Thế hệ của thi sĩ Lê Văn Ngăn lớn lên từ khúc đoạn trường của
dân tôc, khi hiệp định Genève một lần nữa chia cắt dòng sinh mệnh của đất nước
làm hai, bên kia bờ Bắc dòng sông Bến Hải và bên nầy bờ Nam, Nam Bắc là anh em
ruột thịt đã thành kẻ thù của nhau. Dân Việt trong sinh mệnh tồn tại đã một lần
chia cắt tới 40 năm vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Anh em chúng ta đang cùng
hơi thở trong thời đại nầy, chắc hẳn những lúc lắng lòng phải tự hỏi do đâu và
vì đâu? Vũ trụ không có gì vô cố cả, mọi duyên nghiệp tất nhiên đều hiện hữu
do nhân trước quả sau. A. Ryunosoke đã nói rằng: “Số phận không ngẫu
nhiên mà là tất nhiên, nó dấu trong tính cách của bạn “.
Tôi khởi đầu bài viết nầy về “Cuộc
Đời Và Thơ Ca Của Lê Văn Ngăn“ trong dòng chảy văn học miền Nam trước 1975 và
sau nầy bằng những thác từ trên để nhìn về nỗi đau và lòng khát vọng mà chúng
tôi cùng thế hệ đã bật ra tiếng lời, để thành những bài thơ của mọi con tim
trong giai đoạn tan thương của đất nước.
Văn học miền Nam trước
1975 đã phân định rõ hai dòng chảy khát vọng về bến bờ thi ca... hai dòng chảy
ấy cho dù không hòa nhập với nhau nhưng vẫn tôn trọng con đường sáng tác của
nhau.
Họ sinh ra, lớn lên bên nầy bờ
Nam Bến Hải và ước mơ của mỗi con người tài hoa ấy vẫn có cùng một hướng.
Hướng ấy là sáng tạo “Cái Đẹp“ theo tinh thần Dostoievsky đã nói rằng “Cái đẹp sẽ cứu vớt thế giới“.
Quách Thoại, thi sĩ của
“Đất Thần Kinh“ người khát vọng nguồn sáng tạo ở miền Nam, Quách
Thoại, cuộc đời ông ngắn ngủi [1930 - 1957], ông tại thế 27 năm như Hàn Mặc Tử,
ông là người thèm khát tự do mà thế hệ sau nầy khát vọng từ anh hoa của ông để
đi trên con đường sáng tạo, trong ấy có nhà thơ Lê Văn Ngăn.
SÁNG TẠO
Mặt
trời mọc
Mặt trời mọc
rưng rưng mùa hoa gạo
lỡ một mai tôi chế trần truồng không cơm áo
thì hồn tôi xin phảng phất chốn trăng sao
để nhìn các anh như mới gặp hôm nào
và trong câu chuyện tôi sẽ cười nhắn bảo
Thi ca trước 1975 có những vì
sao mà lòng người không quên được với những tên tuổi mà thế hệ chúng ta và mai
sau mãi mãi là cảm xúc khi đi vào thế giới đam mê, khắc khoải, khát vọng của họ,
đó là những tài nhân biểu hiện như: Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Phạm Công Thiện,
Hoàng Trúc Ly... và bao nhiêu vì sao hòa nhập tạo thành nguồn suối thi ca chảy
về non xứ cảm xúc của “Cái Đẹp”.
Trong dòng sinh mệnh bi thương
của dân tộc, tôi muốn nói về dòng văn học phản kháng.
Lê Văn Ngăn là một trong những
đại biểu của dòng thơ “Phản kháng“ ấy. Sinh thời khi còn niên thiếu,
áo trắng quần xanh, sớm chiều cắp sách đến trường Quốc Học-Huế, ông đã tỏ lộ
tài hoa với những bài thơ xao xuyến lòng người, thời ấy ông đã xuất hiện trên
những tạp chí văn chương miền Nam Việt Nam mà không dễ gì được đón nhận khi tuổi
đời còn phong phanh non trẻ.
Tài hoa của Lê Văn Ngăn phát
tiết khi ông bước qua tuổi hai mươi với những bài thơ thắm đượm hồn sử ca:
Ở
nước Vệ đêm dài nghe thánh thót
những giọt mưa và những giọt lầm than
kêu một tiếng bỗng trăm lời
đáp lại
bằng giáo gươm va gươm giáo dọc ngang.....
Thôi ta chết giữa lời không nói được
ngậm trái tim trong miệng để phi tang
nầy nương tử có chi mà khóc lóc
đời đắng cay nhưng đất vốn dịu dàng.
[Đất Nhiễu Nhương - 1972]
Bốn câu sau tôi nhớ mãi hình ảnh
lão họa sĩ Trần Hoài, người chủ nhà sách Văn Hóa ở đường Phan Bội Châu - Đà Lạt.
Mỗi lần tôi gặp ông bên ly bia ở quán nầy quán nọ, mỗi lần tôi nhắc đến Lê Văn
Ngăn, ông đều cảm khái đọc thật to cho anh em nghe bốn câu của Lê Văn Ngăn... Thôi
ta chết giữa lời không nói được....
Lê Văn Ngăn còn thể hiện tài
hoa của mình trong thời kỳ chưa chọn lựa con đường phản kháng qua những bài thơ
rung động... ngôn ngữ tu từ cuốn hút về “Cái Đẹp”. Ví dù:
Gió
đưa tình ta sang xa nhau
thời Xuân Thu gió thổi ngang đầu
quyến luyến mùi hương anh mang áo dạ
bóng đổ tường xiêu một ngọn đèn dầu....
Vang hưởng từng khi em cười nói
là
quanh đời tiếp tiếp truyền đi
lãng du ghé bến chân dừng lại
nỗi vui thầm mấy lá biệt ly...
“Bên Hồ Thủy Ngữ”
là bài thơ kinh điển trong thể thất ngôn, sự rung động qua từng câu biến thành
hình ảnh, Lê Văn Ngăn đã cảm xúc tới bờ trong bài thơ nầy để còn mãi là thi sĩ
Lên Văn Ngăn trong lòng những người yêu thơ, con người tài hoa của Huế bên cạnh
những vì sao của non nước Thần Kinh và cũng là bạn hữu của ông với những kỷ niệm
mà ông không bao giờ quên: Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Thái Ngọc san, Bửu Ý, Bửu
Chỉ. Đinh Cường...
Sinh ra từ làng “Cại Lừ“
[Niêm Phò], Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế trong môt gia đình sống dưới đáy xã hội,
cha ông là người phu xe, mẹ ông là một thiếu nữ duyên dáng bán bún bò, ông lớn
lên bằng những giọt mồ hôi của cha mẹ tuông đổ hằng ngày giữa một xã hội nhiễu
nhương, chiến tranh như ngọn lửa táp cháy từ miền quê cho đến thị thành, ông đã
bật lên tiếng kêu thương của mình bằng những dòng thơ hiện thực :
Mẹ
tôi sinh tôi ra dưới đáy xã hội
nuôi tôi lớn lên dưới đáy xã hội
bao nhiêu năm, qua bao chiều nắng
tắt, bao nhiêu mùa phượng hồng
mẹ vẫn lấy chữ nghĩa trộn với mồ hôi của mình
bện thành những chiếc thang vượt thoát...
Giờ đây tôi đã leo lên bờ vực tối, sống ngang hàng giữa mọi người
Nhưng dưới xa mẹ tôi vẫn một mình nằm lại...
[Giới Thiệu]
Lê Văn Ngăn trong những bài
thơ nhớ về mẹ ông không hề dùng chữ “Vú” nhưng tôi biết suốt đời tha phương lưu
lạc của ông, mỗi lần ông về Huế thăm mẹ ở trong căn nhà nhỏ nằm ở lối vào ngõ hẻm
An Cựu, mỗi lần ông về mẹ ông mừng rỡ, nghẹn ngào gọi : “Con về đó à. . .” Ông
đáp : “ Thưa Vú con mới về. . .”
Suốt đời ông từ khi chào đời... cho đến khi từ giã trần gian điên khùng, ông vẫn uống sữa mẹ từ nuốm vú khai
sinh ra mình:
Trong đêm người mẹ khẻ hỏi mỗi bài thơ con kiếm được
bao nhiêu tiền?
Và người con trai trả lời tiền chỉ đến với con sau mỗi
bài thơ hay...
Trong đêm người mẹ khẻ hỏi mỗi ngày con làm được bao
nhiêu bài thơ hay?
và người con ngồi lặng im mãi bên ngọn đèn dầu
cuối cùng anh ngập ngừng đáp; có lẽ cả một đời mẹ ạ!
trong đêm người mẹ thở dài
thế thì con của mẹ sống bằng gì
chẳng lẽ con của mẹ sống bằng niềm vui của kẻ khác
Phụ mẫu mãi mãi là hình ảnh
ông khắc khoải suốt đời ông, ông ước mơ vượt qua cuộc sống lầm lội áo cơm của
cha mẹ để hướng về một tương lai sáng sủa mong ngày báo hiếu, nghĩ về hình ảnh
người cha ông bật lên nỗi lòng:
Có một người phu xe
cuộc đời cứ quay tròn theo
hai bánh xe quay tròn
quay tròn quay tròn
quay cho đủ số vòng quay
đau khổ...
Hôm nào trước giờ vĩnh biệt, người cha bảo: Con ơi!
chúng ta từ lâu không cần dùng đến nước mắt
thương cha con hãy bước xa con đường cha đã bước
Lê Văn Ngăn sinh trưởng dưới
đáy xã hội, trải qua nhiều bi kịch áo cơm và lắm nỗi đau trong gia đình vì phận
số của từng người em.
“Thi sĩ rơi xuống cõi đời
bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng, không có lấy một người hiểu mình... Tôi đã sống mãnh
liệt và đầy đủ, sống bằng tim, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển tất
cả cảm giác của tình yêu, tôi đã vui buồn giận hờn, sống đến gần đứt sự sống.’
Hàn Mặc Tử đã nói lên mệnh số
của những bậc tài hoa lưu danh để cho ta suy niệm về lẽ “phải là...” của thi
nhân hầu mong phần nào hiểu được họ, gần gũi với họ trong thanh khí hư không để
cảm xúc suối nguồn tồn lưu của hồn thơ trong sáng tạo “cái đẹp trần thế và
trăng sao vũ trụ“. Và thi nhân từ đông tây kim cổ đều mỉm cười với lý lẽ đoạn
trường mà thi hào Nguyễn Du đã phán:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
thì đừng trách lẫn trời gần trời xa...
Bão lửa chiến tranh đã cuốn hồn
thơ dung dị tài hoa của Lê Văn Ngăn cũng như bao thế hệ thanh niên phải lưu lạc
đọa đày khắp miền Nam Việt Nam theo từng số phận của mỗi người, khi đứa em ruột
của ông là Lê Văn Kịch cầm súng bên nầy chiến tuyến, chết ở đồi Baston-TT/Huế,
ông đã tâm sự với em mình :
Chiến
tranh đã trục xuất anh ra khỏi quê nhà
bắt tay với phường bán huyết
kề ly với kẻ xâm mình...
Có khi sau cuộc thù tạc buồn rầu
anh ra hiên nhìn về cố quận
thấy khắp nơi lưới bủa chắn đường
Chiến tranh đã đưa anh tới nơi nầy
ngồi đánh cờ với những tay cuồng
sĩ
quàng vai đi với kẻ điên khùng....
[Giữa Khi Mưa Lưu Hoàng Đổ -1972]
Lê Văn Kịch dòng máu thi ca của
Lê Văn Ngăn, có giọng ngâm thơ hồn vía và những bài thơ chưa kịp nở đã chết trận
trong “mùa hè đỏ lửa 1972”. Lê Văn Ngăn tiếc thương em mình suốt đời, thể hiện
nỗi lòng với vài người bạn thân mỗi lần gặp gỡ:
Có
đêm anh đi ngược lên con dốc
nghe ào ào ngọn gió Trung Đông
mắt em dịu dàng trong bóng tối
nhưng con đường ở đằng kia còn lờ mờ bên vực thẳm....
[Giữa Khi Mưa Lưu Hoàng Đổ]
Tặng Lê Văn Kịch
Số phận ông lưu linh giữa cuộc
chiến, khói lửa chiến tranh mịt mùng bốn phía, là tuổi trẻ ông phải tìm ra lý
tưởng để dấn thân, thơ ông thời thanh niên man mác vẻ đẹp tình yêu, ông đã yêu,
đã si tình nên hồn thơ ông để lại nhiều bài ý lời thật lạ:
Đôi
người bạn ở sau vườn dưỡng khí
ngày thanh niên hoa khế rụng bên đời
ngồi nghe thấy con đường không giới hạn
nắng lòng tôi em lấy áo ra phơi
con chim trắng tìm hiền nhân mà hót
mở song song năm cánh cửa vô thường...
Hỡi người em xuống đò sang hữu ngạn
hỏi trái tim trong suốt đã cho ai
gõ
một tiếng lên trường thành ý hệ
đường im hơi sao có tiếng thở dài?
[Đường Hoa Khế - 1972]
Thơ tình yêu của Lê Văn Ngăn
mang hồn người hào hiệp yêu mến “Cái Đẹp“, trong nguồn suối tình ca, Lê Văn
Ngăn giữ một cõi riêng, vượt qua ý niệm ngôn ngữ của tình yêu, ông hòa quyện giữa
lẽ sống của cuộc đời với bóng hình người ông yêu bằng những dòng thơ cảm khái
khát vọng về đời cùng nhau đi tìm hạnh phúc chung của con người.
“Cách Mạng“, trong lịch sử
nhân loại, đại danh từ “Cách Mạng“ mãi mãi là sự bí ẩn, là biểu tượng thiêng
liêng, sánh ngang sự sáng tạo của Thượng Đế. Cuộc chiến mịt mùng khói lửa của Bắc
Nam vì ý thức hệ lầm lỡ, đại danh từ “Cách Mạng“ đã cuốn hút thệ hệ của chúng
tôi, từ lớp cùng đinh bần hàn cho đến tri thức tư sản lần lượt lao vào cơn lốc
của Cách Mạng. Và dòng thơ của Lê Văn Ngăn đã chuyển hướng theo con đường cứu
sinh!!! “Cách Mạng“. Lê Văn Ngăn đã thể hiện tinh thần ấy bằng những dòng
thơ phản kháng mà tổ tiên linh hồn Việt đã để lại di sản ấy từ thời dựng nước
và giữ nước:
mặt đất mà ba mươi năm qua đời sống không ngừng đặt trước mặt tôi những ly rượu
đắng
có trong ly rượu ấy những đôi mắt buồn rầu...
Tôi
đang đặt chân lại trên mảnh đất nầy, mặt đất mà các thứ bệnh dịch đang reo hò
mặt đất mà
trước sự chết, tôi thường tự nhủ
yêu nhau là
điều tự nhiên
làm việc là điều tự
nhiên
bất phục tùng kẻ nào tước
đoạt tự do của người khác cũng là điều tự nhiên
nhưng nhất định
nhất định những kẻ vỗ
tay cho những nhân danh giả hiệu
nhất định những kẻ dẫm
lên những cuộc tình duyên
không bao giờ là điều tự
nhiên.
[Đất Của Những Người Bất Phục - 1972]
Bài thơ nỗi lòng phản kháng ấy
gồm 108 câu, chiêm nghiệm rõ rằng, thi sĩ là biểu tượng của nhà tiên tri từ hồn
vía chân thật nên Bích Khê, thi sĩ của thần linh đã để lại bài thơ “Đề Bia Trước
Mộ“ tiên tri về phận số của mình về sau khi ông được an táng tại Thu Xà - Quảng
Ngãi:
Mây
tuyết thời gian trôi tựa nhạc
hồn
tôi siêu thoát để tiêu dao
những tờ thơ mới đầy hơi hám
tay khách đa tình sẽ chuyển trao...
Tiếng tiêu sẽ quạt buồn thanh tịnh
về dưới thông già viếng mã tôi
đầy cỏ xanh xao mây lớp phủ
trên mồ con quạ đứng im hơi.
Và Hàn Mặc Tử tiên tri về phận
số của mình:
Một
mai kia ở bên khe nước ngọt
với
sao sương anh nằm chết như trăng
không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
đến hôn anh đến rửa vết thương tâm.
Hình ảnh ngôi mộ Bích Khê thời
chiến tranh đúng như bài thơ của ông, cũng như Hàn Mặc Tử khi trút hơi thở ở trại
phong Qui Hòa - Qui Nhơn, chỉ có những bà phước đưa ông về nắm đất lạnh với cây
thánh giá vội vàng làm bằng cây cọc để vĩnh biệt ông.
Và Lê Văn Ngăn trong bài thơ “Đất Của Những Người Bất Phục - 1972“ đã chân thật báo hiệu cho chúng ta ý
nghĩa tiên tri ấy khi thế hệ chúng ta và con cháu đang phải sống, phải thở
trong không gian của mọi bệnh dịch tràn lan trong cuộc sống:
Tôi đang đặt chân
trên mảnh đất nầy
không còn một giọt nước mắt
ngày xưa
để khóc
trên những mớ ngổn ngang của áo
cơm và sợ hãi, người ta truyền tụng rằng đây là thời của sức mạnh
đây là thắng thời của những kẻ
kiêu binh
tôi đang đặt chân lại trên mảnh đất
nầy, mặt đất mà các thứ bệnh dịch đang reo hò...
Từ thực tế bi kịch của đất nước,
ông đã để lại những bài thơ chân thành, tôi tin, những ai kia vong thân trong
danh vị và quyền lực đọc thơ ông sẽ hổ thẹn và tỉnh ngộ để tìm về Hồn Việt.
Lê Văn Ngăn sau 1975 ông ước
mơ “Thái Bình Tu Nổ Lực, Non Nước Ấy Nghìn Thu” và ông âm thầm đi tới cho dù
bao nhiêu bệnh dịch trong bài thơ báo biểu của ông vây bủa ông và cuộc sống
khát vọng bao la của ông. Thơ ông vang vọng trong lòng những người yêu thơ và bạn
hữu, họ yêu mến và kính trọng ông. Đài Tiếng Nói Việt Nam trước 1975 đã đọc bài
thơ “Sóng Vẫn Đập Vào Eo Biển“ đăng trên Tạp Chí “Đối Diện“ để góp phần cổ
vũ vào tinh thần kháng chiến thời ấy:
Vâng! Điều ấy
khi bạo lực còn bắt tay nhau
khi bạo lực còn dẫn quân đi nhục mạ quyền
làm người
khi ấy bằng chất liệu gì để rửa sạch thân
em?
đây là điều tôi dứt khoát
Quê Hương! Quê Hương! Nơi trái tim tôi
rung động dưới bầu trời đầy sao
nơi tôi muốn nhắm mắt dưới lòng đất quen
thuộc chết cho tình yêu
đấy là việc của con người.
[Sóng Vẫn Đập Vào
Eo Biển - 1972]
Bài thơ biểu tượng tinh thần
phản kháng của ông nổi tiếng trong lòng những người yêu nước gồm 85 câu, ở
trong ấy tình yêu của ông chan hòa như là chân lý hiện hữu mà đã là người thì
không thể thiếu.
Sau 1975, mùa xuân đất nước thống
nhất, Lê Văn Ngăn vẫn giữ hồn thơ dung dị, yêu mến cuộc đời trong những góc bé
nhỏ sinh tồn, thơ ông không là những tiếng chuông hay là những tiếng trống làm
người ta giật mình tự hỏi, thơ ông bình thường, lặng lẽ như dòng sông chảy qua
cuộc đời với buồn vui của cuộc nhân sinh:
Đêm đêm vào lúc thành phố bắt
đầu giấc ngủ
chi lại cầm chổi bước ra khỏi nhà
để quét dọn những chặn đường đã định...
Một nhà thơ ở miền tả ngạn trước
lúc qua đời
khuôn mặt cuộc đời quanh đây ơi! Chị
thường nhủ thầm
và đêm đêm, vào lúc thành phố bắt đầu giấc
ngủ
chị lại cầm chổi bước ra khỏi nhà...
[Gặp Một Người Bình Thường]
Cuộc đời và thơ ông là bản
giao hưởng của sự thực với gia đình, bạn hữu và bao nhiêu tha nhân trên cõi đời
ông từng gặp, nếu đời ông có những lầm lỗi nào trong cuộc tồn sinh thì lỗi do
cuộc thế đẩy đưa ông, áp đặt thể hiện hành vi nằm ngoài trái tim nội tại.
Ông thành thạo tiếng Pháp, yêu
Jacques Prévert, Paul Eluard, Albert Camus, Aragon, yêu văn học Pháp trong thế
kỷ 20 mà ông đã hòa quyện vào những dòng thơ cảm xúc tự nhiên của ông, đã góp
phần tạo nên cuộc đời và thi ca Lê Văn Ngăn.
Ông sống chân tình với bạn hữu,
với những miền đất ông từng gắn bó giữa cuộc thế bể dâu, ông mê Đà Lạt như yêu
Huế, những năm sau nầy mỗi lần ông vào Sài Gòn thăm con cháu thì ông đều lên Đà
Lạt để cảm xúc lại thiên nhiên một thời ông đã sống và đã khai sinh tập thơ đầu
tay “Vào Một Thời Im Bóng - 1972“, ông tìm thăm bạn bè một thời buồn vui với
ông ở đất hoa....
Thi sĩ Lê Văn Ngăn đã vĩnh biệt
cõi đời vào lúc 10g40 ngày 27/2/2015, bạn bè từ miền Trung đến miền Nam cùng
nhau về Qui Nhơn tiễn biệt ông, mừng cho ông đã thoát khỏi đớn đau của bệnh
tật, mừng cho ông đã về hạnh ngộ bên những cuộc vui với Ngô Kha, Thái Ngọc San,
Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn... ở cõi trên, những người bạn chí tình của ông đã
cùng ông tạo nên “Cái Đẹp“ của Huế bên cạnh vẻ đẹp mà trời đất ban tặng cho
non nước “Thần Kinh“.
Vương Kiều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét