Mấy phương diện thẩm mỹ của thơ Nho gia và Thiền gia
I. Nhắc lại một số điểm then chốt của học
thuyết Nho giáo và Phật giáo
Nho giáo và Phật giáo đều đã có một khoảng thời gian tồn tại
hơn 2500 năm. Với hơn 2 thiên niên kỷ rưỡi tồn tại, cả hai học thuyết đều đã biến
đổi rất nhiều, chia ra nhiều môn phái khác nhau. Trong một vài
trang viết, chúng tôi không có tham vọng, và cũng không thể có tham vọng khái quát toàn bộ những tinh hoa của cả hai học thuyết, mà chỉ muốn nhắc lại một
vài điểm trong số những điểm quan trọng nhất của hai học thuyết này. Đó
cũng chính là những điểm có thể giúp làm sáng rõ các vấn đề mà bài viết đề
cập đến.
1. Nho giáo
Khổng Tử được coi là người sáng lập ra học thuyết Nho giáo,
nhưng không phải đến Khổng Tử những tư tưởng Nho giáo mới bắt đầu xuất hiện. Từ
trước đó, một số tư tưởng có tính chất cơ sở của Nho giáo đã tồn tại ở
Trung Quốc, Chu Công là người có đóng góp lớn. Nhưng chỉ đến Khổng Tử, Nho giáo
mới trở thành một học thuyết thực sự với tư tưởng được xác lập một cách hệ
thống, hệ thống kinh điển định hình, phương pháp tu dưỡng đầy đủ....
Sự ra đời của Nho giáo có yếu tố thời đại. Thời đại mà Khổng
Tử sống - thời Xuân Thu đất nước Trung Quốc bị chia ra thành hơn 160 nước chư hầu
tranh nhau tìm cách xưng bá trong thiên hạ, địa vị thiên tử của nhà Chu chỉ còn
trên danh nghĩa. Chiến tranh xẩy ra liên miên, có tới 483 cuộc chiến tranh lớn
nhỏ. Cục diện đó được khái quát lại bằng một hình tượng hết sức bi
thảm là "đổi con ăn thịt, chẻ xương mà đun". Cũng từ thời kỳ này, nhiều
học thuyết bắt đầu ra đời hoặc với mục đích sắp xếp lại trật tự xã hội, hoặc với
mục đích tìm ra nhưng con đường khả dĩ giúp con người tồn tại một cách dễ dàng
hơn trong những thực tại khắc nghiệt..., cuối Xuân thu, đầu Chiến Quốc trở
thành phong trào "Bách gia tranh minh".
Nho giáo nằm trong số những học thuyết lớn nhất của thời đại
đó. Đứng trước thực tế xã hội loạn lạc, nhân tâm suy vi..., học thuyết Nho giáo
hướng vào mục đích lớn nhất là "chống loạn cứu thế", muốn xây dựng
một xã hội có trật tự, hài hòa, trong đó con người sống theo đúng phận, không
tiếm vị, vượt phận - một xã hội "vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra
cha, con ra con" (quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử). Nho giáo
ngay từ đầu đã nhấn mạnh tới việc lý giải, nhận thức về con người, tôn vinh con
người, chỉ ra cho con người con đường để làm người một cách chân chính (nhân
chi vi nhân), hướng tới xây dựng một xã hội lý tưởng trong hiện thực. Học thuyết
Nho giáo không hướng con người tới một cõi niết bàn sau khi chết hay một niết
bàn nằm ngoài trần gian, mà muốn xây dựng một "niết bàn" ngay trong
thực tại. "Niết bàn" đó trong đời sống là một xã hội giống như xã hội
thời Nghiêu Thuấn, trong mỗi con người là sự hoàn thiện về nhân cách
Sứ mệnh cao cả hiện thực hoá những lý tưởng trên không thuộc
về tất cả mọi người mà chỉ thuộc về một bộ phận những người được Nho giáo xem
là tinh hoa của các thời đại: các thánh nhân thiên tử và các hiền giả (các nhà
Nho).
Con đường mà Nho giáo vạch ra để thực hiên lý tưởng đó là con
đường TU THÂN: "Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân nhất thị giai dĩ tu
thân vi bản" (Từ vua cho đến người dân ai cũng lấy việc tu thân làm gốc).
Trước tiên phải tu thân rồi mới có thể trải qua nhiều công đoạn mà thực hiên
các lý tưởng "trị quốc, bình thiên hạ".
Học thuyết Nho gia hướng các môn sinh vào một con đường đã vạch
sẵn: học để ra làm quan. Nhưng ra làm quan không phải vì ham "năm đấu gạo
vua ban", hay vì danh tước, vì bổng lộc, mà để giúp vua giáo hoá dân, ban
ân huệ cho dân. Phương thức giáo hoá là "treo gương", mỗi nhà Nho tự
tu thân, trau dồi, rèn luyện mình thành một tấm gương, lấy đạo đức của mình để
cảm hoá dân chúng, khiến họ kính phục, cảm động mà tuân theo. Con đường xây dựng
chính trị mà Nho gia hướng theo chính là con đường "Đức trị".
Đức mục cao nhất mà quá trình tu thân của nhà Nho có thể đạt
được là "Nhân" (đức mục Thánh thì chỉ có các vị đế vương nhận mệnh trời
đạt được mà thôi). Khổng Tử nhắc rất nhiều đến "Nhân" (trong Luận
ngữ nhắc tới 105 lần), nhưng chưa bao giờ đưa ra một định nghĩa chính xác
thế nào là Nhân. Tuy nhiên có thể coi câu trả lời của Khổng Tử với Nhan Hồi - một
người được Khổng Tử khen là "ba tháng không trái với điều nhân" là một
trong những định nghĩa quan trọng: "khắc kỷ phục lễ vi nhân" (khắc
chế mình quay về với lễ là nhân), cụ thể là "đừng nhìn cái phi lễ, đừng
nghe cái phi lễ, đừng nói cái phi lễ, đừng làm cái phi lễ", nghĩa là từng
giờ từng phải luôn tuân theo, sửa mình theo lễ, theo những quy định đã được định
trước. Đạt được nhân rất khó, đến như Khổng Tử còn phải khiêm tốn nhận mình là
"Nếu coi mình là Thánh và bậc Nhân thì ta sao dám" (Nhược
Thánh dữ nhân tắc ngô khởi cảm). Kẻ sĩ nếu cần có thể "sát thân thành
nhân", không vì sống mà làm tổn hại đến điều nhân, khi cần thiết có thể hy
sinh tính mạng để thực hiện điều nhân, không vì bất kỳ lý do gì mà làm tổn hại
đến nhân cách của mình.
Lấy tu thân làm gốc, lấy đức mục nhân làm đức mục cao nhất của
quá trình tu thân, Nho giáo cũng đồng thời nhìn ra rất nhiều trở ngại phảI vượt
qua trong quá trình tu thân: cả giàu sang, nghèo hèn, cả uy võ, và nhất là lòng
tư dục khiến con người chạy theo lợi mà quên nhân quên nghĩa. Bởi vậy tu thân
là phải làm sao cho "giàu sang không cám dỗ được lòng của mình, phú
quý không làm cho đổi cái chí của mình, uy võ quyền lực không thể làm cho khuất
được cái chí của mình" (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di,
uy võ bất năng khuất), sao cho "thấy lợi thì nhớ đến nghĩa" (kiến lợi
tư nghĩa).
Con đường trước tiên, con đường chính thống nhất mà nhà Nho
muốn lựa chọn bao giờ cũng là con đường nhập thế: thi đỗ, ra làm quan để giúp
vua cai trị thiên hạ. Nhưng ngay người "cha đẻ" của học thuyết - Khổng
Tử còn nhận thấy rằng "người quân tử học rộng mưu sâu không gặp thời
nhiều lắm thay" và bản thân cuộc đời ông cũng minh chứng cho điều này. Nhà
Nho vốn là những người mang tinh thần nhập thế dấn thân, nhưng con đường
làm quan vốn dĩ khó bước vào, mà bước vào được rồi thì cũng đầy chông gai. Thân
phận của nhà Nho theo cách nói có phần cường điệu là "trên ăn mày một bậc"
vốn rất bấp bênh, cái lẽ đắc thất là lẽ thường tình, hơn nữa việc nhà Nho có thực
hiện được lý tưởng của mình hay không lại phụ thuộc hầu hết vào phẩm chất của
các ông vua: có được vua dùng thì mới có thể đem sở học của mình ra mà ứng dụng.
Từ thực tế đó, trong đội ngũ nhà Nho đã hình thành nên một thế ứng xử thứ
hai, tuy không chính thống bằng con đường trên nhưng số người theo là đông
không kém: con đường ẩn dật.
Lựa chọn cuộc sống ẩn dật, các nhà Nho bước ra ngoài con đường
lập thân bằng chính trị, xa dời những tranh giành thoán đoạt của nhân thế, trở
thành những "chuyết phu", "lãn ông" sống với những thú vui
bình dị, hòa mình vào thiên nhiên. Nhà Nho ẩn dật khác với nhà Nho hành đạo
trên nhiều phương diện: từ những mối quan tâm, phong thái, đến cách sinh hoạt... nhưng dù thế nhà Nho ẩn dật vẫn là nhà Nho và là nhà Nho chính thống chứ không
trở thành các đạo sĩ, tiên nhân hay các thiền gia. Bởi vì cũng như nhà Nho hành
đạo nhà Nho ẩn dật không bao giờ xa rời cáI gốc "tu thân" của mình.
Hay nói đúng hơn về ẩn dật cũng là một cách để họ giữ vững, bảo tồn nhân cách.
Đó chính là một thế ứng xử "cùng khổ thì làm hay cho cho mình, hiển đạt
thì làm hay cho cả thiên hạ" (cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm tế
thiên hạ) hay "đắc chí thì cùng với dân theo đạo, không đắc chí thì một
mình theo đạo" (đắc chí dữ dân do chí, bất đắc chí độc hành kỳ đạo). Người
ẩn dật cũng rất tự hào về nhân cách của mình, nếu không muốn nói là họ cao ngạo
về nhân cách của mình có phần còn hơn cả các nhà Nho hành đạo, ở ẩn với họ
chính là một cách thức "an bần lạc đạo" (an với cảnh nghèo mà
vui đạo)
Như vậy có thể thấy rằng học thuyết Nho giáo từ mục đích cho
đến nội dung học thuyết đều hướng về xã hội, hướng tới tạo dựng một xã hội thái
bình thịnh trị, có cương thường, trật tự, đối với việc nhìn nhận mỗi con người
Nho giáo cũng lấy tiêu chí xem họ thực hiện được đến đâu những nhiệm vụ xã hội
của mình làm tiêu chí quan trọng nhất. Cách thức để đạt tới xã hội lý tưởng đó
là "treo gương giáo hóa", các nhà Nho tự sửa mình thành tấm gương để
dân chúng noi theo, để giáo hoá thiên hạ. Khi hiển đạt, ra làm quan hay khi
phai lựa chọn cách sống ẩn dật thì nhà Nho cũng không bao giờ xa dời việc trau
dồi đạo đức.
2. Phật giáo
Nếu cần lấy một định đề để khái quát điểm nhìn xuất phát của
Phật giáo đối với cuộc sống con người từ đó xây dựng học thuyết của mình thì đó
chính là định đề "đời là bể khổ". Thông thường chúng ta hay lấy
sự sinh ra của một con người làm niềm vui, và sự mất đi của một ai đó làm nỗi
buồn. Nhưng trong cách nhìn của Phật giáo thì mọi bước đường đời của con người
đều là một phần trong cái bể khổ mênh mông của nhân loại mà thôi. Người ở đời
không ai tránh khỏi cái vòng luân hồi vô tận của "sinh, lão, bệnh, tử",
đó là nỗi khổ chung, một con đường định mệnh mà bất kỳ ai dù là bậc vương giả
cao quý đến những người khốn khổ không tấc đất đều phảI tuân theo. Đã vậy thì
sinh cũng không phảI là một hạnh phúc, mà tử cũng chẳng phảI một bất hạnh, thảy
đều là cái gánh nặng luân hồi mà con người phải mang mà thôi. Bởi thế cho nên,
trong cách nhìn của nhà Phật thì tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh cũng chính
là báo hiệu của nỗi khổ được sinh ra và cả những nỗi sau này trong cuộc đời vậy.
Nhưng con người không chỉ khổ vì phải nằm trong cái vòng
sinh, lão, bệnh tử tự nhiên ấy, nỗi đau khổ của con người còn xuất phát từ
chính những nhu cầu, những ham muốn, những mối dây tình cảm... của họ. Những nỗi
khổ đó được Phật giáo tổng kết thành: "oán tăng hội khổ" (khổ vì gặp
những điều mình oán ghét); "ái biệt ly khổ" (khổ vì xa dời cái mình
yêu thích), "cầu bất đắc khổ" (khổ vì mình mong cầu mà lại không được)
và "ngũ uẩn thịnh khổ" (khổ vì sự tan hợp của ngũ uẩn; ngũ uẩn gồm
có: sắc, thụ, tưởng, hành thức). Nghĩa là mọi tình cảm của con người đều dẫn
con người đến đau khổ.
Tồn tại là đau khổ, cách nhìn ấy của Phật giáo là bao quát
cho mọi con người trong mọi không gian thời gian chứ không riêng ai, riêng ở chỗ
nào, riêng vào lúc nào. Nho giáo trong cách nhìn của mình cho dù có thừa nhận
những giai đoạn lịch sử, những xã hội trong đó loạn lạc, chiến tranh, nhân tâm
suy vi làm con người đau khổ nhưng không bao giờ thiếu sự tin tưởng vào một chế
độ xã hội hoặc đã, hoặc đang, hoặc sẽ có mà trong xã hội đó con người được sống
một cuộc sống hòa mục, yên ổn, hạnh phúc. Cách nhìn cuộc đời của Phật giáo so với
Nho giáo cũng như so với rất nhiều học thuyết khác là bi quan hơn rất nhiều.
Phật giáo chỉ ra rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nỗi đau khổ của
con người, trong đó "vô minh" là nguồn gốc chính nhất, và bao trùm
các nguyên nhân còn lại, đó cũng là điểm mà Phật giáo đả phá một cách quyết liệt
nhất. Vì vô minh mà con người cứ mãi chấp trụ, níu kéo lấy những cái vô thường
trên đời: bạc tiền, danh lợi, tuổi thọ....Vì vô minh mà con người rơi vào nhận
thức nhị nguyên luận, mới chia mọi thứ ra làm hai phần rạch ròi: thiện - ác,
vui - buồn, chính - tà..., vì vô minh mà con người lấy cái tâm sai biệt để
nhìn nhận đánh giá. Chừng nào còn vô minh thì con người còn chìm đắm trong bể
khổ.
Lấy xuất điểm coi cuộc đời là bể khổ, chỉ ra nguyên nhân lớn
nhất của nỗi khổ con người là vô minh, Phật hướng học thuyết của mình vào mục
đích lớn nhất là giúp con người thoát khỏi bể khổ trầm luân, đưa con người
vào một cõi niết bàn, bước sang "bờ bên kia" (đáo bỉ ngạn).
Phật giáo không đặt nhiệm vụ này cho một bộ phận, giai cấp nào trong xã hội có thể trở thành những bậc "tiên tri, tiên giác" dẫn dắt chúng sinh còn lại "chuyển mê khải ngộ", cũng không coi học thuyết của mình là một thứ "công cụ vạn năng" mà hễ ai dùng thì có thể bước ra khỏi bể khổ. Phật giáo coi chúng sinh nhất thiết đều bình đẳng, ai cũng có Phật tính, chỉ có điều bị vô minh che khuất, và giữa phật với chúng sinh chỉ khác nhau ở chỗ người đã thành Phật và và người đang thành phật mà thôi. Học thuyết của phật chỉ đóng vai trò là "cái bè" đưa chúng sinh sang bờ bên kia, còn sang như thế nào và có sang được hay không là hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân mỗi người, không ai có thể làm hộ.
Phật giáo không đặt nhiệm vụ này cho một bộ phận, giai cấp nào trong xã hội có thể trở thành những bậc "tiên tri, tiên giác" dẫn dắt chúng sinh còn lại "chuyển mê khải ngộ", cũng không coi học thuyết của mình là một thứ "công cụ vạn năng" mà hễ ai dùng thì có thể bước ra khỏi bể khổ. Phật giáo coi chúng sinh nhất thiết đều bình đẳng, ai cũng có Phật tính, chỉ có điều bị vô minh che khuất, và giữa phật với chúng sinh chỉ khác nhau ở chỗ người đã thành Phật và và người đang thành phật mà thôi. Học thuyết của phật chỉ đóng vai trò là "cái bè" đưa chúng sinh sang bờ bên kia, còn sang như thế nào và có sang được hay không là hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân mỗi người, không ai có thể làm hộ.
Quan niệm về "cõi niết bàn", "bờ bên kia"
của Phật giáo không giống nhau ở các học phái. Ví dụ như Tiểu thừa quan niệm niết
bàn là một thế giới nằm ngoàI thế gian, ở đó con người sẽ thoát khỏi vòng luân
hồi bất tận, không còn sinh, diệt.
Quan niệm về niết bàn của Thiền tông có khác.
Có một câu chuyện Phật giáo kể rằng:
Một người kia hỏi vị Thiền sư:
- Hạ đã qua rồi, đông sẽ tới, vậy làm sao tránh khỏi?
- Tại sao anh không tìm một chỗ nào không có mùa hạ và mùa
đông? Vị thiền sư hỏi lại người kia.
- Làm sao tìm ra được một nơi như thế?
- Vậy thì đông đến anh hãy cứ run, hạ đến anh hãy cứ để mồ hôi
đổ như mọi người.
Câu chuyện đó cùng với câu trả lời của Bách Trượng Thiền sư
trước câu hỏi "kẻ giác ngộ có còn bị luật nhân quả chi phối nữa
không" có thể làm ta hiểu được quan niệm về niết bàn của Thiền tông. Niết
bàn không phải là một thế giới nằm ngoài trần gian, một nơi mà con người không
còn bị luật nhân hồi chi phối nữa, nơi mà mùa hè và mùa đông đều không còn tồn
tại, chỉ có một mùa xuân vĩnh viễn. Không có một niết bàn như vậy. Điều mà Thiền
học muốn hướng con người đến không phảI là trông chờ vào một cõi tồn tại khác
sau cái chết, cũng không phảI là tìm cách thay đổi thực tại mà là thay đổi thái
độ với chính hiện thực ấy. Cái vòng sinh, lão, bệnh, tử sẽ vẫn luôn còn đấy như
mùa hạ và mùa đông vẫn sẽ đến rồi đi nằm ngoài nhân ý của con người.
Thế thì Niết bàn nằm ở đâu?. Nó nằm trong chính tâm con người
vậy. Hiện thực thì vẫn vậy nhưng khi con người đối diện với hiện thực đó với một
cái tâm khác đi, không phải là "viên tâm" đầy vọng động, đầy chấp luỵ
mà là cái tâm "bản thể", "siêu việt" khỏi những nỗi đau buồn,
bi luỵ do hiện thực đưa lại, lúc đó mỗi người sẽ xây dựng được trong bản thân một
cõi niết bàn đích thực, còn vọng tưởng vào một cõi niết bàn ngoài mình thì còn
chưa thể chứng ngộ, và chưa thể gỡ được màng vô minh che phủ. Chỉ bằng cách sống
trong cuộc đời như sóng hòa vào biển, vẫn không ra ngoài cái vòng sinh, lão bệnh,
tử, nhưng ở trong nó mà không con cảm giác về nó, không còn vì nó mà sinh ra hỉ,
nộ, ái, lạc nữa thì mới tới được "bờ bên kia". Đó chính là thái độ
"dĩ bất biến ứng vạn biến", lấy cái tâm thường nhiên, "chân
như" đối diện với cái vô thường, hư huyễn của cuộc đời với thái độ
"nhậm vận", "vô úy" (không sợ hãi). Đạt được điều ấy tâm của
ta sẽ vượt ra ngoài sự chi phối của không gian, thời gian, trở nên vĩnh hằng,
tĩnh tại, nói theo một cách nói hình tượng của nhà Phật thì khi đó ta sẽ trở thành
"đoá sen nở trong lò lửa vàng".
Giải thoát luận của Thiền tông là đưa người "nhập thế"
mà rút cục là để xuất thế, siêu thế. Người tu Thiền không tránh đời, không diệt sinh mà "ở trần gian vui đạo" (cư trần lạc đạo), hòa vào
cuộc đời nhưng hòa vào mà thực ra là thoát khỏi nó bằng "trí huệ bát
nhã", bằng cái tâm đã được giác ngộ.
Cái tâm đó chỉ có được khi ta "sinh cái tâm của mình ở
vào chỗ không chấp vào đâu" (ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm - kinh Kim
Cương). Khi tâm ta không còn bám chấp vào đâu, không còn sự phân biệt luân hồi
- niết bàn, Phật - chúng sinh, nhân - ngã, thiện - ác, vinh - nhục, thị -
phi... thì cái tâm ấy sinh ra. Còn bám chấp vào đâu dù là vào Phật, niết bàn,
thiện, chính... hay chúng sinh, luân hồi, ác, tà.... cũng còn chưa thể siêu thoát,
chưa thể "đốn ngộ" vì đã là chấp thì cái chấp nào rút cục vẫn là chấp
mà thôi. Chỉ bằng cái tâm bình đẳng, bằng con đường trung đạo để tiếp
cận với mọi vấn đề thì ta mới có thể "đốn" tận gốc những mối luỵ ràng
buộc con người vào bể trầm luân không dứt.
Nho giáo thường hay bàn đến và đối lập các phạm trù như Quân
tử - tiểu nhân, nghĩa - lợi. Giả sử các Thiền gia có bàn đến vấn đề này thì họ
cũng sẽ coi quân tử - tiểu nhân, nghĩa - lợi vốn không phảI là hai, mà là một vậy
II. Một số phương diện thẩm mỹ của thơ Nho gia và Thiền gia.
1. Một số phương diện thẩm mỹ của thơ Nho gia
1.1. "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ" - một loại
thái độ đối với khách thể thẩm mỹ.
Trong thi tập của các nhà Nho, thiên nhiên xuất hiện rất nhiều.
Có thể nói rằng, với các nhà Nho, tìm đến với thiên nhiên trước hết là một sự
bày tỏ thái độ của mình đối với phần khác với thiên nhiên còn lại: đời sống
nhân thế, từ đó xác lập chỗ đứng, vị trí của bản thân. Đọc thơ của các nhà Nho
chúng ta thấy một sự đối lập rõ ràng trong thái độ khi viết về thiên nhiên với
khi viết về nhân tình thế thái. Rất dễ nhận ra điều này trong thơ Nguyễn Trãi.Với
thiên nhiên, thái độ của ông là gần gũi, thân thiết:
Cây rợp tán che am mát,
Hồ nằm nguyệt hiện bóng tròn
Lộ nằm hạc lẩn nên bầy bạn,
U ấp cùng ta làm cáI con.
(Ngôn chí - bài 21)
Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử,
Viên hạc đà quen bạn dật dân.
Hái cúc ương lan hương bén áo,
Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn.
Đàn cầm suối trong tai dội,
Còn một non xanh là cố nhân.
(Thuật hứng - bài 15)
Còn đối với nhân thế thì:
Ngoài chưng mọi chốn đều hay hết,
Bui có lòng người cực hiểm thay.
(Mạn thuật - bài 4)
Bể hiểm nhân gian ai kẻ biết,
Ghê thay thế nước vị qua mềm
(Tự thuật - bàI 4)
Không hoa miễn nhãn miên tiêu lộc,
Tục cảnh kinh tâm xuyễn nguyệt ngưu.
(Đốm hoa làm loá mắt như giấc mơ giấu hươu dưới lá chuối,
Cõi tục ghê lòng tựa trâu thở phì phào khi thấy trăng lên)
(Mạn hứng - bài 3).
Tan vỡ khát vọng làm "con chim bằng biển Bắc", làm
"chim phượng gọi mặt trời lên", với không ít xót xa Nguyễn Trãi trở về
với giấc mộng "suối khe", làm một "con chim hồng tránh mũi
tên". Như "con chim đã bị thương vì cung bắn", lúc nào ông cũng
cảm thấy cuộc đời, lòng người đầy bất trắc. Với Nguyễn Trãi, thế gian là một thế
giới đầy "hiểm hóc", "co que", "đắng cay",
"mặn chát", "chông gai"... Người đời thì "cực hiểm",
"tham phú quý", "hằm hè", "biến bạc thành
đen"...Không còn muốn "nhọc đua hơi", cũng không thể "cúi
ngửa theo người", Nguyễn Trãi chọn cho mình một lối sống "nhàn" (Trong Quốc âm thi tập, ông nhắc rất nhiều đến chữ "nhàn", gần 40 lần
trên tổng số 254 bài thơ). Và vì "tham nhàn nên lánh đến giang sơn",
Nguyễn Trãi trở về sống trong thiên nhiên. Ông tìm thấy trong thiên nhiên tất cả:
sự giàu có của "vàng cúc, bạc mai", tìm thấy ở đó người "bầy bạn",
"cái con", "cố nhân".. và nhất là một chốn "dưỡng
thân" cho cuộc đời phiêu dạt "như cánh cỏ bồng" của ông. Ông về
với thiên nhiên như con người trở về với căn nhà thân thuộc, tìm cho mình một
chỗ đứng ra ngoài và cao hơn cái nhân thế lầm bụi, bảo tồn nhân cách cao khiết
"không chịu nổi chìm theo nhân thế" của mình.
Xu hướng đối lập trên cũng thể hiện trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Nhưng nếu như Nguyễn Trãi hay phê phán cái hiểm hóc của đường đời thì
Nguyễn Bỉnh Khiêm thường phê phán thói ham mê danh lợi đến u mê của con người.
Không chỉ đối lập thiên nhiên với đời sống nhân thế, trên một
bình diện khác, trong thơ, Nho gia còn dùng thiên nhiên như những hình tượng
mang tính biểu trưng cho những phẩm chất mà nhà Nho hướng tới trong quá trình
tu dưỡng của mình. Đặc điểm này thể hiện hiện rất rõ trong những vần thơ ngâm vịnh
các loại cây quen thuộc như: tùng, cúc, trúc, mai. Trên "mảnh đất thơ ca của
Nho gia, chúng đã trở thành những loại cây "tăng gia gối vụ" được trồng
từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành những cây biểu tượng. Cây tùng có khả
năng tự nhiên là chống chọi được gió rét, cứng cáp "nhà cả đòi phen chống
khoẻ thay"... tất là "tài lương đống cao ắt cả dùng". Trúc lại
có cái đẹp riêng của nó: ruột rỗng, đốt cứng, không vì gió mưa bão táp mà
nghiêng đổ. Hoa mai nở trong tuyết lạnh, có màu trắng tinh khiết. Hoa cúc trong
khi "người đua nhan sắc thuở xuân dương" thì nó lại "nghỉ chờ
thu", nở muộn màng hơn các loại hoa khác, nhưng vẫn đẹp - cái đẹp kín đáo,
không rực rỡ, nổi trội. Tất cả những phẩm chất tự nhiên đó được nhà Nho dùng
làm những biểu tượng ẩn dụ để chỉ cho chính bản thân mình. Cây tùng giống như
khả năng gánh vác việc lớn, làm rường cột cho quốc gia của nhà Nho. Trúc tượng
trưng cho khí tiết kiên cường, cái hư tâm không màng lợi lộc của người quân tử.
Mai trở thành vật tỷ dụ cho tấm lòng cao khiết, trong sạch của nhà Nho. Cúc tượng
trưng cho vẻ đẹp tinh thần của những nhà Nho ẩn dật. Vậy là, nếu như trong đời
sống, nhà Nho có các danh vị khác nhau thì chúng cũng có "chức tước"
của mình: tùng đại phu, trúc quân tử, mai ngự sử, cúc nhà Nho ẩn dật. Thiên
nhiên được nhân cách hoá, trở thành những biểu tượng cho những phẩm chất của
con người.
Các loại cây khác, không quen thuộc bằng, nhưng cũng được nhà
Nho nhìn với con mắt "đạo lý hoá". Cây đa già "tuy đà chưa có
tài lương đống, bóng cả như còn rợp đến dân" giống như những nhà Nho tuy
không có khả năng hoặc cơ hội làm rường cột cho triều đình nhưng cũng vẫn làm
được nhiều việc cho dân nhờ.
Vịnh về hoa nhài thì đưa ra triết lý "Mấy kẻ hồng nhan
thì bạc phận, hồng nhan kia chớ cậy mình hay" (Hoa nhài - Quốc âm thi tập).
Vịnh hoa mộc thì khái quát quy luật "Trời sinh vật vuông bằng người, Nếu có
thơm tho thiếu tốt tươi"....
Mảng đề tài đề vịnh cảnh vật núi sông, bốn mùa... cũng không
nằm ngoàI sự chi phối của khuynh hướng trên
Có thể nói như Lê Thánh Tông, viết thơ chính là một cách bày
tỏ lòng "hăng hái nghĩ đến phép lớn của các bậc minh vương thánh đế, tới
lòng cẩn mật của các bậc lương tá trung thần"
Lê Thánh Tông làm rất nhiều thơ về cảnh núi non, sông biển đất
nước. Núi non, sông biển trong thơ ông thường mang cái đẹp hùng vĩ, rộng lớn.
Viết về cảnh sắc đất nước chính là một cách ca ngợi cảnh tượng giàu đẹp, thanh
bình của đất nước, làm sáng cái đức của quân vương, đằng sau đó không phải
không có ý "kiêu ngầm" về công cuộc trị bình của mình. Thơ đề vịnh
núi non, sông nước của ông thường gắn với việc ngợi ca:
Trạch quốc quang âm chuyển nhãn qua,
Thái bình thiên tử tráng quan hà...
Kình ba viễn thiếp lang yên tức,
Đáo xứ kinh hô thắng sự đa.
(Bóng quang âm nơI sông nước vùn vụt trôI qua trước mắt,
Thiên tử đời thái bình làm vững mạnh núi sông...
Sóng kình vĩnh viễn lặng êm, khói báo chiến tranh đã tắt,
Khắp nơi là tiếng hô vang chúc mừng chiến công)
(Giang hành ngẫu thành - bàI 7).
Thiên khai địa tịch hồng mông hậu,
Quỷ khắc thần toàn đại xảo trung.
Mạc thuyết Oa hoàng lưu vị dụng,
([đây là cảnh được] trời đất mở mang từ sau thuở hỗn mang,
[đây là cảnh] được quỷ thần đẽo gọt vô cùng khéo léo.
Nói vui rằng bà Nữ Oa còn để dành chưa dùng đến,
Để khắc ghi công lao trị bình của ta đó mà)
(Đề động Bạch Nha)
Trượng phu đắc ý bằng đoàn hải,
Cảnh cảnh Tam hoàng đại quỹ mô.
(Kẻ trượng phu khi đắc ý tựa chim bằng bay tít biển khơI,
Noi theo quy mô to lớn của đời Tam hoàng rực rỡ)
(Giang hành ngẫu thành - bàI 5).
Vịnh bốn mùa thì cũng gắn với cảm hứng ca ngợi "tượng mở
thái hoà Nghiêu vỗ trị, ơn nhiều chuẩn thải Hán nuôi dân" (Vịnh cảnh mùa
xuân - Hồng Đức Quốc âm thi tập).
Có thể thấy giới tự nhiên được nhà nho xác định là miền đất để
bộc lộ tâm sự, để trứ tâm. Đó là nơi mà nhà nho có thể truy cầu sự thỏa mãn về
phương diện thẩm mỹ. ở đó có cái đẹp toàn vẹn, có cái phong phú, phóng khoáng
thanh khiết. Chỉ có điều khách thể thẩm mỹ ấy không phải là một khách thể thẩm
mỹ khách quan mà là chủ khách thể tương thông hợp nhất.
1. 2. Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm - cái đẹp tự
nhiên cảm khái
Đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, các thi nhân thường có một
tâm trạng phổ biến là: cảm nhận được sự trường cửu của non sông, đồng thời cũng
cảm nhận được cả cái phù vân, ngắn ngủi của cuộc đời con người, cái một đi
không trở lại của dòng thời gian. Từ đó trong mỗi người đều sinh ra lòng cảm
khái đối với quá khứ, lịch sử hào hùng. Có thể gặp cảm hứng này trong rất nhiều
bài thơ: Dục Thuý Sơn, Bạch Đằng hải khẩu, Quá Thần Phù hải khẩu, Vãn hứng... của
Nguyễn Trãi; Đề Dục Thúy Sơn, Càn hải môn lữ thứ... của Lê Thánh Tông....
Cảm thức "Giang san như tạc anh hùng thệ" (giang
sơn thì vẫn như trước mà anh hùng thì đã mất) rất hay xuất hiện trong thơ chữ
Hán của Nguyễn Trãi, dường như đã trở thành một nỗi ám ảnh. Ông đối lập cái
hoành tráng, trường tồn của núi sông với cái qua đi không thể nắm giữ dòng thời
gian:
Sóc phong suy hải khí băng băng,
Khinh khởi phong phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn khình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích triết ngạn tằng tằng.
(Gió bấc thổi trên mặt hồ, khí thế bừng bừng
Nhẹ giương cánh buồm thơ qua sông Bạch Đằng.
Như cá sấu bị chặt, như cá kình bị chém, núi quanh co.
Như cây giáo bị chìm, như chiếc kích bị gãy, bờ đắp lởm chởm).
Dòng sông Bạch Đằng nơi ghi dấu bao chiến công lịch sử vĩ đại
được gợi lên với một vẻ đẹp đầy hào hùng, như gọi lại cả một thời quá khứ. Từ
cơn gió đến núi non, bờ bãi đều như tạc lại chiến công của những bậc "hào
kiệt công danh". Nhưng sông núi thì còn mãi, mà chuyện cũ thì đều "đã
qua rồi". Bởi vậy đọng lại trong ông là "một nỗi lòng khó nói hết".
Đối lập cái vô tình của thời gian vũ trụ với thời gian đời
người:
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão,
Thế thượng anh hùng thử nhất thì.
Lê, Phạm phong lưu ta tiệm viễn,
Thanh đài bán thực bích gian thi
(Ngày tháng trong bầu cảnh trời khó già được,
Anh hùng trên đời chỉ có một thời đó thôi.
Cốt cách phong lưu của họ Lê, họ Phạm than ôi đã xa dần,
Rêu xanh đã ăn lấn phân nửa bàI thơ trên vách đá)
Trong thơ của mình, Lê Thánh Tông cũng hay có sự đối chiếu
phong cảnh sông núi với với lịch sử dân tộc nhưng cảm xúc chủ yếu của ông
là tự hào về quá khứ hào hùng. Tuy nhiên ở một số bài thơ ông cũng thể hiện tâm
trạng rất giống với Nguyễn Trãi, "Dục Thúy Sơn" là một trong số đó.
Núi Dục Thúy hiện lên với một vẻ đẹp "đỉnh ngọc lạnh lẽo cao vút như đẽo gọt
giữa trời", "trời nước bao la". Nhưng:
Sơn quang bất ciI hồn như tạc,
Hồi thử anh hùng nhất mộng gian.
(Cảnh núi vẫn như xưa dường không thay đổi,
Ngoảnh lạ những người anh hùng trôI qua như giấc mộng.)
(Dục Thúy Sơn - Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông)
Mối quan hệ giữa sông núi với con người chính là mối quan hệ
giữa cái bất biến, trường tồn với cái nhất thời, ngắn ngủi. Cảm khái về chuyện
đã qua cũng chính là một cách "tự liên hệ" với bản thân: những người
anh hùng trước kia đều đã bị lớp bụi thời gian vùi lấp, ta sau này rồi sẽ ra
sao?
Từ sự cảm nhận cáI vô tình của thời gian, trong mỗi thi nhân
lại sinh ra lòng tiếc nuối thời gian, ham muốn tận hưởng vẻ đẹp của thiên
nhiên, cuộc sống trong những năm tháng ngắn ngủi của đời người. Đó chính là lý
do vì sao các nhà Nho hay làm thơ "tích cảnh"
Tập thơ chữ Nôm "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi
có hẳn một chùm liên hoàn hơn mười bài "tích cảnh thi". Hiện lên trên
những bàI thơ đó là hình ảnh một con người với hành động "chơi ngông"
"cầm đuốc chơi đêm". "Chơi ngông" vì nhận thức được quy luật
"Xuân xanh chưa dễ hai phen lại" và vì "những lệ xuân qua tuổi
tác thêm". Cảm nhận được cái hữu hạn của đời người, ông như muốn tận hưởng
từng giây phút quý báu. Cảm thức này về sau, trong văn học các nhà Nho tài tử
càng trở nên rõ rệt hơn.
1.3. Khi bão mới hay cỏ cứng- quan niệm về cái đẹp
nhân vi rèn luyện, chế ước.
Một trong những đặc trưng thẩm mỹ rất quan trọng của hình tượng
thiên nhiên trong thơ thiên nhiên Nho gia là thiên nhiên mang vẻ đẹp của sự
"tôi luyện", của sự vượt lên và vẻ đẹp mang tính công dụng.
Nếu như trong cuộc sống các nhà Nho luôn tự buộc mình
phải không ngừng vươn lên, vượt qua sự chi phối của hoàn cảnh để tu luyện nhân
cách của bản thân, thì thiên nhiên trong thơ của họ cũng phải là một thiên
nhiên luôn phải khắc phục, chống đỡ những khó khăn do môi trường xung quanh đem
lại để vươn lên. Từ quan điểm trên của Nho gia, dễ hiểu vì sao trong thơ họ hình
tượng tùng, cúc, trúc, mai lại xuất hiện nhiều đến vậy.
Tùng, trúc, mai vốn được coi là "ba người bạn mùa
đông", là những cây chịu được và hơn thế còn vươn lên trong cái lạnh giá của
mùa đông. Trong thơ, khi nhắc đến ba loại cây này, các nhà Nho luôn đặt chúng
vào hoàn cảnh chống đỡ với tuyết sương, có thể nói rằng đó chính là "đối
thủ" mà chúng phải vượt qua và cũng phải qua cuộc "chiến đấu" đó
mà vẻ đẹp quân tử của trúc, tài "lương đống" của tùng, phẩm tiết
thanh cao của mai mới càng trở nên ngời sáng.
Khi viết về cây tùng Nho gia nhấn mạnh ở nó những đặc đIểm
như:
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông.
(Tùng bài 1 - Nguyễn Trãi)
Cội rễ đã bền rời chẳng động,
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều bề.
(Tùng - bài 2 - Nguyễn Trãi)
Tán xanh ngột ngột rợp hư không,
Qua mấy trăm thu thuở bão bùng.
Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết,
TàI cao dưỡng để miếu đường dùng
Vẻ đẹp của tùng là ở chỗ trong khi các cây khác đến mùa đông
đều rụng lá, thì chống chọi với giá rét, tùng vẫn xanh tươi, sương tuyết không
làm thay đổi được "tiết cứng". Không những thế trải sương tuyết hàng
trăm, nghìn năm tùng còn nuôi dưỡng được trong lòng mình "thuốc trường
sinh" "để trợ dân", đó là hổ phách, phục linh.
Cây trúc được ca ngợi ở phẩm chất "trượng phu tiết
cứng khác người thay":
Kỳ viên dưỡng dục nẻo sơ đông,
Dạn mặt dầu cành thuở gió rung.
Giá chẳng xâm hay tiết cứng,
Trăng những tỏ biết lòng không.
(Trúc thụ - Hồng Đức Quốc âm thi tập)
Kham chi thế gọi là quân tử,
Sương tuyết nào hề bén mình.
(Quân tử trúc - Hồng Đức Quốc âm thi tập)
Chỉ có đặt trong những hoàn cảnh khắc nghiệt như :gió rung,
giá lạnh, sương tuyết... phẩm chất "tiết cứng", hư tâm của trúc mới
có thể bộc lộ rõ ràng.
Hoa mai thì càng sương tuyết càng mưa móc càng tốt, đẹp, càng
giữ nguyên cốt cách của mình:
Càng thuở già, càng cốt cách;
Một phen giá, một tinh thần.
(Thơ mai - Nguyễn Trãi)
Hoa nẩy cây nên thuở dốc sương,
Chẳng tàn chẳng cỗi hãy phong quang....
Nhờ ơn vũ lộ đà no hết,
Đông đổi dầu đông hãy một dường.
(Mai già - Nguyễn Trãi)
Cái quý của cúc lại ở chỗ: Trong khi các loại hoa khác thường
nở khi xuân đến, riêng cúc lại nở muộn màng vào mùa thu nhưng vì muộn mà càng
quý giá:
Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn,
Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
(Cúc - Nguyễn Trãi)
Cũng như vậy hoa sen chỉ thực sự đẹp khi đặt trong thế đối lập
với bùn nhơ:
Lầm nhơ chẳng bén tốt hoà thanh.
Quân tử kham khuôn được thửa danh.
(Hoa sen - Nguyễn Trãi)
Với đối tượng thiên nhiên nhà Nho cũng rất quan tâm tính công
dụng của chúng. Cũng như đối với con người, nhà Nho thường quan tâm xem họ đã
làm gì có ích cho nhân quần, xã hội, thì với thiên nhiên nhà Nho cũng rất quan
tâm đến tính quan dụng, ích lợi của chúng đối với con người. Đó cũng là một
tiêu chí quan trọng để Nho gia lựa chọn miêu tả đối tượng này, mà không miêu tả
đối tượng kia trong thơ của mình. Chẳng hạn tùng thì có phẩm chất chắc chắn, có
thể làm cột chống nhà, hổ phách, phục linh của cây lại là một thứ thuốc vô cùng
tốt; cây mai lại có thể làm gia vị cho canh; cây đa có thể rợp bang che cho
dân...
1.4. Quan niệm về cái đẹp thực hữu, sống động
Như đã chỉ ra trong các phần trên, có thể thấy rằng thiên
nhiên trong thơ Nho gia là một thiên nhiên mang tính biểu tượng, một thiên
nhiên được soi rọi từ hiện thực của tâm, chí. Mặc dù đề cao vai trò của cái chủ
quan trong quá trình tiếp cận ngoại cảnh, Nho giáo trong bản thân học thuyết của
mình chưa bao giờ phủ định tính hiện thực của sự tồn tại thế giới hiện tượng.
Điều này rất khác với quan điểm của Thiền tông, Thiền tông cho rằng:
Bản lai vô nhất vật,
Phi chủng diệc phi manh.
Nhật nhật đối cảnh thời,
Cảnh cảnh tòng tâm xuất.
Tâm cảnh bản lai vô,
Xứ xứ ba-la-mật.
(Xưa nay không có một vật nào hết thảy,
Chẳng có gốc cũng chẳng có mầm để cho chúng xuất hiện.
Hàng ngày khi ta đối diện với ngoại cảnh,
Thì cảnh này, cảnh nọ đều từ tâm sinh ra.
"Tâm"và "cảnh" vốn đều là không)
(Trì giới và nhẫn nhục - Tuệ Trung Thượng sĩ)
Bởi vậy thiên nhiên trong thơ Nho gia vẫn là những thực thể,
là thiên nhiên gắn với mặt đất con người đang tồn tại, chứ không nằm trong một
thế giới siêu việt. Cho nên dù mượn thiên nhiên để tỏ chí thì mây, gió, trăng,
hoa, núi, sông... trong thơ Nho gia vẫn xuất phát từ cái có thực. Nghĩa là có
mây, gió, trăng, hoa, sông, núi... trong hiện thực thì mới có chúng trong thơ.
Vì thế mà hình ảnh thiên nhiên trong thơ Nho gia phong phú, sống động hơn rất
nhiều so với trong thơ Thiền gia.
Ta có thể bắt gặp hình ảnh sinh động của những đợt sóng mạnh
mẽ ở những bài thơ tả cảnh sông, biển:
Triều tông nhất phái thủy quyên quyên,
Hạo diểu hồng đào tiếp hải yên.
(Một dòng nước cuồn cuộn đổ ra biển,
Sóng lớn mênh mông lượn một giải sát tận bờ)
(Du hải môn lữ thứ - Lê Thánh Tông)
Phá hiểu thừa phong đáo hải môn,
Hàm triều hung dũng nộ đào bôn.
(Trời sáng bạch, cưỡi gió lướt tới cửa biển,
Ngọn triều mặn giận dữ tung sóng xô cuồn cuộn)
(Kỳ la hảI môn lữ thứ - Lê Thánh Tông)
Hay vẻ đẹp rất thơ mộng của cảnh núi non:
Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thuý hoàn.
(Bóng tháp cài cái trâm ngọc xanh,
ánh sáng của làn sóng nước soi gương búi tóc xanh biếc)
(Dục Thúy Sơn - Nguyễn Trãi).
Thiên nhiên trong thơ Nho gia thường vận động, biến đổi theo
quy luật biến dịch, chứ không tĩnh tại như trong thơ Thiền gia. Đặc điểm này đặc
biệt rõ nét ở những bài thơ ngâm, vịnh, tả cảnh bốn mùa. Trong loại thơ này,
thiên nhiên hiện ra trong sự luân chuyển, nối tiếp nhau, tạo thành một chiều thời
gian tuyến tính: xuân qua thì hè tới, hè hết thì thu sang, thu tận thì lại đến
mùa đông, dòng thời gian không ngừng chảy trôi, một đi không trở lại:
Đông đã muộn lại sang xuân,
Xuân muộn thì hè lại đổi lần.
Tính kể tư mùa có nguyệt,
Thu âu là nhẫn một hai phần.
(Thu nguyệt - Nguyễn TrãI)
Thức xuân một tiết hãy còn khoe,
Phút đã nam ngoa đến tiết hè.
(Vịnh cảnh mùa hè - Hồng Đức Quốc âm thi tập)
Sự vận động của thiên nhiên còn được thể hiện trong sự vận động
của bản thân hình tượng thơ:
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
(Trong lúc nhàn nhã suốt ngày khép cửa phòng văn,
Ngoài cửa không có một khác tục nào tới.
Trong tiếng cuốc kêu xuân sắp tàn,
Đầy sân mưa phùn nhẹ rơI khi hoa xoan đang nở)
(Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi).
Trong cái sắp tàn của không gian mùa xuân, một sức sống mới lại
bắt đầu: "hoa xoan đang nở"
Trong "thính vũ" của Nguyễn Trãi, sự vận động
biến đổi của thiên nhiên, thời gian lại được thể hiện bằng hình tượng những giọt
mưa đêm: cùng với tiếng mưa "điểm từng hạt", những canh giờ cũng tàn
đi trong một đêm đầy thao thức của thi nhân. Mưa như "chiếc cầu" nối
liền thời điểm "đêm" với thời điểm "sáng" của một ngày.
Có thể coi cái động là một phạm trù thẩm my tiêu biểu của văn
chương nhà nho. Nó cũng là một hệ quả của sự quan chú tới thực tại, tới sự khẳng
định thực tại. Từ cái động, nho gia tiến tới xác lập các phạm trù thẩm mỹ khác
như cái tự cường, cái cương kiện, sinh sinh hài hòa. Nho gia từ trong tinh thần
triết học nhân sinh vốn đã theo đuổi quan niệm: "Thiên hành kiện,
quân tử dĩ tự cường bất tức" (Thiên vận hành rất khỏe, người quân tử
cũng cần làm cho mình không ngừng tự cường cùng với sự tự cường không nghỉ của
trời đất). Những hình tượng thiên nhiên sống động, cương kiện như tùng trúc cúc
mai là sự tiếp diễn một cách tự nhiên tư tinh thần triết học tới lĩnh vực thẩm
mỹ. Hay nói cách khác, thẩm mỹ cũng là một phương diện trong đời sống
tinh thần lấy tu dưỡng làm then chốt của nhà nho, thẩm mỹ cũng là một loại công
cụ phục vụ tu dưỡng.
2. Một số phương diện thẩm mỹ của thơ Thiền
2.1. Góc bể chân trời là nơi nuôi dưỡng chân tính của ta -
Quan niệm của Phật giáo về khách thể thẩm mỹ
Nếu như Nho gia về với thiên nhiên như tìm về nơi bảo tồn
thiên tính của mình, thì Thiền gia cũng tìm đến thiên nhiên như trở về cái bản
thể, tự tính của con người. Thiền gia nhìn thấy ở thiên nhiên vật báu mà con người
do vô minh, do lòng tham dục đã làm mất đi, đó là cái chân như, tự tính.
Thiên nhiên trong thơ Thiền gia cũng mang tính chất là những
biểu tượng để Thiền gia chuyển tải các tư tưởng Thiền như: quan niệm về sinh tử,
sắc - không, chân như....Có những bài thơ Thiền mang một loạt hình ảnh thiên
nhiên nhưng mục đích cuối cùng của Thiền gia không phảI là miêu tả chính thiên
nhiên đó mà là dùng thiên nhiên như một "công cụ ngoại hóa" mang tải
những tư tưởng của Thiền Tông. Để lĩnh hội Thiền ý trong mỗi bài thơ, người đọc
không thể không thông qua một quá trình "giải mã" các hình tượng được
Thiền gia sử dụng.
Trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ, xu hướng dùng hình ảnh thiên
nhiên bộc lộ thiền ý là hết sức rõ:
Sinh tử do lai bãi vấn trình,
Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành.
Sơn vân dã hữu xuất sơn thế,
Giản thuỷ chung vô đầu giản thanh.
Tuế tuế hoa tuỳ tam nguyệt tiếu,
Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh.
A thuỳ hôI đắc nương sinh diện,
Thuỷ tín nhân thiên tổng giả danh.
(Thôi đừng hỏi lai lịch về con đường sống chết làm gì,
Thời tiết của nhân duyên cứ tự nó hình thành.
Mây núi đã có cái thế bay ra khỏi núi,
Nước suối không tiếng nào không phảI là tiếng nước gieo vào
lòng suối.
Hàng năm, hoa vẫn nở vào tháng ba,
Sáng sớm gà vẫn gáy vào canh năm.
Ai là người hiểu được mặt người mẹ,
Mới tin rằng người và trời đều giả danh.)
Bài thơ dùng hàng loạt hình ảnh tự nhiên như: mây núi, nước
suối, gà gáy, hoa nở. Nhưng tất cả các hình ảnh ấy không được dùng để bàn về vấn
đề "thời tiết" của tự nhiên mà chính là để nói về "lai lịch con
đường sống chết" - một vấn đề không chỉ đạo Phật mà các tôn giáo khác đều
rất quan tâm. Trong cách lý giải của Tuệ Trung Thượng sĩ thì sống chết của con
người hay sự thay đổi thời tiết của tự nhiên cũng là từ "nhân duyên"
mà ra, giống như mây núi tất bay ra khỏi núi, nước suối tất gieo vào lòng suối,
hoa nở vào tháng ba, gà gáy vào canh năm, nào ai có thể biết được lai lịch, nguồn
gốc của chúng ra sao. Xem vậy thì sự sống chết của "người" cũng như
những biến đổi của thời tiết của "trời" vốn cũng chỉ là "giả
danh", không phảI là chân thực, đều từ cái tâm vọng niệm của con người mà
ra cả, khi nắm được bản lai diện mục thì tất không cần quan tâm về vấn đề sống
chết làm gì, thấy "sinh tử nhàn nhi dĩ" mà thôi. Bằng một loạt hình ảnh
thiên nhiên Tuệ Trung thượng sĩ đã chuyển tải tư tưởng phủ định tính chân thật
của vấn đề sinh tử.
Trong bài "thị chúng" cũng bằng một loạt hình ảnh
thiên nhiên, Thượng sĩ lại lý giải về một vấn đề khác:
Hưu tầm Thiếu Thất dữ Tào khê,
Thể tính minh minh vị hữu mê.
Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận,
Thiên phong xuy bất giản cao đê.
Thu quang hắc bạch tuỳ duyên sắc,
Liên nhị hồng hương bất trước nê,
Diệu khúc bản lai tu cử xướng,
Mạc tầm Nam Bắc dữ Đông Tê (Tây).
(Đừng có tìm Thiếu Thất với Tào Khê,
Thể tính vằng vặc chưa có mê lầm.
Mặt trăng xưa soi kể gì xa hay gần,
Gió trời thổi nào chọn nơI cao hay thấp.
ánh sáng mùa thu lúc đen lúc trắng tuỳ theo duyên sắc,
Nhị sen đỏ thơm chẳng nhuốm bùn.
Khúc kỳ diệu của bản lai nên cất giọng hát,
Chẳng phảI tìm ở Nam, Bắc với Đông, Tây)
Bài thơ là một lời "gợi bảo mọi người" về vấn đề tự
tính, bản thể của con người. Thượng sĩ khuyên mọi người đừng nên đi tìm tự
tính, chân như ở ngoài tâm ta. Bởi vì thể tính là trong sáng vằng vặc và mỗi
người đều có nó như là mặt trăng soi thì đâu phân biệt xa, gần, gió thổi đâu
phân biệt nơi cao thấp. Tuỳ vào "duyên" mà mỗi người chứng ngộ theo một
cách khác nhau, không thể cầu cái tâm ấy ở bên ngoài ta. Đây chính là một tư tưởng
rất cơ bản của Thiền tông được tác giả chuyển tải một cách đầy hình ảnh và mang
sức rung động lòng người.
Trong thơ Trần Nhân Tông, xu hướng dùng thiên nhiên để mang tảI
thiền ý bộc lộ không rõ ràng như trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ. Thơ thiên nhiên
của ông ít khi sử dụng những thuật ngữ Phật giáo và thường để ngộ được Thiền ý
trong đó không phảI là đơn giản. Chẳng hạn trong bài thơ nổi tiếng "Thiên
trường vãn vọng" (Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường) của ông:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song quy hạ đ iền.
(Trước thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Bên bóng chiều [cảnh vật] nửa như có nửa như không,
Trong tiếng sáo mục đồng lùa trâu về hết,
Cả bài thơ không hề dùng một điển tích Phật giáo nào, cảnh vật
cũng chỉ là một làng quê hết sức bình thường. Nhưng trong cái tưởng như bình
thường đó lại chứa đựng cả một quan niệm về thế giới của tác giả. Thôn xóm như
được bao phủ bởi một lớp sương huyền ảo, trở nên "mờ mờ" không rõ
ràng. Cảnh vật cũng ở trạng thái không hề xác định "nửa như có" mà
cũng "nửa như không" trong ánh chiều tà của một ngày. Trên cánh đồng,
trẻ mục đồng dắt trâu về trong tiếng sáo: cái có lại chuyển dần thành cái
không. Trên nền "không" của cánh đồng đó, lại xuất hiện một cái
"có": đôi cò trắng song song đáp xuống đồng. Tất cả nằm giữa hai bờ
hư thực, vừa mờ ảo như được phủ trong khói, vừa rõ ràng đến mức trông thấy cả
đôi cò đáp xuống cánh đồng mênh mông.
2.2. Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền - cái đẹp của tâm cảnh
siêu việt
Đọc thơ Thiền, chúng ta thường có chung một cảm giác thế giới
thơ Thiền là một thế giới thiếu vắng hình bang con người. ấn tượng này đặc biệt
rõ rệt trong thơ của vị đầu đà Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Trong thơ của nhà Nho, hình ảnh con người có thể không hiện
lên trên bình diện câu chữ (kiểu câu giản lược đại từ nhân xưng là rất quen thuộc
trong thơ cổ) thì hình bóng con người vẫn hiện ra, hoặc bằng những từ chỉ động
tác như: trèo, lên, ngoảnh, bước, chèo (thuyền)... hoặc bằng những từ chỉ trạng
thái tâm lý như: nhớ, buồn, tiếc... Không những vậy, thiên nhiên trong thơ Nho
gia cũng rất hay được đặt trong thế so sánh với hình ảnh con người: hoa mai gợi
ra khuôn mặt của Thái Chân, Cô Dịch, núi non được ví như mái tóc xanh (Dục Thúy sơn - thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, Đà Giang tiểu bạc - thơ chữ Hán Lê Thánh
Tông)... Từ bức tranh thiên nhiên trong thơ, bức tranh tâm trạng của tác giả
thường cũng hiện lên rất rõ.
Trong thơ thiên nhiên của Thiền gia hình ảnh con người thường
ít xuất hiện hơn. Khi xuất hiện thì cũng ở những trạng thái như: ngủ dậy, đứng,
tựa, không hỏi, ngồi, ngắm, không biết, không ngờ... (thơ Trần Nhân Tông).
Dường như không còn bóng vết của con người trần thế với những tình cảm, cách
suy nghĩ, nói năng đi lại thường tình. Con người trong thơ thiên nhiên của Thiền
gia là con người đã "khám phá được bộ mặt chúa xuân", thấy được cái vô thường trong cái tàn nở, đắc thất của thiên nhiên và hướng tới một thái độ
"đối cảnh vô tâm":
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn.
Hoa tàn vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề đIúu hựu xuân tàn.
(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sáng,
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm.
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch,
Một tiếng chim kêu lại cảnh xuân tàn)
(Sơn Phòng mạn hứng - bài 2 - Trần Nhân Tông).
Hoa đã rụng hết, mưa đã tạnh, chỉ còn lại núi non yên tĩnh.
Lòng thị phi, danh lợi của con người cũng theo hoa rụng xuống, theo mưa rửa sạch
trơn, chỉ còn lại một cái "tâm bản thể" yên tĩnh, thường nhiên đối diện
với cảnh vật. Kết thúc bài thơ hình ảnh "một tiếng chim kêu lại cảnh xuân
tàn" như sự bắt đầu một vòng luân hồi mới trong vũ trụ, nhưng con người với
cái tâm "tịch mịch" đã có thể đón nhận cái vòng luân hồi, tàn lụi đó
với một thái độ "nhậm vận", không buồn đau, không bi luỵ.
Trong thơ Thiền, con người hòa làm một vào thiên nhiên, xóa bỏ
ranh giới giữa "ta" và "vật", giữa "nội tâm" và
"ngoại cảnh", con người tồn tại trong một trạng thái như nhiên,
"vật ngã lưỡng vong":
Địa tịch đài du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận,
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thuỷ lưu thủy,
Bách niên tâm ngữ tâm.
Û lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mán hung khâm.
(Đất hẻo lánh, đài thêm cổ kính,
Theo thời tiết mùa xuân về chưa lâu.
Núi mây như xa như gần,
Ngõ hoa nửa rợp nửa nắng.
Muôn việc như nước tuôn nước,
Trăm năm lòng lại nhủ lòng.
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc)
(Đăng Bảo Đài Sơn - Trần Nhân Tông)
Cảnh vật ở trong một trạng thái vô cùng tĩnh lặng, và cũng nằm
giữa hai bờ hư - thực: xuân về chưa lâu, mây như xa như gần, hoa nửa rợp nửa nắng.
Trên nền thiên nhiên đầy chất siêu việt đó, hình ảnh con người hiện lên như được
"tạc" vĩnh viễn vào thiên nhiên trong trạng thái vô nhân ý "tựa
lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc" và trong một sự hòa nhập tuyệt diệu giữa
con người với thiên nhiên "ánh trăng sáng chan hòa trước ngực". Cả
con người, cả ánh trăng, cả mây núi, cả hoa, cả nắng... dường như cùng hòa vào
nhau tồn tại trong một mùa xuân vĩnh cửu, trong một không gian siêu thế, an
tĩnh, hằng nhiên, đứng ngoài dòng đời không ngừng chảy trôi như "nước tuôn
nước".
Trong bài "Xuân cảnh" của Trần Nhân Tông chúng ta
cũng bắt gặp một hình ảnh con người trong trạng thái vô ngôn, vô sự đối diện với
cảnh:
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
(Khách đến chơI không hỏi việc đời,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở phía chân trời).
Nếu như đối với cuộc đời, Thiền gia hướng tới sự xóa bỏ mọi vọng
niệm, mọi sự phân biệt giữa Phật - chúng sinh, niết bàn - luân hồi, sinh - tử... thì
trong bộ phận thơ thiên nhiên họ cũng hướng tới sự đả thông khoảng cách giữa chủ
thể và khách thể, giữa con người và môi trường, tiếp cận thiên nhiên bằng cái
tâm giác ngộ, bản thể.
2.3. Đến xứ cởi trần thì bỏ áo - Quan niệm về cái đẹp nhậm
vận tùy duyên.
Thiên nhiên trong thơ Thiền gia mang vẻ đẹp của một sự thuận ứng,
nó cũng "hòa kỳ quang, đồng kỳ trần" với môi trường xung quanh, vươn
tới xóa đi sự cách biệt. Thiên nhiên đó không cố vươn lên để khắc phục vòng
luân hồi vốn có của vũ trụ, cũng tàn nở theo mùa. Nhưng cũng như con người Thiền
gia - giải thoát mà không đi ra ngoài nhân thế - thiên nhiên trong thơ Thiền vẫn
đẹp trong cái sự tàn nở vô thường của mình và chính trong đó, vẻ đẹp tự tính của
chúng được phát lộ.
Y cẩu phù vân biến tháI đa,
Du du đô phó mộng Nam - kha.
Sương dung tẩy hạ hà phương trạm,
Phong sắc lai xuân mai dĩ hoa.
Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh,
Đông lưu phó hải khởi hồi ba.
Quân khan vương tạ lâu tiền yến,
Kim nhập tầm thường bách tính gia.
(Cuộc đời như đám mây nổi luôn luôn đổi thay nhiều vẻ,
Mơ màng đành phó cho giấc mộng Nam - kha.
Vẻ sương tắm hạ sen mới đâm bông,
Sắc gió vời xuân đến mai đã nở hoa.
Mặt trăng phương Tây đã chìm xuống chân trời thì bang trăng
khó quay trở lại,
Dòng đông đã ra tới biển thì sóng nước há có thể trở về.
Anh hãy xem đàn én trước lầu họ Vương, họ Tạ,
Nay đỗ xuống ở nhà trăm họ bình thường.
Cuộc đời con người, công danh trong đời chỉ giống như một áng
mây nổi, một giấc mộng đẹp mà ngắn ngủi. Đàn én trước lầu họ Vương, họ Tạ - hai
gia đình quyền quý xưa kia - nay cũng theo cái tan tác của họ mà bay đỗ xuống
nhà thường dân. Vẻ đẹp trên đời cũng vậy, mong manh không gì là bền lâu: sương
vừa tan, hạ tới hoa sen "mới đâm bông" thì thoắt cái gió mang theo
mùa xuân đến, thay vào hoa sen là hoa mai. Thời gian trôi đi thì không thể lấy
lại, như mặt trăng đã lặn thì ngày không thể kéo lại, nước đã ra tới biển Đông
cũng không thể trở về. Diễn tả cái "hư ảo" của thói đời, của thiên
nhiên nhưng bài thơ không mang lại cho người đọc một cảm giác bi quan hay một
ham muốn níu giữ, ngược lại tiếp nhận cái hư huyễn đó như một tất yếu. Và đọng
lại trong chúng ta là những rung cảm trước vẻ đẹp dù ngắn ngủi nhưng vẫn rất
đáng trân trọng.
Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lâm phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quan như thuỷ khát cầm sầu.
Hằng nga nhược thức hoa giai xứ,
Quế lãnh Thiềm bàn chỉ má hưu.
(Năm cánh hoa tròn nhị đIểm vàng,
[như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi.
Cành hoa trắng xoá suốt trong ba tháng đông,
Sang đầu xuân chỉ còn loáng thoáng một vàI cánh thơm nhẹ.
Móc ngọt chảy mùi thơm làm chú bướm si ngây tỉnh giấc,
ánh sáng ban đêm như nước khiến con chim khát buồn rầu.
Nếu Hằng nga biết được vẻ đẹp thanh nhã của hoa mai)
(Tảo mai - bài 1).
Vịnh hoa mai vốn là một chủ đề rất quen thuộc trong thơ nhà
Nho. Nhưng trong bài thơ này, Trần Nhân Tông không nhìn hoa mai dưới cùng góc độ
nhà Nho: hoa mai không phải là một biểu tượng của sự vượt qua giá rét. Theo thời
gian, cành hoa mai hôm nào nở "trắng xóa suốt ba tháng đông", giờ chỉ
còn "loáng thoáng vài cánh thơm nhẹ", nó cũng không đứng ngoài quy luật
của các loài hoa khác có lúc nở rộ thì cũng có khi tàn. Nhưng chỉ vài cánh hoa
còn lại cũng đủ sức hấp dẫn mê hồn khiến: mùi thơm khiến "chú bướm si
ngây" phảI tỉnh giấc, vẻ tinh khiết đủ khiến "con chim khát buồn rầu".
Và khiến cho nàng Hằng Nga, với cuộc đời bất tử trên chốn tiên cảnh cũng không
khỏi thấy sự lạnh lẽo của cung Thiềm. Còn lại vài cánh hoa nhưng là những cánh
hoa "bản thể" đằng sau tất cả những cái tàn nở thông thường. Vì thế
mà bài thơ tuy có nói đến cái vô thường của cái đẹp nhưng không đem đến cảm xúc
tiếc thương, thay vào đó là một ấn tượng trong trẻo, tinh khiết.
2.4. Chống gậy nhởn nhơ ngoài thế gian - cái đẹp
cõi ở ngoài cõi, phương ở ngoài phương.
So thiên nhiên trong thơ của Nho gia, thiên nhiên trong thơ
Thiền thường ít màu sắc, đường nét hơn. Cái mà Thiền gia hướng tới trong cuộc đời
tu tập của mình là dứt bỏ mọi vọng niệm, đạt tới cái tâm bản thể, chân như.
Dùng tâm đó soi chiếu lên cảnh vật thì một lẽ dĩ nhiên là cảnh vật cũng sẽ hết
sức tĩnh lặng. Đọc thơ Thiền người ta cảm nhận được rất rõ cảm giác yên tĩnh, tự
tại trong nội tâm mình. Thiên nhiên trong thơ Thiền thường giống như trong một
bức tranh, trong đó một khoảnh khắc ngắn ngủi, một "sát na" trong vũ
trụ mênh mông được kết đọng lại, trở nên vĩnh cửu.
Trong vũ trụ thiên nhiên ấy, dường như đám mây cũng ngưng kết
lại trong không gian, những âm thanh cũng đọng lại không tan, một chiếc lá rơi tưởng như không bao giờ chạm đất..:
Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành,
Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh.
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc,
Thấp vân như mộng viễn chung thanh.
(Chiếc cầu chạm vẽ đảo bóng vắt qua dòng suối,
Một vệt nắng chiều rực sáng bên ngoài ngấn nước,
Nghìn núi lặng tờ, lá đỏ rơi,
Mây ướt giăng như mộng tiếng chuông xa vẳng.)
Cảnh vật ở trong một trạng thái tĩnh lặng vô cùng: chiếc cầu
đảo bóng yên lặng soi xuống dòng suối, vệt nắng của buổi chiều tà như ngưng đọng
lại bên ngoài ngấn nước, những chiếc lá nhỏ bé rơi cũng mất hút vào không gian
mênh mông của "nghìn núi". Có tiếng chuông nhưng là tiếng chuông vẳng
từ một nơi rất xa, dường như từ một thế giới khác chỉ tăng thêm sự tĩnh lặng của
bức tranh cảnh. Vơi bài thơ, một khoảnh khắc chiều tà trở nên vĩnh cửu.
Đó cũng là cảm giác của chúng ta khi đọc bàI "Lạng Châu
vãn cảnh" của Trần Nhân Tông:
Cổ tự thê lương thu ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.
Thuỷ minh, sơn tĩnh, bạch âu quá,
phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ.
(NgôI chùa cổ lạnh lẽo sau lớp khói mùa thu,
Thuyền câu hiu quạnh, chuông chiều bắt đầu đIểm.
Nước trong, núi lặng, chim âu trắng bay qua,
Gió im, mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ.)
Cảnh vật dường như bay biến hết màu sắc, có thuyền câu nhưng
không có hình ảnh con người, tất cả như có đấy mà lại như không. Cái lạnh lẽo
và đìu hiu của một buổi chiều thu như thấm vào cảm nhận của người đọc.
Trong thơ thiên nhiên của Thiền gia, tất cả sự vật vẫn được gọi
bằng những khái niệm quen thuộc với chúng ta: nước, hoa, mây, núi... Nhưng bằng
những khái niệm thực ấy, Thiền gia lại hướng tới miêu tả một thế giới không thực,
đúng hơn là siêu thực. Cất mình khỏi nhân gian đầy bụi bặm thăng hoa vào một
"cõi ngoại cõi, phương ngoại phương":
Ngũ nhật kinh bàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn.
ảnh hoành thuỷ diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thuý vũ ca trầm sơn đIừm nguyệt,
Hoạ long xuy thấp ngọc - quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.
(Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa,
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước băng giá bắt đầu tan,
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ.
Giọng ca thuý vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi,
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân,
Tỉnh dậy không thể đem tặng anh được)
(Tảo mai - bài 2)
Không gian trong bài thơ dần dần được kéo về cõi "mộng":
từ không gian của một buổi sáng mùa xuân "băng giá bắt đầu tan",
"hơi ấm chưa định rõ" được nâng lên một không gian huyền ảo với âm
thanh của "giọng ca Thúy vũ", "tiếng sáo Ngọc long".
Đến cuối bài thơ, cành hoa mai đã trở thành cành hoa "lạc vào giấc mộng cố
nhân". Rốt cuộc là cành hoa mai thực hay mộng thật khó nói.
Tuệ Trung Thượng sĩ trong bài thơ "Giang hồ tự
thích" cũng đã làm một "cuộc dạo chơi ngoài cõi thế", không chỉ
cưỡi thuyền vượt "sông dài" mà còn vượt qua "bến trần gian"
để đến xứ sở thần tiên:
Tiểu dĩnh trường giang đãng dạng phù,
Du dương trạo bát quá than đầu.
Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn,
Chắc giác thu phong biến thập châu.
(Thuyền nhỏ lênh đênh trên dòng sông dài,
MáI chèo nhịp nhàng lướt qua đầu ghềnh.
Từ đâu vẳng lại một tiếng nhạn mới,
Bất giác thấy gió thu thổi khắp mười cõi.)
Nếu so với thơ Thiên nhiên của nhà Nho, có lẽ thơ Thiền còn
ít nói đến những từ như "thoát tục", "bồng lai",
"tiên" hơn. Thiên nhiên trong thơ Thiền đôi khi chỉ là một vùng nông
thôn với đồng lúa, cánh cò (Thiên Trường vãn vọng) hay một làng chài (Ngư
nhàn).... Nhưng trên nền không gian hiện thực ấy vẫn rọi chiếu ánh sáng của một
thế giới khác, một thế giới siêu việt thế giới thực tại.
Khi đặt vấn đề so sánh thơ thiên nhiên của hai loại hình tác
gia Thiền gia và Nho gia, chúng ta đứng trước một thực tế là bản thân họ trong
đời sống thực tế không chỉ chịu tác động, chi phối của riêng Nho hay Phật. Thời
đại Lý Trần được coi là thời đại của Tam giáo đồng nguyên. Các Thiền gia không
chỉ là những nhà tu hành mà còn tích cực tham gia vào mọi mặt đời sống, có người
là vua, có người là tướng soái trong triều đình mang.... Sang đến thời Lê Thánh
Tông, Nho giáo đã giữ vị trí chủ đạo, nổi bật, mặc dù vậy, các nhà Nho dù
là chân Nho vẫn không chỉ chịu ảnh hưởng duy nhất của Nho giáo, nhất là đối với
những nhà Nho ẩn dật thì sự phân định các luồng tư tưởng ảnh hưởng tới họ thường
không hề đơn giản.
ở nhiều tác giả trung đại, tinh thần "viên dung Tam
giáo" thể hiện rất rõ và làm nên nét đặc sắc trong cuộc đời cũng như trong
những tác phẩm văn học của họ: Tuệ Trung Thượng sĩ, Thiền sư Vạn Hạnh, Nguyễn
Trãi.... ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang trong các sáng tác của tác giả Trung
đại là một vấn đề cần được nghiên cứu nghiêm túc. Nhưng trong phạm vi một
bài nghiên cứu nhỏ, chúng tôi mới chỉ có đề cập tới một vài ảnh hưởng lẫn nhau
của hai triết thuyết Nho giáo và Phật giáo lên đội ngũ tác giả với mức độ
gợi mở, đặt vấn đề cho một hướng nghiên cứu mà chưa thể có sự giải quyết thấu
đáo.
Xét trong hệ thống chủ đề, chúng ta có thể thấy một sự
xen cài giữa hai Thiền gia và Nho gia. Ví như sự xuất hiện của những hình
tượng tùng, cúc, trúc, mai - những cây vốn rất quen thuộc trong thơ nhà Nho thì
trong các thi phẩm của Thiền gia nó cũng xuất hiện rất nhiều.
Chẳng hạn cây tùng trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ:
Tối ái thanh tùng chủng kỷ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên.
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền.
(Rất yêu cây thông xanh trồng mấy năm trước,
Đừng thở than ở vào địa thế hưu quạnh.
Tài rường cột chưa được dùng người đời chớ lấy làm lạ,
Nơi đây cỏ nội hoa nhàn đầy cả trước mắt)
(Giản để tùng).
ở bài thơ trên, cây tùng cũng tượng trưng cho phẩm chất mà
nhà Nho rất đề cao: tài lương đống, làm trụ cột trong triều đình. Cây tùng ở
vào "vị thế hưu quạnh", phải sống cùng "cỏ nội hoa nhàn",
chưa được sử dụng đúng vị trí làm "rường cột" cũng giống như nhà Nho ẩn
dật chờ thời.
Ngược lại nhà Nho cũng "trồng" không ít cây vốn được
trồng trong vườn thơ của Thiền gia. Bài "cây mộc cận" (hoa râm bụt) của
Nguyễn Trãi là một ví dụ
ánh nước hoa in một đoá hồng.
Vết nhơ chẳng bén bụt làm lòng.
Chiều mai nở chiều hôm rụng,
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.
Hoa râm bụt nhắc đến ông bụt hay đức Phật. Cách miêu tả trong
bài thơ cũng gợi cho ta nhớ đến quan niệm về lẽ sắc không của Phật giáo.
Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong sáng tác của hai loại hình tác
gia trên không chỉ thể hiện ở phương diện chủ đề mà còn trong cả cách thể hiện
hình tượng, ý tưởng, cảm hứng.
Phong cảnh trong bài "Phúc đường cảnh vật" của Tuệ
trung Thượng sĩ dù có hình ảnh "ngọn gió thiền", "mặt trời Phật",
thiền ý mênh mang nhưng rõ ràng vẫn có cái ý vị ẩn dật của một nhà Nho
chưa gặp thời tạm náu mình trong rừng sâu, làm bạn cùng muông thú chờ ngày được
thi thố tài năng giúp đời:
Phúc đường cảnh chí dĩ lang đang,
Lại hữu thiên phong tập tập lương.
Lưu lạc tiêu sơ trìu duẩn sấu,
Môn đình u thuý tịch tung hoang.
Vỵ phùng thì thái hiền nhân xuất,
Tảo vãn lão thiên khai Phật nhật,
Thông môn đào lý lộng xuân quang.
(Phong cảnh Phúc đường thật đã thoáng đãng,
Nhờ có ngọn gió Thiền vi vu mát rượi.
Giậu đổ tiêu đIều, nảy chồi măng gầy,
Sân cổng thâm u kề gốc thông hoang.
Chưa gặp thời thịnh để cho người hiền xuất hiện,
Hãy mừng chốn rừng sâu có muông thú lành ẩn.
Sớm muộn trời già cũng mở mặt trời Phật,
Suốt từ ngõ vào đào mận đùa giỡn ánh xuân.)
Một số bài thơ của Nguyễn Trãi lại chứa đựng Thiền ý sâu sắc,
chẳng hạn bài "Du sơn tự"của ông:
Đoản trạo hệ tà dương,
Thông thôn yết thượng phương.
Vân quy, thiền tháp lãnh,
Hoa lạc giản lưu phương.
Nhật mộ viên thanh cấp,
Sơn không trúc ảnh trường.
Cá trung chân hữu ý,
Dục ngữ hốt hoàn vương.
(mái chèo ngắn buộc trong ánh chiều tà,
Xăm xăm lên thăm cảnh chùa trên núi.
Mây kéo về khiến giường thiền trở lạnh,
Hoa rụng suối chảy đưa mùi hương đi xa
Chiều tối tiếng vượn kêu gấp,
Núi vắng bóng trúc ngã dài.
Trong đây quả có bao tình ý,
Muốn nói bỗng lại quên)
Bài thơ mở đầu bằng một hình tượng siêu thực rất đẹp: mái
chèo buộc vào ánh chiều tà, một cái hữu và một cái vô được "buộc" vào
nhau đã gợi cho ta liên tưởng đến cái hư - thực vốn rất quen thuộc trong thơ
Thiền. Câu "Muốn nói bỗng lại quên" ở cuối bài gợi cho ta đến câu
"Cá trung tư vị vô nhân thức" của Trân Thái Tông và tư tưởng "vô
ngôn", "đốn ngộ" của Thiền.
Lời kết: Tìm hiểu các đặc trưng thẩm mỹ của văn chương
trung đại cả ở bộ phận văn chương nhà nho hay văn chương của các Thiền gia là
công việc hết sức cần thiết. Nó là hướng tiếp cận khả dĩ có thể cho chúng ta hiểu
được chiều sâu của các tác phẩm văn học, đặc trưng của từng loại hình văn
chương. Công việc tìm hiểu không chỉ nhằm vào đối tượng thơ đề vịnh thiên
nhiên, mà nó cần phải được xem xét trên diện rộng các tác phẩm. Công việc này
thực là cấp bách để góp phần đổi mới việc nghiên cứu văn học, nhưng nó là việc
khó cần có thời gian và sự hiểu biết nhất định. Bài viết này của chúng
tôi chỉ có ý nghĩa góp thêm một hướng đi, một cách tiếp cận để nghiên cứu văn học nước nhà.
Nguyễn Kim Sơn - Trần Thị Mỹ Hòa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét