Thứ Năm, 22 tháng 8, 2019

Tiếp nhận Truyện Kiều dưới góc nhìn nhạc họa 3

Tiếp nhận Truyện Kiều dưới 
góc nhìn nhạc họa 3
3.1.2.3.Trăng: 
Trăng là hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thi ca. Trước Nguyễn Du và sau Nguyễn Du không ít nhà thơ viết về trăng. Nguyễn Trãi đã có "Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc. Thuyền chở yên hà nặng vay then". Hàn Mặc Tử với "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay?" còn ca dao lại viết "Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi". Đó là những bức hoa trong nhiều bức hoa tuyệt tác về trăng. Trong tác phẩm Truyện Kiều, trăng còn xuất hiện với tần số lớn hơn nhiều. Khảo sát tác phẩm ta thấy trăng có nhiều ý nghĩa và xuất hiện trong nhiều trường hợp: 
- Trước hết, trăng là vẻ đẹp huyền ảo của vũ trụ, nó tôn thêm vẻ đẹp của cảnh vật chung quanh: 
Dưới trăng, quyên đã gọi hè, (1307) 
Đầu tường lửa lựu lập lèo đâm bông. (1308) 
- Trăng thể hiện thời gian trôi chảy, lúc chậm chạp lúc bình thường, lúc khẩn trương gấp gấp, góp phần xác định sự chuyển giao thời tiết. Dưới ngòi bút của thi hào, chỉ có một đôi câu mà cổ lúc là đêm trăng, có lúc tuần trăng, có lúc là cả một mùa trăng, thậm chí là mấy mùa trăng: 
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, (251) 
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. (252) 
Nhẫn từ quán khách lân la, (287) 
Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai. (288) 
Lần lần ngày gió đêm trăng, (369) 
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua. (370) 
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ, (1595) 
Một niềm quan tái, mấy mùa gió trăng (1596) 
- Trăng tạo ra khung cảnh trữ tình để nh ân vật xuất hiện tâm tình trao đổi trò chuyện. Nó như đồng cảm lay động sự trở trăn của nhân vật. Thúy Kiều "tựa ngồi bên triện" thì trăng "chênh chênh" Thúy Kiều nhẹ gót thì ánh trăng như "đã xế" xuống gần soi bóng nàng Kiều: 
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành, (186) 
Tựa ngồi bên triện, một mình thiu thiu. (187) 
Nhặt thưa, gương doi đầu cành, (433) 
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. (434) 
Sinh vừa tựa án thiu thiu, (435) 
Giở chiều như tỉnh, giở chiều như mê. (436) 
Tiếng sen đã động giấc hòe, (437) 
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần. (438) 
Người anh hùng Từ Hải đã xuất hiện trong khung cảnh gió mát, trời ương, thiên nhiên huyền ảo. Ánh trăng đã tạo thêm vẻ đẹp huyền bí cho nhân vật huyền thoại: 
Lần thâu gió mát trăng thanh. (2165) 
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi. (2166) 
Người anh hùng đi tìm tình yêu có khác. Mượn ánh trăng tên họ Sở đánh tiếng xuất hiện trong sự dè xẻn, lén lút để vừa kiếm được tiền vừa kiếm được tình còn Từ Hải thì rất bất ngờ, đường đột, ngang nhiên, mạnh mẽ. 
- Mùa trăng thường đồng nghĩa với mùa của những hoạt động vào đêm. Có người xem đó là mùa chơi ứăng, thưởng ngọn cảm tác, cố người xem đó là mùa hò hẹn, song cũng có kẻ xem đó là cơ hội thực hiện mục đích của mình. Tú Bà tranh thủ mùa trăng truyền bí quyết về thuật tiếp khách làng chơi cho những ai mới vào nghề: 
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong, (1191) 
Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò: (1192) 
Khi "Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành."(1092) thì cũng là lúc "Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào."(1094). Và cuộc ra đi lặng lẽ của Sỡ Khanh - Kiều cũng ngay vào thời điểm đêm trăng: 
Đêm thu khắc lậu canh tàn, (1119) 
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. (1120) 
Lối mòn cỏ nhạt mùi sương, (1121) 
Lồng quê đi được bước đường một đau. (1122) 
- Trăng còn là hình ảnh gợi hoài niệm, nhớ thương, nỗi đau nỗi buồn. Tất cả quá vãng đẹp đẽ giờ chỉ còn là ảo ảnh chẳng khác nào ánh trăng đã làm nhòe đi mọi vật nhưng làm thao thức những chuyện tình: 
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, (1039) 
Tin sương luông hãy rày trông mai chờ. (1040) 
- Trăng cố lức là người bạn đồng hành, cảm thông toả sáng giúp con người thoát nạn. "Trăng tà về tây" phải chăng là sự định hướng về một lối thoát duy nhất cho Kiều: 
Cất mình qua ngọn tường hoa, (2027) 
Lần đường theo bóng trăng tà về tây. (2028) 
Mịt mù dặm cát đồi cây, (2029) 
Tiếng gà điểm nguyệt, dấu giày cầu sương. (2030) 
Khổ nhục trăm bề, Kiều quyết định quyên sinh, trăng lại xuất hiện để chia sẻ nỗi đau cùng tận cửa con người: 
Mảnh trăng đã gác non đoài, (2617) 
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong. (2618) 
- Trăng - sự vĩnh hằng của vũ trụ, trở thành thước đo của lời nguyền ước và là chứng nhân vô ngôn của hai miệng một lời. Nó đem hết nội lực tỏa sáng, soi rọi, dõi theo, lắng nghe từng lời nguyện thề kết tóc xe tơ. Con người là chứng nhân là chuyện thường tình nhưng vũ trụ tạo hóa trở thành nhân chứng mới là độc đáo. Ai dám thay đổi! Vầng trăng vằng vặc giữa trời, (449) 
Đinh ninh hai miệng, một lời song song. (450) 
Còn duyên, may lại còn người, (3073) 
Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa. (3974) 
- Có khi trăng đã trở thành ẩn dụ tu từ thể hiện sự tàn phai hoặc ngợi ca vẻ đẹp của con người. Cái đẹp càng có giá trị đích thực khỉ đã trải qua bão táp, đố là cái đẹp cửa sự trải nghiệm, vẻ đẹp tâm hổn nhân cách: 
Bấy chầy, gió táp mưa sa, (3099) 
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn. (3100) 
Hoa tàn mà lại thêm tươi, (3123) 
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. (3124) 
-Trăng còn là biểu tượng của niềm cô đơn, sự chia lìa đôi lứa: 
Vầng trăng ai xẻ làm đôi? (1525) 
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. (1526) 

Trăng trong thơ Nguyễn Du có nội hàm ý nghĩa rất phong phú. Nếu "ánh nắng buổi chiều là cái nhìn ra không gian" thì "ánh trăng khuya là cái nhìn vào nội giới. Hai tia sáng hội tụ vào ý thức giúp Kiều nhận định rõ chân tướng của định mệnh" [76, 176] 
Nguyễn Du đã sử dụng khá nhiều nét vẽ khác nhau về trăng - trăng chênh chếch (hơi lệch)" Giương nga chênh chếch dòm song; trăng xế trăng chênh "Chênh chênh bóng nguyệt xế mành "; trăng xẻ đôi chia cắt "Vầng trăng ai xẻ làm đôi"; trăng tròn sáng tỏ "Vầng trăng vằng vặc giữa trời"; trăng đầu tháng, trăng cuối tháng “Tuần trăng khuyết, đĩa dầu vơi"; trăng đầu hôm, trăng giữa hôm, trăng cuối hôm; trăng long lanh đáy nước "Vàng gieo ngấn nước cây lồng bổng sân"; trăng ngập ngừng trên” Giá trà mi đã ngậm trăng nửa vành"; trăng lúc nhặt, lúc thưa, lúc bao trùm khắp không gian, lúc xuyên qua kẻ lá "Nhặt thưa gương rọi đầu cành" Và còn có cả trăng xuân, trăng thu, trăng hè. sắc màu của trăng cũng vô cùng biến hóa rất khớp với không gian thời gian khi trăng xuất hiện - lúc thì sắc vàng dịu nhẹ, rõ mờ; lúc thì màu vàng đến độ cực điểm "vằng vặc" tỏa rộng bát ngát cả một vùng rộng lớn; lúc thì trắng hơi vàng"vẻ ngân"; lúc thì thu nội lực soi rọi vừa đủ để nhân vật hoạt động. Sự biến họa về sắc màu, đường nét của trăng thường có sự đồng nhất với tình cảm con người. Khi con người trầm tư mộng mơ thì "gương nga chênh chếch", khi sứ giả Đạm Tiên xuất hiện thì trăng "chênh chênh bóng nguyệt", khi có sự chia lìa mất mát thì "trăng khuyết" "trăng xẻ" và lúc hai tâm hồn hòa điệu thì trăng tròn “vằng vặc". "Cùng một ánh trăng mà không biết bao nhiêu màu sắc vì diễn tả không biết bao nhiêu tâm trạng: trăng đêm thanh minh sôi nổi, rạo rực, trăng đêm tình tự huyền ảo, êm đềm, trăng đêm lìa nhà hiu quạnh, xót xa, trăng ở lầu xanh chán chường nhạt nhẽo, trăng ly biệt Thúc Sinh đầy nhớ thương mà không hiu quạnh, trăng đêm thoát khỏi nhà Hoạn Thư lạnh lẽo và hãi hùng, v.v..." [27,193] 
3.1.2.4. Cảnh Kiều ra đi: 
Đây là đoạn thơ rất cảm động và ấn tượng. Nguyễn Du đã tạc vào không gian xa tít tấp một con người với tấm thân mảnh khảnh lầm lũi trong đồi cát, cỏ cây "mịt mù" và nhạt nhòa dưới màu vàng yếu ớt của trăng khuya, dần dần mất hút trong con đường dài quanh co vạn dặm vắng lặng đến rợn người. Chỉ một tiếng động tĩnh rất khẽ của "dấu giày "cũng nghe thấu. cấu trúc bức tranh được xây dựng trong sự tương phản - con người thì quá bé nhỏ trước cái cảnh đêm thì quá mông lung, không gian thì rộng vô tận. Không chỉ có hoa, bức tranh thơ còn có nhạc - tiếng nhạc đều đều của dấu giày hoà cùng tiếng gà canh khuya văng vẳng đâu đây và trên hết là tiếng nhạc lồng thổn thức lo sợ, tự thương mình: 
Canh khuya, thân gái dặm trường, (2031) 
Phần e đường xá, phần thương dãi dầu! (2031) 
Ngôn từ thơ thật đơn giản nhưng đây lại là hai câu thơ vô cùng đặc sắc. Câu trên mở ra thế giới ngoại cảnh, câu dưới đi vào thế giới tâm cảnh với hai hướng. Kiều cảm thây lo sợ điều không hay có thể đến "e đường xá" khi hướng ngoại và tự thương thân Thương dãi dầu" khi hướng nội. Cả hai tạo nên một sự cộng hưởng rất lớn về nỗi đau thân phận. Có thể xem đây là lời than thân của người trong cuộc và sự đồng cảm sâu sắc của người ngoài cuộc. Những thanh bằng "canh khuya thân, phần e đường", những vần có âm vang "trường, đường, thương” liên tiếp xuất hiện trong hai câu thơ làm cho câu thơ có sức âm vang, có khả năng khơi gợi một niềm cảm thương về kiếp "hồng nhan đa truân". Camera của thi hào Nguyễn Du như đã ria đủ hướng như tìm kiếm, dõi theo từng thao tác của nàng Kiều từ đầu đến cuối, từ khi thân gái yếu ớt mảnh khảnh cố cất mình qua bức tường hoa đầy hiểm nguy đến lúc rời xa khu vườn của nhà họ Hoạn trong cảnh ngộ bơ vơ không thấy đâu là nhà, người thân thích. 
3.1.2.5. Cảnh sông Tiền Đường: 
Nếu trăng trong thơ cụ Nguyễn Du là "nhân vật im lặng" thì sông Tiền Đường là nhân vật biết lên tiếng: 
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, (2619) 
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường. (2620) 
Cảnh sông Tiền Đường vừa được ghi âm, vừa được họa tác bằng hình ảnh. Với những nét cong của những con sóng đang cuộn tròn vỗ mạnh vào bờ, Nguyễn Du đã tạo ra một dồng sông với bao sóng nước dao động mạnh mẽ như muốn làm vỡ tung những gì che chắn. Tiếng triều hay là tiếng thét giận dữ bất bình của vu trụ trước sự bất công của cõi người? 
Nhưng khi Thúy Kiều được giải thoát thì sông Tiền Đường lại bình lặng êm ả. Nét vẽ lúc này là những nét trải dài rộng mở, êm nhẹ: 
Bốn bề bát ngát mênh mông, (2735) 
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau. (2736) 
Tìm đến cái chết nơi dòng sông là môtif giải thoát thường thấy ương văn học trung đại. Đạm Tiên con người "tài sắc một thì" từng xem nơi đây là mồ chôn của những người tài sắc. Vũ Thị Thiết khi bị bức tử đã quyên sinh nơi dồng sông Hoàng Giang. Khi bị đưa đi cống giặc Ô qua, Kiều Nguyệt Nga cũng tìm đến dòng sông. 
3.1.3. Chất họa trong những bức tranh cảnh sinh hoạt: 
Khác với những bức hoa phong cảnh, những bức hoa cảnh sinh hoạt thường có nhiều nhân vật, đường nét vận động trong nhiều chiều kích không gian, nhất là không gian rộng lớn. 
3.1.3.1. Cảnh du xuân: 
Cảnh du xuân được vẽ bằng những nét bút đẹp và sống động: Thanh minh, trong tiết tháng ba (43) 
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp thanh. (44)  
Gần xa nô nức yến anh, (45) 
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. (46) 
Dập dìu tài tử, giai nhân, (47) 
Ngựa xe như nước, áo quần như nem. (48) 
Ngổn ngang gồ đống kéo lên, (49) 
Thoi vàng vổ rắc, tro tiền giấy bay. (50) 

Mùa xuân, mùa của lễ hội. Lễ hội thanh minh là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào gần cuối mùa xuân. Trong lễ hội đó có phần lễ - tảo mộ và phần hội - đạp thanh. Bức tranh được khắc hoa trong thời gian tháng ba mùa xuân và không gian tràn ngập ánh sáng với những thảm cỏ xanh trải dài, người qua kẻ lại tấp nập đông vui. Hoa sĩ đã quan sát nhiều góc độ - gần xa, từ mới bắt đầu "sắm sửa" đến lúc cuộc chơi diễn tiến, sau đổ là kết thúc. Nhiều hình ảnh - Con người thiên nhiên, mồ mả tro tiền, ngựa xe vồ toàn bộ những gam màu - nóng, lạnh được huy động. Nổi bật nhất là sắc màu vàng của đồ mả, trắng xám của tro tiền - tiêu biểu của phần lễ và màu vàng nhẹ của nắng xuân, màu xanh hy vọng của cỏ non, sự vận động nhộn nhịp, đường nét mềm mại' tiêu biểu cho phần hội. Khắc họa cảnh lễ ra cảnh lễ, cảnh hội ra cảnh hội, cái tài của thỉ hào Nguyễn Du là ở chỗ đó. 
Ngày hội Đạp thanh còn là cơ hội gặp gỡ và cũng là cái ngưỡng có thể làm thay đổi trong đời sống tâm thần tình cảm của nhân vật. Bức họa càng trở nên rất sống động, rực rỡ, vui mắt một phần nhờ nhịp điệu sống khẩn trương dồn đập của những chàng trai cô gái, nhờ những cặp từ đôi diễn tả trạng thái, hoạt động - nô nức, sắm sửa, dập dìu, mô tả sự vật - ngổn ngang, những hình ảnh nối nhau, đối xứng. 
Tương phản với cảnh đông vui nhộn nhịp là cảnh về chiều trong vắng lê thê. Cảnh đẹp nhưng man mác buồn: 
Tà tà bóng ngả về tây, (51)
 Chị em thơ thẩn dan tay ra về. (52) 
Bước lần theo ngọn tiểu khê, (53) 
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. (54) 
Nao nao dòng nước uốn quanh, (55) 
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. (56) 
Sè sè nấm đất bên đường, (57) 
Rầu rầu ngọn cỏ, nửa vàng, nửa xanh. (58) 
Cảnh có bóng chiều đang xuống chầm chậm, con suối nhỏ, dòng nước trong, nhịp cầu nhỏ nhắn, ngọn cỏ vàng xanh héo ùa đang chuyển sắc màu, nấm đất nhỏ nhoi lẻ loi bên đường. Bức tranh được kiến thiết bằng những hình ảnh xinh xắn nhỏ nhẩn đáng yêu, bằng những đường nét uốn lượn, găm màu dịu mát hòa hợp - vàng, xanh, trắng trong một bố cục cân đối xa gần, cao thấp - nhịp cầu - dòng nước, nấm đất - ngọn cỏ. Cảnh xinh nhưng buồn. Trung tâm của bức tranh là hình ảnh chị em Thúy Kiều đang cất những bước chân nhẹ nhàng ngắm nhìn từng cảnh sắc một cách lặng lẽ, nghĩ suy, nuối tiếc miên man. Đây còn là bức tranh của tâm trạng. Cái nao nao của dòng nước hay chính là cái nao nao của tâm trạng con người. Ngọn cỏ dâu dâu, nấm đất sè sè hay chính là sự linh cảm về những điều không vui sẽ đến. 
3.1.3.2. Cảnh lầu xanh: 
Khác với bức vẽ giàu chất lãng mạn thông thoáng của cảnh du xuân, bức vẽ cảnh lầu xanh vừa có chất hiện thực vừa giàu tính tượng trưng, điển hình hoa. Nguyễn Du không dùng nhiều đến màu sáng, chả yểu sử dụng những găm màu tối để tạo ra những hình khối thể hiện sự tấp nập: 
Biết bao bướm lả, ong lơi, (1229) 
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm! (1230) 
Dập dìu lá gió cành chim, (1231) 
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. (1232) 
"Bướm, ong, gió, chim, dập dìu, đưa, tìm", những hình ảnh xuất hiện dồn dập liên tiếp cùng với những hoạt động không ngớt, bức tranh đã thể hiện đúng cái bản chất của lầu xanh: xô bồ, tấp nập, đông đảo, hoạt động vượt qua cái ngưỡng thời gian. Dù bức vẽ được thiết kế ương không gian có giới hạn nhưng nó vẫn gây ấn tượng mạnh bởi những âm thanh náo động của tiếng chân người đến kẻ đi, người đưa kẻ tiễn, tiếng nói, tiếng cười diễn ra thâu đêm suốt sáng. Lối điệp ý "bướm, ong - gió, chim, lả - lơi cách chuyển những động từ thành những danh từ "trận cười, cuộc say" đã diễn tả' được sự thường xuyên nhưng rập khuôn, sáo mòn.
Mặc dù chỉ ghi lại hiện tượng nhưng bức vẽ lại có giá trị tố cáo, lên án cái hoạt động tự do ngang nhiên ngoài vòng pháp luật của những ổ chứa, nơi đã làm hoen ố không biết bao nhiêu nhân cách, làm nát ta n không biết bao nhiêu gia đình. Đau xót, Kiều phải thốt lên rằng: Khi tĩnh rượu, lúc tàn canh. (1233) 
Giật mình, mình lại thương mình xót xa. (1234) 
3.1.3.3. Cảnh xử kiện: 
Khác với cảnh trên, cảnh xử kiện có vẻ uy nghiêm hơn: 
Đất bằng nổi sóng đùng đùng, (1405) 
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra. (1406) 
Cùng nhau theo gót sai nha, (1407) 
Song song vào trước sân hoa, lạy quỳ. (1408) 
Trông lên mặt sắt đen sì, (1409) 
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời: (1410) 
Khi miêu tả cảnh xử kiện, Nguyễn Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ để tập trung vào chi tiết chính - tội nhân và bản quan, người bị xử và kẻ xử kiện. Hai nhãn vật có sự tương phản về đường nét, sắc mặt, ngôn ngữ, hành động. Đối với người bị kiện, Nguyễn Du đặc tả những hình ảnh thể hiện sự tàn phai, tan tác "Đào hoen, liễu tan, gương lờ, mai gầy", khúm núm sợ sệt, thái độ căm lặng, chịu đựng "dám kêu, quỳ lạy". Ngược lại, đối với người xử kiện, ông chú ý đến thái độ lạnh lùng, ra oai, uy hiếp, ngôn ngữ gắt gỏng, khuôn mặt đầy vẻ cứng rắn, cương nghị "mặt sắt đen sì". Nguyễn Du khai thác thành công tính chất bất hợp lý của lối xử kiện lạ lùng, ngược đời, hiếm có - sỉ vả Thúc Sinh, đánh đập Thúy Kiều và ra lệnh cho trả về lầu xanh. Nhưng đến khi thấu hiểu sự việc, biết được tài thơ của Thúy Kiều, thì quan xử kiện đã thay đổi thái độ, sẩn sàng làm chủ hôn. Việc quan phủ nhân danh pháp luật thừa nhận cuộc tình duyên của Kiều và Thúc Sinh phần nào phản ảnh quan niệm "Trai năm thê bảy thiếp" của xã hội xưa. 
Theo Nguyễn Du "Chữ tài liền với chữ tai một vần", song có lẽ ông cũng không loại trừ trường hợp ngoại lệ. Nhờ tài thơ mà Thúy Kiều không phải trở về cuộc sống ô nhục nơi lầu xanh. 
3.1.3.4. Cảnh đốt nhà bắt cóc: 

Cảnh đốt nhà bắt cóc chẳng khác nào một cảnh thực đang diễn ra trước mắt người đọc. Các nhân vật gây án hành động bất ngờ khẩn trương, gọn gàng khéo léo đúng với thao tác của những kẻ chuyên săn người, giết mướn - Khuyển, Ưng: 
Dưới hoa dậy lũ ác nhân, (1641) 
Ầm ầm khốc quỷ, kỉnh thần, mọc ra! (1642) 
Đầy sân gươm tuốc sáng lòa, (1643) 
Thất kinh, nàng chửa biết là làm sao (1644) 
Thuốc mê đâu đã tưới vào, (1645) 
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì! (1646) 
Vực ngay lên ngựa tức thì, (1647) 
Phòng đào, viện sách, bốn bề lửa dong. (1648) 
Cảnh được vẽ bằng những nét vẽ mạnh - nhanh, nhiều nét nhọn của giáo gươm tua tủa gợi dữ dội và những âm thanh rầm rập của tiếng chân đi. Gam màu đó bao trùm của bức tranh "bốn bề lửa dong” đặc tả được cảnh khói lửa ngút trời, nhà tan cửa nát. Đối lập với sự dữ tợn, hầm hầm sát khí của bọn người đao phủ thủ chuyên gây án là tấm thân bất động, sự đơn chiếc. Nguyễn Du đã chủ ý vẽ hai cái thây người tròng một bức tranh - một hồn xiêu phách lạc, một thây vô chủ bên sông. Với hai hình ảnh ấy Nguyễn Du đã gián tiếp tố cáo cái xã hội vô trật tự thiếu kỹ cương nơi đó mạng sống con người chẳng được coi trọng. Pháp luật đâu rồi? Câu trả lời Nguyễn Du để ngỏ và phần trả lời thuộc về người tiếp nhận. 
3.1.3.5. Cảnh Kiều bị đánh đập: 
Trong toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều, không ít lần Thúy Kiều bị đánh đập. Mới mua về, Tú Bà đã ra oai bằng cách: “Phải làm cho biết phép tao! Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay."(977- 978). Sau khi bị sở Khanh lừa vào tròng, Kiều bị đánh đập dữ dội: "Hung hăng chẳng hỏi, chẳng tra. Đang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời. Thịt da ai cũng là người, Lòng nào hồng rụng, thắm rời, chẳng đau. Hết lời thú phục, khẩn cầu, Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa."(1135- 1140). Rồi sau đó Kiều bị quan phủ đánh đập tra khảo "Ba cây chập lại một cành mẫu đơn... Đào hoen quen má, liễu tan tác mày... Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương." (1426-1428-1430). Lần này, người đánh đập lại là mẹ của Hoạn Thư: 
Trúc côn, ra sức đập vào, (1739) 
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh! (1740) 
Xót thay đào lý một cành, (1741) 
Một phen mưa gió, tan tành một phen! (1742) 
Nếu đặt bốn bức tranh cạnh nhau, ta sẽ thấy được tài họa cảnh của Nguyễn Du. Bốn bức vẽ là bốn bức tranh khác nhau nhưng lại tiếp nối nhau, bổ sung cho nhau: hai lần Kiều bị Tú Bà đánh đánh đập, hai lần Kiều bị bọn quan lại tra khảo, chủ chứa dùng roi da còn bọn quan lại dùng cây và gậy, mức độ và tốc độ đánh cũng ngày càng tăng dần "ra tay, vùi liễu dập hoa, ra sức đập vào". Trong bốn bức vẽ, hình ảnh người bị đánh được miêu tả đậm nhạt khác nhau. Trong lần đánh thứ nhất, Nguyễn Du không vẽ ra vết tích ở tấm thân nàng Kiều, những vết tích được cảm nhận qua thông tin "bằn bặt giấc tiên" (bất tỉnh), trong lần thứ hai, ông dùng những nét vẽ tỉ mỹ giàu chất hiện thực”. Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa". Hai lần sau, ông dùng nhiều đến những ẩn dụ tu từ "Đào hoen, mai gầy, gương lở, vóc sương, mưa gió, đào lý tan tành". 
Bốn lần Kiều bị đánh lại là bốn lý do có khác nhau - Lần đầu vì Kiều bị tên họ Mã làm cho thất tiết, Tú Bà đánh để dằn mặt; lần thứ hai Thúy Kiều bị tên Sở Khanh lừa đi trấn, Tú Bà đánh để làm áp lực đẩy Kiều vào lầu xanh; lần thứ ba, quan phủ đánh vì cái tội "Mượn màu son phấn đánh lừa con đen"; và lần thứ tư là do quan niệm "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai", Hoạn Bà muốn bảo vệ hạnh phúc của con mình. 
Ngoài những nét riêng, bốn bức tranh cũng có những nét chung. Những hình ảnh đối lập tương phản dường như ở bức tranh nào cũng có - đối lập giữa kẻ có tiền có quyền với thân phận con ong cái kiến, giữa vũ lực tàn bạo và tấm thân mảnh khảnh chịu đựng. Chất nhân văn của những trang Kiều chính là thái độ lặng lẽ dõi theo, cảm thông với từng nỗi đau cửa nàng Kiều. 
3.1.3.6. Cảnh Kiều hầu hạ vợ chồng Hoạn Thư:
Đây là cảnh trớ trêu nhất. Mới hôm nào Kiều cùng Thúc Sinh chung chăn chung gối, tâm sự tỉ tê thì giờ đây Kiều trở thành "phận con hầu, giữ con hầu dám sai", sớm khuya hầu hạ, dâng rượu: 
Vợ chồng chén tạc, chén thù, (1835) 
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi. (1836) 
Bắt khoan, bắt nhặt, đến lời, (1837) 
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay. (1837) 
Cảnh có ba nhân vật, Thúc Sinh như một kẻ mất hồn luốn cuốn luýnh quýnh, Hoạn Thư - người chủ tiệc ra oai sai khiến, Thúy Kiều - cam chịu. Ba nhân vật với những nét vẽ - kẻ ngồi người đứng, kẻ uống người hầu, kẻ sai người thực hiện. Yêu cầu và hành động diễn ra liên tục và rất khớp nhau. Khác với Hoạn Thư và Thúc Sinh, nhân vật Kiều được Nguyễn Du dành nhiều nét vẽ - lúc đứng, lúc ngồi, lúc quỳ, lúc mời, lúc đến gần, lúc đứng xa, nhanh cũng không được, chậm cũng không xong. Kiểu vẽ này là kiểu vẽ nhiều tranh ỉchâc nhau cổ sự vận động, gần với lối vẽ dùng cho fìlm hoạt hoạ. Dựa vào những tiểu phẩm, ta có một bức vẽ rất chung về hình ảnh nàng Kiều lệ thuộc, hành động chóng vánh. Chưa hà giận, Hoạn Thư còn bắt Thúy Kiều: 
Áo xanh đổi lấy cà sa, (1921) 
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền. (1922) 
Việc làm đó tưởng đâu là rộng lượng nhưng thực chất là một kiểu đày đọa tinh vi - hủy diệt tuổi xuân. Và chắc chắn, những gì Kiều đã trải qua sẽ là những thứ virut gặm nhâm tâm hồn. Vì thế, cửa Thiền bất đắt dĩ sẽ là nơi chất chứa nỗi sầu thảm thương tâm: 
Phật tiền thảm lấp sầu vùi, (1929) 
Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm hương. (1930) 
Bao nhiêu cách hành hạ là bấy nhiêu nỗi đau - nỗi đau thể xác bị đánh đập, đày đọa, hầu hạ cộng với nỗi đau tinh thần bị lăng nhục xỉ vả, tất cả kết thành một chuỗi dài về nỗi đau thân phận mà thi hào đã thốt lên 

"Đau đớn thay phận đàn bà. 
Lời rằng bạc mệnh lại là lời chung." 
Gieo gió ắt gặt bão, Thúy Kiều đã cho chúng gặt bão như thế nào? 
3.1.3.7. Cảnh Thụy Kiều báo ân báo oán: 
Theo triết lý nhà Phật, người đã bước vào cửa thiền phải biết “Từ bi hỷ xả", rộng lượng tha thứ. Nhưng theo quan niệm truyền thống của dân gian, báo oán là lẽ đương nhiên. Những thành ngữ như "Ân đền oán trả", "Gieo gió gặt bão” đã ăn sâu vào tiềm thức người dân Việt Nam từ bao đời nay. Điều đáng trọng ở Thúy Kiều là cách vận dụng nó như thế nào cho phải đạo, hợp lẽ. Kiều đã xem việc báo ân quan trọng, xem việc sống sao cho có nghĩa, có tình, có trước có sau, thúy chung, nhân hậu là cứu cánh. Và Thúy Kiều đã lo báo ân trước khi báo oán. Để làm rõ vấn đề này, Nguyễn Du đã bố trí số lượng câu thơ không ngang nhau - đoạn báo oán chỉ 17 câu (từ câu 2380-2396), trong khi đoạn báo ân 27 câu (từ câu 2325-2350). 
Quan sát hai bức tranh, ta nhận thấy rằng - ngôn ngữ luận tội, luận công của Thúy Kiều vừa có lý vừa có tình, sắc sảo và góc cạnh; cách trả ơn hậu hỷ còn cách báo oán đích đáng nhưng không tàn bạo độc ác; Kiều biết đặt chữ tình lên trên giá trị đồng tiền. Mỗi bức tranh đều có hai màn - màn nhân vật xuất hiện và màn trả ơn trị tội. Nhân vật trung tâm, chánh án phiên tòa không ai khác là Vương Thúy Kiều. 
Ấn tượng nhất trong hãi bức tranh không phải là vàng bạc châu báu quá nhiều để trả ân và những hình ảnh đầu rơi máu chảy trong cuộc báo oán mà chính là lôgíc của nhân vật và lôgíc của câu chuyện. Thúc Sinh vốn là kẻ nhu nhược yếu hèn. Bản chất ấy thể hiện ngay cả trong lúc được báo ân: "Mặt như chàm đổ, mình dường dê run". Hoạn Thư xuất thân trong một già đình quyền quý, con quan lại bộ, có học, khôn ngoan sắc sảo đã tự làm luật sư bào chữa cho chính hành động phạm tội cửa mình. Sư Giác Duyên, người đã thoát tục, thích làm điều lành tránh điều dữ, quen với mùi kinh câu kệ. Vì thế, chứng ta không ngạc nhiên khi sư đón nhận phần thưởng hậu hỷ "nghìn vằng" một cách bình thản. Có lẽ với sư niềm vui lớn nhất là thấy Kiều đã thoát nạn”. Nửa phần khíp sợ, nửa phần mừng vui". Còn đối với Kiều, từ lúc rơi vào cảnh đọa đày, đây là lần đầu tiên Kiều vươn lên địa vị cao nhất. Lời lẽ và lối xử sự đúng là "Khôn ngoan vốn sấn tính ười". 
Dưới góc nhìn hội họa, hai bức vẽ có những đường nét và sắc màu khác nhau. Khác với bức vẽ trong cảnh báo ân, bức vẽ cảnh báo oán có nhiều nét cắt, gãy và nhiều găm màu đỏ với những cảnh tượng: "Máu rơi, thịt nát, tan tành". Thơ và họa ranh giới rạch ròi, nhưng trong trường hợp này đọc thơ chẳng khác nào xem một bức ảnh, một cảnh xử án thật sự đang diễn ra trước mắt mình. Đó chính là "Thi trung hữu họa", là tài năng trác việt của thi hào Nguyễn Du. So sánh cách báo oán của Kiều trong Truyện Kiều và cách báo oán của Kiều trong Kim Vân Kiều truyện, ai cũng thấy rõ Thanh Tâm Tài Nhân dàn dựng cảnh báo oán quyết liệt dữ dội hơn nhiều: "Bèn truyền quân tẩm dầu thông vào mình Tú Bà, đầu cắm xuống đất, chân trớ lên trời, đốt làm cấy đèn để đền thề xưa. Còn Mã Bất Tiến thì dùng găm căng người ra, lột hết da, rút hết gân, xẻ từng tay chân để ứng lời thề của nó. 
Lại nấu một vạc dầu nhựa thông lẫn với vỏ cây cho tan ra, một bên để một thùng nước lã, lột sạch quần áo Sở Khanh, một người tưới nhựa thông sôi lên mình Sở Khanh, một người tưới nước lã vào" [83,295]. 
3.1.3.8. Cảnh Hồ Tôn Hiến đánh úp Từ Hải: 
Một đoạn thơ và cũng là một bức họa khác hiện ra trước mắt người đọc. Bức họa có nhiều nét mới so với những bức hoạ ở trên- tính chất bất ngờ và hình tượng giàu chất điêu khắc: 
Hồ công ám hiệu trận tiền, (2513) 
Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ. (2514) 
Đang khi bất ý chẳng ngờ, (2515) 
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn! (2516) 
Tử sinh, liều giữa trận tiền, (2517) 
Dạn dày cho biết gan liền tướng quân? (2518) 
Khí thiêng khi đã về thần, (2519) 
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! (2520) 
Đoạn thơ có sức gợi rất lớn. Không miêu tả những cuộc giao tra nh trước đó nhưng người đọc vẫn có thể hiểu rằng - đội quân của Hồ Tôn Hiến không ít lần đại bại trước tài năng của Từ Hải. Không cổ cách nào khác hắn phải lật lộng, nuốt lời và bất ngờ đánh lén! Nét vẽ về người chiến thắng Hồ Tôn Hiến bị mờ đi khi nét vẽ về người anh hùng Từ Hải xuất hiện - một mình vùng vẫy, can trường, gan dạ và hào hùng trước hàng trăm mũi tên và hàng chục lưỡi kiếm. Việc tô đi tô lại cảnh Từ Hải vùng vẫy và cảnh "nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng", 
Nguyễn Du như muốn nói lên niềm uất ức nghẹn ngào, khát vọng tự do và công lý chưa thực hiện trọn vẹn của người anh hùng Từ Hải. 
3.1.3.9. Cảnh Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến: 
Cũng là cảnh hầu rượu nhưng cảnh Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến (từ câu 2565 đến câu 2698) khác với cảnh Thúy Kiều hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư. Không nhỏ nhặt tủn mủn đầy chất đàn bà, không bắt bẻ một cách nghiệt ngã như Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến chỉ: Bắt nàng thị yến dưới màn, (2567) 
Giở say, lại ép cung đàn nhặt tâu. (2568) 
Trong một hoàn cảnh đầy bi kịch, nỗi đau của Kiều như tăng lên gấp bội phần. Nếu trước kia Kiều phải hầu rượu cho người mới hôm nào là hôn phu và cả vị hôn thê của hắn thì trong bữa rượu hôm nay Kiều phải phục vụ cho chính người đã giết chồng mình. 
Cũng không tiếng như cảnh náo động với tiếng gươm khua, tiếng gầm thét nơi chiến trường trước đó, cảnh hầu rượu diễn ra nơi hậu trường yên tĩnh âm thầm chỉ có hai nhân vật. Nhân vật Hồ Tôn Hiến hiện lên với nhiều trạng thái dáng vẻ khác nhau: lúc tỉnh táo, lúc say vì men rượu, lúc say men tình, lúc thì say nhè và cuối cùng là sực tĩnh. Trong năm dáng vẻ ứng với ba yêu cầu mang tính bắt buộc-"bắt nàng thị yến dưới màn”,"Giở say, lại ép cung đàn nhặt tâu", "Ép tình mới gán cho người thổ quan" thì dáng vẻ khi Hồ Tôn Hiến say men rượu lẫn say men tình"mặt sắt, đắm, say, ngây" chất hoa thể hiện đậm và rõ nhất. Đây là sự biến thái quá đột ngột, khó lường đã hiện ra trên khuôn mặt của một ông tổng đốc trọng thần vừa bất tài, vừa háo sắc, vừa thiếu tư cách. Đối với Thúy Kiều, Nguyễn Du lại miêu tả bức tranh tâm cảnh, nỗi đau đến quặn lồng thông qua tiếng đàn, lời bộc bạch, và cả những ngón đàn rỏ máu. 

3.1.3.10. Cảnh sum họp gia đình: 
Cảnh sum họp gia đình tạo nên một kết cấu đầu cuối cân xứng, một kết cấu có hậu. 
Trông xem đủ mặt mọi nhà: (3009) 
Xuân già còn khỏe, huyên già còn tươi; (3010) 
Hai em phương trưởng hòa hai, (3011) 
Nọ chàng Kim đó, là người ngày xưa! (3012)  
Tưởng bây giờ, là bao giờ, (3013) 
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! (3014) 
Giọt châu thánh thót quen bào, (3015) 
Mừng mừng, tủi tủi, xiết bao sự tình! (3016) 
Cảnh được vẽ bằng rất nhiều nét bút với nhiều nhân vật theo một trình tự' chung đến riêng, lởn đến nhỏ, người thân đến người tình và được sắp xếp trong một bố cục cân đối, hợp lý. Mỗi nhân vật lại là một cách thể hiện - phúc hậu khỏe mạnh, đau đớn (cha mẹ), trưởng thành (hai em), buồn vui pha trộn (Kim Trọng), xót xa cay đắng ngậm ngùi đan xen với niềm hạnh phúc vô bờ, niềm vui vô hạn (Thúy Kiều). Mặc dù đoạn thơ giàu chất trần thuật nhưng vẫn có một vài tố chất của ngôn ngữ hội họa. Đó là những nét khắc họa về cử chỉ của người mẹ "gieo đầu dưới gối, khóc than kể lể", những giọt nước mắt lả chả làm hoen ố vạt áo dài của cô Kiều. Nhà thơ còn tạo ra một không khí trầm lắng để ghi âm từng giọt nước mắt "thánh thót". Cảnh đoàn tụ thật cảm động và dường như niềm vui sướng đã làm cho đường biên giữa hiện thực và giấc mơ ở nhân vật Thúy Kiều đã bị xóa nhòa. 
3.1.4. Chất họa thể hiện qua bức tranh tùng: 
Trong tác phẩm Truyện Kiều chỉ có một lần duy nhất thi hào thi hào dùng ngôn ngữ văn học để tả lại một bức hoa đích thực do chính tay Kim Trọng vẽ và Thúy Kiều đề thơ. Vì thế chất họa càng trở nên đậm đặc: 
Trên yên, bút giá thi đồng, (397) 
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên. (398) 
Phong sương được vẻ thiên nhiên, (399) 
Mặn khen nét bút, càng nhìn càng tươi. (400) 
Sinh rằng .-"phác hoa vừa rồi, (401) 
Phẩm đề, xin một vài lời thêm hoa." (402) 
Bằng hai câu thơ ba hình ảnh: gió - sương - tùng, Nguyễn Du đã tả được một bức tranh thủy mặc do chính tay Kim Trọng vẽ. Bức tranh rất sinh động được thiết kế trong một bố cục thông thoáng. Nhìn từ góc độ thẩm mỹ cây tùng là một loài cây đẹp, khỏe khoắn, vững chải. Cây tùng càng trở nên giàu ý nghĩa và ấn tượng hơn khi nó được đặt trong bối cảnh có những đường nét vận động của gió và bức phông làm nền mờ ảo của sương. Kim Trọng khá thận trọng và cân nhắc khi phối màu. Xanh nhạt - vàng phai nằm trong nhóm màu dịu nhẹ, "Vàng và lơ: hai màu này cho cảm giác xa hơn đỏ nhưng cũng tương phản mạnh. Sự dịu nhẹ do cảm giác tâm lý và do giá trị màu gây nên" [50,85]. Sắc màu "nhạt, phai" còn tạo được ấn tượng phong trần, gió sương. Nhờ lối phối màu này bức vẽ trở nên tự nhiên, giản dị nhưng vẫn hàm súc. Trong nghệ thuật tự nhiên đồng nghĩa với điêu luyện. 
Giá trị ý nghĩa của bức tranh vượt ra ngoài những nét vẽ, sắc màu vốn có vì "Mặn khen nét bút, càng nhìn càng tươi". Cái tươi đó chính là cái thần của bức tranh và chỉ xuất hiện dưới ngòi bút của những thiên tài hội họa. Cái tươi đó còn là cái tươi của tâm hồn người xem tranh và người vẽ tranh gởi gắm. Dường như có sự đồng nhất về quan niệm thẩm mỹ và thị giác thẩm mỹ giữa chàng Kim và cô Kiều. Khi nói đến nhạc, Nguyễn Du dùng đến ngôn ngữ âm nhạc nhưng khi nói đến họa, ông lại dùng đến ngôn ngữ của hội họa. "Sắc thái đạm thanh vốn là đặc điểm chung của những bức tranh tranh thủy mặc, tranh quốc họa, tranh thuốc nước cổ, hơn nữa nó còn là thị hiếu chung cái goôt của nghệ thuật phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam" [23,163]. 
Có chăng cây tùng trong bức tranh chính là bóng hình của Kim Trọng, một chỗ dựa đáng tín cậy mà bức thông điệp muốn gởi đến nàng Kiều? Trong thơ văn cây tùng tượng trưng cho người quân tử cổ khí phách, hiên ngang vững vàng trước mọi thử thách của cuộc đời. Nguyễn Trãi cưng đã từng bộc bạch khí phách của mình trong bài thơ "Tùng" (Thu đến cây nào chẳng lạ lùng, Một mình lạt thuở ba đông. Lâm tuyền ai rặng già làm khách, Tài đống lương cao ít cả dùng). Cũng với ý nghĩa ấy, Nguyễn Công Trứ có bài thơ "Vịnh mùa đông” (... Bốn mùa ví những xuân đi cả. Góc núi ai hay sức lão từng). 
Bức họa ngoài việc giúp ta hiểu được tài năng hội họa của chàng Kim, tài thơ của Thúy Kiều mà còn hiểu được quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Du. Thi hào không thích những gì lòe loẹt, phô trương, ồn ào chỉ thích những gì nhẹ nhàng kín đáo trầm lắng nhưng sâu sắc. Cũng là bức họa, nhưng bức họa trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đơn sơ hơn rất nhiều: "Bức vẽ này màu xanh nhạt vàng phai, nét bút rất khéo mà sao không đề vịnh?" [83,63]  
Tính chất “Thi trung hữu họa" trong tác phẩm Truyện Kiều rất nhiều nhưng không có nghĩa là đoạn thơ nào cũng có. Những đoạn thơ giàu chất tự sự, đối thoại, trần thuật sự việc hầu như không có. Có chăng chỉ là một vài nét ở một hai câu thơ. Những đoạn thơ tả chân dung nhân vật, tả phong cảnh, chất họa gần như đậm đặc còn những đoạn tả cảnh sinh hoạt chất họa lúc đậm lúc nhạt 
Nếu lấy đường nét làm điểm tựa, ta nhận thấy rằng những bức tranh tả cảnh ngụ tĩnh thường cổ đường nét mềm mại thông thoáng hem so với những bức tranh tả cảnh Kiều bị đày đọa, cảnh xử án... Nếu lấy sắc màu làm cơ sở so sánh, ta lại thấy những bức tranh tả phong cảnh thường nặng màu sắc nhẹ đường nét, ngược lại những bức tranh tả cảnh sinh hoạt thường nhẹ màu sắc nặng về đường nét. 

Nếu trong thơ Đường găm màu nhạt và nhẹ đã trở thành thông dụng (Tĩnh dạ tứ, Vọng Lư Sơn bộc bố, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng - Lý Bạch, chùm thơ Tuyệt cú - Đỗ Phủ....) thì trong Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX màu sắc đậm và rõ lại là sắc màu chủ lực. Nguyễn Du không ít lần dùng sắc đỏ, sắc vàng đậm đặc khi tả rừng phong, vầng trăng, hoa lựu. Đặng Trần Côn khi viết "Chinh phụ ngâm", cũng đã sử dụng tối đa những găm màu đậm "xanh thăm thẳm" của nền trời, "xanh ngắt" của ngần dâu, xanh đậm của rêu, màu đỏ như ráng pha của áo.... Trong thơ Hồ Xuân Hương, sắc màu còn đậm hơn: xanh rì, đỏ lòm lom, trắng phau phau, đỏ lét, quần hồng... 
"Nguyễn Du không chỉ là thi hào, nhà văn, nhà họa sĩ mà còn là nhà triết học và nhà ngôn ngữ học nữa."(Mrs Heather- người Mỹ, thạc sĩ văn hóa phương Đông - trích lời giới thiệu đĩa nhạc CD Kiều ca) (Song of Kiều), vốn hiểu biết về hội hoa của Nguyễn Du rất đáng cảm phục. Ông không chỉ sử dụng chính xác phù hợp ngôn ngữ về sắc màu, những kiều đường nét mà còn sử dụng nhiều loại hình hội họa - họa điêu khắc, họa chân dung, họa cảnh, hoạt họa, vẽ nhiều dạng tranh - hiện thực, ấn tượng. 
3.2. Tác phẩm họa về Kiều trong cảm hứng của người đời sau: 
Khác với những kiểu tiếp nhận khác, cách tiếp nhận bằng tranh qua tranh là cách tiếp nhận bằng những hình ảnh cụ thể. Bởi lẽ hội họa vốn rất cụ thể. Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng..., một khung cảnh, một cuộc chia tay, một sự kiện... dưới ngòi bút của các họa sĩ là những đường nét, hình khối, màu sắc rõ ràng. Cũng như những loại Hình nghệ thuật khác, hội họa không cho phép sự rập khuôn. Vì thế cùng một nhân vật nhưng họa sĩ này chọn nhân vật trong tình huống này, họa sĩ khác lại chọn nhân vật trong tình huống khác. Song dù đứng ở góc nhìn nào thì một bức tranh minh họa có giá trị là một bức tranh không chỉ đẹp mà cồn phải sát với tác phẩm, phản ảnh đúng cái thần thái câu thơ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân trong "Mấy nhận xét về tranh vẽ minh họa Truyện Kiều" [51,4] đã chỉ ra một số thiếu sót trong một số tranh minh họa: 
46 bức họa của Nguyễn Hữu Nhiêu in trong bản Kim Vân Kiều năm 1911, Trương Vĩnh Ký phiên âm và chú thích "vẽ các nhân vật ăn mặc theo kiểu người miền Nam hồi đầu thế kỷ XX. Chiếc xe chở Thúy Kiều về Lâm Truy cũng là chiếc xe tay kéo! Các bức tranh vẽ ấy nổi chung đều xâu, không theo một phép phối cảnh nào". 
17 bức họa của các họa sĩ Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Đỗ Cung, in trong quyển Kim Vân Kiều do nhà xuất bản thông tin ấn hành năm 1989 có hai bức vẽ khoả thân không chính xác: 
"Nguyễn Tư Nghiêm nghĩ sao lại vẽ cô Kiều đứng tắm khoả thân ở ngoài sân, mé đầu đường, bên cạnh lu nước cố cái gáo dừa". 
Bùi Xuân Phái vẽ về một thiếu nữ tóc buông dài xuống đất, mình để trần, phần thân dưới mặt chiếc quần đen để lộ rốn đen "vẽ như vậy chỉ mới nửa toa thiên nhiên thôi". [51, 3-4] 
Dựa vào những tranh minh họa tập hợp được, có thể phân ra nhiều dạng tranh minh hoa như sau: 
3.2.1. Tranh minh họa: 
3.2.1.1. Tranh minh họa dùng làm trang bìa: 
Những bức tranh được chọn làm bìa thường là những bức tranh tiêu biểu nhất. Những bức tranh này thể hiện được nhân vật chính hoặc một nội dung chính của tác phẩm. Truyện Kiều là tác phẩm đặc biệt được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ứng mỗi lần xuất bản là một tranh bìa khác nhau. Tổng hợp những quyển Kiều xuất bản nhiều nước trên thế giới, ta thấy có các dạng trình bày sau: 
- Trình bày dưới dạng nhân vật: 
+ Kiều xuất bản ở Germany (1980) in nhân vật chính Thúy Kiều. “Trình bày dưới dạng biểu tượng về nhân vật: 
+ Kiều xuất bản ở France in biểu tượng Kiều và Kim Trọng kèm với tên tác giả, tác phẩm. 
+ Kiều xuất bản ở Czecholovakia in biểu tượng Kiều 
+ Kiều xuất bản ở China in biểu tượng Kiều và dòng chữ Hán. 
- Trình bày dưới dạng biểu tượng về tên nhân vật: 
+ Kiều xuất bản ở Poland ghép tên ba nhân vật chính đã tính lược. “Trình bày dưới dạng quyền sách. 
+ Kiều xuất bản ở Japan trình bày như một quyển sách xưa. 
- Trình bày dưới dạng cây đàn. 
+ Kiều xuất bản ở Great Britain in cây đàn Tỳ Bà kèm với tên tác phẩm, tác giả. 
- Trình bày dưới dạng cảnh. 
+ Kiều xuất bản ờ Pari in cảnh "Long lanh đáy nước in trời" (Bản in 1951), cảnh Kiều đánh đàn trong đêm trăng (Bản in 1998) 
+ Kiều xuất bản ở USA cũng in cảnh Kiều đánh đàn trong đêm trăng. - Riêng Truyện Kiều được in ở Việt Nam rất phong phú đa dạng. Để tránh sự trùng lặp, mỗi lần in các nhà xuất bản lại thay đổi kiểu trang trí ở trang bìa. Có thể chọn một vài dạng tiêu biểu: 
+ Nhà xuất bản Đồng Nai: chọn biểu tượng Kiều và cây đàn Tỳ Bà 
+ Nhà xuất bản văn hóa thông tin: chọn cảnh Kiều đánh đàn trước mặt Kim Trọng. 
+ Nhà xuất bản văn hoá dân tộc: in hình Kiều ương ngày hội Đạp thanh, Kiều đánh đàn. 
+ Nhà xuất bản văn học: in cảnh Kiều đánh đàn dưới hoa. 
+ Nhà xuất bản Đà Nẵng: in hình Kiều ôm đàn kèm với dòng chữ về tên tác giả tác phẩm. 
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được chu du gần khắp thế giới. Hầu hết các tranh bìa của nhiều nhà xuất bản trong và ngoài nước đều đẹp và có giá trị về mặt thông tin. Có những tranh bìa thuộc dạng độc đáo như tranh bìa trình bày dưới dạng sách xưa, dạng biểu tượng. 
3.2.1.2. Tranh minh họa nhân vật: 
Loại tranh này thường không có phụ cảnh. Họa sĩ tập trung làm rõ dáng vẻ của nhân vật trong một hoàn cảnh cụ thể. 
- Tranh của Nguyễn Mai Hoa: 

Họa sĩ Nguyễn Mai Hoa vẽ 22 bức tranh minh họa in trong quyển Truyện Kiều do nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội in năm 1999. Tranh của Mai Hoa là loại tranh màu. Họa sĩ chỉ sử dụng ba loại màu - đen cam vàng trông rất mát mắt và ấn tượng. Tranh chủ yếu sử dụng đường nét làm rõ mảng khối. Các đường nét hài hòa - nét lớn đan xen với những nét nhỏ, nét phụ làm nổi bật nét chính. Khắc phục phần hạn chế của một số hoa sĩ đi trước Mai Hoa vẽ đúng kiểu ăn mặc của xã hội xưa. Nhiều nét vẽ thể hiện được chất suy tư của nhân vật (Kiều khóc trước nấm mồ vô chủ). Nhiều bức tranh thể hiện được khung cảnh, nội dung đoạn thơ (Kiều trên đường đi trốn, Kim Trọng trở lại vườn Thúy, Thúy Kiều trên chuyến xe di hành, Kiều bên sông Tiền Đường...), một số nhân vật họa sĩ vẽ khá thành công như nhân vật Từ Hải, nhân vật Vương ông, nhân vật vương Quan khi bị trói, Kiều báo oán) 
Sẽ khó xác định nếu nhà xuất bản lại sắp xếp những tranh này ở những vị trí không phù hợp với nội dung những câu thơ ương Truyện Kiều. Chẳng hạn bức tranh trang 94 đổ là Kiều với Thúc sinh hay Kim Trọng hoặc bức tranh trang 128 Kiều đánh đàn cho Kim Trọng hay vợ chồng Thúc Sinh? Nếu Kiều đánh đàn cho Kim Trọng thì phải sắp xếp ở phần đầu còn nếu Kiều đánh đàn cho vợ chồng Thúc Sinh thì thiếu Hoạn Thư. 
3.2.1.3. Tranh minh họa cho những câu thơ: 
3.2.1.3.1. Tranh của họa sĩ Tứ Duyên: 
(Trích từ quyển Truyện Kiều và tuổi trẻ - Nhà xuất bản Pari,1998) Họa sĩ Tứ Duyên vẽ 19 bức tranh. Các bức họa có chính có phụ, có đậm có nhạt có, tĩnh có động, cổ cận cảnh có viễn cảnh. Tất cả đều được phối trí rất hợp lý và phù hợp. Những bức tranh trên không chỉ phù hợp nội dung từng câu thơ mà còn rất đạt trên nhiều phương diện: trang phục, nét riêng của từng nhân vật, chọn cảnh, bố cục. Những phụ cảnh như màn trúc, bàn ghế, đẩu, ống đố... đúng với thời đại nhân vật đang sống. Cảnh Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường là một b ức vẽ ấn tượng... 
Ngoài những thành công trên, có một số bức vẽ không sát với nội dung câu thơ, chẳng hạn như bức tranh "Khách đà lên ngựa người còn ghé theo" tác giả lại vẽ Kim trọng ghé theo. Bức họa về Tú Bà chưa thấy được cái dáng vẻ “Ăn gì to lớn đẩy đà làm sao". Nhân vật Mã Giám Sinh với dáng hình và lối ngồi "tót" chưa được thể hiện rõ. 
3.2.1.3.2. Tranh của họa sĩ Nguyễn Thị Hợp: 
(Trích từ Kim Vân Kiều truyện - nhà xuất bản Khai Trí Sài Gòn) Nguyễn Thị Hợp cũng đã vẽ 12 bức tranh minh họa. Lối vẽ của Nguyễn Thị Hợp khác với lối vẽ của Tú Duyên. Tú Duyên vẽ theo kiểu đậm nhạt rõ mờ rất sinh động, còn Nguyễn Thị Hợp chủ yếu sử dụng hai loại màu đen trắng, sử dụng đường nét kết hợp với hình khối đậm. Họa sĩ Hợp dùng những mảng khối quá đậm làm mất đi những đường nét mang tính chất chi tiết. 
3.2.1.3.3. Tranh của Song Yên: 
Trong quyển «Viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều» của Nguyễn Trí Tích - nhà xuất bản Thanh niên, 2001 có in 4 bức tranh của Song Yên - Thấy người nằm đó biết sau thế nào, Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa, Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ, Bắt phong trần lại phong trần và 2 bức thư pháp». Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”, «Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài». 
Song Yên là người giỏi về thư pháp cho nên tranh của ông mang đậm chất thư pháp. Sử dụng phối hợp hai bút pháp trong một bức tranh, Song Yên đã tạo ra những bức tranh độc đáo và lạ mắt. 
3.2.1.3.4. Tranh của hoạ sĩ Phạm Thu Thương: 
Quyển Kim Vân Kiều (Nhà xuất bàn văn học Pari, 1951) có một bức tranh in một bức họa của họa sĩ Thu Thương, Đây là bức tranh về cảnh "Long lanh đáy nước in trời. Thành xây khói biếc non phơi bổng vàng”. Bức tranh được phối màu khá sinh động. Tác giả chọn gam màu cam rất phù hợp với bức tranh mùa hè. Có thể xếp bức họa này vào nhóm những bức họa thuộc trường phái ấn tượng. 3.2.1.3.5. Tranh của họa sĩ Vũ Cao Đàm: 
Cũng trong quyển Kim Vân Kiều (Nhà xuất bản Pari,1951) có in một bức tranh của Vũ Cao Đàm - tranh vẽ cảnh Kim Trọng trả kim thoa và trao nhẫn cho Thúy Kiều. Trong bức tranh này tác giả dùng nét mờ, sử dụng nhiều màu nhưng chủ yếu là gam màu xanh. 
3.2.1.3.6. Tranh của họa sĩ Phạm Cung: 
Trong quyển "Historire de Thúy Kiều" của Nhà xuất bản văn hóa có in 10 bức tranh của họa sĩ Phạm Cung. Họa sĩ Phạm Cung sử dụng nhiều tới mảng khối. Đường nét ít nhưng đậm. Đây là loại tranh minh họa cho câu thơ cho nên dù nhân vật hiện lên loáng thoáng nhưng người xem vẫn cổ thể phân biệt từng nhân vật trong từng hoàn cảnh cụ thể. Dường như ông muốn lạ hóa tranh của mình để tạo ra phong cách riêng gây hứng thú cho người xem. 
3.2.1.3.7. Tranh của họa sĩ Huy Tiến: 
Trong quyển Truyện Kiều do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản có in 17 tranh của Huy Tiến. Trong những bức tranh này, nhân vật có vai trò chính yếu còn phụ cảnh có vai trò thứ yếu. Có một số bức tranh, họa sĩ chưa làm rồ nét khác biệt giữa các nhân vật, chưa thể hiện được chiều sâu nội tâm của nhân vật trong một hoàn cảnh cụ thể. Bức tranh "Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dang tay ra về", người xem rất khó phân biệt đâu là Thúy Kiều và đâu là Thúy Vân hoặc bức tranh "Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây", nỗi đau quặn lòng của Thúy Kiều chưa được thể hiện. Nhìn chung, các bức vẽ của họa sĩ Huy Tiến chưa thật đặc sắc chỉ minh họa được một phần câu thơ. 
3.2.1.4. Truyện tranh: 
+ Tranh của họa sĩ Trương Quân: (Trích từ Truyện Kiều bằng tranh -Nhà xuất bản văn hóa dân tộc - 2000) Truyện Kiều bằng tranh là cách tiếp nhận mới. Vẽ truyện tranh rất công phu và đòi hỏi tới tài năng của người họa sĩ. Từ một tác phẩm bằng thơ nay có thêm một tác phẩm bằng những hình ảnh rất cụ thể, sinh động. Mọi sự kiện, tình tiết, biến cố, nhân vật đều được phản ảnh qua tranh vẽ. Thông qua tranh vẽ người xem có thể hiểu rõ nội dung tác phẩm Truyện Kiều một cách dễ dàng. Truyện tranh thường phục vụ cho lứa tuổi thiếu niên, lứa tuổi cần những hình ảnh rõ ràng. Nhưng do tính chất bác học của tác phẩm, Truyện Kiều bằng tranh lại có ích cho nhiều lứa tuổi. Họa sĩ Trương Quân đã vẽ bốn trăm bức tranh minh họa. Cứ trung bình 8 câu thơ là có một bức tranh. 

Các nhân vật trong tranh của Trương Quân khá phân minh rạch ròi - Quan ra quan, người anh hùng ra người anh hùng, bọn tôi tớ ra bọn tôi tớ. Những bức tranh trở nên có hồn hơn khi tác giả chú ý đền những sắc thái biểu hiện trên nét mặt cử chỉ của từng nhân vật, chẳng hạn như Kiều khi vui, khi buồn, khi xót xa, đau đớn, Tú Bà lúc giận dữ, lúc hả hê thích chí... Bên cạnh những thành công trên có một số bức tranh chưa thật sát với tác phẩm. Tranh Kiều bên nắm mồ vô chủ tác giả vẽ thêm những cơn mưa. Mụ Tú Bà vẽ chưa thể hiện tính chất "to lớn đẩy đà. Nét vẽ nhân vật này còn hiền. 
Nhìn chung, mỗi họa sĩ có những cảm hứng riêng. Có họa sĩ chọn cảnh này nhưng cưng có những họa sĩ chọn cảnh khác. Có khi cảnh được chọn vẽ giống nhau nhưng cách thể hiện khác nhau. Cảnh nấm mồ vô chủ hoa sĩ Tú Duyên vẽ cảnh "Lầm dầm khấn khứa nhỏ to", họa sĩ NguyễnThị Hợp, họa sĩ Trương Quân lại vẽ "Mà đây hướng khói vắng tanh thế mà. "Cảnh Kiều gieo mình” Tú Duyên vẽ cảnh Kiều đang từ trên thuyền nhảy xuống dòng nước, họa sĩ Hợp vẽ cảnh Kiều được vớt lên thuyền, còn họa sĩ Trương Quân lại vẽ cảnh Kiều đang từ từ rơi xuống dòng nước còn con thuyền thì bị khuất lấp. "Cảnh Kiều đi trốn", Tú Duyên chọn cảnh "Dặm rừng bước thấp bước cao ngại ngừng họa sĩ Hợp chọn cảnh "Cất mình qua bức tường hoa", còn Trương Quân lại chọn cảnh "Lần đường theo bóng trăng tà về Tây"... Dưới sự cảm thụ của nhiều người tiếp nhận, Truyện Kiều thật sự có một đời sống vô cùng phong phú và đa dạng. 
3.2.1.5. Tranh minh họa cho nhạc về Kiều: 
Trong 12 khúc Kiều ca, Trương Thìn có vẽ 12 bức tranh. Ông sử dụng nhiều nét đậm, mảng khối đậm. Do nội dung những đoạn thơ trong Truyện Kiều đã được gợi lên qua âm thanh của âm nhạc nên họa sĩ Trương Thìn sử dụng cách vẽ tranh theo lối siêu thực. Có một số bức họa rất độc đáo như bức họa "Kiều tắm, Một xe trong cõi hồng trần, Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Buồn trông cửa bể chiều hôm". Âm hưởng trong từng câu nhạc ru hồn người nghe, còn những bức hoa lại góp phần cụ thể hoá hình ảnh thơ, cụ thể hóa ngôn ngữ nhạc. Nhờ thế, thị giác thính giác và cả tri giác đều được đánh thức. Những câu thơ Kiều sẽ âm vang trong lòng người thưởng thức và chắc chắn nó sẽ được hiểu và cảm sâu hơn. 
3.2.1.6. Tranh minh họa cho trang phục sân khấu: 
(Trích từ dẫn giải Truyện Kim Vân Kiều - Huyền Mặc - Đạo Nhân soạn - In tại nhà in Tín Dục và Thư Xá Sài Gòn) 
Tranh vẽ cho trang phục sân khấu thường giàu tính chất cách điệu, không có phụ cảnh. Người vẽ ít chú ý đến tính sinh động, đáng vẻ, cử chỉ của nhân vật. Hoa sĩ vẽ 15 bộ trang phục cho 15 nhân vật trong Truyện Kiều khi được đưa lên sân khấu - Thúy Vân, Từ Hải, Thổ Quan, Hồ Tôn Hiến, Sư Giác Duyên, Khuyển Ưng, Khuyển Phê, Hoạn Thư, Tú Bà, Bạc Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Phúc ông, thằng bán tơ, Sư Tam Hợp. 
Họa sĩ vẽ kiểu trang phục khá phù hợp với vị thế của từng nhân vật - quan, sư, người anh hùng, bọn đâm Ihuê giết mướn, phù hợp với lối trang phục trong xã hội thời xưa. Cách trang điểm của từng nhân vật đã thể hiện được tính cách của từng nhân vật trong tác phẩm. 
3.2.2. Tranh và ảnh dàng trong trang trí: 
3.2.2.1. Tranh
Kiều ở dinh Độc lập: 
Kiều là một nhân vật trong một kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, là hình ảnh tượng trưng cho cái đẹp về tài năng, tâm hồn, lẫn phẩm chất của người Việt. Tranh Kiều được tntag bày tại dinh Độc Lập, nổ như một niềm tự hào dân tộc, như một lời giới thiệu với bè bạn gần xa trên thế giới khi đến đây tham quan du lịch. 
Đối với người Việt Nam, dinh Độc lập là thành trì còn sót lại của chế độ cũ. Hình ảnh cô Kiều xuất hiện nơi đây là một minh chứng cho thái độ trân trọng của xã hội đối những tài hoa mà trước đây không có đất dụng võ. Đứng về mặt trang trí, tranh Kiều cũng góp phần không nhỏ trong việc làm cho khung cảnh nơi dinh Độc Lập vốn cầu kỳ lộng lẫy trở nên nhẹ nhàng. 
3.2.2.2. Ảnh Nguyễn Quốc Phẩm: 
Khác với hoa, ảnh chụp mang tính chất sao chép hiện thực. Nguyễn Quốc Phẩm là một nhiếp ảnh gia. Với tấm lòng kính phục ưước một tài năng lớn, ông đã có những tranh chụp rất hữu ích: 
- Ảnh chụp về đền thờ Nguyễn Nghiễm thân phụ Nguyễn Du. 
- Ảnh chụp mộ thi hào Nguyễn Du. 
- Ảnh chụp bia tưởng niệm nằm trong khu lưu niệm Nguyễn Du. 
- Ảnh chụp lãnh đạo huyện Nghi Xuân và xã Tiên Điền dâng hương tại đền Thành hoàng trước ngày trùng tu 7-1998. 
Những bức ảnh trên đã cho thấy thái độ trân trọng của dân tộc đối với Nguyễn Du và gia đình ông. Ngoài ra, nổ cồn giúp cho những ai chưa có điều kiện đến thăm quê hương, bia mộ Nguyễn Du có điều kiện hiểu rõ thêm về nơi yên nghĩ cuối cùng của một đại thi hào dân tộc. 
Nói chung, những bức tranh minh họa dưới ngòi bút của các họa sĩ đã góp phần rất lớn trong việc biến những cái vốn vô hình thành hữu hình, biến những thứ vốn trừu tượng thành cụ thể. Hội họa rất cụ thể nhưng dưới nhiều ngòi bút nó lại trở nên biến hoá khôn lường. Sự đa dạng trong cảm hứng sáng tạo và cả trong cách thể hiện của các nghệ sĩ không chỉ làm cho người tiếp nhận Truyện Kiều được sâu hơn mà còn khẳng định tầm ảnh hưởng sâu rộng của tác phẩm, sức sống kỳ diệu của Truyện Kiều và khơi nguồn cảm hứng tiếp tục sáng tác cho các nghệ sĩ khác. Những nhân vật, cảnh vật, sự kiện trong Truyện Kiều đã và sẽ tiếp tục có những đời sống mới trong lãnh vực hội họa. 

Kết luận: 
Nhạc và họa là hai phạm trù thường xuất hiện trong thơ. Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu nghệ thuật, cổ nhân đã đức kết điều đố bằng câu nối có tính chất bất di bất dịch 'Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc". Dựa vào nền móng đã có sẵn, người viết luận án đã cảm thấy thú vị khỉ tiến hành hệ thống và làm rõ thêm tính chất ấy trong một tác phẩm cụ thể. Nhạc và họa về Kiều trong cảm hứng của người đời sau có thể xem là sự nối tiếp trong quá trình sáng tạo, là những tác phẩm "con" của một tác phẩm "mẹ". Nó không chỉ thể hiện tài năng của người sáng tác mà còn góp phần làm thăng hoa thi phẩm, làm cho thi phẩm có thêm màu sắc và tầm vóc. Qua nghiên cứu tổng hợp đánh giá, người viết luận văn có thể rút ra một vài kết luận: 
- Về tính nhạc: 
+ Nguyễn Du đã phát huy tối đa thế mạnh của ngôn ngữ -từ vựng, cú pháp, nhất là thế mạnh của ngôn ngữ tiếng Việt đặc biệt là mặt ngữ âm và thể thơ truyền thống. Nhờ thế, tác phẩm Truyện Kiều trở thành một tác phẩm giàu nhạc điệu. Mặc dù tính nhạc thuộc về lãnh vực hình thức nhưng không có một hình thức nào lại không hàm chứa nội dung và không có nội dung nào lại không được thể hiện bằng hình thức. Vì vậy khi nghe nhạc điệu của những câu Kiều ta còn cảm được tiếng nhạc lòng của từng nhân vật. Những giai điệu lúc êm ái ngọt ngào, lức mạnh mẽ hùng tráng, lúc chậm chạp tỉ tê, lúc nhanh chóng gấp gáp, lóc ào ào dữ dội, lúc trầm lắng bi thương như rót vào tai người nghe. Nhiều lúc đó cũng là những tiếng nhạc lòng của nhân vật trong một hoàn cảnh nhất định. Kiều dễ nhớ dễ thuộc dễ biến thành những nhạc phẩm một phần không nhỏ là nhờ nhạc điệu chân hoà tràn ngập cả thi phẩm. 
+ Thơ lục bát, nhịp điệu vốn đơn giản, công thức. Dưới ngòi bút thi hào nó trở thành đa nhịp và biến điệu. Nguyễn Du là một trong những người đi tiên phong trong việc góp phần tạo ra cái khoảng cách cần thiết giữa thơ ca bình dân viết theo thể lục bát và văn chương bác học cũng viết theo thể lục bát, giữa văn học đàn gian và văn học viết. Những hoài nghi về sự đơn điệu của thể thơ lục bát dường như đã chấm dứt khi kiệt tác Truyện Kiều ra đời. 
+ Tính nhạc trong Truyện Kiều không chỉ thể hiện ở mặt ngữ âm, nhịp điệu, cú pháp, từ vựng mà còn được hỗ trợ bởi nhiều yếu tố khác. Thiên tài Nguyễn Du đã dùng khá nhiều những thuật ngữ âm nhạc chính xác để mô tả tiếng đàn trong nhiều lần khác nhau và hay như nhau. 
+ Nguyễn Du là người hát xướng rất giỏi và thân mẫu của ông cũng là người nổi tiếng về hát xướng. Điều đó đã góp phần không nhỏ làm nên kiệt tác Truyện Kiều giàu tính nhạc. 
- Về chất họa: 
+ Thi hào Nguyễn Du đã tổng hợp và vận dụng rất nhiều dạng ngôn ngữ - ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ thuần Việt, ngôn ngữ Hán Việt, ngôn ngữ giàu chất tạo hình... Tất cả đều được sử dụng đạt đến trình độ uyên thâm. Nhờ thế, ông đã tạo ra những điển hình hoa bất hủ về đủ kiểu nhân vật: Tài sắc như Thúy Kiều, phong nhã như Kim Trọng, anh hùng Khư Từ Hải, từ tâm tốt bụng như Giác Duyên, lão luyện như Tú Bà, con buôn như họ Mã, tráo trở như Sở Khanh, gian manh như Hồ Tôn Hiến, ghen tuông độc địa như Hoạn Thư, tàn ác vô lại như bọn sai nha... Mỗi kiểu nhân vật là một tính cách, một bức hoa cổ một không hai. Nó đã trở thành những quy ước của xã hội, là thước đo về nhân cách vẻ đẹp tài năng, sự thấp hèn... 
+ Những bức họa phong cảnh hay những bức họa về cảnh sinh hoạt rất đa dạng về màu sắc - trong đó đoạn màu xanh và gam màu vàng là gam màu chủ lực, phong phú về đường nét, biến hóa trong cách dần dựng. Dù là những bức tranh của đời sống thực nhưng khi nó được nhào nặn tái tạo thông qua cảm quan của nhà thơ, ngòi bút bậc thầy, nó đã trở nên sống động có hồn, chứa chất tâm trạng. Có những bức họa đã trở thành tuyệt tác có một không hai trong nền văn học trung đại nói riêng và văn học dân tộc nói chung "Long lanh đáy nước in trời, Dưới cầu nước chảy trong veo, vầng trăng ai xẻ làm đôi, Cỏ non xanh rợn chân trời.... 
Với những tri thức phong phú về nhiều lãnh vực - thi, nhạc, họa, triết, ngôn ngữ...., Nguyễn Du đã để thể hiện nhiều vấn để của cuộc sống trên nhiều bình diện trong một kiệt tác chỉ với 3254 câu thơ lục bát. Nguyễn Du xứng danh với tên gọi "đại thi hào", một huyền thoại có một không hai. 
- Về nhạc và họa trong cảm hứng của người đời sau:  
+ Về mặt này có thể nói thi hào Nguyễn Du là thiên tài "mẹ". Truyện Kiều đã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực như thơ ca, nhạc, họa, ca kịch cải lương, tuồng, chèo... Nó đã trở thành một thứ văn hóa Kiều không thể thiếu được đối với người Việt Nam. Cảm hứng sáng tác bằng nhiều hình thức nghệ thuật dù khác nhau nhưng lại cùng một mục đích - phổ cập Truyện Kiều, tạo ra những món ăn tinh thần mới phục vụ cho từng giới thưởng thức nghệ thuật. Những tác động lớn nhất của những nhạc phẩm về Kiều không ai có thể phủ nhận được là «bằng những âm thanh có tổ chức, thông qua thính giác mà nó tác động đến tư tưởng và tình cảm của con người» (Chữ dùng của nhạc sĩ Phạm Tuyên), giúp chúng ta hiểu và cảm sâu hơn về số phận bỉ thảm của những người tài sắc. 
«Có thể nói trong văn học cổ điển Việt Nam, không có một tác phẩm nào ảnh hưởng đến sự sáng tác to lớn như Truyện Kiều, và ngược lại cũng không có một thi sĩ nào có thể sánh với Nguyễn Du trong việc tiếp thu cái phần tinh tế ý nhị mà hàm súc sâu xa của ca dao như Nguyễn Du» [35, 54]. Hơn hai thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày tác phẩm Truyện Kiều ra đời, vậy mà ngày nay nó vẫn còn là niềm cảm hứng nóng hổi cho nhiều nghệ sĩ. 

Thơ chắp cánh cho họa, khơi nguồn cho nhạc. Nhạc làm tăng thêm độ truyền cảm cho thơ, tăng độ rung trong tâm hồn người đọc. Còn họa lại biến những hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ thành cái đẹp hiện hữu. Thơ - nhạc - họa tôn vẻ đẹp cho nhau, có mối quan hệ khó tách rời khi chứng lại tồn tại trong một chỉnh thể Truyện Kiều. 
Nói chung, "phù sa" trong Truyện Kiều còn nhiều tiềm ẩn. Khác với phù sa của sông nước càng khai thác càng vơi, "phù sa" trong những câu Kiều càng khám phá ta càng cảm thây cái vô cùng của nó. Chính cái vô cùng đó mà luận văn chỉ là sự tìm kiếm hữu hạn trong cái vô hạn. Chắc chắn luận văn sẽ không khỏi tránh được những khiếm khuyết cần được sự chỉ vẽ của các bậc cao minh.  
Thư mục tham khảo: 
1. Aristote - Nghệ thuật thi ca - Lưu Hiệp - Văn tâm Điêu long Nhà xuất bản văn học,1999 
2. Bùi Minh Toán - Lê A - Đỗ Việt Hàng - Tiếng Việt Thực hành - Nhà xuất bản giáo dục, 2001 
3. Bùi Tất Tơm (chủ Biên) - Giáo trình tiếng Việt - Nhà xuất bản giáo dục, 1995 
4. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức - Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại - Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1968 
5. Cao Thúy, Ai Bích, Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Xuân Mộc, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Thị Bạch Nhạn - Vài nhận xét sơ bộ về một số câu có ngắt quảng không bình thường trong Truyện Kiều của Nguyễn Du - Tạp chí ngôn ngữ số 1, 1982 
6. Dương Quàng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Nhà xuất bản hội nhà văn, 2002.
7. Đan Phú - Ca vũ nhạc kịch về Kiều. 
8. Đào Duy Anh - Khảo luận về Truyện Kiều - Nhà xuất bản văn hóa, H, 1958 
9. Đào Thản - Đi tìm một vài ngôn ngữ trong Truyện Kiều - tạp chí văn học số 1 -1966. 
10. Đặng Thanh Lê - Giảng vấn Truyện Kiều - Nhà xuất bản giáo dục, 2001 
11. Đặng Ngọc Trân - cấu trúc hội họa - Nhà xuất bản mỹ thuật, 2001 
12. Đoàn Thiện Thuật - Ngữ âm tiếng Việt - Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1999 
13. Hà Minh Đức (chủ biện - Lý luận và văn học - Nhà xuất bản giáo dục, 1998 
14. Hà Như Chi - Việt Nam thi văn giảng luận - Nhà xuất bản sống mới, 1970 
15. Hoàng Trinh - Văn hạc Sù sánh và tiếp nhận văn học - Tạp chí văn học số 4-1980 
16. Hoàng Như Mai - Bức tranh ngày xuân - Giáo dục sáng tạo, xuân Đinh Sửu, 1997. 
17. Huỳnh Vân - Quan hệ văn học - Hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ. Văn học và hiện thực - Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1990. 
18. Khâu Chấn Thanh - Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc - Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1994 135 
19. Lâm Vinh - Mỹ học về cái đẹp - về nghệ thuật - về con người - Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 1997 
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử -, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) - Thuật ngữ tự điển văn học - Nhà xuất bản giáo dục, 1992. 
21. Lê Bảo, Hà Minh Đức, Đễ Kim Hồi... Giảng vấn Văn học Việt Nam - Nhà xuất bản giáo dục, 2001 
22. Lê Hữu Mục - Pham Thị Nhung - Đặng Quốc Cơ - Truyện Kiều và tuổi trẻ - Nhà xuất bản Pari, 1998 
23. Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học - Nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ chí Minh, 1990. 
24. Lê Thu Yến - Nhà vấn trong nhà trường - Nhà xuất bản giáo dục, 2002 
25. Lê Thu Yến (Chủ biên) - Văn học trung đại những công trình nghiên cứu - Nhà xuất bản giáo dục, 2002 
26. Lê Thu Yến - Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau - Nhà xuất bản giáo dục, 2001 
27. Lê Trí Viễn - Phan Côn - Đặng Thanh Lê - Phạm Văn Luận - Lê Hoài Nam - Lịch sử văn học Việt Nam tập 3 - Nhà xuất bảo giáo dục, 1976. 
28. Lê Trí Viễn - Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam - Nhà xuất bản giáo dục, 1998. 
29. Lê Trí Viễn - Đặc trưng văn học trung đại - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1996. 
30. Lê Xuân Lít - Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều - Nhà xuất bản Đại học quốc gia, 2001 
31. Lưu Trọng Lư - Nhật Ký đọc Kiều - Nhà xuất bản hội nhà văn - H, 1995. 
32. M-Gorky - Bàn về văn học - Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 1965 33. Mai Hoa - Tranh (Trích từ Truyện Kiều - Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội, 1999) 
34. Mai Quốc Liên - Tạp luận - Nhà xuất bản văn học trung tâm nghiên cứu quốc học, 1999 136 
35. Mai Quốc Liên - Dòng văn học bác học và dòng văn học bình dân - Tạp chí văn học số 6-1966. 
36. M.B.Khraptrenkô - Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực con người - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1984. 
37. Nhất Hạnh - Kiều và văn nghệ đứt ruột - Nhà xuất bản Lá Bối. 
38. Nhất Hạnh - Thả một bè lau - Nhà xuất bản Lá Bối. 
39. Nhiều tác giả - Từ trong di sản - Nhà xuất bản tác phẩm mới, 1981. 
40. N-Kh asenco - Bản chết cái đẹp - Nhà xuất bản thanh niên
41. Nguyễn Anh Vinh - Họa sĩ - tốt nghiệp đại học Mỹ thuật Hà Nội - cựu chủ tịch Hội mỹ thuật Khánh Hòa (Tham khảo ý kiến) 
42. Nguyễn Du - Tác gia và tác phẩm - Nhà xuất bản giáo dục năm, 1999. 
43. Nguyễn Du Truyện Kiều - Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội, 1999; Nhà xuất bản Đà Nẵng, 19; nhà xuất bản Đồng Nai, 2001 
44. Nguyễn Đăng Thục - Thế giới thi ca Nguyễn Du - Kinh thi, S, xb, 1971. 
45. Nguyễn Đăng Cư - Kiều vận tập thành - Trung quân thư quán, Huế, 1932. 

46. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đăng Xuyên - Những bài văn hay và khó - Nhà xuất bản giáo dục, 1995 
47. Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc - Sách giáo khoa tân việt - in lần thứ tư. 
48. Nguyễn Lai - Ngôn ngữ vôi sáng tạo tiếp nhận văn học - Nhà xuất bản giáo dục, 1998. 
49. Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII hết thế kỷ XIX - Nhà xuất bản giáo dục, 1999 
50. Nguyễn Quân - Tiếng nói của hình và sắc - Nhà xuất bản văn hóa, 1986 
51. Nguyễn Quảng Tuân - Mấy nhận xét về tranh vẽ minh họa truyện Kiều - Mỹ thuật thời nay - số 17 tháng 1 - 1992. 
52. Nguyễn Quảng Tuân - Chữ nghĩa Truyện Kiều - Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1990. 137 
53. Nguyễn Quốc Phẩm - Ảnh 
54. Nguyễn Thị Hợp - tranh (Trích từ Kim Vân Kiều - Nhà sách khai trí Sài Gòn,1968) 
55. Nguyễn Trí Tích - Viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Nhà xuất bản Thanh niên, 2001. 
56. Nguyễn Văn Dân - Lý luận văn học so sánh - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà nội, 1998. 
57. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương - Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ - Nhà xuất bản giáo dục, 1999 
58. Nguyễn Văn Hạnh - ý kiến của Lê nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống - Tạp chí văn học, số 4 - 1971 
59. Nguyễn Văn Hạnh Một số điểm cẩn nối rõ thêm về mối quan hệ giữa văn học và đời sông - Tạp chí văn học số 6- 1992. 
60. Nguyễn Văn Hoàn - Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều - Tạp chí văn học số 1, 1974 
61. Phan Công Khanh - lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều - Luận văn tiến sĩ. 
62. Phan Kế Bính - Việt hán văn khảo - Nhà xuất bản Mặc Lâm -tháng giêng, năm M CM LXX. 
63. Phan Ngọc - Tìm hiểu phong cách Nguyền Du trong Truyện Kiều - Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1985 
64. Phạm Cung Tranh (Trích từ Histoire de Thúy Kiều - bản dịch tiếng Pháp Lưu Hoài - Nhà xuất bản văn hoa, 19) 
65. Phạm Duy - Đĩa nhạc CD Kiều ca. 
66. Phạm Huy Thục - Đạo diễn, Giảng viên trường sân khấu điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh (Tham khảo ý kiến) 
67. Phạm Tú Hương - Lý thuyết âm nhạc cơ bản - Nhà xuất bản giáo dục, 1999 
68. Phạm Thu Thương - Tranh - Trích từ Truyện Kiều - nhà xuất bản Pari, 1951 
69. Phạm Đan Quế - Lục bát hậu Truyện Kiều - Nhà xuất bản thanh niên, 2002 138 
70. Phạm Đan Quế - Tập Kiều một thú chơi tao nhã - Nhà xuất bản văn hóa, 1994 
71. Phạm Đan Quế -Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều - Nhà xuất bản giáo dục, 2002 
72. Phương Lựu - Vi quan niệm văn chương cổ Việt Nam - Nhà xuất bản giáo dục, 1985 
73. R- Jakobson - Thi pháp học - tài liệu tham khảo, 1994 
74. Tạp chí Sân khấu - Hội nghệ thuật sân khấu Việt Nam - số 11, 2002 
75. Trịnh Bá Dĩnh với sự cộng tác của Nguyễn Bá Sơn, Vũ Thanh -Nguyễn Du tác gia và tác phẩm - Nhà xuất bản giáo dục, 1999. 
76. Trịnh Bá Dĩnh tuyển chọn - Bình giải Truyện Kiều - Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 2000 
77. Triều Dương - Tìm hiểu và suy nghĩ - Nhà xuất bản tác phẩm mới, 1982 
78. Trương Vĩnh Ký - Minh tâm bửu giám - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ chí Minh, 1991. 
79. Song Yên - Tranh - Trích từ Viết về Truyện Kiều của Nguyễn Trí Tích. Nhà xuất bản Thanh niên, 2001) 
80. Trần Kim Lý Thải Thuận - tranh Trương Quấn - Truyện Kiều bằng tranh - Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, 2000. 
81. Trần Thanh Đạm - Dẫn luận văn học so sánh - Tủ sách đại học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995 
82. Thanh Lãng - Nguyễn Du như là một huyền thoại - Nghiên cứu Văn học - Số 6, 1971. 
83. Thanh Tâm Tài Nhân - Kim Vân Kiều truyện - Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 1999. 
84. Trương Chính - Thơ văn Nguyễn công Trứ - Nhà xuất bản văn học, 1983 
85. Trương Thìn - Kiều ca một xe trong cõi hồng trần - Nhà xuất bản văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1997. (Tham khảo ý kiến) 139 
86. Trương Thìn - tranh Kiều (Trích từ Kiều ca - Một xe trong cõi hồng trần - Nhà xuất bản văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1997) 
87. Trần Đình Sử - Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại - Nhà xuất bản giáo dục, 1999 
88. Trần Đình Sử - Thi pháp thơ Tố Hữu - Nhà xuất bản mới, Hội nhà văn Việt Nam, 1987. 
89. Trần Phương Hổ - Điển tích trong Truyện Kiều - Nhà xuất bản Đồng Nai, 1996. 
90. Tú Duyên - tranh - trích từ Truyện Kiều và tuổi trẻ - Nhà xuất bản pari, 1998. 
91. Từ Điển Tiếng Việt - Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, 1992. 92. Xuân Diệu - Toàn tập (tập VI) - Nhà xuất bản Văn học, 2001. 
93. Vũ Cao Đàm - Tranh - Trích từ quyển Kim Vân Kiều - Nhà xuất bản Pari, 1951. 
94. Vũ Đình Ân - Đĩa nghạc CD - Hợp xướng truyện Kiều. 
95. Vũ Thanh Việt - Thơ Nguyễn Bính - Những lời bình - Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội, 1999. 
96. Vương Thúy Kiều - Chú giải tân truyện - Tản Đà chú giải - Nhà xuất bản Đồng Nai, 2002.
Trần Đình Khiêm
Theo http://lib.hcmup.edu.vn:8080/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Những chuyển động của hiện thực tinh thần trong Dưới trăng và một bậc cửa Trong sự liên thông, chuyển động giữa hồi tưởng, kí ức, cõi âm...