1. Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ”
trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời
chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng
sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai
thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại
“hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!
Nghệ thuật trào phúng, suy cho cùng, là nghệ thuật phát hiện
và diễn tả được những cái bất thường, kỳ dị chứa đựng trong nó mâu thuẫn trào
phúng, rồi cường điệu, phóng to những cái bất thường, kỳ dị ấy lên để gây cười.
Viết về cái “tang gia” “hạnh phúc” trong tiểu thuyết của mình, nhà văn của “rừng
cười nhiệt đới” đã tỏ ra rất thoải mái, ung dung trong khi làm chủ thứ nghệ thuật
này. Thậm chí, ông còn nắm được nhiều bí quyết tạo tiếng cười. Chỉ cần đọc kỹ một
chương, chương XV chẳng hạn, cũng thấy rõ điều này.
Nội dung chương truyện có thể tóm tắt như sau:
Cụ Tổ họ Hồng đã ngoài tám mươi tuổi mà cứ “sống mãi” (!) Đám
con cháu hám danh hám lợi trong nhà chỉ mong cho ông lão này sớm chết. Ước mong
này thành hiện thực khi Xuân Tóc Đỏ – trong một lần “nổi giận” vì tự ái, đã om
sòm “tố cáo” trước mặt mọi người rằng ông Phán dây thép, cháu rể cụ Tổ (chồng
cô Hoàng Hôn) là “một người chồng mọc sừng”. Việc tố cáo đó – thực ra, do ông
Phán dây thép thuê Xuân làm với giá 10 đồng – đã trực tiếp gây ra cái “chết thật”
của cụ cố Tổ và có cái đám tang kì lạ này.
Tên đầy đủ của chương truyện này có vẻ rườm rà và thiếu mạch
lạc một cách đầy dụng ý: Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng
nói vào – Một đám ma gương mẫu. Thật là một cái tên xứng với những gì mà nhà
văn miêu tả, trần thuật và muốn nói trong chương truyện. Nó chứa đựng cái bất
thường mang mâu thuẫn trào phúng (“Hạnh phúc của một tang gia…”.), nó dự báo những
bất đồng giữa “phái trẻ”, “phái già” cần phải hòa giải (Văn Minh nữa cũng nói
vào…), và nó bao hàm cả cái “chuẩn mực” đáng hãnh diện và đáng cho những đám ma
khác phải noi theo (Một đám ma gương mẫu).
Tuy nhiên, chỉ riêng sáu chữ Hạnh phúc của một tang
gia thôi cũng đã cô đặc trong đó những cái bất thường và những mâu thuẫn
trào phúng của toàn bộ màn hài kịch hoành tráng mà các nhân vật Số đỏ đang
diễn trong chương này.
Mất người thân là mất mát không gì bù đắp được, nỗi buồn của
tang gia thường được xem là nỗi buồn sâu sắc nhất – thành ngữ dân gian thường
ví von “buồn như cha chết”, “buồn như nhà có đám”; còn chủ nhân những nhà có
đám tang thường được xem là “khổ chủ” – cho nên, hai chữ tang gia thường
gợi lên cả một cộng đồng gia đình khổ đau, bất hạnh.
Nhưng cái tang gia này thì lại không thế: Cả tang gia ai cũng
hạnh phúc, vui sướng. Niềm hạnh phúc, vui sướng toát ra từ không khí và bức
tranh toàn cảnh của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, những lời bình, lời kể
hài hước của tác giả, kiểu như “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm”
hay “tang gia ai cũng vui vẻ cả”, “người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê
kèn đám ma”,… được sử dụng khá dày đặc trong đoạn trích.
Niềm hạnh phúc, vui sướng của tang gia, khi thì lộ liễu, khi
lại kín đáo, toát ra từ từng khuôn mặt khôi hài, tạo thành những bức biếm họa độc
đáo. Ông Phán-mọc-sừng, ông cháu rể “quý hóa” của “người chết” thì sung sướng
vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch tận dụng sự hoang dâm tai tiếng của
vợ ông làm vũ khí “đào mỏ”, đã thành công mỹ mãn không ngờ. Nhờ có cái “chết thật”
của ông nội vợ mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ
chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không
ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”.
Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng “chí hiếu” của “người chết”
thì sung sướng đến ngây ngất, vì nhờ cái “chết thật” của cha mình, nhờ có đám
tang này mà cái danh giá sang trọng của ông sẽ được nâng lên nhiều bậc. Cụ “nhắm
nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa
ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: – Úi kìa, con giai nhớn đã
già đến thế kia kìa!”. Và, “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một
cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…”.
Văn Minh (chồng), ông cháu đích tôn “chí hiếu” của “người chết”
thì chỉ nóng lòng “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi”. Ông
sung sướng, vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mình mà “cái chúc thư” chia của
kia sẽ có hiệu lực thật sự “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.
Rồi, cậu Tú Tân sung sướng vì nhờ cái “chết thật” của ông nội
mà sắp được dùng đến mấy cái máy ảnh mới mua; Văn Minh (vợ) sung sướng bởi sắp
được chưng diện mốt tang phục mới; ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê
các mẫu thời trang mà ông dày công thiết kế cho đám tang, v.v.
Con cháu trong nhà, mỗi người một niềm hạnh phúc riêng đã
đành, ngay đến các ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ cái “chết thật” của cụ
tổ mà được thơm lây: họ “sung sướng cực điểm”, “vì được có đám thuê”, “đã trông
nom rất hết lòng”.
Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc
xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có
người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”
Cụ bà thì “sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại
giúp đám, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể đã là danh giá nhất tất cả”.
Đó là chưa kể, các “giai thanh gái lịch” Hà thành, nhờ có đám
tang mà được “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen
tuông nhau, hẹn hò nhau,…”; các quý ông “tai to mặt lớn” thì được dịp phô diễn
râu ria đủ kiểu trên cằm trên mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực,
trên mình v.v.
Thậm chí, đến cả “cụ tổ” cũng nhờ cái “chết thật” của chính
mình mà được sung sướng:
“Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm
trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”
Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kỳ dị, thậm chí quái gở
này, qua ngòi bút Vũ Trọng Phụng, như có sức lây lan rất rộng, rất sâu: từ người
bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang gia đến người ngoài tang gia, từ
“khổ chủ” đến khách “đi đưa” đám, từ người sống đến “người chết”. Nó lại được
duy trì bền bỉ đậm đặc từ hết trang nọ tới trang kia theo diễn biến của đám
tang, từ lúc “phát phục” đến khi “cất đám”, “đưa đám”, và đến cả khi “hạ huyệt”.
Xem thế đủ thấy niềm hạnh phúc mà cái chết kia mang lại thật
là vô bờ bến và niềm sung sướng đúng là không còn bỏ sót ai. Vũ Trọng Phụng quả
là người thích đùa và rất biết đùa.
2. Trong đám ma, niềm vui là thật, nỗi buồn là giả, cũng
có nghĩa rằng cái đám ma kia tất cả là giả. Cái khó của nhà văn là phải lật tẩy
sao cho người ta thấy rõ cái giả ấy đã đành mà còn phải thấy cả tính chất lập lờ
giữa cái giả với cái thật.
Đã là cái giả, cái rởm thì phải mô phỏng cái thật, cố tình giống
thật nhưng thường không bao giờ hoàn toàn giống thật. Thế là xuất hiện mâu thuẫn.
Rốt cuộc thì rồi chân tướng thật, giả cũng đến lúc phải tự phơi bày. Một đám ma
mà thiếu sự buồn đau và lòng thương tiếc chân thành, thì dù “to tát”, “danh
giá” đến đâu, cũng chỉ là thứ trò diễn nhố nhăng, không thể gọi là đám ma đã
đành mà cũng không thể gọi là đám rước đám hội. Mâu thuẫn thật-giả được
nhà văn khai thác khá triệt để nhằm phóng to cái bất thường, kỳ dị làm bật ra
tiếng cười phê phán.
Quả thật, trong cái xã hội “số đỏ” đầy rẫy những thứ rởm đời
bấy giờ, không có cái gì là không làm giả, làm rởm được. Một khi
đã có bằng sắc rởm; nghệ thuật, thi ca, khoa học rởm; văn minh “Âu hóa” rởm;
tôn giáo rởm,… thì cũng có thể có chuyện buồn đau, tang chế rởm lắm chứ. Tuy
nhiên, dưới ngòi bút tinh tường, sắc sảo của nhà văn, tất cả, cuối cùng, sự thật
đã trở lại đúng với bản chất của nó.
Câu văn mở đầu đoạn trích hàm chứa một sự đối chiếu thật
– giả rất thâm thúy: “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.”. Nhìn từ phía tác
giả, câu văn này ẩn giấu một nụ cười châm biếm (chết mà cũng có “chết thật”, chết
giả?). Nhìn từ phía nhân vật (đám cháu con chí hiếu) nó ẩn giấu một tiếng reo mừng.
Cụ tổ hẳn đã có những phen “chết giả” làm cho đám cháu con kia hụt hẫng thất vọng,
và cả tang gia đã chờ đợi cái “chết thật” này quá lâu rồi. Cho nên, khi ông cụ
“chết thật” thì người ta tất phải vui sướng hạnh phúc tột cùng. Và, tang gia
“ai cũng” “hạnh phúc”, “vui vẻ cả”…, nhận xét này đã vang lên trong chương truyện
như là một điệp khúc đầy mỉa mai.
Mỉa mai hơn, trong khi “đưa đám” người ta cũng thoáng thấy
đây đó những gương mặt buồn, nhưng buồn hoàn toàn là vì những cớ khác. Ông Văn
Minh có vẻ mặt “đăm chiêu” buồn là vì ông mải nghĩ đến việc “thực hành” cái
“chúc thư kia”. Tuyết buồn “lãng mạn” là vì “không thấy bạn giai đâu cả”. Các
quí ông “tai to mặt lớn” cảm động không phải vì nghe “tiếng kèn Xuân nữ ai oán
não nùng”, mà vì trông thấy “làn da trắng thập thò” trên cánh tay và trên ngực
tuyết,…
Lúc hạ huyệt, người ta cũng nghe thấy có tiếng khóc. Nhưng chỉ
là tiếng khóc nhằm thu hút sự chú ý của mọi người, không phải xuất phát từ trái
tim, cất lên từ đáy lòng. Cụ Hồng khóc là cốt để người ta phải chú ý đến và
khen cái gậy trong tay cụ và trầm trồ khen rằng “con giai nhớn đã già đến thế
kia”. Ong Phán mọc sừng khóc “Hứt…! Hứt…! Hứt…!”, “oặt cả người đi” là cốt để
người ta phải tưởng rằng, ông là một chàng cháu rể “quý hóa”.
Trong khi kể về “hạnh phúc” của “tang gia”, một mặt, tôn trọng
hiện thực, Vũ Trọng Phụng cố tình tạo ra sự mập mờ giữa cái thật và cái giả
đúng như cái hiện thực xã hội vốn có: vàng thau lẫn lộn, đen trắng mập mờ.
Nhưng mặt khác, ông cũng tỉnh táo vạch ra những đường biên cần
thiết, giữa vàng thau, đen trắng và lật tẩy cái giả một cách thật tài tình.
Cả đám tang thực ra chỉ là một màn kịch, một trò diễn lớn, được
dàn dựng theo đúng ý của người nọ người kia. Các cụm từ “đúng với ý muốn…”,
“như ý…” trong đoạn văn sau được dùng rất ý vị nhằm lật tẩy tính chất trò diễn ấy
của đám ma:
“Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý
muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm
may Âu hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh.”,…
“Ý muốn của cụ cố Hồng”, “ý ông Typn và bà Văn Minh” gợi nhớ
đến ý của cậu Tú Tân qua hành vi: “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy,
hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế nọ,… để cậu
chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.”. Vũ Trọng Phụng như nhà nhiếp ảnh đã “chụp ảnh”-
nghĩa là bấm đúng lúc- và lật tẩy được tất cả.
Nói chung, sự lật tẩy của tác giả càng bất ngờ thì càng thú vị,
hài hước. Đọc chương truyện, có cảm giác như không một hành vi giả tạo nào của
đám con cháu “chí hiếu” – dù rất nhỏ – qua được mắt ông. Nhưng điều đặc biệt
thú vị là sự lật tẩy của nhà văn thường tạo được bất ngờ. Nhờ thế, tiếng cười mỉa
mai bật ra một cách tự nhiên, sâu sắc. Ong lật tẩy Văn Minh chồng:
“Ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu
chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng với cái mặt
một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.”
“Hôm nay, Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng
trong có coócsê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một
cái mũ mấn xinh xinh. Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ
Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Với
cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt
lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám.”
Ong lật tẩy “các ông tai to mặt lớn”:
“… Nhiều ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi
trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết,
ai nấy cũng đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng.”
Ong lật tẩy cả đám đông:
“Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn
thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một
cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều
tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân… Thật
là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm
nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của
những người đi đưa ma.”
Ong lật tẩy cả bầy con cháu “chí hiếu”:
“Một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng
cái xác chết của cụ tổ.”
Và sắc sảo, bất ngờ nhất là việc ông lật tẩy cuộc “thanh toán
hợp đồng” kín đáo, tinh vi giữa ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ:
“Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông
phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng mếu máo và ngất đi thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!…
Hứt!…”.
Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy.
Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó
chật vật mãi cũng không làm sao cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng
to tướng, cái áo thụng lòe xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.
Xuân tóc đỏ muốn bỏ quách tay ra thì chợt thấy ông phán dúi
tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy
rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về
những điều sơ suất của khổ chủ.”
3. Cái nhìn trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng thường
tìm đến với các hình thức nghệ thuật tương xứng. Từ cách bố cục kếu cấu đến
cách sử dụng ngôn từ của ông đều đậm chất muối trào phúng.
Ở cấp độ kết cấu, hai thủ pháp chủ yếu thường được nhà văn sử
dụng khá đắt: a) kết hợp tả viễn cảnh với tả cận cảnh; b) tạo tình huống kịch
tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện.
Việc kết hợp tả viễn cảnh với cận cảnh mang tính nghệ thuật
cao nhất là đoạn kể về việc “cất đám”, “đưa đám” và “hạ huyệt”. Ở đó, sự kết hợp
tự nhiên giữa cận và viễn rất hài hòa, tự nhiên,
nhưng viễn hay cận đều có chức năng nghệ thuật riêng. Các
câu, đoạn tả viễn cảnh - chẳng hạn: “Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy….”,
“Đám cứ đi…”, “Đám cứ đi…”- thường làm cho người ta có cái cảm giác là
đám ma rất to tát, linh đình, “gương mẫu”. (Mà người đời thì vẫn hay đo lòng hiếu
nghĩa của tang gia bằng mức độ to tát, linh đình ấy). Trong khi đó, các câu, đoạn
tả cận cảnh và đôi khi đặc tả, thì lại làm cho người ta có thể soi vào từng góc
khuất, hay hành vi, chi tiết nhỏ nhất để thấy hết cái giả dối, rởm đời, nhố
nhăng, kỳ quặc và “vô nghĩa lý” của cái đám tang này. Rõ ràng là chỉ khi soi mắt
nhìn vào từng góc khuất, từng hành vi nhỏ nhặt thì mới thấy được sự thật này: “Ai
cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện
trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may.”, hoặc: “Xuân
Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm
đồng gấp tư…”.
Vậy là, nhìn từ cự ly xa nhà văn thâu tóm được trung thành
cái bề ngoài có vẻ giống thật, thậm chí rất “gương mẫu”, “to tát” của đám
ma. Còn nhìn từ cự ly gần, thật gần nhà văn đã lật tẩy cái giả, cái thực
chất chứa đựng và được che đậy ở bên trong của nó: sự bất hiếu, bất nghĩa và
thói đạo đức giả. Tiếng cười đã bật ra, rất tự nhiên, từ mâu thuẫn thật-
giả này.
Bên cạnh việc kết hợp giữa miêu tả viễn và cận cạnh, nhà văn
còn sử dụng hợp lý kỹ thuật tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần
thiết cho câu chuyện. Chẳng hạn, sau khi ông già “chết thật”, đã “được quan
trên khám đã qua loa”, niềm vui của đám cháu con tưởng đã có thể nở rộ, thì vì
một lý do nào đó, sự sung sướng có nguy cơ bị hoãn lại. Lập tức có bao nhiêu phản
ứng chỉ trích lẫn nhau giữa “phái trẻ” với “phái già”:
“Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng
phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái
máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi
không được mặc đồ xô gai tân thơi, cái mũ mấn trắng viền đen - dernières
créations. Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng-xê ra thì
có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút
ít hạnh phúc ở đời. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo
của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi
cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hoãn, cụ cố Hồng cứ
nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi.
Vậy đấy, người trong tang gia đã phải “la ó lên…”, “điên người
lên…”, sốt cả ruột”, “rất bực mình”, “đổ lỗi cho…”, “kêu khổ lắm”,… Câu chuyện
trở nên căng thẳng và giàu kịch tính hẳn lên. Lệnh phát phục chỉ mới trì hoãn
có một ngày mà người ta đã bực dọc, sốt ruột, đau khổ như vậy, giả sử ông già
tám mươi này cứ “sống mãi” thì họ còn bực dọc, sốt ruột, đau khổ đến mức nào.
Thế mới biết, có được niềm “hạnh phúc” như của “tang gia” này cũng không dễ
dàng gì.
Ở cấp độ ngôn từ, chất muối trào phúng được cô đặc trong một
số hình thức câu văn nói mỉa.
Có khi nhà văn mỉa mai bằng lời văn có chứa các cụm từ phản
nghĩa, ngược nghĩa. Ví dụ cụm từ “hạnh phúc của một tang gia” trong nhan đề đoạn
trích, hoặc cụm từ “công hiệu đến nỗi họ mất mạng” trong đoạn văn nói về “thuốc
thánh” đền Bia (“Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một
người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến
nỗi họ mất mạng.”).
Có khi ông mỉa mai bằng câu văn viết theo lối nói ngược. Chẳng
hạn, sau khi ghi lại hàng loạt câu nói “thì thào” trơ trẽn, nhảm nhí của đám
“trai thanh gái lịch” đến dự đám tang, tác giả viết: “Và còn nhiều câu nói vui
vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma.”
Đến đây, có thể kết luận rằng: Từ cái “chết thật” của “ông cụ
già” đếnđám ma giả của tang gia, và từ cái đám ma giả tang gia đến niềm
vui thật của bọn người hám danh, hám lợi, đạo đức giả được kể trong chương
truyện này là cả một hành trình sáng tạo của một tài năng lớn - tài năng trào
phúng Vũ Trọng Phụng.
(In trong Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 11
nâng cao, NXB Giáo dục, 2007).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét