Tuyết xưa
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgBHKzOooVBgnIMYPhDHSdVBB0t-s7GNPkc2WIUZwdKNrq8fnSsIdj9bn7FGW1CyCLzPsjeALl5h-AvgtV-wx-QA7mWwTBMKnwIwzmLRC_0CbPwrmryndYTHY1SITflMmlFVvLpvLrfpaon/s200/TranNgocNinh_pic.jpg)
Tuyết
bị thanh trừng và đẩy ra ngoài cõi thi-văn Việt- Nam lúc đó vì một lý do rẻ tiền
cũng có mầu yêu nước là "thơ Đường chính hiệu nói đến tuyết thì đúng,
còn thơ ta nói đến tuyết thì chỉ là theo đuôi sáo sậu, sĩ sọ từ chương, vì nước
Việt Nam chỉ có nắng với mưa, lấy đâu ra tuyết?" Đó là lí-luận học
đòi của một vị danh-y Việt-Nam đời xưa, đã lầm lẫn viết cả một cuốn sách để bác
bỏ sự dùng quyển Thương Hàn Luận rất nổi tiếng của Trung Hoa cho người
Việt Nam, vì "nước An Nam ta là xứ nóng, người ta chỉ bị cảm hàn qua
loa thôi chứ không thể bị thương hàn được"!
Đó
cũng là cái lập-luận của một số bác-sĩ và sinh-viên quá khích ở cả hai chế-độ đối-nghịch
trong thời nội-chiến vừa qua, đã tìm được một điểm nhất trí, đòi hỏi rằng
chương-trình học y- khoa ở Việt Nam phải đặt nặng những bệnh thổ-ngơi thông-
thường trong nước như sốt rét, kiết lị, ghẻ lở và bỏ bớt những bệnh người ta
nghĩ là hiếm có ở nước ta như bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh tâm-thần
phân-tán... Trường Y Khoa Hà Nội và các trường Y Khoa cấp dưới đã theo chủ
trương y-tế nhân-dân đó và đang sa lầy ở một trình-dộ thấp kém khó có thể tưởng
tượng nổi. Muốn ra khỏi được tình- trạng ao tù trí-thức ấy mà vẫn cố giữ một giọng
chịch thượng đi đôi với một quan-niệm hủ-lậu "ta về ta tắm ao
ta", thì hàng trăm, hàng triệu tính-mệnh của nhân-dân sẽ còn phải bị oan ức
hi sinh để cho Nhà Nước yên ổn ngồi đó, "yêu nước" và xơi
nước.
Việt
Nam không phải là không có tuyết. Thuở nhỏ ở ngay Hà-Nội, tôi cũng đã thấy cả
mưa đá. Nhỏ thôi, to nhất là bằng hòn cuội, nhưng hầu hết chỉ bằng hạt đậu hay
cái mắt cua, tuy vậy nhưng cũng lộp bộp ra trò và rớt vào đầu cũng điếng. Vườn
rau có thể thiệt hại, không những vì hòn nước đá đâm thủng hay rách tầu rau, mà
vì lạnh làm rau chết cóng.
Còn tuyết thì
lúc đọc những lời hô hào đầy nhiệt tình sô- vanh chủ-nghĩa (2) này,
tôi quả cũng có thấy sôi lên một bầu nhiệt-huyết của tuổi mười lăm mười tám.
Đúng lắm, phải quét hết tuyết ra khỏi vườn thơ của nước ta! Không những phải loại
cho đến bông tuyết cuối-cùng, có lẽ phái đốt hết thơ đường-luật và gột sạch các
điển-tích ra ngoài văn-thơ Việt-Nam thì mới hả được cái hận dân-tộc trong người
mình. Thế nhưng chỉ vài năm sau thì tôi mới biết được rằng ở Lạng-Sơn và Chapa
có mưa tuyết, và hoa đào Chapa dưới tuyết là một cảnh đẹp có thể nhớ đời nếu đã
được thấy một lần. Hơn thế nữa, ai là người nói được cho ta biết rằng vài trăm
năm trước, khí-hậu nước ta chẳng đã trải qua một thời lạnh-lẽo và tuyết có thể
đã đi xuống đến bờ châu-thổ Sông Cái?
Sử-gia
và khảo-cổ-gia của chúng ta chưa đủ tiến bộ để làm một công-việc khoa-học như
Giáo-sư Emmanuel Le Roy Ladurie ở Trường Pháp quốc (Collège de France) và
một số khảo-cứu-gia Hoa-kì, xem xét cả đến những vòng trên thiết- diện các thân
cây cổ-thụ để tính xem năm nào đã bị hạn hán hay mưa dầm, nhiệt-độ trung-bình của
khí-hậu lên cao hay xuống thấp có thể đã có tuyết có băng hay không, liên hệ những
chỉ dẫn thời tiết ấy với những tài liệu khác để định xem tình trạng mùa màng thế
nào, tình-hình dân-chúng ra sao, sự không đủa ấm no có gây ra những bất-an
trong xã hội và những loạn lạc làm lung lay chế-độ hay không. Nói tóm lại, lịch
sử mới đặt trọng-tâm vào đời sống vật-chất cũng như tinh thần của người dân nhiều
hơn là chính-trị duy-dâm của Võ Tắc Thiên, những ngoại-tình công-khai của Vua Mặt
trời Louis thứ Mười Bốn, những vụ thủ-tiêu các đồng-chí Cách mệnh ở Liên-Sô những
năm 23 - 30, vân vân và vân vân, và đã tận-dụng tất cả các tài-liệu viết và
không-viết trong một cõi nhân-sinh để tái tạo lại những nếp sống, những tâm trạng
của người dân trong những "thời-gian dài" (3) của lịch-sử.
Đời
nhà Lý, sau khi nạn ngoại-xâm bởi Nhà Tống đã bị cắt phủ đầu bởi Lý Thường Kiệt
trong một trận xuất quân oanh-liệt nhất nhì của sử Việt-Nam, thì nước ta bị một
luồng lạnh từ miền Bắc xuống.
Một mùa đông giá lạnh hơn thường, vua thương dân không đủ ấm, truyền lệnh lấy chăn bông, áo mền trong kho ra phát cho mỗi nhà. Việc được chép trong sử. Ngoài đường phố và đồng ruộng có tuyết không? Không nói ở miền bắc giáp giới Trung-quốc, ở những châu Quang- Lang, Quảng-Nguyên mà nay ta gọi là Lạng-Sơn, Cao-Bằng, tuyết dầy, đất băng là chuyện khó phủ nhận. Việc phát chăn áo là ở Thăng-long và ngoài Cửa Ô, nếu tiết trời lạnh mà không có những hiện-tượng khác thường, chưa chắc gì đã có việc phát chăn áo của kho ra cho dân. Không xa Thăng-Long lắm, thiền-sư Dương Không Lộ (?-1119), Còn Có bài thơ Ngư Nhàn, vịnh một ông chài với một con thuyền ngập tuyết đậu dưới bến (4):
Một mùa đông giá lạnh hơn thường, vua thương dân không đủ ấm, truyền lệnh lấy chăn bông, áo mền trong kho ra phát cho mỗi nhà. Việc được chép trong sử. Ngoài đường phố và đồng ruộng có tuyết không? Không nói ở miền bắc giáp giới Trung-quốc, ở những châu Quang- Lang, Quảng-Nguyên mà nay ta gọi là Lạng-Sơn, Cao-Bằng, tuyết dầy, đất băng là chuyện khó phủ nhận. Việc phát chăn áo là ở Thăng-long và ngoài Cửa Ô, nếu tiết trời lạnh mà không có những hiện-tượng khác thường, chưa chắc gì đã có việc phát chăn áo của kho ra cho dân. Không xa Thăng-Long lắm, thiền-sư Dương Không Lộ (?-1119), Còn Có bài thơ Ngư Nhàn, vịnh một ông chài với một con thuyền ngập tuyết đậu dưới bến (4):
Vạn
lí thanh giang, vạn lí thiên,
Nhất
thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư
ông thụy trước vô nhân hoán,
Quá
ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền.
Dương
Không Lộ (?-1119)
Bát
ngát sông xanh, bát ngát trời,
Một
thôn mây khói, một dâu gai,
Ông
chài ngủ tít không người gọi,
Tỉnh
dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi.
Ngọc
Liên dịch
Cách
ta chỉ mới trên dưới hai trăm năm, một buổi sáng thu lạnh, có lẽ ở Thành Nam
vùng Thái-Bình, Nam-Định, một mình trên một cái gác con nhìn ra ngoài, Nguyễn
Du thấy khắp thôn xóm, đầy một trời tuyết. Vẳng nghe từ xa tiếng tù-và rạng
đông vẳng lại, sự buồn thực là man mác mông-mênh:
THU
CHÍ
Phao
trịch như thoa hoán bất hồi.
Thiên
lí xích thân vi khách cửu,
Nhất
đình hoàng diệp tống thu lai.
Liêm
thùy tiểu các tây phong động,
Tuyết
ám cùng thôn hiểu giác ai.
Trù
trướng lưu quang thôi bạch phát,
Nhất
sinh u tứ vị tằng khai.
(Thanh
Hiên Thi Tập, 14)
THU
ĐẾN
Cảnh
đẹp quanh năm được mấy ngày,
Thời
gian vun vút cánh chim bay.
Dặm
ngàn đất khách, thân cô độc,
Thu
đến trên sân, lá rụng đầy.
Ngọn
gió lay rèm căn gác hẹp,
Tiếng
còi rúc tuyết xóm ban mai.
Thoi
đưa thắm thoát đầu pha bạc,
U
uất lòng riêng mãi khó khuây.
Chi
Điền Hoàng Duy Từ dịch.
Ai
nói rằng Việt Nam không có tuyết? Ai nói rằng thi nhân Việt Nam không thực?
Nếu
có một thoáng tuyết mà một thi-sĩ Việt-Nam đã nhìn thấy trước khi nó tan trên
ngọn cỏ, tôi nghĩ rằng cũng đủ làm thơ, vì tuyết, khen tuyết, thưởng tuyết, cho
tuyết. Và cái gợn sóng thừa mà lời thơ gây nên có thể lăn-tăn vang rộng trong
thời gian và không-gian mà gợi thành một khiêu-hưởng đâu đó, trong một tâm hồn
xa-xôi cách-trở nhưng đồng điệu đồng thanh. Như trong khoa-học ngày nay, về hỗn
mang và về đoạn hình (5), người ta nói rằng cái vỗ cánh của một con
bươm-bướm có thể tạo ra một trận cuồng-phong ở ngàn dặm xa. Cho nên tôi không
thể nào nhẫn tâm đuổi một bông tuyết ra ngoài thơ, dầu chỉ là một bông tuyết
xưa chỉ còn trong mộng. Nói chung, tôi không muốn gạt bỏ một hình ảnh hay một
điển-cố nào của văn-thơ một khi đã có một người rung động vì hình-ảnh hay điển-cố
ấy. Người ta có quyền yêu hay không yêu, nhưng không ai có quyền cấm đoán yêu
đương.
Từ
đó, tôi đã thấy nhiều tuyết và sống nhiều tuyết. Lần đầu tiên thấy tuyết là tại
một thửa vườn trong một căn phòng thuê của học trò, ở ngoại-ô một tỉnh miền
đông-nam nước Pháp. Đang ngồi đọc sách, ngẩng đầu lên nhìn xem ánh nắng nhạt của
mặt trời đã lên đến đầu tường chưa để mặc áo ra ngoài đón xe công-cộng đi bệnh-viện,
thì thấy trên nền trời xám, mơ hồ như có những nắm bông gòn trắng nho-nhỏ phất
phới lửng lơ trước gió, lâng-lâng như thể trọng- lực đã rời mặt đất. Người
trong cửa sững sờ, ngoài khung cửa những túm bông tơ chập chờn đùa rỡn. Bỗng
lóe lên một ánh sáng trong óc: Tuyết! Đúng Tuyết, Tuyết đầu, Tuyết mới, Tuyết
nguyên-trinh. Cả một trời kí-ức văn-chương sáng rực lên: Kinh Thi, Nguyễn
Du, Anatole France, Hemingway, Nạch Cư-dị, Byron, Basho, Đoàn Thị Điểm,
Rimbaud, Heine, Coethe, Đỗ Phủ. Rồn-rập. Loạn-xạ. Thanh-khiết. Nhất-nguyên. Đẹp
và trong vắt.
Tôi
đã ở ngoài vườn không biết lúc nào. Mặt ngửa lên trời cho tuyết vuốt má. Tay ngửa
ra trước mặt để xin tuyết đậu trong lòng bàn. Miệng há ra để hớp tuyết. Màu tuyết
thanh. Vị tuyết trong. Hương tuyết mát. Hình tuyết thơm. Bông tuyết như không
thể-chất, mát lạnh, nhẹ-nhàng, mảnh mai, trống rỗng, mềm mại, trinh-nguyên một
cảm-tưởng mới tinh, một đạo-đức chỉ có một và tự-đầy-đủ.
Sau
buổi gặp gỡ ban đầu tuyết đến ngoài cửa không báo không gọi, tôi đã thấy lại
tuyết ở nhiều kiểu áo, dưới nhiều bầu trời, trong nhiều phong-cảnh. Trắng nổi
trên những cành cây khô đen khẳng-khiu của vườn Pushkin ở thành-phố khi đó còn
mang tên Lenin chùm lên tên của Nga-hoàng Peter. Trên các cánh tay mốc xám của
tượng các Nữ-thần Nghệ- thuật ở vòng đai Đại-Nhạc-Viện Opéra của Thủ-đô Ánh
sáng Paris. Tuyết thành-phố phủ trắng Công-viên Trung-ương của Nữu-Ước. Tuyết
quí-phái ngập lút Vườn Thượng-uyển Buckingham và chùm lên chóp cái mũ lông đen
của người lính canh áo đỏ ngù vàng đứng vững trơ như Từ Hải ngoài cửa Điện của
Hoàng-gia Anh. Tuyết lao-động chảy thành ngòi từ các vỉa hè và các bực thang cửa
ga xe điện chìm nổi chạy vòng ở Chicago đông-đúc vội-vã. Tuyết ngủ một giấc trắng-xóa
mênh-mông nhiều vạn-kỉ trên những giải đất vô- tận không người từ Alaska xuống
Gia-Nã-Đại. Tuyết vĩnh- cửu trên đỉnh Núi Trắng chót vót trong rặng Alpes
hùng-vĩ. Và tuyết thiêng tịch-mịch trong thiền-định cao-siêu của rặng Hi-Mã-Lạp-Sơn
thần-bí trên đó còn mờ ảo bóng hình chơi- vơi của một Bồ-đề-đạt-ma râu đỏ với một
chiếc giày cỏ đơn- độc lủng lẳng trên đầu cây gậy trúc và hình-hài những chêpa
nhỏ-bé nhanh-nhẹn trên lưng vác những túi đầy ắp lương- thực và nhu-yếu chạy từ
thung-lũng này sang thung-lũng nọ để nuôi sống các làng-mạc hẻo lánh trên sườn
núi.
Tuyết
xưa của thi sĩ Villon không phải chỉ là những tuyết ấy, mà người ta thấy
nhởn nhơ bay trong gió lạnh giữa những cành khô. Cũng không phải tuyết của
Paris xám xịt thời Trung-Cổ, quây quanh Đức Mẹ lộng-lẫy với những ngọn nhà thờ
gothic cao vút và nhọn hoắt như những mũi tên khổng- lồ cắm thẳng bên bờ sông
Seine, cạnh hòn Đảo Pháp-quốc, nơi hoạt-động chính của thi-sĩ Villon trong thời
niên thiếu.
Tuyết của
Francois Villon là hình-ảnh của cái Đẹp không có lời để nói ra sự thuần-túy, sự
tuyệt-đối, sự thanh-tao, sự vi diệu. Cái Đẹp của những người đẹp thuở xưa,
không những là đẹp lộng-lẫy về dung-nhan và thân-hình như bốn tuyệt- đại
mĩ-nhân của lịch-sử Trung-Hoa: Thái-Chân và Điêu- Thuyền mà sự kiều-diễm làm đổ
nước nghiêng thành, Chiêu- Quân và Tây-Thi mà nhan-sắc làm chim sa cá lặn. Còn
là những người như Helen và Heloise, đẹp vì những mối tình đẹp não-nùng, đẹp vì
cuộc đời đẹp oanh-liệt như Bà Trưng, Bà Triệu, như các bà Lê Chân, Bùi Thị
Xuân, Bà Ba Đề Thám, Bà Ba Cai Vàng và Jehanne, cô gái Lorraine/ mà quân Anh
đã đốt sống ở Rouen (6), tức Jeanne d'Arc mà đức tin và sự hi-sinh đã thức
tỉnh người Pháp và dẫn đến một kết-thúc công-bằng cho cuộc Chiến-tranh Một Trăm
Năm trong thời Trung-Cổ giữa nước Anh và nước Pháp. Villon đã đặt câu hỏi với Đức
Mẹ đồng-trinh:
Thánh
Mẹ Đồng Trinh, họ còn đâu?
Nhưng
các tuyết xưa nay ở nao?
Ou
sont-ils, ou, Vierge souv'raine?
Mais
ou sont les neiges d'antan?
(F.
Villon - Ballade des Dames du Temps Jadis)
Nhưng
không phải Villon đã chỉ nghĩ đến những người đẹp và cả những Đẹp xa-xưa khi ngửa
đầu lên hỏi Đức Mẹ Đồng-Trinh, vua bà của thế-giới trung-cổ:
Tập
thơ được nhặt nhạnh và chép lại, ghi là của Francois Villon, là những lời tuyệt
mệnh đặt tên là Chúc-Thư Nhỏ và Chúc-Thư Lớn, hay Bi-Văn Mộ-Chí
của Villon. Nhưng Villon làm gì có mộ mà có bi-văn với mộ-chí: ông chết và chôn
ở đâu lúc nào, bằng cách nào, cho đến nay không ai được biết. Thơ của ông là những
bài thơ đầu-tiên trong đó thi-sĩ tự xưng là "tôi", và kể cuộc đời
của ông, cho đến cái chết mà ông tiên đoán. Từ ông đã có một dòng thơ trữ-tình,
là chính tự-truyện của nhà thơ. Villon còn là người đầu tiên trong thi- đàn
nhân-loại ta có thể gọi là "thi-sĩ bị đọa đầy" (poètes damnés) (7),
một tước-vị mà đến Thế-kỉ thứ Mười-Chín, người ta mới đặt ra cho thi-sĩ
Baudelaire, rồi Verlaine với Rimbaud, và sau cùng mới nhất ở Pháp là Genêt mà
J.P. Sartre gọi là "Thánh Genêt", hay ở Việt-Nam, là Hàn Mặc Tử, "thánh
Hàn Mặc Tử", và Bùi Giáng, "Tiên Bùi Giáng".
Đời
của F. Villon là trong thơ của ông. "Một thằng học trò nhỏ đáng
thương"// "Tôi nghèo từ thuở nhỏ/ nghèo hèn trong giòng họ/ cha tôi
không giầu có/ nội tôi cũng nghèo khó/ cái nghèo theo không hở/ mong mồ mả
tiên tổ/ (Trời độ hồn các cụ)/ không hề hia áo mũ..."/ "Đi học thì bỏ
trốn/ như bọn trẻ hư đốn"/
...
Thực ra, có lẽ cũng không đến nỗi tệ-hại quá như thế lúc đầu. Villon có được một
linh-mục dạy dỗ và đã đậu "tú-tài" rồi "cử-nhân" và cử-nhân
thời ấy ở Paris được đi làm thư-kí rồi tự-nhiên, tất-nhiên, trụy lạc. Villon
cũng đủ cả đĩ điếm, trai gái, cờ bạc, rượu chè. Rồi một bữa trong một cuộc gây
lộn với một linh-mục, bị linh-mục đâm cho một nhát dao vào mặt, Villon liền rút
dao đâm chết linh-mục tại chỗ rồi bỏ trốn. Bị bắt được tha, nhưng từ đây đi lại
toàn với dân du thủ du thực, ăn cắp, ăn cướp. Một bọn trộm, có tên là Đảng Vỏ
Sò, vào một nhà tu ăn hàng, Villon cũng có trong bọn. Bị lùng, cả bọn trốn sang
tỉnh khác, nhưng rồi Villon cũng lại bị bắt và bị lên án tử hình treo cổ; cuối-cùng
lại được tha chết một lần nữa với điều-kiện là cấm bén mảng về lại thủ-đô.
Villon rời Paris, rời thơ, và không biết đi chết ở nơi nao sau đó như trong một
câu thơ đã viết:
Cho
tôi hay đâu, ở phương nào?
(Dites
moy ou, n'en quel pays?)
Có
một bài thơ của Villon, mở đầu bằng câu:
Tôi
tiếc cái thời tôi còn trẻ...
(Je
plains le temps de ma jeunesse)
...
Tôi biết lắm, giá tôi chịu học
Trong
cái thời tuổi trẻ điên rồ,
Và
chịu buộc mình trong phép nước,
Nhà
cao, chăn ấm, cũng không thua.
(Bien
sais, se j'eusse étudié
Ou
temps de me jeunesse folle
Et
à bonnes moeurs dédié
Tuyết
xưa với Villon, không chỉ là những người đẹp thuở trước, Flora, Thais,
Echo, Héloise mà Abélard đã yêu, Jeanne d' Arc mà người Anh đã thiêu (8)...
Tuyết xưa với Villon còn là cả cái thời xưa còn trẻ và trong-trắng của mình,
cái thời xưa không bao giờ có thể lấy lại và không biết đã đi đâu.
Mùa
xuân bao giờ cũng đẹp. Rạng đông nào cũng rực rỡ huy hoàng. Tuyết sớm nào cũng
thanh khiết trắng trong. Tuổi trẻ nào cũng hồn nhiên tươi sáng. Nhưng ai là người
dám chắc ở sự hứa-hẹn của trời và sự xoay-vần cua cuộc sống? Đến cuối đời nhớ lại,
hay ở một khúc quanh tối-tăm người ta tự vấn, Ta đã làm chi đời ta? (Vũ
Hoàng Chương).
Như
thi-sĩ Verlaine trong thơ:
Cảnh Mùa Đông Trong Rừng Nai, tranh bột màu Gu-at của Alfons
Van Cleven, họa sĩ Mỹ (1928- ).
Winter Landscape in Deer Grove, 1993.
Winter Landscape in Deer Grove, 1993.
Trên
mái nhà
trời xanh êm ả
Ttên
mái nhà
cây ru chùm lá
Trên
nền trời
tiếng chuông nhẹ ngân
Trên
cành cây
chim buồn hát than
Đời
ngoài kia
đơn sơ phẳng lặng
Tiếng
rì rào
từ tỉnh văng vẳng
Trời
ơi! Trời ơi!
Đã
làm gì, hỡi ngươi trong đó
không ngớt tiếng khóc than
Đã
làm gì, ngươi đang trong đó
tuổi của ngươi thanh xuân
Le
ciel est, par-dessus le toit...
Le
ciel est, par-dessus le toit,
Si bleu, si calme!
Un
arbre, par-dessus le toit,
Berce sa palme.
La
cloche, dans ciel qu'on voit,
Doucement tinte.
Un
oiseau sur l'arbre qu'on voit
Chante sa plainte.
Mon
Dieu, mon Dieu, la vie est là,
Simple et tranquille.
Cette
paisible rumeur-là
Vient de la ville.
-
Qu'as-tu fait, ô toi que voillà
Pleurant sans cesse,
Dis,
qư'as-tu fait, toi que voilà,
De ta jeunesse?
Paul
Verlaine
Francois
Villon với một bản án tử-hình được xóa bỏ một lần và cái ấn-tượng ba thằng đạo-chích,
thi-nhân ở giữa như Đấng Cứu thế, bị treo lủng lẳng, cao và ngắn, trên ba cái cột
gỗ giữa lộ; Paul Verlaine, ngồi gậm thời-gian hai năm trong một nhà tù ở Bỉ,
ngày lại ngày nhìn một chùm lá cọ du đưa trước mắt, nghe tiếng chuông nhà thờ vẳng
vào tai từ đâu- đó phía bên kia cái mái nhà, nghiền ngẫm phát súng lục đã bắn vào
chân người bạn lòng, thi-sĩ Arthur Rimbaud; họ tiếc nhớ, họ hối hận, cái tuổi
trẻ mà họ đã phung phí, cái êm-ả đơn sơ, phẳng-lặng của cuộc đời mà họ đã bỏ mất,
những Tuyết Xưa đẹp như người đẹp, đáng yêu như người yêu, đáng trân quí như những
bậc nữ lưu anh kiệt của lịch-sử, mà giờ đây họ biết là vẫn còn đâu-đó nhưng
không lộ dấu vết là đâu:
Ở
đâu, những tuyết xưa nay ở nơi nao?
Như
nàng Kiều, mười lăm năm trôi nổi trong chốn đoạn- trường, với một câu hỏi không
tìm ra lời giải đáp:
Khi
sao phong gấm rủ là (1235)
Giờ
sao tan tác nhu hoa giữa đường...
Băng
tuyết là quá khứ, gió-sương là hiện-tại, tìm đâu cho còn thấy lại được cái tuổi
thơ băng tuyết khi nao.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaqZ2DZokpzUF1x2D-uCtQwNiocKFBkpLnAuP1iMhe_K06tP3x_a_OsZN3T6602mjFo5ZsmgiDpjH5PdpwB3XEuMPMLRsIHdk_klyJa8wTtmKtF5AjXCUZoVRvEYgdfwgPT5oGJzXI6rW1/s200/phoca_thumb_m_chandung_lethuyvinh.jpg)
Nhân
chi sơ/ Tính bản thiện
Tính
tương cận/ Tập tương viễn...
Cụ
Tam Nguyên Nguyễn Khuyến ở làng Yên-đổ, buồn về thế-thái, chán cho nhân-tình,
đã cáo quan về làng để khỏi Phải nhìn thấy những cảnh lố-lăng đau lòng nơi triều-chính
trong một thời mà đất nước cùng với lòng người đang bị bẻ ra từng mảnh để dâng
cho ngoại-bang, nhưng cũng vẫn còn tin ở tương-lai của tuổi trẻ. Trong tất cả
văn-thơ của Cụ, có lẽ chỉ có một bài không châm biếm cũng không xót thương, Cụ
làm để Cụ Bà và các Bà Mẹ Việt-Nam ru con dỗ cháu, những mong đàn trẻ lớn lên
thành người, con gái con trai vẫn giữ được tính bản thiện là cái lòng
vàng của con người ta:
Tình
tính tang
Tang
tính tình...
Học
là học đạo làm người,
Làm
người phải giữ lẽ trời dám sai.
Làm
trai cho đáng nên trai,
Chớ
đừng ngày một ngày hai,
Chớ
đừng lêu lổng cho phai lòng vàng.
Nhưng Bài
Hát Ru Con là bài đã bị bỏ rơi sớm nhất; trường Đại-học Văn-khoa có trong
chương-trình tất cả các bài hát Ả-đào và những bài tán tụng cái nhàn mà Cụ đã
làm chơi để khề-khà ngâm vịnh với chén trà cốc rượu khi bác- bác tôi-tôi với mấy
người bạn bút-nghiên và bất-đắc-chí, còn bài Ru Con chỉ là chuyện trẻ
con, đâu đáng gọi là văn-chương để các cậu Cử tương-lai phải bận lòng?
Vả
chăng tất cả cái thời này nó cũng đang trôi qua theo vận nước, thánh thì đã chết
từ lâu còn hiền thì cũng từ lâu lặng tiếng. Cụ Nghè Dương đi rồi, trơ trọi
trong thiên-hạ khi còn có một mình mình với cái danh hão Tam-Nguyên. Sau lưng
là anh Tú Xương lận-đận, tuy rằng cũng có chút xấc láo dám chọc cả mình là bọn
"nằm co", nhưng thời buổi bút chì thay bút lông, dọng khinh-bạc cũng
chỉ vì chua-chát. Không ngờ rằng thời-vận đổi thay nhanh đến thế, chú ấy lại chết
trước mình không biết để dọn đường cho những cay-đắng gì nữa đây. Cụ Tam-Nguyên
Yên-Đổ đã may mắn được nhắm mắt trước khi xuất hiện Tú Xuất và Ba Giai, những
cuồng-sĩ hậu Hà-thành thất-thủ của Việt-Nam văn-hiến. Một đời Cụ chẳng bao giờ
được thấy tuyết để mà ngửa mặt lên hỏi Trời:
Thế
những tuyết xưa nay ở nao?
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhqOkb_4nDwssKEMFl1laEfMK_8bvscRTsaXvkYDeshXQwY-zLm_Fbyt7ELJ6j17UEyBLjyxq2A9fT66k_g1G3Zi6Q67KsatsqaHZyH-EWtJvxhjOSjvMheuSpPUMQWixkaw2aH0dqd3bmv/s200/phoca_thumb_m_card+640x480.jpg)
Với
thi nhân, tôi muốn nói các thi sĩ và cả những người có đọc thơ, ngâm thơ, yêu
thơ và trong một giây phút nào đó của đời mình đã thấy thâm sâu và tịch mịch
trong lòng một mảnh hồn thơ biết rung động, nhớ nhung, Tuyết Xưa là
cái thực có. Nhưng không cần phải thực là tuyết; Tuyết Xưa là hình ảnh
của những ước-mơ về một cuộc sống thần-tiên, tao nhã, thanh tịnh, tiêu-diêu,
không-lệ-thuộc, không-tranh-đua, không ràng buộc, không-lo-âu, muốn đến thì đến,
muốn đi thì đi, và tuyệt nhiên không có bóng-dáng cái ô-trọc phiền lụy của thế
gian ngày-nay. Tuyết Xưa là con hạc vàng đã từ lâu đi mất không còn
trở lại nơi gác trống lầu hoang:
Hạc
vàng ai cưỡi đi đâu
Mà
đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc
vàng đi mất từ xưa,
Nghìn
năm mây trắng bây giờ còn bay...
Tán
Đà Nguyễn Khắc Hiếu dịch
Tích
nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử
địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng
hạc nhất khứ bắt phục phản,
Bạch
vân thiên tải không du du...
Thôi
Hiệu (704-754)
hay
rõ ràng hơn nữa, trong một bài thơ đề Chùa Hương- Tích (8) của
La-Sơn Nguyễn Thiếp, mà ông Hoàng Xuân Hãn đã diễn nôm:
...
Am xưa đá trắng còn bầy.
Nền
xưa chỉ thấy những đầy tùng xanh
Gió
trăng vẫn rành rành ra đấy,
Thần
tiên nào còn thấy nơi đâu...
Nguyễn
Thiếp (1723 - 1804)
Tịch-tịnh,
thanh-hư, dù là vô-thường dưới ánh nắng hay thường-hằng vĩnh-cửu như trên những
ngọn cao của Tuyết- sơn, là cái ước- vọng thâm-sâu của Cõi Á-đông mà thời-thế
loạn-lạc và văn-minh vật-chất đã mãi-mãi đẩy vào thế-giới của ảo-tưởng, mộng-mị,
nếu không là của cuồng-tín và phân- tán tâm-thần. Đường vào Thiên-Thai đã bị
khóa kín, họ Lưu, họ Nguyễn, họ Lí, họ Lê trở về sống lạc loài nơi trần tục,
nhưng không dứt được giấc mơ đã tàn về một Tuyết Xưa. Họ chỉ còn được phép
nghĩ đến cái quê hương yêu dấu cũ tuy rằng còn đó nhưng không còn là của họ, vì
những người ở đó là con cháu họ và con cháu những người bà con họ hàng cũ của họ
thực, nhưng sao mà khác, sao mà lạ, sao mà lạnh nhạt thờ ơ...
Chuyển
sang thế-giới Việt Nam với những dâu-bể dồn dập trong cõi người ta mới khoảng
hơn một trăm năm nay, Tuyết Xưa là cái êm-đềm thanh-đạm của một thời
mà hình ảnh tượng-trưng vô-cùng ngao-ngán là những ông đồ chít khăn, còng lưng
trên miếng giấy đỏ để bán chữ ba ngày tết, cố vừa lòng những người áo quần súng
sính nhưng trong bụng không biết đến nửa chữ thánh-hiền, đang nhởn-nhơ bước qua
mặt mình như người thương-nữ đi qua cảnh mất nước mà miệng vẫn réo rắt hát bài "Nhị
Tình Ca":
Những
người muôn năm cũ
Hồn
bây giờ ở đâu?
Vũ
Đình Liên (1913-1996), Tinh Hoa.
Tuyết
Xưa mở rộng ra hơn với tất cả chúng ta ngày nay khi đọc câu thơ bất-tử của
thi-sĩ xấu-số,
Nhưng
còn đâu mà những tuyết xưa,
là
những gì mà chúng ta đã mơ tưởng, trắng tuyền, trong suốt, tự-tạo, tự-thành, nhẹ
như bông, lâng-lâng như mộng-ảo, thực như những cái mà ta vốc được trên tay và
đưa vào đến miệng, cố-định như độ không, mát-dịu với người đang đổ mồ-hôi và ấm-áp
trong những bầu trời giá lạnh, nhưng có thể trong chốc lát dưới ánh nắng mỏng của
mặt trời mùa đông tan ra thành vũng, thành giòng mà trôi đi hay ngấm vào đất.
Các
quí độc giả cũng có thể nghĩ rằng đó là cái tuổi trẻ của nhân-loại khi sự độc-ác,
sự lừa-dối, sự tham-của-khát- quyền chưa xuất hiện một cách qui-mô trắng-trợn
trong các xã-hội-người; hoặc thời khai-sinh của dân-tộc khi mới có được một đất
sống yên ổn mà trời cho với phương-tiện khai- khẩn, và người có thể tự-lực tổ
chức trong tình đồng-bào để cùng làm cùng hưởng, cùng vui sống với nhau.
Hoặc
nhỏ bé hơn nữa, thực tế hơn nữa, Tuyết Xưa chỉ là mối tình đầu đột
nhiên đến trong một bầu trời đang u uất, lạnh lẽo, lúc đầu e lệ bâng khuâng, nhẹ
nhàng run rẩy như những bông tuyết thơ- ngây còn ngập ngừng lả lướt, nghiêng ngả
trong gió sớm và chưa biết đi về đâu; nhưng rồi càng lúc càng rạn, rơi thẳng đường
xéo- xéo, vào tóc, vào mặt, vào mắt, vào môi, vào thân-hình và cùng một lúc vào
các cọng cỏ non và các dàn hoa tươi trong cả bầu trời nắng sớm. Tuyết rụng với
ánh nắng vừa thức giấc và còn thấp trên các ngọn cây xa, đem lại một sự ấm-áp
nhẹ-nhàng tinh-khiết cho cả thể xác và tâm-hồn. Rồi càng lúc càng mau hột tuyết,
ánh nắng thu lại chỉ còn mỏng như tơ, tuyết đổ xuống vi-vu, rào rạt, chẳng mấy
chốc mà ngập trời một màu trắng trong, hòa lẫn hai tâm-hồn vào vạn vật, xóa sạch
tất cả những dè- dặt, ngỡ-ngàng...
Cái cảm-giác ban-đầu ấy mà không ai quên, là một Tuyết-Xưa mà không ai giữ được, không một kí-ức nào đem được như thực trở về. Vô-thường trong tất cả các vô thường, chính cái vô-thường của bông lê trắng đầu mùa ấy là cái trân-quí phải có hai người như một cùng nuôi dưỡng mới thấy được cái chân-bảo và hưởng được cái tàn-hương của nó trong cả cuộc đời.
Cái cảm-giác ban-đầu ấy mà không ai quên, là một Tuyết-Xưa mà không ai giữ được, không một kí-ức nào đem được như thực trở về. Vô-thường trong tất cả các vô thường, chính cái vô-thường của bông lê trắng đầu mùa ấy là cái trân-quí phải có hai người như một cùng nuôi dưỡng mới thấy được cái chân-bảo và hưởng được cái tàn-hương của nó trong cả cuộc đời.
Sau
đó là những ngày vui trong-trắng thanh-khiết, không gợn một ý nghĩ hơn-thua
so-sánh, trong đó người ta cho nhau hết để có hết. Sự hợp-tác tình-cảm và
tín-nhiệm làm cho những gợi-ý, những nhắc- nhở về một tuyết xưa, bất cứ là
cái gì cũng được xan xẻ. Sự cùng hưởng một niềm vui chung hay một nuối-tiếc
cùng-có là một hạnh- phúc của những người biết yêu.
Với
tác giả cuốn sách này, Tuyết Xưa còn tầm thường hơn nữa, và chỉ là những
mảnh sáng-tác của một tuổi đã qua, một phần đã tản mác mất tích, một phần đã
già nua trong một thời-thế phũ-phàng. Và chỉ là những nhặt-nhạnh trên con đường
phiêu-bạt tha hương. So sánh với các công-trình nghiên-cứu khoa-học và y-học của
tôi thì quả là đáng buồn, vì tôi có thể tìm lại được hầu hết các bài nghiên-cứu
hay thông-báo cũ trên những báo-chí được lưu-trữ và bảo-trì cẩn-trọng ở các
thư-viện quốc-tế lớn. Ngay đến cả ba tập đầu của bộ Cơ cấu Việt ngữ đã
được xuất bản trước năm 1975, tôi cũng có thể thấy lại được ở Thư-viện Quốc-gia
Pháp và ở Thư-viện của Viện Bảo tàng Anh, vì tôi đã kịp gửi chúng đến hai nơi
này trước khi chúng bị quét đi cùng với những tàn-tích của một chế-độ bại-vong.
Vớt
vát lại những mảnh tuyết vụn này để cho khỏi trôi đi hết, tất-nhiên rằng có quá
nhiều trìu mến để chọn lựa, cất xén nặng tay. Đây không phải chỉ là những sản-phẩm
tinh- thần của một tuổi đã qua không trở lại mà bao giờ người ta cũng nuối tiếc
khi tuổi đã cao, mặc-dầu có những dấu-vết của sự bồng-bột, vội-vàng, quá-
khích, non-nớt, rải rác đó đây trong các hàng chữ. Đây còn là những chứng-tích
của lịch-sử, vì mỗi bài đã được viết ra trong một lúc, nghĩa là một thời-thế và
một tâm-trạng; lịch-sử phản chiếu trong đó, tư-tưởng của thời-đại phảng phất
trong cách đặt đề và trong phương-pháp gỡ rối, những khuynh-hướng chủ-quan cũng
lộ ra ở mỗi góc-cạnh. Sự hiện-sinh của một bản văn cũng có lịch- sử-tính như mỗi
phút sáng thực của một con người. Vì vậy, những bài tản-văn trong sách này cũng
là những tuyết- xưa, cái thực-chất của nó là nước, ngấm vào đất để nuôi dưỡng sự
sống của cỏ-cây sinh-vật, thì còn, nhưng cái hình- dạng tuyết của nó thì đã
tiêu tan dưới ánh các mặt trời. Vớt lại những gì còn vớt được, rồi đóng nó vào
một quyển sách như thời trẻ ta ép bông hoa hay con bướm biểu-tượng của một cuộc
tình-duyên bâng quơ, chính là để giữ lại chút tuyết- xưa. Tôi biết rõ, và không
có một ảo-vọng gì, rằng những tuyết đóng hộp có thể vẫn là tuyết sau khi ta đậy
nắp lại. Chỉ có tuyết trên đỉnh núi cao mới có thể là tuyết vĩnh-cửu và là tuyết
mãi không-có-tuổi. Nhưng những tuyết-xưa đã mất đi cũng có thể được người ta nhớ
tiếc và thương sót như sắc đẹp đã phôi pha, như tuổi trẻ đã phao phí, như hạnh-
phúc đã lọt tay, như một thời đã vĩnh-viễn thành lịch-sử...
Dictes
moy où, n'en pays,
Est
Flora, la belle Romaine;
Archipiada,
ne Thais,
Qui
fut sa cousine germaine;
Echo,
parlant quand bruyt ơn maine
Dessus
rivière ou sus estan,
Qui
beauté eut trop plus qu'humaine?
Mais
où sont les neiges d'antan!
Où
est la très sage Helois,
Pour
qui fut chastré et puis moyne
Pierre
Esbaillart à Sainct-Denys?
Pour
son amour eut cest essoyne
Semblablement,
où est la royne
Qui
commanda que Buridan
Fust
jetté en ung sac en Seine?
Mais
où sont les neiges d'antan!
La
royne Blanche comme ung lys.
Qui
chantoit à voix de sereine,
Berthe
au grand pied, Bietris, Allys;
Harembourges,
qui tient le Mayne.
Et
Jehanne, la bonne Lorraine,
Qu'
Anglois bruslèrent à Rouen;
Où
sont-ils, Vierge souveraine?
Mais
où sont les neiges d'antan!
ENVOI
Prince,
n'enquerez de sepmaine
Où
elles sont, ne de cest an,
Que
ce refrain ne vous remaine:
Mais
où sont les neiges d'antan!
Francois
Villon
1431
- 1463?
Bản
dịch Anh văn của thi sĩ Dante Gabriel Rossetti
THE
BALLAD OF DEAD LADIES
Tell
me now in what hidden way is
Lady
Flora the lovely Roman?
Where's
Hipparchia and where is Thais,
Neither
of them the fairer woman?
Where
is Echo, beheld of no man,
Only
heard on river and mere,--
She
whose beauty was more than human?
But
where are the snows of yesteryear?
Where's
Héloise, the learned nun,
For
whose sake Abeillard, I ween,
Lost
manhood and put priesthood on?
(From
Love he won such dule and teen!)
And
where, I pray you, is the Queen
Who
willed that Buridan should steer
Sewed
in a sack's mouth down the Seine?...
But
where are the snows of yesteryear?
White
Queen Blanche, like a queen of lilies,
With
a voice like any mermaiden, --
Bertha
Broadfoot, Beatrice, Alice,
And
Ermengrade the lady of Maine,--
And
that good Joan whom Englishmen
At
Rouen doomed and burned her there,--
Mother
of God, where are they then?...
But
where are the snows of yesteryear?
Nay,
never ask this week, fair lord,
Where
they are gone, nor yet this year,
Save
with this for an overword,-
But
where are the snows of yesteryear?
Dante
Gabriel Rossetti (9)
(1828
- 1882)
BÀI
HÁT CÁC BÀ THUỞ TRƯỚC
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJX_B8OvPt3C3tX56NU3bxwxZK1TzRd0unLX3PJFxbqFJ3NLALXqdR68Q2xdzAaiXmHlBumtYOcvBQwD-WNZr94l5TJODSLoC_sWQB_kxqVtgEDAfpQ7QEvP2LePlns2Ka4Lc5IJyYfDxU/s200/tnn_tuyetxua_tranngocninh_mhbatrieu.jpg)
Thể
phách chết,
tinh
anh còn mãi
Ở
nơi nao xin hãy nói cho
Chiêu
Quân xưa Hán cống Hồ
Việt
Huyền Trân lại Trà Bồ sang ngang
Thái
Chân một giải 1ụa vàng
Mị
Châu một kiếm đoạn trường chưa tiêu
Tuyết
thuở xưa một chiều một sáng
Ở
nơi nao để nặng vấn vương
Tình
Oanh Oanh ướt Tây Sương
Lệ
Kiều Nhi để Tiền Đường sóng loang
Cô
Mị Nương chốn phòng loan
Tiếng
Trương Chi vẳng khóc tan khối tình
Tuyết
thuở xưa nguyên trinh trong trắng
Ở
nơi nao để nặng nhớ thương
Ỷ
Lan bán nguyệt sênh sang
Ngọc
Hân sớm tốí quân vương kiêu hùng
Châu
Phong dấy nghĩa Nhị Trưng
Triệu
Vương nịt vú lẫy lừng đầu voi
Tuyết
thuở xưa sáng soi kim cổ
Ở
nơi nao để nhớ để mong
GỞI
Hỏi
làm chi hỡi minh quân
Hoa
tàn lá rụng mây vần gió bay
Tuyết
xưa giáng xuống nơi này
Hương
trời sắc nước tháng ngày phôi pha.
Trần
Ngọc Ninh dịch (1999).
CHÚ
THÍCH
1- Văn phiệt là
một tân-danh-từ, được đặt ra bởi nhà văn (và nhà thơ) Nguyễn Vỹ. Nhóm Hàn
Thuyên của ông Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa), Nguyễn Đức Quỳnh,... có lẽ
cũng nhận danh từ này, không chỉ vào họ.
2-
Chủ nghĩa Sô-vanh (Chauvinisme) là một thứ chủ-nghĩa ái quốc hăng hái
bài ngoại, luôn luôn bốc thơm dân-tộc mình và chối bỏ hết mọi cái không phải là
nước ta, dân ta. Danh-từ này do tên ông Chauvin ra. Chauvin là một người lính
thời Đế-chế thứ Nhất của Pháp; bị thương bẩy lần, không vết thương nào ở đằng
sau.
3-
Thời-gian dài" (la longue durée) là một từ-ngứ và một quan- niệm
đã được đặt ra bởi F.Braudel (1902-1985), là người cầm đầu thế-hệ thứ hai
của nhóm sử-gia được gọi là Trường Biên Niên (Ecole des Annales). Le Roy
Ladurie là một môn-đồ cao của Braudel. Họ chủ trương viết lịch-sử các cơ-cấu (histoire
des structures) đối lại với lịch sử các sự cố (histoire
événémentielle).
4-
Bài thơ chữ Hán do ông Đinh Gia Khánh tìm thấy và công bố. Bản dịch việt-ngữ của
(ông?) Ngọc Liên. Tôi mạn phép trích dẫn cả hai bài và xin lỗi hai vị học-giả kể
tên ở trên, vì sự vi-phạm luật bản-quyền dầu quan trọng đến đâu cũng không đáng
kể so với sự thiếu lễ.
5-
hỗn mang: chaos
đoạn-hình: fractals
Đây
là hai chương mới của toán học mới, liên hệ mật-thiết với nhau. Một hỗn-mang là
một tình-trạng hỗn độn, vô-trật-tự, vô-cơ- cấu. Đoạn-hình là những hình kỉ-hà
nhắc đi nhắc lại, càng ngày càng giảm thiểu vô-cùng-tận.
Trong
câu trước, khiêu-hưởng (âm) = harmomique
6- Et
Jehanne la bonne Larraine
Qu'Anglois
bruslerent à Rouen.
Phụ-lục
sau bài này tôi ghi lại cả bài thơ (ngắn) của Villon cùng với bài dịch sang tiếng
Anh của thi sĩ Dante Cabriel Rossetti.
7- Les
Poètes Damnés là đầu-đề một loạt bài mà thi-sĩ Paul Verlaine đã viết năm
1883, tả cái khí-hậu thơ đương thời và các thi-sĩ có những cuộc đời và tác-phẩm
"bị nguyền rủa đọa đầy."
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEicNmlsWfBItjKGU8owaaIegUnaXyLlQ2OkEXs9WZm_xPoCiGbPs-pmmdqt9Y38S_cK5MgEniZARK-MqkdpTPABgU5L6rQUSbspsbpSwu-D3KzkQxRxgKN9Bmv85996o2LvyVtmCCdbLHZI/s200/phoca_thumb_m_chp+chng+i+ni+640-480.jpg)
9-
D. G. Rossetti, sinh ở London là con một nhà chính trị Itali tị nạn ở Anh. Ông
hoàn toàn không để ý đến chính-trị và chỉ thích vẽ và làm thơ. Ông thích thơ của
Keats và chủ-trương thơ với họa là một, chỉ biết cái đẹp, không cần biết cái có
ích và không phải là để dạy đời. Ông viết: "Mầu sắc và thi điệu (meter,
thi thước) là dấu-hiệu thực của sự cao-quí trong hội-họa và thi-ca, phải ở trên
và ở trước mọi chủ rương trí thức." Rossetti nổi tiếng vì có thơ trong họa
và họa trong thơ.
Ông
thích vẽ người đàn bà đẹp với "đôi mắt mơ-màng", coi là tinh thần hướng
lên cao, nhưng môi và nét mặt vẫn đẹp như người trần. Vì vậy, cả trong thơ và họa-phẩm,
ông bị một nhà phê-bình mạt sát nặng nề đến nỗi sính bệnh kinh phong mà chết.
Tác phẩm vẽ Beatrice, người tình lí tưởng ở Thiên Đường của Dante, là một trong
những tuyệtphẩm vẫn được trưng bày của D. G. Rossetti. Thơ của ông được các
thi sĩ lớp sau như M. Arnold, T. S. E liot yêu chuộng. Em gái ông, Christine
Rossetti, cũng là một thi sĩ nổi danh cho đến ngày nay.
Phái
thơ và họa Rossetti lập ra mệnh danh là Phái Tiền Raphael.
Trần Ngọc Ninh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét