Một số
thể loại khí nhạc Việt Nam
Âm nhạc mới Việt Nam thế kỉ XX đã thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa Việt
Nam và phương Tây. Vào những năm 60, ở nước ta bắt đầu hình thành đội ngũ sáng
tác khí nhạc chuyên nghiệp ở thể loại nhạc thính phòng và giao hưởng.
GS.TSKH.
Phạm Lê Hòa đã nhận định về khí nhạc trong bài viết Nghệ thuật âm nhạc
và con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa như sau: “Ngôn ngữ âm
nhạc, nhất là những âm thanh khí nhạc mang trong nó tính trừu tượng cao khi
biểu đạt hình tượng nghệ thuật. Điều đó cũng có nghĩa:trong quá trình sáng tạo,
nhà soạn nhạc dùng phương tiện biểu đạt là các âm thanh âm nhạc để phản ánh thế
giới khách quan và chủ quan thông qua hình tượng nghệ thuật”.[3,tr.1]
Các
thể loại của tác phẩm khí nhạc bao gồm: Sonate,Ouverture, tổ khúc, Requiem,
giao hưởng, giao hưởng thơ...Chúng luôn giữ vị trí đặc biệt đối với việc xây
dựng một nội dung chủ đề phát triển hài hòa, toàn diện. Tác phẩm khí nhạc luôn
có khả năng biểu hiện ý nghĩ và tình cảm ngoài tầm cỡ tiếng nói và giọng hát
của con người. Nó có thể đề cập đến triết lý cuộc sống, gợi sự phát triển ước
mơ, trau dồi sự tưởng tượng...
Âm nhạc giao hưởng - thính phòng có mối liên quan chặt
chẽ đến nhau.Tuy nhiên, về mặt quy mô và cách thức biểu diễn có những khác
biệt.Tên gọi “giao hưởng"
(symphonie) bắt nguồn từ ngôn ngữ Hy Lạp - có nghĩa là hòa hợp âm hưởng.
Sau này "giao hưởng" được dùng để đặt cho các tác phẩm viết cho dàn
nhạc giao hưởng ở các thành phần cấu trúc lớn nhỏ, đa dạng gồm có 4 bộ nhạc cụ
chính: Bộ dây (Violon, Alto,
Violoncelle, Contrebasse); bộ gỗ (Flute, Hautbois, Clarinette, Basson); bộ đồng (Cor, Trompette, Trombone, Tuba) và bộ gõ. Thể loại âm nhạc này bắt
đầu hình thành từ những năm 30 thế kỷ XVIII, khi các khúc dạo đầu (ouverture)
trong các vở opera ngày càng phát triển và mang tính độc lập. Từ đó giao hưởng
như một thể loại âm nhạc độc lập đã ra đời.
Giao hưởng bao hàm mọi ý tưởng âm nhạc với
mọi khả năng biểu cảm phong phú và đa dạng ở bất kỳ nội dung nào từ chất trữ
tình cho đến chất anh hùng ca, từ niềm lạc quan yêu đời cho đến nét bi thương
thảm khốc. Đầu tiên, giao hưởng được sáng tác ở hình thức tổ khúc sonate gồm 3
chương theo phong cách trường phái Napoli - Ý. Dần dần, qua quá trình phát
triển, trong thành phần của tác phẩm giao hưởng bắt đầu có thêm khúc dạo đầu
(của chương I) và Menuette (tính chất vũ khúc cung đình Pháp) đóng vai trò
chương cuối của giao hưởng 3 chương.
Sau đó, giao hưởng 4 chương được hình thành, trong đó chương cuối được sáng tác ở hình thức sonate hoặc rondo - sonate. Các chương chậm (chương II hoặc chương III) thường mang nội dung trữ tình biểu hiện sự tương phản với các chương còn lại. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã hình thành nên nhiều tác phẩm giao hưởng ngoài quy luật kinh điển như giao hưởng từ 5 chương trở lên hoặc chỉ có 2 hoặc 1 chương duy nhất ví dụ như giao hưởng thơ (symphonie poème). Ngoài các tác phẩm chỉ dành cho dàn nhạc giao hưởng - thành phần chính, có nhiều tác phẩm giao hưởng còn kết hợp cả với lĩnh xướng và hợp xướng (như giao hưởng số 9 - Hướng tới niềm vuicủa L.V.Beetthoven)… Ngoài ra, thể loại âm nhạc này còn liên kết với các thể loại khác để tạo nên những tác phẩm mang hình tượng nghệ thuật tổng quát như: giao hưởng chiêu hồn, giao hưởng ballet, giao hưởng thanh xướng kịch... Điều quan trọng nhất trong giao hưởng, đó là sự phát triển và mối liên kết các ý tưởng âm nhạc theo logic kết hợp với sự tương phản giữa các chương nhằm tạo nên sự phong phú về hình tượng nghệ thuật và kịch tính âm nhạc sâu sắc.
Sau đó, giao hưởng 4 chương được hình thành, trong đó chương cuối được sáng tác ở hình thức sonate hoặc rondo - sonate. Các chương chậm (chương II hoặc chương III) thường mang nội dung trữ tình biểu hiện sự tương phản với các chương còn lại. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã hình thành nên nhiều tác phẩm giao hưởng ngoài quy luật kinh điển như giao hưởng từ 5 chương trở lên hoặc chỉ có 2 hoặc 1 chương duy nhất ví dụ như giao hưởng thơ (symphonie poème). Ngoài các tác phẩm chỉ dành cho dàn nhạc giao hưởng - thành phần chính, có nhiều tác phẩm giao hưởng còn kết hợp cả với lĩnh xướng và hợp xướng (như giao hưởng số 9 - Hướng tới niềm vuicủa L.V.Beetthoven)… Ngoài ra, thể loại âm nhạc này còn liên kết với các thể loại khác để tạo nên những tác phẩm mang hình tượng nghệ thuật tổng quát như: giao hưởng chiêu hồn, giao hưởng ballet, giao hưởng thanh xướng kịch... Điều quan trọng nhất trong giao hưởng, đó là sự phát triển và mối liên kết các ý tưởng âm nhạc theo logic kết hợp với sự tương phản giữa các chương nhằm tạo nên sự phong phú về hình tượng nghệ thuật và kịch tính âm nhạc sâu sắc.
Ảnh: Chương trình hòa nhạc
của L.V.Beetthoven ( Nguồn: st)
Người có công hình thành thể loại giao hưởng là
nhạc sĩ người Áo J.Haydn, với hơn 100 bản giao hưởng trong cuộc đời sáng tạo
nghệ thuật của ông. Có thể nói, nghệ thuật giao hưởng đỉnh cao đã được các nhạc
sĩ cổ điển Viên hoàn thiện(J.Haydn, W.A.Mozart, L.V.Betthoven). Các bản giao
hưởng E-dur (số 39),g - moll (số 40), C -
dur (số 41) của Mozart , Anh hùng ca - số 3, Định mệnh- số 5, Đồng
quê - số 6 và Hướng tới niềm vuisố 9, L.V. Beethoven đã
làm nên những dấu ấn mới, mở ra bước ngoặt phát triển mới cho loại hình nghệ thuật này. Hơn thế nữa, các sáng tác củaL.V.
Beethoven còn làm tiền đề phát triển
cho thời kì âm nhạc lãng mạn sau này. Thế kỷ XIX, XX trong sự nghiệp
sáng tạo của các thiên tàiF. Schubert,P.I Tchaikovsky, H.Berlioz, F.
Liszt, C.Debbussy và D.Shostakovich... Trong dòng nhạc hàn lâm của
nước ta, nghệ thuật giao hưởng tuy còn non trẻ nhưng đã cống hiến cho nền âm
nhạc của đất nước những tác phẩm đặc sắc như các giao hưởng:Quê hương (Hoàng
Việt),Đồng Khởi(Nguyễn Văn Thương), Trăm sông đổ về biển Đông (Trần
Ngọc Sương), Rhapsody Việt Nam (Đỗ Hồng Quân)...
Tên gọi “âm nhạc thính phòng” có
nguồn gốc từ ngôn ngữ Latinh, mang ý nghĩa là nhạc để biểu diễn
trong phạm vi không gian nhỏ (như phòng hòa nhạc) để phân biệt với nhạc giao
hưởng, nhạc sân khấu (ví dụ: opera, oratoria, cantata) dành cho các gian hòa
nhạc lớn. Thuật ngữ này được hình thành từ thời Trung cổ nhưng mãi đến cuối
thời đại phục hưng mới được khẳng định rõ ý nghĩa mà hiện nay chúng ta vẫn hiểu
về nó. Trước kia, âm nhạc thính phòng theo nguyên tắc được trình diễn ở các
buổi hòa nhạc trong phạm vi gia đình, chính từ đây đã hình thành nên thành phần
các nhạc công của loại hình nghệ thuật này: từ một độc tấu cho đến vài ba nhạc
công đủ để biểu diễn trong phạm vi nhỏ và liên kết với nhau thành nhóm nhạc
thính phòng. Khi sáng tác cho âm nhạc thính phòng, các nhạc sĩ thường chú trọng
chi tiết đến phương thức biểu cảm trong mỗi cấu trúc âm nhạc phù hợp với từng
loại nhóm cụ thể.
Giữa thế kỷ XVI, hình thành rõ sự
phân biệt giữa nhạc nhà thờ và nhạc thính phòng trong các thể loại nhạc dành
cho giọng hát. Một trong những tác phẩm đầu tiên tiêu biểu nhất của "âm
nhạc thính phòng" phải kể đến "L'antica musica ridotta alla
moderna" của Nicolo Vitrentino (1555). Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII,
âm nhạc thính phòng bắt đầu phát triển mạnh ở các loại hình âm nhạc dành cho
nhạc cụ hay còn gọi là khí nhạc.
Ở những giai đoạn đầu tiên này giữa nhạc cho giọng hát và khí nhạc hầu như không phân biệt về phong các nghệ thuật. Cho đến giữa thế kỷ XVIII, sự phân biệt giữa chúng mới được thể hiện rõ nét, âm nhạc thính phòng luôn đòi hỏi sự sống động và tự do trong ý tưởng âm nhạc hơn âm nhạc nhà thờ.Thể loại cao nhất của âm nhạc thính phòng dành cho khí nhạc thời kỳ này là tổ khúc sonate có nguồn gốc từ tổ khúc. Nửa sau thế kỷ XVIII cùng với tên tuổi các thiên tài J.Haydn, W.A.Mozart, L.V.Beethoven đã hình thành các thể loại âm nhạc thính phòng cổ điển - độc tấu, song tấu, tam tấu, tứ tấu, ngũ tấu... trong đó ý nghĩa đặc biệt quan trọng là các nhóm dành cho các bộ dây (Violon, Viola,Violoncelle,Contrebass). Chính bởi vì ở các thể loại này hội tụ mọi điều kiện để có thể diễn tả cảm xúc, hình tượng nghệ thuật một cách phong phú nên chúng đã thu hút nhiều nhạc sĩ thiên tài từ cổ điển cho đến hiện đại, ngoài các nhạc sĩ đã kể trên còn có J.Bramhs, A.Dvozak, B.Smetana, E.Grieg, A.P.Borodin, S.V.Rachmaninov (thế kỷ XIX),C.Debussy, M. Ravel, B.Bartok, S.Prokofiev, D. Shostakovich... (thế kỷXX).
Ở những giai đoạn đầu tiên này giữa nhạc cho giọng hát và khí nhạc hầu như không phân biệt về phong các nghệ thuật. Cho đến giữa thế kỷ XVIII, sự phân biệt giữa chúng mới được thể hiện rõ nét, âm nhạc thính phòng luôn đòi hỏi sự sống động và tự do trong ý tưởng âm nhạc hơn âm nhạc nhà thờ.Thể loại cao nhất của âm nhạc thính phòng dành cho khí nhạc thời kỳ này là tổ khúc sonate có nguồn gốc từ tổ khúc. Nửa sau thế kỷ XVIII cùng với tên tuổi các thiên tài J.Haydn, W.A.Mozart, L.V.Beethoven đã hình thành các thể loại âm nhạc thính phòng cổ điển - độc tấu, song tấu, tam tấu, tứ tấu, ngũ tấu... trong đó ý nghĩa đặc biệt quan trọng là các nhóm dành cho các bộ dây (Violon, Viola,Violoncelle,Contrebass). Chính bởi vì ở các thể loại này hội tụ mọi điều kiện để có thể diễn tả cảm xúc, hình tượng nghệ thuật một cách phong phú nên chúng đã thu hút nhiều nhạc sĩ thiên tài từ cổ điển cho đến hiện đại, ngoài các nhạc sĩ đã kể trên còn có J.Bramhs, A.Dvozak, B.Smetana, E.Grieg, A.P.Borodin, S.V.Rachmaninov (thế kỷ XIX),C.Debussy, M. Ravel, B.Bartok, S.Prokofiev, D. Shostakovich... (thế kỷXX).
Ảnh: Chương trình hòa nhạc
của W.A.MoZart ( Nguồn: st)
Âm nhạc giao hưởng - thính phòng Việt Nam thực
sự được hình thành từ thập niên 60và tiếp tục phát triển đến ngày nay.Quá trình
này dựa trên mối liên hệ, hỗ trợ với các loại hình khác nhau của âm nhạc mới
Việt Nam và nền tảng của dòng âm nhạc dân gian truyền thống. Sự hình thành của âm nhạc thính phòng
giao hưởng ở giai đoạn này là sự tiếp thu những khuôn mẫu có sẵn từ âm nhạc
phương Tây. Nó cũng là kết tinh giữa nền tảng âm nhạc truyền thống với tinh hoa
âm nhạc thế giới. Thể hiện một bước tiến mới của âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam
qua trình độ của các nhạc sĩ, nghệ sĩ biểu diễn, chương trình biểu diễn trong
các nhà hát thính phòng - giao hưởng.
Những tác phẩm của Việt Nam phong phú về hình
thức, thể loại, ngôn ngữ âm nhạc khá đậm đà bản sắc dân tộc thể hiện được hình
tượng đất nước, con người Việt Nam... hai thể loại Requiem và giao
hưởng thơ cũng không năm ngoài quy luật đó
Trước hết nói đến Requiem, theo từ điển âm nhạc của
trường đại học Havard: Requiem còn
được gọi là Requiem Mass (Latin: Missa
pro defunctis) hay Mass của người chết (Latin: Missa
defunctorum). Requiem là
tên gọi thể loại nhạc nghi lễ của giáo hội công giáo nhằm cầu siêu giúp các
linh hồn sớm được giải thoát, thường được diễn ra trong các buổi lễ tại nhà thờ
hoặc cũng có thể là trong đám tang.
Tiền thân của Requiem là Messa (hay còn gọi là Requiem
Messa).Messa là nói đến thể loại âm nhạc hát hợp xướng dùng trong thánh lễ ở
các buổi lễ của nhà thờ Roma.
Về ca từ, ban đầu lời kinh Messa thường dùng tiếng La
Tinh, đây được coi là ngôn ngữ thể hiện sự chuẩn mực, trang nghiêm, linh thiêng
của các buổi lễ này. Tuy nhiên về sau này cũng có một số nơi khác sử dụng tiếng
bản địa để thay thế cho tiếng La tinh trong buổi lễ của các nhà thờ công giáo
khác.Về âm nhạc, Messa là một tác phẩm độc lập với lối hát hợp xướng acappela
không nhạc đệm hoặc cũng có thể sử dụng dàn nhạc giao hưởng đệm với biên chế
đầy đủ các bộ.
Một tác phẩm Messa hoàn chỉnh bao gồm 5 phần đó là:
Kyrie, Gloria, Credos, Sanctus and Bernedius, Agnus Dei. Đây là các phần chính
không thể thiếu được khi Messa được diễn tấu, ngoài ra tùy thuộc vào yêu cầu
của mỗi buổi lễ có thể bổ sung thêm những phần phụ khác.
Phần đầu tiên - Kyrie, đây là nghi thức thông thường
trong việc tổ chức buổi lễ Messa. Lời kinh trong phần này gồm Kyrie elesion,
Christe elesion (tạm dịch: lạy chúa xin thương xót và chúa kito xin thương xót.
Phần Kyrie thường ngắn gọn, súc tích, có cấu trúc đối xứng, thường sử dụng hình
thức ABA hoặc AAABBBCCC, luôn xuất hiện 2 chủ đề tương phản lẫn nhau. Về sau,
trong requiem của Mozart cũng dùng “Kyrie” và “Christe” làm lời ca tương
ứng với đó là hình thức fuga 2 chủ đề được sử dụng trong tác phẩm.
Tiếp đến là Gloria, đây là phần nhạc có nội dung ngợi
ca sự thiêng liêng, cao cả của đức chúa trời và chúa Kito. Gloria được viết
theo yêu cầu của các nhà thờ nên cấu trúc cũng như ca từ của Gloria luôn có sự
thay đổi để phù hợp với từng buổi lễ.
Phần thứ ba là Credo - phần dài nhất của Messa. Lời ca
của Credo mang mục đích tạo nên sự thống nhất giữa các giáo dân khi
họ cùng hát vang lên lời cầu nguyện với đức tin chung.
Phần thứ tư là Sanctus và Benedictus, đây là hai loại
có liên hệ chặt chẽ với nhau.Trong thánh ca Gregorian, Sanctus cùng Benedictus
đều chiếm vị trí quan trọng trong một bản Messian.Lời ca của Sanctus nguyên gốc
thường sử dụng tên gọi Gloria ejus để chỉ đức chúa trời. Sau này trong phần
Sanctus ở các tác phẩm như: Messian h-moll của J.S. Bach, hợp xướng Martin
Luther của Isaiah... thì tên gọi gọi của chúa được thay bằng đại từ “Người”.
Phần cuối cùng là Agnus Dei có nội dung tóm tắt lại
một bản Messian. Trong một Requiem messian lời ca có được thay đổi để phù hợp
với từng buổi lễ cầu siêu.
Như vậy, thể loại Requiem có nghĩa là lễ cầu siêu, lễ
cầu hồn.Theo tiếng la tinh nó lại có nghĩa là “yên nghỉ”. Mỗi Requiem thường
diễn ra theo trình tự 5 phần gồm: Kyrie, Gloria, Credo, Sanctus và Benedictus,
Agnus Dei. Trong âm nhạc, Requiem được viết theo lối viết lễ nhạc cho thánh
đường (Mass) có thể gọi là khúc cầu hồn. Rất nhiều nhà soạn nhạc nổi tiếng như
V.A.Mozart, G. Verdi, J. Brahms, H. Berlioz, A. Dvorak...có các requiem được
hình thành manh nha từ cái chết. Đó là Mozart soạn theo đơn đặt hàng của một
người dấu tên có dụng ý để trình diễn trong dịp kỉ niệm một năm sau ngày mất
của ông ta. G.Verdi soạn để đánh dấu ngày giỗ của nhà thơ Ý- Alassandro
Manzoni, J. Brahm soạn vì mẹ ông vừa mất... Tới nay có khoảng 2000 bản nhạc
Requiem, đa phần được viết trong thời kì Phục hưng. Thường thì những Requiem ở
thời kì này viết theo lối hát nhiều bè không có nhạc cụ đệm (A capella). Đến
thế kỉ XVIII, các nhạc sĩ đã bổ sung thêm dàn nhạc giao hưởng đệm vào, từ đó
thể loại nhạc này đã trở thành một tác phẩm được trình diễn ở các phòng hòa
nhạc nhiều hơn ở các thánh đường.
Trong quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật
giao hưởng hợp xướng ở Việt Nam nói chung, thể loại Requiem đã xuất hiện, dần
được hình thành, định hình. Tác phẩm Khúc tưởng niệm của nhạc sĩ Doãn Nho đã
đóng góp một phần không nhỏ trong quá trình phát triển chung đó. [8]
Còn với thể loại giao hưởng thơ, âm nhạc châu Âu thế kỉ
XIX đã xuất hiện khuynh hướng liên kết các chương trong giao hưởng thành một
chương. Điều này được thể hiện rõ trong một thể loại nhạc có tiêu đề gọi là Thơ
giao hưởng. Thể loại gồm tác phẩm viết cho dàn nhạc, có một chương, cấu trúc có
tính thống nhất liền mạch, khó có thể diễn tấu tách rời các phần cấu thành của
nó.Tiền đề của thể loại này thấy trong các Ouverture của W.A.
Mozart,L.V.Beethoven. Sau đó được định hình và trở thành một thể loại hoàn
thiện bởi F. Liszt nhạc sĩ người Hungary với tên gọi Thơ giao hưởng.
Tác phẩm giao hưởng thơ đầu tiên do ông sáng tác đánh dấu sự ra đời của thể
loại này là Ce qu'on Entend sur la Montagne( Những gì chúng tôi nghe thấy trên núi) (1847 -
1848).
Do sức biểu cảm phong phú, có khả năng thể hiện
một cách cô đọng về tâm hồn, cũng như tư tưởng của nhân vật trong tác phẩm nên
thể loại giao hưởng thơ ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình. Tiếp sau
Liszt, các nhà soạn nhạc Tây Âu và các đại diện của nhiều trường phái dân tộc
khác nhau đều lưu ý đến thể loại giao hưởng thơ. Trong số đó có Bedrich Smetana
với tác phẩm Richard III, Trang trại của Vallenshtein, Gecon
Jarlhay tổ khúc giao hưởng thơ Tổ quốc tôi (gồm 6 phần trong đó mỗi
phần là 1 giao hưởng thơ). Bên cạnh đó, Camille Saint - Saens cũng có
nhiều tác phẩm nổi bật như Vũ điệu ma quỷ, Tuổi trẻ của
Heracle...
Thơ giao hưởng là một thể loại âm nhạc có tiêu đề, cấu
trúc một chương, viết cho dàn nhạc.Mặc dù được phát triển liên tục, song mỗi
phần của tác phẩm đều mang những nét điển hình của các chương trong một liên
khúc sonate hay liên khúc giao hưởng.Đó là phần thứ nhất - nhanh, phần thứ 2 -
chậm, trữ tình hoặc giống chương schezo, phần thứ 3- tái hiện.Tuy nhiên, so với
liên khúc sonate thông thường, giao hưởng thơ kết thúc cô đọng thể hiện nội tâm
mạnh mẽ và có những nét riêng.
Các sáng tác ở thể loại giao hưởng thơ có cấu trúc tự
do. Ngoài những nét điển hình của thể loại liên khúc sonate hay liên khúc giao
hưởng, tác phẩm còn có thể được viết ở hình thức biến tấu, ba đoạn phức, rondo,
rondo sonate...
Đây là một dạng cấu trúc độc đáo bởi nhà soạn nhạc đã
khéo léo kết hợp những hình thức âm nhạc khác nhau vào trong cùng một cấu trúc
thống nhất của tác phẩm.Bên cạnh việc tạo nên sự phong phú, độc đáo và mới lạ
cho thể loại, việc kết hợp này còn góp phần thể hiện, phản ánh sinh động những
tình tiết, hình tượng văn học khác nhau. Vì ở thể loại giao hưởng thơ, âm nhạc
luôn đi theo nội dung, đề cương của một câu chuyện, hay phác họa tính cách một
nhân vật (như trong Don Juan- Richard Strauss), hoặcmangtính chất
mô tả như giao hưởng tranh(Biển- C. Debussy, Người học trò của
pháp sư- P.Dukas)...
Ở Việt Nam, từ những năm 60 của thế kỉ XX, các nhạc sĩ
đã tiếp thu khuôn mẫu của thể loại giao hưởng thơ trong âm nhạc phương Tây để
cho ra đời nhiều tác phẩm giao hưởng thơ Việt Nam.Trong đó gửi gắm những tâm
tư, tình cảm, những nỗi niềm mang tính thời đại các nhạc sĩ của chúng ta đã có
nhiều sáng tạo dựa trên những nền tảng có sẵn của âm nhạc châu âu nhằm tạo nên
những nét riêng mang tính dân tộc. Ngoài ra các nhạc sĩ cũng thường quan tâm
đến đề tài về lãnh tụ, quê hương đất nước như : Người về đem tới ngày
vui (Trọng Bằng), Tưởng nhớ (Vân Đông), Những
cánh chim cao nguyên (Nguyễn Tài Tuệ), Dáng đứng Việt Nam (Ca
Lê Thuần), Biển cả và quê hương (Hoàng Dương), Đất
nước anh hùng (La Thăng), Việt Nam đất nước của niềm tin và hy
vọng (Minh Khang), Khát vọng (Nguyễn Thị Nhung), Không
đề (Đàm Linh), Ước mơ bản Mường (Mông Lợi Chung), Chân
trời bến đợi (Vũ Duy Cương), Không đề (Đức Trịnh), Níu
vào mùa thu (Lê Tịnh)...
Cũng có các nhạc sĩ khai thác nhân vật truyền thuyết
anh hùng như Thánh Gióng (Doãn Nho)...
Ảnh: Một buổi biểu diễn của Dàn nhạc
giao hưởng Quốc gia Việt Nam ( Nguồn: st)
Cùng với đó đề tài liên quan đến các sự kiện trong hai
cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc trong thế kỉ XX như: Lửa cách mạng (Trần
Ngọc Xương), Thành đồng Tổ quốc (Hoàng Vân), Giải
phóng Điện Biên (Hoàng Đạm), Đồng khởi (Nguyễn Văn
Thương), Nữ anh hùng miền Nam (Nguyễn Thị Nhung), Đất
lửa anh hùng (Hà Sâm), Đường ra tiền tuyến (Nguyễn An), Nam
kỳ khởi nghĩa (Lê Khiêm), Nhớ Trường Sơn (Huy Loan), Tháng
Tám lịch sử (Doãn Nho)...
Giao hưởng thơ ở Việt Nam đã đóng góp một phần không
nhỏ trong quá trình phát triển và hình thành âm nhạc bác học ở nước ta. Vận
dụng nhiều thủ pháp như hòa thanh, phức điệu, phối khí...của châu Âu, các nhạc
sĩ đã không ngừng sáng tạo để chọn lựa đề tài, xây dựng chủ đề âm nhạc, tạo
hình tượng âm nhạc cho đến lối tiến hành giai điệu...để phù hợp với lối tư duy,
xúc cảm của người Việt Nam. Vì vậy, các tác phẩm giao hưởng thơ của nước ta
luôn độc đáo và thấm nhuần tính dân tộc.
Các nhạc sĩ luôn sáng tạo trong việc vận dụng những
cấu trúc, hình thức, hòa thanh... các phương thức phát triển tiếp thu từ âm
nhạc phương Tây để thể hiện những nội dung hình tượng âm nhạc giàu tính dân tộc
.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Minh Châu (2007), Âm
nhạc Việt Nam Tác giả tác phẩm (tập III), Viện Âm nhạc, Hà Nội
2. Hồng Đăng, Tân Huyền, Vũ Tự Lân
(1997), Nhạc sĩ Việt Nam hiện đại, Nxb Hội nhạc sĩ, Hà Nội.
3. Phạm Lê Hòa (1/2013), bài viết Nghệ
thuật âm nhạc và con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nội san Đại học
Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Nhung (2001), Âm nhạc
thính phòng - giao hưởng Việt Nam, Nxb Âm nhạc.
5. Nguyễn Thị Nhung (2005), Phân
tích tác phẩm âm nhạc, Nhạc viện Hà Nội, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Nhung (2006), Âm nhạc
Việt Nam Tác giả, tác phẩm (Tập I), Viện âm nhạc, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Nhung (2006), Phân tích
tác phẩm âm nhạc, quyển 2, Nhạc viện Hà Nội
8. Willi Apel (1969), Từ điển Âm nhạc của
Havard (quyển 3), Đại học Havard, USA.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét