Hành trình mở cõi của dân tộc Việt Nam là hành trình Nam tiến.
Thời gian có thể làm cho sông cạn đá mòn nhưng dấu chân của cha ông để lại trên
vùng đất phương Nam mênh mang sông nước này không thể xóa nhòa dù đã trải qua
bao thăng trầm của lịch sử.
Tại ngã ba dòng sông Đồng Nai đoạn chảy qua thành phố Biên
Hòa có một vùng đất đặc biệt nơi còn lưu rõ dấu chân của cha ông trên bước đường
Nam tiến. Vùng đất này có tên gọi là Cù Lao Phố.
"Con sông Đồng Nai như cặp vợ chồng thuận thảo dìu nhau
vượt qua bao thác ghềnh vất vả vậy mà khi êm ả dòng sông giận dỗi tách làm đôi.
Cũng may hai nhánh sông đã kịp làm hòa với nhau trước khi tan vào biển lớn.
Phút giây đỏng đảnh ngắn ngủi ấy đã để lại cho đời một cù lao trù phú và màu mỡ".
Cù Lao Phố chính là nơi đây. Thành phố đầu tiên của cư dân Việt
ở phương Nam.
Ngày nay người ta hay nhắc đến Đức ông Trần Thượng Xuyên và Đức
ông Nguyễn Hữu Cảnh vì Trần Thượng Xuyên có công tạo nên thương cảng sầm uất
trên cù lao và Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh có công định biên miền đất này vào
năm 1698.
Nhưng trước khi Trần Thượng Xuyên và Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam
đã có nhiều người Việt sinh sống tại đây. Họ là những người có công khai phá đất
cù lao. Một trong những người có công đầu là công chúa Ngọc Vạn. Vì sứ mệnh
tổ quốc giao phó phải bang giao với phương Nam công chúa Ngọc Vạn đành gạt lệ
ra đi bỏ lại sau lưng hoàng cung lầu son gác tía để vào miền sông nước này. Thời
gian đã xoá đi dấu vết của người. Cũng may một nhà sử học xứ Biên Hòa ông
Lương Văn Lựu đã cất công sưu tầm và ghi lại vài dòng về vị công chúa đã bị lịch
sử lãng quên. Trong cuốn Biên Hòa sử lược ông viết:
Theo gia phả của chúa Nguyễn được Tôn Thất Hân sưu nghi thì
chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên sanh năm Quý Hợi (1563) vương tôn bà Mạc Thị Giai
làm chánh hậu. Bà này sanh hạ ba lệnh nữ: công chúa Ngọc Vạn là con thứ hai.
Năm 1620 Lạp Vương Chây Chét Ta II xin cầu hôn hoàng nữ nước Việt. Sãi Vương
thuận gả công chúa Ngọc Vạn cho Chân Lạp. Về sau bà là Hoàng Thái Hậu. Nhân lúc
tình hình Chân Lạp rắc rối nhân dân cầu cứu bà đã nhờ chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần
can thiệp. Vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân xin nhượng đất Nông Nại cho phủ chúa. Kể
từ đây các cư dân Đại Việt đặt chân đến vùng "gạo trắng nước trong"
dưới sự bảo trợ của bà Ngọc Vạn.
Những người
sinh sống trên đất cù lao ngày hôm nay ai là hậu duệ của đoàn người theo chân
công chúa Ngọc Vạn ngày ấy? Cù Lao Phố hôm nay vẫn bình an thanh thản hiền lành
và thủy chung như hàng trăm năm trước như ông lão đưa đò đã chở chúng tôi đi
quanh cù lao.
Ngày xưa mẹ ông cũng đưa đò ở bến sông này và bây giờ hết đời
mình ông lại truyền cho con cháu. Những cây cầu hiện đại chẳng thể làm thay đổi
thói quen trong tâm thức người Việt với hai tiếng "đò... ơi" thân
thương trong hành trình mở cõi.
Ông lão đưa đò còn kể cho chúng tôi nghe câu chuyện tình kỳ lạ
bên ngôi chùa cổ nhất miền Nam một câu chuyện làm chúng tôi kinh ngạc dù có thể
nó chỉ là truyền thuyết.
Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành (không rõ năm sinh) là nhà sư đầu
tiên ở miền Nam được phong quốc sư. Với kiến thức Phật học uyên bác ông được vời
về kinh để giảng dạy cho hoàng tộc. Tại kinh đô bà cô ruột của vua Minh Mạng thọ
giới bồ tát được ông ban pháp danh Tề Minh Thiện Nhựt. Trong những ngày theo học
đạo có vị Hoàng cô em ruột của vua yêu ông say đắm. Năm 1821 sư phụ của ông là
Hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc viên tịch ông trở về miền Nam chịu tang rồi ở lại.
Những tưởng tránh được oan tình ràng buộc nào ngờ vị Hoàng cô si tình tìm đến tận
nơi. Ông quyết định nhập thất hai năm tránh không gặp mặt người đàn bà si tình
nhưng Hoàng cô quyết liệt xin được nắm tay ông. Cảm động trước tấm chân tình ấy
ông đưa tay ra cửa sổ cho bà hôn. Ngay trong đêm ông đã tự thiêu sau khi ghi lại
bài kệ trên vách để bày tỏ tấm lòng trong sạch của mình. Điều lạ là mọi thứ
cháy hết nhưng bài kệ ông ghi trên vách vẫn còn đến nay nhiều nhà sư vẫn thuộc
bài kệ này của ông. Ba ngày sau khi an táng thiền sư Hoàng cô cũng uống độc dược
quyên sinh tại chùa Đại Giác.
Chúng tôi lên bờ và tìm đến với ngôi chùa được xác định là
ngôi chùa của người Việt cổ nhất miền Nam. Theo thư tịch còn lại thì chùa Đại
Giác thành lập từ năm 1412 có nghĩa là trước sự có mặt của công chúa Ngọc Vạn
hơn 2 thế kỷ. Ngày đó ngôi chùa là một cái am nhỏ thờ Phật của người Việt dần dần
dân cư đến sinh sống đông đúc họ xây trên mảnh đất ấy một ngôi chùa lớn.
Chùa Đại Giác còn có tên gọi khác là chùa Tượng ni sư Diệu
Trí Huệ giải thích: Chữ "tượng" ở đây không phải là tượng Phật mà là
voi vì 1802 vua Gia Long đã cho đàn voi đến chở đất đắp sân xây lại chùa. Khi
công trình hoàn thành ông cho thợ tạc pho tượng Phật Di Đà bằng gỗ quí cao gần
hai mét đến nay vẫn còn thờ tại chính điện.
Năm 1801 khi bị quân Tây Sơn truy đuổi Nguyễn Ánh đã đến trú ẩn
tại đây. Trong bầu đoàn thê tử của ngài có công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh là người
uyên thâm về Phật học công chúa xuất gia đầu Phật và ở đây cho đến khi vua cha
lên ngôi và triệu hồi về kinh. Theo nhà sư Huệ Thiền thì không ai rõ tên Đại
Giác tự có từ lúc nào khi công chúa về kinh bà đã để lại bài kệ giải thích ý
nghĩa hai chữ Đại Giác.
Câu chuyện của Đại Giác tự và câu chuyện công chúa Ngọc
Vạn có thể khẳng định những cư dân Việt có mặt tại đây từ năm 1650. Ngày nay
trên cù lao vẫn còn những cảnh hoang sơ như thời mở cõi những cảnh làng quê
thanh bình yên ả bên dòng Đồng Nai bốn mùa xanh thẳm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét