (Dựa theo tài liệu bên dưới, chọn góc độ, tự nghĩ đề bài, viết bài văn trên 800 chữ, không hạn chế thể văn (trừ thơ)."Mỗi vật đều có 1 tính, nước thì nhạt, muối thì mặn. Nước thêm nước vẫn là nước, muối thêm muối vẫn là muối. Chua ngọt cay nhạt mặn, năm vị điều hòa, cùng tồn tại hòa trộn tạo ra trăm ngàn vị khác. Vật đã thế, sự việc cũng thế, con người càng thế."). Và người ta lại bàn tán về bài luận của cậu học sinh đạt điểm tuyệt đối. Tôi không lạm bàn về đề thi này, song tôi ủng hộ cách ra đề mở kiều này. Cái gì hay và phù hợp thì nên nghiên cứu học tập. Tôi nghĩ, ngành giáo dục ở ta nên nghiêm túc nhìn lại mình. Có thể, kỳ thi mang tính phổ cập thì áp dụng đề mở các môn xã hội tự luận ở mức độ nào đó, nhưng các kỳ thi mang tính tuyển chọn thì nên áp dụng...
Thiết nghĩ, học sinh giỏi văn, và mở ra các môn xã hội khác, là để học kiến thức nền, còn muốn trở thành nhà nọ, nhà kia thì phải có năng khiếu, lòng đam mê và sự nỗ lực khác thường, mà những phẩm chất đó, không thể đào tạo, bồi dường mà nên.
Học giỏi văn, mà thiếu phẩm chất như vừa nêu, thì có mang danh xưng nhà nọ, nhà kia, vẫn chỉ là thứ "văn chương học trò" mà thôi!,,,
Có ai đò dọc cùng tôi ?...
Có ai đò dọc cùng tôi?...
Tôi viết bài tùy bút "Thương nhớ những chuyến phà", đăng trên trang blog cá nhân, nhà văn Trần Tâm ở Quảng Ninh đọc rồi buông một câu cảm thán "Cuộc đời con người ta, phà sang ngang thì nhiều, nhưng hỏi có mấy ai đi đò dọc!?...". Tôi bảo: "Đò dọc nhọc nhằn, gian nan lắm, liệu mấy ai dám?...". Biết là, vất vả, nhọc nhằn đấy, nhưng việc đến người thì người phải đi thôi...
Vậy có ai đò dọc với tôi không?...
Là đò dọc thật, chứ không phải biểu theo nghĩa bóng, đi đò dọc cuộc đời, tức là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau. Tôi có đò dọc cuộc đời của tôi, và bạn thì cũng vậy. Nên chăng, ta có thể cùng nhau làm một chuyến đò dọc kiểu du ngoạn, souvenir với nhau mà thôi... Khi chờ đợi ai đó cùng đò dọc, tôi sẽ kể đôi chuyến đò dọc mà tôi đã từng trong cuộc đời bươn chải đây đó của mình...
Tôi nhớ, ngày đi học, khi kể chuyện cuộc đời này nọ, bố tôi hay đọc câu ca "Thuận buồm xuôi gió thì chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh thì buồi anh dái chú". Thật tình, tôi không nỡ dùng từ tục, nhưng không giữ nguyên câu cửa miệng ấy thì chẳng thể lột tả được ngữ nghĩa, hàm ý của câu ca. Hàm ý, mượn chuyện đi đò dọc, để nhắc nhở, răn con người ta, chơi với nhau, kết chạ cùng làm việc, khi thuận buồm xuôi gió thì ra bề thân tình lắm, nhưng lúc lên thác xuống ghềnh, gian nan khó nhọc, người ta mới sinh mâu thuẫn, mới hiểu lòng người...
Hồi tôi đang làm việc ở Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, cách đây cũng đã hơn ba chục năm rồi, tôi hay phải đi công tác cơ sở. Từ thị trấn huyện lỵ, đến các xã xa nhất, giáp biên giới với tỉnh Cam-pốt của Campuchia, tôi thường chọn phương tiện tàu đò, ấy là đò dọc. Cỡ ba chục cây số, đò chạy tằng tằng len lách theo kênh dọc giữa đồng đất bạt ngàn tràm và năn nác. Mùa mước nổi mênh mông, chao ơi là sốt ruột. Khách đi tàu đò phần lớn là người buôn bán nhỏ, hàng hóa đủ loại, mùi cá mắm, hơi người nhức mũi. Nhưng khổ nhất là cái khoản tiểu tiện. Giữa đồng nước chẳng đâu là bến bờ, chẳng biết đi vào đâu, mà nhịn thì chết ngất...
Có một lần, tôi làm chuyến đò dọc thực đã đời. Khi ấy, cơ quan tôi mua mấy trăm con bò, do thương lái gom từ bên Campuchia. Tiền đầu tư từ ngân sách của huyện. Cậu giám đốc người địa phương, thuộc diện thoát nạn mù chữ, chỉ thạo mỗi chữ ký, nên tôi với tư cách là Phó giám đốc nông trường được giao chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục thanh toán tại hai đầu mua-bán, qua ngân hàng Tri Tôn (An Giang) và Hà Tiên (Kiên Giang). Từ thị trấn Tri Tôn đến Hà Tiên ước chừng 150 km theo đường thủy. Chúng tôi có ba người, thêm một nhân viên nam người địa phương, thông thạo đường xá và nữ kế toán trưởng thuê một tàu đò nhỏ trọn gói đi Hà Tiên. Theo kênh Tám Ngàn, tàu chạy miết ngang qua Hòn Đất, vùng đất mà nhà văn Anh Đức đã lầy chất liệu sống từ anh hùng Phan Thị Ràng để xây dựng nhân vật chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn Đất của mình. Tàu đò theo các con lạch xuyên giữa đồng tràm bạt ngàn. Đất vùng này nhiễm phèn nặng, chỉ thích hợp với tràm. Chẳng thế mà, trước đây, không hiểu sao ngành nông nghiệp lại quy hoạch triển khai hàng chục nông trường chuyên canh lúa. Cứ cuối mùa mưa, đầu mùa khô, lúa đang thì con gái thì sặc phèn chết úa gần hết, lúa thu hoạch được chỉ bằng một phần mười số thóc gióng sạ xuống. Chính cái nông trường chăn nuôi bò tôi đang làm việc, ngay trước đó cũng lâm vào tình trạng như vậy, Bộ chủ quản bỏ của chạy lấy người, trả lại đất đai và cơ sở cho địa phương quản lý, tìm hướng chuyển đổi cây con phù hợp với đất đai, thổ ngơi bản địa... Ờ thời điểm ấy, tôi đã nghe nói, người ta đổ lỗi cho những ai đó, trong đó, có một nhà báo, viết sách ca ngợi hết lời về đồng bằng sông Cửu Long là vụa lúa của đất nước, với cách ví von hình tượng là đất nước ta mang hình cái đòn gánh là dải đất miền Trung, gánh hai thúng thóc hai đầu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Hình tượng thì quả là đẹp và ý nghĩa, nhưng đồng bằng lưu vực sông Hồng, nhiều năm đã thực sự là vựa lúa của miền Bắc, chứ đồng bằng sông Cửu Long mắc dù rộng lớn hơn nhiều, song mới chỉ là tiềm năng. Và một người nữa, người làm công việc quy hoạch, hoặc đình chính sách của nhà nước, người biến ý tưởng và hình tượng ví von của nhà báo nọ, thành hiện thực. Thế là người ta rầm rộ cho thành lập hàng chục nông trường chuyên canh lúa ở vùng tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, và kết quả thất bại thảm hại, thóc lúa thu hoạch chỉ bằng một phần nhỏ của thóc giống sạ xuống, chưa kể bao nhiêu chi phí đầu tư khác. Sau nhiều thất bại cay đắng, rồi cũng đến ngày đồng đất miền Tây Nam bộ thành vựa lúa thật, khi người ta thay đổi tư duy, cơ cấu lại cây trồng thích hợp...
Tàu đò của chúng tôi chạy mải miết, vợ chồng chủ tàu, chồng cầm lái, vợ nấu cơm bằng bếp đun than củi ngay trên tàu, phục vụ bữa ăn cho mọi người. Về phía Hà Tiên, xa xa thấy cột ống khói của nhà máy xi măng vươn trên bầu trời, ngày ấy, chúng là biểu tượng của công nghiệp ở miền Tây. Trời ngả bóng chiều, tàu đò đến vungj biển Vĩnh Hồ, nơi hội tụ của nhiều dòng kênh, trong đó có kênh Vĩnh Tế. Vĩnh Hồ tấp nập tàu thuyền vào ra, ngang dọc trong bóng hoàng hôn, ngút xa là cửa biển, bên kia là trung tâm thị trấn, cảnh sắc thật nên thơ. Tôi đã từng đọc lịch sử hình thành vùng đất này, hiểu câu chuyện của cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, đã dày công mở đất từ thời chúa Nguyễn đàng trong. Biết lịch sử, yêu thích thơ văn của Tao đàn Chiêu Anh các với Hà Tiên thập vịnh...
Sau một ngày tàu thuyền vất vả, đêm ấy, giấc ngủ vẫn chập chờn, phần lạ nhà, phần việc chính chưa xong. Sáng trở ra, ăn sáng và nhấp chút cà phê rồi vội đến ngân hàng. Xong thủ tục, cũng chẳng thời gian đâu mà ngắm, lách ngang qua chợ đông đúc để trở về bến tàu đò, và lặng lẽ rời Hà Tiên. Thực lòng, tôi muốn thăm thú chút đỉnh, nhất là thăm chùa Hang,Thạch động, nhưng gấp việc, nên chẳng lòng dạ nào... Tàu lại cần mẫn, mải miết về lại Tri Tôn. Mấy bữa ăn cũng quấy quá cho xong. Mệt bã người, chui vào trong mui, nằm ngủ vùi, cho đến tận nửa đêm thì về đến nông trường...
Mãi sau này, khi làm báo, tôi mới trở lại vùng đất Hà Tiên, bấy giờ mới có điều kiện thăm thú đây đó trong Hà Tiên thập vịnh. Và phải sau nhiều năm nữa, mùa hè 2018, tôi lại về Hà Tiên. Đi bằng xe hơi, nhanh chóng nên thăm thú được nhiều. Vẫn những di tích, danh thắng xưa, song nay đổi khác nhiều. Để kinh doanh du lịch, người ta cho mở rộng, thiết kế này nọ, nguy nga, sáng láng lắm, nhưng thực lòng, tôi thích vẻ xưa hơn...
Chuyến đò dọc đi Hà Tiên năm 1985 ấy, dù sao vẫn khá êm ả bởi chúng tôi thuê bao cả chuyến. Sau này, đò dọc mà lại là đò chợ, phức tạp hơn nhiều. Tôi sẽ kể lại đây,...
Đã 27 năm qua rồi, vẫn nhớ chuyến đi ấy. Hè năm 1992, tôi tháp tùng nhà văn Đặng Quang Tình, khi đó là Trưởng ban Thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), từ Hà Nội vào Nam thực hiện một công việc quan trọng, điều tra thính giả nghe đài. Xong công việc ở Nha Trang (Phú Khánh) và tại thành phố Hồ Chí Minh, thày trò chúng tôi đi Miền Tây. Cơ quan thường trú của Đài tại phía Nam điều hẳn một xe phục vụ. Ở Cần Thơ, bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang khi ấy là ông Nguyễn Hà Phan rất nhiệt tình với việc điều tra thính giả nghe đài trên địa bàn, khi chúng tôi đặt vấn đề trước. Song mọi việc ở đây, tạm chờ, ưu tiên cho chuyến xuống Minh Hải (gồm Bạc Liêu và Cà Mau). Tỉnh lỵ tại thị xã Bạc Liêu thì tôi khá thạo, bởi thời gian còn công tác ở An Giang, tôi đã vài lần sang đây, thăm các bạn cùng lớp Đại học Nông nghiệp I về công tác ở tỉnh này. Nhà văn Đặng Quang Tình bảo, phải điều tra ở Cà Mau mới đích đáng. Vậy lại Cà Mau thẳng tiến. Đích xa nhất là Rạch Gốc.
Trước đây, Rạch Gốc thuộc huyện Năm Căn, phiên chế về huyện Ngọc Hiển. Khó khăn nhất là muốn đi đến đây, chỉ duy nhất phương tiện thủy, tàu đò. Thế là, cả xe và anh tài đành để lại thị xac Cà Mau. Thày trò tôi mua vé tàu đò đi Ngọc Hiển. Tàu đò lớn, khách đi đông, phần lớn cũng là người buôn bán vặt từ miệt biển lên thị xã mua hàng về bán, nên tàu đò đấy ắp hàng hóa. Kênh lớn, tàu bè qua lại tấp nập, sóng nước đánh ì oạp, nhất là khi có những chiếc ghe bè, ngất ngưởng hàng hóa, chạy qua khiến nhiều xuồng nhỏ của dân bị sóng đầy dạt, hoặc nước bắn tung tóe. Khách thương lái ăn uống, trò chuyện rôm rả, tôi nghe loáng thoáng câu được câu chăng, còn nhà văn Đặng Quang Tình không nghe quen, thỉnh thoảng lại hỏi lại tôi xem họ nói gì. Ngày ấy, tình trạng ngăn sông cấm chợ khá phổ biến ở Miền Nam, và ở đây cũng vậy. Tàu đò chạy dăm cây số lại bắt gặp một trạm kiểm soát của một xã nào đó lập ra, để kiểm tra bắt hàng buôn lậu, ngày ấy, phổ biến là thuốc lá ngoại nhập lậu như Zet, Capstan, More, Dullhin... Tàu chạy ngang trạm, không thấy phất cờ thì cư vô tư chạy, còn thấy phất cờ thì dừng tàu, cặp bờ để nhân viên trạm xuống tàu khám xét hàng, kiểm tra, nếu thấy hàng lậu là phạt, hoặc tích thu. Qua một trạm, có phất cờ, thay vì phải giảm tốc độ cặp bờ, thì người lái tàu đò phớt lờ, tăng tốc cứ giữa dòng mà chạy. Mấy nhân viên trạm tuýt còi, hô hoán bắt dừng nhưng không được, tức giận ôm súng CKC đuổi dọc bờ, và bất ngờ, nổ mấy phát súng. Chắc là chỉ bắn chỉ thiên để dọa, nhưng khách tàu đò nhốn nháo, hét lên vì sợ. Thày trò chúng tôi cũng sợ, phải thụp người nép sát lòng tàu, tránh đạn. Ngộ nhỡ thì khốn... Chủ tàu vẫn cố chạy không dừng, nên nhân viên trạm cũng đành bỏ cuộc. Thày trò chúng tôi bảo nhau, chắc chuyến này, khách buôn có nhiều hàng lậu nên quyết chạy... Rồi tàu đến bến cuối. Chúng tôi xuống bến, hỏi thăm, biết được, muốn đến Rạch Gốc, Tân An lại phải đi tiếp tàu đò. Thế là hai thày trò, tìm thuê một chiếc vỏ lãi để đi Rạch Gốc. Vùng này, sông nước, đầm phá mênh mông, chiếc vỏ lãi tắt ngang một góc đầm phá khá rộng, trời nổi cơn giông, rồi mưa ràn rạt. Ngồi trên võ lãi mỏng manh, giữa trời nước trong tiết mưa giống như thế, thày trò nhìn nhau, không khỏi lo lắng. Thấy vậy, người chủ đò bảo yên tâm đi, nước trông mênh mông vậy nhưng không sâu, khỏi phải lo lắng. Rồi võ lãi rẽ vào lạch nhỏ, đôi bờ đã loáng thoáng nhà dân, đã có gì đó ấm áp, đỡ hoang vắng. Rồi khu dân cư đông đúc Rạch Gốc đã hiện ra.
Cặp bờ, lên tìm gặp cán bộ khóm ấp, trình giấy tờ và đặt vấn đề công việc. Mọi người nhiệt tình lắm. Nước nôi qua loa và bắt tay vào công việc. Họ cử một người giúp việc cho thày trò, đưa chúng tôi đến từng hộ gia đình, phát phiếu, hướng dẫn cách ghi phiếu. Ngày ấy, dân cư tiếng là đông nhưng cũng chẳng mấy, phần lớn ở cặp đôi bờ kênh và khu vực chợ. Đôi bờ kênh qua nhau vẫn phải dùng xuồng ba lá, hình như có vài cây cầu khỉ ở những lạch ngang, chứ kênh chính, thuyền bè lớn qua lại để thông ra biển nên không có cầu vì sợ vướng. Thày trò chúng tôi làm một mạch, quên cả đói, miễn sao xong việc. Đến nhà nào, thấy chủ nhà có radio là mừng lắm. Nhưng người dân ở đây, chủ yếu là nghe tin tức và ca nhạc, dân ca, nhất là cải lương, vọng cổ. Gần như họ nghe không sót chương trình cải lương nào của nhà đài. Xẩm tối thì xong việc, nhưng quá muộn để trở về. Họ mời chúng tôi nghỉ qua đêm. Trong ngôi nhà cộng đồng gỗ lá, bữa cơm tôi được bày ra. Đồ nhậu có xoài xanh, khô cá đuối, lẩu cá lóc. Thày trò tôi cùng dăm cán bộ ấp và cán bộ văn hóa xã, cụng ly. Vài ba ly, chuyện trò rôm rả hơn. Lúc này, chúng tôi mới có dịp để hỏi thêm về địa lý, thổ ngơi, lịch sử vùng đất.
Câu chuyện chủ yếu xoay quanh ngọn hải đăng trên đảo Hòn Khoai và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai do Phan Ngọc Hiển lãnh đạo. Từ biển Rạch Gốc ra Hòn Khoai không xa, chừng hơn chục cây số, ở đấy có ngọn hải đăng được người Pháp xây dựng vào những năm đầu thế kỷ 20. Chắp nối từ câu chuyện kể của mọi người, biết ở đào này, còn có nhà tù để thực dân Pháp giam giữ tù nhân, trong đó những người theo tư tưởng cách mạng, chống Pháp. Đấy cũng là mầm mống để cuối năm 1940, nhà giáo, nhà báo Phan Ngọc Hiển đã lãnh đạo các tù nhân nổi dậy, đánh chiếm và giết tên chúa đảo. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một bộ phận của Nam Kỳ khởi nghĩa. Tuy rằng, sau đó, cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp, Phan Ngọc Hiển và những người tham gia khởi nghĩa bị Pháp bắt và xử tử, song ý nghĩa của nó lại lớn lao. Tinh thần vì cách mạng hy sinh của nhà giáo-nhà báo-nhà văn Phan Ngọc Hiển đã được ghi nhận, để sau này, người ta lấy tên ông đặt cho tên đất ở vùng cực nam tổ quốc này...
Đêm ấy, thày trò tôi đều khó ngủ, chuyện trò về nghề báo, nghề văn, về các vùng đất đã qua, quá nửa đêm về sáng mới chợp mắt. Sáng ra, chia tay ra về, các cán bộ ở đây cứ tiếc, bảo nếu ở lại vài ngày, có thể thuyền ra Hòn Khoai thăm thú cho biết. Biết là thế, nhưng kế hoạch công việc ở Cần Thơ đang chờ mà lịch trình đi có hạn định. Hứa đại, khi nào trở lại sẽ ra Hòn Khoai. Lúc về, tôi mới có tâm trí quan sát kỹ cảnh sắc hai bên bờ kênh, vì biết rằng sẽ khó có thời gian trở lại đây. Thấy thấp thoáng xa xa hai bên bở là những vuông tôm. Ngày ấy, người dân mới khởi xướng việc nuôi tôm nước lợ vùng đồng ruộng, đàm phá ven biển. Đi sao về vậy, vẫn đò dọc như thế, nhưng suôn sẻ, bình yên.
Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua. Quả là không dễ trở lại. Nghe các bạn tôi ở Bạc Liêu, Cà Mau bảo là, Rạch Gốc bây giờ sầm uất lắm, đã được tách ra khỏi xã Tân An để trở thành thị trấn riêng, còn đảo Hòn Khoai đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn.
Vậy có ai đò dọc với tôi không? Ta cùng trở lại Rạch Gốc.
Nhưng nghe nói, đường xá bây giờ đã đấu nối, có thể xe hơi bon bọn đến tận nơi, chứ không cảnh đò giang cách trở, đò dọc bồng bềnh như xưa nữa...
Mưa dầm tháng hai
Tháng Hai âm lịch.
Chưa đến rằm nhưng đã có nhiều ngày mưa, đúng tiết mưa dầm xứ Bắc. Chẳng nhớ hôm mồng Một có mưa không? Nhớ lời mẹ tôi dạy từ ngày còn nhỏ, hễ mồng Một, ngày đầu tháng âm lịch nào mà có mưa là cả tháng ấy mưa nhiều...
Mưa phùn, mưa bụi, mưa xuân, ấy là một. Kiểu mưa này chỉ có ở Bắc bộ và bắc miền Trung. Sở dĩ có nhiều cách gọi là do thói quen của từng vùng, miền và từng người mà thôi. Gọi mưa phùn, là người ta hình dung, mưa như cỗ máy thiên nhiên phun mạnh vào không gian thành những hạt nước nhỏ xíu; còn gọi mưa bụi hay mưa phấn, ấy là hạt mưa li ti như khói, như bụi, giăng mờ mịt bầu không; còn gọi mưa xuân là bởi kiểu mưa này chỉ có vào tiết xuân. Thường là vào cuối tháng Giêng, kéo sang hết tháng Hai, mùa xuân, xen kẽ giữa những đợt không khí lạnh khô hanh từ phương Bắc tràn xuống, và những ngày oi nóng như mùa hè, là những ngày có không khí lạnh yếu đi lệch Đông ra phía biển, gặp khí nóng phương Nam chặn lại, đưa hơi nước từ biển bốc lên, gặp không khí lạnh từ Bắc vào, tạo thành những đám mây mưa, song chỉ đủ sức làm thành kiểu mưa phùn, mưa bụi cho đất liền mà thôi. Với tình chất vậy, tạo nên tiết nồm ẩm, nóng lạnh thất thường, rất khó chịu, khó lường cho con người, vạn vật...
Tùy mỗi năm, sụ chệnh lệch giữa cách tính theo dương lịch và âm lịch sự chênh nhau về thời gian độ vài ba tuần, thậm chí bốn năm tuần. Thời vụ, tiết trời được người xưa ấn định cho vạn vật, được tả trong ca dao, tục ngữ thì tính theo âm lịch. Ví như, tiết Giêng Hai âm lịch chẳng hạn, theo dương lịch thì là cả khoảng thời gian các tháng hai, ba, tư của năm dương lịch rồi. Lại ví như, câu ca dao "Tháng Giêng là tháng trồng khoai, tháng Hai trồng đậu, tháng Ba trồng cà, tháng Tư cày vỡ ruộng ra,,." cho thấy nông lịch của người xưa. Dĩ nhiên, cái nông lịch này là theo tập quán canh tác xưa cũ, của nền văn minh lúa nước của vùng Bắc bộ, canh tác năm chỉ một đến hai vụ lúa nước, xen kẽ là hoa màu, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên... Ngày nay, nông lịch này không còn phù hợp nữa, bởi sự can thiệp của con người bằng khoa học kỹ thuật trong tạo giống cây trồng phản ứng ánh sáng trung tính, trong chế độ tưới nước, điều chỉnh nhiệt độ, nên thời vụ của từng loại cây trồng cũng khác đi... Còn cây cối thiên thiên thì chịu tác động của biến đổi khí hậu nên việc ra hoa, kết trái, đổi màu, trút lá cũng ít nhiều thay đổi...
Tiết mưa phùn tháng Hai cũng đa dạng lắm. Nếu như không khí lạnh yếu, thường chỉ trời mưa bụi vào lúc chiều tối, qua đêm đến sáng ngày sau, ban trưa thì trời hửng. Nếu không khí lạnh mạnh hơn, có thể trời lắc cắc mưa thành hạt rồi kéo dài vài ba ngày thành mưa dầm. Thường gió mùa về lúc nửa đêm về sáng. Đêm trước đi ngủ, trời còn chưa mưa, nhưng rồi, trong giấc ngủ mơ màng ta nghe lơ mơ đâu đó tiếng động nhẹ, mau thưa, rồi lắc cắc, lộp độp, tiếng mưa gõ vào mái hiên, lá cây ngoài ban công, rồi rỏ giọt... Sáng ra, sân đã ướt đầm... Mưa lây nhây, trời có lúc tạnh, rồi lại mưa, cứ thế vài ba ngày liền. Ẩm ướt, lép nhép...
Trong tiết mưa dầm tháng Hai, cũng đã là tháng ba dương lịch rồi, khi hoa bưởi hoa chanh đã vãn, hoa xoan rộ lên rồi nhanh chóng qua đi. Ấy là lúc hoa gạo bung trời, đỏ lựng, đỏ ối tùy thời tiết hay cảm giác của người ta. Lúc đầu. lác đác hoa, gợi con người ta về một sự khởi phát, rồi cả cây bừng nở, thì cho người ta sự viên mãn, và khi hoa gạo vãn dần, lại cho ta cảm giác buồn buồn của sự rụng rơi, hoài niệm, luyến tiếc. Các cây gạo nở hoa cũng trước sau khác nhau tuy theo đọ tuổi của cây. Thường là, những cây gạo còn non, hoa hay trổ sớm, cái kiểu háo hức của tuổi trẻ, và hoa cũng không bền, nhanh chóng rụng hết. Cây già hơn, hoặc cổ thụ, thường điềm tĩnh, hoa nở chậm, cũng lớp lang, cành già cành non, cành bổng, cành la, hoa trước hoa sau, nên mùa hoa kéo dài cả tháng trời và lúc nào cũng cho ta thấy vẻ đẹp của nó. Hoa gạo có phẩm chất và vẻ đẹp ấn tượng trong mọi kiểu thời tiết... Này nhé, trời hửng nắng, hoa gạo tươi rạng cả khung trời nơi nó đứng, cho người ta cảm hứng sáng tạo. Trời sương mờ, nhiều thứ cỏ cây bị sương che phủ, riêng bông hoa gạo, to tướng và đỏ lựng điểm xuyết trong màn sương làm cho quang cảnh hư ảo, mộng mĩ, mê hoặc cõi trần. Còn như trời mưa gió, hoa gạo ở trên cành thì tươi rói, khi rụng xuống, không mỏng manh tan tác như cánh phượng, mà ngổn ngang, bề bộn và có gì đó quằn quại như những nỗi đau đời, nỗi niềm thương cảm chưa tan...
Cứ thế, suốt hàng tháng trời, từ độ trung tuần tháng hai, đến tận gần cuối tháng ba âm lịch, hoa gạo đó đây, khi lác đác, lúc đỏ tung trời xứ Bắc bộ. Và để rồi khi mùa hè đến, quả gạo lại một lần nữa tung trời những sợi tơ trắng. Ngày xua, những nhà nghèo, người ta đi nhặt, lượm những sợi tơ gạo ấy về nhồi làm áo, gối và chăn ấm cho mùa đông đấy. Chẳng thế mà, đã có ý kiến đề xuất lấy Hoa Gạo làm quốc hoa.
Với riêng tôi, một lần đi thăm chùa Keo ở Vũ Thư, Thái Bình, nhằm đúng vào mùa hoa gạo. Từ trên đê cao, nhìn xuống cổng chùa Keo, mấy vầng hoa gạo đỏ ối phủ kín cả tam quan chùa. Những cội gạo già mốc thân, thi thoảng buông vai ba bông gạo xuống lộp bộp khiến người ta giật mình thảng thốt. Nhìn lên, bất ngờ một bông gạo rơi, xoay tròn như chiếc ô trên cao xuống, có cảm giác như vòng luân hồi trần gian. có một bà cụ già, lưng còng gập xuống, lẩn thẩn tìm trong đám hoa gạo thảm đỏ khoảng trống trước cửa chùa, nhặt lấy vài bông hoa gạo cầm về, chẳng hiểu để làm gì. Hình ảnh ấy cứ ám ảnh trong tôi mỗi mùa hoa gạo...
Sáng nay, trước răm tháng Hai, trời mưa bụi giăng mờ mịt phố phường Hà Nội. Mưa dầm đã mấy ngày nay rồi. Tiết trời này thật điển hình của mùa xuân Bắc bộ. Người đi đường áo mưa cũng được, mà không áo mưa cũng chẳng ướt. Lại rẩm riu nhớ câu thơ của Trần Đăng Khoa "Mưa bay như khói qua chiều/ Vòm cây như rỏ giọt đều qua đêm.../ Sáng ra mở cửa nhìn ra/ Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô"...
Và thế, tiết mưa dầm tháng hai ẩm ướt sẽ dần qua,...
Mùa xuân rồi cũng cạn ngày,...
Thương nhớ những chuyến phà.
Trong cuộc đời làm việc của mình, nhất là từ khi vào nghề làm báo chuyên nghiệp, những chuyến công tác đó đây, gần xa, tôi đã từng qua biết bao chuyến phà... Từ chuyến đò ngang sông quê đầu đời ngày nhỏ đi học, cho đến ngưỡng tuổi già, để xuôi chuyến đò dọc cuộc đời dần về cuối bến, làm sao nhớ nổi những lần đò phà ngang bến bãi cơ chứ?,,,
Có lẽ, ở xứ sở Việt mình, với mỗi người, tiếng hát ru của mẹ thời thơ ấu và tiếng gọi đò khi lớn khôn là gợi nhớ nhất, nó đi theo ta suốt cả cuộc đời!?...
"Đò ơi... đò ơ ơ ơ...i...", tiếng gọi đò lúc chiều buông bến vắng, của những ai từng lỡ đò, chờ đò mãi chẳng được, thả một nỗi buồn len vào lòng lữ khách và mãi không tan...
Ở xứ sở mình, nắng lắm mưa nhiều, sông ngòi giăng mắc như mạng nhện, ai đâu biết có bao nhiêu bến đò, phà?... Sông ngăn cách trở, vô tình cho những con đò, chiếc phà sứ mệnh nối liền hai bờ thương nhớ của mỗi đời người...
Đã bao lần qua đò, qua phà, chẳng thể nhớ số chuyến, nhưng vẫn có những lần đò phà để nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ này nó không cồn lên như nỗi nhớ tình yêu đầu đời đánh mất, cũng chẳng khứa vào lòng như những trắc trở đường đời, mà nó chỉ man mác như có như không, chợt thấy chợt tan, mỗi khi ta ngang qua một dòng sông nào đó...
Chuyến phà đầu tiên tôi mà tôi nhớ lại rất bình yên, Ấy là khi tôi đang học đại học. Cậu bạn cùng lớp Hoàng Gia Trình, rủ về thăm nhà bạn ở mãi tận Hưng Hà, Thái Bình. Tôi lai Gia Trình trên chiếc xe đạp Phượng Hoàng từ nhà tôi, gần Phố Nối, theo đường 39 đến thị xã Hưng Yên, rồi rẽ theo đường đê vài cây số đến bến phà Triều Dương thuộc địa phận Tiên Lữ. Dòng sông Luộc nước hiền hòa, đôi bờ xanh rờn ngô lúa. Ngoài con sông Hồng, sông Đuống, sông Thái Bình, thì đây là lần đầu tiên tôi biết sông Luộc. Anh bạn Gia Trình chỉ tay sang bờ bên kia bảo, qua phà đi thêm chục cây số nữa mới đến, ở phía ấy còn có sông khác là Trà Lý. Tôi nghe tên sông này hay hơn tên sông Luộc nên thích ngay. Không ngờ, sông Luộc còn có tên chữ là Phú Nông. Ngày xưa qua sông này về quê vợ Thái Bình, thi hào Nguyễn Du đã cảm tác thành thơ (Độ Phú Nông giang cảm tác). Xưa kia, Nguyễn Du gắn bó với vùng đất sông Luộc này. Ngay từ khi còn nhỏ, lúc gia đình ở Thăng Long bị loạn lạc, Nguyễn Du đã được Đoàn Nguyên Tuấn, bạn thân của Nguyễn Nghiễm (anh ruột Nguyễn Du) đưa về nhà mình ở Quỳnh Côi (Thái Bình) nuôi ăn học như người thân. Không những thế, sau Nguyễn Du lấy vợ là em gái Đoàn Nguyễn Tuấn, trở thành con rể của Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục. Thái Bình trở thành quê vợ và nơi trú ngụ của Nguyễn Du, bởi sau này, dưới triều Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan, nhưng Nguyễn Du vẫn giữ quan điểm trung với vua Lê chúa Trịnh, không muốn làm quan với nhà Tây Sơn, cũng lánh về đây ở ẩn một thời gian. Khi làm quan với triều Nguyễn, Nguyễn Du từng được bổ làm Tri huyện Phù Dung (thuộc Phù Cừ, Hưng Yên) liền kề vùng đất này. Vậy ra, một phần ba cuộc đời ông sống ở vùng sông Luộc này, bao nhiêu lần đò giang qua sông, nên có thơ cảm tác là phải thôi. Thời ấy, đôi bờ sông Luộc hẳn xanh tươi lắm, nên Nguyễn Du đã tả trong thơ mình "Du nhân vô hạn cảm/ Phương thảo biến thiên nhai" ( nghĩa là: Người lãng du dạ đầy thương cảm. Cỏ thơm rợn đến chân trời ).
Trở lại chuyến đi ấy, Gia Trình qua lại đây nhiều nên khi yên vị trên phà, kể cho tôi nghe sơ lược lịch sử vùng đất quê mình, trấn Sơn Nam Hạ, xưa cũng là nơi phát nghiệp đế vương của nhà Trần (Hải Ấp, Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình)... Chuyến đi ấy để lại cho tôi ấn tượng tốt về một vùng quê thuần nông thanh bình, yên ả. Để sau đó, trước khi cùng Gia Trình vào Nam nhận công tác, tôi về lại đây, một mình trên con ngựa sắt Phượng Hoàng, lốp nứt phòi cả săm, phải quấn tạm bằng dây chun, tôi phải vất vả vác xuống phà...
Cùng với Gia Trình, chúng tôi vào Nam nhận công tác trên chuyến tàu hỏa bão táp vào đầu thu năm 1981, dọc đường phải nhiều lần tăng-bo, ngủ vạ vật ở nhà ga vì mưa bão miền Trung gây sạt lở chắn đường ở đèo Cù Mông, đèo Cả. Chia tay nhau ở Bến xe miền Tây, Sài Gòn, Gia Trình lên xe đi Bạc Liêu (Minh Hải), còn tôi về Long Xuyên (An Giang). Lần đầu chạm mặt đồng bằng sông Cửu Long bạt ngàn cò bay thẳng cánh, thấy Cửu Long giang sóng nước ra sao. Cho đến tận giờ, mỗi nhớ lại, tai tôi vẫn âm vang tiếng rao của những người bán hàng rong, đặc biệt là nem Lai Vung ở bến Bắc Mỹ Thuận qua sông Tiền. Tiếng rao cất lên đều đều, buồn buồn, gợi nỗi nhớ nhà da diết, dù mới đi xa nhà có một tuần. Người Nam gọi phà là bắc, lúc ấy tôi chưa hiểu, nên cứ nghĩ là bến phà Mỹ Thuận này ở phía Bắc, vậy còn bến phà nữa ở phía Nam. Nhưng rồi, xe đi trên đất huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đến bến phà nữa, là Bắc Vàm Cống, qua sông Hậu, bờ bên đã là đất Long Xuyên (An Giang) rồi. Tôi thắc mắc mà không dám hỏi ai, phần vì ngại, phần "sợ quê", để dần dà tìm hiểu sau. Miền Tây Nam bộ đang mùa lũ, năm ấy lũ lớn, đồng ruộng trắng băng, phân biệt ruộng với sông nhờ những hàng dừa nước xanh chớp chới. Con phà đầy nhóc ô tô, xe máy và người, lừng lững như dãy nhà hai tầng chênh chếch nương theo con nước mà sang bờ bên. Buồn vui chộn rộn, lạ lẫm xen chút lo lằng, không biết mình sẽ nhiệm sở ra sao. Đầu lởn vởn câu thơ Huy Cận "Lòng quê rờn rợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Khi về Bảy Núi, Tri Tôn công tác và ở đấy gần bảy năm trời, tôi bao lần qua lại mấy bến phà này (Vàm Cống, Cần Thơ, Mỹ Thuận) mỗi lần lên Sài Gòn,đi phép ra Bắc. Rồi đó, những chuyến đò dọc, chẳng khác chi dân thương hồ miền Tây, đi công việc tại những điểm xa như Ba Chúc, Lạc Quới, Vĩnh Gia, hay sang tận Hòn Đất, Hà Tiên...
Sau này, anh bạn Gia Trình rời Bạc Liêu, về nông trường Đông Anh, Hà Nội làm việc, tôi cất công đến thăm bạn, lần mò hỏi đường, người ta bảo đừng theo đường vòng Cầu Đuống mà đi tắt qua bến phà Đông Trù, gần ngã ba Dâu, nơi sông Đuống lấy nước từ sông Cái. Sông không rộng nhưng nước xiết, nên cảm giác sờ sợ. Qua phà, đạp xe theo đường đê, ngang đất Mai Lâm, lại nhớ đến chuyện bố tôi hay kể rằng ngày xưa hay vỡ đê sông Cái hoặc sông Đuống, đâu quãng ấy, nên đời sống người dân trong vùng cơ cực lắm. Năm nào mùa mưa lũ, cũng lo ngay ngáy, sợ vỡ đê, chẳng chết trôi thì cũng chết đói. Chẳng thế mà, cụ Ngô Tất Tố, người quê đây, chẳng cần đi đâu xa, cứ chất liệu thực tế ở vùng quê mình mà viết nên các tác phẩm kinh điển của văn chương xứ Việt là Việc làng, Tắt đèn, Lều chõng... Nhờ thế, khi làm báo chuyên nghiệp, tôi đã trở lại vùng quê này, để thực hiện một chương trình phát thanh đặc biệt trong dịp Lễ Quốc khánh.
Trong cuộc đời làm báo chuyên nghiệp, công tác liên miên, sông ngòi, đò phà là chuyện cơm bữa. Hầu như các phà lớn, tôi đều qua hết, như phà Tân Đệ, Đò Quan, Ninh Cơ (Nam Định), phà Bính, phà Gót, phà Đình Vũ (Hải Phòng), phà Bãi Cháy (Quảng Ninh), phà Đà Bắc (Hòa Bình), phà Bến Thủy (Nghệ An), phà Sông Gianh, bến đò Son (Quảng Bình), bến đò Vàng (Bắc Ninh), bến đò Ninh Xá (Hải Dương)...
Phà Bãi Cháy, ngày trước cắt ngang vịnh biển, rộng và luôn đông khách, mỗi lần qua chờ cả tiếng đồng hồ là chuyện thường. Những ngày mưa giông, thời tiết xấu, phải qua phà thật ái ngại. Tôi đã gặp những lần như thế, lần qua Hòn Gai công tác, nhân tiện ghé thăm gia đình nhà thơ Trần Nhuận Minh, và một lần khác, đúng khi có bão rớt, tìm gặp nhà văn Dương Hướng và nhà thơ Trần Ngọc Tảo, nhờ chỉ dẫn để xuống Cẩm Phả, tầm bằng được nhà văn Võ Huy Tâm, thực hiện cuộc phỏng vấn ông về tác phẩmVùng Mỏ. Ngồi trên phà mà cứ nơm nớp lo lắng, ngộ nhỡ... May là không có chuyện gì bất trắc.
Giờ thì những nơi ấy phần lớn có cầu cả rồi. Nhiều cây cầu mang tầm vóc thể kỷ, như cầu Bãi Cháy, cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, và mới đây nhất là Vàm Cống cũng đã thông xe, bỏ lại đó bến Bắc Vàm Cống, nơi ghi dấu ấn đầu tiên cuộc đời công chức của tôi. Năm 2017, trước khi nghỉ hưu, tôi có dịp đi lại tuyến đường Lấp Vò (Đồng Tháp) qua Bắc Vàm Cống sang Long Xuyên, để đi tiếp Tri Tôn, nơi 37 năm trước, tôi qua đây đi nhiệm sở, bắt đầu cuộc đời công chức của mình. Con phà hai tầng rẽ nước sang bên, nhìn cây cầu xây dở vắt ngang sông mà lòng nao nao, nhớ lại ngày xưa ấy, nhìn những cụm lục bình, nhưng cành mục trôi dạt trên sóng nước, tự nhiên thương cảm cả con phà lẫn những thợ thuyền vận hành, rồi sẽ ra sao khi thông cầu. Giờ thì tất cả đã đi bến bờ khác cả rồi... Một con đò nhỏ chở tuổi thơ ta qua sông quê, hay con phà khủng thì cũng như nhau cả thôi, đều có thân phận, đều trôi chảy cùng dòng sông và dòng đời!...
Có một bến đò mà tôi chưa nhắc đến. Đấy là bến đò Hàn qua sông Thái Bình, từ thị xã Hải Dương sang đất Nam Sách. Bến đò này một thời như bến đò tình yêu của tôi. Ngày đó, tôi và người bạn gái ấy, hay cùng nhau qua đò Hàn sang Nam Sách thăm nhà Trịnh Bá Ninh và Trần Đăng Khoa, là những bạn chung của hai tôi. Mối tình đầu vụng dại, chỉ biết yêu hết lòng, còn chẳng biết đoán ý của người bạn gái nữa. Đò giang, sóng nước, mây trời, và cả thơ phú, đều bồng bềnh, choi vơi, nương theo tâm trạng buồn vui của lòng mình và gương mặt tươi tắn hay đượm buồn của người ấy... Và hình như, ở vào tuổi mới lớn, trong tình yêu, con gái thường là người dẫn dắt thì phải? Tôi như con đò để người ấy cầm lái, chèo đi đâu cũng được... Mối tình đầu đánh mất, cầu qua sông cũng đã bắc đâu đó, người xưa đi lấy chồng, mình cũng đã yêu người khác, rồi lập gia đình. Nghe đâu bến đò ấy vẫn còn, vì cuộc đời luôn có người lỡ dở cần qua sông...
Tôi và người bạn ấy, sau gặp lại nhau, trêu đùa như chưa từng có chuyện gì, cũng chẳng còn nỗi đau khứa lòng nào... Nhưng bóng dáng con đò và tiếng gọi đò ơi lan trên sống nước một thuở thì vẫn như đâu đó!... Cuộc sông không thể dừng lại, những cây cầu hiện đại thay thế cho đò phà là lẽ đương nhiên, không thể à ơ thương nhớ mãi được. Cũng biết vậy, nhưng con người ta, chẳng thể cứ bảo không là thôi ngay được, khi mà nỗi nhớ thương những bến bờ và những chuyến đò phà một thuở, không phài là tội lỗi gì!,,,
Chuyện tình của người đánh gộc tre.
Tôi xin kể lại một chuyện tình.
Ấy là câu chuyện tình của người đánh gộc tre, mà tôi nghe được.
Ngày ấy, tôi mới ngoài hai mươi tuổi. Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ đã kết thúc được dăm năm. Cũng vì vậy, tôi không phải nhập ngũ mà được đi học đại học.
Tôi tốt nghiệp đại học. Nhận giấy gọi công tác vào một tỉnh biên giới mãi tận cùng phía Nam. Đất nước mới giải phóng, mình lại vừa tốt nghiệp đại học, háo hức đi xa, nhất là được cống hiến xây dựng phát triển vùng đất mới mà trước đó còn bị chia cắt. Thế nhưng, tôi không yên lòng, bởi ở nhà, còn mỗi mình mẹ tôi, khi đó đã bắt đầu bước vào tuổi già. Thêm nữa, ngôi nhà gianh vách đất năm gian đã cũ nát, bắt đầu bị mọt, cần phải sửa chữa. Mẹ con tôi bàn nhau, trước khi tôi nhận công tác vào Nam, ở nhà tranh thủ làm mấy việc lớn. Nhờ bà con hàng xóm hạ ít xoan to trong vườn, chặt hết mấy bụi tre, đem ngâm nhờ ao làng, chờ vài năm nữa có tre gỗ sửa nhà. Xong việc, còn đám gốc tre phải được đào đánh bỏ đi hết để gây bụi mới. Phiền nỗi, cả làng, chẳng có ai theo nghề đánh gộc tre cả. Tôi dò hỏi mãi thì có người mách bảo là xã bên có lão Khoái là người chuyên nghề đánh gộc tre, nhưng lâu rồi không thấy lão ấy lang vãng nên chẳng biết có còn theo nghề hay đã bỏ, hoặc giả ốm đau bệnh tật gì chăng. Thây kệ, tôi lóc cóc đạp xe sang xã bên hỏi tìm đến tận nhà. Tiếp tôi, là anh Khoan, con trai lão Khoái. Chén nước, câu chuyện, tôi mới biết lão Khoái đã không còn trên cõi trần nữa. Anh Khoan bảo:
- Tôi không định theo nghề của ông cụ nhà tôi. Tuy cũng có biết chút nghề này. Nó lao lực, cơ cực lắm, chẳng ai muốn làm. Nhưng mà tôi nghĩ, thì cũng phải có ai làm chứ, với lại, tôi mới xuất ngũ, chưa có nghề gì làm thêm, tuy bị thương nhẹ, không mấy ảnh hưởng đến sực khỏe. Sức dài vai rộng, chẳng nhẽ ăn không ngồi dồi. Sẵn còn đồ nghề của ông cụ nên hàng xóm láng giềng ai biết nhờ thì làm giúp thôi.
- Vâng, mong anh cứ coi tôi như hàng xóm láng giềng mà giúp cho. Nhà tôi xin chu toàn, công xá đầy đủ ạ.
Anh Khoan có chút lưỡng lự nhưng thấy tôi khẩn khoản thì đồng ý. Hôm sau anh mang đồ nghề, đạp xe tìm đến nhà tôi, bắt đầu công việc.
Lũy tre to, khá lâu năm, nên một mình anh Khoái đánh gốc, cật lực cũng phải cả tuần. Theo đúng lệ, dù là khoán gọn trả công hay tính công nhật, thì gia chủ cũng phải lo bữa cơm trưa cho người làm công. Thêm nữa, hàng ngày nước nôi, ngô khoai gì tùy ý gia chủ. Lúc xong công việc, tính toán công xá, và mời người làm công bữa ăn tươi có đồ nhắm. Xưa nay vẫn vậy. Anh Khoan được cái dễ tính, ủ tích trả, thêm nước uống cả ngày, không nghiện ngập gì. Tôi ngoài những lúc giúp mẹ việc vặt, còn đâu, ngồi hẫu xem anh Khoan làm việc. chuyện trò làm vui, mang tính động viên. Mấy ngày đầu, anh Khoan còn giữ ý ít nói, vài hôm quen việc quen người thì hay chuyện hơn. Chuyện nọ dọ chuyện kia, rồi đến chuyện tiếu lâm cho vui mà quên nhọc. Tôi và anh thi nhau kể, lượm lặt chuyện hàng xóm, thiên hạ ra để kể, cái thật cái hư, miễn có cái mà cười vui...
Đây là một câu chuyện anh Khoan kể cho tôi nghe...
Chuyện rằng, có một anh chàng chuyên nghề làm thuê nặng nhọc, từ việc thổ mộc đào ao, đào giếng, vật đất, đắp tường, đến đánh gộc tre... Anh ta đi các làng, cất tiếng rao, hễ nhà nào gọi vào làm thì có việc và thu nhập. Một hôm, có người thuê anh ta đánh gộc tre. Chủ nhà là một người đàn bà nạ dòng, cỡ bốn chục tuổi, góa chồng. Công xá khoán gọn, trả bằng thóc. Đánh hết đám gốc tre, anh ta được nhận tiền công là ba thúng thóc. Đôi bên thỏa thuận vậy, nên cứ thế mà làm...
Dĩ nhiên, ngày ngày, bà chủ nhà phải lo nước uống, và phục vụ bữa trưa, bày mâm bát thức ăn, bê ra vườn, trải chiếu manh dưới gốc cây sấu to bóng dâm mát, mời người làm công ăn. Để người làm công lao động hiệu quả hơn, biết anh chàng này nghiện thuốc lào, bà chủ kỳ công moi móc góc buồng chân tủ gì đó tìm được chiếc điếu bát cũ của chồng, mang ra lau chùi sạch sẽ, để cho anh chàng hút thuốc lào vặt. Chiều chuộng đến thế là cùng. Những lúc rảnh rỗi, bà chủ cũng ra hóng chuyện, chỉ chỏ giao việc này nọ, hỏi thăm thân phận, gia cảnh ra vẻ thân tình... Vài ba ngày trôi qua, đôi bên cũng biết gia cảnh của nhau...
Anh chàng làm công, tuổi hơn ba chục, con nhà nghèo và mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải sống với người chú ruột, bị đối đãi chẳng ra gì. Lớn lên, tự lấy sức ra lao lực kiếm ăn bằng nghề làm thuê và vẫn độc thân. Anh chàng mặt mũi bình thường, nhưng thân thể khỏe mạnh, cơ bắp rắn chắc, có thể kham nổi những công việc chân tay nặng nhọc.
Bà chủ, tuổi bốn chục, góa chồng, có một cô con gái, nhưng sớm lấy chồng, nên bà ở một mình trong ngôi nhà vườn khá rộng này. Bà chủ là người hoạt bát, không đẹp nhưng kiểu người có duyên. Tuổi bốn mươi, thân thể đậm đà, ngực lưng hông đâu ra đấy, mặn mà. Đôi mắt hơi sâu, đen láy, nhìn lâu dễ chết chìm...
Bà chủ nạ dòng và chàng người làm cường tráng, chuyện lâu thành cởi mở. Để đỡ vướng khi làm, sợ mồ hôi mồ kê, anh chàng cời trần, đánh mỗi cái quân cộc, lộ cơ bắp săn chắc. Những lúc nghỉ tay, bà chủ nhà rót nước đưa tận tay cho uống, tiện thể chiếc quạt nan trên tay, phảy dăm ba nhát quạt mát cho anh chàng đôi chút. Lâu lâu, đôi cặp mắt bắt gặp nhau... dừng lại và lảng tránh... xưng hô thì ỡm ờ, chủng chẳng, không ra trên dưới... Những câu nói vui vơ không đầu không cuối, chẳng ra đâu vào đâu cả... Hết ngày, anh chàng múc nước giếng rửa qua loa rồi về, sáng hôm sau đến sớm, bắt tay vào việc. Bữa cơm trưa đều đều, nhưng theo ngày thức ăn như nhiều hơn...
Cứ vậy, dãy gộc tre bị anh chàng phăng teo hết. Đống gộc tre chất phơi trong vườn đây thêm. Dăm bảy ngày trôi qua, công việc xong xuôi. Ngày cuối cùng, theo thông lệ, gia chủ mời cơm người làm công bằng bữa ăn tươm tất, gọi là để cảm ơn người làm và thanh toán công xá với nhau. Bữa cơm chiều ngày cuối ấy, ngoài mấy món thông thường, bà chủ mua một đĩa lòng lợn to, kèm thêm chai ba rượu. Chủ mời cơm nên ăn cùng. Chàng làm công cũng tắm rửa sạch sẽ tinh tươm khác hẳn mọi ngày. Rượu rót ra chén, mời chào xã giao và nhấp môi. Đôi ba chén, chủ khách mềm môi, nói năng bạo dạn hơn. Xưng hô cũng tôi tôi mình mình. Trời lên đèn thì bữa ăn cũng xong. Đến lúc đôi bên trả công xá cho nhau. Nhưng rồi chuyện gì đến cũng đến. Mâm bát còn để ngổn ngang cả đấy thì anh ả, chẳng rõ rượu ngấm đến đâu, mà cứ díu vào nhau. Cũng dằng co đẩy ra kéo vào, hấm hứ, ầm ừ, rồi dìu nhau vào buồng trong,...
Chàng làm công trai tráng khỏe mạnh, khao khát da thịt đàn bà, cứ hùng hục kiểu thổ mộc hay đánh gộc tre... Còn bà chủ nạ dòng đang tầm hồi xuân, góa chồng mấy năm ngỡ quên mùi đàn ông, gặp gỡ nhau đây như bắt được của. Cặp đôi xoắn xít vào nhau, hừng hực khí thế. Chợt bà chủ nhà gắng sức đẩy anh chàng ra khỏi mình. Chàng ta đang hăng bỗng châng hẩng. Bà chủ bảo anh chàng là không được, chẳng lẽ bà mất không cái việc giữ trinh tiết với chồng bấy lâu nay à. Là tự nhiên bà nghĩ đến ba thúng thóc tiền công, lại đem cái trinh tiết cho không thằng cha căng chú kiết này à? Anh chàng đang hăng máu vịt, không thể buông miếng mồi ngon thế này đến miệng. Dằng co, chân tay lẫn mồm miệng, cuối cùng đôi bên ngã giá, chàng ta bớt cho bà chủ một thúng thóc, chỉ lấy công hai thúng thóc thôi, nếu bà cho đồng ý cho anh chàng tiếp tục... Lại ôm ấp lăn lóc một hồi thì bà chủ nằng nặc đẩy anh chàng ra khỏi mình... Lúc này thì anh chàng máu quá rồi và hiểu ngay bà chủ nhà muốn gì ở mình, không ngần ngại bớt thêm thúng nữa, hứa chỉ lấy tiền công đúng một thúng thóc thôi... Và thế là cặp đôi quắp chặt lấy nhau như chẳng thể tách rời...
Những tưởng sẽ một trận mây mưa gió dập hoa vùi, thì anh chàng làm công chợt nhận ra, chẳng lẽ mình ham vui chút mà gần mất trắng công sức lao lực cả tuần nay. Mà cũng có phải được nếm mùi da thịt thiếu nữ trinh tiết mỹ miều gì cho cam, chẳng qua một mụ đàn bà nạ dòng... Nghĩ thế, anh chàng đần ra như khúc gỗ, định bỏ cuộc. Lúc này, bà chủ mới để ý đến của nợ của anh chàng, kích cỡ to khác thường và hơi dị dạng. càng dậy hứng. nên thấy anh chàng đờ người ra vậy, vội vàng níu kéo, hứa trả lại một thúng thóc, tiền công còn hai thúng. Anh chàng bắt đầu vỡ vạc được một chút, hiểu ra sự tình, bỗng đầu óc sáng lên, tỏ ra tinh ranh. Thế nào cũng quyết lấy lại đủ ba thúng thóc tiền công lao lực bấy ngày mà vẫn kiếm chác được cuộc tình. Ngộ được vậy, anh chàng liền vờ thôi không lâm trận nữa. Đến nước này, bà chủ nhà nạ dòng không chịu nổi nữa, nhục cảm bùng lên như triều dâng, diết chặt vòng tay ôm ghì lấy anh chàng, miệng rên lên hứa sẽ trả đủ công xá ba thúng thóc cho anh chàng. Được lời như cởi tấm lòng, anh chàng đổ ập xuống người bà chủ nhà. Một trận cuồng phong nhục dục cuốn phăng mọi tính toán thiệt hơn, trời đất bỗng trở về trạng thái nguyên sơ...
Và đêm đó, anh chàng làm thuê chẳng phải khăn gói ra về. Anh chàng ngủ lại đấy qua đêm đến bảnh mắt hôm sau. Trở dậy, không còn phải đánh gộc tre nữa, anh chàng được bà chủ nhà bưng thau đồng nước giếng mát đến tận bên giường để rủa mặt. Bữa sáng, chàng có mấy quả trứng vịt lộn nhắm rượu, rồi húp thêm tô cháo nóng to tướng. Chàng ta ra về với đầy đủ ba thúng thóc tiền công đánh gộc tre...
Câu chuyện chưa dừng lại ở đấy. Một thời gian sau, họ nên vợ chồng. Anh chàng đến ở hẳn nhà vợ. Tuy vợ hơn chồng gần chục tuổi, nhưng cặp đôi sống với nhau ổn thỏa. Cô con gái riêng của vợ không đồng ý cuộc hôn nhân chênh lệch này, có ý chống đối một thời gian, nhưng đến khi thấy mẹ mình mang thai rồi sinh ra cậu con trai khỏe mạnh với người chồng mới thì cũng thôi phản đối, đành chấp nhận...
Nghe chuyện Khoan kể, tôi cười, bảo anh ta:
- Ông anh kiếm đâu ra của độc thế. Câu chuyện thú vị đấy.
- Chắc là anh không tin? – Khoan tủm tỉm bảo – Thì nhiều người cũng không tin mà... Nhưng tôi không bịa hay kiếm chuyện kể cho vui đâu... Chuyện thật của cha mẹ tôi đấy...
Tôi chỉ còn biết tròn mắt, miệng ô a vì ngạc nhiên. Anh Khoan thủng thẳng:
- Thật khó tin... nhưng lại là thật anh ạ... Thầy u tôi ăn ở với nhau được gần hai chục năm, cùng không đến nỗi nào – Anh nhìn tôi như vẻ muốn tìm một sự xác nhận – Chỉ tiếc là thầy tôi lại đoản mệnh... Khi tôi nhập ngũ được ít lâu thì thầy tôi mất sau một cơn bạo bệnh... Cũng là bởi ông ham công tiếc việc, lại toàn việc nặng nhọc... Có lẽ còn do... u tôi... cũng làm ông hao tổn sức lực...
Nghe có chút bùi ngùi trong giọng điệu của Khoan. Tôi chút nữa nhỡ miệng khi định buông một câu châm ngôn, thì kịp dừng, nhưng Khoan đón lấy, nói toạc ra...
- Người đời vẫn bảo, trai tơ vớ phải nạ dòng, như nước mắm... chẳng hiểu người ta nói vậy nhằm ý gì? Chắc có ý chê bai... nhưng với thầy u tôi cũng đâu đến nỗi nào... Tôi đây... là kết quả của cuộc tình... nước mắm thối chấm lòng lợn thiu... cũng có sao đâu!...
Khoan cười sảng khoái. Tôi chỉ còn biết nói lời động viên. Khoan bảo:
- Ngẫm lại, u tôi là người thật cao số... mình bà đưa tiễn cả hai ông chồng xuống suối vàng trước... rồi sống thọ ngoài bảy chục tuổi mới chịu xuống theo... Chẳng hiểu ở dưới cõi âm ấy, bà ở với ông nào... hay chung với cả hai ông...
Khoan lại cười. Chợt như nghẹn lại.
- Tôi lo rằng... Tôi sẽ tìm một nghề gì khác để làm, chứ không làm nghề này nữa,... cực nhọc lắm... Nhớ trước đây, khi tôi ở tuối mới lớn, thầy tôi thỉnh thoảng cho tôi đi theo xem ông làm việc... Ông có ý chỉ bảo cho tôi biết này nọ, đặng sau này ngộ nhỡ không có nghề gì khác thì chí ra còn có nghề này mà theo, đặng kiếm được miếng ăn cho vào miệng...
Muốn phá tan tâm trạng nặng nề của Khoan, tôi lảng:
- Nhưng làm sao anh biết chuyện này của cha mẹ anh?... Chuyện như anh kể ấy?
- Thì ngày nhỏ, tôi lẵng nhẵng bám chấn thầy tôi đây đó... Cũng chỉ đôi ba lần nghe ông nói này nọ, đại khái vậy,... nhưng mình bé quá nên không mấy hiểu... Mãi sau này, tôi biết nhiều hơn, nhất là sau khi thầy tôi mất... Tôi thành người lớn, nên hiểu chuyện người lớn thôi... Với lại, do u tôi kể,... ngày một ngày hai, những lần giỗ thầy tôi... Tôi xâu chuỗi lại... thành câu chuyện như vậy...
Khoan lại cười. Tôi cười theo. Khoan bảo:
- Thế gọi là chuyện tình của người đánh gộc tre, được không anh nhỉ?... Tôi bằng này tuổi đầu,... cỡ như thời thầy u tôi gặp nhau, nên duyên ấy, vậy mà tôi đã có mảnh tình vắt vai nào đâu... Nói vậy, tôi chẳng còn là trai tân, cũng đã đôi ba lần biết mùi đàn bà, nhưng đều là tạm bợ...
- Ngẫm ra, thấy,...- Tôi ngần ngại - Câu chuyện thật thú vị... cái chuyện tâm lý giới tính đàn ông, đàn bà ấy... Tạo hóa làm nên vậy...
- Thôi, cứ cho là chuyện tiếu lâm, đi anh, - Khoan bảo – hể ra cho nó vui,... anh nhỉ!?
Cả hai người cùng cười vang...
Chuyện ngày ấy là thế. Đã mấy chục năm trôi qua rồi. Thàng nhớ lại câu chuyện của anh chàng đánh gộc tre, như chuyện tiếu lâm, buồn cười đấy, nhưng cười ra nước mắt. Mẹ tôi già yếu, ra thành phố sống cùng một người chị gái của tôi được dăm năm thì mất. Mảnh vườn quê, tôi giao cho một người chị trông nom giúp. Cái bụi tre ngày đó nhở cậy anh Khoan đánh giúp cũng đã vài lần chặt hết thay bụi mới. Gần đây, mấy anh chị em chúng tôi hùn nhau xây một ngôi thờ tự để lấy chỗ đi về quê hương khói giỗ chạp. Bụi tre ấy được chặt tỉa thu gọn lại, chủ yếu làm cảnh...
Vậy mà tôi quên, không hỏi thăm anh Khoan giờ gia cảnh vợ con thế nào? Lâu lắm rồi, bây giờ về quê, chạm mặt anh ta thì rôi cũng không nhận ra. Thế nhưng, câu chuyện tình duyên dở cười dở khóc của người đánh gộc tre như chuyện tiếu lâm, mà anh ta bảo là chuyện của cha mẹ mình, thì tôi nhớ!....
Đường sang quê ngoại
Ấy là con dường từ quê nội sang quê ngoại. Với tôi, quê nội luôn đau đáu trong lòng những ngổn ngang chuyện nhân tình thế thái, thì quê ngoại lại là nỗi nhớ nhung hoài niệm tràn đầy xúc cảm yêu thương, như một niềm an ủi, vỗ về mỗi khi nghĩ đến...
Sao vậy, tôi đã tự vấn mình để rồi tự trả lời,... Ngày nhỏ ở thành phố, trong các câu chuyện của bố mẹ, quê hương đã được song thân nhắc đến. Tuy nhiên, cả bố lẫn mẹ tôi, hay kể chuyện về quê ngoại, thi thoảng lắm mói có chuyện vè quê nội. Trẻ con nên chỉ biết nghe chuyện và háo hức được về thăm quê. Lên 5 tuổi, lần đầu tiên tôi được theo các chị gái về quê dịp nghỉ hè, và đó là quê ngoại. Ngày ấy tàu xe khó khăn, nhưng về quê ngoại cũng khá tiện lợi. Bố tôi dắt mấy chị em chúng tôi ra Bến Nứa, mua vé xe khách chạy tuyến đường số 5, đến Chợ Đường Cái thì xuống. Thêm đoạn ngắn nữa là về đến nhà bà ngoại rồi. Sau lần đầu, tôi còn thêm vài lần về quê ngoại nữa, nhưng quê nội thì vẫn chưa. Bố tôi bào, quê nội tôi chỉ cách quê ngoại chừng dăm bảy cây số thôi. Ở quê ngoại, mấy chị em chúng tôi vô cùng thích thú vì được sống trong không gian vườn tược ao chuôm rộng rái, đầy cây cối hoa quả. Thêm nữa, các bác và cậu dì tôi cũng hay cho con cài về quê nghỉ hè, nên có thời điểm, đám trẻ con chúng tôi ở nhà bà ngoại tôi lên đến hàng chục đứa, tha hồ vui chơi...Còn quê nội, sau đấy vài năm, tôi mới biết đến, khi gia đình tôi rời Hà Nội về quê nội sinh sống ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Lúc ấy, đang học vỡ lòng, nhưng tôi cũng lờ mờ biết chuyện, để quyết định việc về quê nội sống, bố mẹ tôi đã bất đồng ý kiến nhau, khi mẹ tôi kiên quyết đòi về sống ở quê ngoại, đến mức ông bà to tiếng, dỗi bõ nhau... Sau này, lớn lên chút, tôi đã hiểu nguyên nhân vì sao ngày đó, song thân bất đồng việc chọn về quê nào để sinh sống thời tao loạn ấy....Trong khi bố tôi không muốn bị mang tiếng sống nhờ bên quê vợ và ông tin tưởng vào lời hứa của anh em họ hàng bên nội giúp đỡ dựng nhà cửa, thì mẹ tôi lại bày tỏ sự bực tức về hết thảy những gì bà phải chịu đựng, ê chề ở quê nội thời cải cách ruộng đất, những lời tố điêu toa của anh em, họ hàng đối với bà nội tôi, và cả những ngày bị đội cải cách giam lỏng ở chuồng trâu..., thêm nữa, ở quê ngoại có sẵn đầy đủ tình cảm yêu thương chở che của đại gia đình đang chờ đợi... Và cái lý "thuyền theo lái, gái theo chông" đã buộc mẹ tôi, cực chẳng đã, đồng ý về quê chông sinh sống. Và thế là, một ngày đầu đông, trên chuyến xe cam-nhông, gia đình tôi rời bỏ phố phường thủ đô về quê nội sinh sống với nghề làm ruộng mà tất cả các thành viên trong nhà không ai thạo...Thôi, chẳng buồn nói những khó khăn, vất vả, cục nhọc mà gia đình tôi đã chịu đựng và gắng sức vượt qua ở quê, để trở về với ký ức đường sang quê ngoại như một hoài niệm an ủi, êm dịu...Quê nội và quê ngoại tôi cùng huyện nhưng đầu huyện, cuối huyện. Tình theo đường chim bay thì chỉ chừng 7 cây số thôi, và có hai lối sang. Lối thứ nhất, ấy là tắt cánh đồng làng Chùa, đến thị trấn Bần Yên Nhân, chừng 3 cây số, rồi từ đây đi ô tô tuyến theo đường số 5 đến Chợ Đường Cái thì xuống bến. Còn cách thứ hai, đi bộ tắt qua cánh đồng làng Chùa, làng Khách rồi Hoàng Nha, Thanh Đặng, sang đất Lạc Hồng và đến quê ngoại tôi thuộc Thị Trung, Đình Dù. Ngày ấy, xe đạp là của quý hiếm, nhà tôi không có xe, bởi chiếc xe đạp duy nhất của bố tôi đã bị đem bán, để lấy tiền mua miếng đất vườn, làm nhà ở quê. Đi đâu, quanh gần xa, đều đi bộ cả.Thường thì mỗi khi về quê ngoại, nhất là vào mỗi mồng hai Tết, nhà tôi chọn lối thứ hai, tuy đi bộ mệt hơn, nhưng chủ động, chứ không phụ thuộc vào ô tô. Tôi nhớ, đã có lần, hai bố con tôi chờ cả nửa buổi chiều mồng hai tết ở bến xe Bần mà không có xe, cuối cùng đành đi bộ dọc đường 5 đến chập tối mới đến quê ngoại. Hằng năm, có hai dịp để về quê ngoại, ấy là ngày giỗ ông ngoại tôi, và nữa là mồng 2 tết theo truyền thống "mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thày". Bố mẹ tôi cũng phân công, giỗ ông ngoại tôi, ưu tiên để mẹ tôi về, có ý để bà vừa được khấn cha vừa được thăm sức khỏe của mẹ, còn dịp mồng 2 tết thì bố mẹ tôi thay nhau xen kẽ. Riêng tôi, được cả nhà ưu tiên, dịp tết nào cũng được về quê ngoại, còn hai chị gái trên tôi thì thay nhau từng năm...Ngay năm đầu tiên khi về quê sinh sống, tết năm 1964 sang 1965, tôi lúc ấy, 7 tuổi, đã được bố tôi cho về quê theo lối tắt cánh đồng. Lúc đường lớn, khi bờ sông, rồi cả bờ ruộng, cứ theo lối người làm đồng đã đi thành lối mòn trắng cỏ. Tôi sợ nhất, mỗi khi phải đi ngang qua cửa quán Chuột của làng Thái Lạc. Quán cổ lại thêm cây si rậm rạp, nên bề ngoài quai quái thế nào ấy. Biết tôi sợ, bố tôi chấn an, bảo "Như quán Táo làng mình, chẳng có gì đáng sợ, con ạ". Là nói thế thôi, chứ nhìn nó âm u, rờn rợn, như có cả bầy ma quái ẩn náu...Tôi mường tượng, trong góc tối mờ mờ của quán, hàng đàn ma quái đầu người, mình chuột, leo trèo thoăn thoắt lên các hàng cột và vòm mái của quan. Bình thường, nhìn con chuột còn thấy siwj nữa là ma mình chuột đầu nhân... Và cũng nhờ chuyến đi đầu tiên băng đồng sang quê ngoại, tôi đã mang máng thuộc đường, để sau đó, trong một lần đi thi học sinh giỏi môn toán lớp Một ở trường cấp I Lạc Hồng, thày giáo bỏ quên không đón tôi, mặc dù sợ hãi, nhưng tôi lần hồi nhớ đường một mình cuốc bộ băng đồng về đến nhà mình. Sau này, nhớ lại, tôi cười thầm nghĩ, ngày ấy mình đã biết cách "tự cứu mình trước khi trời cứu". Một lần khi ngang cánh đồng Thái Lạc, Lạc Hồng, bố tôi chỉ tay vào những lũy tre xanh bìa làng bảo là, làng này có một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời Lý, cổ gần bằng ngôi chùa Lạng (Viên Giác tự) ở quê nội. Chùa Lạng quê tôi thì tôi từng nghe bố tôi kể chuyện nhiều lần, nhất là chuyện Thần Sấm đá gầm lên tức giận mỗi khi trong vùng có chuyện gì đó kinh thiên động địa. Khi về quê, bố tôi đã dắt tôi lên chùa Lạng, chỉ từng phê tích và giảng giải cho tôi biết, nên mường tượng chùa Thái Lạc cũng có gì đó giống chùa Lạng quê mình. Gợi ý của bố tôi ngày đó kích thích trí tò mò, nhưng không hiểu sao mãi sau này tôi mới đến thăm viếng chùa này, mặc dù cách quê ngoại tôi chừng non cây số và khá tiện đường. Chùa được xây dựng vào đời Lý Nhân Tông (năm Đại Định thứ 2, 1162) và thuộc hệ thống chùa Tứ pháp ở nước ta. Vì thờ Pháp Vân (Thần Mây) nên có tên chữ là Pháp Vân tự, và được biết, những bức vì gian giữa thượng điện có kiến trúc thời Trần, mà kiểu này hiện chỉ còn ở chùa Bối Khê (Thanh Oai) và chùa Dâu (Thuận Thành). Bức chạm khắc gỗ chạm hình thiên nữ Càn Thát Bà, là một trong Thiên Long bát bộ của Phật giáo, nên thuộc diện cổ nhất, quý hiếm của nước ta... Thấy nhà tôi sáng, mọi người mừng lắm. Bố tôi bảo, bà ngoại tôi quý các con, nhưng mẹ tôi được bà quý nhất, là bởi, mẹ tôi chịu nhiều thiệt thòi, từ nhỏ đã sớm cùng bà ngoại tôi buôn bán, bươn chải giúp bà ngoại nuôi các em...Bữa cơm chiều mồng 2 tết ở nhà bà ngoại tôi là vui nhất và ấn tượng nhất đi suốt tuổi thơ tôi cho đến tận giờ, khi mái đầu đã bạc. Ngoài sân vườn hồng tươi xác pháo tép xen lác đác cánh hoa đào, trong nhà bên mâm cỗ tết là bà ngoại tôi, các cậu di út và các bác, các cậu từ Hà Nội về, thêm đám trẻ con mươi đứa. Câu chuyện râm ran như chẳng bao giờ dứt.. Không khí đầm ấm gia đình ngày ấy sau này tôi hiếm thấy... Câu chuyện như không dứt ấy nối tiếp vào đêm đến rạng sáng, dường như không ai muốn ngủ, chuyện nọ dọ chuyện kia, buồn vui có cả...Sáng mồng ba, tôi lại được theo người lớn đi chúc tết họ hàng bên quê ngoại. Niềm vui con trẻ cứ nhân lên cùng những hào, xu mới tiền mừng tuổi. Sau bữa cơm trưa mồng ba, bác và cậu tôi ra Hà Nội. tôi chào bà ngoại về lại quê nội.Cũng con đường ấy, khác hắn chiều hôm trước sang với sự háo hức, lòng tôi thoáng buồn, theo chân bố, mẹ và chốc chốc ngoảnh lại nhìn dặng cây xanh bìa làng che khuất, thầm tìm nơi nhà bà ngoại. Lại ước ao và chờ đợi mồng 2 tết năm sau!...
Tản mạn về sách,...
Tản mạn về sách, tự thân cái tít đã nói lên, điều Chủ bút định viết gì ở đây. Thực ra, những câu chuyện về sách, tôi cũng đã viết từ lâu lắm rồi và những tản mạn đó tôi đã đăng tải trong vài ba tập sách trước của tôi, là Lên núi tầm mai, Những người thắp lửa... Tuy nhiên, những chuyện ấy từ hai chục năm trước và có thể nói, đã xưa lắm rồi, bởi thời đại 4.0 thì mọi sự đều nhanh chóng thuộc về quá khứ... Lâu nay, tôi rẩm riu, định viết thêm gì đó về sách, nhưng vì bận rộn lại thôi... Nay thời gian cũng rỗi rãi hơn, nên có thể nhẩn nha mà bàn luận dăm ba điều...
Chiều nay, đi bộ thể dục ở Công viên Thống Nhất, tình cờ thấy Hội sách đang mở. Trong cái nắng đầu hè 35 độ C, người chơi hội sách khá đông, mà phần lớn lại ở độ tuổi thanh thiếu niên. Có chút ngạc nhiên và mừng thầm, vậy ra, đâu phải giới trẻ quay lưng với văn hóa đọc... Là mừng thế thôi, chứ thực ra cùng phải xem mọi người đọc sách gì và đọc như thế nào đã?...
1. Ngày xưa tôi đọc sách,
Có thể nói, ngày thơ bé, tôi đọc sách từ khi còn chưa biết nhận mặt chữ cái. Vô lý. Chưa biết chữ thì làm sao đọc sách được. Có đấy, đó là nghe người lớn kể chuyện sách. Cách đọc sách kiểu này, còn hiệu quả hơn là tự đọc. Bởi khi ấy, đầu óc không bị phân tán, tất cả nhăm nhăm như nuốt lấy từng lời kể, mà tình tiết câu chuyện còn được người kể diễn đạt, nhấn nhá khiến chuyện sinh động, hấp dẫn hơn. Vả lại, người giỏi kể chuyện còn biết thêm bớt cho câu chuyện hoàn thiện hợp lý hơn theo logic chuyện kể. Chình vì thế, người nghe chuyện một cách tập trung, nghe xong, có thể kể lại câu chuyện đó cho người khác được ngay... Nếu bạn không tin, bạn cứ thử mà xem, sẽ rõ điều tôi nói...
Và người kể chuyện sách cho tôi ngày thơ bé, ấy là cha tôi. Ông vốn là một kiến trúc sư từ thời Tây, biết cả chữ Nho và Pháp ngữ, đọc khá nhiều sách, Đông Tây kim cổ, ở vào thời ấy, gọi đùa ông là mọt sách cũng được.
Khi tôi đến tuổi vào học lớp Vỡ lòng (hệ 10.10 ở miền Bắc trước đây), cũng là thời điểm đất nước bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, sau sự kiện Vịnh Bắc bộ-05.8.1964. Mặc dù lúc đó, gia đình tôi ở Hà Nội, nhưng sách vở cũng không dễ có. Có lẽ, để khơi dậy lòng yêu sách trong cậu con trai út nhỏ dại, bố tôi đã nghĩ ra một cách thích hợp và vô cùng hiệu quả. Ấy là, trước lúc ngủ, khi hai bố con đã yên vị trên giường, tranh thủ lúc mẹ tôi còn dọn dẹp nhà cửa, bố tôi kể cho tôi một câu chuyện nào đó, hoặc một đoạn, một chương trong truyện dài kỳ, như Ngàn lẻ một đêm, Ngụ ngôn La-phông-ten, Truyện cổ Grim....
Sau đó, khi gia đình tôi chuyển về quê sinh sống theo lệnh giảm dân số ở thủ đô thực hiện chính sách thời chiến, thì việc đọc sách thành không tưởng. Ngày ấy, trường lớp bậc Tiểu học (cấp I) không có, toàn phải học nhờ chốn đình chùa. Trẻ con nhếch nhác. học hành chểnh mảng, chỉ muốn bỏ học, thử hỏi lấy đâu ra sách mà đọc, trong khi sách giáo khoa còn khan hiếm.
May thay, một chân trời tri thức mở ra trước mắt tôi, chuyện không tưởng lại thành hiện thức. Mấy khoa của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán về quê tôi, và họ mang theo về một phần thư viện của nhà trường. Lại may, có vài đứa con cán bộ giáo vụ và hành chính của trường cũng theo về, học cùng lớp với tôi. Thế là chúng có sách gì đọc thì tôi có sách ấy đọc ké. Chẳng là, lúc ấy, tôi thuộc diện học giỏi của lớp, lại thêm gia đình cũng từ Hà Nội về, nên mấy đứa nhanh chóng chơi thân với nhau. Thậm chí, có sách chúng không đọc nhưng cũng mượn để mang cho tôi. Thế là, mới học lớp 3, lớp 4, tôi đã đọc Thần thoại Hy Lạp, Những người khốn khổ, Không gia đình, và khá nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của nền văn học Nga-Xô viết...
Lại tiếp, khi Trường Tổng hợp ra Hà Nội, thì chi vài ba năm sau, trong quãng thời gian không kích của Mỹ ra miền Bắc, một bộ phận của trường chính trị trung ương lại sơ tán về, và theo đó cũng là kho sách của họ. Lần này, sách khá nhiều, nhưng tôi có sách đọc, không phải là nhờ quen người ở trường, mà nhờ hai người chị gái. Lúc ấy, hai người chị tôi vào độ tuổi mới lớn, hinh thức khá xinh, nên là đối tượng để các chàng sinh viên để mắt, tăm tia... Các chàng hay đến nhà tôi chơi, lấy cớ uống trà đạm đạo chuyện văn chương chữ nghĩa với bố tôi, song thực ra là tìm cách tán tính các chị tôi. Các chàng mượn sách truyện mang đến cho hai chị tôi đọc, và chẳng biết các chị có nhòm ngó gì không, chứ thằng em tôi thừa nước đục thả câu, giành đọc ngốn ngấu tất cả sách gì đến tay... Thời kỳ này, tôi được tiếp cận những Tây Du ký, Thủy Hử, Hồng Lâu mộng thuộc hàng kinh điển của Trung Quốc, rồi Gia đình của Ba Kim, Rừng thẳm tuyết dày của Khúc Ba... Văn học Nga-Xô viết thì có Đội cận vệ thanh niên, Sông Đông êm đềm, Trong chiến hào Stalingrad, và cả Những linh hồn chết, Taras Bulba của Gogol, Sông Đông êm đềm và Đất vỡ hoang của Solokhov, Cánh buồm đỏ thắm của Grin... Tôi không nhớ xuể những tác phẩm thuộc hàng kinh điển của văn học thế giới mà tôi đọc ngày ấy... Ngày ấy, tôi cũng rất mê truyện Kiếm hiệp. Tôi nhớ, có một bộ sách kiếm hiệp xuất bản từ thời Pháp thuộc theo từng tay sách một, mỗi tay chỉ có một hồi, dầy cỡ nghìn trang, tên là Lục kiếm đồng, tôi mượn được, đọc đến thuộc lòng. Sau đó, tôi có thể kể loại toàn bộ tiểu thuyết kiếm hiệp đó từ đầu đến cuối, chính xác đến từng tình tiết, thế võ...
Chỉ biết, những tác phẩm văn học dù đọc ké, đọc vội đó đã củng cố trong tôi lòng ham mê đọc sách và tình yêu văn chương...
Và lòng đam mê sách ấy, đã cho tôi sự kiên nhẫn và khát khao tích cóp sách, xây dựng tủ sách cho riêng mình sau này...
2. Tủ sách cá nhân
Thú đọc sách, lòng đam mê sách khi hình thành và lớn dần trong tôi, thì tôi bắt đầu nảy sinh ý muốn lập tủ sách gia đình. Đọc sách ké, sách mượn cũng phải nhờ cơ may, vậy lấy đâu ra tiền để mua sách cơ chứ? Bản thân mới học cấp 2 (như bậc THCS bây giờ), được bố mẹ nuôi ăn học đã là phúc rồi, thời chiến tranh, thiếu thốn, đói kém đủ đường, miếng ăn cho vào miệng còn không đủ thì lấy đâu ra tiền mua sách. Hoặc giả, ngày ấy có tiền đi chăng nữa, cũng không biết mua sách ở đâu.
Để có tủ sách, thì cần có tủ và sách. Tủ thì tôi sử dụng ngăn chứa chính giữa chiếc tử chè bằng gỗ gụ cũ, kê chính giữa nhà, làm bàn thờ tổ tiên của gia đình. Bố tôi kể, chiếc tủ chè thuần gỗ gụ này là bố tôi mua lại của người ta, nghe đâu, cuộc chiến ở phổ phường Hà Nội giữa quân ta với quân Pháp vào mùa đông năm 1946, nó từng là vật dụng được người dân mang ra đường chất đống làm chường ngại vật và chiến lũy ngăn quân Pháp, thế nên toàn bộ cửa tủ và lèo hoa văn bị mất hết. Khi nhà tôi còn sống ở Ngõ Trúc Lạc, Hà Nội, chiếc tủ này đã dùng làm tủ thờ, lúc chuyển về quê, nó vẫn giữ công năng ấy. Vì mất hết cánh, mẹ tôi mua một viếng vải nhựa dầy nền kẻ ô khá đẹp phủ lên, vừa trang trí lại che được phần cánh tủ bị mất. Trong tủ để ít bát đĩa cổ, ít đồ thờ tự và những vỏ hộp nhôm sữa Gi-gô của Pháp đựng lặt vặt. Tôi xếp gọn số đồ đạc ấy vào một bên, còn cỗ trống thừa ra, cũng đủ chứa vài ba chục cuốn sách...
Vậy chỉ thiếu sách. Tính sao đây? Loanh quanh, tôi tìm được sổ sách giấy tờ của người chị gái, thấy có cuốn sách dạy về kỹ thuật nuôi bèo hoa dâu làm phân xanh (giờ gọi là phân hữu cơ) bón ruộng do Hợp tác xã nông nghiệp phát cho, và một cuốn sách Trong chiến hào Stalingrad, bìa dày giấy đẹp. bản tiếng Việt được xuất bản từ Liên Xô, đóng dấu thư viện đại học... Tôi biết cuốn này do một chàng sinh viên mượn từ thư viện nhà trường mang đến nịnh người đẹp (chị tôi), rồi quên không lấy lại, tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần rồi. Vậy là có 2 cuốn làm lưng vốn ban đầu...
Và bắt đầu cuộc tìm kiếm để thiết lập tủ sách riêng cho mình. Tiền không có, và nếu có, cũng không biết mua ở đâu. Trẻ con ở quê ngày xưa, rất ít khi cha mẹ cho con cái tiền bạc, Vậy mà, tôi có cách kiếm tiền đấy. Kiếm một cách chính đáng. Trời phú cho tôi tài chơi bi. Tôi bắn bi thuộc loại giỏi nhất xóm. Khoảng cách xa mấy, tôi bắn cúng trúng, rất ít khi trượt. Bọn học sinh, chơi bi một hồi với nhau, tôi ăn hết bi của chúng. Chúng nó nể tôi lắm. Được rồi, đứa nào có tiền mua, tôi bán lại cho chúng, giả thử, mua bi mới ở bà hàng xén, một hào mua được mười viên bi, còn nếu mua bi cũ của tôi, thì được những mười lăm viên. Bán lại cho chúng được tiền, trước sau, tôi sẽ lại ăn hết số bi của chúng. Có đứa, thấy tôi chơi thì không dám chơi nữa vì sợ tôi ăn hết. Bán bi được ít tiền, tôi không ăn quà, dành để hôm nào lên thị trấn, vào hiệu sách tìm mua truyện. Cứ thế, tủ sách của tôi có thêm các quyển Số phận của chú bé đánh trống của nhà văn Liên Xô, A, Gai-đa, Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng, Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách. Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài...
Hồi học cấp 3, trường ngay thị trấn Bần Yên Nhân, vào kỳ nghỉ hè, các học sinh phải chia thành nhóm để trực trường. Đến phiên trực của tôi, mẹ tôi cho ít tiền để buổi trưa mua gì ăn. Tôi uống nước cầm hơi, nhịn ăn trưa, vào hiệu sách dốc hết tiền mua được một cuốn truyện, đọc ngấu nghiến đến chiều về nhà với cái bụng rỗng, người đói lả...
Cứ dần dà, cái tủ sách ngầm trong lòng bàn thờ ấy đầy lên, và theo đó, kiến thức sách vở và mơ ước mơ hồ về một ngày kia mình trở thành người cầm bút lớn lên, rõ hình hài...
3. Truy tầm và tích cóp.
Vào đại học, tôi học ở Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đóng tại Châu Quỳ, Gia Lâm. Cùng học, có anh bạn Trịnh Bá Ninh, người chung đội tuyển học sinh giỏi văn Hải Hưng, lại thêm người bạn cùng lớp quê Thái Bình là Hoàng Gia Trình. Trình cũng là người đọc nhiều. Ngày ấy, tôi và Trình có thể nói chuyện hàng ngày về Tây Du ký, Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa... Thích đọc sách, nên cũng thích tầm mua sách. Khốn nỗi, vẫn câu chuyện tiền đâu? Hồi đó, nhà nước ta vẫn duy trì chế độ học bổng cấp đại học. Sinh viên trúng tuyển vào trường, được cấp học bổng 18 đồng một tháng, khi ấy tiễn cũ giá trị lắm, số tiền học bổng chi vừa đủ cho 2 bữa ăn mỗi ngày, và ở thì ký túc xã nhà trường. Giáo trình nhà trường cho mượn, hết năm thu lại. Còn tiêu pha gì thêm, dĩ nhiên là tiền gia đinh cho. Như vậy thì cũng chẳng có tiền, tích cóp, lâu lâu mua được một cuốn. Đời sống sinh viên, ưa ca hát và thích thơ. Đấy là đời sống tinh thần chính của sinh viên, lại chẳng mất chút phí nào. Hát nhạc đỏ, rồi cũng biết nghêu ngao dăm bài hát nổi tiếng của Trịnh Công Sơn... Còn thơ thì Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, cũng có một số người biết thơ Puskin, Lermantov, Nhekraxov, Chiutrev. Exenhin, Maiakovsky... Ngày ấy, tôi và Trịnh Bá Ninh chịu khó mua thơ lắm. Yêu thơ là chính, với lại, mua thơ rẻ hơn mua tiểu thuyết, nên đến khi tốt nghiệp, tôi mua được cả trăm tập thơ, chủ yếu là các nhà thơ Việt nam hiện đại. May mà, đến năm thứ 3, nhà nước có chính sách, gia đình nào đang có từ 2 người đang học Đại học thì được một suất trợ cấp, giá trị 4 đồng. tháng. Nhà tôi, có 2 người, chị gái tôi học trên tôi một khóa, cùng trường, nên tôi được xét hưởng trợ cấp.Hằng tháng được nhận 4 đồng, cũng là một khoản kha khá, đỡ mẹ tôi một tiền tiêu vặt, tôi có đồng ra đồng vào, quà vặt lúc đói bụng và mua vài cuốn sách.
Hầu như tuần nào, tôi cũng đảo qua hiệu sách nhân dân ở phố Châu Quỳ, đến thành thân quen chị bán hàng ở hiệu sách. Quen rồi, có cái lợi, dặn chị bán sách khi có sách văn học mới thì để dành cho mình, hoặc lúc tìm được sách hay nhưng lại không đủ tiền thì nhờ chị cất giữ đến lúc đủ tiền thì mua... Ngoài hiệu sách ấy, chúng tôi còn quen thân với mấy hiệu sách khác ở thị trấn Gia Lâm, thị trấn Bần Yên Nhân, thị trấn Nam Sách (quê Trịnh Bá Ninh). Lâu lâu sang Hà Nội, thế nào cũng phải lượn vào Hiệu sách Hà Nội-Huế-Sài Gòn ở góc cắt phố Tràng Tiền-Ngô Quyền. Vào đấy, thực ra chỉ thỏa mãn thú tầm sách thôi, chứ thực ra ít khi mua được sách. Tiếng là hiệu sách lớn nhất thủ đô, nhưng đa chủng loại, đông người mua, nên rất hiếm khi sách văn học hay, quý còn đến tay mình. Chính ở mấy hiệu sách nhỏ nhà quê kia, chúng tôi lại mua được sách hay vì có chân trong...
Nói chung, hễ đi đến đâu, thấy có hiệu sách nhân dân là mò vào. Đến các thị trấn, thị xã nào, nếu có điều kiện là hỏi thăm, tìm hiệu sách. Sau này, tôi vào nhận công tác ở mãi tận huyện Tri Tôn, thuộc vùng Bảy Núi, biên giới thuộc tỉnh An Giang. Với gần bảy năm trời làm việc ở đây, cái hiệu sách nhỏ ở trung tâm phố huyện ấy đã cung cấp cho tôi nhiều sách hay và quý của các tác giả nổi tiếng thế giới, như Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức Bà Pariscủa V. Hugo, Bông hồng vàng của C. Paustovsky, Chuyện núi đồi và thảo nguyên của T. Aimatov, Đỏ và đen của Standal, Bà Bovary của G. Flobert, Anna Karenina của L. Tolstoi, Những vì sao của A. Đô-đê, Tuyển truyện ngắn của Sê-khốp, Truyện ngắn Turgeniev... Thời bao cấp, thiếu thốn đủ thứ, những cuốn sách hay ấy được in trên giấy đen, mặt nhẵn mặt xù xì, nhưng trẻ trung mắt tinh, khát khao hiểu biết, đọc ngấu nghiến, rồi đọc nghiền ngẫm. Mỗi chuyến đi phép ra Bắc, tư trang dồn đủ một ba-lô, để còn tha theo cả bao tải sách. Tàu xe cách rách, rong ruổi từ miền Tây lên Sài Gòn rồi đợi tàu ra Bắc, về Hưng Yên, mất cả tuần, nhưng không thấy vất vả, là vì có niềm vui, thỏa nối đam mê...
4. Loạn sách, biết chọn gì đây.
Cuộc sống thay đổi thật nhanh. Khi có đủ cơm gạo, no cái bụng rồi, thì các phương tiện khác như radio, ti vi, tủ lạnh, xe máy cũng không mấy mà có. Sách cũng vậy, các nhà xuất bản, các đầu nậu làm sách nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu của người đọc. Và theo đó, các hiệu sách nhân dân, thuộc hệ thống phát hành sách do nhà nước quản lý từng giữ vai trò quan trọng suốt một thời kỳ, lắt lay và thui chột, rồi biến mất, thay vào đó là các cửa hàng sách tư nhân. Loạn sách. Nhưng trước khi bàn về loạn sách, tôi kể chút chuyện về một việc làm dại dột của mình...
Ấy là khi, tôi làm việc ở Hà Nội, mẹ tôi cũng ra thành phố ở với một người chị gái của tôi, ngôi nhà gianh ở quê, nơi mà ngay đi học tôi đã bắt đầu lập tủ sách cá nhân với cái hộc tủ thờ mất cánh, bị bỏ không. Sợ thất lạc và ẩm mốc, tôi chuyển toàn bộ số sách có được đến vài trăm quyển đến để nhở nhà của một người chị gái khác ở quê. Thời ấy, trên văn đàn của ta bắt đầu xuất hiện một hiện tượng mà các nhà phê bình văn học ở ta gọi là nền văn học phải đạo.Báo chí văn nghệ bàn ra bàn vào, có y kiến là đã đến lúc cáo chung cho nên văn học phải đạo. Những sáng tác mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu như "Phiên chợ Giát", "Mùa trái cóc ở miền Nam", "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành", "Cỏ lau,"... được người đọc khen ngợi này nọ... trong khi nhiều tác phẩm văn học khác, ngay cả tiểu thuyết Dấu chân người lính của chính ông, từng được khẳng định, lại bị coi nhẹ...Và đương nhiên, những điều đó ảnh hưởng đến tôi. Chẳng hiểu sao, tự nhiên tôi thấy những tập thơ mà tôi dày công tích cóp trở nên nhạt nhẽo, một chiều, rồi quy chung vào cái gọi là "nền văn học phải đạo". Khi tôi được cấp một gian nhà cấp bốn ở khu tập thể cơ quan, cùng với những vật dụng thiết yếu là giường tủ bàn ghế, tôi đặt đóng ngay một cái giá sách, bằng gỗ tốt bởi một thợ vườn. Tôi mang số sách gửi nhở nhà người chị ở quê lên trưng vào giá sách mới nhà mình. Ước mơ hai chục năm trời đã thành hiện thực. Nhưng, tôi đã cố tình bỏ lại gần trăm tập thơ ở quê, mặc người nhà chị gái sử dụng tùy ý.
Giờ nghĩ lại, thấy mình không phải. Cho dù có thế nào đi chăng nữa, thì đó cũng là công sức, sáng tạo của mỗi tác giả. Thật lòng, nghĩ mình có lỗi với sách, với các nhà thơ ấy...
Trở lại chuyện loạn sách. Bắt đầu từ việc đổi mới kinh tế, kéo theo là các kiểu đổi mới. Các nhà xuất bản không còn tự chủ được nữa, dẫn đến việc phải liên doanh với các nhà đầu tư, mà ngày đó, người ta quen gọi là "đầu nậu". Riêng tôi, lúc ấy cũng có vài ba cuốn được in theo hình thức này. Ví như, tập truyện ngắn "Đêm nguyệt thực", tập sách đầu tay của tôi dự thi ở Nhà xuất bản Hà Nội, đã được một đầu nậu nhận in, phát hành (1993) và may mắn đoạt giải; hay như tập truyện ngắn "Hoa tầm xuân" (Nxb Văn học) thì do Công ty Phát hành sách liên doanh với đầu nậu in; hoặc tập "Những người thắp lửa" (Nxb Lao động) và tập tản văn "Lên núi tầm mai" (Nxb Văn học) do Trung tâm Văn minh văn hóa Đông Tây in, phát hành, rồi tập truyện ngắn "Tổ ấm chim câu" (Nxb Lao Động) do một tư nhân bỏ vốn in ấn, phát hành... Người viết sách vui vì sách được xuất bản mà mình không phải bỏ vốn. Những tập sách khác và cho đến tận bây giờ, sách của tôi vẫn xuất bản, phát hành theo cách thức này...
Hà Nội giờ đây có nhiều nhà sách tư nhân, song nổi tiếng nhất vẫn là phố Nguyễn Xí, gần khu vực Bờ Hồ. Ở đây, người tìm sách, mua sách ngày nào cũng đông nghịt. Sở dĩ đông, là bởi trước hết gần trụ sở của Tổng công ty phát hành sách trung ương có từ thời bao cấp, lại ở trung tâm, tiện cho người mua sắm nói chung. Các nhà sách liền kề nhau, chủng loại đa dạng, giá cả phải chăng (luôn có chiết khấu, giảm giá)... Người yêu sách ở Hà Nội, ai cũng biết đến bà Mão. Có thể coi, bà là một trong số ít người đưa ra hình thức bán sách theo cách thức tại nhà, không cần cửa hàng. Ngày ấy, một số nhà mặt đường ở đây cho thuê kinh doanh sách, còn nhà bà Mão lại ở sâu trong ngõ hẹp, tít trên tầng hai. Bà Mão đã nghĩ ra cách, lấy mấy phòng ở của nhà mình, bày toàn sách, trên vách, dưới sàn xếp kín đặc, người mua bỏ giày dép, dầm cả lên sách mà chọn tìm, mua gì ra ngoài bàn ở hành lang tính tiền. Vậy mà khách đông nườm nượp, hơn cả cửa hàng cửa hiệu sang trọng... Cách thức này của bà, sau rất nhiều người học theo... Bà Mão nổi tiếng đến mức, mới năm trước, bà mất, một số báo và rất nhiều trang Facebook đã đưa tin, bởi có khá nhiều phóng viên, nhà báo từng là khách hàng của bà từ ngày họ còn là sinh viên nghèo...
Lâu lâu, nhớ thú tầm sách, hoặc mỗi khi đau đầu vì công việc, tôi hay chọn đi tầm sách để giải tỏa. Sách bây giờ in đẹp, bìa bắt mắt, gợi mở. Phải công nhận, việc thị trường lĩnh vực xuất bản, người làm sách phải cạnh tranh, cùng với sự lựa chọn đầu sách, in ấn đẹp, giá cả hợp lý, giới xuất bản có nhiều chiêu độc để sách bán chạy. Thói quen của tôi, bước chân vào bất kỳ một hiệu sách nào, cũng lướt mắt đáo qua một lượt, rồi xem kỹ và quyết định mua hay không. Tôi nhớ, có lần, tại một hiệu sách trên phố Bà Triệu, Hà Nội, tình cờ, tôi bắt gặp và mua một cuốn sách mỏng ở chỗ bày sách đại hạ giá, nhưng hóa ra lại được cuốn sách quý, ấy là tập thơ "Xem đêm" của nhà văn Phùng Cung. Có lẽ, nhiều bạn đọc không biết đến cuộc đời truân chuyên của nhà văn này. Ông bị dính án văn chương, nghe nói vì cái truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" bị quy kết này nọ, bị cho là cạnh khóe nhân vật cao cấp nào đó. Tập thơ "Xem đêm" là tập hợp cả đời thơ của Phùng Cung gồm mấy trăm bài ngắn dài, được ông viết phần lớn trong thời gian bị tù đày hơn chục năm gì đấy. Lại nghe nói, ông Nguyễn Hữu Đang, (người từng chịu trách nhiệm tổ chức việc dựng Lễ đài cho buổi ra mắt của Chính phủ Cụ Hồ, ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình), đã trích một phần tiền lương truy lĩnh sau khi ông này được phục hồi nhân phẩm, để Phùng Cung có tiền xuất bản tập thơ đó. Theo tôi, đây là tập thơ hay nhất trong vòng mấy chục năm nay ở ta.
Loạn sách, nhưng tôi vẫn mua sách theo cái kiểu của riêng mình...
Ấy là, tìm mua loại sách thuộc hàng kinh điển, dùng làm tài liệu tra cứu khi cần thiết.
Ấy là, sách bộ mới một số tác phẩm nổi tiếng của các tác gia văn học thế giới (ví như L. Tolstoi, V. Hugo, G. Maupassant, O. Balzac Y.Kawabata, Mạc Ngôn ...).
Ấy là, sách theo thú chơi của mình. Ví như, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, tôi có những mấy bộ bản in khác nhau, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long, Thủy Hử của Thi Nại Am cũng có mấy bộ kiểu như vậy...
Ấy là, một số tác phẩm thuộc các tác giả giật giải Nobel văn chương hằng năm, hoặc các tác phẩm được làng phê bình văn học đánh giá cao...
Ấy là sách kiếm hiệp. Tôi mê sách kiếm hiệp từ nhỏ, nên mua đủ toàn bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung và một số tác phẩm của các tác giả kiếm hiệp khác cùng thời với ông.
Cứ thế, dần dà, tủ sách của tôi lên đến vài ngàn cuốn.
5. Ps
Chiều muộn, đi bộ công viên, thủ túi quần có 100k. Ngang qua Hội sách đã tàn, hầu hết các quầy đã đóng thùng cho lên xe chở về. Còn ít quầy vẫn cố nán lại vì chiều khách, Ghé một quầy bán cả sách cũ và mới, hỏi "Có bộ BÀI CA SƯ PHẠM của Makarenko không?". Thưa rằng: "Cháu không có ở đây, nhưng ở quấy nhà cháu số... đường Giải phóng, cháu có đấy. Hôm nào chú qua, cháu bán cho"...
Lại ghé vào Nhà sách Nhã Nam, khách mua bán vẫn tấp nập. Lướt nhanh, nhặt ra 3 quyển này, thanh toán hết có 90k, vẫn thừa 10k bỏ túi. Trên đường về, giải thích cho cô con gái, sinh viên năm thứ 3 ĐH Kinh tế Quốc dân, rằng tại sao bố lại mua 3 cuốn này (HỒ.của Y., Kawabata, NGÀY XƯA của Nguyễn Nhược Pháp, vàĐIÊU TÀN của Chế Lan Viên, thuộc Tủ sách Vietnam Danh tác. Định mua cả Tập thơ THU của Lưu Trọng Lư nữa, nhưng không đủ tiền nên đành bỏ lại). Cô con gái gật gù, à ra thế. Cháu cũng hay đọc sách, nhưng sách nó chọn thường là sách học, sách tham khảo, và tiểu thuyết ngôn tình... Mua cuốn HỒ của tác giả người Nhật bản là Yasunari Kawabata, lòng có chút thích thú. Trong các quốc gia châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ, xét về văn chương (mở rộng ra lĩnh vực Triết học, Lịch sử, Địa lý...) thì đứng thứ 3 là Nhật Bản, theo tôi. Cho đến giờ, Nhật Bản đã có 3 tác giả được trao Nobel Văn chương, mà Yasunari Kawabata là người mở đầu và vĩ đại nhất... Tôi đã thích các tác phẩm của ông này, bộ ba tiểu thuyết XỨ TUYẾT, TIẾNG RỀN CỦA NÚI, NGÀN CÁNH HẠC. Các tác phẩm khác của ông cũng rất hay, là VŨ NỮ IT-ZU và NGƯỜI ĐẸP SAY NGỦ... Hy vọng cuốn HỒ này cũng sẽ thú vị...
Chính vì yêu vắn chương của ông, tôi đã có một Tiểu luận về nhà văn này và các tác phẩm chính của ông...
Giờ thì tôi vẫn mua, nhưng chọn lọc rất kỹ. Đam mê sách thì vẫn còn, song phải biết san sẻ cho những thú vui, nghỉ dưỡng khác, phù hợp với lối sống chậm trong một xã hội công nghệ hối hả...
Vả lại, còn phải dành thời gian cho viết nữa...
Nghĩ về Phương Đình Nguyễn Văn Siêu...
Cha tôi người kể chuyện, đã từng kể tôi nghe một đôi điều về Phương Đình Nguyễn Văn Siêu trong vô vàn những chuyện kể ban đêm của người. Rằng Phương Đình là người viết ba chữ Tả thanh thiên (có nghĩa là viết lên trời xanh) ở Tháp bút, Hồ Gươm. Và ấn tượng hơn là câu chuyện về chí sĩ Cao Bá Quát ngạo thiên hạ mà tuyên bố rằng: “Cả thiên hạ có ba bồ chữ thì Quát này chiếm hai, một còn lại thì Nhạ và Siêu chia nhau mỗi người một nửa” (ở đây, Nhạ tức Cao Bá Nhạ, anh ruột Cao Bá Quát và Siêu là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu). Là chuyện truyền miệng nên chính xác đến đâu thì không dám bàn, song nếu chỉ với từng ấy thôi thì Phương Đình Nguyễn Văn Siêu cũng là người hay chữ lắm rồi. Người Kinh kỳ xưa và Hà Nội nay, tự hào có Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, một trong những cây bút ở thế kỷ XIX. Gần đây, đọc sách Phương Đình văn loại của Nguyễn Văn Siêu, thấy quả là ông hiểu biết sâu rộng, chữ nghĩa điêu luyện, súc tích lắm.
Ông vốn quê ở làng Lủ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì. Ông có cả một loạt bài viết về địa lý, phong thổ, con người Trung Hoa dọc theo trục Nam – Bắc và từ Quảng Tây đến Bắc Kinh, Hoàng Hà. Cứ theo Bài tấu về chuyến hành trình đi Yên Kinh (tức Bắc Kinh) trong chính cuốn sách này, thì năm Tự Đức thứ hai (1850), ông được cử làm Phó sứ trong đoàn sứ bộ ta sang nhà Thanh. Đường đi từ Mục Nam Quan đến Bắc Kinh phải qua các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Trực Lệ (tức Hà Bắc) và trở về, hết bộ lại thủy, dẫu có lâu thì cũng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa thôi, chứ để viết được như vậy, vốn hiểu biết của ông hẳn phải rất sâu rộng.
Với riêng tôi, cuốn sách này như là một cẩm nang quý trong chuyến công tác sang Quảng Tây. Ngày làm việc và đi thăm quan, tối về nằm khoèo khách sạn, lại giở sách ra xem. Các bài Đại thể về địa thế tỉnh Quảng Tây, Sông đào ở núi Lâm Nguyên, Phong cảnh sông Tương, Núi sông ở Lâm Quế, Đá ngọn ở Dương Sóc, Ngô Châu – đất yết hầu v.v... đã thực sự giúp tôi mở rộng tầm mắt. Từ thành phố Quế Lâm theo tuyến tàu thủy du lịch chạy dọc Ly Giang đi thị trấn cổ Dương Sóc, ông viết: “ Sống đá cao vót, bó sông lại thành khe. Hoặc có chỗ đá trồi lên bất ngờ nhọn thẳng như măng tre, hoặc có chỗ từ sườn núi đá nhọn tòe ra như sừng hươu, hoặc có chỗ đá như vuốt như sừng chĩa vào nhau như loài thú đánh lộn. Có tảng thẳng đứng như cột buồm, có tảng dốc như tường vách, có tảng tròn như vựa thóc, có tảng hình tựa bày quân cờ, có tảng góc cạnh như hiên nhà, có tảng nứt đôi như múi dưa, có tảng hai đầu vênh lên như con thuyền...”. Rồi nữa, trong bài Núi sông ở Lâm Quế, ông viết: “Ngọn núi Độc Tú mọc thẳng vút hơn hai trăm trượng, đó là ngọn núi cao nhất vùng. Dưới núi này có động, đi ngầm dưới đất có thể thông đến phía bắc núi. Trong động, có ghế đá, giường đá, cửa đá la liệt, giống một phòng tường bao quanh. Trên núi có lầu gác, trông lẫn vào mây xanh, bốn mặt núi biếc, bao la bát ngát. Quế Giang (tên gọi khác của Ly Giang – Tg) vẫy vùng trong cảnh ấy, sông nước long lanh dập dình, như gò đảo Phương Hồ (theo truyền thuyết biển Bột Hải có đảo tiên ở là Phương Hồ) vì vậy mới có câu nói rằng: Sơn sáo Quế Lâm, kỳ bất khứ dã (Núi non đến như Quế Lâm, kỳ lạ không muốn rời vậy)...”. Bút đến như thế, quả thật tài tình, linh hoạt mà diễm lệ thay!...
Buổi đến thăm Cục Phát thanh truyền hình Quế Lâm, anh Hoàng Sơn, giám đốc, khoe với chúng tôi rằng, Cục đang chuẩn bị lên sóng hẳn một kênh phát thanh Du lịch, bởi có thể nói, Quế Lâm phong cảnh thuộc loại bậc nhất Trung Quốc. Không nói chi đến du khách nước ngoài, mà ngay chính người dân Trung Quốc, cũng có biết bao người ở những vùng khác, ước ao được đặt chân đến Quế Lâm để chiêm ngưỡng cảnh sắc hữu tình nơi đây mà thiên nhiên ban tặng. Nói đến Quế Lâm là du khách nhớ đến ba núi (Tượng Tị, tức Vòi Voi, Điệp Thái và Phục Ba), hai hang (Thất Tinh, Lôi Địch Nham), một sông (Ly Giang), một mương (mương cổ Linh Cừ từ thời Tần, tên cũ là Tần Cừ), và Tam Bảo (tức ba thứ quý là Rượu Tam Hoa, đậu phụ nhự và tương ớt). Có thể kể thêm 3 loại thực thảo quý là cỏ Mã đề, khoai sọ Lệ Phố và hồi. Hẳn vì thế mà người Quế Lâm không ngại ngùng mà tự hào: Quế Lâm sơn thủy đệ nhất thiên hạ.
Lúc trò chuyện cùng các đồng nghiệp Trung Quốc, tôi thầm nghĩ, chắc hẳn phía bạn không thể biết, những điều ấy, tôi đã được cụ Phương Đình chỉ dẫn kỹ lưỡng rồi. Kiến văn uyên thâm, cộng thêm khả năng quan sát kỹ lưỡng và hết sức tinh tế đã giúp cho ông để lại hậu thế những thiên tùy bút xuất sắc. Nhờ thế mà văn đàn Hán Nôm Việt Nam có thêm một tên tuổi lớn ở thể loại văn xuôi. Những đoản văn từ 150 năm trước sẽ lại thêm sức sống khi mà sự giao lưu văn hóa và nhu cầu du lịch của con người mỗi tăng lên trong xu thế hội nhập của thời đại ngày nay.
Quả là, thời đại của những tốc độ siêu nhanh, của những Internet đã và sẽ còn đem lại cho người ta nhiều tiện lợi, song lại tước đi thú nhẩn nha, tiêu dao... Tôi thầm cười mà nghĩ, sẽ chẳng có những thiên tùy bút xuất sắc, nếu như cụ Phương Đình cưỡi máy bay Boeing hay Airbus mà đi sứ Yên Kinh...!
Có một người văn Việt ở Paris...
Mùa đông năm 1996, tôi cùng vài ba đồng nghiệp của Đài Tiếng nói Việt Nam sang Pháp học nghiệp vụ báo chí, trước khi đi, nhà văn Ngô Tự Lập có nhờ tôi chuyển thư cho một người quen ở Paris là Đặng Văn Long và bảo: “Anh nên đến chơi thăm anh Long. Anh ấy tốt lắm, cũng có viết văn...” Sang rồi, theo số điện thoại Lập cho, tôi gọi điện. Một giọng nói nhỏ nhẹ, thân thiện trả lời. Anh Long mời chúng tôi đến chơi nhà, và sợ chúng tôi bỡ ngỡ, lạc đường nên vẫn cố đến đón chúng tôi.
Đúng hẹn, chúng tôi ra điểm hẹn bến xe buýt ngay cửa ga metro Croix de Chavaux thuộc quận ngoại ô Montreill. Một người đàn ông đứng tuổi nhỏ thó, da trắng xanh, thọc tay vào túi áo khoác đi đi lại lại loanh quanh cho đỡ rét, chăm chăm nhìn chúng tôi. Người Việt mình. Đúng là anh Long. Thế là chúng tôi nhận ra nhau. Anh ở cách đấy chừng vài ba chặng xe buýt cũng thuộc Montreill, một căn hộ 7 buồng trên tầng 9 của chung cư. Khi đó, anh cho một thực tập sinh Việt của Viện quân y 103 ở nhờ. Phòng khách rộng, treo mấy bức tranh thư pháp, anh bảo là của đạo diễn – nhà thơ Đỗ Minh Tuấn và vài người quen khác từ Việt Nam sang công tác ghé chơi, tặng lại. Hôm ấy, anh giữ chúng tôi ở lại dùng cơm, chỉ chúng tôi lấy thực phẩm sẵn trong tủ lạnh và dặn hãy nấu những món ăn đặc Việt. Bữa cơm giản dị, ấm cúng tình người. Quen nghe anh xưng anh là cũng gọi theo vậy, song không ngờ anh đã 74 tuổi, sang Pháp từ hơn 50 năm trước. Khi thấy chúng tôi đổi cách xưng hô, anh bảo, không cần thiết, cứ gọi thế cho thân mật, với lại anh đang mong ước được trẻ lại để còn hy vọng một lần về thăm quê hương bản quán.
Trong câu chuyện, anh cho biết, vốn quê Hải Dương, sinh năm 1919, năm 1940, bị Pháp bắt lính, đưa xuống tàu há mồm cùng bao thanh niên Việt sang Pháp làm lính thợ. Những lính thợ người Việt khi ấy bị đưa sang châu Phi, đi đến một vài xứ thuộc địa Pháp để phục vụ công cho quân đội viễn chinh Pháp, rồi sau đó lại trở về Pháp tiếp tục kiếp lính thợ. Sau năm 1947, giải ngũ định cư tại Pháp, anh có làm một số công việc, chủ yếu là lao động giản đơn. Rồi lấy vợ Pháp, một người đàn bà thuộc tầng lớp lao động bình dân, có hai con. Lúc bấy giờ, vợ anh đã mất chừng dăm năm, con gái lấy chồng sống bên Bỉ, con trai lấy vợ sống trong nội thành Paris, anh sống một mình bằng lương hưu. Từ nhiều năm trước, anh bị bệnh tim, giờ nặng đến mức phải đeo máy trợ tim dưới làn da ngực trái. Căn hộ tầng 9 chung cư này luôn rộng cửa với rất nhiều người Việt Nam, nhất là các anh em văn nghệ sĩ, các nhà báo mỗi khi sang Pháp.
Anh cho chúng tôi xem một tập thơ của anh, rồi khoe là có một cuốn tiểu thuyết nhan đề Lính thợ ONS vừa được NXB Lao động ấn hành tại Việt Nam, và hiện anh đã viết được chừng 500 trang một cuốn sách khác về người Việt Nam ở Pháp. (2 năm sau, cuốn sách có nhan đề “Người Việt Nam ở Pháp” 1940 – 1954 được in 1997 tại Pháp). Tôi đã từng nhìn thấy bìa cuốn sách Lính thợ ONS bày bán ở Việt Nam, song không ngờ lại được gặp tác giả. Khi thấy chúng tôi trầm trồ, anh nhỏ nhẻ cười hiền, bảo, bốn dĩ là anh nông dân, khi bị bắt đi lính thợ tuy không đến nỗi mù chữ quốc ngữ, song viết lách còn chưa thạo, tất cả là do đi ra ngoài, gian khổ trường đời dạy cho cả. Rồi anh cứ mủm mỉm cười, lúc lắc đầu làm như vẻ không thể tin nổi chuyện một người chẳng mấy hiểu chữ nghĩa sách vở, rồi qua bao năm tháng thân phận cu-li như mình mà lại có ngày trở thành nhà văn, nhà chép sử... Có thể anh thật lòng, mà hoặc có khiêm tốn mà nhận vậy đi chăng nữa thì cũng đâu có khác gì nhau, đều là đáng quý cả. Sau đó, chúng tôi còn đôi ba lần, đến thăm anh vào kỳ nghỉ cuối tuần. Riêng tôi và anh, có thêm vài kỷ niệm nho nhỏ. Lúc chuyện trò về văn chương, anh cho biết là người quen trong nước thỉnh thoảng gửi cho anh dăm cuốn sách nên anh không đến nỗi quá lạc hậu với tình hình văn học nước nhà. Rồi anh khen văn Ngô Tự Lập mới mẻ. Tôi có tặng anh một tập truyện ngắn của tôi do NXB Hà Nội ấn hành. Mấy ngày sau, anh gọi điện đến nơi tôi ở, nói hào hứng là đã đọc xong tập truyện của tôi và không khách sáo bảo là viết bình thường, chắc tay, có đôi ba truyện được, đặc biệt khen truyện Biển của một thời... Vào dịp trước lễ Giáng sinh năm ấy, chúng tôi chuẩn bị về nước, có tranh thủ làm một magazine về người Việt ở Pháp với Tết dân tộc. Khi chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn thu thanh anh Long, anh nhắc đến ký ức về những cái Tết tuổi thơ nghèo khó mà vui xa xưa từ ngày chưa sang Pháp và kề chuyện cùng vợ con và những người Việt Nam ở Pháp tổ chức đón Tết cổ truyền dân tộc, xúc động quá nên cơn đau tim bột phát. Chúng tôi bị một phen hoảng hồn, may nhờ có máy chỉnh nhịp tim và dùng thuốc kịp thời nên qua khỏi, nếu không chúng tôi sẽ ân hận nhường nào!...
Thực ra, sau khi giải ngũ khỏi kiếp lính thợ, vì mặc cảm với thân phận mình nên suốt bao năm trời cắm đầu nơi xứ người mà sống, đến lúc tuổi cao sức yếu bệnh tim đeo đẳng dù nhờ quê hương bản quán lắm lắm song cũng không thể về được nữa. Anh tâm sự, thôi thì chỉ còn cách giãi bày, trút hết nỗi niềm thành kính, thương yêu da diết Tổ quốc, quê cha đất tổ bằng ngòi bút, viết nên những điều tâm huyết nhất. Cũng chẳng biết rồi những gì mình viết ra giá trị đến đâu, chỉ biết, khi viết, mình đăm đăm với ý tưởng vạch rõ bộ mặt thật của thực dân, đế quốc và mong muốn thể hiện đức tính trung trinh, can đảm, chịu thương chịu khó để vượt lên số phận của người Việt mình dù trong bất cứ cảnh ngộ nào. Âu cũng là cách trả nghĩa công sinh thành của cha mẹ, quê hương của người con tha hương...
Có lẽ, cũng chính vì lẽ ấy, tôi không gọi Đặng Văn Long là nhà văn, mà gọi anh là người văn, là để nhấn tới tính cách con người, một người Việt yêu nước, hơn là sự đóng góp về văn chương trong anh, cùng còn bởi, tác phẩm của anh có giá trị tư liệu hơn là gí trị về văn học.
Tôi nhớ, hôm chúng tôi đến thăm anh lần cuối trước khi về nước vì biết rằng khó có ngày gặp lại, anh bồi hồi chìa bàn tay già nua nhăn nheo để chúng tôi nắm. Tay kia anh luôn để lên ngực trái xoa nhẹ, nơi chiếc máy trợ tim thường trực canh gác trái tim anh, chép miệng: “Khổ thế, mấy em ơi... Anh ước ao một ngày nào đó được ngồi trên máy bay như mấy em đây mà về...!”. Anh lại nghẹn lời trong cơn xúc động... Chỉ một ngày sau khi về đến Việt Nam, cả mấy đứa chúng tôi đều nhận được cú điện thoại anh gọi về từ Pháp, ân cần hỏi thăm tình hình đi đường và chúc sức khỏe gia đình trước dịp Tết dương lịch.
Kể từ ấy, đến nay đã dăm năm trôi qua, tôi vẫn luôn có tin tức về anh qua những người quen, phần đông là dân báo chí, văn nghê, chúng tôi vì mỗi dịp đến Paris đều ghé thăm căn hộ của anh Long. Trước lễ Giáng sinh năm nay (2002) chừng nửa tháng, có tin anh Long qua đời ở độ tuổi ngoại tám mươi. Thế là ngưng đập một trái tim đau, một trái tim tha hương luôn hướng về nguồn cội. Thì cứ cho rằng, những trang văn, trang sử anh viết chỉ là vì yêu tha thiết con người và quê hương đất Việt, và như anh tự nhận, là nghiệp dư đi chăng nữa, thì cái chúng ta biết đến và quý trọng ở Đặng Văn Long là tấm lòng kia mà!...
Vậy là, từ tết Nhâm Ngọ, anh không còn được vọng xuân dân tộc như bao xuân trước, và ước mong một đời của người con xa xứ được một lần trở về thăm quê của anh không thành. Nhưng đấy là chuyện của một con người bằng xương bằng thịt. Chứ thực ra, nói theo tâm linh người Việt chúng ta, thì giờ đây, anh đã thuộc về hư vô,và ở cõi ấy, chẳng cần phải tàu há mồm, cũng không cần máy bay, anh hoàn toàn tự do trở về quê hương, không ràng buộc bởi bất cứ thứ gì. Vả lại, với Đặng Văn Long, tất thảy những gì anh viết trước đấy thực sự là sự trở về với cội nguồn rồi!...
Chơi vườn Luxembourg
Vườn Luxembourg tôi đã biết nó khi theo chân chàng Ma-ri-uyt rón rén bám đuổi cái bóng nàng Cô-dét trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo. Vườn Luxembourg tôi đã biết với đoạn văn nổi tiếng mà những thế hệ trước tôi hay nhắc đến của nhà văn Anatole France (Giải thưởng Nobel năm 1924) từ bản văn Bóng xưa: “… Tôi sẽ nói với bạn những gì tôi thấy khi qua vườn Luxembourg những ngày đầu tháng mười. Vườn Luxembourg hơi buồn nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết. Những lá vàng, từng chiếc, từng chiếc rơi đầy hai vai những pho tượng…”
Với riêng tôi, có gì đó vừa tuyệt đẹp lại xa vời, ngỡ như chẳng bao giờ mình được thấy tận mắt. Vậy mà, giờ thì tôi đang đứng trong vườn Luxembourg rồi!
Thực ra, khi vừa mới ở ga métro hay R.E.R gì đấy dưới lòng đất Paris trồi lên mặt đất, bắt gặp một không gian cây cối ở ngay trước mặt, người tôi khẽ run lên. Một cảm giác thật khó tả cứ trào dâng trong lòng tôi. Vườn Luxembourg là đây ư?! Bấy giờ là trung tuần tháng mười một, chứ không phải là tháng mười khi năm học mới bắt đầu, và tôi cũng không phải là cậu học trò hay ngài Anatole France đi tìm kỷ niệm xưa theo rình cái bóng của mình, tôi chỉ là một người khách xa lạ từ phương Đông lần đầu đặt chân đến đây với cả lòng ngưỡng mộ ấp ủ từ lâu. Vậy thôi. Hà cớ gì phải rón rén? Nghĩ thế rồi mà bàn chân tôi cứ ngập ngừng, bước bước lại dừng. Là tôi sợ mình bỏ sót gì chăng. Ngay trên lối đi cổng vào một cây lớn vàng rực toàn thân mà tôi không biết gọi tên chi. Hẳn là những chiếc lá vàng trên cây kia đã bao mùa thu rồi buông rơi từng chiếc một xuống vai các pho tượng. Tôi đứng hồi lâu dưới gốc mà chẳng có một chiếc lá vàng nào rụng xuống, chỉ có đám lá vàng đã rụng từ bao giờ đang khô thiếp dần đi thì chốc chốc lại khẽ xào xạc nơi mặt đấy mỗi khi làn gió bấc thổi lùa đi. Một cảm giác buồn buồn, nhột nhột, nơi chân tóc cổ áo như có kiến hay sâu tơ chạm vào. Tôi ngửa mặt nhìn mãi vừng vàng, lưu luyến chẳng muốn rời chân đi. Loanh quanh theo các lối của vườn, tôi và mấy người bạn cùng đi lâu lâu một ai lại ồ lên thích thú, trầm trồ buột miệng khen ngợi gì đó. Giữa vườn có hồ nước nhỏ, thiên nga, vịt trời, chim chóc từng bầy ngụp lặn, phơi hóng bộ cánh, hoặc nhẩn nha nhặt nhạnh chút thức ăn, hay dạn dĩ xán gần lẩn quẩn chân du khách. Tôi đặc biệt thích thú những chậu cúc. Đủ loại cúc vàng, cúc nâu hoa nở rực rõ như đơm xôi trên những chiếc chậu cổ, mà mỗi chiếc chậu mang một kiểu dáng khác nhau, có chiếc được tạo thành bởi khóm tượng những hài đồng. Vì thế, mỗi chậu hoa cúc có thể xem là một tác phẩm nghệ thuật. Đông đúc và náo nhiệt nhất vẫn là khu vui chơi với trò cưỡi ngựa. Khách chơi vườn xúm đông xúm đỏ mua vé đợi đến lượt mình cưỡi ngựa. Những chú ngựa cảnh giống lùn, chân to hiền lành, mệt nhoài bởi cứ phải chạy đi chạy lại trên một tuyến đường định sẵn để chiều lòng những du khách muốn có cảm giác của các kỵ sĩ trong chốc lát. Khác hẳn Disneyland với các trò chơi nhân tạo kỳ thúc mang cảm giác mạnh, những trò chơi ở vườn Luxembourg dân dã và gần gũi với tự nhiên. Để ý quan sát, tôi cảm nhận, ngoại trừ những khách du lịch nước ngoài hay người từ các thành phố, tỉnh lẻ của Pháp đến đây cho biết, như kiểu chúng tôi chẳng hạn, còn phần đông người Paris chơi vườn Luxembourg đều có nhu cầu thư giãn tĩnh tâm, hoặc giả trai gái yêu nhau hò hẹn tâm tình, và nữa là lũ học trò lẩn vào đây tìm góc yên tĩnh để ôn luyện bài vở…
Dạo mãi trong vườn chưa thỏa, mấy chúng tôi nảy ra ý định hơi điên rồ là thả bộ vòng quanh hàng rào phía ngoài vườn ngắm cảnh phố phường. Phía đông là Boulevard Saint Michel (đại lộ Thánh Misen) sầm uất, ranh giới của hai quận 5 và 6. Phía Bắc là Rue Medicis và Rue de Vaugirard, hai phố này án ngữ mặt chính của vườn. Phía Tây là Rue Guynemer và Rue d’Assas. Còn mặt Nam là Rue Auguste và Comte. Những phố bao bọc quanh vườn đa phần theo kiểu kiến trúc đặc trưng miền Bắc nước Pháp, nhà cao cỡ từ ba, bốn đến bảy, tám tầng liền nhau màu xám xịt, khá cổ kính. Thực hiện xong ý định điên rồ đó, chúng tôi đều mỏi nhừ, người râm rấp mồ hôi mặc dù trời chiều Paris đang lạnh chừng 3 – 4 độ C.
Với thời gian chừng tháng rưỡi ở Paris, vì bận học hành, công việc nên tôi chẳng còn thời gian quay lại chơi vườn Luxembourg lần nào nữa. Vả lại, những ngày nghỉ cuối tuần sau đó, chúng tôi phải dành để đi chơi các điểm du lịch nổi tiếng khác và đặc biệt chúi đầu vào mấy viện bảo tàng. Giờ đây, có lẽ ấn tượng sâu đậm nhất nơi tôi về Paris là buổi chơi vườn Luxembourg. Cứ mong có ngày được trở lại Paris.
Và khi ấy, dù mới chỉ một lần, tôi đã có thể như nhà văn Anatole France xưa, rón rén từng bước lần theo cái bóng của mình trên mọi lối đi ngóc ngách của vườn mà sống lại kỷ niệm cũ…
(1996)
Ps: Kể từ ngày ấy, cho đến mùa thu năm 2012, tôi mới có dịp trở lại nước Pháp, và may mắn làm sao, Trường ENA (Học viện Hành chính quốc gia Pháp ), nơi tôi theo học khóa đào tạo ngắn hạn, lại nằm kế bên vườn Luxembourg. Vậy là tôi có cả nửa tháng trời, ngày học nào cũng dùng bữa ăn trưa nhẹ tự túc ngay tại vườn Luxemboug, rồi tha thẩn chơi vườn cho đến giờ học buổi chiều. Vâng, vẫn là mùa thu lá đỏ lá vàng rực, vẫn những chậu cúc thu màu sắc tuyệt đẹp, vẫn những chú thiên nga, vịt trời nhẩn nha trên mặt nước hồ trong vắt tới đáy, vẫn vòm trời thu xanh ngắt cùng những cụm mây trắng nhẹ rong chơi, vẫn những cặp tình nhân ôm ghi nhau trên ghế đá, vẫn những cô cậu học trò sinh viên một mình lặng lễ đọc sách, ôn luyện thi cử, và vẫn những pho tượng trắng lác đác lá vàng ngủ trên bờ vai...
Tôi đã xúc cảm mà viết bài thơ "Luxemboueg, mười sáu tuổi thêm" (bài thơ có trong blog này), có những câu thơ:
"...Ta lặng ngắm
thu Paris chừng vậy,
bồi hồi
nhớ ngày thu năm ấy,
Luxembourg
vườn tình
mười sáu tuổi thêm...".
Sau đó, tôi còn nhiều lần trở lại khu vườn tuyệt diệu này. Mỗi lần mỗi xúc cảm, và ký ức thì mỗi dầy thêm..
Tàu điện, giao thông hay là văn hóa?
Tôi nhớ, vào những ngày cuối cùng của năm 2006, có hai thông tin gây nên trong tôi cùng một xúc cảm. Đó là, Hà Nội công bố khởi công xây dựng ga đầu mối tuyến metro đầu tiên tại Nhổn và Paris khánh thành tuyến xe điện nổi dọc theo bờ sông Xen.
Sở dĩ hai tin ấy lại gây cho tôi một cảm xúc chồng lấn là bởi, tôi đã có cả một thời tuổi thơ sống với xe điện Hà Nội và nhiều ngày lặn ngụp trong những tuyến metro ngầm của Paris. Thêm nữa, lại đặt trong bối cảnh khi mà cái lối giao thông, nhất là giao thông đô thị, Việt Nam mình chẳng giống ai...
Trở lại mươi năm trước, tôi cùng đồng nghiệp báo chí có vài tháng trời ngang dọc Paris khi theo một khóa tu nghiệp, và lẽ dĩ nhiên, chúng tôi chọn một phương thức đi lại duy nhất, rẻ tiền và tiện lợi nhất là metro. Paris có cả thẩy 13 tuyến metro ngang dọc chằng chịt, đó là chưa kể những tuyến RER ( xe lửa ngoại ô ) nối với các tuyến metro và hàng trăm tuyến xe buýt. Tôi thuê nhà ở của Việt kiều tại vùng ngoại ô phía Đông là Montreuil nên tuyến metro hằng ngày chúng tôi đi học và đi thực tế hoặc đi chơi cuối tuần là tuyến số 9, khởi nguồn từ ga đầu tiên phía đông - Marie de Montreuil. Còn như muốn đi đâu đó khắp Paris, vào đến ga đầu mối Nation, là có thể đổi sang tuyến số 1, số 2, số 6, và khi sang một trong ba tuyến ấy, đến các ga đầu mối khác lại có thể đổi sang một vài tuyến mới. Cứ như vậy, nếu không trồi lên mặt đất và khéo chọn tuyến, ta có thể cả ngày chui trong lòng đất Paris chỉ với một vé vào cửa ban đầu. Lẽ dĩ nhiên, khi bước sang lãnh địa của RER thì phải trả thêm vé vào cửa khác (nếu không sẽ bị phạt, 100 franc cho một lần vi phạm) và ngay cả khi ta không để ý loanh quanh thế nào cũng dễ vấp phải cửa ngăn cho một lần trả vé khác (đấy là cái tài của các nhà quy hoạch và quản lý hệ thống này). Với những ai chưa từng đi, sẽ hỏi, chui rúc dưới đó không thấy được cảnh sắc phố phường thì có gì lý thú? xin thưa, đấy là cả một thế giới sống động, đơn giản bởi trước hết, có đến già nửa dân Paris và ba phần tư khách du lịch chọn hình thức giao thông này. Tôi luôn giữ ấn tượng về những dòng người tuôn chảy vội vã nửa đi nửa chạy trong những lối đi ngầm khi đổi tàu, nhất là lúc trồi lên mặt đất, rồi đó là những biển quảng cáo sắc màu trăm thứ bà giằn, những siêu thị liên thông, những ban nhạc rong, những kẻ thất nghiệp xin tiền và cả những tên láu cá trộm cắp vặt v.v... Bằng metro, ta có thể đến hầu như tất cả các điểm du lịch hoặc mua sắm, ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris như: tháp Eiffel, vườn hoa Luxembourg, Khải Hoàn Môn trên quảng trường Charles de Gaull - đại lộ Champs Elysses, Bảo tàng Louvre, điện Tuileries và Versailles, Nhà thờ Đức Bà ( Notre Dame des Champs), Tòa Thị chính; rồi nữa là toà nhà chọc trời Montparnasse, đồi Montmartre với khu chợ tranh nổi tiếng, khu chơi bời St. Denis, Pigal v.v....
Dạo ấy, mỗi khi ngồi trên metro vun vút trong lòng đất Paris, tôi lại nhớ về những tuyến xe điện thô sơ leng keng đi về sớm tối với những tuyến Bờ Hồ-Chợ Mơ, Bờ Hồ- Hà Đông, rồi Yên Phụ, Bưởi, Vọng của Hà Nội thuở nào, mà cũng lại do người Pháp khởi nguồn từ thời Pháp thuộc. Ngày nhỏ, nhà tôi ở ngõ Trúc Lạc trên phố Phó Đức Chính, thế là mỗi khi đi đâu, tôi lại được bố mẹ, các chị dắt đi tắt qua ngõ Năm Gian ngược dốc lên đê Yên Phụ để đi tàu điện. Cứ thế leng keng, những chuyến tàu cũ kỹ đi về suốt tuổi thơ tôi, và nó càng da diết khi gia đình tôi rời thành phố về quê Hưng yên sinh sống. Leng keng, bền bỉ, nhẫn nại khuya sớm tàu điện suốt cả thời bom đạn Mỹ, mãi đến yên hàn thống nhất đất nước... Rồi tuổi sinh viên tôi lại lấy đó là phương tiện đi lại chính với những kỷ niệm khó quên của những lần trốn vé, nhảy tàu...
Hồi đó, ở Paris- trung tâm văn hoá văn minh châu Âu, tôi chưa có gì để so sánh ngoài chút hoài niệm về tàu điện Hà Nội. Gần đây, tôi đi công tác Nhật Bản, và với chục ngày ở Tokyo, tôi lại chọn phương tiện đi lại chính cho mình ở thủ đô hiện đại nhất châu Á này, metro. Lúc ấy, tôi đã có cái để mà so sánh, không, để mà nhớ về thì đúng hơn, ấy chính là metro Paris. Tokyo cũng có 13 tuyến metro, song có cảm giác nhiều tuyến nằm ở độ sâu hơn so với metro Paris. Thắc mắc ấy được một người quen của tôi, tiến sỹ y khoa Junichi Inaba giải thích, những tuyến metro nằm rất sâu đó là của tư nhân, bởi chính phủ Nhật Bản có chính sách khuyến khích đầu tư trong dịch vụ giao thông này bằng cách miễn thuế tài nguyên cho những công trình ở độ sâu 50m trở xuống trong lòng đất. Quan sát kỹ, tôi nhận thấy, người Nhật khác người Pháp, khi di chuyển trên metro, họ lại xem đấy là những giây phút hiếm hoi để thư giãn nghe nhạc hoặc chợp mắt ngủ. Dấu hiệu của một xã hội công nghiệp phát triển quá mức chăng?
Rõ ràng, metro không chỉ là dấu hiệu của một xã hội công nghiệp văn minh, đem lại hiệu quả to lớn về kinh tế, giảm ô nhiễm và tắc nghẽn giao thông đơn thuần mà còn có bóng dáng của văn hóa. Với người Pháp, với hệ thống metro văn minh như vậy, song họ lại cho sống lại một hệ thống tàu điện nổi dọc bờ sông Xen, thì ngoài việc góp phần giảm lượng xe hơi, tăng hiệu quả giao thông, giảm ô nhiễm, có một mục đích nữa nhắm tới là văn hóa-du lịch. Du khách đến Paris, có lẽ nào lại tiếc tiền mua một tấm vé lên chuyến tầu điện du ngoạn, ngắm cảnh sắc đôi bờ sông Xen?!
Ngẫm người lại nghĩ đến ta. Với tình trạng giao thông quá tải, lộn xộn và ô nhiễm nặng của Hà Nội hiện nay, tôi đã từng mơ đến một ngày kia xa vời là có metro. Giờ thì giấc mơ ấy không còn vô vọng nữa, dù vẫn phải chờ đợi lâu. Nhưng tàu điện nổi, Hà Nội đã từng có một thời, sao lại không hồi sinh bây giờ nhỉ?
Én xuân
Đầu xuân, Duy đi công tác lên biên giới phía Bắc. Anh cùng vài ba phóng viên trẻ của các tờ báo bạn được một ngành chức năng tổ chức đi thực địa khảo sát tình hình cai nghiện thuốc phiện ở vùng rừng núi. Đến thị xã Cao Bằng, đoàn dừng lại lâu hơn bởi đây là trọng điểm của chuyến đi.
Mấy hôm đầu đến các điểm cai nghiện tập trung, tiếp xúc với những con nghiện phần lớn đều ở độ tuổi trên dưới đôi mươi và khi hỏi chuyện, họ đều xem như chuyện hút xách là nhu cầu tự nhiên thì anh không khỏi rùng mình. Đến như anh, chỉ mắc mỗi tật nghiện thuốc lá, anh đã gặp bao nhiêu điều phiền nhiễu, nào vợ con kêu anh là “bếp than tổ ong khói um”, nào ngồi làm việc phòng máy lạnh mỗi khi hút thuốc lại phải ra ngoài hành lang, rồi lúc yếu người vừa hút vừa ho sù sụ… Sau đó, theo sự hướng dẫn của cán bộ chuyên trách sở tại, đoàn của Duy xuống các cụm dân cư ở vùng ngoại ô thị xã xem xét việc cai nghiện tại cộng đồng. Mọi người dừng trước một căn nhà mái bằng nhỏ và xinh xắn. Người cán bộ sở tại giới thiệu rằng chủ nhà là một người vừa cai nghiện đã dứt cơn, hiện đang ở trong thời kỳ phục hồi sức khỏe. Chủ nhà mới ngoài hai mươi chút ít. Anh ta pha trà mời mọi người. Theo thói quen nghề nghiệp, không đợi làm xong các thủ tục xã giao ban đầu, Duy bấm nút chiếc máy ghi âm nhỏ và hỏi chuyện luôn bởi anh hiểu như thế câu chuyện sẽ thoải mái hơn, hiệu quả hơn. Trong lúc anh hỏi chuyện, mấy cậu phóng viên trẻ tản đi quanh nhà. Thì ra, họ đang hỏi chuyện cô vợ chủ nhà ở buồng trong. Lúc anh bước vào thì liền đó, mấy ánh đèn flash nhoáng lên. Anh nhẩm bụng, mấy cậu này ranh mãnh thật. Trong lúc anh chồng mải nói chuyện với anh, các cậu đã tìm được cô vợ, thuyết phục cô để chụp mấy pô ảnh cảnh cô đang cho con bú, tạo ra một xen tuyệt vời về chủ điểm hạnh phúc gia đình. Xong việc, cô vợ trẻ bế đứa con mới sinh được ba bốn tháng bước ra chào tiễn khách. Duy hơi sững người. Người mẹ trẻ này có khuôn mặt khá xinh xắn, đôi mắt to thoảng chút u buồn trước tuổi và mái tóc đen dày, xoăn tự nhiên để dài đến eo lưng, được tết thành chiếc đuôi sam nặng trĩu. Từ gương mặt, ánh nhìn đến dáng vóc cô đều gợi lên trong Duy về một thiếu phụ mà anh đã tình cờ gặp gỡ cũng tại thị xã địa đầu này từ mười lăm năm trước. Cô gái hôm nay và thiếu phụ năm trước giống nhau đến lạ lùng. Chẳng lẽ, hai người là mẹ con của nhau? Có thể lắm chứ. Ngày ấy, người thiếu phụ cũng có một đứa con gái chừng năm, sáu tuổi, và bây giờ cũng bằng chừng này. Duy định hỏi cô gái một vài câu, song anh chợt nhận ra, cho đến lúc này anh cũng không biết tên thiếu phụ năm trước tên là gì…
gày ấy anh còn rất trẻ, tốt nghiệp Tổng hợp văn xong là anh chuyển sang bộ đội. Đơn vị của anh đóng ở Ba Bể. Một lần hành quân dã ngoại và luyện tập tìm địa hình, cả đơn vị từ nơi đóng quân ngược lên thị xã Cao Bằng. Đường đi gieo neo hiểm trở. Gần tới thị xã thì trời đã tối. Đêm mùa đông sập xuống nhanh chóng, sương giăng mờ mịt. Toàn đơn vị được lệnh tản ra và mỗi người tự tìm nơi nghỉ đêm trong dân. Lúc đầu anh hơi lo vì nghĩ rằng không biết mình có tìm được nhà nào xin ngủ nhờ hay không, hay là đành ngủ ngoài phố vậy. Chợt anh nhớ ra, cùng khóa học với anh có một cậu người thị xã này, anh sẽ tìm nhà cậu ta để ngủ nhờ. Nhưng rồi anh tìm mãi không thấy, bởi anh chỉ nhớ mang máng tên phố, vả lại việc tìm nhà lúc đêm hôm ở cái thị xã miền núi sau chiến tranh này thật chẳng khác gì việc tìm kim đáy bể. Anh mệt mỏi quẳng ba lô và bệt ngay xuống đất vừa thở vừa nghĩ. Già nửa thị xã mất điện tối om om. Ánh mắt anh bắt gặp ánh đèn dầu hỏa le lói lọt qua khe cửa của một căn nhà phía trên cao cách nơi anh ngồi không xa. Anh nhẩm bụng, đánh bạo tìm đến ngôi nhà đó xin ngủ nhờ. Quả quyết vậy, anh đeo ba lô lên vai mò đường đi. Rẽ phải rồi rẽ trái mấy lần, anh tìm được tới chân bậc đá. Lại lần sờ tay, leo một hồi theo các bậc đá, anh mới tới sân nhà. Anh đứng thở giây lát, trấn tĩnh và khẽ gõ cửa. Không thấy tiếng người, thưa anh lại gõ. Lần này, anh nghe tiếng phụ nữ hỏi ra: “Còn biết đường mà về nhà à?”. Anh hiểu là người trong nhà nhầm anh với một ai đó, song anh cũng không biết nói thế nào, bèn gõ cửa thêm. Người phụ nữ cất tiếng nửa giận dữ, nửa ấm ức: “Sao anh không đi hẳn đi… Đi khuất mắt cho mẹ con tôi được yên”. Trong nhà, người phụ nữ vỡ tiếng khóc. Anh định lên tiếng cải chính nhưng tự nhiên nghẹn lại. Từ lâu lắm rồi, khi anh còn bé, đã có lần anh thấy mẹ anh khóc như vậy, đó là lần bố anh thua bạc hết cả số tiền mấy mẹ con anh dành dụm để sắm Tết và mua quần áo mới cho anh và lũ em. Anh cay cay nới sống mũi. Người phụ nữ đã bớt khóc, chỉ còn tiếng thổn thức khe khẽ. Anh ghé vào khe cửa nói nhỏ: “Chắc chị nhầm tôi với anh nhà… Tôi là bộ đội, đi hành quân, lỡ độ đường, xin gia đình cho nghỉ nhờ qua đêm”. Người phụ nữ trong nhà hốt hoảng: “Ấy chết… Tôi nhầm, tôi xin lỗi”. Im lặng một chút, chị ta bảo: “Tôi không dám cho anh nghỉ nhờ đâu. Đàn ông vắng nhà… Không được… Ngộ nhỡ!...”. Anh lắp bắp: “Tôi là bộ đội thật mà!... Còn như, chị thấy phiền thì tôi đi vậy… Không sao cả. Tôi sẽ tìm được nhà khác cho ngủ nhờ”. Ngần ngừ một lát, anh chào: “Thôi tôi di nhé”. Anh quay người, lần tìm bậc đá trở xuống. Chợt sau lưng anh, tiếng chị ta gọi: “Anh gì ơi! Đừng đi nữa… Anh vào nhà đi, thế nào tôi cũng thu xếp được mà”. Anh định đi để không làm phiền chị ta nhưng nghe tiếng gọi thân thiết quá chừng, anh đành quay lên. Người phụ nữ đã mở tung cửa, tay chị cầm đèn soi cho anh bước vào.
Sau những câu xã giao, chị lấy nước cho anh rửa mặt, rồi pha nước cho anh uống. Chị hỏi anh đã ăn chưa, anh từ chối nhưng chị vẫn ép anh ăn một bát cơm nếp sắn. Vừa ăn, anh vừa ngầm quan sát, căn nhà tuy nhỏ nhưng gọn ghẽ. Nhìn chiếc bàn con kê góc nhà, trên để mấy quyển sách và tập giáo án, anh hiểu chị là giáo viên. Đứa con gái của chị thấy người lạ cứ nem nép bên mẹ, thỉng thoảng lại khẽ nhõng nhẽo điều gì đó làm mẹ nó gạt đi. Anh hỏi chuyện và đùa với nó nhưng nó chỉ nhìn anh không nói gì. Mọi việc xong xuôi, hai người ngồi bên ngọn đèn và chẳng biết nói chuyện gi cả. Lúc này anh mới có điều kiện ngắm kỹ, chị còn khá trẻ và có lẽ chỉ cỡ tuổi anh hoặc nhỉnh hơn đôi chút. Chị có khuôn mặt vẻ phúc hậu. Nhìn chị, anh nghĩ sao người trông phúc hậu lại sớm vất vả vậy. Anh hiểu người chồng của chị chắc mắc mớ chuyện gì đó và đã bỏ nhà đi đâu một thời gian vì thế mới có chuyện nhầm lẫn ban đầu. Anh nhìn đồng hồ tay, đã gần nửa đêm rồi, chẳng nhẽ cứ ngồi mãi thế này, anh bèn giục chị đi ngủ. Cả nhà chỉ có một chiếc giường to, chị áy náy vì chưa biết để anh ngủ đâu thì anh đã lôi từ ba lô ra chiếc võng và tìm nơi để mắc. Chiếc võng của anh mắc song song với chiếc giường nơi mẹ con chị nằm và chỉ cách nhau một tầm với. Sau khi anh ngả lưng xuống võng, chị mới hãm nhỏ ngọn đèn dầu, đặt lên bàn và vào màn nằm với con. Anh không ngủ được, nghĩ về cảnh ngộ của mình lúc nãy và bật cười khẽ. Chị cũng không ngủ được bèn hỏi sang: “Anh cười gì thế? Chắc cười chuyện tôi nhầm anh với nhà tôi lúc nãy?”. Anh lại cười: “Ồ không, tôi đang nghĩ là nếu như chồng chị về nhà lúc này thì sẽ thế nào nhỉ?”. Chị không trả lời, lát sau khẽ thở dài. Anh biết mình vô duyên nhỡ lời. Song quả nếu như chồng chị ta về nhà đêm nay thì chuyện gì sẽ xảy ra? Lại nghen tuông, nhầm lẫn chưa biết chừng đánh nhau cũng nên. Nghĩ rồi anh thấy lo lo. Chợt chị lên tiếng: “Anh nói quả có lý… Anh cũng chưa ngủ, hay ta nói chuyện gì đi, tôi không ngủ được”. Anh đồng ý, chị bảo: “Anh nói thế làm tôi làm tôi sinh lo. Ngộ nhỡ nhà tôi về, thật khó mà giải thích. Tình ngay lý gian…”. Anh hỏi: “Vậy anh ấy đi đâu bấy lâu nay?”. Chị lại thở dài: “Nói ra sợ anh chê cười. Xấu chàng thì hổ ai… Nhưng mà tôi cũng không có ý định giấu anh làm gì cả. Có lẽ, lúc này nói ra được với anh, không phải cầu lấy chút cảm thông của anh, mà lòng tôi nhẹ đi được chút nào chăng?”. Và chị kể.
Chị là người Kinh ở dưới xuôi theo gia đình đến đây lập nghiệp từ khi chị còn bé. Chị học trung cấp sư phạm và được điều động về một xã vùng ven thị xã dạy cấp một. Chồng chị bây giờ là người Tày gốc xã đó nhưng ra thị xã làm công nhân. Anh ta to khỏe, đẹp trai và tính tình rất thực thà. Hai người gặp nhau và yêu nhau. Lúc đầu chị còn ngần ngại nhưng anh ta si mê chị và bỏ bê cả việc làm để suốt ngày bám theo chị. Hai người thành hôn rồi thì chị mới biết là anh ta có tật nghiện thuốc phiện. Những ngày đầu, chị khuyên can, anh có bớt hút nhưng không bỏ được. Chị nghĩ, dần dà rồi sẽ giúp anh bỏ hẳn. Và năm tháng cứ thế đi qua. Đứa con ra đời. Chị trút tình thương vào đứa con và thầm hi vọng, vì hạnh phúc gia đình chồng chị sẽ dứt được nghiện ngập. Tiền lương của hai vợ chồng chỉ tùng tiệm đủ để sống, thế nhưng phải chi thêm vào khoản nghiện hút của chồng nên sinh túng thiếu. Anh ta thề sẽ quyết chí làm giàu. Một thời gian sau, anh ta đem về nhà khá nhiều tiền và xây căn nhà này. Chị hỏi thì anh ta chỉ cho biết là có buôn bán thêm. Và một lần, do tình cờ, chị biết chồng chị tham gia vào một nhóm buôn thuốc phiện lậu. Gia đình sinh lục đục, rạn nứt. Anh ta bỏ việc, suốt ngày đi đâu đó, hút xách và lâu lâu lại làm một chuyến thuốc kiếm tiền để hút. Và đến lúc ấy, anh ta đã bỏ nhà đi lâu hơn một tháng rồi…
Chị kể mà rân rấn nưới mắt. Anh cảm thông nhưng không biết khuyên giải thế nào. Vả lại, lúc ấy có khuyên thì cũng chẳng khác nào khía sâu thêm nỗi buồn phiền cay đắng của chị. Chợt trong nhà đèn dầu tù mù, anh nhìn nơi hốc tường góc nhà có một vật gì trắng xám mông mốc, anh bèn hỏi để lảng chuyện khác, để chị quên chuyện buồn. Chị bảo: “Tổ chim én đấy”. Anh ngạc nhiên thực sự: “Chim én. Sao chim én lại làm tổ trong nhà thế nhỉ? Tôi không tin!”. Chị cãi lại: “Thật mà. Có một đôi én làm tổ ở đó đã ba năm nay rồi. Năm nào cũng vậy, cứ đông về là chúng bay đến phương nam, đến độ cuối đông, xuân sắp về là chúng lại quay về đây. Chúng đúng hẹn lắm. Có lẽ chỉ ít ngày nữa là chúng trở về… Đôi chim quyến luyến, ríu rít nhau lắm!”. Anh chẳng biết nói gì, miệng lưỡi của chàng cử nhân văn khoa như cứng lại. Một lúc lâu anh mới thốt lên: “Thiên nhiên thật là kỳ diệu”. Chị đáp theo: “Vâng… Sao mình là người mà không bằng được chim!”. Nghe chị, anh rưng rưng. Chị bảo: “Thôi ta ngủ đi. Ngày mai chắc anh còn phải hành quân… Còn tôi cũng phải lo bao nhiêu là việc”. Nói rồi chị trở mình quay mặt vào trong. Im lặng. Anh lén đưa mắt nhìn sang, chỉ thấy qua bức màn, mái tóc dày quăn của chị xòa trên gối, đường cong từ bờ vai chạy xuống eo, vòng lên hông và thuôn về phía chân thật mềm mại. Anh lẩm bẩm trong miệng: “Con người thật là kỳ diệu”…
Đã nghe tiếng chị thở đều đều. Anh nằm ngửa trên võng, nhìn mông lung lên trần nhà. Một tình cảm vừa thương xót, cảm thông, vừa rạo rực khát khao dâng lên trong lòng. Anh đặt hai tay lên ngực mình nén xuống, nhè nhẹ, nhè nhẹ,… Và anh ngủ lúc nào không biết.
Anh và chị nắm tay nhau chạy trên bờ sông. Bạt ngàn những dâu. Dâu lúc lỉu quả. Những quả dâu to và chín mọng. Anh vít một cây dâu to, hái lấy mấy quả dâu chín. Anh xòe lòng bàn tay nhón từng quả đưa vào miệng chị. Chị vừa nhai vừa trêu đùa anh. Nước dâu ứa ra bên khóe miệng chị tím xịm. Anh ghé môi khẽ liếm chút nước dâu trên khóe miệng chị và thấy ngọt ở đầu lưỡi. Chị vùng ra, chạy ào xuống mép nước, anh vùng đuổi theo. Chị lội xuống nước và khi anh ào tới nơi thì chị chụm hai tay té nước vào mặt anh. Anh nhao xuống, chị quay người lội ra giữa dòng nhưng nước sâu không lội được. Chị chới với và anh nhoài người ra ôm chặt lấy chị. Anh xốc chị lên. Tóc chị ướt đẫm, quần áo dán vào người. Khuôn ngực nở hô cao của chị chạm vào ngực anh. Và anh ôm ghì lấy chị… Anh thấy mình bồng bềnh, khoan khoái…
Và anh mở mắt. Vật anh nhìn thấy đầu tiên là tổ chim én nơi góc nhà. Anh bần thần giây lát nghĩ xem mình đang ở đâu. Anh hiểu ra. Anh khẽ cười. Chợt anh nhớ là chị đang ngủ ở chiếc giường bên cạnh võng của anh, bèn nhìn sang. Chị đã không còn nằm ở đó, chỉ còn đứa bé gái con chị. Anh nhìn qua khe cửa ra sân, trời đã rạng. Anh ngồi dậy và ra khỏi võng. Nhìn quanh quất, cửa trước vẫn chốt trong. Thì ra căn nhà còn có cửa hậu. Anh khẽ đẩy, cánh cửa hậu mở ra và anh bước xuống mảnh sân sau con con. Trước tầm mắt của anh là dòng sông. Đúng là sông Bằng rồi. Dòng sông mùa cạn nước thu lại thành một dải manh mảnh. Hai bên bờ cũng toàn là dâu. Những cây dâu thân cao gày khẳng khiu, loáng thoáng búp lá nõn. Anh nhìn kỹ nhưng chẳng thấy có trái dâu nào như giấc mơ đêm qua. Anh ngơ ngần chẳng hiểu chị chủ nhà đi đâu. Và anh ngửi thấy mùi khói bếp, rồi mùi ngô nướng thơm thơm. Anh nghĩ, chị ấy đây rồi. Và anh đi về phía căn bếp nhỏ, ở góc sân sau. Đến bên cửa bếp, anh dừng lại nhìn vào. Chị đang ghé đầu thổi lửa. Những bắp ngô hồng lên trên than. Không quay lại, chị hỏi nhỏ: “Anh đã dậy rồi đấy à?”. Anh thấy vui vui trong lòng và bông lơn: “Ồ, tôi ngủ say quá. Sợ không biết có ngáy làm chị mất ngủ không?”. Chị cũng tươi tỉnh: “Không đâu… Chắc anh mơ thấy điều gì hay lắm… Buổi sớm tôi dậy nhóm lửa, đi ngang qua võng thấy anh khẽ cười trong giấc ngủ… Anh thật hạnh phúc!”. Chị cười. Anh cảm thấy thế. Anh nói: “Tôi mơ thấy…”. Chỉ chút nữa là anh bật ra câu nói: “Mơ thấy chị”, nhưng anh kịp dừng lại, và anh vội chữa: “Mơ thấy đôi chim én trở về”. Và thật kỳ lạ thay, tai anh nghe vẳng đâu đó tiếng chim chíp chiu…
Chị tiễn anh. Trong ba lô của anh có mấy bắp ngô nướng. Anh đi chậm rãi từng bậc đá. Xuống tới chân dốc vườn. Anh quay nhìn lên. Chị vẫn đứng ở nơi đầu dốc. Và cách chị chút ít là cây đào lổ trổ đôi ba nụ phớt hồng. Anh nhìn chị trân trân. Chị đưa bàn tay lên ngang bờ vai khẽ vẫy. Anh thấy mình phấn khích, bắc tay làm loa với lên: “Đôi chim én sẽ trở về…!”. Anh nhìn chị lần cuối và quay lưng bước đi, miệng lẩm bẩm: “Đôi én xuân sẽ trở về. Trở về…!”.
Đã từng ấy năm rồi. Anh không biết đôi chim én có trở về đúng hẹn hay không? Ừ mà không biết có phải đúng đó là tổ chim én thật không, hay chị chỉ bịa ra thế để lúc ấy có chuyện mà nói, để chị tạm quên đi cảnh ngộ hiện tại của mình, tự xoa dịu lòng mình, và để anh hiểu là chị vẫn sống rất lạc quan?
Với anh, cái đêm ấy thật đặc biệt mà cũng lại bình dị. Thực ra, chỉ là chuyện của một chàng lính thư sinh lỡ độ đường ngủ nhờ nhà một thiếu phụ có cảnh ngộ éo le. Cái đêm ấy sẽ chẳng là gì nếu như không có câu chuyện về đôi chim én đi trú đông cứ đến độ xuân sang lại ríu rít trở về chốn cũ; nếu như không có giấc mơ về bãi dâu ven sông, và cảm giác va chạm da thịt; nếu như không có những bắp ngô nướng thơm lừng mà chị nướng vội để nhét vào ba lô của anh; và nếu như không có cây đào lác đác trổ hoa nơi đầu dốc ngõ vườn… Anh ra đi mang theo trong lòng niềm hứng khởi về cuộc sống. Còn chị, chị sẽ lập tức phải trở về với đời sống thực tại gia đình có người chồng nghiện ngập… Gía như anh không tới, không xóc vào cái đời sống bế tắc của gia đình chị thì có phải chị cứ cam tâm sống như vậy, chịu đựng như vậy một cách bình thản không! Liệu sự xuất hiện của anh có đem đến cho chị một liều thuốc phiện hay không? Hút một lần rồi để không bao giờ có nữa. Đấy là anh cứ tự huyễn hoặc vậy, chứ có thể với chị, câu chuyện đêm ấy chỉ là một cơn giớ từ sông Bằng thoảng qua. Thậm chí, có khi chị còn buồn cười vì đã làm cho anh tin một cái tổ tò vò vớ vẩn nào đó là tổ chim én, tin rằng đôi én xuân là một sự kỳ diệu của trời đất!...
Duy cứ tự lục vấn mình như vậy. Suốt dọc đường từ Cao Bằng trở về Hà Nội, anh luôn bị ám ảnh rằng người mẹ trẻ anh vừa gặp là cô bé con thiếu phụ năm nào. Nếu đúng, thì trời đất thật trớ trêu. Nhưng dẫu sao, anh chồng trẻ của ngày hôm nay đã biết nhấn phanh đúng lúc trên cái dốc trượt thăm thẳm của sự đam mê bệnh hoạn.
Một cú xóc nảy người. Xe đang phóng nhanh vượt qua chiếc ổ trâu giữa đường không kịp giảm tốc độ. Mấy cậu phóng viên trẻ đang ngủ gà ngủ vịt bừng tỉnh hét lên, rồi sau đó câu chuyện giữa họ lại râm ran. Anh nhìn ra bên ngoài, một cây đào phai chơ vơ bên mỏm đá rìa đường, hoa nở bung, cánh phớt hồng rắc tơi bời trong tiết muộn…./.
Vòng đá Ngũ hành sơn
Từ miền Tây, Tâm lên thành phố Hồ Chí Minh đi phép ra Hà Nội. Anh đi nhờ xe của cơ quan người anh họ đưa đoàn văn nghệ đi hội diễn toàn ngành. Xe khởi hành quá sớm, đến thị trấn Hố Nai trời mới sáng. Lúc này, người anh mới giới thiệu Tâm với cả đoàn. Mọi người vui vẻ bắt tay anh, người sau cùng là một cô gái xinh xắn, dễ thương, gọn gàng trong bộ đồ thể thao, tuổi chưa đến đôi mươi. Cô chìa bàn tay thon thả cho Tâm và khẽ nghiêng mình:
- Mai Quyên rất vui mừng được làm quen với anh!
Đi cùng với đoàn văn nghệ, ngoài Tâm ra còn có ông Trần, một nhạc sĩ già từng nổi tiếng bởi những ca khúc trữ tình đượm màu sắc dân ca của nhiều vùng quê. Dọc đường đi, Tâm hoặc chúi đầu vào tập truyện của nhà văn Pháp Andre Maurois hoặc trao đổi với nhạc sĩ Trần. Mai Quyên ngồi băng ghế bên cạnh anh. Cô luôn miệng khẽ hát một vài ca khúc nước ngoài, thỉnh thoảng lén quan sát anh, và khi Tâm chợt nhìn sang thì cô vội lảng nhìn ra ngoài đường, nói lảng câu gì đó, đại loại như “Ủa, trên cây kia có một chú chim”, hoặc “cây gì kia nhìn lạ hoắc”. Cô hay trêu mấy cô bạn diễn viên, đôi khi lại chun chiếc mũi thanh tú mà nũng nịu với nhạc sĩ Trần “Chú ơi, hát bài gì cho tụi con nghe đi”. Cô bé như một chú chim vành khuyên hiếu động và ngộ nghĩnh, Tâm thầm nghĩ. Thế nhưng, sau cái bắt tay làm quen lúc đầu, cô không có cử chỉ dùng sợi tóc ngoáy mũi Tâm khi anh ngủ quên trên xe thì anh cũng chẳng dám đùa với cô bằng những lời thân mật.
Đoàn ra đến Đà Nẵng vào một ngày mùa đông mưa rét làm thành phố xám xịt và ẩm ướt. Theo lịch trình, đoàn sẽ nghỉ ở Đà Nẵng chừng một tuần để tập dượt và duyệt lại chương trình dự thi. Tâm và nhạc sĩ Trần vì đi nhờ nên sốt ruột song cũng đành chờ. Những ngày này, nhạc sĩ Trần ở lì khách sạn, đi ra đi vào, lúc buồn ông lại tợp suông hớp rượu lấy hứng và ôm đàn hát say sưa các bài hát của mình. Tâm giết thời gian bằng mấy cuốn truyện, bằng những câu chuyện linh tinh với nhạc sĩ Trần, bằng sự lang thang trong thành phố lạ, thảng có lúc anh tạt vào phòng tập xem họ biểu diễn.
Một ngày đẹp trời, mọi người đi chơi phố hết. Tâm hơi mệt nên anh ở lại khách sạn. Đọc sách chán, anh vớ cây ghi ta chơi vài bản quen thuộc. Vừa hết bản “Thư gửi Elyse” của Bet-thô-ven thì anh nghe tiếng gõ cửa. Cửa mở ra, Mai Quyên đứng trước mắt anh, trên tay là chiếc ấm pha trà:
- Bên anh còn nước nóng cho em xin chút xíu.
Tâm thoáng ngạc nhiên, anh mời cô vào phòng. Cô khép nép ngồi xuống ghế xa lông, phụng phịu:
- Em hổng có nơi đi. Mấy anh chị qua lại đây nhiều lần, lắm bạn, nay bỏ em đi chơi hết trọi. Tức thiệt!
- Thì anh em mình nói chuyện cũng vui chứ sao - Tâm tủm tỉm.
- A… - Cô reo lên - Anh chơi ghi ta đi. Vừa rồi em nghe hay lắm đó.
Từ chối không được, Tâm đành chơi bản “Adelita” của Tarrega, bài tủ của anh thật điêu luyện rồi quả quyết buông đàn. Cô nài anh chơi tiếp. Tâm lảng:
- Đi xa, Mai Quyên có nhớ nhà không?
- Có chớ, nhớ ba má, nhớ các em, nhớ thành phố.
- Và nhớ người yêu nữa chứ?
- Hổng đâu ghen.
- Sao thế? Hay chưa có? Mai Quyên còn nhỏ mà!
- Còn nhỏ - Cô trề môi - Có anh Tâm nhỏ thì có.
- Thế rồi, cô kể chuyện về người yêu của mình. Cậu ta học trên cô một lớp. Hết phổ thông, cậu ta không thi đại học mà vào bộ đội nói là “rèn luyện phẩm chất”. Thấy Tâm cười, cô tròn mắt rồi cười theo:
- Thiệt đó? Với ảnh em vừa ghét vừa thương. Còn anh Tâm?
- À, anh thì… Tâm lung túng bởi sự phản công - Trước có, giờ thì không. Được chưa nào?
- Hổng tin.
- Tùy em.
Vừa lúc đó thì nhạc sĩ Trần bước vào:
- Xin lỗi hai bạn trẻ.
Nhìn Tâm, mắt ông hấp háy cười vẻ trẻ trung sau cặp kính cận. Ông lục túi tìm thuốc lá rồi đi ngay. Trước khi khép cửa phòng lại, ông tinh nghịch buông một câu tiếng Pháp:
- C’est très bien. Més voeux de bonhéur (Rất tuyệt. Chúc hạnh phúc)
Nhạc sĩ Trần đi khỏi, Mai Quyên cũng xin phép trở về phòng mình. Cô bỏ quên chiếc ấm trà và Tâm hiểu chẳng qua cô lấy cớ xin nước nóng để bắt chuyện với anh.
Ngày tiếp theo lại là một ngày đẹp trời. Gió bắc thổi. Nắng chan hòa. Mọi người náo nức chuẩn bị cho chuyến đi Ngũ Hành Sơn.
Xe đậu dưới chân núi. Bậc đá quanh co dẫn mọi người lên chùa Linh Ứng phảng phất mùi hương trầm. Tâm và Mai Quyên đứng bên nhau trên đỉnh Vọng Hải Đài nhìn ra xa, biển hiện lên xanh thẳm với dẫy Sơn Trà nhấp nhô. Mắt cô sáng lên. Đến cửa động Huyền Không cô so vai e sợ. Mọi người xuống hết, chỉ còn Tâm. Cô quơ tay chạm phải tay anh liền nắm chặt lấy, kêu khẽ:
- Ôi, tối quá, hổng thấy đường.
- Cứ nắm chặt tay anh - Tâm hân hoan - Anh sẽ đưa em đến bất cứ nơi đâu dù là thiên đường hay địa ngục.
- Xạo hoài - Cô nũng nịu.
Khi hai người xuống tới lòng động thì mọi người đã tản ra các góc. Sau giây phút ngây ngất vì được nắm cổ tay tròn trịa, mềm mại của Mai Quyên, Tâm hứng khởi dắt cô đi thăm thú. Anh thao thao kể về sự tích của từng hòn núi, anh còn đọc cả bài thơ của Bảng nhãn Phan Qúy viết từ thuở xưa ca ngợi Ngũ Hành Sơn khiến cô tròn mắt thán phục. Tâm xòe tay hứng dưới núm vú Cô Tiên và kì lạ thay một giọt nước trong vắt rớt xuống đúng lòng bàn tay.
- Ôi sữa tiên - Mai Quyên kêu lên sung sướng - Cô cúi đầu thè lưỡi khẽ liếm giọt nước trong lòng tay anh và ngước nhìn anh đầy vẻ hạnh phúc.
Tâm bàng hoàng trước cái nhìn nửa ngây thơ, nửa mời gọi quyến rũ ấy. Cô khẽ lay vai anh:
- Kìa anh Tâm, mua một chiếc vòng đá tặng người yêu đi!
- Người yêu nào đâu. Anh đã nói là không có rồi mà.
Cô nhìn anh, che miệng cười thành tiếng. Thực lòng, khi nhìn những vòng tay, vòng cổ, khuyên tai bằng đá xinh xắn màu bích ngọc, da cam, thủy mặc, Tâm đã nẩy ra ý định mua tặng Yến, người yêu của anh, nhưng vì đã trót nói dối Mai Quyên nên anh đành thôi. Nói dối Mai Quyên anh cũng chẳng nhằm lợi dụng cô, mà anh chỉ nghĩ đơn giản là hành trình đường dài với một cô gái trẻ đẹp lại quấn quýt lấy mình thì nói có người yêu rồi thật quả vô duyên. Yến là em ruột Quân, người bạn học cùng phổ thông với anh, hiện cô đang học đại học năm cuối. Tâm mơ màng nghe những giọt nước tý tách nhỏ từ thạch nhũ xuống lòng hang, chợt Mai Quyên nắm tay anh kéo đi:
- Anh nghĩ gì đó? Làm thơ hả? Anh Tâm mơ mộng thiệt. Đi anh mọi người đã lên hết rồi.
Tâm để mặc cho Mai Quyên dắt đi. Lên khỏi động, chợt anh nẩy ra một ý định và anh vờ dừng lại, kêu lên:
- Thôi chết, anh đánh rơi chiếc khăn mùi xoa trong đó rồi.
- Vậy hả? Em đợi, anh quay xuống lấy đi.
Tâm đâm bổ xuống. Tối om mà anh cứ nhảy đại hai ba bậc một. Anh hỏi giá, không mặc cả, trả tiền và chọn lấy một chiếc màu thủy mặc có những đường vân rất đẹp, gói vào một tờ giấy có hai lần bông lót bảo vệ do cô bé bán hàng đưa cho, cẩn thận cất vào túi áo, rồi lại hai ba bậc một đâm bổ lên. Mai Quyên ngồi đợi dưới gốc cây và cô khe khẽ hát.
- Thấy không, anh? - Cô sốt sắng.
- Thấy. Nó rơi ngay chỗ thạch nhũ hình bàn tay Phật.
Anh móc túi lấy chiếc khăn đưa cho cô xem. Nhìn gương mặt cô hồn nhiên, anh thầm nghĩ “cô bé không biết gì”.
Ở bãi biển, cánh đàn ông uống rượu với mực nướng và dưa chuột hộp. Hôm nay ngày biển động nên bãi biển vắng tanh. Trận bóng đá được tổ chức ngay trên bãi. Hai cô bạn Diệu Huyền và Kiều Hương nằm phơi nắng, chỉ mình Mai Quyên tắm. Cô mặc bộ đồ tắm hai mảnh màu đỏ sẫm, mái tóc để xòa cho gió thổi. Cô ném quả bóng cao su ra xa rồi nhoài người theo ngọn sóng bắt lấy. Vừa chơi bóng, Tâm ngầm đưa mắt quan sát cô gái, chiêm ngưỡng tấm thân xinh đẹp, trắng ngần. Với bộ đồ tắm màu đỏ, cô uyển chuyển linh động như một tia nắng. Khi Tâm đi một đường bóng lắt léo đến gần cửa gôn, làm động tác giả lừa thủ môn đối phương và tạt nhẹ bóng vào cầu môn trống ghi bàn, anh nghe rõ tiếng Mai Quyên reo lên. Cô gái có tên Diệu Huyền kêu to với mọi người:
- Anh Tâm cẩn thận nghen, Mai Quyên mê anh rồi đó!
Mọi người cười ồ. Người anh họ của Tâm trêu:
- Nếu chú ghi thêm được bàn nữa, anh sẽ thay mặt cơ quan gả Mai Quyên cho chú.
Mai Quyên giơ hai bàn tay bé nhỏ lên vờ đe rồi cô ném quả bóng cao su về phía hai người bạn gái.
Chỉ còn một ngày nữa là đoàn lại lên đường ra Hà Nội. Tối ấy, Tâm thẩn thơ ra vườn hoa gần khách sạn. Anh tìm một ghế kín đáo ngắm người qua lại. Ngoài cảng, một con tàu nào đó lên hồi còi tạm biệt. Mới chỉ một tuần trước đây, thành phố này đối với anh thật xa lạ. Giờ thì khác, chia tay anh sẽ rất nhớ. Một cô gái đi ngang trước mắt, Tâm nhận ra và tim anh nhói lên:
- Mai Quyên!
Cô gái dừng lại đưa mắt quanh quất tìm. Thật kỳ lạ, anh vừa nghĩ đến cô thì cô xuất hiện. Khi thấy anh, cô mừng quýnh. Cô ngồi xuống, sát bên anh, nũng nịu:
- Anh đi đâu vậy?
- Thì em thấy đó. Anh thơ thẩn cho đỡ buồn. Còn em?
- Mọi người đều đi hết trọi. Họ tạm biệt bồ mà. Còn em… Em tạm biệt thành phố, tạm biệt những kỷ niệm đẹp.
- Mai Quyên mơ mộng quá?
- Đâu bằng anh.
- Á này, em hát hay lắm đó? Tâm khen thực lòng.
- Thiệt hông? Thiệt hả anh? Cô hỏi dồn, mắt long lanh.
- “Dù trái tim em không trao anh được. Một chút hương tràm cho ta bên nhau”, Tâm lấy giọng hát một đoạn bài “Hương tràm”, bài hát mà Mai Quyên sẽ hát dự thi.
- Ôi anh Tâm!
- Nếu em không được thấy cây tràm, được bơi xuồng giữa rừng tràm vào mùa trổ bông và hít thở hương thơm của nó - Tâm mơ mộng - thì khi đó em sẽ hát hay hơn, truyền cảm hơn.
Mai Quyên nhìn anh chăm chăm, mặt hồng lên niềm hứng khởi. Còn Tâm, ngồi sát bên cô, mùi nước hoa, hương vị dịu ngọt và quyến rũ toát ra từ tấm thân trẻ trung, hừng hực sức sống của cô cộng với vẻ huyền ảo của trời đêm làm anh ngây ngất. Bất giác, anh cầm bàn tay cô đưa lên môi hôn, và chỉ đợi có thế, cô nép vào lòng anh. Hai môi hôn rạo rực tìm nhau, gắn chặt vào nhau đến tê dại. Những cái hôn kéo dài đến ngạt thở, khiến đầu óc quay cuồng. Tâm thoảng nghĩ đến Yến, anh khẽ ngửa đầu ra nhưng thấy cô mắt vẫn nhắm nghiền và đôi môi đờ đẫn thì anh lại mụ đi. Xúc cảm mạnh hơn anh. Đến khi anh cảm thấy cô khẽ rùng mình và má anh chạm phải tóc cô lành lạnh, anh mới biết là sương xuống đã nhiều.
- Ta về thôi em, kẻo khuya lạnh.
- Về sao anh? Cô thảng thốt.
- Ta phải về thôi…
Khi đã nằm yên trên giường ngủ, Tâm tự hỏi mình. Rõ ràng chưa thể có một hình bóng nào thay thế nổi chỗ của Yến trong tâm trí anh. Xa Yến, anh luôn nhớ cô, hướng về cô, nhưng sao chỉ vừa mới quen biết Mai Quyên, anh đã cảm thấy hạnh phúc bởi những phút giây ngắn ngủi được ở bên cô gái bé bỏng ấy?
Ra đến Hà Nội, Tâm chia tay mọi người. Anh hứa với Mai Quyên là sẽ đến dự buổi biểu diễn của cô. Cô rất vui. Hình như nỗi buồn của sự chia ly chẳng hề bén mảng cô.
Về nhà được một ngày bất chấp lời khuyên của mẹ nghỉ ngơi cho đỡ mệt, Tâm lấy xe đến nhà Yến. Trên đường đến, anh gặp Quân và được bạn anh cho biết là Yến vừa mới ăn hỏi, chờ thi tốt nghiệp xong thì cưới. Chồng chưa cưới của Yến vốn cùng học phổ thông với cô và là con một ông to, người có khả năng bảo trợ cho cô công tác ở Hà Nội. Thấy Tâm buồn sụp xuống, Quân chia sẻ, cảm thông:
- Lạ thật! Mình cũng nghĩ là cậu và cái Yến nhà mình yêu nhau lắm mà. Thôi cũng là duyên số. Tình yêu, sao rắc rối quá chừng. Như mình đây, mình giành tất cả tình yêu cho hội họa. Khi nào thấy cần và đủ điều kiện, mình sẽ lấy vợ. Đơn giản thế thôi. Còn cậu, đừng buồn mà làm gì! Sẽ có một cô gái nào đó đẹp hơn, tốt hơn Yến đến với cậu. Cuộc đời công bằng lắm! Cậu định đi đâu bây giờ?
- À, mình chuyển hộ một món quà - Tâm nói dối vì anh không muốn đến nhà Quân nữa.
- Thế này nhé - Quân bắt chặt tay anh - giờ mình có hẹn đi vẽ với tụi bạn - chủ nhật này thế nào cũng đến mình. Hai đứa ta sẽ hàn huyên nói chuyện đời. Mặc kệ cái Yến với thằng chồng chưa cưới của nó.
Tâm trở về nhà, đầu óc rối bời. Anh uống một ly nước lạnh đến tê buốt cả răng và nằm vật ra giường thở dài sườn sượt. Mẹ gặng hỏi, anh chỉ ầm ừ cho qua chuyện. Phải đối mặt với thất vọng của mình anh cũng hiểu ra tình yêu cũng vô cùng nghiêm túc và không được phép lấy nó ra làm trò bỡn. Anh có quyền gì căm tức Yến khi mà chính anh đang yêu cô vẫn đi với một cô gái khác!
Chợt nhớ đến chiếc vòng tay bằng đá núi Ngũ Hành anh mua về tặng Yến, anh vùng dậy mở túi du lịch lôi ra chiếc hộp đựng. Không hiểu vì sao khi đến nhà Yến anh đã quên không lấy nó mang theo? Khi lật lần bông lót lên, Tâm sững người bởi sự hiển nhiên đến kì lạ của định mệnh thật khó lí giải, chiếc vòng tay bằng đá màu thủy mặc bị vỡ làm ba mảnh. Tâm nhón tay cầm lên từng mảnh, ngắm nghía rồi bỏ vào lòng bàn tay xóc xóc. Ba mảnh vòng khẽ chạm vào nhau lanh canh, rồi rời riêng từng mảnh. Tâm mỉm cười chua chát. Chợt anh thấy hiện ra trước mắt mình tấm thân thon thả với bộ đồ tắm đỏ sẫm dập dềnh theo làn sóng biển và môi anh như phảng phất vị mặn nồng của những chiếc hôn…
1987 - 1991
Nguyễn Chu Nhạc
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuyện cha con người đốt than

Chuyện cha con người đốt than 1.  Tôi còn nhớ, khi ấy, từ mấy chục năm trước, trên đường từ Long Xuyên, Châu Đốc về Thất Sơn, ngồi trong c...