"Trên non Yên Tử chòm cao nhất
Trời mới canh năm đã
sáng tinh
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả
Nói cười người ở giữa mây
xanh..."
Thơ Nguyễn Trãi
Cứ mỗi độ xuân sang, hàng vạn du khách từ khắp mọi miền lại
vân tập về miền non thiêng Yên Tử để được đắm mình trong mây ngàn gió núi,
trong ngân nga tiếng chuông chùa vọng từ rừng thẳm - thứ thanh âm nâng đỡ tâm hồn
Việt từ ngàn xưa. Rằng phía sau ánh hào quang chiến thắng, trong khói ấm của
mùa màng phong vượng vẫn còn đó tiếng thầm thỉ của phận người, của lẽ tử sinh,
của cuộc dung thông huyền nhiệm trong vũ trụ. Khát vọng khám phá tự nhiên và
lòng thương yêu chúng sinh đã tụ lại dưới ngàn mây Yên Tử - mái nhà tâm cảm sau
cuộc kháng chiến vĩ đại của quân dân Đại Việt.
Từ Hà Nội xuôi Quốc lộ 18 về Chí Linh, Phả Lại - một vùng núi
non kỳ vĩ của xứ Đông xưa, nay là địa đầu của tỉnh Hải Dương. Bên kia là Lục Đầu
giang mênh mông sóng nước; bên này là Côn Sơn, Kiếp Bạc, một vùng danh thắng hữu
tình, là nơi yên giấc nghìn năm của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... những bậc anh
hùng hào kiệt mà tên tuổi đã tạc ghi sử sách. Qua Mạo Khê, trước mắt thấy sừng
sững dải vòng cung Đông Triều chắn ngang chân trời. Những ngọn núi cao xanh thoắt
ẩn, thoắt hiện trong bồng bềnh mây trắng. Núi vẫn đứng đó từ ngàn xưa, mà sao bảng
lảng như có như không. Quá trung niên mới hành hương về miền Thiền Trúc Lâm Yên
Tử, tôi như đứa trẻ thơ ngây, vừa ngỡ ngàng, vừa mừng vui khôn xiết trước một
vùng huyền sử chứa đầy kỳ tích linh thiêng của non nước Việt Nam, con người Việt
Nam.
Hành hương về miền Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nơi dừng chân
đầu tiên là chùa Giải Oan. Dưới chân, suối vẫn róc rách tự ngàn năm, phảng phất
đâu đó xa xăm tiếng nài nỉ, nuối tiếc của bao cung tần mỹ nữ phải giã biệt đấng
quân vương anh minh không màng trần tục quyết chí đi tu. Trời chuyển mùa sang
xuân, đường lên Yên Tử xanh ngợp rừng thông, những hạt mưa nhỏ mát lạnh, len lỏi
qua tán lá, đậu trên vai, trên mặt khách hành hương thiện tâm đến cửa nhà Phật.
Cảnh vật mờ ảo dưới màn mưa, chỉ thấy những nụ cười rạng rỡ. Những nụ cười của
vĩnh hằng và hữu hạn, của giải thoát và tục luỵ, siêu hình và cụ thể, quá khứ
và hiện tại. Giữa nơi gió núi mây ngàn, dường như tiếng cười của con người tan
trong cỏ cây hoa lá, thấm vào sỏi đá thiên nhiên. Vùng núi Yên Tử được ví như
đôi cánh én, như đoá hoa sen, là xứ trán voi đầu rồng. Cách ví von bao hàm sự
ngưỡng mộ, chở che, nâng đỡ từ muôn ngàn năm trước, để biển bờ xưa hóa thành
núi thành rừng sau những cơn biến thiên của trời đất.
Dốc lên thăm thẳm, giữa bạt ngàn cỏ cây là những phiến đá rêu
phong làm chứng nhân cho quá khứ và hiện tại cùng về đây hội tụ. Giữa lặng lẽ
hoa rơi lá rụng, trong gió thoảng mây trôi, nghe rõ bước chân nơi cửa Phật. Đường
lên cao đi len lỏi dưới tán rừng thông. Tương truyền rừng thông Yên Tử do vua
Trần trồng hơn 700 năm trước, mặc sương pha tuyết điểm, rừng thông vẫn sừng sững
đứng giữa trời mà reo, hòa với bản hùng ca dạt dào sóng biển từ cảng Vân Đồn
cùng Bạch Đằng Giang - dòng nước đỏ hồng cuộn chảy tuôn về “biển đông”.
Trong mờ ảo khói sương, gần trăm am tháp ẩn hiện như một thế giới u tịch giấu bao điều bí ẩn mà người có duyên mới có thể khám phá. Bước qua ô cửa vòm, gặp ngay ngôi tháp chính. Không cao lớn, đồ sộ nhưng vẫn là ngôi cao giữa tĩnh lặng bốn bề - tháp Huệ Quang thờ tượng Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Lần đầu đứng trước pho tượng Phật hoàng, điều mà từ bé, chỉ biết qua sách vở, thấy lòng mình bồi hồi đến khôn cùng. Một vị Vua với bao chiến công hiển hách mà khi thoát tục đi vào cõi Phật chỉ nhỏ nhoi một pho tượng đá thế này sao? Trong nghi ngút khói hương, tôi thành kính lễ đức Phật hoàng 3 lạy, xin Ngài thứ tha cho lòng thành của kẻ hậu sanh dám mạo muội đem những so đo tính toán đời thường đặt giữa chốn sắc sắc không không. Nhìn vườn tháp rêu phong, trong trập trùng mây trắng rừng xanh, những con đường đất đỏ mòn dấu chân chúng sinh như những sợi dây chưa gỡ rối vắt qua miền tục lụy. Hớp một ngụm sương mát lạnh, nghe trong xạc xào gió núi, ngoảnh lại đằng sau, thấy phía trần gian xa tít tắp!
Trong mờ ảo khói sương, gần trăm am tháp ẩn hiện như một thế giới u tịch giấu bao điều bí ẩn mà người có duyên mới có thể khám phá. Bước qua ô cửa vòm, gặp ngay ngôi tháp chính. Không cao lớn, đồ sộ nhưng vẫn là ngôi cao giữa tĩnh lặng bốn bề - tháp Huệ Quang thờ tượng Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Lần đầu đứng trước pho tượng Phật hoàng, điều mà từ bé, chỉ biết qua sách vở, thấy lòng mình bồi hồi đến khôn cùng. Một vị Vua với bao chiến công hiển hách mà khi thoát tục đi vào cõi Phật chỉ nhỏ nhoi một pho tượng đá thế này sao? Trong nghi ngút khói hương, tôi thành kính lễ đức Phật hoàng 3 lạy, xin Ngài thứ tha cho lòng thành của kẻ hậu sanh dám mạo muội đem những so đo tính toán đời thường đặt giữa chốn sắc sắc không không. Nhìn vườn tháp rêu phong, trong trập trùng mây trắng rừng xanh, những con đường đất đỏ mòn dấu chân chúng sinh như những sợi dây chưa gỡ rối vắt qua miền tục lụy. Hớp một ngụm sương mát lạnh, nghe trong xạc xào gió núi, ngoảnh lại đằng sau, thấy phía trần gian xa tít tắp!
Bỏ lại vườn tháp cổ với những gốc cây đại trăm năm tuổi, rễ
cuồn cuộn theo đủ mọi hình hài nơi trần thế, bước qua những hàng gạch cổ in hằn
dấu thời gian, tôi đếm từng bậc đá trong tiếng chuông ngân nga vọng ra từ ngôi
chùa cổ Hoa Yên, nguyên là chùa Vân Yên. Vị sư trụ trì giải thích Vân Yên Tự có
nghĩa là ngôi chùa mây yên lành. Câu nói của nhà sư làm tôi nhớ lại mấy lời thơ
cảm tác của thi hào Nguyễn Trãi hơn 500 năm trước: “Trên non Yên Tử chòm
cao nhất, Trời mới canh năm đã sáng tinh. Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả. Nói cười
người ở giữa mây xanh. Muôn hàng giáo ngọc che gài cửa, Bao dải tua châu đá rủ
mành”. Đến miền thiền Trúc Lâm Yên Tử lại càng ngộ ra nhiều điều về con người “Ức
Trai tâm thượng quang Khuê tảo”, tâm hồn Ức Trai tinh tế dường nào. Với chốn am
mây, sương phủ mờ cảnh vật, khoác lụa thanh tịnh cho những pho tượng Phật và tượng
Trúc Lâm Tam tổ hòa quyện vào nhau, lung linh giữa sương mây, hoa nến.
Chùa Hoa Yên xưa đơn sơ, tọa lạc giữa tịch mịch núi rừng,
nhưng lại là nơi hoằng hóa của Phù Vân Quốc Sư, nơi Thái sư Trần Thủ Độ nói với
vua Trần Thái Tông muốn rũ bỏ ngai vàng lên núi không về: “Hoàng Thượng ở
đâu thì triều đình ở đó”. Nơi đây, Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trụ
tích đến cuối đời, truyền pháp cho tổ sư Pháp Loa, là nơi Huyền Trang Tôn Giả
chong ngọn đèn Tổ đạo…Những gốc đại trầm mình sương tuyết trên 700 năm vẫn xum
xuê hoa lá. Nơi kết thúc cũng là điểm bắt đầu, trong cõi u minh vẫn bật lên những
mầm sống, để vạn vật bất tử. Thuyết luân hồi sao sâu sắc làm vậy. Giữa chốn
linh thiêng này, không có gì ra đi là vĩnh viễn, có chăng chỉ là một cuộc sống
khác. Bấy nhiêu thôi, cũng đủ đầy diễm phúc cho bất cứ ai một lần đặt chân đến
Thiền môn linh địa Yên Tử.
Người hành hương về Yên Tử mong một lần chạm tay vào Chùa Đồng.
Lên đến đây là lên với cõi đá, đá to đá nhỏ chồng lên nhau như linh thú, như
chim, như hoa muôn vẻ châu tuần. Mây trắng cuồn cuộn che lấp cả non xanh. Trời
lạnh, chùa Đồng như thu lại, hội tụ khí thiêng đất trời về một góc. Mây tràn từ
cao xuống thấp, điệp trùng như thực như hư, mây che kín đất trời, ngồi cạnh
chùa Đồng mà nhìn người hành hương mờ ảo như sương. Lên đến chùa Đồng người ta
có cảm tưởng như đã đến được Thiên Trúc, bụi hồng trần không chút vấn vương, lòng
người phiêu diêu thanh thoát giữa cuồn cuộn mây trôi. Ngước mắt nhìn lên, trời
xanh cao lồng lộng, nắng ngũ sắc tạo thành vòm như cánh cửa cõi Niết Bàn đang mở
toang, mà ngõ hầu chỉ một cái nhún chân là tới nơi, khẽ giơ tay là chạm tới.
Nhìn nghìn thước xuống, rừng trúc xanh thăm thẳm, dạt dào như sóng nước theo từng
cơn gió, tựa như dải khăn nhà Phật trải dài trong trắng xóa mây bay. Phóng tầm
mắt nhìn ra tít tắp, biển hòa lẫn với bầu trời xanh biếc mênh mông.
Dẫu ước ao một lần ngắm trăng trên đỉnh Phù Vân, nhưng rồi
chiều về chúng tôi đành xuống núi trong hoàng hôn thanh thản. Dọc đường đi xuống,
mấy em bé chào bán những bó măng trúc tươi non và những trái cà tiên vàng ươm;
mấy người phụ nữ dân tộc Dao bày bán rễ cây thuốc cùng những lá trầu tiên thơm
đượm, nghe đâu do An Kỳ Sinh, một người tu tiên giờ đã hoá đá trên sườn núi tìm
ra để chữa bệnh cho nhân gian. Cầm trên tay mớ măng trúc, không quên mua một
giò phong lan và một chai rượu mơ óng ả, thỉnh thoảng dừng lại ngửa cổ dốc một
ngụm cho ấm bụng và đỡ chồn gối theo đường xuống núi. Xa xa, trăng đã nhuốm màu
bàng bạc giữa mây trôi.
Quá nửa đời người mới đặt chân đến miền đất Phật, Yên Tử
trong cảm nhận của tôi vẹn nguyên những câu thơ cổ điển thấm đậm nhân sinh của
Phật Hoàng Trần Nhân Tông: “Vạn sự thủy lưu thủy - Bách niên tâm ngữ tâm - ỷ lan hoành ngọc địch - Minh nguyệt mãn hung khâm” (Muôn việc như nước chảy
theo nước - Trăm năm riêng lòng nói với lòng - Tựa lan can, cầm ngang sáo ngọc - Ánh trăng sáng ùa vào đầy ngực). Ngẫm lại thấy ở Trần Nhân Tông, thật
khó rạch ròi đâu là vị minh quân anh hùng, đâu là Thiền sư, đâu là thi sĩ. Chỉ
thấy một con người ung dung tự tại giữa nhân gian, biết “chiết xuất” từ hơi thở
của thiên nhiên, hòa chút mật ngọt của vũ trụ, tạo thành một nguồn năng lượng
vô song cho triều đại, cho trăm họ và cho chính mình. Chính ông đã sát cánh
cùng những quần thần và cũng là những người anh em, những vị tướng anh hùng Trần
Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật…Chính ông khai sinh ra Hội nghị Diên
Hồng, Hội nghị Bình Than để đội quân nhà Trần quyết chí lời thề Sát Thát, làm
nên hào khí Đông A của nước Đại Việt ba lần đánh tan quân Nguyên Mông, giữ yên
bờ cõi. Trong bài Bạch Đằng Giang phú, nhà thơ Trương Hán Siêu khi ngao du qua
cửa Đại Than, sang bến Đông Triều, đến sông Bạch Đằng, ra tận Vân Đồn rồi trèo
lên Yên Tử, đã gọi vua Trần Nhân Tông là vị Thánh quân và thốt lên: “Nghìn xưa
gẫm cuộc thăng bình, Tại đâu đất hiểm bởi mình đức cao”. Đức cao ở Trần
Nhân Tông là đức của trí, đức của dũng, đức của nhân. Hơn 50 năm sống nơi trần
thế, dù là thái tử hay khi ở ngôi vua, dù là Thái Thượng hoàng hay khi trở
thành Thiền sư, ông đều thể hiện bản lĩnh tự tại sáng suốt với tính cách
phóng khoáng, nhân từ. Nhờ bản lĩnh ấy mà Trần Nhân Tông giã từ cung son điện
ngọc, quyết chí vào núi tịnh tu, lập Thiền phái Trúc Lâm, coi trọng tu tâm,
truyền tâm ấn, bỏ qua những nghi thức tu luyện pháp thuật, tà ma bùa ngải...Đó
là giáo lý kết hợp giữa triết học Phật giáo với nhân sinh quan Nho giáo và vũ
trụ quan Lão giáo, hướng tới sự giản đơn, lương thiện trong đời sống và tâm
linh con người, hòa hợp con người với thiên nhiên. Vì thế, giáo lý của Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử phù hợp với mong ước về một cõi yên bình mà con người luôn
vươn tới.
Dù bây giờ, con đường chinh phục đỉnh Phù Vân đã có cáp treo,
nhưng lòng thành tâm của khách hành hương về miền Yên Tử vẫn muốn một lần thử sức
mình với đỉnh cao nghìn mét. Ai cũng mong một lần đến chốn Thiền môn, được tách
mình khỏi bao tục lụy. Người tín mộ năm nào cũng đi, bắt đầu từ tinh mơ, tối ngủ
ở chùa Bảo Sái nửa chặng đường, sáng mai dậy sớm đi tiếp, có ngày tới vài ba
nghìn người lên núi.
Rời Yên Tử, tôi không dứt nghĩ suy miên man về những cảm nhận
giữa bốn bề mây trắng trên đỉnh non thiêng. Đó là sự nối kết của cõi người lam
lũ và mơ mộng, giữa thực và hư, khi mỗi hơi thở nhè nhẹ của con người hòa trong
hơi thở bao la của vũ trụ. Dung hợp bản thể con người vào dòng chảy của đất trời
là cách để con người tiếp cận với thế giới tự nhiên. Đó là sự tương đồng giữa vật
lý hiện đại với đạo học phương Đông và giáo lý nhà Phật.
Người Việt, bằng cách riêng của mình, từ ngàn xưa đã giao ước
cùng đất trời mà Yên Tử chỉ là một phần trong dòng chảy linh thiêng ấy. Một bản
giao ước giữa con người với sương sa đá núi, với nước chảy thông reo… để ngàn
năm sau mây trắng còn bay trên đỉnh non thiêng.
Nguyễn Vân Thiêng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét