Người mở đường cho luận lý học Á Đông
Khổng Tử và cái thuyết “chánh danh” của ngài
Nhiều lần tôi có nhắc tới cái thuyết “chánh danh” của Khổng Tử.
Ở Phụ nữ tân văn số 43, trong bài nói về chữ quốc ngữ, tôi có hứa rằng
chờ sau nầy sẽ viết một bài cắt nghĩa về cái thuyết ấy. Hôm nay xin làm trọn lời
hứa của tôi.
Luận lý học là một khoa thuộc về triết học, dạy người ta
tư tưởng theo phép tắc chánh đáng cho khỏi sai lầm. Nó sanh sản ra từ trong học
giới Âu châu, nguyên tên nói theo tiếng Anh thì viết Logic, còn theo tiếng
Pháp thì viết là Logique. Người Nhựt Bổn dịch ra là Luận lý học.
Nhiều nhà học giả nước Tàu ngày nay cho cái tên luận lý học
là không đúng, mà bảo phải kêu Logic hay Logique bằng “Danh học”.
Tuy vậy, người ta dùng chữ luận lý học quen rồi, cho đến những nhà
bác học cũng dùng đến luôn luôn. Vì vậy, tôi cũng theo thói quen mà dùng như
người ta.
Tại làm sao những người kia lại biểu phải kêu Logique bằng
danh học? Nguyên vì danh học là một khoa học của người Tàu, phát sanh ra hồi
Chiến Quốc, mà về phần tinh thần của nó thật giống với Logique của
Tây. Cho nên, họ nói mình đã có khoa danh học đúng như Logique, thì cứ
kêu Logique bằng danh học đi, lại còn dịch thêm một tiếng luận lý học
là tiếng nghe không được ổn thỏa nữa làm chi?
Lấy lẽ gì mà nói là không ổn thỏa? Đợi có dịp khác tôi sẽ cắt
nghĩa. Đây tôi phải ngó lại cái đầu đề trên kia mà nói, kẻo nó lãng đi.
Thiệt cái danh học của Tàu không biết vì cớ gì mà về sau tuyệt
hẳn đi, là một điều đáng tiếc cho nền học thuật Á Đông. Ngày nay có nhiều người
nhìn nhận rằng vì cớ ấy mà học thuật phương Đông mấy ngàn năm nay không có tấn
bộ một mảy nào. Nhưng ở đời Chiến Quốc thì các học phái nước Tàu như trăm hoa đua nở,
mà phái nào cũng có tông chỉ, có thống hệ, gần giống như cái hiện tượng của học
giới Âu châu vậy. Thấy vậy, người ta mới lại nhìn nhận rằng hồi Chiến Quốc mà
các học phái sản sanh ra được như vậy là nhờ khoa danh học thạnh hành, mỗi một
phái nào cũng đều lấy danh học làm trụ cột để lập nên cái học thuyết của mình.
Cái vấn đề mà tôi vừa tóm tắt trong đoạn trên đây, tôi đã từng
nghiên cứu qua thì thấy hay lắm, vui lắm, có thú vị lắm. Xin độc giả hẵng làm
quen với những bài của tôi như bài nầy lấy ít lúc, rồi tôi sẽ viết một bài kêu
là “Luận lý học với học thuật Đông Tây” mà cống hiến cho độc giả những cái sở đắc
trong sự nghiên cứu của tôi. Đây tôi nói tắt về cái danh học của Tàu phát
nguyên ra từ đâu.
Ai đã đọc sách Trung Quốc triết học sử đại cương của
Hồ Thích, chắc có thấy nơi trang 104, nói về cái chủ nghĩa chánh danh của Khổng
Tử, có mấy lời như vầy:
“Từ Khổng Tử nêu ra cái vấn đề chánh danh, rồi các nhà triết
học đời xưa đều chịu lấy cái ảnh hưởng ấy: Mạnh Tử, Mặc Tử v.v… Cho nên có thể
nói rằng cái chủ nghĩa chánh danh của Khổng Tử thiệt là thỉ tổ [1] của danh
học Trung Hoa, cũng như cái thuyết “khái niệm” của Socrate là thỉ tổ của danh học
Hy Lạp”.
Theo lời Hồ thì cái thuyết chánh danh của Khổng Tử còn có mấy
phương diện, nhưng có một phương diện quan hệ với danh học, tức là cái chỗ do
đó nền danh học được lập lên bởi các học giả sau ngài.
Tôi đã đọc nhiều sách nói về danh học của Tàu, sau khi quán
thông lại thì nhận cho lời của Hồ là đúng lắm. Tôi bèn nắm đó mà nghiên cứu cái
thuyết chánh danh của Khổng Tử về phương diện danh học.
Hai chữ “Chánh danh” xuất từ sách Luận ngữ, thiên Tử
Lộ, là thiên thứ XIV trong sách ấy, dịch ra đây cả một chương như vầy:
“Tử Lộ hỏi: Vua nước Vệ, nếu dùng thầy làm việc chánh, thì thầy
sẽ làm điều chi trước?
Ngài đáp rằng: Âu là ta phải chánh danh ư?
Ngài nói: Ngươi Do mới quê mùa thay! Người quân tử với điều
mà mình chẳng biết, thà chịu để thiếu đó.
Danh chẳng chánh thì lời nói chẳng thuận; lời nói chẳng thuận
thì việc làm chẳng nên; việc làm chẳng nên thì lễ nhạc chẳng dấy; lễ nhạc chẳng
dấy thì hình phạt chẳng nhằm; hình phạt chẳng nhằm thì dân không chỗ đặt tay
chưn.
Cho nên, người quân tử kêu tên điều gì, chắc có thể nói ra được;
nói ra điều gì chắc có thể làm được. Người quân tử đối với lời nói của mình,
không có chỗ cẩu thả mà thôi”.
Đó, xem cả một chương đó, thấy Tử Lộ hỏi về việc chánh trị mà
ngài đáp bằng cái thuyết chánh danh, thì biết cái thuyết ấy là quan hệ ngay với
chánh trị; cho nên Hồ Thích nói có mấy phương diện là thế. Tuy vậy trong đó có
nhiều cái lẽ rất quan hệ với danh học hay là luận lý học.
Chánh danh, nói theo tiếng ta, tức là kêu tên cho trúng, mới
nghe như là không trọng yếu mấy, bởi vậy Tử Lộ mới dám vọt miệng chê ngài là hu
hoạt. Nhưng xét ra, trong sự học vấn, trong sự chánh trị, mà cho trong sự gì
cũng vậy, kêu tên cho trúng, là sự trọng yếu lắm, chớ nên dể dưng.
Trong một bài đăng ở số trước, tôi đã nói về hai cái nguyên tố
của luận lý học, là khái niệm (concept) và danh từ (terme). Khái niệm là sự
mình suy nghĩ trong lòng; danh từ là lời mình nói ra nơi miệng. Tiếng rằng hai
cái, song thiệt thì có một. Vì cái lời mình nói ra đó tức là cái điều mình suy
nghĩ. Cho nên, hễ nghĩ sai, tự nhiên nói ra cũng sai; và hễ thấy lời nói ra mà
sai, khắc biết rằng sự suy nghĩ cũng không trúng vậy.
Chữ “danh” trong chữ “chánh danh” của Khổng Tử đây, tức là
cái danh từ trong luận lý học; và chữ “danh” trong chữ “danh học” cũng tức là một
chữ “danh” ấy.
Trong Luận ngữ, có một chỗ, Khổng Tử than phiền về sự
danh bất chánh trong thời đại ngài. Nguyên đời xưa, có cái đồ đựng rượu, hình
nó có khía, nên kêu bằng cái “cô”. - Cô nghĩa là “khía”. Nhưng hồi ngài đó thì
cái đồ đựng rượu được ba thăng, bất luận có khía không khía, người ta đều kêu bằng
cái “cô” cả. Bởi vậy ngài mới than rằng:
“Cái cô mà chẳng có khía, cũng kêu bằng cô được ư! cũng kêu bằng
cô được ư!” (Ung dã, thiên thứ VI trong Luận ngữ).
Đó, không có khía mà kêu bằng cô, ấy là kêu tên không trúng.
Vậy mà người ta kêu được, là kêu liều kêu lĩnh đó thôi, chớ theo ngài thì nghe
trái tai lắm, thật là lời nói chẳng thuận.
Lại một chỗ nữa, cũng thuộc về phương diện chánh trị, song có
thể đem mà chứng minh cho cái nghĩa trên kia. Ấy là chỗ Quý Khương Tử hỏi việc
chánh mà ngài thưa rằng:
“Cái điều kêu bằng chánh (政) tức là
chánh (正) vậy; ông lấy chánh (正) mà xướng suất, thì ai lại dám chẳng chánh ư?” (Nhan Uyên, XIII).
Nguyên chữ “chánh (政) (nghĩa là
chánh trị) có chữ “chánh” (正) một bên (nghĩa là
ngay). Cho nên ngài cắt nghĩa chánh trị tức là người trên phải ăn ở cho ngay thẳng
để mà xướng suất kẻ dưới. Đó là một cách chánh danh nữa: cái tên chánh trị, là
do từ sự chánh trực mà ra.
Vậy nếu trong việc chánh trị mà không theo lẽ chánh trực, tức
như khi trong một nước, trên có vua đần, dưới có quan tham lại nhũng, mọi việc
đều làm bậy bạ hết, thì có gọi là chánh trị được đâu. Nếu gọi là chánh trị thì
cũng như cái không có khía mà gọi là cái cô, theo ngài, ngài cho là tầm bậy cả.
Họa loạn sanh ra là ở đó, cho nên nói rằng dân không chỗ đặt tay chưn.
Trong sách Xuân thu của Khổng Tử, cũng thấy được
cái nghĩa chánh danh. Về năm vua Hy Công thứ 16, sách ấy có chép rằng:
“Xuân Vương tháng giêng, ngày Mậu thân, sóc, rơi đá ở nước Tống
năm hòn. Tháng ấy, sáu con chim ích bay thùi lui, qua đô thành nước Tống”.
Đoạn sách nầy, mới nghe qua thật là vô vị, hầu như một đoạn
trong quyển nhựt ký của cậu học trò nhỏ nào, hay là giống cái dọng biên sổ chi
tiêu việc làng việc họ. Nhưng để coi, coi Công Dương truyện giải ra
có ý nghĩa lắm:
“Sao lại nói rơi trước mà nói đá sau?
Rơi đá, là chép theo sự nghe: Nghe cái độp, coi lại thì là đá; rồi mới
đếm, thì là năm hòn. Sao lại trước nói sáu con mà sau nói chim
ích? Sáu con chim ích bay thùi lui, là chép theo sựthấy: Ngó lên thì thấy sáu
con; coi kỹ lại thì là chim ích; thủng thẳng coi kỹ lại nữa, thì là bay
thùi lui…”
Sách Xuân thu phồn lộ của Đổng Trọng Thơ, giải
nghĩa điều trên đó cũng nói rằng:
“Sách Xuân thu phân biện cái lẽ của mọi vật để kêu
trúng tên nó, kêu tên vật nào y như sự thiệt của vật ấy, chẳng sai một mảy lông
mùa thu. Cho nên nói về rơi đá thì nói năm hòn ở sau, nói về chim ích
bay thùi lui thì nói sáu con ở trước; Thánh nhân ngài cẩn thận sự
chánh danh dường ấy”.
Theo đoạn sách Xuân thu dẫn trên đây thì thật là
ngài muốn đính chánh cái ý nghĩa của từng tiếng từng chữ nữa. Sự đó chẳng những
quan hệ với luận lý học, mà lại cũng quan hệ với văn pháp (grammaire).
Luận lý học của Tây dạy rằng mỗi khi biện luận về một sự vật
gì, trước hết phải cấp cho sự vật ấy một cái định nghĩa, hoặc kêu là cái giới
thuyết (définition). Cái giới thuyết hoặc cái định nghĩa đó, là cốt làm cho cái
danh và cái thiệt của sự vật ấy tương đương với nhau, rồi mới có đường mà biện
luận. Bằng chẳng vậy, một bên nói trời một bên nói đất, cãi nhau hết hơi mà rốt
lại chẳng vỡ ra lẽ gì, chẳng ích lợi gì. Cho biết sự định nghĩa hay là lập giới
thuyết là sự cần lắm cho người ta trong khi biện luận.
Lại, trong một câu văn, một cái danh từ dùng lặp hai lần mà lần
trước với lần sau khác nghĩa, cũng là một sự cấm kỵ lớn trong luận lý học. Bởi
vậy luận lý học có đặt ra sáu điều luật về phép tam đoạn luận (Sillogisme) mà
điều thứ ba là điều hệ trọng nhứt, như vầy: Cái trung danh từ (le
terme-médian) phải cho châu diễn (collectif) ít nữa cũng phải châu diễn một lần.
Vả lại cái trung danh từ ở trong hai cái tiền đề (les deux prémisses) phải là đồng
một nghĩa với nhau. Ai phạm đến điều cấm kỵ ấy, kêu là “phá luật”. Đã phá luật
thì sự lập ngôn của mình sai lầm rồi, không còn đứng được nữa.
Tôi rất tiếc rằng vì sự cần mà đây tôi phải kể đến luật lệ
lôi thôi của luận lý học, làm cho nhức đầu độc giả, nhứt là những ai chưa hề
thiệp liệp đến cái học ấy. Song xin hẵng bỏ qua nó, đừng nghĩ mà làm chi cho mệt
não, để trong một bài khác tôi sẽ kiếm cách đưa độc giả đến chỗ dễ hiểu những
luật lệ ấy như chơi, mà lại vui lắm nữa.
Đây tôi kể ra mấy điều cốt yếu của luận lý học trên đó để cho
biết rằng Khổng Tử, ngài ở hơn hai ngàn năm trước cũng đã thạo những điều ấy rồi,
không phải như bọn ta bây giờ phải cặm đầu vào mà học mới biết, hay là không
thèm học mà cũng không thèm biết nữa!
Có một lần, “Tử Trương hỏi: Kẻ sĩ như thế nào thì gọi là “đạt”
được?
Ngài hỏi lại rằng: Nhà ngươi kêu bằng “đạt” đó là nghĩa làm
sao?
Tử Trương thưa rằng: Ở nước ắt có tiếng đồn (văn); ở nhà ắt
có điếng đồn (văn).
Cái đó, nếu lúc bấy giờ Tử Trương hỏi về “đạt” mà ngài không
hỏi lại Tử Trương, cứ theo nghĩa chữ đạt trong ý ngài mà đáp lại, thì chắc Tử
Trương không hiểu, vì trong ý va nghĩ khác. Ngài trọng sự chánh danh lắm, nên
ngài mới biểu Tử Trương lập cái giới thuyết cho chữ “đạt” đi. Quả nhiên Tử
Trương cắt nghĩa “đạt” thành ra “văn”. Nối theo đó ngài bèn đính chánh lại cho
Tử Trương và bắt đầu cắt nghĩa làm thế nào cho được đạt. (Ai muốn biết rõ hơn
thì đọc Luận ngữ).
Cái cách ngài lập luận đó hiệp với pháp thức luận lý học dạy
phải lập giới thuyết trước; và cũng hiệp với luật thứ ba của tam đoạn luận. Vì
chữ “đạt” trong câu hỏi của Tử Trương và chữ “đạt” trong câu ngài sẽ trả lời,
ta nên coi là một danh từ mà dùng lặp hai lần; nếu nghĩa của nó khác nhau thì tất
nhiên là phải phá luật vậy.
Còn như điều sắp kể dưới nầy thì hình như ở ngoài cái thuyết
chánh danh, nhưng mà ở trong phạm vi luận lý học, ta chẳng nên bỏ qua.
Theo luận lý học thì cái điều lập cho sự vật một cái công lệ
là điều khó lắm và ta nên thận trọng lắm. Muốn làm sự ấy thì phải theo phương
pháp quy nạp (induction) dùng những phép khái quát (généralisation) (statistique)
luật nhân quả (causalité)… mà sau mới làm nổi. Trong đời có người ưa lấy một nửa
lời mà lập công lệ cho sự vật, như nói: Muốn nước cho mạnh thì phải hợp quần;
muốn duy trì phong hóa thì phải bảo tồn Hán học. Tôi dám nói những lời mà họ
cho là khuôn vàng thước ngọc đó là không có giá trị; mà theo luận lý học hay là
theo Khổng Tử, cũng nói như tôi.
Lần kia, “Định Công hỏi: Có một lời nói mà có thể dấy nước được
chăng?
Ngài thưa rằng: Lời nói không có thể trông mong dễ dàng như vậy.
Định Công lại hỏi: Có một lời nói mà có thể mất nước được
chăng?
Ngài cũng thưa rằng: Lời nói không có thể trông mong dễ dàng
như vậy”. (Tử Lộ, XIII).
Định Công hỏi đó, là muốn lập cho sự dấy nước và sự mất nước
một bên một cái công lệ. Phải như ai, thì đã làm thánh làm tướng, lựa một vài lời
oai vệ mà đáp phăng cho rồi. Nhưng ngài thì ngài dùng một câu bác trước đi đã,
rồi mới đáp sau. Ngài đáp câu hỏi thứ nhứt của Định Công rằng:
“Người ta có nói: “Làm vua khó, làm tôi chẳng dễ”. Vậy nếu biết
làm vua là khó, chẳng ngõ hầu một lời nói mà dấy nước ư?”
Đáp câu hỏi thứ nhì rằng:
“Người ta có nói: “Ta không vui gì sự làm vua, duy có nói ra
mà chẳng ai trái ta”. Nếu nói phải mà chẳng ai trái, thì chẳng cũng là hay; bằng
nói không phải mà chẳng ai trái, thì chẳng ngõ hầu một lời nói mà mất
nước ư?”
Phàm sự gì không chắc thì không được dùng lời quả quyết, ấy
cũng là một điều dạy trong luận lý học. Trong hai câu trả lời trên đó, mỗi câu
ngài dùng chữ ngõ hầu, thiệt là đúng với Luận lý học lắm.
Trên đây, từ chỗ dẫn sách Xuân thu về trước, là tôi
lấy ở triết học sử của Hồ Thích; còn hai điều sau là tự tôi đã tìm ra. Còn nhiều
điều khác nữa hiệp với cái thuyết chánh danh và đủ chứng minh rằng Khổng Tử là
người mở đường cho danh học tức là luận lý học bên Trung Quốc, nhưng bài nầy đã
dài rồi, cử ra nội mấy điều trên đó cũng đã vừa.
Kể ra thì cái nền danh học lập nên bởi các học giả sau ngài,
như Mặc Tử, Công Tôn Tử, Tuân Tử, v.v… thì cũng chỉ có cái tinh thần mà thôi,
chớ về hình thức thì còn khiếm khuyết nhiều lắm, có đâu bằng luận lý học bên Âu
châu, và cũng còn kém Nhân minh học bên Ấn Độ [3]. Vậy thì biết
rằng cái người mở đường ra đó, sự tri thức của người về cái học ấy chắc không
được hoàn toàn lắm; mà điều ấy ta không thể trách. Cho nên ta xem Khổng Tử đối
với danh học cũng như Socrate đối với Luận lý học phương Tây, chẳng qua là ông
tổ khai sơn mà sau đến Aristotle lập ra sáu điều luật nói trên kia, rồi cái nền
luận lý học mới thành lập được vậy.
Mà thật vậy, cũng trong một sách Luận ngữ, tôi có tìm thấy
chỗ ngài nói như là không đúng với luận lý học, ra ngoài cái thuyết chánh danh
của ngài. Vì cớ ấy, kêu tên cái “chánh danh”, Hồ Thích kêu bằng cái chủ
nghĩa, mà tôi kêu bằng cái thuyết, vì tôi cho là chưa trọn vẹn, chưa đáng
kêu là chủ nghĩa vậy.
Phiên bản điện tử: http://lainguyenan.free.fr
Phan Khôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét