Người ta đồn “Tuyết yêu tôi”. Họ còn khẳng định chính miệng
em nói ra điều ấy. Ngay cả chính tôi tôi cũng không biết rõ được là Tuyết có
yêu tôi hay không. Có lần mấy người đã nhìn thấy tôi ôm bờ vai nhỏ nhắn gầy guộc
của Tuyết để vỗ về sau lần em bị gã chồng vũ phu tìm vào tận đây để hành hung.
Buổi chiều đầu tiên khi Tuyết đến đây dắt theo đứa con trai nhỏ đôi mắt buồn bã
ngơ ngác đã làm cho em nhanh chóng nhận được sự thương cảm của mọi người. Hai
ngày sau xóm tôi bị náo loạn bởi gã đàn ông thô lỗ và tục tằn. Hắn đến chửi
toáng ngay từ đầu ngõ bằng nhiều thứ ngôn ngữ mà ở đây rất ít được nghe.
Chửi thỏa thích hắn xông vào đánh Tuyết. Lúc hàng xóm gỡ được
hắn ra khỏi người Tuyết hắn vẫn cố cắn vào vành tai của Tuyết như con chó dại
và nhổ đánh toẹt xuống nền nhà một bãi máu tươi kèm theo câu nguyền rủa: - Mày
mà bỏ tao chỉ có nước làm đĩ mà sống nhưng bỏ tao không dễ đâu. Lúc tôi về chồng
Tuyết đã đi mang theo tất cả áo quần của hai mẹ con. Câu chuyện ấy qua miệng mấy
bà hàng xóm làm tôi nổi gai ốc cùng mình. Tôi tiếc không có ở nhà để bảo vệ em.
Ngoài tôi ra em còn biết trông cậy vào ai nơi đất khách quê người.
Khi chia tay Tuyết rời quê hương để tìm kế sinh nhai tôi được
chị Lệ chị của Tuyết giúp đỡ tận tình từ công việc làm ăn đến nơi ăn chốn ở.
Ngoài tôi ra chị Lệ còn cưu mang một gã họa sĩ lang thang thất nghiệp. Không biết
chị lôi anh ta từ đâu về với đống đồ nghề lỉnh kỉnh. Căn hộ của họ trở thành xưởng
vẽ bề bộn với nhiều bức tranh lộn xộn những ngựa những người không ra hình thù
gì cả. Vậy mà chị Lệ cứ tấm tắc khen đẹp. Tôi không quan tâm lắm đến quan hệ của
họ. Nhưng theo lời của những người đàn bà trong xóm thì hình như chị quen gã từ
hồi gã còn là sinh viên. Bây giờ họ sống với nhau theo kiểu “già nhân ngãi non
vợ chồng”.
Gã họa sĩ thường ít ra khỏi nhà. Sau giờ làm việc của
chị Lệ họ thường đóng chặt cửa lại sống tự nhiên chẳng màng sự dị nghị của mọi
người. Tôi nghe mấy bà hàng xóm xì xào: - Gớm! Con Lệ ở truồng dồng dỗng trên
giường cho thằng ấy vẽ rõ là cái đồ dở hơi! Đàn bà như thế mà không biết xấu hổ
đi ra ngoài cái mặt cứ câng câng thấy mà ghét! Mặc ai muốn gì thì nói tôi vẫn cứ
phục cách sống của hai người. Họ “sống ra sống” chứ cứ như tôi cái gì cũng sợ
thì suốt đời chỉ là thằng công chức quèn. “Yêu không dám nói ghét không dám
chê” người ta cũng khinh. Cả năm trời tôi mới có dịp nói chuyện với gã họa sĩ
được một lần. Đấy là vào cái dịp sinh nhật lần thứ ba mươi sáu của chị Lệ cũng
bánh kem cũng nến hồng nhưng chẳng vui vẻ gì. Gã nhìn tôi không mấy thiện cảm.
Buổi sinh nhật chỉ có ba người. Chị Lệ lăng xăng cố làm cho
chúng tôi thân nhau: - Này anh! Long nó hiền lắm đấy người đồng hương của em.
- Ừ! - Hồi ở quê khi nó còn nhỏ nó chơi thân với con Tuyết lắm. Hai đứa thật đẹp
đôi nhưng… ai dè… - Ừ! - Nó vào đây làm ăn em xin việc cho nó làm bây giờ được
cấp nhà rồi. - Ừ! Thấy không thể cạy miệng được người yêu chị Lệ chuyển đề tài: - Nó cũng biết vẽ nữa. Hồi ở quê nó đập cục pin vẽ hình má em giống y hệt.
Tôi tính nói “Thôi chị ạ…” nhưng thấy gã nhếch mép cười tôi điên tiết muốn tống
vào mồm gã một quả và hét vào mặt gã: “Đồ thối thây tao biết mày coi khinh mấy
thằng vẽ chân dung nhưng dù sao thì nó cũng kiếm được vài chục ngàn chứ không
bám váy đàn bà để mà vẽ ba cái thứ đùi chẳng ra đùi mông chẳng ra mông như
mày”. Mặc cho tôi lồng lộn trong lòng sau nụ cười khinh mạn ấy gã uống rượu tì
tì.
Gần cuối bữa tiệc gã mới mở miệng bảo tôi theo kiểu đàn anh:
- Này cậu ạ! Thà chấp nhận sống cho người ta ghét chứ đừng để người ta khinh vì
sự hèn nhát của mình! Tôi co rúm người lại hình như gã đọc được ý nghĩ của tôi.
Câu nói ấy đã làm rạn nứt vĩnh viễn mối quan hệ giữa tôi với gã mà chị Lệ đã cố
công bồi đắp. Gã nói đúng! Nhưng thói thường người đời rất ghét những ai chọc
mũi dao vào yếu huyệt của họ. Tôi không phải là trường hợp ngoại lệ. Lần đầu
tiên trong đời tôi uống rượu nhiều đến như vậy. Tôi gục xuống trước ánh mắt
thương hại của gã. Chị Lệ dìu tôi về phòng đắp khăn nóng cho tôi hình như chị
có an ủi tôi: - Em đừng giận anh ấy nghệ sĩ thường hay gàn như vậy nhưng họ là
những con người chân chính. Tôi không còn biết gì nữa đầu óc mụ mị. Bàn tay dịu
dàng của chị đã đưa tôi về với quê hương bên dòng sông Giao Thủy êm đềm xanh thẳm
đưa tôi về với Tuyết của tôi.
Quê tôi nghèo nhưng có một dòng sông. Dòng sông là tài sản lớn
nhất của tuổi thơ tôi.
Trường làng tôi là ngôi đình lớn nằm dưới gốc đa cổ thụ. Cả
ba lớp nhất nhì ba đều do thầy Hồng đảm trách. Tôi và Tuyết cùng học lớp nhì.
Trong số những đứa trẻ cùng trường chỉ có chị em Tuyết là có tên văn hoa nhất.
Nhà Tuyết khá hơn những gia đình trong xóm. Ba Tuyết làm lính Quân tiếp vụ ở Đà
Nẵng. Mỗi chủ nhật ông mang về cả thùng đồ hộp để phát cho lũ trẻ chúng tôi. Mẹ
Tuyết không phải “chân lấm tay bùn” như mẹ tôi nhưng hai bà lại rất thân với
nhau. Nhiều lần bà kể cho mẹ tôi nghe “ba của Tuyết muốn dời gia đình ra Đà Nẵng
nhưng bà không muốn xa quê hương xóm giềng”. Tôi cũng cầu mong như vậy. Tôi và
Tuyết thân nhau từ bé.
Mỗi lần tan học chúng tôi rủ nhau ra sông để chơi đùa trên
cát khi đã chán chê tôi dẫn Tuyết lùng sục trong các bụi cây bên sông để tìm
hoa dủ dẻ. Tôi không thích hoa tôi chỉ thích trái bất kể sim mua duối hay dủ dẻ…
Nói chung bất cứ thứ gì ăn được là tôi thích. Tuyết thường mang hoa dủ dẻ về ủ
trong tập cho thơm. Nhìn bàn tay nhỏ nhắn của Tuyết nâng chùm hoa tôi cũng đâm
mê. Nhất là cặp mắt đen láy tròn xoe khép lại nhẹ nhàng mỗi khi tôi dúi những
cánh hoa màu vàng lợt vào tay em. Đôi mắt đã làm tôi ngơ ngẩn cả người. Mỗi lần
trốn học tìm hoa cho Tuyết tôi bị thầy Hồng đánh sưng cả mông.
Biết chuyện mẹ tôi mắng: - Thằng này lớn lên rồi đến khổ vì
gái. Ngày ấy còn quá nhỏ nên tôi không chú ý lắm đến câu nói của mẹ.
Chỉ chờ mẹ xoa đầu xong tôi tót ra sông vùng vẫy thỏa thích.
Dòng nước mát vuốt ve thân hình đen trũi của tôi và nụ cười trong trẻo của em
sau mỗi cú bông nhông là tôi quên béng những trận đòn của thầy Hồng. Dạo ấy chiến
tranh xảy ra liên miên trên quê hương tôi. Nhưng đó là nỗi lo của người lớn.
Còn với tuổi thơ chẳng có chuyện gì đáng quan tâm vì thường xuyên được nghỉ học
và ít bị đòn hơn. Chúng tôi cứ thế lớn lên như cây cỏ đồng bằng. Một hôm Tuyết
vén áo lên cho tôi xem và bảo: - Anh Long! Ở ngực em nổi lên cái cục gì cưng cứng
như ngón tay cái vậy? Tôi đưa tay sờ thử. Về nhà đánh bạo hỏi mẹ. Mẹ tôi nạt: -
Đồ con nít ranh. Người lớn thật khó hiểu. Sáng ra mẹ Tuyết qua nhà tôi. Không
biết hai bà xì xầm chuyện gì có vẻ bí mật lắm. Hai hôm sau gặp tôi mặt Tuyết đỏ
bừng quay đi… Mấy ngày xa nhau tôi cứ vơ vẩn như người mất hồn. Cả tháng sau
chúng tôi mới chơi lại với nhau. Nhưng tôi không còn dám tắm truồng và hai đứa
không còn ôm nhau lăn tròn trên cát như ngày xưa. Ba Tuyết tử trận trong ngày
Đà Nẵng được giải phóng. Chị Lệ vào miền Nam làm ăn. Tuyết nghỉ học sớm ở nhà
phụ mẹ. Tôi thi đậu vào Cao đẳng Sư phạm nhưng không đủ tiền ăn học. Tôi buồn đời
quyết định vào Nam làm ăn. Ngày chia tay bên bờ sông chúng tôi nắm tay nhau tôi
không dám mở miệng chỉ sợ mình bật khóc trước mặt con gái. Khi lên tàu tôi mới
sực nhớ tôi chưa hề thổ lộ tình yêu của tôi đối với em. Tôi vào miền Nam tìm đến
địa chỉ của chị Lệ nhờ chị giúp đỡ tôi trở thành công chức mẫn cán với hy vọng
sẽ dành dụm được ít tiền để về quê cưới vợ. Tôi luôn có niềm tin chắc chắn là
Tuyết sẽ chờ tôi. Hai năm sau tôi nhận được thiệp hồng của Tuyết với dòng chữ dửng
dưng: “Em lập gia đình anh gắng về dự đám cưới của em”.
Tôi đổ gục như một cây chuối bị chặt ngang hông. Tôi không
dám về lại quê hương. Tôi không đủ can đảm đặt chân lên bờ sông đầy ắp những kỷ
niệm của hai đứa đầy ắp mùi hương ngọt ngào của hoa dủ dẻ trong ký ức tuổi thơ.
“Cầu cho em được một người tình như tôi đã yêu em”. Tôi lẩm bẩm nhiều lần câu
thơ của Puskin như một người điên. Chị Lệ đi đám cưới về mang theo chùm hoa dủ
dẻ khô Tuyết gửi vào tặng tôi. Chị an ủi: - Cậu đừng trách nó. Mẹ chị bệnh mình
nó lo không nổi mang ơn người ta với lại cậu đã nói gì với nó đâu mà bắt nó chờ.
Tôi mỉm cười cay đắng.
Khi Tuyết dắt con vào đây chị Lệ đã bỏ đi gần ba tháng. Gã họa
sĩ đã “quất ngựa truy phong” lúc chị đang mang bầu. Cắn răng chịu đựng “lời ong
tiếng ve” của xóm giềng để nuôi đứa bé cứng cáp rồi chị ẵm con đi. Chị nói với
tôi: - Chị đi nơi khác làm ăn và chị sẽ trả thù lũ đàn ông bội bạc. Tội nghiệp
bé Bầu. Ngày ra đi nó ôm cổ mân mê đùa nghịch chòm râu cằm lởm chởm của tôi. Cầm
lòng không đậu tôi hôn nó ràn rụa nước mắt. Chị Lệ nhờ tôi trông hộ căn nhà.
Tuyết đến tôi giao chìa khóa lại cho em. Qua Tuyết tôi biết mẹ em đã mất. Còn
quê nhà cũng không khá hơn ngày tôi ra đi được mấy vì bão lụt triền miên.
Chồng của Tuyết là một gã lái buôn cây. Hắn yêu Tuyết điên cuồng
như con thú nhưng lại rất chi li đê tiện. Sau cái ngày hắn vào tận miền Nam
hành hung Tuyết đã khóc và nói với tôi : - Nghèo là rất nhục. Nghèo là mất hết
tất cả. Phải cần có tiền anh biết không? Tôi nghĩ chắc em xúc động quá mới nói
như vậy thôi chứ ngày xưa chúng tôi đâu cần tiền mà cũng hạnh phúc vậy. Tôi san
sẻ cùng em món tiền ít ỏi kiếm được từ đồng lương công chức. Tôi hy vọng khi nỗi
buồn qua đi tôi sẽ nhắc lại với Tuyết những kỷ niệm thời thơ ấu. Chắc là Tuyết
sẽ hiểu được lòng tôi. Chúng tôi dường như không có duyên nợ với nhau. Tôi chưa
kịp nói với Tuyết dự định của tôi thì chị Lệ trở về. Đi với chị là người đàn
ông mâp mạp trên chiếc xe hơi đời mới bóng lộn.
Hai chị em ôm chầm lấy nhau mừng rỡ: - Chị về quê tìm em mới
hay em vào đây. Biết chuyện chị đã lo thủ tục ly hôn cho em. - Cảm ơn chị. - À
quên! - Chị Lệ quay qua tôi - Chị em lâu ngày gặp nhau mừng quá quên giới thiệu
với cậu Long đây là anh Đường ông xã của chị Giám đốc Khách sạn Hoa Biển ở Vũng
Tàu. Còn đây là cậu Long cùng cơ quan cũ với em. Ông Đường hờ hững đưa tay về
phía tôi. Tôi nắm bàn tay mềm nhũn đầy đặn của ông. Tôi có cảm giác như đụng phải
con sùng đất. Chị Lệ vốn đã đẹp nay càng rực rỡ hơn trong bộ trang phục đắt tiền.
Chẳng trách sao chị mê hoặc được người đàn ông tóc đã hoa râm.
Đầu óc tôi choáng váng khi nghe chị Lệ giục Tuyết: - Bỏ hết
xuống dưới đó rồi sắm lại. Ba cái đồ này xuống Vũng Tàu ai mà xài. “Ba cái đồ”
tôi nhịn ăn nhịn mặc để sắm cho Tuyết! Thêm một lần nữa tôi để vuột mất hạnh
phúc trong tầm tay. Cảm thấy mình thừa thãi tôi cúi xuống ôm thằng bé con của
Tuyết vào lòng: - Cháu ngoan của chú đi rồi có nhớ chú không? - Nhớ chú nhiều.
- Có thương chú không? - Thương chú nhất sau mẹ Tuyết. Tôi nghe nghẹn nơi cổ.
Tôi bỗng nhớ bé Bầu con chị Lệ chẳng thấy cháu đâu.
Tôi muốn hỏi chị nhưng không dám. Nhìn chiếc xe hơi bóng
loáng vút đi mang theo hai mẹ con Tuyết tôi cố nuốt miếng nước bọt qua cổ họng
khô khốc của mình. Chuyện xảy ra đã lâu rồi mà tôi vẫn không thể tin được
là con người có thể thay đổi nhanh chóng đến như vậy. Tôi không muốn kể thêm đoạn
này. Nó cứ rờn rợn làm sao ấy. Nhưng thật sự không thể giấu được dù nó tàn nhẫn
như mũi dao xuyên qua trái tim ngu muội của tôi.
Tuyết đi được nửa năm nhưng chẳng có lấy một lá thư. Tôi nhớ
quay quắt tìm xuống Vũng Tàu. Đứng trước biệt thự đồ sộ của ông chủ khách sạn
tôi không dám bấm chuông. Đón xe trở về Long Khánh tôi ôm đầu nguyền rủa sự
nhút nhát của mình. Một năm sau Tuyết về thăm tôi trên chiếc Dream II màu nho.
Tôi sững sờ không còn nhận ra cô thôn nữ ngày nào.
Tuyết bảo tôi: - Chị Lệ biểu em về nói với anh là chị Lệ cho
anh căn nhà của chị anh bán kiếm ít tiền phòng thân. Chứ người khờ như anh có
ngày chết đói. Còn em em đã có nhà riêng có xe. Khi nào về Vũng Tàu ghé lại nhà
em em sẽ tiếp đãi anh như vua. “Ông xã” của em lâu lâu mới qua Việt Nam ghé ở
vài bữa rồi chạy qua bên đó với bà vợ già của lão anh đừng ngại… Tuyết nheo mắt
nhìn tôi cười nói giọng tỉnh queo. Còn tôi ngồi trơ trên ghế mồm há hốc như trời
trồng đầu óc mụ mẫm mọi thứ xung quanh như quay cuồng chao đảo.
Tuyết đi đã lâu rồi tôi mới sực tỉnh. Tôi gục xuống bàn. Tuyết
ơi! Tuổi thơ của tôi ơi! Tôi muốn nghĩ ra một đoạn kết thật tuyệt vời cho mối
tình của chúng ta nhưng đã muộn mất rồi!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét