Trong lịch sử phát triển của thơ ca, mạch thơ về đồng quê xuất
hiện rất sớm từ trong thơ ca thời kỳ cổ Hy Lạp. Mỗi khi con người có mối quan hệ
chặt chẽ với thiên nhiên và khi đồng quê là nguồn nôi dưỡng đời sống và tâm hồn
nhiều thế hệ thì thơ viết về làng quê có vị trí quan trọng. Những nhà thơ lớn
như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... đều
có thơ hay viết về làng quê. Phong trào Thơ mới cũng không đi ngoài quan hệ ấy.
Trong dòng thơ quê, ta bắt gặp rất nhiều gương mặt quen thuộc:
Tế Hanh (Quê hương), Huy Cận (Tràng Giang), Hàn Mặc Tử (Đây thôn Vĩ Dạ và Lời
quê) và những bài thơ của Bàng Bá Lân, Anh Thơ... Không ít thi sĩ viết về làng
quê bằng những đường nét rất trìu mến nhưng thắm đượm tình quê, hồn quê hơn cả
vẫn là thơ Nguyễn Bính. Chỉ có Nguyễn Bính mới là người đã thâu tóm vào mình tất
cả cái hồn quê đầy sắc màu ấy. Nguyễn Bính thường bộc lộ tâm tình của mình gắn
liền với cây cỏ chốn thôn quê: cây chanh, cây bưởi, cây cam, cây chè... Điệu hồn
quê cất lên từ cá nhân Nguyễn Bính cũng chính là điệu tâm hồn chung của dân quê
từ bao đời nay. Hoài Thanh - Hoài Chân chỉ rõ: “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức
người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là
hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính
tình căn bản của ta” (1).
Nếu Xuân Diệu được coi là mới nhất, Hàn Mặc Tử lạ
nhất thì Nguyễn Bính là quen nhất. Người luôn ở bên cạnh chúng ta, sống
trong lòng chúng ta. Những vần thơ dung dị, đằm thắm, ngọt ngào, đậm sắc hồn
dân tộc của ông có sức sống lâu bền, cứ thấm sâu vào tâm hồn người đọc. Người
ta nhớ đến thơ Nguyễn Bính là nhớ đến những giàn trầu, hàng cau, giậu mồng tơi,
cây đa, bến nước, con thuyền; nhớ đến cái khắc khoải da diết trong lòng kẻ tha
hương, trong lòng người xa xứ. Không ai là không một lần rung động khi lắng
nghe tấm lòng nhà thơ và khúc nhạc hồn quê bao đời như ẩn chứa trong những vần
thơ đậm đà tình quê ấy.
Không gian làng quê trong thơ Nguyễn Bính mang vẻ đẹp ngàn đời
của nông thôn Việt Nam, gần gũi với mọi tâm hồn, mọi thời đại. Không gian
làng quê ấy mang đậm phong vị ca dao, được xây dựng từ những chất liệu quen thuộc,
dân dã của chốn thôn quê: những dòng sông với cô lái đò, mảnh vườn ao bèo, giàn
đậu ván, dậu mồng tơi với cô hàng xóm, hoa cải vàng, tơ trắng bướm vàng, là mùa
xuân với những đêm hội chèo, những mối tình trai gái. Những chất liệu đơn sơ, mộc
mạc này đã góp phần tạo nên bức tranh thơ với nét vẽ trong sáng, chân thực:
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần
Hoa đỗ ván nở mùa xuân
Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm
(Nhà tôi)
Không gian làng quê ấy được gợi lên từ những hình ảnh chân thực
và gợi cảm nhất. Đó là hình ảnh làng quê yên ả thanh bình, thấp thoáng sau lũy
tre xanh, được bao bọc bởi những dải đê. Con đê là nơi gắn bó nhiều kỷ niệm của
người dân, là nơi đưa tiễn người đi xa, đón người trở về, là nơi hò hẹn luyến
ái của trai gái quê. Gắn với con đê, bờ tre xanh, con đường làng là xóm thôn,
nhà cửa, vườn tược, ruộng đồng, bến nước, con đò... Những hình ảnh ấy vốn xưa
cũ, gần gũi trong tâm thức của con người truyền thống. Nhà thơ đã lấy ngay những
chi tiết, hình ảnh có thực của nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ để tạo ra không
gian chung của làng quê ở mọi thời, nhất là làng quê xứ Bắc. Trong thơ, ta bắt
gặp rất nhiều tên xóm, tên làng vốn đã có trong dân gian: “Thôn Đoài ngồi nhớ
thôn Đông” (Tương tư), “Thôn Vân có biếc có hồng”, “Lối đỏ như son tới xóm
Dừa”, “Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ” (Mưa xuân), “Quan trạng đi bốn lọng
vàng/ Cờ thêu tám lá qua làng Trang Nghiêm” (Quan trạng)... Những
thôn Đoài, thôn Đông, làng Đặng, xóm Tây, xóm Bắc là những tên làng, tên xóm
thân thương, gắn bó với người dân làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Người làng quê quen
quần tụ bên nhau trên một địa bàn cư trú cơ bản là làng xóm, bởi vậy những tên
làng, tên xóm được Nguyễn Bính sử dụng trực tiếp và cụ thể đã gợi lên dáng vẻ cổ
kính quen thuộc của làng quê có từ ngàn đời.
Không gian làng quê là không gian lưu động theo bước đường
tha hương của nhà thơ. Tuy nhiên, không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính
cơ bản là không gian làng quê mang đậm phong vị ca dao. Để tạo nên không gian
làng quê ấy, Nguyễn Bính đã sử dụng những phương tiện ngôn ngữ biểu đạt không
gian rất đa dạng, trước hết là hệ thống danh từ biểu đạt không gian quê với
1.677 lần xuất hiện chiếm khoảng 87% tổng số danh từ biểu đạt không gian. Hầu hết,
các danh từ chỉ không gian đều gợi lên những hình ảnh, sự vật gần gũi, quen thuộc
gắn bó với đời sống sinh hoạt cũng như đời sống tinh thần của người dân quê. Đó
là thôn, làng, ngõ, xóm, dòng sông, con đò, trăng, sao, trầu cau, hoa bướm, tằm
tơ, khung cửi, là áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen, vườn dâu, ao bèo, giàn
đỗ ván, là đình, chùa, lễ hội..., những hình ảnh rất đỗi quen thuộc đã trở
thành biểu tượng, thành nỗi ám ảnh thường trực về làng quê.
Thơ Nguyễn Bính chan chứa tâm tư, tình cảm, những nghĩ suy và
khát vọng của những con người chân lấm tay bùn sau lũy tre làng. Cái hồn trong
thơ ông sao mà dung dị, chất phác. Tiếng thơ của Nguyễn Bính cất lên, người đọc
đã thấy ngay cái hồn của làng quê, ruộng đồng: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một
người chín nhớ mười mong một người/ Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh
của tôi yêu nàng” (Tương tư). Tình quê của thơ Nguyễn Bính là một tình cảm đẹp
hướng về cái đẹp, cái thiện, khao khát được trở về cội nguồn. Cái tình quê cũng
được nhà thơ gởi gắm qua cuộc sống sinh họat đời thường. Đó là tâm trạng của
người mẹ nghèo tiễn con gái về nhà chồng, là nỗi e thẹn và ngây thơ của cô thôn
nữ hay nỗi lo sợ ghen bóng ghen gió của chàng trai làng khi người yêu đi tỉnh về:
“Van em, em hãy giữ yên quê mùa...” (Chân quê). Nguyễn Bính đã thổi vào sự vật
cái hồn quê của mình. Chính cái tôi thôn dân ấy đã hóa thân vào những nhân vật
trữ tình, những cánh bướm, những đóa hoa: “Cái ngày cô chưa có chồng/ Đường gần
tôi cứ đi vòng cho xa.../Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao có một quãng đồng mà
xa” (Qua nhà).
Cái đẹp trong thơ Nguyễn Bính nghiêng về cái đẹp truyền thống.
Hình ảnh thơ ông đậm đà chất dân dã, hương đồng gió nội. Tràn ngập trong
thơ ông là cánh bướm trắng, giàn trầu cay, con thuyền ở bến sông, các cô gái
quê với yếm thắm, má hồng... Một bài thơ có lẽ không ai có thể quên khi đọc thơ
Nguyễn Bính: Chân quê. Trong Chân quê, một bài thơ có ý nghĩa như một
tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính, ông đã viết: “Hoa chanh
nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê”... Và rất tự
nhiên, chân quê đã trở thành một định hướng xuyên suốt trong thơ Nguyễn
Bính, chi phối mạnh mẽ sự lựa chọn vật liệu, chất liệu cũng như cách thức kiến
tạo thế giới nghệ thuật riêng của ông. Ám ảnh ở Chân quê là hình ảnh chàng
trai thôn quê đang đứng trước bi kịch: muốn níu giữ vẻ đẹp chân quê mà không giữ
được. Chàng ý thức được điều đó khi khẳng định: “Hôm qua em đi tỉnh về/
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Hai từ ít nhiều không định lượng
được nỗi mất mát, mai một của vẻ đẹp chân quê nhưng ta vẫn thấy rõ nỗi thất vọng
đau khổ của chàng trai. Chàng không muốn nói ra hương đồng gió nội đã bay đi
nhiều mà phải nén lời, nói tránh, nói giảm đi bay đi ít nhiều bởi
cách ăn mặc của người con gái đã thay đổi hẳn: “Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!”. Và quan trọng hơn là sự thay đổi về tinh thần,
đằng sau hai chữ rộn ràng là cả nỗi lòng đang háo hức phấn khởi của
người con gái. Những câu hỏi liên tiếp “Nào đâu cái yếm lụa sồi/ Cái dây lưng
đũi nhuộm hồi sang xuân?/ Nào đâu cái áo tứ thân?/ Cái khăn mỏ quạ cái quần nái
đen?” không chỉ là sự trách móc mà là cả sự ngỡ ngàng, nuối tiếc, thất vọng,
đau khổ của chàng trai trước sự thay đổi của người yêu.
Sự xuất hiện của khăn nhung, quần lĩnh, áo tứ thân đã lấn át, phủ định yếm lụa sồi, dây lưng đũi mà chàng không làm gì được. Nỗi đau nén lại để rồi chàng thốt ra những lời khuyên nhủ, bóng gió, lời khẩn cầu mềm mỏng, tha thiết yêu thương: “Nói ra sợ mất lòng em/ Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa/ Như hôm em đi lễ chùa/ Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh/ Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê”...
Sự xuất hiện của khăn nhung, quần lĩnh, áo tứ thân đã lấn át, phủ định yếm lụa sồi, dây lưng đũi mà chàng không làm gì được. Nỗi đau nén lại để rồi chàng thốt ra những lời khuyên nhủ, bóng gió, lời khẩn cầu mềm mỏng, tha thiết yêu thương: “Nói ra sợ mất lòng em/ Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa/ Như hôm em đi lễ chùa/ Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh/ Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê”...
Kiểu tình yêu chân quê của Nguyễn Bính thường gắn
liền với mơ ước về cưới xin, hôn nhân. Chu Văn Sơn nhận xét, trong thơ Nguyễn
Bính, con người “chưa gì đã tính chuyện trăm năm, cứ thích trói buộc nhau vào
những chuyện trăm năm với những cau trầu” (2). Điều này cho thấy điểm khác biệt
cơ bản trong quan niệm về tình yêu của Nguyễn Bính so với các nhà Thơ mới khác
như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương... Với Xuân Diệu, tình yêu trần thế gắn liền với
sự hưởng thụ, cả tâm hồn lẫn xác thân. Với Vũ Hoàng Chương, hôn nhân và sự gắn
bó thân xác chỉ là một sự đánh mất mình. Nhưng với Nguyễn Bính, hôn nhân là một
kết thúc đầy ý nghĩa của tình yêu. Gắn liền với mơ ước về hôn nhân là những biểu
tượng quen thuộc trong tâm thức người Việt: cau và trầu. Để diễn tả sự khăng
khít của những đôi lứa yêu nhau, Nguyễn Bính cũng sử dụng nhiều cặp hình ảnh
như hoa - bướm, thuyền - bến, thôn Đoài - thôn Đông... Nhưng cau và trầu không
chỉ là những hình ảnh chỉ sự khăng khít, gắn bó; cặp hình ảnh - biểu tượng này
còn là một khát vọng vừa rất dân gian, vừa rất hiện đại, khát vọng ngàn đời của
con người về một cái kết thúc đẹp đẽ, trọn vẹn trong tình yêu lứa đôi.
Biểu tượng cau - trầu càng bộc lộ sức ám gợi đặc biệt của nó
qua Tương tư. Tương tư là nhớ nhau, trai gái phải lòng nhau mà nhớ nhau.
Bài thơ được tổ chức theo cấu trúc nỗi nhớ ấy. “Gió mưa là bệnh của trời/
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”- đấy là tự thú của một kẻ si tình. Nhưng khốn
nỗi, kẻ si tình nhà quê ấy lại quá nhút nhát. Thế nên, xuất hiện đầu tiên không
phải là nỗi nhớ của con người mà là nỗi nhớ của thôn Đoài - thôn Đông. Thế mà
thôn Đoài và thôn Đông gần trong tấc gang ấy lại dường như bị đẩy xa tới nghìn
trùng và giữa cái khoảng cách ấy là “chín nhớ mười mong”, là “ngày qua ngày lại
qua ngày”, là “chẳng đường sang”, là “tình xa xôi”... Vì nhút nhát quá nên phải
mượn thôn Đoài, thôn Đông để gợi chuyện, để ướm lời. Cho nên cái chủ động ấy
cũng chỉ là tương tư, là đơn phương nhớ nhung.
Cho nên dù cho “Tương tư thức mấy đêm rồi”, có lẽ cũng sẽ chẳng “ai người biết cho”! Tất cả niềm hy vọng của chàng trai quê mùa ấy tập trung trong bài thơ ướm hỏi này: “Nhà em có một giàn trầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng/ Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?”. Chính cau và trầu sẽ hóa giải cái khoảng cách giữa thôn Đoài và thôn Đông, hóa giải cái khoảng cách giữa anh và em, đem lại cho căn bệnh tương tư một kết thúc trọn vẹn, “có hậu” nhất. Đỗ Lai Thúy khẳng định: “Đồng nhất tương tư với tình yêu, hay coi tương tư là thuộc tính bản chất nhất của tình yêu là đặc điểm khu biệt của thơ tình Nguyễn Bính: tha thiết, thuần nhị, kín đáo...” (3).
Cho nên dù cho “Tương tư thức mấy đêm rồi”, có lẽ cũng sẽ chẳng “ai người biết cho”! Tất cả niềm hy vọng của chàng trai quê mùa ấy tập trung trong bài thơ ướm hỏi này: “Nhà em có một giàn trầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng/ Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?”. Chính cau và trầu sẽ hóa giải cái khoảng cách giữa thôn Đoài và thôn Đông, hóa giải cái khoảng cách giữa anh và em, đem lại cho căn bệnh tương tư một kết thúc trọn vẹn, “có hậu” nhất. Đỗ Lai Thúy khẳng định: “Đồng nhất tương tư với tình yêu, hay coi tương tư là thuộc tính bản chất nhất của tình yêu là đặc điểm khu biệt của thơ tình Nguyễn Bính: tha thiết, thuần nhị, kín đáo...” (3).
Ý thức tạo dựng bức tranh tình quê như một cách vượt thoát thực
tại. Trong sự đối lập giữa quê và tỉnh, chắc chắn thôn quê sẽ là sự lựa chọn
nương gửi tâm hồn tất yếu của cái tôi chân quê Nguyễn Bính. Nhà thơ từ bỏ làng
quê để rồi khắc khoải nhớ quê tìm vào đô thị để mang mối sầu đô thị, tìm
kiếm công danh chỉ gặp dở dang, theo đuổi tình duyên chỉ gặp lỡ làng. Nguyễn
Bính điển hình cho cái lỡ dở của thời đại ấy. Ông mang đầy đủ tấn bi kịch của
thời đại với một tâm trạng bất đắc chí, mênh mông dằng dặc. Nhà thơ đã dùng cả
một trường từ vựng làm chất liệu diễn tả động thái với điệu buồn đậm và nặng:
đó là những hình ảnh khái niệm gợi sự chia lìa, nỗi cô đơn, mặc cảm lỡ dở. Lớp
từ này đã giúp thi sĩ diễn tả sâu sắc thấm thía tâm tình của người dân quê,
cũng như cái tôi trữ tình của mình. Nó cũng góp phần tạo nên giọng điệu thở
than rất đặc trưng trong thơ Nguyễn Bính.
Việc sử dụng các lối nói trong giao tiếp sinh hoạt hằng ngày
với những phiền tạp của cuộc sống người dân quê trong thơ Nguyễn Bính khá sinh
động. Trước hết là lối nói có xu hướng khẩu ngữ hóa. Việc chêm cài các từ thuộc
những lời cửa miệng của thôn dân vào lời thơ cùng với việc tổ chức câu thơ theo
cấu trúc ngữ đoạn của khẩu ngữ đã làm cho ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính mang đậm chất
của điệu nói dân gian. Ta thường gặp những câu như: “Chết nhỉ! Đêm
nay ngủ với chồng/ Trời ơi! Gió lạnh! Gớm mùa đông” (Giọt nến hồng), “Nín
đi! Mặc áo ra chào họ/ Rõ quý con tôi! Các chị trông!” (Người mẹ)... Rồi từ những
từ ngữ đưa đẩy và các cách diễn đạt mộc mạc mà người dân quê ưa dùng
như: chả, thế mà, bữa ấy, thế là, thế rồi, mà
thôi, thế thôi, ừ thôi, gớm, kẻo, cạn tiệt, chán vạn, chán
mớ đời, nói xằng, nói chằng, khốn thay... được lặp lại rất nhiều
mà vẫn không làm mất đi tình ý của bài thơ. Với ý thức dùng từ giản dị mộc mạc,
nhà thơ đã đưa vào trong thơ mình vốn từ khẩu ngữ bộc lộ cách phát âm đại
phương của người dân quê vùng đồng bằng Bắc Bộ: trồng - giồng, trầu
không - giầu không, dây - giây, trăng - giăng, dọng - giọng, dâu
- giâu... Lớp từ này đưa vào thơ với tần số cao làm cho thơ Nguyễn Bính gần với
lời nói thường, mang màu sắc tâm tình kể lể, đậm hơi thơ điệu nói.
Nếu đặc tính nổi bật nhất của văn học lãng mạn là sự thoát
ly thực tại, hiểu theo nghĩa rộng và tích cực của nó, thì Nguyễn Bính đã thoát
ly theo cách của ông, là trở về với đời sống thôn quê mộc mạc và bản chất nhà
quê cố hữu của mình. Đấy là một ứng xử thẩm mỹ của nhà thơ trước hiện thực.
Và đấy cũng là một hướng lựa chọn sáng tạo. Điều khiến Nguyễn Bính khác với nhiều
nhà Thơ mới, chính là cái hơi thở của hồn quê xưa cũ trong thơ ông nhưng lí do
khiến thơ ông không lẫn vào với muôn vàn ca dao tục ngữ, chính bởi vì ông là một
nhà Thơ mới. Sự lệch pha với cả truyền thống lẫn thời đại ấy mới làm
nên một Nguyễn Bính. Cái tôi của Nguyễn Bính là cái tôi nội cảm, cái tôi đồng vọng
của bao thời đại, bao cảnh ngộ, bao lớp người. Nguyễn Bính đã lột tả hồn
quê, tình quê một cách hết sức thiết tha, cảm động. Tình quê trong
thơ Nguyễn Bính là tình cảm hướng về cái đẹp, cái thiện, khát vọng được trở về
với cội nguồn, hồn cốt thiêng liêng của đời sống dân tộc. Tình quê trong thơ
Nguyễn Bính là kết quả của một cái nhìn lí tưởng hóa, lãng mạn hóa, nó là một vẻ
đẹp gợi nhiều hoài niệm và ám ảnh. Nguyễn Bính đã tạo cho mình một hướng đi
riêng, một phong cách riêng độc đáo đậm chất trữ tình dân gian. Thơ của Nguyễn
Bính trở về với cội nguồn dân tộc, mang đậm hồn quê, một hồn quê quen mà lạ.
1. Chu Văn Sơn, Ba đỉnh cao Thơ mới Xuân Diệu - Nguyễn
Bính - Hàn Mặc Tử, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003, tr.146.
2. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học,
Hà Nội, 2000, tr.344.
3. Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ, Nxb VHTT, Hà Nội,
2000, tr.109.
Đặng Thị Ngọc Phượng
Nguồn: T/c Văn hóa Nghệ thuật, số 11/2007, tr 82
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét