Sao lòng ta chưa nguôi
Xưa, Vĩ Sinh yêu một người con gái. Hai người hẹn gặp nhau ở
dưới chân cầu. Cô gái không đến. Vĩ Sinh vẫn cứ đứng dưới chân cầu đợi người
yêu. Chiều tối, thủy triều dâng lên ngập chết Vĩ Sinh.
Câu chuyện trên là một trong những tiểu thuyết đầu tiên của
văn học Trung Quốc. Tiểu thuyết - thể loại có dung lượng đồ sộ nhất - ban đầu
chỉ nhỏ bé như lòng bàn tay. Vì vậy, nó được đặt tên là tiểu thuyết (tiểu là
nhỏ, thuyết là lời nói, lời dạy; tiểu thuyết nghĩa là lời
nói, lời dạy nhỏ không đáng coi trọng). Tên gọi đó cho thấy đây vốn là thể loại
nhỏ nhất, ngắn nhất, kém giá trị nhất của văn học Trung Quốc. Vậy mà, qua trường
kỳ lịch sử, tiểu thuyết dần lớn lên, vượt qua các thể loại khác, trở thành người
khổng lồ của văn học.
Cầm trên tay tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê, tôi chợt nghĩ đến
tên gọi của tiểu thuyết. Bởi vì tác giả Đỗ Hồng Ngọc đặt tên cho đứa con tinh
thần của mình là Thơ ngắn. Thế nào là ngắn? Thế nào là dài? Ngắn nhất là
tiểu thuyết, dài nhất cũng là tiểu thuyết. Ngôn hữu tận, ý vô cùng. Làm sao so
ngắn dài khi Lý Bạch đã từng khẳng định: “Thi thành thảo thụ giai thiên cổ”
(Bài thơ làm xong, cỏ cây đều đã trở thành thiên cổ). “Thiên cổ” là nghìn xưa,
là quá khứ. Đối với người phương Đông, quá khứ bao giờ cũng gắn với giá trị.
Con dấu thời gian mỗi khi đã chạm khắc vào một sự vật hiện tượng gì thì bản thể
đó mặc nhiên có giá trị. Bài thơ làm xong, tất cả thoắt trở thành thiên cổ. Câu
thơ hay thường được khen là “thiên cổ lệ cú” (câu thơ đẹp ngàn năm). Giá trị của
thơ ca, của văn học không thể đo bằng sự ngắn dài của câu chữ, mà chỉ có thể đo
bằng sự ngắn dài của ý nghĩa nhân sinh, của thành tựu nghệ thuật và sức sống của
nó trong lòng người đọc. Tuy nhiên, khi thơ càng ngắn, độ hàm súc càng cao, ý
nghĩa càng bung tỏa thì lại càng thú vị. Có lẽ đây là quan niệm về thơ mà tác
giả Đỗ Hồng Ngọc tâm đắc, nên đã lấy thể thơ ngắn làm đại diện cho cả những bài
thơ dài trong toàn tập.
Đề tài của Thơ Ngắn Đỗ Nghê khá rộng: vũ trụ, quê
hương, tình yêu, nỗi nhớ, thiền tập… Hầu như tác giả đã “chắt mót” tất cả các cảm
xúc với thiên nhiên, tôn giáo và con người để dồn vào tập thơ này. Nếu gọi tập
thơ là Tạp thi thì đúng hơn. Tạp thi nghĩa là thơ lặt vặt.
Lặt vặt ở đây không có nghĩa là vặt vãnh, mà là gần gũi, giản dị, quen thuộc,
thô mộc… Đó có thể là một thoáng suy tư, một chút bâng khuâng, một niềm nhung
nhớ, nỗi luyến tiếc hoặc một trò tinh nghịch… Tất cả đều nhẹ nhàng, hồn nhiên
và rất đỗi thẳm sâu. Có những bài thơ, câu thơ ngắn như một hơi thở, một cái trở
mình nhưng ý nghĩa lại cứ dài ra theo dòng suy ngẫm của người đọc:
“Giữa đêm
Thức giấc
Giữa ngày…” (Trái đất)
Đêm của nơi này là ngày của nơi kia. Một cái tỉnh giấc nơi đất
khách, nhớ đến quê nhà, chợt nhận ra sự mênh mông của Trái đất và sự luân chuyển
khôn cùng của thời gian. Bài thơ còn mang ý nghĩa triết lý về tính tương đối:
đêm ngày, khái niệm, nhận thức, chân lý… tất cả chỉ là tương đối. Sự tương đối
đó chính là cái hữu hạn của con người trước cái vô hạn của thế giới đầy bí ẩn,
bao la.
Bài thơ Sóng lại nhắc nhở người đọc về quan niệm
duyên khởi của Phật giáo: “Sóng/ Quằn quại/ Thét gào/ Không nhớ/ Mình/ Là nước”.
Bài Nước lại mang triết lý về sự trôi chảy của thời gian, sự miên viễn
của vũ trụ, sự huyền nhiệm của tính thiền:
“Nước từ đâu đến
Nước trôi về đâu…
Nước vẫn muôn đời
Không đi chẳng đến
Ai người nỡ hỏi
Nước đến từ đâu
Ai người nỡ hỏi
Nước trôi về đâu…”
Không đi chẳng đến, vô thủy vô chung, mềm mại như sông và quằn
quại thét gào như sóng, nước vẫn an nhiên trôi chảy từ ngàn năm trước đến ngàn
năm sau. Khi ta cảm nhận được sự mênh mông ấy của nước, gió, trăng, sao thì tâm
hồn và thể xác ta đã hòa cùng vũ trụ: “Vũ trụ chừng nhỏ lại/ Còn chút xíu trong
ta!” (Vũ trụ). Ta không còn “là Một, là Riêng, là Thứ nhất” như ông hoàng
Xuân Diệu nữa, ta đang “bay vù vù trong không gian” trong từng sát-na. “Mỗi
ngày ta rơi rụng/ Mỗi ngày ta phục sinh/ Mà cứ tưởng không hề thay đổi…”. Đó
chính là Vô thường, là sự đổi thay qua từng chớp mắt. Vô thường mà không mất
mát, vô thường để thấy ta trong vạn vật và vạn vật trong ta. Sự hòa điệu giữa
con người - tiểu vũ trụ và vạn vật - đại vũ trụ trong thơ Đỗ Hồng Ngọc theo
quan niệm vô thường và duyên khởi mang lại cho người đọc cảm nghiệm mới về thời
gian, về sự sống trong guồng quay của tạo hóa. Nó thôi thúc con người ý thức về
mối quan hệ của cá nhân và vũ trụ, để kết nối, để sống hết mình trong sự sống
chứ không phải để thở than nhân sinh như mộng.
Vô thường trong thơ Đỗ Hồng Ngọc nhiều khi là sự hiện hữu chứ
không phải hư vô, ở cái còn chứ không phải là cái mất. Trong những bài thơ về Mẹ,
về La Ngà, ta học được cách quên nỗi đau, chấp nhận lẽ tử sinh từ những hình ảnh,
chi tiết bình dị nhất. Ánh mắt người mẹ luôn dõi theo con, nụ cười mẹ như thấu
hiểu mọi hỷ nộ ái ố, lúng túng, lần khân, láu lỉnh… của con. Nụ cười của mẹ trên
bàn thờ trở thành tấm gương soi của con. Đó là nụ cười sống động, nụ cười bất tử
mang tâm trạng và tình cảm yêu thương trìu mến của người ngắm nhìn qua mỗi ngày
mỗi tháng mỗi năm. Đối diện với nụ cười của mẹ, hẳn rằng người con luôn phải tự
sửa mình. Cũng trong mạch cảm nhận đó, đọc những bài thơ viết cho La Ngà, ta hiểu
được cách vượt qua nỗi mất mát của nhà thơ khi “có một dòng sông đã qua đời”:
“Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con
Nỗi mất!”
Con “mãi mãi tuổi đôi mươi” dẫu tất cả cứ già đi theo năm
tháng. Mà bài học về nỗi mất thì cứ tươi nguyên, khoảng trống của nỗi mất dường
như thêm sâu rộng. Có thể thanh thản được không khi xem nghiệt ngã là bài học?
Có nỗi đau nào lớn hơn không, khi bài học không muốn nhớ, không muốn thuộc
nhưng vẫn cứ ghim vào tâm trí? Con “mãi mãi tuổi đôi mươi”, cha vẫn day dứt nỗi
đau khổ của kiếp người! Hóa ra, vô thường còn là chấp nhận, là “đành lòng vậy,
dầu lòng vậy”, là gào thét trong lặng câm, là bão tố trong bình yên, là chôn chặt
trong đào xới, là cồn cào trong thanh thản… Những vô thường như thế này cần phải
được đọc từ phía sau câu chữ, bởi câu chữ chỉ là cái bình phong, nó che đậy cảm
xúc, nó không cho người khác nhìn thấy nước mắt tuôn rơi. Trang Tử từng nói:
“Ngôn giả sở tại ý, đắc ý nhi vong ngôn” (Lời là để diễn đạt ý, được ý hãy quên
lời). Những bài thơ này, tôi đọc “ý”, không đọc “lời”; đọc để hiểu, cảm thông
và chia sẻ…
Có một nỗi nhớ quê hương đong đầy trong tập Thơ ngắn.
“Đi giữa Sài Gòn/ Phố nhà cao ngất/ Hoa nở rực vàng/ Mà không thấy Tết. Một
sáng về quê/ Chợt nghe gió bấc/ Ơ hay xuân về/ Vỡ òa ngực biếc!” (Gió bấc).
Xuân không đến từ hoa vàng rực rỡ, xuân chỉ đến khi người yêu quê được đi giữa
trời quê.
Ở bài thơ Thu, Đỗ Hồng Ngọc không dùng hình ảnh, mà khuấy
động lòng ta bởi một âm thanh:
“Chiều thu
Nghe tiếng quạ
Giật mình
Nỗi xa nhà
Nhớ sao
Mà nhớ
Quá!”
Mùa thu gắn với nỗi buồn. Bởi vậy nên người Hán đã ghép chữ thu với
chữ tâm để biểu ý thành chữ sầu (mùa thu đọng lại trong tim
thành một nỗi sầu). Chiều thu là thời khắc của ngày tàn, của những nỗi buồn
không tên, nỗi sầu thiên cổ bàng bạc như sương khói. Nó khiến lòng người chơi
vơi, mang mang; khiến cho “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói. Tựa cửa nhìn xa,
nghĩ ngợi gì” (Xuân Diệu). Giữa chiều thu ấy, thơ thẩn nơi đất khách, bỗng nghe
tiếng quạ, giật mình nỗi xa nhà… chợt thấy nhớ sao mà nhớ quá. Bài thơ độc đáo ở
cấu tứ. Đó là cấu tứ sắc sắc không không. Không có hình ảnh nào cụ thể: chiều
thu, tiếng quạ, nỗi xa nhà, nỗi nhớ đều không hiện hữu. Tất cả đều trừu tượng,
lơ lửng trong không trung, vương vấn trong hồn người. Chủ thể trữ tình cũng chỉ
xuất hiện trong động thái “nghe” và “giật mình”: nghe tiếng quạ và giật mình nỗi
xa nhà. Nghĩa là người đọc chỉ nhận ra thi nhân qua âm thanh trên không trung
và nỗi lòng kẻ tha hương. Niềm cô tịch bao trùm toàn bài thơ. Thi pháp chân
không được sử dụng rất đắc địa. Và cuối cùng, tiếng quạ kêu bất ngờ kết thúc
bài thơ, nhập vào làm một với đỉnh điểm của nỗi nhớ nhà: “Quá!”. Âm thanh đó
vút cao, thảng thốt, xuýt xoa, khắc khoải, tê tái, quặn thắt… Từ tượng thanh
trùng âm với phó từ chỉ mức độ cao trong tiếng Việt thể hiện sự hòa điệu tuyệt
vời của cảnh và tình, của tiếng quạ và tiếng lòng. Nó khiến cái vô hình trở
thành hữu hình, cái khó nắm bắt trở nên dễ nắm bắt. Tiếng quạ kêu lan tỏa trong
thinh không, mang nỗi nhớ thả vào vũ trụ, để rồi len vào hồn người tâm thức “tư
cố hương”. Cảnh nhạt mà tình nồng, bài thơ vừa có cái diệu của thi pháp chân
không, của bút pháp lấy động tả tĩnh, huyền ngoại chi âm, và cả bút pháp tá
thanh truyền ảnh rất hiếm ở trong thơ. Bởi, từ âm thanh xao động ở câu hai đến
se thắt ở câu cuối, ta có thể hình dung được vẻ ngơ ngác ngước nhìn, kiếm tìm,
trầm tư mặc tưởng của người thơ.
Thơ tình chiếm tỷ lệ khá lớn trong toàn tập Thơ Ngắn Đỗ
Nghê và đa số là những bài thơ không ngắn, thậm chí là khá dài. Mảng đề
tài này thể hiện rõ tâm hồn thuộc “cái nòi đa tình” và tính cách dí dỏm của nhà
thơ.
“Em tin có Chúa
Ngự ở trên cao
Còn anh tin Chúa
Ngự ở trong nhau” (Đi Lễ)
Với niềm tin ấy, “mỗi ngày anh chánh niệm về em chánh niệm
sáng chánh niệm chiều chánh niệm đêm… em ngồi đó vô biên vô số với phép màu
không có thời gian cho anh trở về tuổi hai mươi em mười tám…” (Chánh niệm).
Tình yêu như tôn giáo, tình yêu là tôn giáo của riêng anh. Và
nhịp tim, hơi thở luôn thao thiết vì em:
“Ai bảo áo em vàng hoàng hậu
Cho tôi phải thở nhịp quân vương” (Đồng hương)
Và nếu thiếu em, quân vương ấy chẳng màng đến ngai vàng nữa:
“Ta về lối cũ
Nghe lòng lạnh băng
Thiếu em hoàng hậu
Anh viết tên em lên cát, cho sóng cuốn đi, cho gió cuốn đi. Để
“tên em mênh mông đại dương…”, mang tình anh đi muôn phương, cho thỏa dạ kẻ si
tình (Viết tên lên cát). Nỗi nhớ em trở thành căn bệnh - bệnh nhớ, khi cấp
tính thì cồn cào, quặn thắt; trở thành kinh niên thì âm ỉ, triền miên (Nỗi
nhớ). Mà thật lạ, hình như anh chẳng muốn chữa lành căn bệnh tương tư này. Bởi
nghe trong tiếng thở than có niềm hạnh phúc, nghe trong nỗi buồn vẫn có thú đau
thương.
Rồi “tình xa” sẽ biến thành “tình sầu”, “tình nhớ”, để ngày gặp
lại, luyến tiếc gọi nhau bằng hai chữ Cố nhân:
“Mới đó mà em đã cố nhân
Lòng đau như cắt hiểu gì không
Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng
Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…”
Tình “ngùi phai theo tháng năm” nhưng lòng không ngùi phai.
“Lòng đau như cắt hiểu gì không” - Câu thơ như một nhát cắt cứa vào tim nhau.
Trách móc? Giận hờn? Tiếc nhớ?… Không! Chỉ thấy vẫn yêu. Và đau! Yêu ngay cả
khi dùng từ ngữ có tính chất ngăn chặn, chấm dứt, thuộc về quá khứ: “cố nhân”.
Vậy đó, sự trớ trêu của tình cảm thật khó mà cắt nghĩa, “cố nhân” nhiều lúc
không phải là người cũ, người xưa, mà là người thân thiết, tha thiết một thời…
và mãi mãi. Để rồi ta lại đêm ngày chánh niệm về em, và không ngừng cật vấn
mình: “Ta làm sao mà lòng ta chưa nguôi!” (Khi gặp lại).
Giả sử là bài thơ tình rất hay ở nhiều phương diện. Nhà
thơ nói với người yêu về một tình huống hủy diệt của thiên tai. “Giả sử sóng thần
ập vào Nha Trang/ Ập vào Mũi Né/ Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền
thúng/ Vút qua những ngọn dừa/ Những đồi cát trắng/ Em nhớ mang theo đôi quả trứng/
Vài nắm cơm/ Vài hạt giống/ Đừng quên mấy trái ớt xanh…/ Biết đâu mai này/ Ta
làm An Tiêm/ Trở về làng cũ/ Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang/ Nơi kia gọi là Mũi
Né…/ Cho nên/ Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?…”. Bài thơ mở đầu bằng sự bất
an và kết thúc bằng sự bình an. Tất cả hãi hùng hoang lạnh đó sẽ qua đi nếu ta
biết thương nhau, và hãy thương nhau khi còn có thể, vì mấy ai lường trước được
chuyện bãi bể nương dâu.
Sử dụng những motif thường thấy trong văn chương: yêu trong hoạn nạn, sống sót qua hoạn nạn, cơn đại hồng thủy, tái lập Trái đất và sự sống…; tuy nhiên, trong hoảng hốt hoang hoải đi tìm sự sống, Đỗ Hồng Ngọc vẫn không quên chiếc thuyền thúng, mấy trái ớt xanh, đôi quả trứng, vài hạt giống của An Tiêm, để trở về làng cũ… Cổ tích Việt Nam, văn hóa Việt Nam thấm trong từng hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng không phải vì nỗi sợ thiên tai, mà vì vẫn tìm thấy những gì quen thuộc trong sự mất mát. Dĩ nhiên, tất cả chỉ là giả sử, thể hiện những dự cảm bất an về môi trường và quan niệm vô thường của cuộc sống, nhưng mục đích là kết luận: “Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?” Hỏi cũng chính là trả lời, câu thơ khiến người với người xích lại gần nhau hơn như câu hát của Trịnh Công Sơn: “Hãy yêu nhau đi/ Khi rừng thay lá/ Hãy yêu nhau đi dòng nước có trôi xa… Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi/ Dù mai nơi này người có xa người…”
Sử dụng những motif thường thấy trong văn chương: yêu trong hoạn nạn, sống sót qua hoạn nạn, cơn đại hồng thủy, tái lập Trái đất và sự sống…; tuy nhiên, trong hoảng hốt hoang hoải đi tìm sự sống, Đỗ Hồng Ngọc vẫn không quên chiếc thuyền thúng, mấy trái ớt xanh, đôi quả trứng, vài hạt giống của An Tiêm, để trở về làng cũ… Cổ tích Việt Nam, văn hóa Việt Nam thấm trong từng hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng không phải vì nỗi sợ thiên tai, mà vì vẫn tìm thấy những gì quen thuộc trong sự mất mát. Dĩ nhiên, tất cả chỉ là giả sử, thể hiện những dự cảm bất an về môi trường và quan niệm vô thường của cuộc sống, nhưng mục đích là kết luận: “Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?” Hỏi cũng chính là trả lời, câu thơ khiến người với người xích lại gần nhau hơn như câu hát của Trịnh Công Sơn: “Hãy yêu nhau đi/ Khi rừng thay lá/ Hãy yêu nhau đi dòng nước có trôi xa… Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi/ Dù mai nơi này người có xa người…”
Tình yêu trong thơ Đỗ Hồng Ngọc vừa nồng nàn mãnh liệt “như đổ
dầu vào lửa”, sắc bén như “ánh mắt dao cau”, dại khờ luyến tiếc khi phải “nhận
bừa là đồng hương”, day dứt “khi nhìn nhau xa lạ” “nói năng vô nghĩa” mà nghe
“thác reo trong hồn”, ranh mãnh mong người ta nhớ đến anh trong “ngày sinh nhật”
khi mọi ngày của anh đều là sinh nhật. Và cuối cùng, vẫn chờ đợi một bến đỗ
bình yên, chở che, đón nhận, ấp iu và chung thủy đến muôn đời:
“Lá chín vàng
Lá rụng
Về cội
Em chín vàng
Chắc rụng
Về anh” (Lá)
“Chắc” là một hư từ (vị từ tình thái) mang tính dân dã của khẩu
ngữ được đặt vào trong sự biến tấu của thành ngữ “lá rụng về cội” khiến câu thơ
cuối lập tức trở nên giàu ý thơ, chất thơ hơn. Nhìn từ phương diện ngôn ngữ học,
“chắc” thuộc loại từ có “lực ngôn trung” gắn với “tình thái phát ngôn”. “Chắc
là”, “có thể”, “có lẽ”, “hãy”, “sẽ”, “nên”…; vừa ướm hỏi vừa mời gọi; vừa mang
tính khẳng định, vừa mang tính dự định. Chủ thể của lời nói vừa có thể là anh,
vừa có thể là em. Tâm trạng của các chủ thể sẽ thay đổi tùy vào cách
người đọc mặc định vị trí của họ và nghĩa của từ “chắc” ở trong lời nói. Cả hai
chủ thể sẽ có tâm thế hoặc tự tin, yên lòng; hoặc e dè, hoài nghi, phấp phỏng.
Tất cả tùy thuộc vào việc người đọc đứng ở bên nào trong tính nước đôi của từ ngữ.
Vậy là người đọc có quyền quyết định nghĩa, làm tăng nghĩa, tăng tầng bậc khám
phá cho văn học. Theo lý thuyết tiếp nhận, đồng sáng tạo giữa tác giả và độc giả
là một trong những tiêu chí thành công của tác phẩm. Một từ thôi nhưng có thể
thay chủ đổi ngôi, làm khuynh đảo những gì vững chắc nhất. Tiếng Việt là vậy
đó! Hay, đẹp, đa nghĩa và đáo để đến vô cùng nếu được vào tay người nghệ sĩ
ngôn từ biết cách giũa mài cho ngọc quý.
Giống như Bông hồng cho Mẹ, bài thơ này toàn dùng từ thuần Việt. Mới hay, trong lĩnh vực ngôn ngữ, cái dân dã bình dị có khả năng chuyển tải văn hóa cao nhất chứ không phải cái cao sang. Một nửa của bài thơ là có sẵn, là kết tinh từ triết lý, trí tuệ dân gian, quy luật và ao ước muôn đời của muôn người. Nửa còn lại là sáng tạo của tình yêu, của thi ca; mời gọi, ướm hỏi, đợi chờ, hồi hộp, đón nhận, giao hòa… và hạnh phúc với chân lý của tình yêu.
Giống như Bông hồng cho Mẹ, bài thơ này toàn dùng từ thuần Việt. Mới hay, trong lĩnh vực ngôn ngữ, cái dân dã bình dị có khả năng chuyển tải văn hóa cao nhất chứ không phải cái cao sang. Một nửa của bài thơ là có sẵn, là kết tinh từ triết lý, trí tuệ dân gian, quy luật và ao ước muôn đời của muôn người. Nửa còn lại là sáng tạo của tình yêu, của thi ca; mời gọi, ướm hỏi, đợi chờ, hồi hộp, đón nhận, giao hòa… và hạnh phúc với chân lý của tình yêu.
Đề tài phong cảnh thể hiện nét bút tài hoa của nhà thơ. Đó là
bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh trong cảnh Hội An sớm:
“Hội An còn ngái ngủ
Mái chùa ôm vầng trăng
Giật mình nghe tiếng chổi
Gà gáy vàng trong sương”
Trăng treo nghiêng trên mái chùa, sương vàng theo ánh trăng.
Chỉ cần chấm phá hai hình ảnh, một sắc màu là tạo nên bức cổ họa. Và tiếng chổi,
tiếng của nhịp đời xao xác nhẹ nhàng đủ để đánh thức đàn gà ngái ngủ cất lên tiếng
gáy. Sau tiếng gà gáy, cả thế giới im lìm sẽ tỉnh giấc. Tất cả mọi đường nét, mọi
âm thanh đều vừa vặn, không thừa không thiếu cho việc diễn tả một Hội An trầm mặc
cổ kính. Bài thơ gợi nhớ cái giật mình của loài chim núi khi nhìn thấy ánh
trăng khuya trong Điểu minh giản của nhà thơ Vương Duy đời Đường.
Nhưng ở đây, tiếng chổi tương hợp với ngôi chùa, tiếng gà gần gũi với đời sống.
Tiếng chổi quét sân chùa sau buổi công phu sáng sẽ sớm hơn tiếng gà trong vườn
nhà. Nếu ngoài đời thường, tiếng gà gáy sáng bắt đầu chuỗi hoạt động của con
người, tiếng gà đánh thức tiếng chổi thì ở đây tiếng chổi đánh thức tiếng gà, bởi
nhà chùa thường dậy sớm hơn. Bài thơ thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, cách cảm nhận
tinh tế của tác giả. Chất thiền không chỉ bàng bạc trong hình ảnh mà còn vang vọng
trong âm thanh của bài thơ.
Tuyền Lâm mang vẻ đẹp trong trẻo của mùa xuân qua thủ
pháp gương soi và tiếng gọi mùa xuân tha thiết, đắm say:
“Nước xanh như ngọc
Sâu đến tận trời
Vốc lên một vốc
Ơi mùa xuân ơi!”
Trời soi bóng nước, nước sâu tận trời, “sâu chót vót”
như Tràng giang của Huy Cận, nhưng không cô liêu, tịch liêu mà đong đầy
cảm xúc yêu cảnh, yêu mùa, yêu đời của nhà thơ.
Ta sẽ còn có thể nghe hơi thở người xưa, “Nghe thì thầm, Đẽo
gọt/ Nét Đường thi” trong bài thơ Văn Miếu; ngắm làn mưa giăng mờ
trong Hà Tiên mưa, cảm nhận “sóng lăn tăn gợn vỗ quanh ghế ngồi” Ở
Montmartre… Mỗi bước chân trải nghiệm của tác giả đều được ghi dấu bằng hồn
thơ.
Tư tưởng Phật giáo thấm đượm trong toàn tập Thơ ngắn. Đỗ
Hồng Ngọc đã chuyển tải tư tưởng một cách nhẹ nhàng, giản dị như chính triết lý
nhà Phật qua những bài thơ như Thiền, Vè thiền tập… Và đặc biệt, bài
thơ Mới hôm qua thôi còn mang nỗi buồn của bi kịch nhân sinh: “Họ ngồi đó/ Hói
đầu/ Bạc trắng/ Móm sọm/ Nhăn nheo/ Mới hôm qua thôi/ Nào vương/ Nào tướng/ Nào
tài tử/ Nào giai nhân/ Ngựa xe/ Võng lọng/ Mới hôm qua thôi/ Nào lọc lừa/ Nào
thủ đoạn/ Khoác lác/ Huênh hoang/… Nói nói/ Cười cười/ Ghen tuông/ Hờn giận/…
Ngoài kia/ Tuyết bay/ Trắng xóa/ Ngoài kia/ Dòng sông/ Mênh mông/ Mênh mông…”.
Đúng! Mới hôm qua thôi… mà bây giờ đã… Tham hận sân si sẽ tan đi hoặc vơi bớt
khi ngẫm lại sự phù du của kiếp người, và sẽ “Giật mình chợt nhớ ra/ Vốn xưa ta
là đất” (Đất), mai này ta cũng là đất. Ta cần ngộ ra điều đó, để có thể chứng
nghiệm Niết Bàn trong cõi ta bà này, ngay ở đây, lúc này, hiện sinh chứ không
phải là huyễn tưởng:
“Tham chẳng còn
Sân cũng hết
Si đã tuyệt
Niết Bàn
Tịch diệt
Rũ bỏ tất cả, an nhiên tự tại, Niết Bàn trong ta, tùy
vào ta. Niết Bàn là lúc ta thõng tay vào chợ, trở về với tâm tướng con người
như nó vốn sinh ra…
Thơ Ngắn Đỗ Nghê có 59 bài, đa phần là thơ ngắn như tên
gọi của toàn tập. Nhan đề của mỗi bài thơ cũng ngắn: Sóng, Nước, Đất, Thiền,
Thở, Lá, Ngộ, Trái đất, Chân Không… Có bài chỉ 6 âm tiết, 10 âm tiết. Xem
ra, so với Haiku của người Nhật (17 âm tiết), Sloka của người Ấn Độ (32 âm tiết),
Lục bát của người Việt (14 âm tiết), Tứ tuyệt của người Trung Quốc (20 - 28 âm
tiết) thì quả là Đỗ Nghê đã có những bài thơ ngắn độc đáo. Tuy nhiên, sức cuốn
hút của tập thơ không phải ở độ dài ngắn, mà ở sự sôi nổi của lòng yêu cuộc sống,
sự chiêm nghiệm về cõi nhân sinh, sự cảm ngộ triết lý nhà Phật đầy mới mẻ, nỗi
niềm đau đáu với lẽ được mất và thi pháp thơ đầy sáng tạo. Tất cả như thể hiện
nỗi vướng bận của nhà thơ với cuộc đời: “Ta làm sao mà lòng ta chưa nguôi”.
Nguôi sao được khi trái tim và tâm hồn thi nhân vốn dĩ đã bị cầm tù trong bể đời
ngọt ngào pha lẫn với chua cay mặn đắng. Lòng chưa nguôi, và sẽ mãi mãi không
nguôi, sẽ dễ dàng rung lên như những sợi dây đàn mẫn cảm, để cho đời thêm những
tiếng thơ hay.
Nếu cần góp ý cho tập thơ, tôi chỉ mong tác giả gạt bớt những
bài chưa chín tới về cảm xúc cũng như bút pháp, hoặc không phù hợp với toàn tập
như To Edith (vì là thơ dịch), Về quê (vì trùng với danh
tác Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương), Đông Boston (vì không điệp
vần), Theo già, Tuyết (vì thiếu thi ý), Món quà, Quấn quýt (vì
cấu tứ non tay)… Vẫn biết, cắt bài sửa chữ là đề nghị lạnh lùng làm đau lòng
người sáng tác. Bởi vì mỗi câu, mỗi bài đều gắn với kỷ niệm, vết xước, nỗi đau
và những rung cảm chân thành. Tuy nhiên, nếu không làm điều đó, tác phẩm sẽ thiếu
chắt lọc, sa vào ôm đồm và nhạt mất khí cốt. Trong nghệ thuật, có sự trưởng
thành nào mà không trả giá bằng nỗi đau, có sự vẹn nguyên nào mà không khởi đầu
bằng mất mát? Thiển ý này của người viết cũng thể hiện nỗi niềm “sao lòng ta
chưa nguôi”, mong mỏi mỗi bài thơ đều hướng đến cảnh giới “Bút lạc kinh phong
vũ. Thi thành khấp quỷ thần” (Hạ bút làm kinh hoàng cả mưa gió. Thơ làm xong
khiến quỷ thần phải khóc - Đỗ Phủ).
* Đã có chỉnh sửa bởi Tịnh Thy (31.1.2018)
** Minh họa của Đỗ Hồng Ngọc (trong Thơ Ngắn Đỗ Nghê).
Xứ Huế, Mùa Đông 2017
Nguyễn Thị Tịnh Thy
Nguồn: Tập san Quán Văn số 52
Xuân Mậu Tuất 1/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét