Tiếp nhận Truyện Kiều dưới
Sau khi tên họ Mã ngụy trang bằng cái lễ vấn danh, hắn lại tiếp tục ngụy trang bằng lễ rước dâu. Trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt ấy, thi hào Nguyễn Du đã chọn những nhạc cụ rất phù hợp “Quản huyền”:
Xiết bao kể nỗi thảm sầu! (777)
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi. (778)
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, (779)
Quản huyền, đâu đã giục người sinh ly. (780)
Khác với những đoạn thơ miêu tà nghệ thuật độc tấu của Thúy Kiều trên cây đàn Tỳ Bà, những câu thơ trên lại nặng chất cảm xúc nhẹ chất miêu tả. Mặc dù không ghi âm tiếng nhạc, không nói rõ loại đàn gì nhưng tiếng nhạc trong ngày họ Mã rước dâu vẫn được gợi lên. Theo Tản Đà. “Quản là ống, tượng trưng cho tiếng sáo, huyền là dây - tiếng đàn. Cái hay của câu thơ là tiếng nhạc vui đặt với chữ sinh ly là tiếng buồn" [96,67]. Nhưng nếu đi vào tính chất đặc thù về âm sắc của từng nhạc cụ ta thấy rằng sáo có âm sắc chung trầm buồn. Âm hưởng đó chắc chắn có sự cộng hương của tiếng đàn cùng điệu, những âm thanh kể lể thảm thương trước cảnh sinh ly, tiếng dừng đột ngột của chiếc kiệu hoa. Tất cả tạo nên những âm sắc vội vội, vàng vàng, thê lương, buồn thảm, chia ly chẳng khác nào những âm sắc của những nhạc cụ đưa tiễn người quá cố. Trong tiếng nhạc dường như ta còn nghe thấu nỗi đau của nàng Kiều và của cả thi hào.
Trong bản Kim Vân Kiều Truyện, tiếng nhạc trong ngày họ Mã rước dâu hoàn toàn không có. Thanh Tâm Tài Nhân chi nói phớt qua bằng một câu "Hôm sau nhà họ Mã đến rước dâu, Thúy Kiều cất tiếng khóc ầm lên, vừa nhủ thầm..." [83,119]
2.1.3.3. Tiếng nhạc của vũ trụ:
Có thể xem vũ trụ là một nhân vật thầm lặng xuất hiện khá nhiều lần. Nhân vật này không ít lần cất lên những khúc nhạc với những âm hưởng khác nhau. Trước khi Đạm Tiên xuất hiện khung cành trở nên buồn, tiếng gió nhè nhẹ như đưa con người đi vào thế giới hư vô "Một vùng cỏ áy, bóng tà, Gió hiu hiu thổi một vài bông lau." (97-98). Nhưng khi hồn Đạm Tiên bất ngờ xuất hiện thì âm hưởng trở nên mạnh mẽ, dữ dội "Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay. Ào ào đổ lộc, rung cây" (120-121). Khi hồn ma biến mất gió chỉ động tĩnh khẽ khàng "Nàng còn cầm lại một hai tự tình, Gió đâu sịch bức mành mành," (212-213). Khung cảnh chiều khi Kim Trọng "Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi", gió chiều chỉ đủ tạo ra sự xao động hàng lau nhuộm sắc buồn "Gió chiều như giục cơn sầu, Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu." (263 -264). Âm hưởng âm nhạc vù trụ xuất hiện nhiều nhất trong các trường hợp báo tai hoa đang đến hoặc sẽ đến:
- Khung cảnh tại lầu Ngưng Bích thật trống trải vắng lặng rơn người. Dường như không có tiếng động tĩnh nào ngoại trừ tiếng sóng ầm ầm, tiếng gió rít từng cơn. Chúng như muốn bao quanh cuốn phăng Thúy Kiều. Kiều thật sự hãi hùng và lo sơ trước những lời tiên tri của vũ trụ, dự báo tai hoa đang linh rập bủa vây:
- Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, (1053)
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. (1054)
- Tiệc trường đình xong xuôi, họ Mã thở phào nhẹ nhõm vội vã cho chiếc xe tuấn mã lao vun vút trên đường. Lúc này, âm hưởng vũ trụ trở nên dữ dội hơn - gió giật mạnh, mây cuồn cuộn đảo điên, trời tối sầm, chiếc xe bị cuốn hút trong những cơn lốc xoáy. Ba hình ảnh, hai âm thanh khác nhau nhưng lại cộng hưởng nhau tạo nên những âm thanh ghê rợn, cảnh tượng kinh hoàng:
Đùng đùng gió giật, mây vần, (907)
Một xe trong cõi hồng trần như bay. (908)
- Khi Kiều và Sở Khanh đi trốn, âm thanh vũ trụ cũng khác thường - gió mạnh, tiếng lá cây đổ xào xạc, trăng mờ ảo khuất bóng. Phải chăng có điều gì bất thường xảy ra?
Đêm thu khắc lậu canh tàn, (1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. (1120)
- Quả thật như vậy, lúc tiếng gà gáy vội vã báo hiệu trời gần sáng thì cùng là lúc tên Sở Khanh đã "rẽ dây cương lối nào":
Tiếng gà xao xác gáy mau, (1123)
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng. (1124)
- Vùng vẫy nhưng không có con đường thoát, Kiều quyết định quyên sinh, thiên nhiên vũ trụ nỗi giận, bất bình trước sự trái ngang của cuộc đời:
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, (2619)
Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường. (2620)
Tiếng sóng, tiếng gió, tiếng triều trong những câu thơ trên đều có chung nhạc điệu mạnh mẽ, gấp khúc dữ đội. Những từ láy âm "Ầm ầm, đùng đùng, xao xác" lúc đặt đầu, lức đặt giữa, lúc đặt cuối trở thành những trọng âm có độ âm vang liên tục, có khả năng làm rung chuyển không gian chấn động tâm lý. Nó như những tiếng trống, tiếng vuốt trên mặt đàn trong một dàn nhạc giao hưởng được đẩy lên cao độ. Thiên nhiên như trút cơn thịnh nộ trước sự bất công của cõi người. Những âm hưởng đó còn được lặp lại khi Kim Trọng cùng gia đình Kiều lập đàn tràng giải oan bên sông Tiền Đường:
Ngọn triều, non bạc, trùng trùng, (2969)
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. (2970)
- Đến khi Kiều được Giác Duyên cứu vớt, vũ trụ trở nên bình lặng. Sự bình lặng của thiên nhiên có chăng cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt kiếp đoạn trường của con người?
Bốn bề bát ngát mênh mông, (2735)
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau. (2736)
Nói chung, vũ trụ như đồng cảm hiểu thấu tình cảm nội tâm con người, nhất là những con người bị chà đạp. Tiếng nói ấy thật đa giọng điệu và nhiều cung bậc. Khi tình yêu đến âm hưởng vũ trụ thật nhẹ nhàng "Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần", êm ái "Dưới cầu nước chảy trong veo", khi tai hoa rình rập thì thiên nhiên trở nên dữ dội, khi "đoạn trường sổ rút tên ra" vũ trụ trở về trạng thái bình ổn. 2.2. Tác phẩm nhạc về Truyện Kiều trong cảm hứng của người đời sau:
So với những tác phẩm khác, Truyện Kiều là một hiện tượng đặc biệt có nhiều hình thức sinh hoạt âm nhạc nhất.
2.2.1. Nhạc:
2.2.1.1. Nhạc sĩ Vũ Đình Ẩn và đàn hợp xướng Kiều:
Hợp xướng là một hình thức âm nhạc khá đồ sộ. Ngoài người chỉ huy, nhiều người đệm đàn còn có rất nhiều diễn viên thanh nhạc, nhiều giọng bè khác nhau. Dù phức tạp khó khăn nhưng với lòng say mê kiệt tác Truyện Kiều, nhạc sĩ Vũ Đình Ân đã dày công viết và thực hiển dàn "Hợp xướng Truyện Kiều". Hợp xướng có ba chương - mối tình đầu, hồng nhan bạc mệnh, tình chị duyên em. Vì Truyện Kiều quá dài cho nên khỉ sọan hợp xướng, Vũ Đình Ân chỉ chọn phổ những câu thơ quan trọng nhằm làm nổi bật những giai đoạn của cuộc đời Kiều. Hợp xướng Kiều rất phong phú về âm điệu và rất phù hợp với nhạc điệu trong Truyện Kiều. Đoạn giới thiệu chị em Thúy Kiều có tiết tấu chậm rất phù hợp với giọng kể. Đoạn chị em Thúy Kiều du xuân tiết tấu nhanh vui nhộn. Đoạn Kim Trọng xuất hiện tiết tấu chậm, êm nhẹ tạo được cảm giác chờ đợi. Đoạn Kim Trọng chia tay Thúy Kiều, tiết tấu rề rà âm hưởng buồn. Đoạn Kim Trọng dò la tìm nơi ở của gia đinh Kiều từ nhạc điệu chậm chuyển sang vui tươi. Đoạn sai nha "vét sạch sành sanh" nhạc điệu mạnh mẽ dữ dội. Đoạn Kiều quyết định bán mình nhạc điệu chậm âm điệu buồn. Đoạn Kiều trao duyên âm điệu như cắt đứt diễn tả được nỗi đau quặn lòng. Đoạn Kiều ở lầu xanh nhạc điệu nhanh gấp gấp diễn tả được sự xô bồ. Đoạn Kiều gặp Thúc Sinh nhạc điệu nhẹ nhàng êm ả. Đoạn Kiều bị quan phả đánh đập, âm điệu mạnh mẽ dữ dội. Đoạn Kiều chép kinh ở Quan Âm các ấm điệu buồn gợi được sự sầu thảm. Đoạn Kiều gặp Từ Hải âm điệu hào hùng. Đoạn Hồ Tôn Hiến đánh úp, nhạc điệu nhanh gấp thể hiện được sự bất ngờ. Đoạn Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến, âm điệu thảm thiết. Đoạn sư bà Giác Duyên cho người vớt Kiều, nhạc điệu trở lại nhanh gấp. Đoạn đoàn viên nhạc điệu vui tươi nhưng lắng đọng.
Hợp xướng Truyện Kiều do Vũ Đình Ân chỉ huy, Nhất Sinh - Hoàng Thơ - Khánh Duy Phương Dung - Kim Cúc lĩnh xướng, Minh Mẫn đệm đàn Piano và gần người hát, cùng dàn nhạc 20 người đã có buổi trình diễn tại nhà hát Bến Thành, ngày 17-12-2000. Hợp xướng Kiều đã tạo được tiếng vang, thu hút được nhiều thính giả. Hội âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh, công ty bạn yêu nhạc đã thu đĩa VCD để giới thiệu rộng rãi với công chúng.
2.2.1.2. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam với bản giao hưởng số 7 - Truyện nàng Kiều:
Giao hưởng là bàn hoà tấu lớn. Nó có khả năng tận dụng sự phong phú đa dạng về hoà thanh, âm sắc, độ vang của nhiều nhạc khí, thường gồm bốn chương, tương phản nhưng gắn bó hữu cơ với nhau. Bản giao hương số 7- Truyện nàng Kiều của nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam lại có 6 chương. Bản giao hưởng đã được nhà hát giao hưởng và vũ kịch thành phố Hồ Chí Minh trình diễn ngày 9-9 -2001 tại nhà hát thành phố. Cũng như hợp xướng Kiều của Vũ Đình Ân, bản giao hưởng số 7 của Nguyễn Văn Nam đã được công ty Bạn yêu nhạc và Hội âm nhạc thành phố thu vào đĩa VCD.
2.2.1.3. Nhạc Phạm Duy:
Phạm Duy từ một người "hát rong" (chữ dùng của chính Phạm Duy) đã phấn đấu trở thành một nhạc sĩ lớn. Ông có nhiều ca khúc bất hủ ca ngợi đất nước, con người, tâm hồn Việt Nam. Trong đĩa nhạc CD minh hoa Kiều, ông đã tâm sự "Bây giờ là lúc cuối cuộc đời, đã là người dung tụng dân ca Việt Nam, tôi muốn kết thúc sự nghiệp của mình bằng một tác phẩm vô cùng Việt Nam qua một số bài hát về đề tài Truyện Kiều" [65]
Dựa vào 3254 câu thơ Kiều, Phạm Duy phổ thành bốn bức minh hoa: Phần một - giới thiệu không gian, thời gian, nhân vật, Kiều gặp Đạm Tiên - gặp số phận; phần hai - Kiều gặp Kim Trọng - gặp tình yêu; phần ba - gia biến bán mình, Kiều gặp những kẻ xấu; phần bốn - Kiều gặp vị cứu tinh Từ Hải.
Do kinh phí hạn hẹp, hiện nay, Phạm Duy chỉ mới cho ra đĩa CD phần một gồm mười hai ca khúc. Hoàn thành đĩa CD này là cả một quá trình. Ngoài việc phổ nhạc, Phạm Duy còn cử con trai - nhạc sĩ Duy Cường về Việt Nam hai năm để lấy mẫu, xem phim, thu thanh giọng ngâm theo kiểu cổ, thu tiếng đàn bầu, đàn tranh. Giai điệu trong phần giáo đầu giàu chất dân ca, có sự kết hợp hai loại âm hưởng - âm hưởng nhạc điệu dân tộc và âm hưởng nhạc hiện đại. Mười hai khúc minh hoa Kiều là mười hai nhạc điệu. Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh có kiểu ngâm cổ, âm hưởng nhạc dân tộc được phối chung với âm hưởng nhạc hiện đại, nhạc Trung Quốc. "Thanh minh trong tiết tháng ba" và "Ngày xuân con én đưa thoi" có nhạc điệu trữ tình phấn khởi. "Ngổn ngang gò đống kéo lên" cũng là nhạc điệu trữ tình nhưng pha chút lãng mạn. "Sè sè nấm đất bên đường" đoạn đầu nhạc điệu sầu thương tê tái, đoạn sau hoạt bát. ''Đau đớn thay phận đàn bà" nhạc điệu chua xót, đau thương. "Một vùng cỏ áy ác tà" nhạc điệu nhanh nhẹn nhưng mang màu sắc ly hoài. "Dễ hay tình lại gặp tình" từ nhạc điệu giàu chất hiện thực chuyển sang nhạc điệu siêu thực, ma quái. "Gốc cây lại vạch một bài cổ thi" nhạc điệu buồn". Dùng dằng nửa ở nửa về, Chàng Vương quen mặt ra chào, Tình trong như đã mặt ngoài còn e" trở lại nhạc điệu đồng quê, êm ả, nhẹ nhàng.
Mười hai khúc Kiều ca được nhạc sĩ Duy Cường phối âm; Thanh Loan, Ái Vân ngâm thơ; Ái Vân, Thái Hiền, Thái Thảo, Duy Quang, Tấn Ngọc hát; Phạm Duy là người giới thiệu trước mỗi khúc hát. Đĩa nhạc "Minh hoa Kiều" đã thực sự làm sống lại chuyện của hơn hai trăm năm về trước.
2.1.2.4. Nhạc của Trương Thìn:
Trương Thìn là một bác sĩ nhưng cũng là một người rất yêu nhạc, am hiểu khá sâu sắc lãnh vực âm nhạc. Ông đã sáng tác và phổ nhạc khá nhiều. Gia tài nhạc của ông có khoảng 300 bài - Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử, Cung oán ngâm của Ôn Như Hầu, Đoạn trường vô thanh của Phạm Thiên Thư, thơ Trù Vũ, thơ Bích Khê, thơ Hải Thượng Lãn Ông, Truyện Kiều của Nguyễn Du. Có một điều khác biệt với các nhạc sĩ khác là trước mỗi khúc Kiều ca nhạc sĩ Trương Thìn có trích những câu thơ xen với những lời dẫn và vẽ tranh minh họa. Nhận xét về mười hai khúc kiều ca Hoàng Phủ Ngọc Tường có viết: "Phần mở đầu giống như phần hình nhi thượng dành cho một thế giới rồi đây sẽ tan vỡ, người viết ca khúc, có vẻ như không hề bận tâm tới việc dàn dựng, đã tạo nên một cấu trúc hàm chứa nguy cơ nổ tung, gồm đủ bốn yếu tố Sắc trong ca khúc Ngọc ngà, Tài trong ca khúc Trong như tiếng hạc bay qua, Tình trong ca khúc Người đâu gặp gỡ làm chi và Mệnh trong ca khúc Nấm đất bên đường. Nhân thân của Thúy Kiều đã được vẽ bằng chất nổ, để chuyển sang một hành trình đi dài tới hố thẳm trong những ca khúc tiếp theo Mai sau dù có bao giờ, Một xe trong cõi hồng trần, Bên trời góc bể bơ vơ, vầng trăng ai xẻ làm đôi, Phận bèo đâu cũng lênh đênh, Một cung gió thảm mưa sầu. Sau cùng là tình nhân gặp lại tình nhân kết thúc biện chứng giữa sống và chết, cái tâm hoá giải mọi mâu thuẫn gay gắt của hiện hữu để sáng tạo lại số phận bằng sự tái sinh(...) Nhân thân kiều mang dấu ấn chỉ của ba cuộc tình, bốn bản đàn, một cuộc đi dây hiểm nghèo dọc đường định mệnh và một cú nháy ra khỏi vực thẳm; tất cả đã thuật lại trọn vẹn trong 12 khúc ca của Trương Thìn. Thìn đã làm một việc kỳ lạ, là định nghĩa số phận con người trong khoảng một tiếng đồng hồ ."[85,2].
Khảo sát 12 khúc Kiều ca ta thấy rằng:
Về nhịp:
Hai loại nhịp mà Trương Thìn sử dụng là nhịp đơn hai phách 2/4 và nhịp phức bốn phách 4/4. Nhịp 2/4,4/4 là những loại nhịp thông dụng.
Về khóa:
Ông thường dùng khóa và một loại khóa phổ biến trong những sáng tác âm nhạc.
Về điệu thức:
Nhạc sĩ thường dùng điệu thức trưởng và thứ. Đặc biệt, những chỗ cần diễn tả tâm trạng dồn nén giằng xé, một nỗi buồn lan tỏa cùng cỏ cây sông nước, tác giả thường thay đổi điệu thức. Từ giọng điệu bình thường tác giả chuyển thành điệu thức thăng, chẳng hạn như khúc Trong như tiếng hạc bay qua, Nấm đất bên đường, Một xe trong cõi hồng trần, Bên trời góc biển bơ vơ, vầng trăng ai xẻ làm đôi, Cùng trong một tiếng tơ đồng, Một cung gió thảm mưa sầu. Ngoài ra, ở những chỗ cần xoáy sâu tạo ấn tượng, ông thường sử dụng ký hiệu quay lại. Có khúc quay lại toàn đoạn, có khúc quay lại một đoạn ngắn. Chẳng hạn như đoạn người ơi gặp gỡ làm chi (trong ca khúc cùng tên)..., Người về chiếc bóng năm canh... (trong khúc vầng trăng ai xẻ làm đôi). Đặc biệt, khúc Một xe trong cõi hồng trần là một khúc nhạc đầy biến tấu. Đoạn đầu nhanh chống, gấp gấp, mạnh mẽ dữ dội diễn tả được tốc độ khẩn trương của chiếc xe trước không gian bao ỉa đầy rợn ngợp. Đoạn nhạc này không chỉ diễn tả được cảnh tượng mà còn diễn tả được nội tâm con người tràn ngập sự hãi hùng biến động. Đoạn sau nhịp điệu như chậm lại diễn tả được cái không gian cảnh vật và không gian nỗi lòng tràn ngập sự âu lo.
Khi phổ nhạc, nhạc sĩ Trương Thìn chỉ mượn ý thơ của đại thi hào Nguyễn Du chứ ít lấy toàn bộ câu thơ để phổ vậy mà vẫn giữ được cái thần của đoạn thơ. Có những đoạn thơ quá dài, ông cô lại bằng cách chọn những câu chữ hay, quan trọng kết lại với nhau để tạo thành bản nhác. Chẳng hạn như khúc "Nấm đất bên đường" với 7 dòng nhạc, ông đã chọn lọc trong 133 câu từ câu 57 đến câu 190. Có đoạn quá ngắn như đoạn Đạm Tiên ông chọn lọc thêm đoạn Kiều nằm mộng để bổ sung thêm cho phong phú. Có những câu thơ Trương Thìn chỉ phổ nửa vời chừa khoảng trống để người hát, người nghe tiếp tục liên tưởng cảm nhận, nhờ thế lời nhạc trở nên vừa lạ vừa hay. Dòng nhạc "Đạm Tiên nàng ấy hồng nhan" trong khúc "Nấm đất bên đường'* là một dòng nhạc có sự nửa vời được rút gọn từ bốn câu thơ: 63, 64, 65, 66. Rõ ràng, tiếng thơ, tiếng nhạc, tiếng lòng có sự đồng điệu. Mười hai ca khúc này không phải nó nằm ngủ yên trên tập nhạc. Trong ngày giỗ cụ Nguyễn Du nghệ sĩ Thúy Vinh đã rót vào tâm hồn người nghe những âm hưởng ú tê, đúng như Mai Quốc Liên nhận xét: "Bác sĩ - nhạc sĩ Trương Thìn trong mười hai ca khúc phổ thơ Kiều đồng điệu và tỉ tê, nỉ non vào trái tim người nghe, qua giọng ca Thúy Vinh rung động; qua chính tác giả, đã là một nén hương trầm dâng lên anh hồn Nguyễn Du trong ngày giỗ của người " [34, 210]
Gần đây, bác sĩ, nhạc sĩ Trương Thìn có phổ bổ sung sáu khúc Kiều ca: Người khách viễn phương, Vườn xưa đã mất, Ai tri âm đó, Thì ra chiếc lá bơ vơ, Kiều xót xa thương, Chữ tâm kia mới... Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi. Cũng như 12 khúc Kiều ca, sáu khúc Kiều ca phổ sau cũng cố âm hương rất đa dạng nhiều biến điệu: mạnh mẽ (Kiều gặp Từ Hải), trầm lắng não nùng (Vườn xưa đã mất, Thì ra chiếc lá bơ vơ, Xốt xa thương), khoan thai suy ngẫm (Chữ tâm kia mới). Mười tám khúc Kiều ca của nhạc sĩ Trương Thìn đã được dàn dựng thu thành hai đĩa CD. Thu Hà, Thanh Hùng, Nguyễn Anh Dũng, ca đoàn Lang Thang và ca trường Nguyễn Hoàng Hương dẫn ngâm và hát; Vũ Quỳnh Hương, Vũ Hà dẫn đọc; nhà văn Diệu Tấn trích Kiều và dẫn giải; Hồ Đăng Tín, Lê Huy hoà âm; Lê Huy, Vũ Trụ, Amy Watson, Nguyễn Hân, Nguyễn Quân phối khí kỹ thuật và studio. Mười tám khúc Kiều ca cũng được bác sĩ nhạc sĩ Trương Thìn và bác sĩ Lê Hùng biểu diễn nhiều lần ở Pháp và Hoa Kỳ.
Nói chung, từ tiếng nói bằng ngôn ngữ thi ca, tiếng nói có tác động gián tiếp nay có thêm tiêng nói bằng âm thanh, bằng nhạc điệu có tác động trực tiếp chắc chắn sự tác động vào cảm thức người tiếp nhận sẽ tăng lên bội phần. Sức sống của tác phẩm càng bay xa vươn cao. Cổ một điều ai cũng nhận thấy không phải tác phẩm nào cũng đi vào nhạc, chỉ có những tác phẩm thơ giàu chất nhạc, người nhạc sĩ tìm thấy sự đồng cảm với tác phẩm thơ lúc ấy tác phẩm nhạc mới ra đời.
2.2.2. Sân khấu:
2.2.2.1. Ca vũ nhạc kịch của Đan Phú:
Nổi như nhạc sĩ Lê Thương "Đây là một tác phẩm viết rất công phu đầy nhiệt huyết của nhạc sĩ Đan Phú - ông đã phải bỏ ra gần năm năm trời mới soạn xong vở Thi ca vũ nhạc kịch Kim Vân Kiều của đại thi hào Nguyễn Du”.[7, 2] Khác với Trương Thìn, Đan Phú phổ cả 3524 câu Kiều và chuyển thể thành ca vũ nhạc kịch. Do có sự tổng hoà của các loại hình nghệ thuật nhạc, múa, kịch nên nó có tác động trực tiếp đến thị giác, thính giác tạo được những chấn động mạnh mẽ về xúc giác. Lời thơ, lời nhạc rót vào tâm hồn, Chàng Kim, cô Kiều, cậu Vương quan... được tái hiện trở thành những nhân vật sống trên sân khấu. Tất cả sẽ tạo thành luồng xung điện chinh phục trái tim người xem. Chắc chắn khúc đoạn trường mười lăm năm của cô Kiều sẽ âm vang mãi mãi và đánh thức mọi người về một cái thời mà quyền sống của người phụ nữ bị rẻ rúng. Không những thế nổ còn đựơc Lê Phan dịch ra tiếng pháp giới thiệu với bạn bè gần xa. Truyện Kiều không những vượt thời gian mà còn vượt cả không gian là như thế đó.
2.2.2.2. Chèo:
"Chèo là một loại kịch hát dân gian truyền thống của người Vi ệt chủ yếu hình thành ở các tính miền Bắc (Từ Nghệ An, Hà lĩnh trở ra), trung tâm là vùng đồng bằng Bắc Bộ" [20,40]. Chèo được hình thành trên cơ sở trò diễn và ca vũ dân gian từ thế kỷ XIU, phát triển cực thịnh vào thế kỷ XIX rồi sau đó phân hoá và suy yếu dần. Đến nửa đầu thế kỷ XX, chèo được cải cách trở thành một loại kịch hát. Chèo trải qua nhiều tên gọi khác nhau: chèo sân đình (sân khấu thô sơ), chèo văn minh (có nhiều cải tiến về vở diễn, trang phục, ánh sáng, nhạc nền), chèo cải cách (được cải tiến một lần nữa cho phù hợp với thị hiếu). Tuy chèo mượn nét nhạc của dân ca nhưng lại được chế tác đi rất nhiều. Những truyện cổ tích và truyện thơ như Tống Trân Cúc Hoa, Lưu Bình Dương Lễ, Quan Âm Thị Kính... đã đi vào loại hình chèo. Khi sử dụng những truyện cổ tích, truyện thơ, những câu chuyện lịch sử... làm vỡ diễn soạn giả thường có những gia giảm thêm thắt cho phù hợp. Là một tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng nhất, là một thứ văn hóa tinh thần của người Việt Nam Truyện Kiều không thể không có mặt trong những loại hình sân khấu truyền thống. Vào thế kỷ XIX, Nguyễn Khắc Đản, Hàn lâm viện triều Tự Đức bắt đầu cho ra mắt một số tuồng tích về Kiều...
2.2.2.3. Ca kịch cải lương:
Là một loại kịch hát ra đời vào đầu thế kỷ XX bắt nguồn từ đơn ca tài tử, dân ca Nam bộ. Cải lương rất coi trọng giọng hát nhất là sáu câu vọng cổ. Do yếu tố hát có tầm quan trọng nên những loại truyện thơ rất dễ xâm nhập. Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên những truyện thơ phổ biến đã trở thành những vỡ diễn cho loại hình nghệ thuật này.
Lê Công Kiều, Nguyễn Thúc Khiêm ở Hà Nội, Hải Phòng trong thập niên 30, bắt đầu soạn và cho diễn những vở cải lương về Kiều. Đến thập niên 50, Phan Ngọc Khuê, Viết Dung, Sĩ Tiến ở Hà Nội đã soạn các vở cải lương Kiều I, II, III. Đầu năm 2002 nhà hát ca kịch cải lương trung ương - tiền thân là nhà hát cải lương Hà Nội (do đoàn cải lương Kim Phụng và Chuông Vàng thủ đô gộp lại) đã dựa vào những vở Kiều đã có từ năm 1976-1977 dàn dựng lại quy mô hơn biểu diễn phục vụ trong nhiều đêm tại thủ đô Hà Nội. Những buổi biểu diễn đã thật sự làm rung cảm người xem.
2.2.2.4. Kịch:
Thuật ngữ kịch rất phong phú về ý nghĩa. Song nói đến kịch mgười ta thường nối đến sự biểu diễn ưên sân khấu của các diễn viên bằng hành động cử chỉ, điệu bộ, lời nói (trừ kịch câm).Trong kịch yếu tố nhạc nhiều lúc cũng được sử dụng. Cùng với nnhững tác phẩm khác Truyện Kiều của Nguyễn Du đã có không ít đạo diễn dàn dựng đưa lên sân khấu.
Tại liên hoan sân khấu thể nghiệm Quốc tế lần thứ nhất tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 26-11-2002 có trình diễn vở kịch "Nỗi đau nhân loại". Đây là công trình nghệ thuật hợp tác giữa Việt Nam và Anh Quốc. Từ hạt nhân cảm xúc là sự nhẹ dạ, lầm lạc, bi kịch về lòng tín của người lương thiện bị phản bội, tác giả Lê Duy Hạnh đã nhìn ra sự tương đồng của các cặp nhân vật Othenllo - Thúy Kiều, Từ Hải - Desdemona và Iago - Hồ Tôn Hiến. Đây là một phát hiện. Bởi Othenllo và Thúy Kiều đều rơi vào âm mưu đen tối của kẻ xấu. Cả hai đều mang nỗi đau mất mát. Desdemona và Từ Hải là cặp tương đồng về sự trong trắng thánh thiện. Họ đều phải trả giá cho sư lương thiện của mình khi lồng tin bị phản bội. vỡ diễn được dàn dựng bởi đạo diễn Shaun Maclouglin với sự tham gia của nghệ sĩ ưu tú Vân Thành (Từ Hải), nghệ sĩ ưu tú Hồng Vân (Desdemona), nghệ sĩ Khánh Hoàng (Othenllo), nghệ sĩ Tuyết Thu (Thúy Kiều), nghệ sĩ Quốc Thảo (Iago). Vơi hai màu đen trắng, trang trí, ánh sáng, múa, đồng ca, âm nhạc Tây và Đông được phát huy tối đa, hai tư tưởng yêu thương thù hận, trong sáng và thả đoạn, thiện và ác đã được làm nổi bật. "Đấy có thể xem là câu chuyện, là nỗi đau chung của nhân loại, không phân quốc tịch, tôn giáo, màu da" [74,9]
Tác giả Lê Duy Hạnh còn dàn dựng vở diễn "Kiều - Từ Hải" do hai nghệ sĩ Lê Tử (Từ Hải) và Thiên Trang (Kiều) đóng vai chính, vở diễn được trình diễn nhiều lần tại sân khấu thể nghiệm 5B Võ Văn Tần thành phố Hồ Chí Minh.'
Ngoài ra, một số sinh viên trường cao đẳng sân khấu điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh cũng vì say mê kiệt tác Truyện Kiều đã chọn trích đoạn "Kiều đánh đàn hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư" để đàn dựng tập luyện và tham gia kỳ thi kỹ thuật biểu diễn do trường tổ chức; một số sinh viên khoa Văn trường đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức nhiều đêm thơ nhạc về Kiều.
Từ xưa đến nay trong văn học Việt Nam chưa có tác phẩm nào có một đời sống kỳ diệu, tạo cảm hứng sáng tạo vô tận và có ảnh hưởng sâu rộng như tác phẩm Truyện Kiều. Trong giới hạn 3254 câu thơ lục bát vậy mà đã có nhiều cách thể hiện khác nhau- nhạc, chèo, cải lương, kịch với những trích đoạn khác nhau. Chính sự phong phú đa dạng về âm điệu, lời ca tiếng hát, nghệ thuật biểu diễn, tài năng dàn dựng, các nhạc sĩ, ca sĩ, đạo diễn đã đã làm được một việc có ích, giúp chúng ta hiểu và cảm sâu hơn về tác phẩm Truyện Kiều. Chứng tôi tín rằng Truyện Kiều sẽ cồn tiếp tục có những đời sống phong phú và độc đáo khác.
Chương 3: Truyện Kiều - chất hoạ và tác phẩm hoạ trong cảm hứng của người đời sau.
3.1. Tính chất "Thi trung hữu họa" trong tác phẩm Truyền Kiều:
Chất họa trong tác phẩm Truyện Kiều thể hiện trên nhiều khía cạnh: 3.1.1. Chất họa trong những bức chân dung nhân vật:
Chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du thường sử dụng bứt pháp mang tính truyền thống sắp xếp nhân vật làm hai tuyến - nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông tả tỉ mỉ bằng những nét bút trang trọng giàu tính ước lộ. Còn đối nhân vật phản diện ông thường đi theo lối tả thực và phác hoa, chấm phá bằng vài ba nét nhưng vẫn gây được ấn tượng mạnh mẽ. Mặc dù đi theo khuynh hướng chính thống, bút pháp phác hoa, ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước lệ công thức nhưng ở một số phương diện Ngu yên Du đã có những phá rào (khuynh hướng tâm lý hoá ngoại hình, thân phận hoa phẩm cách) tạo nên những nhân vật sống động.
3.1.1.1. Nhân vật chính diện:
Đối với những nhân vật chính diện, Nguyễn Du thường vẽ bằng màu sắc hài hoa tươi tắn, đường nét lúc thì mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích, nét vẽ đậm và kỹ hơn so với nhân vật phản diện. Những hình ảnh ước lệ được dùng khi miêu tả nhân vật là những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp sáng trong, rực rỡ, bền vững như phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thủy... Đây là bút pháp cực tả, tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa nhan sắc cốt cách nhân vật.
3.1.1.1.1. Chân dung Thúy Kiều:
- Phần mở đầu tác phẩm:
Trong chân dung nghệ thuật, vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm nhạt, lu mờ. Nắm vững nguyên lý vẽ chân dung nghệ thuật khi hoa tác nhân vật Thúy Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm, Nguyễn Du đã chọn những găm màu mát, màu trắng trong cửa nước, màu xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và tươi của hoa "thắm"; đường nét mảnh mai uyển chuyển sống động "làn, nét và phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Không chỉ có những màu đơn, màu phối, Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về cường độ màu "thua thắm, kém xanh" để làm rõ vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm hiện lên số phận của một con người theo đúng triết lý "Hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa truân". Chỉ hai nét vẽ, bức chân dung của một giai nhân tuyệt thế đã hiện hữu, đó chính là cái tài cửa thi hào:
Làn thu thủy, nét xuân sơn, (26)
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. (25)
Vẽ nhân vật Thúy Vân Nguyễn Du thiên về tổng thể còn khi phác hoa nhân vật Thuý Kiều Nguyễn Du thiên về điểm nhãn. Thi hào đi vào đôi mắt theo quan niệm mỹ học phương Đông "Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn". Chọn màu trắng để diễn tả độ trong xuyên thấu vào tâm hồn, chọn nét xuân sơn để diễn tả sự gợi cảm của một con người nặng về đời sống tâm hồn rất đa tình đa cảm, đây là một sự tinh tế. Vũ Hạnh có lý khi lý giải vì sao thi hào Nguyễn Du không tả đôi mắt của Thúy Vân mà lại miêu tả kỹ đôi mắt của Kiều “Thúy Vân có mắt điều ấy thật hiển nhiên (...) Nhưng đôi mắt nàng chỉ là đôi mắt nằm trên khuôn mặt để làm đầy đủ lệ bộ của một khung diện mà thôi (...) Đôi mắt ấy phổng ra tia nhìn là để rập theo ý tình kẻ khác, miễn ý tình ấy thuộc về lẽ phải hiển nhiên, thuộc về trật tự đã được cuộc đời chấp nhận(...) Có lẽ, Vân đã nhường mắt cho Kiều. Vì chỉ mỗi một mình Kiều ở trong tác phẩm có đôi mắt sáng, mắt đẹp lạ lùng. Cặp mắt ấy có nhãn lực tuyệt vời, nhìn được chiều sâu thăm thẳm, tưởng chừng vạch được màu xuân tươi tốt mà soi thấu vào tận đáy mồ hoang để cảm thấu nỗi niềm cô độc xót xa của kiếp người. Cập mắt ấy nhìn được liên hệ giữa người và ta, giữa cái đã qua và cái sẽ đến."[76,170]. Không chỉ đẹp, đôi mắt của Kiều còn là đôi mắt của sự tính thông:
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không? (2182)
hoặc:
Khen cho con mắt tinh đời (2201)
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! (2202)
Mắt trong - đôi mắt đẹp ánh lên sự thông minh, mắt xanh - đôi mắt của sự đồng tình trân trọng, giờ lại là con mắt tinh đời - đôi mắt phán đoán nhận xét sắc sảo chính xác nhanh chống về con người. Có thể nói, đối với Thúy Kiều, vẻ đẹp của hình thức luôn luôn tiềm ẩn vẻ đẹp của tâm hồn và vẻ đẹp của tâm hồn "đã phản chiếu trên những dung nhan nàng những đường nét, nhữíig màu sắc tươi đẹp mà đằm thắm" [10,25]
- Trước mặt mụ mối, Kiều không còn là Kiều của ngày nào. Nàng đã biến sắc, thi hào chọn sắc vàng của hoa lá, một màu sắc buồn tiêu biểu cho mùa thu, những nét mờ, nét phớt lỹ trong sự phản chiếu và nét mảnh khảnh mỏng manh sắc màu ấy, đường nét ấy tượng trưng cho cái thần sắc bạc nhược, sự thỉu não. Cái thần của bức tranh là ở sự tương quan giữa sắc buồn và nét mờ, là sự đối lập giữa cái hôm qua và cái hôm nay, tất cả nhằm làm nổi rõ sự ủ dột tái tê của một con người cam chịu chai lý vì mang nỗi đau căm lặng không thể vùng vẫy:
Ngừng hoa bổng thẹn, trông gương mặt dày. (636)
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. (638).
Bốn nét vẽ là bốn hình thái hỗ trợ cho nhau, thống nhất nhau trong việc diễn tả sự chấn động tâm lý đã làm tàn phai nhan sắc. Trong bốn nét vẽ đó, hai nét vẽ "Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai" là hai nét vẽ thần tình nhất, thể hiện được thái độ căm lặng đến tuyệt đối, căm lặng nhưng Kiều vẫn không giấu được nỗi đau đớn, xót xa tủi nhục. Giờ đây, Kiều chỉ còn là cái bóng của chính mình! Khác với bức vẽ trên, khi thực hiện bức vẽ này, Nguyễn Du không dùng những sắc màu đậm, đường nét sắc cạnh. Chính bứt pháp vẽ kiểu như vậy đã tạo được cái thần của câu thơ, vừa thể hiện được dáng hình, vừa thể hiện được nỗi đau ẩn đằng sau bộ dạng bên ngoài. Kiều tắm:
Có lẽ đây là bức hoa khó vẽ nhất trong những bức tranh vẽ chân dung nhân vật. Bởi lẽ, nếu không khéo sẽ rơi vào sự dễ dãi, đường đột, lộ liễu kém tế nhị, đi chệch với những quan niệm đạo đức của xã hội đương thời, đồng thời hạ thấp giá trí của cô Kiều, một cô gái vốn khuôn thước theo kiểu "Êm đêm trướng rủ màn che”. Là một nhà nho chính thống uyên thâm, Nguyễn Du rất từ tốn chậm rãi cẩn thận khi hoa một thân thể khoả thân. Trước hết, nhà thi hoa tạo ra một bức phông màn rất gợi cảm đầy hương hoa "rủ bức tường hồng tẩm hoa" trước khi vén bức màn bí mật. Nhà thi hoa đã tạo được cảm giác náo nức chờ đợi cho người đọc, người xem bằng cách cho cuộn Him quay thật chậm và rồi thật bất ngờ "Một tòa thiên nhiên" đã hiện hữu. Nét vẽ "Tòa thiên nhiên" thể hiện được sự kín đáo bí hiểm gợi trường liên tưởng sâu xa. Chỉ bằng hai câu thơ, với những sắc màu tinh nguyên "Trong ngọc trắng ngà một đường nét giàu tính tượng trưng, Nguyễn Du đã tạo ra một bức hoa về thân thể người phu nữ nửa thực, nửa hư. Đứng là tuyệt họa!
Buồng the phải buổi thong dong, (1309)
Thang lan, rủ bức trướng hồng tẩm hoa. (1310)
Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà, (1311)
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên! (1312)
Không riêng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương không ít lần vẽ những bức tranh nửa kín nửa hở về người phụ nữ. Trong bài thơ 'Thiếu nữ ngủ ngày", bà chúa thơ Nôm đã viết:
Đôi gò Đồng đảo sương còn ngậm,
Một mạch Đào nguyên suối chửa thông.
Bức vẽ thiên về chi tiết, nặng về vùng cấm kỵ. Đây không phải là bức tranh khỏa thân hoàn toàn. Bức tranh về nàng Kiều mới chính là: "Bức tranh khỏa thân duy nhất trong văn học Việt Nam (...) Giải nhất trao cho Nguyễn Du” [92,149].
- Kiều bị đánh trong vụ kiện của Thúc Ông:
Vẽ chân dung Kiều bị đánh, Nguyễn Du dùng những sắc màu đậm điểm vào bức tranh nền để gây ấn tượng. Ông không dùng những nét vẽ chuẩn mà dừng những nét vẽ đệm thêm, nhoè ra, dừng nhiều đường gãy "tiêu biểu cho sự đổ vờ không an toàn nguy hiểm" [11, 57]. Nhờ thế, nó đã diễn tả được những dấu vết của những trận đòn khủng khiếp nơi phủ đường. Một loạt những hình ảnh vốn tiêu biểu cho cái đẹp đã bị tàn phai được nhà thi hoa đùng liên tiếp hỗ trợ cho nhau tạo được ấn tượng mạnh về sự đổi sắc, biến dạng. Bức tranh trở thành lời kết tội đanh thép về những kẻ không biết trân trọng cái đẹp, sẵn sàng vùi dập cái đẹp một cách tàn nhẫn:
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. (1426)
Phận đành chi dám kêu oan, (1427)
Đào hoen quyện má, liễu tan tác mày. (1428)
Một sân lầm cát đã đầy, (1429)
Gương lờ nước thúy, mai gầy vóc sương. (1430)
Thân phận con ong cái kiến chỉ có con đường duy nhất là cam chịu, cam chịu đến mức tàn tạ cuối cùng.
- Kiều chết đuối được vớt lên từ sông Tiền Đường:
Khi hoa thân chết trôi, Nguyễn Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ không cần thiết, chọn lọc những chi tiết đặc tả, xen vào đó lời bình luận trữ tình:
Trên mui lướt mướt áo là, (2707)
Tuy dầm hơi nước, chưa loà bóng gương. (2708)
Một đường nét "lướt mướt "cũng đủ vẽ bộ xiêm y ướt dầm rủ xuống thấm vào da thịt gợi ra những nét hư thực của thân thể đang bất động, buông xuôi. Giữa lúc ranh giới sống và chết thật mong manh ta mới càng thấy rõ giá trị của cái đẹp đích thực, vẻ đẹp tính nguyên sáng ương của một giai nhân tuyệt thế ngày nào vẫn còn in dấu. sống cũng đẹp và chết cũng đẹp. Không có tấm lòng trân trọng thương cảm, luôn luôn có ý thức tôn vinh cái đẹp thì không thể có cái nhìn đầy nhân văn như thế! Theo Xuân Diệu đây là hai câu thơ đầy dư ba "Thân Kiều nửa hư nửa thực, hồn Kiều nửa sống nửa chết, văn Nguyễn Du tả đẹp lạ thường!" [92,150]. Có thể xem bức vẽ trên là bức vẽ tĩnh và cái đẹp mang tính chất tiềm ẩn.
- Kiều đối điện với Kim trọng trong phần đoàn viên:
Vẻ đẹp của Kiều chỉ được vẽ bằng một nét bút với một sắc màu. Không phải là sắc trong của nước, sắc thắm của hoa, sắc xanh của núi, mà là sắc vàng của sen vào lúc cuối hạ. "Sen vàng" là một điển tích nói về người phụ nữ đẹp. Trong tư duy người Việt "hoa sen" vừa gợi lên được sự chịu đựng vừa khẳng định được giá trị cao khiết. Dù cuộc đời trầm luân đã nhai nghiên vẻ đẹp bên ngoài nhưng vượt lên tất cả là tấm lòng kiên trinh cao đẹp của nàng Kiều. Nàng như một đoá hoa sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn":
Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra. (3008)
Miêu tả nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du thường đặt những hình ảnh trong sự đối sánh. Nếu trước kia là hoa là liễu, là thu thủy, là mai cốt cách thi nay là cúc buồn, mai gầy, đào hoan, liễu tan tác, gương lờ nước thúy. Những bức tranh trong sự đối sánh tạo nên một sự tiếp nối về một nhân vật với nhiều cảnh đời.
3.1.1.1.2. Chân dung Thúy Vân:
Khác với nhân vật Thúy Kiều, nhân vật Thúy Vân là loại nhân vật đề thêm để tôn thêm vẻ đẹp và gỡ rối cho Thúy Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến nhiều lần nhưng chỉ mang chất hoa có một lần ở phần đầu tác phẩm. Nhưng để tạo ra vẻ đẹp theo kiểu "Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười" không phải là chuyện dễ. Cũng với những "Môtif” hình tượng quen thuộc, khuôn mẫu "Hoa cười, ngọc thốt, khuôn trăng, nét ngài...", Nguyễn Du "còn đưa vào những từ ngữ nôm na nhưng nội hàm đa nghĩa, những từ ngữ đầy đặn, nỡ nang không chỉ miêu tả khuôn mặt phương phi tròn trịa, nét ngài minh bạch rõ ràng của Thúy Vân mà đây còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận" [10,23]. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn vận dụng hai khía cạnh quan trọng "Nhất dáng nhì da” trong những quan niệm quen thuộc của người phương Đông để tạo ra vẻ đẹp khác biệt:
Vân xem trang trọng khác vời, (19)
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. (20)
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang, (21)
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da, (22)
Vẽ Thúy Vân Nguyễn Du đi theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ dáng người đến khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoa về sắc màu, mềm mại về đường nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối, hoàn chỉnh cả điểm lẫn diện mà bức chân dung Thúy Vân trở nên viên mãn, sống động, phúc hậu, mệnh phụ. Dù vậy, vẻ đẹp của Thúy Vân thiếu đi cái thần "đôi mắt", nó thiên về vẻ đẹp khuôn thuớc mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và quyến rũ. Điều đó đã làm nên sự khác biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính cách: người thì hồng nhan bạc mệnh kẻ thì hạnh phúc ấm êm.
3.1.1.1.3. Chân dung Kim Trọng:
Đế tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn Du phác họa nhân vật Kim Trọng được trong khung cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy diễm lệ, thanh tao. Khung cảnh thiên nhiên đã trở thành cái phông màn tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, và ngược lại nhân vật làm cho bức tranh thêm sống động có hồn. Cái tài của Nguyễn Du là tạo ra một bố cục có chính có phụ: người - ngựa, thầy tớ, con người - thiên nhiên, dưới một góc nhìn xa gần.
Camera của thi hào đặc biệt chú ý đến cử chỉ từ tốn chậm rãi của một văn nhân thực thụ "lỏng buông, xuống ngựa, tới nơi, vào trong, ra ngoài". Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt đến độ điêu luyện cao tay khi tạo ra sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của chiếc áo là sự hòa trộn giữa sắc biếc của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc ấy có được còn là sự kết hợp giữa tấm lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức tranh mang tính chất động, có găm màu mát trong đó màu xanh - xanh cỏ, xanh trời, xanh áo, xanh cây là sắc màu chủ đạo. Bên cạnh đó đường nét thề hiện sự vận động cũng được Nguyễn Du sử dụng thật tài tình. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim đã làm cho thiên nhiên thức dậy, bừng sáng, vận động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện, dung mạo của chàng, cử chỉ, phong độ của chàng làm "xinh đẹp của một vùng" (chữ dùng của Xuân Diệu).
Khi họa những bức tranh nhân vật, Nguyễn Du ít khi để cho nhân vật bị trống trải đơn chiếc. Nhân vật này xuất hiện trong sự đối sóng với nhân vật khác - Thúy Vân - Thúy Kiều, Thúy Kiều - Từ Hải, Kim Trọng - Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan. Bức tranh sẽ trữ tình hơn khi có sự góp mặt của "Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa". Và vương Quan xuất hiện đã trở thành chiếc cầu nối tình cảm của đôi trai tài gái sắc. Tiếng sét ái tình đến với họ thật tự nhiên, bất ngờ và thú vị. Thiên tài Nguyễn Du chẳng khác nào một "ông tơ" dẫn dắt khéo léo cuộc gặp gỡ của hai tâm hồn đồng điệu:
Tuyết in sắc ngựa câu đòn, (139)
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. (140)
Nẻo xa mới tỏ mặt người, (141)
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình. (142)
Hài văn lần bước dặm xanh, (143)
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao. (144)
Nhìn toàn cục của bức tranh từ sắc màu đến đường nét, từ cử chi đến hình ảnh, từ thiên nhiên đến con người cái gì cũng nhẹ nhàng, hữu tình đáng yêu. Nói như Đặng Thanh Lê "Bóng tối âm khí nặng nề khi gặp Đạm Tiên trong đoạn thơ trước đã biến đi nhường chỗ cho ánh sáng của cuộc sống, của vẻ đẹp con người, của tình yêu đang hè mỏ" [10,41].
Xây dựng bức chân dung về chàng Kim, Nguyễn Du đã có những phá cách đáng kể. Ngoài những phương diện cần thiết khi nói đến nhân vật thư sinh phong kiến như con tuấn mẫ, chú tiểu đáng, trang phục, gia thế, tài năng, học thức, Nguyễn Du còn xem trọng sự hài hòa giữa con người với vũ trụ, giữa con người bên trong và cử chỉ biểu hiện ra bên ngoài và nhất là những xao động của tâm hổn, những biểu hiện tình cảm kín đáo, những cảm giác lúc tình, lúc mê, sự bịn rịn lưỡng lự giữa ở và về - về thì tiếc ở thì cũng chẳng xong. Cố thể nối, ít ai tả được tác động dữ dội của tiếng sét ái tình ồ những tâm hồn còn trắng trong như tờ giấy đang bắt đầu bước vào ngưỡng cửa tình yêu đứng và hay như tíu hào:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài, (163)
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. (164)
Chập chờn cơn tĩnh, cơn mê, (165)
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (166)
Bóng tà như giục cơn buồn, (167)
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo. (168)
Ngay cả cái cử chi "Khách đà lên ngựa người còn ghé theo" đầy quyến luyến, bịn rịn, nuối tiếc nhưng họ đành bất lực trước sự vận hành của vũ trụ cũng đáng yêu làm sao!
Mở đầu một chuyện tình là khung cảnh thiên nhiên tươi sáng rộng mở và kết thúc cuộc gặp gỡ là một bức tranh thiên nhiên nhỏ nhắn, xinh xắn đấng yêu:
Dưới cầu nước chảy trong veo, (169)
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. (170)
Thiên nhiên đượm tình càng tôn thêm vẻ đẹp tình cảm của chàng Kim cô Kiều. Phải chăng tình cảm sáng trong của Kim Kiều như dòng nước trong veo đang chảy dưới cầu. Và tình cảm ấy gắn bó khăng khít khó thể tách rời như cầu gắn với nước, tơ liễu gắn với bóng chiều. Nhưng đường như có một dự báo sự cách trở vì "Nước đi đi mãi không về cùng non". Có thể xem đây là một cuộc tạm chia tay cực đẹp để rồi sau đó Kiều - Kim phải thao thức mộng tưởng. Hành trình của chuyện tình cùng với nỗi khổ của cô Kiều cũng bắt đầu từ đây.
Khác với Nguyễn Du, khi tả Kim Trọng Thanh Tâm Tài Nhân lại đi sâu vào sự chấn động của tâm hồn: "Kim Trọng ngây ngất cả người, xiêu xiêu cả tinh thần, bụng bảo dạ: thế này thì mình đến tương tư chết mất, rồi chàng lẩm nhẩm tự thề không lấy được Kiều thì suốt đời khống lấy ai nữa.
Vì có Vương quan đấy, không tiện nán ở lại lâu, Kim Trọng đành phải qua loa cáo từ lui gót.
Vương viên ngoại cũng sai người đến đón hai nàng lên kiệu''
- Cũng là bức vẽ về Kim Trọng nhưng đây lại là bức vẽ mang tính chất cách điệu:
Hiên sau treo sẩn cầm trăng, (467)
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày. (468)
Nét họa "Tay nâng ngang mày" thể hiện thái độ trân trọng thán phục trước tài đàn, một trong bốn tài năng - cầm kỳ thi hoa đã trở thành nức tiếng của người con gái họ Vương. Không chỉ là sự thán phục, bức vẽ còn muốn bổ sung thêm một thông tin cần thiết về chàng Kim. Chàng văn nhân hào hoa phong nhã không chỉ là một con người chỉ biết yêu cái đẹp của văn chương mà còn là một con người rất am hiểu và sành điệu nghệ thuật âm nhạc. Người đọc sẽ chẳng ngạc nhiên khi Kim Trọng có rung cảm mạnh mẽ, đưa ra những nhận định xác đáng khi nghe tiếng đàn của cô Kiều.
3.1.1.1.4. Chân dung Từ Hải:
Nếu Kim Trọng hiện ra trong sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong đêm thanh tĩnh gió hây hây thổi, không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức chân dung đã có thêm nét tối sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với chất huyền thoại của nhân vật. Bút lực của Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà dồn vào đường nét. Nét bút có đường nét to và rất mạnh mẽ "râu hùm, hàm én, mày ngài", phóng bút nhiều chiều, chiều ngang - vai năm tấc rộng, chiều dọc - thân mười thước cao; chiều cao đội trời và chiều thấp đạp đất. Thật đúng khi cho rằng "tác giả muốn làm cho không gian chung quanh Từ Hải rộng thêm ra, từ mặt người, từ bóng dáng, từ tài năng phát tia ra, nên đã đặt nhiều díu huyền, bởi thanh có dấu huyền không đứt gọn như thanh không dấu, mà nhòa rộng ra... " [92, 267]. Cũng là "ngài" nhưng đối với Thúy Kiều, Nguyễn Du vẽ "nét ngài" còn Từ Hải là "mày ngài", một bên chỉ là đường nét, còn một bên lại là hình thể của sự vật; một bên là sự mềm mại còn một bên là sự mạnh mẽ kiên quyết. Điểm vào chân dung nhân vật là những phụ bút như gươm đàn làm tăng thêm chất hào hùng, tài năng phi thưởng của Từ Hải. Ngoài những hình ảnh tượng trưng ước lệ thường gặp trong những bức tranh miêu tả nhân vật anh hùng "râu hùm, hàm én, mày ngài...", Nguyễn Du còn tạo ra một không gian đầy chất huyền thoại, tiết điệu ngắt bất ngờ "bỗng đâu" để tạo ra nét riêng biệt của người anh hùng - bất ngờ ương sự xuất hiện và cũng rất bất ngờ trong sự quyết định chọn người tình lý tưởng. Một con người dám "chọc trời khuấy nước" sẽ cổ một chuyện tình dị thường hiếm có là lẽ đương nhiên, là sự lôgic cửa một tính cách.
Ngoài ra, khi họa chân dung nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du rất lưu ý đến cấu trúc cân đối cân đối về hình ảnh - râu, hàm, mày - vai, thân, cân đối về nhịp điệu - câu lục nhịp thơ 2-2-2 câu bát lại nhịp thơ 4-4, và cân đối cả về mặt ngôn ngữ - những từ Hán Việt "anh hào, côn quyền, lược thao" tạo nên sự trang trọng và những từ thuần Nôm tạo nên sự gần gũi, đời thường.
- Chân dung Từ Hải lúc ngồi ghế quan tòa:
Vẻ đẹp kiêu hùng và tài năng tuyệt đỉnh của họ Từ càng được tô đậm hơn qua bức tranh ngồi ghế quan tòa:
Quân trung, gươm lớn, giáo dài, (2311)
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi. (2312)
Sẩn sàng tề Chĩnh uy nghi, (2313)
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. (2314)
Trướng hùm mỏ giữa trung quân, (2315)
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi. (2316)
Đây có thể xem là bức họa về cảnh đoàn quân chiến thắng trở về và đang chuẩn bị xử án. Vì thế, Nguyễn Du dùng nhiều nét nhọn, nét thẳng đứng, nét ngang gợi lên cảnh tượng giáo gươm tua tủa, đoàn quân nghiêm trang, hào khí ngất trời, uy thế dữ dội. Bức tranh được thiết kế theo kiểu cái phụ làm rõ cái chính, cảnh tượng chung quanh làm rõ nhân vật trung tâm - Từ Hải - Thúy Kiều. Từ một vị thế của kẻ tôi đòi trước kia, Kiều đã hóa thân thành vị "phu nhân mệnh phụ", kẻ xử án. Một sự hóa thân như cổ phép màu, phép màu đổ không đo một lực lượng siêu nhiên nào mà do chính đấng anh hùng luôn lây công lý làm đầu, nghĩa tình làm trọng tạo dựng.
Mặc dù trong cuộc báo ân báo oán, Nguyễn Du vẽ nhân vật Từ Hải nhạt hơn nhân vật Thúy Kiều nhưng không vì thế người anh hùng trở thành nhân vật thứ yếu trong bức tranh xử án. Nguyễn Du rất tinh tế khi để cho Từ Hải tuyên bố "Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh.". Rõ ràng Từ Hải không phải là người chỉ biết đến cái chung mà rất trân trọng việc riêng của Kiều. Vì chỉ có Kiều mới xử đúng người đúng tội. Có chăng cái uy của Từ Hải đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra cái uy của chủ toa phiên tòa? Từ Hải có thể xem là người thiết kế còn Kiều chính là người thi công.
- Chân dung Từ Hải chết đứng:
Kiêu hùng bao nhiêu Từ Hải lại chết một cách oan nghiệt bấy nhiêu. Bức hoa về hình tượng người anh hùng chết đứng lại mang chất hoa khác. Đây là bức hoạ tĩnh giàu chất điêu khắc cổ đường nét cứng. Thi hào như muốn tạc tượng một huyền thoại anh hùng khao khát tự do trong cái xã hội mà cái đẹp và tài năng không cố đất tồn tại:
Khí thiêng khi đã về thần, (2519)
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! (2520)
Trơ như đá, vững như đồng, (2521)
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời. (2122)
Từ Hải thua trong thế thắng, chết nhưng còn sống mãi với đời. Hình tượng chết đứng đầy oan thiêng của Từ như một lời tố cáo đanh thép cái xã hội: Lẽ phải và chiến thắng thuộc về kẻ có quyền và sự gian trá. Vài trăm năm sau chúng ta lại bắt gặp hình tượng người anh hùng chết đứng trong thơ Lê Anh Xuân: Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất, Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng. Anh đang chết trong khi đang đứng bắn, Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vòng.
3.1.1.1.5. Chân dung người khách viễn phương:
Nhân vật người khách viễn phương không rõ tên tuổi quê quán, nghề nghiệp, xuất hiện gián tiếp thoáng qua thông qua lời kể của vương Quan nhưng vẫn gây ấn tượng. Nhân vật này tạo thành bộ ba nhân vật nam chính diện - Từ Hải, Kim Trọng, người khách viễn phương. Mỗi người mỗi tính cách. Từ Hải hào hùng dũng mãnh ngang tàng, rộng lượng, Kim Trọng hào hoa phong nhã, thúy chung còn người khách viễn phương rất cao thượng. Khi họa bức chân dung người khách viễn phương, Nguyễn Du không đi sâu vào diện mạo mà chú trọng đến cử chỉ, hành động để làm toát lên nét đẹp tâm hồn. Chỉ một vài biểu hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo "xa nghe, tìm đến", "Sắm sanh nếp tử, xe châu" (77), thể hiện sự đau đớn xót xa "khóc than" và đặc biệt hành động vội vội vàng vàng "vùi nông" khi chôn cất thi hài Đạm Tiên, nhân vật này đã để lại những dư vị ngọt ngào trong lòng người đọc. Là một kẻ đến sau nhưng lại là người biết ra tay hành động, đó chính là phẩm chất của một con người biết trân trọng cái đẹp, sự tài hoa. Người khách viễn phương cảm kích và mến phục sứ giả Đạm Tiên cũng đúng thôi. Bởi lẽ, Đạm Tiên, một nhấn vật được không ít người ngưỡng vọng. Trong khi dẫn giải, Vương Quan đã hết lời ngợi ca "Nổi danh tài sắc một thì,"(63). Và hồn ma Đạm Tiên cũng được Nguyễn Du vẽ bằng những nét vẽ rất thanh tao" Có chiều phong vận, có chiều thanh tân."(180). Ở nhân vật người khách viễn phương có nét gần gũi với nhân vật Từ Hải. Cả hai đều xuất phát từ cái tâm sáng, sẩn sàng dẹp bỏ những định kiến hẹp hòi để cảm thấu số phận bi kịch của những người làm gái lầu xanh, làm nghề xướng ca vô loài.
3.1.1.2. Nhân vật phản diện:
Đối với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mĩ trang trọng. Chỉ cần vài ba nét phác họa ông để lại những ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Lộc đã nhận xét: "Nguyễn Du cố gắng làm cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực (...) Đặc biệt bút pháp của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất hiện thực xã hội chủ nghĩa" [49,400]. Dưới góc nhìn của hội hoa, ta thấy những nhân vật loai này thường được Nguyễn Du dùng những sắc màu nhợt nhạt, đường nét mang tính chất chấm phá, khai thác tính chất mất cân đối trái tự nhiên để làm rõ tính cách nhân vật.
3.1.1.2.1. Chân dung Tú Bà:
Nhân vật Tú Bà hiện ra chi bốn nét bút với một sắc màu hai đường nét:
Thoát trông nhờn nhợt, màu da, (923)
Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm sao? (924)
Trước xe, lơi lả han chào, (925)
Hoặc:
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay. (950)
Không phải là đường nét mềm mại uyển chuyển, sắc trắng đẹp đẽ tinh nguyên như Thúy Vân, Thúy Kiều mà đây là màu trắng hơi vàng, nhợt nhạt do ở nơi tăm tối, đường nét chệch choạc mất tính cân đối, vượt khuôn khổ cho phép "to lớn đẩy đà", trái ngược với quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng, dáng ngồi rất chủ chứa "vắt nóc", ngôn ngữ đưa đẩy. Chỉ cần bốn nét vẽ, đặc biệt là nét vẽ "nhờn nhợt", vừa gợi lên được màu da tạo được cảm giác ghê tởm, vừa thể hiện được quá khứ giang hồ, thi hào Nguyễn Du đã nổi đúng một trong những nét rất đặc trưng của những bà chủ chứa kiểu mẫu chính hiệu đẫy đà xác thịt" (chữ dùng của Hà Như Chi). Nhưng nếu bức họa này đựơc một họa sĩ tài ba vẽ lại thì sao? Nguyễn Văn Hạnh đã kết luận: "Họa sĩ chỉ có thể vẽ một mụ Tú Bà cao lớn to béo, màu da nhờn nhợt, với kích thước, sắc độ như mình muốn, nhưng chỉ được trên từng bức tranh cụ thể một kích thước, sắc độ nhất định mà thôi. Và người xem chỉ tiếp xúc một hình thể Tú Bà hoàn toàn xác định.
Còn trong trí tưởng tượng của người đọc thì hình tượng Tú Bà do Nguyễn Du tạo nên không hoàn toàn xác định. Và ở các người đọc khác nhau, các lần đọc khác nhau, lại có những mụ Tú Bà kinh tởm khác nhau, những mức độ nhờn nhợt cao lớn, đẩy đà khác nhau" [57,12]. Điều mà Nguyễn Văn Hạnh khẳng định đó chính là sự đồng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận văn học. Và điều này có lẽ không chỉ đúng với nhân vật Tú Bà mà còn đúng với quá trình tiếp nhận những nhân vật khác.
3.1.1.2.2. Chân dung Mã Giám Sinh:
Đây là một con buôn đội lốt nho sinh trường Quốc tử Giám. Bản chất lỗ mảng bịp bợm lái buôn được Nguyễn Du phác họa bằng ba nét vẽ thần tình theo quan niệm "xem mặt mà bắt hình dong" - mày râu tỉa tót cẩn thận, áo quần thẳng thòm và vị trí ngồi ở chỗ cao để xem hàng cho rõ "ngồi tót".
So với Sở Khanh, nhân vật Mã Giám Sinh đóng kịch tài hơn nhiều. Hắn đã dàn dựng lễ vấn danh y như thật với những nghi lễ theo phong tục truyền thống "Sính nghi, canh thiếp, nạp thái vu quy". "Vải thưa không thể che mắt thánh", dưới ngòi bút thần tình của thi hào, hắn không thể giấu hết tất cả những kẽ hở vốn có của những kẻ gian xảo. Nguyễn Du cho hắn hiện ra từ từ "Ngồi tót, đắn đo, cân sắc, cân tài, ép, thử, cò kè, ngã giá, định ngày "rồi điểm huyệt đúng ngay vào những chỗ hắn che đậy không kín kẽ” xa hắn nói gần, mua người về lầu xanh hắn nói "mua ngọc đến Lam Kiều", đứng tuổi nhưng lại làm ra vẻ trai tơ bảnh chọe, cò kè mặc cả, ép, thử mà lại bảo đi kiếm vợ lẽ? Bản chất lái buôn càng thể hiện rõ hơn khỉ hắn phát ngôn. Lúc sự việc chưa ngã ngũ hắn phát ngôn rất nhũn nhặn" Rằng: "mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?", nhưng đến lúc nắm thế thượng phong hắn phát ngôn thật lạnh lùng" Tiền lưng đã sẩn việc gì chẳng xong". Và đây chính là lúc con buôn họ Mã đã lộ nguyên hình. Như thế vẫn chưa đủ, Nguyễn Du còn phác họa thêm những bức phụ hoạ về một lũ nhỏ loi choi lóc chóc. Thầy trò họ Mã, đúng là một đám người lăng xăng lít xít, lộn xộn, láo nháo, vô học, thiếu văn hóa:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần, (627)
Mày râu nhấn nhụi, áo quần bảnh bao. (628)
Trước thầy, sau tớ lao xao, (629)
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang. (630)
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, (631)
Nói chung, khi xây dựng nhân vật Mã Giám Sinh, bút lực của Nguyễn Du dồn vào việc vạch trần mâu thuẫn giữa chức danh của tên họ Mã và bản chất lái buôn bịp bợm thị của khinh người, sự trái khuấy giữa tuổi tác và dáng vẻ, giữa lời nói và việc làm. Cùng với một số nhân vật phản diện khác, nhân vật Mã Giám Sinh đã góp phần tạo thành một chuỗi nhân vật có tính cách tương cận: Tú Bà - chủ chứa, tàn bạo, Mã Giám Sinh - lão luyện chuyên săn lùng nguồn hàng, Sở Khanh - tên ma cô điểu cáng chuyên dắt gái và bảo kê. Chúng là những nhân vật tiêu biểu cho những ổ chứa và tất cả "đều bộc lộ mối quan hệ mờ ám, mơ hồ bất minh "(Chữ dùng của Đặng Thanh Lê)
3.1.1.2.3. Chân dung Sở Khanh:
Đây lại là một tên ma cô sống bám lầu xanh, sống trên thân xác của người phụ nữ như một loại chùm gửi. Bức họa về tên lưu manh này khác với bức họa về tên họ Mã. Đối với Mã Giám Sinh "xem mặt" có thể "bắt hình dong" nhưng đối với họ Sở lại khác, bởi lẽ những đường nét về dáng người phục trang của hắn khá thanh tao:
Một chàng vừa trạc thanh xuân, (1059)
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng. (1060)
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào! (1126)
Nhân vật Sở Khanh cổ dáng vẻ của "một nhà nho nhưng ngay trong hình dáng đã có cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là một nhà nho chân chính" [42,470].
Sở Khanh là một kiểu người "Vừa ăn cướp vừa la làng", vừa táo tợn vừa tỏ vẻ nhẹ nhàng khiếm nhã. Chẳng mất gì mà hắn vừa kiếm được chì vừa kiếm được chài. Khi Kiều vạch rõ chân tướng cũng là lúc sự trơ trên của hắn được phơi bày "Nhơ tuồng, nghĩ mới kiếm đường tháo lui."(1188). Dưới ngòi bút Nguyễn Du, Sở Khanh đã trỏ thành"lưu danh thiên cổ" (Chữ dùng của Hoài Thanh). Sự táo tợn của hắn còn hơn cả chàng Đông-juan của văn học phương Tây.
Có một nét rất chung về hai bức họa Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Vẽ hai nhân vật này Nguyễn Du chi dùng đường nét chứ không dùng tới màu sắc. Màu sắc được gợi lên qua trí tướng tượng của từng người tiếp nhận.Và cả hai bức họa đều có hai nét vẽ xuất thần: "rẽ dây cương" và "ngồi tót sỗ sàng". Hai nét vẽ truyền thần cũng là hai tính cách của hai nhân vật: lỗ mảng của Mã Giám Sinh và tráo trở của Sở Khanh.
3.1.1.2.4. Chân dung Hoạn Bà:
So với các nhân vật khác, nét vẽ về bà Hoạn Quan có thêm nét mới. Nhân vật Họan Bà được bố trí như một tượng thần trong khung cảnh màn che trướng phủ đèn thắp sáng, Khác với lối ngồi "Vắt nóc" của bà chủ chứa, Hoan Bà có cung cách ngồi trực diện rất bệ vệ. Trong bức tranh:
Ban ngày, sáp thắp hai bên, (1723)
Giữa gương thất bảo, ngồi trên một bà. (1724)
Nguyễn Du đã thể hiện được cái tài phối cả nh, phối màu để làm rõ tính chất của nhân vật, khung cảnh sống đế vương của những gia đình quyền lực trong xã hội ngày xưa. Ánh sáng của đèn "sáp thắp" hai bên gợi lên sự thâm nghiêm uy quyền và làm hiện rõ sự giàu có "giường thất bảo". Và kẻ có nhiều quyền lực đang thụ hưởng cuộc sống vương giả ấy không ai khác là Hoan Bà. Đà chính là nhân vật kiểu mẫu cho những quan bà trong cái xã hội "Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon". Chúng vô ngôn nhưng độc địa nham hiểm, sẩn sàng bày mưu chỉ kế đốt nhà, bắt người hành hạ cho thỏa thích. Ngoài tính chất hiện thực bức vẽ về nhân vật Hoan Bà còn mang tính chất "trào phúng" [42,758]
3.1.1.2.5. Chân dung Hoạn Thư:
Đối với nhân vật Hoạn Thư, Nguyễn Du không họa tác một bức chân dung đầy đủ và cụ thể về dáng vẻ bên ngoài như một số nhân vật khác. Điều này cũng hợp lý vì Hoạn Thư là loại nhân vật mang tính chất duy lý, khôn ngoan sắc sảo. Tất cả mọi hành động lời nói, kế sách đốt nhà bắt cóc, bịt miệng bọn tôi tớ đến việc chờ đợi thời cơ, cách thức hành hạ Thúy Kiều, đưa Thúc Sinh vào tròng, biện minh trước chủ tọa phiên tòa, Hoạn Thư đều tính toán một cách chu đáo, kỹ càng và đạt hiệu quả.
Do chân dung Hoạn Thư không mang tính tập trung ở một một đoạn thơ cụ thể cho nên người đọc muốn xem rõ chân dung nhân vật này phải tập hợp một số chi tiết qua một chuỗi dài sự kiện thơn thớt nói cười, cười nụ, nhón chân đứng nép, rẽ hoa bước vào, lại thét lấy nàng, nổi giận đùng đùng". Tất cả đã làm hiện lên một khuôn mặt trẻ tươi nhưng không kém phần sắc sảo, bản lĩnh và sẵn sàng biến thái khi cần thiết dáng người thon thả, cử chỉ từ tốn, trí tuệ khôn ngoan. Hoạn Thư có sự kết hợp khéo léo giữa con người tình cảm (ghen tuông) và con người lý trí (kiềm chế tính ghen), giữa sự tuân phục và sự phản ứng chế độ đa thê. Hoạn Thư chính là bản sao có sáng tạo của nhân vật bà Hoạn Quan. Có chăng, Nguyễn Du muốn san bớt sự tàn bạo ở nhân vật Hoan Thư sang Hoan Bà?
3.1.1.2.6. Nhân vật Hồ Tôn Hiến:
Trong các nhân vật xuất hiện, đây là nhân vật có quyền uy cao nhất, nhân vật được đặt trong thế đối đầu với Từ Hải. Đối với nhân vật này nét vẽ của Nguyễn Du có gì lạ?
Nghe càng đắm, ngắm càng say, (2579)
Lạ thay mặt sắt, cũng ngây vì tình. (2580)
So với những bức vẽ chân dung nhân vật có lẽ đây là một trong những bức vẽ thành công và đặc sắc. Đường nét và sắc màu mang nội hàm ý nghĩa rất lớn. Nguyễn Du rất tinh tế khi thực hiện những nét vẽ về sự thay đổi của từng ánh mắt, độ co giãn của từng sắc mặt: nghe - đắm, ngắm - say - ngây để làm rõ bản chất háo sắc của một tên quan lắm quyền. Là một kẻ “kinh luân gồm tài" từng xông pha trận mạc vậy mà trước mặt Thúy Kiều hắn đã bị mất phương hưđngtình cảm bị cuốn hút, lý trí hết hiệu lực và cuối cùng đờ đẫn ngây dại. Nói như Hoài Thanh "Nguyễn Du đã giết Hồ Tôn Hiến bằng một chữ "ngây" cũng như giết sở Khanh bằng chữ "lẻn". Trong bao nhiêu người mê Kiều, Nguyễn Du đã dành riêng chữ "ngây" cho Hồ Tôn Hiến" [42,474]
Đặc biệt, trong bức chân dung về Hồ Tôn Hiến chúng ta còn tìm thấy những bức tranh nhỏ đặt cạnh nhau, tiếp nối nhau và thậm chí trái ngược nhau" mặt sắt - ngây". Cách sắp xếp đó đã góp phần không nhỏ trong việc tô đậm tính cách nhân vật, tạo ra sự khác biệt trong việc thực hiện các bức chân dung nhân vật.
Chọn vẽ Hồ Tôn Hiến vào thời điểm Từ Hải chết trận, Kiều phải dâng rượu hầu đàn, Nguyễn Du như muốn khẳng định sự đối nghịch về đạo đức: đê hèn, xảo quyệt, vụ lợi điểu cáng hoàn toàn tương phản với cái đẹp của sự hy sinh, lòng trung thực, sự thủy chung. Kiều khuyên Từ ra hàng là xuất phát từ cái đức. Hồ Tôn Hiến lật lộng đánh lén để chiến thắng và bắt vợ của người chiến bại hầu rượu mua vui là phi đạo đức. Rõ ràng chất người của Kiều càng cao thì chất người của Hồ Tôn Hiến càng không có.
Cũng là bức vẽ về nhân vật Hồ Tôn Hiến nhưng bức vẽ:
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, (2453)
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung. (2454)
thì "người ta thấy họa sĩ vẽ bức tranh này là một nhà hoạt họa trào phúng đến ghê gớm. Tiện nghi, bát liễu, việc ngoài, đổng nhung, thanh la, não bạt đập gõ loèng xoèng, nhưng mi là một tên gian đối..." [92,115]. Hình ảnh tên quan tổng đốc trọng thần gợi ta nhớ đến ông quan phủ xử kiện Thúy Kiều:
Trông lên mặt sắt đen sì, (1409)
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời: (1410)
Cũng là "mặt sắt" nhưng ông quan xử kiện không có sự biến thái nhanh chóng. Bổ sung thêm định ngữ "đen sì", Nguyễn Du muốn nói đến một ông quan "chính trực và oai nghiêm". Nhưng ở ông có sự xen lẫn giữa cái nghiêm minh lạ đời - đánh người tàn nhẫn và sự cảm thông trước hoàn cảnh, thán phục trước tài năng không được thi thố của Kiều.
Còn một tên quan nữa, đó là tên quan "cướp ngày". Hắn chẳng cần ưa khảo mà chỉ:
Rường cao rút ngược dây oan, (593)
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người! (594)
"Thần công lý chỉ dịu cơn thịnh nộ khi nghe thấy có mùi tanh của hơi đồng "Có ba trăm lạng việc này mới xong"[49, 371]
3.1.1.2.7. Chân dung bọn sai nha:
Đây là bọn người tôi tớ tay sai, vũ khí "pháp luật" của kẻ có quyền. Để cho chúng xuất hiện, Nguyễn Du như muốn làm rõ thêm sức mạnh vạn năng của đồng tiền, bản chất của xã hội "Có ba trăm lạng việc này mới xong" hay “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong". Đối với bọn sai nha, Nguyễn Du họa tác bằng những nét vẽ dị hợm nửa người nửa ngựa, hành động theo bản năng - chửi, trói, vét với những đồ nghề chuyên gây án "thước, đao, già giang”. Sự xuất hiện của bọn người "Đầu trâu mặt ngựa" đã làm cho cái không khí vốn yên bình đầm ấm ngăn nắp của gia đình vươn g Viên Ngoại bỗng trở nên lộn xộn nhốn nháo rối tung. Tương phản với sự bàng hoàng sửng sốt của cha con Vương Ông là những tiếng la, tiếng chửi, tiếng đồ đạt bị lật tung và bị vét "sạch sành sanh Với ba âm thanh ngày càng vang động dữ dội" xôn xao, ào ào, vang tiếng ba hành động "ào ào như sôi, buộc hai thân hình, vét cho đầy túi tham", ba hình ảnh đặc tả "Nách thước, tay đao, đầu trâu mặt ngựa", Nguyễn Du đã lột trần bản chất tàn bạo độc ác, tham lam, hung hãn, dữ tợn của bọn người bất chấp công lý. Nói như Nguyễn Lộc "Công lý của bọn chúng là công lý của bọn đầu trộm đuôi cướp"[49, 371]
3.1.1.3. Nhân vật trung tính:
Chân dung Thúc Sinh:
Xếp nhân vật Thúc sinh vào loại nào cho đúng? Có thể xem đây là một loại nhân vật trung tính, một loại người đa tình nhưng bạc nhược, một nhân vật vừa có mặt tốt vừa mặt chưa tốt. Chính cái mặt tốt và mặt chưa tốt của Thúc Sinh mà chất người ở nhân vật này thể hiện đậm nhất. Là một người có vợ Thúc Sinh phải làm sao đây trước một Hoạn Thư con nhà quyền thế? Có lẽ ta cũng không nên đòi hỏi gì hơn ở nhân vật này.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, tính cách của Thúc Sinh thể hiện ở nhiều tình huống:
Tiểu thư vội thét: "Con Hoa! (1843)
Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta có đòn!" (1844)
Sinh càng nát ruột, tan hồn, (1845)
Chén mời, phải ngậm bồ hồn, ráo ngay! (1846)
Nhưng có lẽ chất họa thể hiện rõ nhất về nhân vật này là lúc Thúy Kiều có dịp báo ân báo oán:
Cho gươm mời đến Thúc Lang, (2325)
Mặt như chàm đổ, mình dường dê run. (2326)
Với một sắc màu có pha tạp (xanh pha tím) thể hiện sự biển thái của sắc mặt và một đường nét run rẩy (dê run - một loài chim có mỏ dài, cái đuôi luôn phe phẩy) thi hào đã khắc họa một tính cách tiêu biểu cho một loại người trong xã hội - khoác lác nhưng nhu hèn sợ vợ. Đây là một kiểu nhân vật không hoàn toàn trùng lặp trong tác phẩm. Trước Thúc ông, Thúc Sinh xử sự "như một kẻ ăn vụng bị bắt quả tang" (Chữ dùng của Lê Đình Kỵ), trước pháp đường Thúc Sinh khóc lóc tự oán trách mình, trước Thúy Kiều hắn cho Hoạn Thư là mgười nham hiểm, trước Hoạn Thư hắn xem Thúy Kiều là người không quen biết. Khi Thúy Kiều "đưa gươm mời đến Thúc Lang" hắn run lẩy bẩy" nhưng đến khi Thúy Kiều trả ơn hắn "mừng sợ khôn cầm". Nhân vật Thúc Sinh là sự tổng hợp giữa ba dòng máu Thúc sinh - Sở Khanh - Kim Trọng. Lê Đình Kỵ nhận xét thật đúng: "Thúc Sinh cũng có chút máu Kim Trọng trong người, nhưng sự việc xảy ra sẽ biến dần y thành một tên Sở Khanh không hơn không kém."[42,707].
Nói chung, có bao nhiêu nhân vật là có bấy nhiêu bức vẽ. Nhiều khi chỉ một nhân vật nhưng lại có nhiều bức vẽ khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm hoàn thiện tính cách. Vẽ chân dung nhân vật, đối với Nguyễn Du không chỉ thông qua sự quan sát, óc liên tưởng mà còn vẽ bằng cả tâm hồn trái tim. Nhờ vậy, mỗi sắc màu, mỗi đường nét đều có giá trị ngữ nghĩa sâu sắc. Và đằng sau những bức vẽ, ta như th ấy thấp thoáng số phận và cả một phần đời nhân vật được gởi gắm trong đó.
Đặc biệt, sự thần tình của Nguyễn Du là đã tạo ra những bức chân dung có sức sống vĩnh viễn và ườ thành những quy ước đánh giá của xã hội. Ông đã sáng tạo ra "Những con người thực hơn những con người thực" [27,193]. Nhắc đến cái tên Sở Khanh là ta nghĩ ngay đến một tên lưu manh lừa lọc. Nhắc đến cái tên Tú Bà là ta nghĩ ngay đến một bà chủ chứa chuyên nghiệp. Nhắc đến cái tên Mã Giám Sinh là ta nghĩ ngay đến một tên buôn người có cỡ. Và chỉ nghe đến cái tên Hoạn Thư là ta nghĩ ngay đến kiểu ghen độc đáo có một không hai. Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh... vốn là những danh từ riêng giờ đây lại trở thành những danh từ chung chỉ những hạng người trong xã hội. Phải là người có vốn sống phong phú, lượng ngôn từ đầy ắp, rất am hiểu nghệ thuật hội hoa, Nguyễn Du mới phác hoa được những bức chân dung đa dạng và có sức sống như vậy.
3.1.2. Chất họa trong những bức tranh phong cảnh:
Trong văn chương từ cổ chí kim, những bức tranh phong cảnh dường như không bao giờ vắng mặt nếu không muốn nổi là tràn ngập. Xuất phát từ quan niệm, cách nhìn, mỗi thời đại có phương thức thể hiện khác nhau. Nếu văn học thời hiện đại ít dùng tới những hình ảnh ước lệ, đòi hỏi tính đột phá trong sáng tạo của người nghệ sĩ thì văn học truyền thống lại hay dùng tới những công thức - hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, thường tả cảnh xen tình. Đối với Nguyễn Du, mặc dừ chưa thoát khỏi đường ray của thời đại nhưng ông cũng có những bức tranh phá khổ đi trước thời đại. Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh, tả tình trong thơ Nguyễn Du, nhà nho Đào Nguyên Phổ trong bài tựa bản Đoạn Trường Tân Thanh năm 1902 có viết: "Nói tình thì vẽ hình trạng hợp ly tân khổ mà tình không rời cảnh; tả cảnh thì bầy hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa mà cảnh tự vương tình còn Lê Trí Viễn thì cho rằng: "Cảnh vật dường như một nhân vật luôn luôn có mặt, một nhân vật im lặng nhưng hiểu thấu tâm trạng con người..." [27,193).
Xuất phát từ góc độ chuyên môn, họa sĩ Nguyễn Tiến Chung đã cho rằng "Sự tương quan giữa cảnh trong thơ ông có lúc hòa hợp, uyển chuyển, cũng có khi tương phản nhau, nhưng cái nọ thường làm nổi bật cái kia, hình này nói hộ hình khác, tất cả nhằm nói lên một tâm tình. Cách bài trí thiên nhiên trong thơ ông dường như lúc nào cũng có trọng tâm, có bối cảnh chủ đạo. Hình tượng nào cần làm lộ rõ ông cho gần lại; hình tượng nào thứ yếu thì đẩy lùi xa và ch o mờ nhạt đi, nhưng mọi hình tượng đều ăn khớp với nhau." [61,79] Nghiên cứu những bức tranh tả cảnh trong Truyện Kiều, ta nhận thấy rằng: khi họa những bức tranh phong cảnh, Nguyễn Du thường vẽ bằng những nét chấm phá ít đi sâu vào chi tiết. Đặc biệt cảnh vật được miêu tả thường bị chi phối bởi quan niệm nghệ thuật, cảm quan của con người và thông qua lăng kính nhân vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, (1244)
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! (1245)
3.1.2.1. Cảnh xuân, hạ, thu, đông:
Trong văn học từ xưa đến nay có không ít những bức tranh tuyệt tác về xuân, hạ, thu, đông "Xuân hiểu" Trần Nhân Tông, "Mùa xuân chín" Hàn Mặc Tử "Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm" Nguyễn Khuyến "Đây mùa thu tới” Xuân Diệu, "Tiếng thu" Lưu Trọng Lư, "Vịnh mùa Đông" Nguyễn Công Trứ, "Mùa hạ" Xuân Quỳnh.... nhưng chỉ có Truyện Kiều bức tranh tứ bình mới được hoàn chỉnh và không kém phần độc đáo.
Cũng dựa vào quy luật vận hành của thiên nhiên vũ ưu - xuân sinh, hạ trưởng, thu liêm, đông tàn nhưng Nguyễn Du cồn sắp xếp những cảnh này sao cho phù hợp với những cuộc gặp gỡ, chia tay, tính chất của từng mối tình. Tình yêu Kim - Kiều chớm nở vào mùa xuân; cuộc chia tay Kiều - Thúc, cuộc bỏ trốn của Thúy Kiều với Sở Khanh rơi vào mùa thu...
- Mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của lễ hội, nó là cái mốc quan ương trong câu chuyện tình trai tài gái sắc. Kim, Kiều gặp nhau, Kim Trọng trở lại vườn Thúy, hai bức họa này có gì khác nhau trong những nét vẽ và sắc màu?
Trước hết là bức họa mùa xuân khi hai chị em Thúy Kiều du xuân. Đây là bức họa với những gam màu mát, đường nét mềm mại, đứng theo quy ước của hội họa "màu lạnh - lam, xanh... thưởng tạo cảm giác mát mẻ... đường lượn êm dịu tạo cảm giác yên bình " [11,59]. Cảnh có sắc xanh của cỏ non trải dài như mở ra một không gian vô tận, có sắc trắng của bông hoa lê điểm xuyết, có sắc vàng dịu nhẹ của ánh nắng mặt trời vào độ tháng ba tiết thanh minh, có đường nét nhẹ nhàng êm ái của chim én, có sự vận động khẩn trương của thời gian, có không gian của chiều cao, chiều rộng và chiều ngang, có cái diện để rõ cái điểm. Bức tranh rất phương Đông thật thông thoáng, cân đối, hài hòa tươi mát, sống động như chính sự sống động của tâm hồn, của tuổi xuân hòa hợp với cảnh xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi, (39)
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. (40)
Cỏ non xanh rợn chân trời, (41)
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (42)
Khác với bức tranh xuân dân dã trong thơ Nguyễn Trãi "Độ đầu xuân thảo lục như yên. Xuân vũ thiêm lai thúy phách thiên..." (Trại đầu xuân độ), rất nồng thôn trong thơ Nguyễn Bính "Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh. Tôi đợi người yêu tới tự tình. Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy. Bắt đầu là cái thắt lưng xanh...." (Mùa xuân xanh), rất sống động trong thơ Hàn Mặc Tử "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời..." (Mùa xuân chín), bức tranh xuân trong thơ Nguyễn Du đài các, quý phái hơn. Bởi lẽ ngoài sắc cỏ, bức tranh còn được điểm xuyết bằng những nét vẽ về bông hoa trắng trên cành hoa lê. Hai mảng màu xanh trắng tạo nên »sự tương phản thẩm mỹ rất táo bạo, màu trắng muốt của hoa lê nổi bật» [55, 111]. Không chỉ khác nhau về tính chất những bức vẽ còn khác nhau về đường nét. Nguyễn Bính nặng về nét tĩnh; Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử nặng về nét động khẽ khàng êm ái hư thực; Nguyễn Trãi lại đùng nét động mạnh mẽ "thủy phách thiên". Ngay cả cái sắc màu của cỏ cũng khác nhau: xanh nhạt chuyển sang đậm (thơ Nguyễn Trãi), xanh non mơn mởn trải rộng (thơ Nguyễn Du), xanh tươi sống động (thơ Hàn Mặc Tử), xanh lá cây im lìm (thơ Nguyễn Bính)
Cũng là cảnh xuân nhưng cảnh xuân khi Kim Trọng trở lại vườn Thúy được vẽ bằng những nét vẽ chỉ tiết hơn. Đó là một cảnh xuân buồn, trống vắng, hoang tàn, tiêu điều trong một không gian được thu nhỏ:
Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, (2745)
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời; (2746)
Trước sau nào thấy bóng người, (2747)
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông, (2748)
Xập xòe én liệng lầu không, (2749)
3.1. Tính chất "Thi trung hữu họa" trong tác phẩm Truyền Kiều:
Chất họa trong tác phẩm Truyện Kiều thể hiện trên nhiều khía cạnh: 3.1.1. Chất họa trong những bức chân dung nhân vật:
Chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du thường sử dụng bứt pháp mang tính truyền thống sắp xếp nhân vật làm hai tuyến - nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông tả tỉ mỉ bằng những nét bút trang trọng giàu tính ước lộ. Còn đối nhân vật phản diện ông thường đi theo lối tả thực và phác hoa, chấm phá bằng vài ba nét nhưng vẫn gây được ấn tượng mạnh mẽ. Mặc dù đi theo khuynh hướng chính thống, bút pháp phác hoa, ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước lệ công thức nhưng ở một số phương diện Ngu yên Du đã có những phá rào (khuynh hướng tâm lý hoá ngoại hình, thân phận hoa phẩm cách) tạo nên những nhân vật sống động.
3.1.1.1. Nhân vật chính diện:
Đối với những nhân vật chính diện, Nguyễn Du thường vẽ bằng màu sắc hài hoa tươi tắn, đường nét lúc thì mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích, nét vẽ đậm và kỹ hơn so với nhân vật phản diện. Những hình ảnh ước lệ được dùng khi miêu tả nhân vật là những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp sáng trong, rực rỡ, bền vững như phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thủy... Đây là bút pháp cực tả, tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa nhan sắc cốt cách nhân vật.
3.1.1.1.1. Chân dung Thúy Kiều:
- Phần mở đầu tác phẩm:
Trong chân dung nghệ thuật, vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm nhạt, lu mờ. Nắm vững nguyên lý vẽ chân dung nghệ thuật khi hoa tác nhân vật Thúy Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm, Nguyễn Du đã chọn những găm màu mát, màu trắng trong cửa nước, màu xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và tươi của hoa "thắm"; đường nét mảnh mai uyển chuyển sống động "làn, nét và phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Không chỉ có những màu đơn, màu phối, Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về cường độ màu "thua thắm, kém xanh" để làm rõ vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm hiện lên số phận của một con người theo đúng triết lý "Hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa truân". Chỉ hai nét vẽ, bức chân dung của một giai nhân tuyệt thế đã hiện hữu, đó chính là cái tài cửa thi hào:
Làn thu thủy, nét xuân sơn, (26)
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. (25)
Vẽ nhân vật Thúy Vân Nguyễn Du thiên về tổng thể còn khi phác hoa nhân vật Thuý Kiều Nguyễn Du thiên về điểm nhãn. Thi hào đi vào đôi mắt theo quan niệm mỹ học phương Đông "Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn". Chọn màu trắng để diễn tả độ trong xuyên thấu vào tâm hồn, chọn nét xuân sơn để diễn tả sự gợi cảm của một con người nặng về đời sống tâm hồn rất đa tình đa cảm, đây là một sự tinh tế. Vũ Hạnh có lý khi lý giải vì sao thi hào Nguyễn Du không tả đôi mắt của Thúy Vân mà lại miêu tả kỹ đôi mắt của Kiều “Thúy Vân có mắt điều ấy thật hiển nhiên (...) Nhưng đôi mắt nàng chỉ là đôi mắt nằm trên khuôn mặt để làm đầy đủ lệ bộ của một khung diện mà thôi (...) Đôi mắt ấy phổng ra tia nhìn là để rập theo ý tình kẻ khác, miễn ý tình ấy thuộc về lẽ phải hiển nhiên, thuộc về trật tự đã được cuộc đời chấp nhận(...) Có lẽ, Vân đã nhường mắt cho Kiều. Vì chỉ mỗi một mình Kiều ở trong tác phẩm có đôi mắt sáng, mắt đẹp lạ lùng. Cặp mắt ấy có nhãn lực tuyệt vời, nhìn được chiều sâu thăm thẳm, tưởng chừng vạch được màu xuân tươi tốt mà soi thấu vào tận đáy mồ hoang để cảm thấu nỗi niềm cô độc xót xa của kiếp người. Cập mắt ấy nhìn được liên hệ giữa người và ta, giữa cái đã qua và cái sẽ đến."[76,170]. Không chỉ đẹp, đôi mắt của Kiều còn là đôi mắt của sự tính thông:
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không? (2182)
hoặc:
Khen cho con mắt tinh đời (2201)
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! (2202)
Mắt trong - đôi mắt đẹp ánh lên sự thông minh, mắt xanh - đôi mắt của sự đồng tình trân trọng, giờ lại là con mắt tinh đời - đôi mắt phán đoán nhận xét sắc sảo chính xác nhanh chống về con người. Có thể nói, đối với Thúy Kiều, vẻ đẹp của hình thức luôn luôn tiềm ẩn vẻ đẹp của tâm hồn và vẻ đẹp của tâm hồn "đã phản chiếu trên những dung nhan nàng những đường nét, nhữíig màu sắc tươi đẹp mà đằm thắm" [10,25]
- Trước mặt mụ mối, Kiều không còn là Kiều của ngày nào. Nàng đã biến sắc, thi hào chọn sắc vàng của hoa lá, một màu sắc buồn tiêu biểu cho mùa thu, những nét mờ, nét phớt lỹ trong sự phản chiếu và nét mảnh khảnh mỏng manh sắc màu ấy, đường nét ấy tượng trưng cho cái thần sắc bạc nhược, sự thỉu não. Cái thần của bức tranh là ở sự tương quan giữa sắc buồn và nét mờ, là sự đối lập giữa cái hôm qua và cái hôm nay, tất cả nhằm làm nổi rõ sự ủ dột tái tê của một con người cam chịu chai lý vì mang nỗi đau căm lặng không thể vùng vẫy:
Ngừng hoa bổng thẹn, trông gương mặt dày. (636)
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. (638).
Bốn nét vẽ là bốn hình thái hỗ trợ cho nhau, thống nhất nhau trong việc diễn tả sự chấn động tâm lý đã làm tàn phai nhan sắc. Trong bốn nét vẽ đó, hai nét vẽ "Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai" là hai nét vẽ thần tình nhất, thể hiện được thái độ căm lặng đến tuyệt đối, căm lặng nhưng Kiều vẫn không giấu được nỗi đau đớn, xót xa tủi nhục. Giờ đây, Kiều chỉ còn là cái bóng của chính mình! Khác với bức vẽ trên, khi thực hiện bức vẽ này, Nguyễn Du không dùng những sắc màu đậm, đường nét sắc cạnh. Chính bứt pháp vẽ kiểu như vậy đã tạo được cái thần của câu thơ, vừa thể hiện được dáng hình, vừa thể hiện được nỗi đau ẩn đằng sau bộ dạng bên ngoài. Kiều tắm:
Có lẽ đây là bức hoa khó vẽ nhất trong những bức tranh vẽ chân dung nhân vật. Bởi lẽ, nếu không khéo sẽ rơi vào sự dễ dãi, đường đột, lộ liễu kém tế nhị, đi chệch với những quan niệm đạo đức của xã hội đương thời, đồng thời hạ thấp giá trí của cô Kiều, một cô gái vốn khuôn thước theo kiểu "Êm đêm trướng rủ màn che”. Là một nhà nho chính thống uyên thâm, Nguyễn Du rất từ tốn chậm rãi cẩn thận khi hoa một thân thể khoả thân. Trước hết, nhà thi hoa tạo ra một bức phông màn rất gợi cảm đầy hương hoa "rủ bức tường hồng tẩm hoa" trước khi vén bức màn bí mật. Nhà thi hoa đã tạo được cảm giác náo nức chờ đợi cho người đọc, người xem bằng cách cho cuộn Him quay thật chậm và rồi thật bất ngờ "Một tòa thiên nhiên" đã hiện hữu. Nét vẽ "Tòa thiên nhiên" thể hiện được sự kín đáo bí hiểm gợi trường liên tưởng sâu xa. Chỉ bằng hai câu thơ, với những sắc màu tinh nguyên "Trong ngọc trắng ngà một đường nét giàu tính tượng trưng, Nguyễn Du đã tạo ra một bức hoa về thân thể người phu nữ nửa thực, nửa hư. Đứng là tuyệt họa!
Buồng the phải buổi thong dong, (1309)
Thang lan, rủ bức trướng hồng tẩm hoa. (1310)
Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà, (1311)
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên! (1312)
Không riêng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương không ít lần vẽ những bức tranh nửa kín nửa hở về người phụ nữ. Trong bài thơ 'Thiếu nữ ngủ ngày", bà chúa thơ Nôm đã viết:
Đôi gò Đồng đảo sương còn ngậm,
Một mạch Đào nguyên suối chửa thông.
Bức vẽ thiên về chi tiết, nặng về vùng cấm kỵ. Đây không phải là bức tranh khỏa thân hoàn toàn. Bức tranh về nàng Kiều mới chính là: "Bức tranh khỏa thân duy nhất trong văn học Việt Nam (...) Giải nhất trao cho Nguyễn Du” [92,149].
- Kiều bị đánh trong vụ kiện của Thúc Ông:
Vẽ chân dung Kiều bị đánh, Nguyễn Du dùng những sắc màu đậm điểm vào bức tranh nền để gây ấn tượng. Ông không dùng những nét vẽ chuẩn mà dừng những nét vẽ đệm thêm, nhoè ra, dừng nhiều đường gãy "tiêu biểu cho sự đổ vờ không an toàn nguy hiểm" [11, 57]. Nhờ thế, nó đã diễn tả được những dấu vết của những trận đòn khủng khiếp nơi phủ đường. Một loạt những hình ảnh vốn tiêu biểu cho cái đẹp đã bị tàn phai được nhà thi hoa đùng liên tiếp hỗ trợ cho nhau tạo được ấn tượng mạnh về sự đổi sắc, biến dạng. Bức tranh trở thành lời kết tội đanh thép về những kẻ không biết trân trọng cái đẹp, sẵn sàng vùi dập cái đẹp một cách tàn nhẫn:
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. (1426)
Phận đành chi dám kêu oan, (1427)
Đào hoen quyện má, liễu tan tác mày. (1428)
Một sân lầm cát đã đầy, (1429)
Gương lờ nước thúy, mai gầy vóc sương. (1430)
Thân phận con ong cái kiến chỉ có con đường duy nhất là cam chịu, cam chịu đến mức tàn tạ cuối cùng.
- Kiều chết đuối được vớt lên từ sông Tiền Đường:
Khi hoa thân chết trôi, Nguyễn Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ không cần thiết, chọn lọc những chi tiết đặc tả, xen vào đó lời bình luận trữ tình:
Trên mui lướt mướt áo là, (2707)
Tuy dầm hơi nước, chưa loà bóng gương. (2708)
Một đường nét "lướt mướt "cũng đủ vẽ bộ xiêm y ướt dầm rủ xuống thấm vào da thịt gợi ra những nét hư thực của thân thể đang bất động, buông xuôi. Giữa lúc ranh giới sống và chết thật mong manh ta mới càng thấy rõ giá trị của cái đẹp đích thực, vẻ đẹp tính nguyên sáng ương của một giai nhân tuyệt thế ngày nào vẫn còn in dấu. sống cũng đẹp và chết cũng đẹp. Không có tấm lòng trân trọng thương cảm, luôn luôn có ý thức tôn vinh cái đẹp thì không thể có cái nhìn đầy nhân văn như thế! Theo Xuân Diệu đây là hai câu thơ đầy dư ba "Thân Kiều nửa hư nửa thực, hồn Kiều nửa sống nửa chết, văn Nguyễn Du tả đẹp lạ thường!" [92,150]. Có thể xem bức vẽ trên là bức vẽ tĩnh và cái đẹp mang tính chất tiềm ẩn.
- Kiều đối điện với Kim trọng trong phần đoàn viên:
Vẻ đẹp của Kiều chỉ được vẽ bằng một nét bút với một sắc màu. Không phải là sắc trong của nước, sắc thắm của hoa, sắc xanh của núi, mà là sắc vàng của sen vào lúc cuối hạ. "Sen vàng" là một điển tích nói về người phụ nữ đẹp. Trong tư duy người Việt "hoa sen" vừa gợi lên được sự chịu đựng vừa khẳng định được giá trị cao khiết. Dù cuộc đời trầm luân đã nhai nghiên vẻ đẹp bên ngoài nhưng vượt lên tất cả là tấm lòng kiên trinh cao đẹp của nàng Kiều. Nàng như một đoá hoa sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn":
Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra. (3008)
Miêu tả nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du thường đặt những hình ảnh trong sự đối sánh. Nếu trước kia là hoa là liễu, là thu thủy, là mai cốt cách thi nay là cúc buồn, mai gầy, đào hoan, liễu tan tác, gương lờ nước thúy. Những bức tranh trong sự đối sánh tạo nên một sự tiếp nối về một nhân vật với nhiều cảnh đời.
3.1.1.1.2. Chân dung Thúy Vân:
Khác với nhân vật Thúy Kiều, nhân vật Thúy Vân là loại nhân vật đề thêm để tôn thêm vẻ đẹp và gỡ rối cho Thúy Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến nhiều lần nhưng chỉ mang chất hoa có một lần ở phần đầu tác phẩm. Nhưng để tạo ra vẻ đẹp theo kiểu "Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười" không phải là chuyện dễ. Cũng với những "Môtif” hình tượng quen thuộc, khuôn mẫu "Hoa cười, ngọc thốt, khuôn trăng, nét ngài...", Nguyễn Du "còn đưa vào những từ ngữ nôm na nhưng nội hàm đa nghĩa, những từ ngữ đầy đặn, nỡ nang không chỉ miêu tả khuôn mặt phương phi tròn trịa, nét ngài minh bạch rõ ràng của Thúy Vân mà đây còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận" [10,23]. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn vận dụng hai khía cạnh quan trọng "Nhất dáng nhì da” trong những quan niệm quen thuộc của người phương Đông để tạo ra vẻ đẹp khác biệt:
Vân xem trang trọng khác vời, (19)
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. (20)
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang, (21)
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da, (22)
Vẽ Thúy Vân Nguyễn Du đi theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ dáng người đến khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoa về sắc màu, mềm mại về đường nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối, hoàn chỉnh cả điểm lẫn diện mà bức chân dung Thúy Vân trở nên viên mãn, sống động, phúc hậu, mệnh phụ. Dù vậy, vẻ đẹp của Thúy Vân thiếu đi cái thần "đôi mắt", nó thiên về vẻ đẹp khuôn thuớc mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và quyến rũ. Điều đó đã làm nên sự khác biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính cách: người thì hồng nhan bạc mệnh kẻ thì hạnh phúc ấm êm.
3.1.1.1.3. Chân dung Kim Trọng:
Đế tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn Du phác họa nhân vật Kim Trọng được trong khung cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy diễm lệ, thanh tao. Khung cảnh thiên nhiên đã trở thành cái phông màn tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, và ngược lại nhân vật làm cho bức tranh thêm sống động có hồn. Cái tài của Nguyễn Du là tạo ra một bố cục có chính có phụ: người - ngựa, thầy tớ, con người - thiên nhiên, dưới một góc nhìn xa gần.
Camera của thi hào đặc biệt chú ý đến cử chỉ từ tốn chậm rãi của một văn nhân thực thụ "lỏng buông, xuống ngựa, tới nơi, vào trong, ra ngoài". Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt đến độ điêu luyện cao tay khi tạo ra sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của chiếc áo là sự hòa trộn giữa sắc biếc của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc ấy có được còn là sự kết hợp giữa tấm lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức tranh mang tính chất động, có găm màu mát trong đó màu xanh - xanh cỏ, xanh trời, xanh áo, xanh cây là sắc màu chủ đạo. Bên cạnh đó đường nét thề hiện sự vận động cũng được Nguyễn Du sử dụng thật tài tình. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim đã làm cho thiên nhiên thức dậy, bừng sáng, vận động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện, dung mạo của chàng, cử chỉ, phong độ của chàng làm "xinh đẹp của một vùng" (chữ dùng của Xuân Diệu).
Khi họa những bức tranh nhân vật, Nguyễn Du ít khi để cho nhân vật bị trống trải đơn chiếc. Nhân vật này xuất hiện trong sự đối sóng với nhân vật khác - Thúy Vân - Thúy Kiều, Thúy Kiều - Từ Hải, Kim Trọng - Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan. Bức tranh sẽ trữ tình hơn khi có sự góp mặt của "Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa". Và vương Quan xuất hiện đã trở thành chiếc cầu nối tình cảm của đôi trai tài gái sắc. Tiếng sét ái tình đến với họ thật tự nhiên, bất ngờ và thú vị. Thiên tài Nguyễn Du chẳng khác nào một "ông tơ" dẫn dắt khéo léo cuộc gặp gỡ của hai tâm hồn đồng điệu:
Tuyết in sắc ngựa câu đòn, (139)
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. (140)
Nẻo xa mới tỏ mặt người, (141)
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình. (142)
Hài văn lần bước dặm xanh, (143)
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao. (144)
Nhìn toàn cục của bức tranh từ sắc màu đến đường nét, từ cử chi đến hình ảnh, từ thiên nhiên đến con người cái gì cũng nhẹ nhàng, hữu tình đáng yêu. Nói như Đặng Thanh Lê "Bóng tối âm khí nặng nề khi gặp Đạm Tiên trong đoạn thơ trước đã biến đi nhường chỗ cho ánh sáng của cuộc sống, của vẻ đẹp con người, của tình yêu đang hè mỏ" [10,41].
Xây dựng bức chân dung về chàng Kim, Nguyễn Du đã có những phá cách đáng kể. Ngoài những phương diện cần thiết khi nói đến nhân vật thư sinh phong kiến như con tuấn mẫ, chú tiểu đáng, trang phục, gia thế, tài năng, học thức, Nguyễn Du còn xem trọng sự hài hòa giữa con người với vũ trụ, giữa con người bên trong và cử chỉ biểu hiện ra bên ngoài và nhất là những xao động của tâm hổn, những biểu hiện tình cảm kín đáo, những cảm giác lúc tình, lúc mê, sự bịn rịn lưỡng lự giữa ở và về - về thì tiếc ở thì cũng chẳng xong. Cố thể nối, ít ai tả được tác động dữ dội của tiếng sét ái tình ồ những tâm hồn còn trắng trong như tờ giấy đang bắt đầu bước vào ngưỡng cửa tình yêu đứng và hay như tíu hào:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài, (163)
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. (164)
Chập chờn cơn tĩnh, cơn mê, (165)
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (166)
Bóng tà như giục cơn buồn, (167)
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo. (168)
Ngay cả cái cử chi "Khách đà lên ngựa người còn ghé theo" đầy quyến luyến, bịn rịn, nuối tiếc nhưng họ đành bất lực trước sự vận hành của vũ trụ cũng đáng yêu làm sao!
Mở đầu một chuyện tình là khung cảnh thiên nhiên tươi sáng rộng mở và kết thúc cuộc gặp gỡ là một bức tranh thiên nhiên nhỏ nhắn, xinh xắn đấng yêu:
Dưới cầu nước chảy trong veo, (169)
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. (170)
Thiên nhiên đượm tình càng tôn thêm vẻ đẹp tình cảm của chàng Kim cô Kiều. Phải chăng tình cảm sáng trong của Kim Kiều như dòng nước trong veo đang chảy dưới cầu. Và tình cảm ấy gắn bó khăng khít khó thể tách rời như cầu gắn với nước, tơ liễu gắn với bóng chiều. Nhưng đường như có một dự báo sự cách trở vì "Nước đi đi mãi không về cùng non". Có thể xem đây là một cuộc tạm chia tay cực đẹp để rồi sau đó Kiều - Kim phải thao thức mộng tưởng. Hành trình của chuyện tình cùng với nỗi khổ của cô Kiều cũng bắt đầu từ đây.
Khác với Nguyễn Du, khi tả Kim Trọng Thanh Tâm Tài Nhân lại đi sâu vào sự chấn động của tâm hồn: "Kim Trọng ngây ngất cả người, xiêu xiêu cả tinh thần, bụng bảo dạ: thế này thì mình đến tương tư chết mất, rồi chàng lẩm nhẩm tự thề không lấy được Kiều thì suốt đời khống lấy ai nữa.
Vì có Vương quan đấy, không tiện nán ở lại lâu, Kim Trọng đành phải qua loa cáo từ lui gót.
Vương viên ngoại cũng sai người đến đón hai nàng lên kiệu''
- Cũng là bức vẽ về Kim Trọng nhưng đây lại là bức vẽ mang tính chất cách điệu:
Hiên sau treo sẩn cầm trăng, (467)
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày. (468)
Nét họa "Tay nâng ngang mày" thể hiện thái độ trân trọng thán phục trước tài đàn, một trong bốn tài năng - cầm kỳ thi hoa đã trở thành nức tiếng của người con gái họ Vương. Không chỉ là sự thán phục, bức vẽ còn muốn bổ sung thêm một thông tin cần thiết về chàng Kim. Chàng văn nhân hào hoa phong nhã không chỉ là một con người chỉ biết yêu cái đẹp của văn chương mà còn là một con người rất am hiểu và sành điệu nghệ thuật âm nhạc. Người đọc sẽ chẳng ngạc nhiên khi Kim Trọng có rung cảm mạnh mẽ, đưa ra những nhận định xác đáng khi nghe tiếng đàn của cô Kiều.
3.1.1.1.4. Chân dung Từ Hải:
Nếu Kim Trọng hiện ra trong sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong đêm thanh tĩnh gió hây hây thổi, không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức chân dung đã có thêm nét tối sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với chất huyền thoại của nhân vật. Bút lực của Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà dồn vào đường nét. Nét bút có đường nét to và rất mạnh mẽ "râu hùm, hàm én, mày ngài", phóng bút nhiều chiều, chiều ngang - vai năm tấc rộng, chiều dọc - thân mười thước cao; chiều cao đội trời và chiều thấp đạp đất. Thật đúng khi cho rằng "tác giả muốn làm cho không gian chung quanh Từ Hải rộng thêm ra, từ mặt người, từ bóng dáng, từ tài năng phát tia ra, nên đã đặt nhiều díu huyền, bởi thanh có dấu huyền không đứt gọn như thanh không dấu, mà nhòa rộng ra... " [92, 267]. Cũng là "ngài" nhưng đối với Thúy Kiều, Nguyễn Du vẽ "nét ngài" còn Từ Hải là "mày ngài", một bên chỉ là đường nét, còn một bên lại là hình thể của sự vật; một bên là sự mềm mại còn một bên là sự mạnh mẽ kiên quyết. Điểm vào chân dung nhân vật là những phụ bút như gươm đàn làm tăng thêm chất hào hùng, tài năng phi thưởng của Từ Hải. Ngoài những hình ảnh tượng trưng ước lệ thường gặp trong những bức tranh miêu tả nhân vật anh hùng "râu hùm, hàm én, mày ngài...", Nguyễn Du còn tạo ra một không gian đầy chất huyền thoại, tiết điệu ngắt bất ngờ "bỗng đâu" để tạo ra nét riêng biệt của người anh hùng - bất ngờ ương sự xuất hiện và cũng rất bất ngờ trong sự quyết định chọn người tình lý tưởng. Một con người dám "chọc trời khuấy nước" sẽ cổ một chuyện tình dị thường hiếm có là lẽ đương nhiên, là sự lôgic cửa một tính cách.
Ngoài ra, khi họa chân dung nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du rất lưu ý đến cấu trúc cân đối cân đối về hình ảnh - râu, hàm, mày - vai, thân, cân đối về nhịp điệu - câu lục nhịp thơ 2-2-2 câu bát lại nhịp thơ 4-4, và cân đối cả về mặt ngôn ngữ - những từ Hán Việt "anh hào, côn quyền, lược thao" tạo nên sự trang trọng và những từ thuần Nôm tạo nên sự gần gũi, đời thường.
- Chân dung Từ Hải lúc ngồi ghế quan tòa:
Vẻ đẹp kiêu hùng và tài năng tuyệt đỉnh của họ Từ càng được tô đậm hơn qua bức tranh ngồi ghế quan tòa:
Quân trung, gươm lớn, giáo dài, (2311)
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi. (2312)
Sẩn sàng tề Chĩnh uy nghi, (2313)
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. (2314)
Trướng hùm mỏ giữa trung quân, (2315)
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi. (2316)
Đây có thể xem là bức họa về cảnh đoàn quân chiến thắng trở về và đang chuẩn bị xử án. Vì thế, Nguyễn Du dùng nhiều nét nhọn, nét thẳng đứng, nét ngang gợi lên cảnh tượng giáo gươm tua tủa, đoàn quân nghiêm trang, hào khí ngất trời, uy thế dữ dội. Bức tranh được thiết kế theo kiểu cái phụ làm rõ cái chính, cảnh tượng chung quanh làm rõ nhân vật trung tâm - Từ Hải - Thúy Kiều. Từ một vị thế của kẻ tôi đòi trước kia, Kiều đã hóa thân thành vị "phu nhân mệnh phụ", kẻ xử án. Một sự hóa thân như cổ phép màu, phép màu đổ không đo một lực lượng siêu nhiên nào mà do chính đấng anh hùng luôn lây công lý làm đầu, nghĩa tình làm trọng tạo dựng.
Mặc dù trong cuộc báo ân báo oán, Nguyễn Du vẽ nhân vật Từ Hải nhạt hơn nhân vật Thúy Kiều nhưng không vì thế người anh hùng trở thành nhân vật thứ yếu trong bức tranh xử án. Nguyễn Du rất tinh tế khi để cho Từ Hải tuyên bố "Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh.". Rõ ràng Từ Hải không phải là người chỉ biết đến cái chung mà rất trân trọng việc riêng của Kiều. Vì chỉ có Kiều mới xử đúng người đúng tội. Có chăng cái uy của Từ Hải đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra cái uy của chủ toa phiên tòa? Từ Hải có thể xem là người thiết kế còn Kiều chính là người thi công.
- Chân dung Từ Hải chết đứng:
Kiêu hùng bao nhiêu Từ Hải lại chết một cách oan nghiệt bấy nhiêu. Bức hoa về hình tượng người anh hùng chết đứng lại mang chất hoa khác. Đây là bức hoạ tĩnh giàu chất điêu khắc cổ đường nét cứng. Thi hào như muốn tạc tượng một huyền thoại anh hùng khao khát tự do trong cái xã hội mà cái đẹp và tài năng không cố đất tồn tại:
Khí thiêng khi đã về thần, (2519)
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! (2520)
Trơ như đá, vững như đồng, (2521)
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời. (2122)
Từ Hải thua trong thế thắng, chết nhưng còn sống mãi với đời. Hình tượng chết đứng đầy oan thiêng của Từ như một lời tố cáo đanh thép cái xã hội: Lẽ phải và chiến thắng thuộc về kẻ có quyền và sự gian trá. Vài trăm năm sau chúng ta lại bắt gặp hình tượng người anh hùng chết đứng trong thơ Lê Anh Xuân: Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất, Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng. Anh đang chết trong khi đang đứng bắn, Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vòng.
3.1.1.1.5. Chân dung người khách viễn phương:
Nhân vật người khách viễn phương không rõ tên tuổi quê quán, nghề nghiệp, xuất hiện gián tiếp thoáng qua thông qua lời kể của vương Quan nhưng vẫn gây ấn tượng. Nhân vật này tạo thành bộ ba nhân vật nam chính diện - Từ Hải, Kim Trọng, người khách viễn phương. Mỗi người mỗi tính cách. Từ Hải hào hùng dũng mãnh ngang tàng, rộng lượng, Kim Trọng hào hoa phong nhã, thúy chung còn người khách viễn phương rất cao thượng. Khi họa bức chân dung người khách viễn phương, Nguyễn Du không đi sâu vào diện mạo mà chú trọng đến cử chỉ, hành động để làm toát lên nét đẹp tâm hồn. Chỉ một vài biểu hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo "xa nghe, tìm đến", "Sắm sanh nếp tử, xe châu" (77), thể hiện sự đau đớn xót xa "khóc than" và đặc biệt hành động vội vội vàng vàng "vùi nông" khi chôn cất thi hài Đạm Tiên, nhân vật này đã để lại những dư vị ngọt ngào trong lòng người đọc. Là một kẻ đến sau nhưng lại là người biết ra tay hành động, đó chính là phẩm chất của một con người biết trân trọng cái đẹp, sự tài hoa. Người khách viễn phương cảm kích và mến phục sứ giả Đạm Tiên cũng đúng thôi. Bởi lẽ, Đạm Tiên, một nhấn vật được không ít người ngưỡng vọng. Trong khi dẫn giải, Vương Quan đã hết lời ngợi ca "Nổi danh tài sắc một thì,"(63). Và hồn ma Đạm Tiên cũng được Nguyễn Du vẽ bằng những nét vẽ rất thanh tao" Có chiều phong vận, có chiều thanh tân."(180). Ở nhân vật người khách viễn phương có nét gần gũi với nhân vật Từ Hải. Cả hai đều xuất phát từ cái tâm sáng, sẩn sàng dẹp bỏ những định kiến hẹp hòi để cảm thấu số phận bi kịch của những người làm gái lầu xanh, làm nghề xướng ca vô loài.
3.1.1.2. Nhân vật phản diện:
Đối với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mĩ trang trọng. Chỉ cần vài ba nét phác họa ông để lại những ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Lộc đã nhận xét: "Nguyễn Du cố gắng làm cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực (...) Đặc biệt bút pháp của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất hiện thực xã hội chủ nghĩa" [49,400]. Dưới góc nhìn của hội hoa, ta thấy những nhân vật loai này thường được Nguyễn Du dùng những sắc màu nhợt nhạt, đường nét mang tính chất chấm phá, khai thác tính chất mất cân đối trái tự nhiên để làm rõ tính cách nhân vật.
3.1.1.2.1. Chân dung Tú Bà:
Nhân vật Tú Bà hiện ra chi bốn nét bút với một sắc màu hai đường nét:
Thoát trông nhờn nhợt, màu da, (923)
Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm sao? (924)
Trước xe, lơi lả han chào, (925)
Hoặc:
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay. (950)
Không phải là đường nét mềm mại uyển chuyển, sắc trắng đẹp đẽ tinh nguyên như Thúy Vân, Thúy Kiều mà đây là màu trắng hơi vàng, nhợt nhạt do ở nơi tăm tối, đường nét chệch choạc mất tính cân đối, vượt khuôn khổ cho phép "to lớn đẩy đà", trái ngược với quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng, dáng ngồi rất chủ chứa "vắt nóc", ngôn ngữ đưa đẩy. Chỉ cần bốn nét vẽ, đặc biệt là nét vẽ "nhờn nhợt", vừa gợi lên được màu da tạo được cảm giác ghê tởm, vừa thể hiện được quá khứ giang hồ, thi hào Nguyễn Du đã nổi đúng một trong những nét rất đặc trưng của những bà chủ chứa kiểu mẫu chính hiệu đẫy đà xác thịt" (chữ dùng của Hà Như Chi). Nhưng nếu bức họa này đựơc một họa sĩ tài ba vẽ lại thì sao? Nguyễn Văn Hạnh đã kết luận: "Họa sĩ chỉ có thể vẽ một mụ Tú Bà cao lớn to béo, màu da nhờn nhợt, với kích thước, sắc độ như mình muốn, nhưng chỉ được trên từng bức tranh cụ thể một kích thước, sắc độ nhất định mà thôi. Và người xem chỉ tiếp xúc một hình thể Tú Bà hoàn toàn xác định.
Còn trong trí tưởng tượng của người đọc thì hình tượng Tú Bà do Nguyễn Du tạo nên không hoàn toàn xác định. Và ở các người đọc khác nhau, các lần đọc khác nhau, lại có những mụ Tú Bà kinh tởm khác nhau, những mức độ nhờn nhợt cao lớn, đẩy đà khác nhau" [57,12]. Điều mà Nguyễn Văn Hạnh khẳng định đó chính là sự đồng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận văn học. Và điều này có lẽ không chỉ đúng với nhân vật Tú Bà mà còn đúng với quá trình tiếp nhận những nhân vật khác.
3.1.1.2.2. Chân dung Mã Giám Sinh:
Đây là một con buôn đội lốt nho sinh trường Quốc tử Giám. Bản chất lỗ mảng bịp bợm lái buôn được Nguyễn Du phác họa bằng ba nét vẽ thần tình theo quan niệm "xem mặt mà bắt hình dong" - mày râu tỉa tót cẩn thận, áo quần thẳng thòm và vị trí ngồi ở chỗ cao để xem hàng cho rõ "ngồi tót".
So với Sở Khanh, nhân vật Mã Giám Sinh đóng kịch tài hơn nhiều. Hắn đã dàn dựng lễ vấn danh y như thật với những nghi lễ theo phong tục truyền thống "Sính nghi, canh thiếp, nạp thái vu quy". "Vải thưa không thể che mắt thánh", dưới ngòi bút thần tình của thi hào, hắn không thể giấu hết tất cả những kẽ hở vốn có của những kẻ gian xảo. Nguyễn Du cho hắn hiện ra từ từ "Ngồi tót, đắn đo, cân sắc, cân tài, ép, thử, cò kè, ngã giá, định ngày "rồi điểm huyệt đúng ngay vào những chỗ hắn che đậy không kín kẽ” xa hắn nói gần, mua người về lầu xanh hắn nói "mua ngọc đến Lam Kiều", đứng tuổi nhưng lại làm ra vẻ trai tơ bảnh chọe, cò kè mặc cả, ép, thử mà lại bảo đi kiếm vợ lẽ? Bản chất lái buôn càng thể hiện rõ hơn khỉ hắn phát ngôn. Lúc sự việc chưa ngã ngũ hắn phát ngôn rất nhũn nhặn" Rằng: "mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?", nhưng đến lúc nắm thế thượng phong hắn phát ngôn thật lạnh lùng" Tiền lưng đã sẩn việc gì chẳng xong". Và đây chính là lúc con buôn họ Mã đã lộ nguyên hình. Như thế vẫn chưa đủ, Nguyễn Du còn phác họa thêm những bức phụ hoạ về một lũ nhỏ loi choi lóc chóc. Thầy trò họ Mã, đúng là một đám người lăng xăng lít xít, lộn xộn, láo nháo, vô học, thiếu văn hóa:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần, (627)
Mày râu nhấn nhụi, áo quần bảnh bao. (628)
Trước thầy, sau tớ lao xao, (629)
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang. (630)
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, (631)
Nói chung, khi xây dựng nhân vật Mã Giám Sinh, bút lực của Nguyễn Du dồn vào việc vạch trần mâu thuẫn giữa chức danh của tên họ Mã và bản chất lái buôn bịp bợm thị của khinh người, sự trái khuấy giữa tuổi tác và dáng vẻ, giữa lời nói và việc làm. Cùng với một số nhân vật phản diện khác, nhân vật Mã Giám Sinh đã góp phần tạo thành một chuỗi nhân vật có tính cách tương cận: Tú Bà - chủ chứa, tàn bạo, Mã Giám Sinh - lão luyện chuyên săn lùng nguồn hàng, Sở Khanh - tên ma cô điểu cáng chuyên dắt gái và bảo kê. Chúng là những nhân vật tiêu biểu cho những ổ chứa và tất cả "đều bộc lộ mối quan hệ mờ ám, mơ hồ bất minh "(Chữ dùng của Đặng Thanh Lê)
3.1.1.2.3. Chân dung Sở Khanh:
Đây lại là một tên ma cô sống bám lầu xanh, sống trên thân xác của người phụ nữ như một loại chùm gửi. Bức họa về tên lưu manh này khác với bức họa về tên họ Mã. Đối với Mã Giám Sinh "xem mặt" có thể "bắt hình dong" nhưng đối với họ Sở lại khác, bởi lẽ những đường nét về dáng người phục trang của hắn khá thanh tao:
Một chàng vừa trạc thanh xuân, (1059)
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng. (1060)
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào! (1126)
Nhân vật Sở Khanh cổ dáng vẻ của "một nhà nho nhưng ngay trong hình dáng đã có cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là một nhà nho chân chính" [42,470].
Sở Khanh là một kiểu người "Vừa ăn cướp vừa la làng", vừa táo tợn vừa tỏ vẻ nhẹ nhàng khiếm nhã. Chẳng mất gì mà hắn vừa kiếm được chì vừa kiếm được chài. Khi Kiều vạch rõ chân tướng cũng là lúc sự trơ trên của hắn được phơi bày "Nhơ tuồng, nghĩ mới kiếm đường tháo lui."(1188). Dưới ngòi bút Nguyễn Du, Sở Khanh đã trỏ thành"lưu danh thiên cổ" (Chữ dùng của Hoài Thanh). Sự táo tợn của hắn còn hơn cả chàng Đông-juan của văn học phương Tây.
Có một nét rất chung về hai bức họa Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Vẽ hai nhân vật này Nguyễn Du chi dùng đường nét chứ không dùng tới màu sắc. Màu sắc được gợi lên qua trí tướng tượng của từng người tiếp nhận.Và cả hai bức họa đều có hai nét vẽ xuất thần: "rẽ dây cương" và "ngồi tót sỗ sàng". Hai nét vẽ truyền thần cũng là hai tính cách của hai nhân vật: lỗ mảng của Mã Giám Sinh và tráo trở của Sở Khanh.
3.1.1.2.4. Chân dung Hoạn Bà:
So với các nhân vật khác, nét vẽ về bà Hoạn Quan có thêm nét mới. Nhân vật Họan Bà được bố trí như một tượng thần trong khung cảnh màn che trướng phủ đèn thắp sáng, Khác với lối ngồi "Vắt nóc" của bà chủ chứa, Hoan Bà có cung cách ngồi trực diện rất bệ vệ. Trong bức tranh:
Ban ngày, sáp thắp hai bên, (1723)
Giữa gương thất bảo, ngồi trên một bà. (1724)
Nguyễn Du đã thể hiện được cái tài phối cả nh, phối màu để làm rõ tính chất của nhân vật, khung cảnh sống đế vương của những gia đình quyền lực trong xã hội ngày xưa. Ánh sáng của đèn "sáp thắp" hai bên gợi lên sự thâm nghiêm uy quyền và làm hiện rõ sự giàu có "giường thất bảo". Và kẻ có nhiều quyền lực đang thụ hưởng cuộc sống vương giả ấy không ai khác là Hoan Bà. Đà chính là nhân vật kiểu mẫu cho những quan bà trong cái xã hội "Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon". Chúng vô ngôn nhưng độc địa nham hiểm, sẩn sàng bày mưu chỉ kế đốt nhà, bắt người hành hạ cho thỏa thích. Ngoài tính chất hiện thực bức vẽ về nhân vật Hoan Bà còn mang tính chất "trào phúng" [42,758]
3.1.1.2.5. Chân dung Hoạn Thư:
Đối với nhân vật Hoạn Thư, Nguyễn Du không họa tác một bức chân dung đầy đủ và cụ thể về dáng vẻ bên ngoài như một số nhân vật khác. Điều này cũng hợp lý vì Hoạn Thư là loại nhân vật mang tính chất duy lý, khôn ngoan sắc sảo. Tất cả mọi hành động lời nói, kế sách đốt nhà bắt cóc, bịt miệng bọn tôi tớ đến việc chờ đợi thời cơ, cách thức hành hạ Thúy Kiều, đưa Thúc Sinh vào tròng, biện minh trước chủ tọa phiên tòa, Hoạn Thư đều tính toán một cách chu đáo, kỹ càng và đạt hiệu quả.
Do chân dung Hoạn Thư không mang tính tập trung ở một một đoạn thơ cụ thể cho nên người đọc muốn xem rõ chân dung nhân vật này phải tập hợp một số chi tiết qua một chuỗi dài sự kiện thơn thớt nói cười, cười nụ, nhón chân đứng nép, rẽ hoa bước vào, lại thét lấy nàng, nổi giận đùng đùng". Tất cả đã làm hiện lên một khuôn mặt trẻ tươi nhưng không kém phần sắc sảo, bản lĩnh và sẵn sàng biến thái khi cần thiết dáng người thon thả, cử chỉ từ tốn, trí tuệ khôn ngoan. Hoạn Thư có sự kết hợp khéo léo giữa con người tình cảm (ghen tuông) và con người lý trí (kiềm chế tính ghen), giữa sự tuân phục và sự phản ứng chế độ đa thê. Hoạn Thư chính là bản sao có sáng tạo của nhân vật bà Hoạn Quan. Có chăng, Nguyễn Du muốn san bớt sự tàn bạo ở nhân vật Hoan Thư sang Hoan Bà?
3.1.1.2.6. Nhân vật Hồ Tôn Hiến:
Trong các nhân vật xuất hiện, đây là nhân vật có quyền uy cao nhất, nhân vật được đặt trong thế đối đầu với Từ Hải. Đối với nhân vật này nét vẽ của Nguyễn Du có gì lạ?
Nghe càng đắm, ngắm càng say, (2579)
Lạ thay mặt sắt, cũng ngây vì tình. (2580)
So với những bức vẽ chân dung nhân vật có lẽ đây là một trong những bức vẽ thành công và đặc sắc. Đường nét và sắc màu mang nội hàm ý nghĩa rất lớn. Nguyễn Du rất tinh tế khi thực hiện những nét vẽ về sự thay đổi của từng ánh mắt, độ co giãn của từng sắc mặt: nghe - đắm, ngắm - say - ngây để làm rõ bản chất háo sắc của một tên quan lắm quyền. Là một kẻ “kinh luân gồm tài" từng xông pha trận mạc vậy mà trước mặt Thúy Kiều hắn đã bị mất phương hưđngtình cảm bị cuốn hút, lý trí hết hiệu lực và cuối cùng đờ đẫn ngây dại. Nói như Hoài Thanh "Nguyễn Du đã giết Hồ Tôn Hiến bằng một chữ "ngây" cũng như giết sở Khanh bằng chữ "lẻn". Trong bao nhiêu người mê Kiều, Nguyễn Du đã dành riêng chữ "ngây" cho Hồ Tôn Hiến" [42,474]
Đặc biệt, trong bức chân dung về Hồ Tôn Hiến chúng ta còn tìm thấy những bức tranh nhỏ đặt cạnh nhau, tiếp nối nhau và thậm chí trái ngược nhau" mặt sắt - ngây". Cách sắp xếp đó đã góp phần không nhỏ trong việc tô đậm tính cách nhân vật, tạo ra sự khác biệt trong việc thực hiện các bức chân dung nhân vật.
Chọn vẽ Hồ Tôn Hiến vào thời điểm Từ Hải chết trận, Kiều phải dâng rượu hầu đàn, Nguyễn Du như muốn khẳng định sự đối nghịch về đạo đức: đê hèn, xảo quyệt, vụ lợi điểu cáng hoàn toàn tương phản với cái đẹp của sự hy sinh, lòng trung thực, sự thủy chung. Kiều khuyên Từ ra hàng là xuất phát từ cái đức. Hồ Tôn Hiến lật lộng đánh lén để chiến thắng và bắt vợ của người chiến bại hầu rượu mua vui là phi đạo đức. Rõ ràng chất người của Kiều càng cao thì chất người của Hồ Tôn Hiến càng không có.
Cũng là bức vẽ về nhân vật Hồ Tôn Hiến nhưng bức vẽ:
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, (2453)
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung. (2454)
thì "người ta thấy họa sĩ vẽ bức tranh này là một nhà hoạt họa trào phúng đến ghê gớm. Tiện nghi, bát liễu, việc ngoài, đổng nhung, thanh la, não bạt đập gõ loèng xoèng, nhưng mi là một tên gian đối..." [92,115]. Hình ảnh tên quan tổng đốc trọng thần gợi ta nhớ đến ông quan phủ xử kiện Thúy Kiều:
Trông lên mặt sắt đen sì, (1409)
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời: (1410)
Cũng là "mặt sắt" nhưng ông quan xử kiện không có sự biến thái nhanh chóng. Bổ sung thêm định ngữ "đen sì", Nguyễn Du muốn nói đến một ông quan "chính trực và oai nghiêm". Nhưng ở ông có sự xen lẫn giữa cái nghiêm minh lạ đời - đánh người tàn nhẫn và sự cảm thông trước hoàn cảnh, thán phục trước tài năng không được thi thố của Kiều.
Còn một tên quan nữa, đó là tên quan "cướp ngày". Hắn chẳng cần ưa khảo mà chỉ:
Rường cao rút ngược dây oan, (593)
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người! (594)
"Thần công lý chỉ dịu cơn thịnh nộ khi nghe thấy có mùi tanh của hơi đồng "Có ba trăm lạng việc này mới xong"[49, 371]
3.1.1.2.7. Chân dung bọn sai nha:
Đây là bọn người tôi tớ tay sai, vũ khí "pháp luật" của kẻ có quyền. Để cho chúng xuất hiện, Nguyễn Du như muốn làm rõ thêm sức mạnh vạn năng của đồng tiền, bản chất của xã hội "Có ba trăm lạng việc này mới xong" hay “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong". Đối với bọn sai nha, Nguyễn Du họa tác bằng những nét vẽ dị hợm nửa người nửa ngựa, hành động theo bản năng - chửi, trói, vét với những đồ nghề chuyên gây án "thước, đao, già giang”. Sự xuất hiện của bọn người "Đầu trâu mặt ngựa" đã làm cho cái không khí vốn yên bình đầm ấm ngăn nắp của gia đình vươn g Viên Ngoại bỗng trở nên lộn xộn nhốn nháo rối tung. Tương phản với sự bàng hoàng sửng sốt của cha con Vương Ông là những tiếng la, tiếng chửi, tiếng đồ đạt bị lật tung và bị vét "sạch sành sanh Với ba âm thanh ngày càng vang động dữ dội" xôn xao, ào ào, vang tiếng ba hành động "ào ào như sôi, buộc hai thân hình, vét cho đầy túi tham", ba hình ảnh đặc tả "Nách thước, tay đao, đầu trâu mặt ngựa", Nguyễn Du đã lột trần bản chất tàn bạo độc ác, tham lam, hung hãn, dữ tợn của bọn người bất chấp công lý. Nói như Nguyễn Lộc "Công lý của bọn chúng là công lý của bọn đầu trộm đuôi cướp"[49, 371]
3.1.1.3. Nhân vật trung tính:
Chân dung Thúc Sinh:
Xếp nhân vật Thúc sinh vào loại nào cho đúng? Có thể xem đây là một loại nhân vật trung tính, một loại người đa tình nhưng bạc nhược, một nhân vật vừa có mặt tốt vừa mặt chưa tốt. Chính cái mặt tốt và mặt chưa tốt của Thúc Sinh mà chất người ở nhân vật này thể hiện đậm nhất. Là một người có vợ Thúc Sinh phải làm sao đây trước một Hoạn Thư con nhà quyền thế? Có lẽ ta cũng không nên đòi hỏi gì hơn ở nhân vật này.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, tính cách của Thúc Sinh thể hiện ở nhiều tình huống:
Tiểu thư vội thét: "Con Hoa! (1843)
Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta có đòn!" (1844)
Sinh càng nát ruột, tan hồn, (1845)
Chén mời, phải ngậm bồ hồn, ráo ngay! (1846)
Nhưng có lẽ chất họa thể hiện rõ nhất về nhân vật này là lúc Thúy Kiều có dịp báo ân báo oán:
Cho gươm mời đến Thúc Lang, (2325)
Mặt như chàm đổ, mình dường dê run. (2326)
Với một sắc màu có pha tạp (xanh pha tím) thể hiện sự biển thái của sắc mặt và một đường nét run rẩy (dê run - một loài chim có mỏ dài, cái đuôi luôn phe phẩy) thi hào đã khắc họa một tính cách tiêu biểu cho một loại người trong xã hội - khoác lác nhưng nhu hèn sợ vợ. Đây là một kiểu nhân vật không hoàn toàn trùng lặp trong tác phẩm. Trước Thúc ông, Thúc Sinh xử sự "như một kẻ ăn vụng bị bắt quả tang" (Chữ dùng của Lê Đình Kỵ), trước pháp đường Thúc Sinh khóc lóc tự oán trách mình, trước Thúy Kiều hắn cho Hoạn Thư là mgười nham hiểm, trước Hoạn Thư hắn xem Thúy Kiều là người không quen biết. Khi Thúy Kiều "đưa gươm mời đến Thúc Lang" hắn run lẩy bẩy" nhưng đến khi Thúy Kiều trả ơn hắn "mừng sợ khôn cầm". Nhân vật Thúc Sinh là sự tổng hợp giữa ba dòng máu Thúc sinh - Sở Khanh - Kim Trọng. Lê Đình Kỵ nhận xét thật đúng: "Thúc Sinh cũng có chút máu Kim Trọng trong người, nhưng sự việc xảy ra sẽ biến dần y thành một tên Sở Khanh không hơn không kém."[42,707].
Nói chung, có bao nhiêu nhân vật là có bấy nhiêu bức vẽ. Nhiều khi chỉ một nhân vật nhưng lại có nhiều bức vẽ khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm hoàn thiện tính cách. Vẽ chân dung nhân vật, đối với Nguyễn Du không chỉ thông qua sự quan sát, óc liên tưởng mà còn vẽ bằng cả tâm hồn trái tim. Nhờ vậy, mỗi sắc màu, mỗi đường nét đều có giá trị ngữ nghĩa sâu sắc. Và đằng sau những bức vẽ, ta như th ấy thấp thoáng số phận và cả một phần đời nhân vật được gởi gắm trong đó.
Đặc biệt, sự thần tình của Nguyễn Du là đã tạo ra những bức chân dung có sức sống vĩnh viễn và ườ thành những quy ước đánh giá của xã hội. Ông đã sáng tạo ra "Những con người thực hơn những con người thực" [27,193]. Nhắc đến cái tên Sở Khanh là ta nghĩ ngay đến một tên lưu manh lừa lọc. Nhắc đến cái tên Tú Bà là ta nghĩ ngay đến một bà chủ chứa chuyên nghiệp. Nhắc đến cái tên Mã Giám Sinh là ta nghĩ ngay đến một tên buôn người có cỡ. Và chỉ nghe đến cái tên Hoạn Thư là ta nghĩ ngay đến kiểu ghen độc đáo có một không hai. Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh... vốn là những danh từ riêng giờ đây lại trở thành những danh từ chung chỉ những hạng người trong xã hội. Phải là người có vốn sống phong phú, lượng ngôn từ đầy ắp, rất am hiểu nghệ thuật hội hoa, Nguyễn Du mới phác hoa được những bức chân dung đa dạng và có sức sống như vậy.
3.1.2. Chất họa trong những bức tranh phong cảnh:
Trong văn chương từ cổ chí kim, những bức tranh phong cảnh dường như không bao giờ vắng mặt nếu không muốn nổi là tràn ngập. Xuất phát từ quan niệm, cách nhìn, mỗi thời đại có phương thức thể hiện khác nhau. Nếu văn học thời hiện đại ít dùng tới những hình ảnh ước lệ, đòi hỏi tính đột phá trong sáng tạo của người nghệ sĩ thì văn học truyền thống lại hay dùng tới những công thức - hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, thường tả cảnh xen tình. Đối với Nguyễn Du, mặc dừ chưa thoát khỏi đường ray của thời đại nhưng ông cũng có những bức tranh phá khổ đi trước thời đại. Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh, tả tình trong thơ Nguyễn Du, nhà nho Đào Nguyên Phổ trong bài tựa bản Đoạn Trường Tân Thanh năm 1902 có viết: "Nói tình thì vẽ hình trạng hợp ly tân khổ mà tình không rời cảnh; tả cảnh thì bầy hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa mà cảnh tự vương tình còn Lê Trí Viễn thì cho rằng: "Cảnh vật dường như một nhân vật luôn luôn có mặt, một nhân vật im lặng nhưng hiểu thấu tâm trạng con người..." [27,193).
Xuất phát từ góc độ chuyên môn, họa sĩ Nguyễn Tiến Chung đã cho rằng "Sự tương quan giữa cảnh trong thơ ông có lúc hòa hợp, uyển chuyển, cũng có khi tương phản nhau, nhưng cái nọ thường làm nổi bật cái kia, hình này nói hộ hình khác, tất cả nhằm nói lên một tâm tình. Cách bài trí thiên nhiên trong thơ ông dường như lúc nào cũng có trọng tâm, có bối cảnh chủ đạo. Hình tượng nào cần làm lộ rõ ông cho gần lại; hình tượng nào thứ yếu thì đẩy lùi xa và ch o mờ nhạt đi, nhưng mọi hình tượng đều ăn khớp với nhau." [61,79] Nghiên cứu những bức tranh tả cảnh trong Truyện Kiều, ta nhận thấy rằng: khi họa những bức tranh phong cảnh, Nguyễn Du thường vẽ bằng những nét chấm phá ít đi sâu vào chi tiết. Đặc biệt cảnh vật được miêu tả thường bị chi phối bởi quan niệm nghệ thuật, cảm quan của con người và thông qua lăng kính nhân vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, (1244)
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! (1245)
3.1.2.1. Cảnh xuân, hạ, thu, đông:
Trong văn học từ xưa đến nay có không ít những bức tranh tuyệt tác về xuân, hạ, thu, đông "Xuân hiểu" Trần Nhân Tông, "Mùa xuân chín" Hàn Mặc Tử "Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm" Nguyễn Khuyến "Đây mùa thu tới” Xuân Diệu, "Tiếng thu" Lưu Trọng Lư, "Vịnh mùa Đông" Nguyễn Công Trứ, "Mùa hạ" Xuân Quỳnh.... nhưng chỉ có Truyện Kiều bức tranh tứ bình mới được hoàn chỉnh và không kém phần độc đáo.
Cũng dựa vào quy luật vận hành của thiên nhiên vũ ưu - xuân sinh, hạ trưởng, thu liêm, đông tàn nhưng Nguyễn Du cồn sắp xếp những cảnh này sao cho phù hợp với những cuộc gặp gỡ, chia tay, tính chất của từng mối tình. Tình yêu Kim - Kiều chớm nở vào mùa xuân; cuộc chia tay Kiều - Thúc, cuộc bỏ trốn của Thúy Kiều với Sở Khanh rơi vào mùa thu...
- Mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của lễ hội, nó là cái mốc quan ương trong câu chuyện tình trai tài gái sắc. Kim, Kiều gặp nhau, Kim Trọng trở lại vườn Thúy, hai bức họa này có gì khác nhau trong những nét vẽ và sắc màu?
Trước hết là bức họa mùa xuân khi hai chị em Thúy Kiều du xuân. Đây là bức họa với những gam màu mát, đường nét mềm mại, đứng theo quy ước của hội họa "màu lạnh - lam, xanh... thưởng tạo cảm giác mát mẻ... đường lượn êm dịu tạo cảm giác yên bình " [11,59]. Cảnh có sắc xanh của cỏ non trải dài như mở ra một không gian vô tận, có sắc trắng của bông hoa lê điểm xuyết, có sắc vàng dịu nhẹ của ánh nắng mặt trời vào độ tháng ba tiết thanh minh, có đường nét nhẹ nhàng êm ái của chim én, có sự vận động khẩn trương của thời gian, có không gian của chiều cao, chiều rộng và chiều ngang, có cái diện để rõ cái điểm. Bức tranh rất phương Đông thật thông thoáng, cân đối, hài hòa tươi mát, sống động như chính sự sống động của tâm hồn, của tuổi xuân hòa hợp với cảnh xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi, (39)
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. (40)
Cỏ non xanh rợn chân trời, (41)
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (42)
Khác với bức tranh xuân dân dã trong thơ Nguyễn Trãi "Độ đầu xuân thảo lục như yên. Xuân vũ thiêm lai thúy phách thiên..." (Trại đầu xuân độ), rất nồng thôn trong thơ Nguyễn Bính "Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh. Tôi đợi người yêu tới tự tình. Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy. Bắt đầu là cái thắt lưng xanh...." (Mùa xuân xanh), rất sống động trong thơ Hàn Mặc Tử "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời..." (Mùa xuân chín), bức tranh xuân trong thơ Nguyễn Du đài các, quý phái hơn. Bởi lẽ ngoài sắc cỏ, bức tranh còn được điểm xuyết bằng những nét vẽ về bông hoa trắng trên cành hoa lê. Hai mảng màu xanh trắng tạo nên »sự tương phản thẩm mỹ rất táo bạo, màu trắng muốt của hoa lê nổi bật» [55, 111]. Không chỉ khác nhau về tính chất những bức vẽ còn khác nhau về đường nét. Nguyễn Bính nặng về nét tĩnh; Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử nặng về nét động khẽ khàng êm ái hư thực; Nguyễn Trãi lại đùng nét động mạnh mẽ "thủy phách thiên". Ngay cả cái sắc màu của cỏ cũng khác nhau: xanh nhạt chuyển sang đậm (thơ Nguyễn Trãi), xanh non mơn mởn trải rộng (thơ Nguyễn Du), xanh tươi sống động (thơ Hàn Mặc Tử), xanh lá cây im lìm (thơ Nguyễn Bính)
Cũng là cảnh xuân nhưng cảnh xuân khi Kim Trọng trở lại vườn Thúy được vẽ bằng những nét vẽ chỉ tiết hơn. Đó là một cảnh xuân buồn, trống vắng, hoang tàn, tiêu điều trong một không gian được thu nhỏ:
Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, (2745)
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời; (2746)
Trước sau nào thấy bóng người, (2747)
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông, (2748)
Xập xòe én liệng lầu không, (2749)
Cỏ lan mắt đất, rêu phong dấu giày (2750).
Nơi đây không còn sự sống của con người, mọi vật đều thay đổi, chỉ duy có hình ảnh sắc màu của hoa đào là không thay đổi. Hoa đào tượng trưng cho mùa xuân, mùa xuân lại tượng trưng cho tình yêu. Tình yêu dù chỉ còn là hoài niệm nhưng nó vẫn mãi mãi rực rỡ như cánh hoa đào lúc độ xuân về. Hình ảnh "hoa đào" được Nguyễn Du mượn từ ý thơ của Thôi Hộ: "Nhân diện bất ưi hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong" (Mặt người chẳng biết đi đâu mất, Hoa đào vẫn như cũ, vẫn cười với gió đông) và đặt thật đúng chỗ "Cái có đột đến giữa cái không như một cứu cánh, một điểm tựa của tâm linh. Nó như một an ủi, vỗ về làm dịu lại nỗi đau của con người cùng một lúc đã mất đi quá nhiều những gì vô giá" [21,213]. Hình ảnh hoa đào đã trở thành dấu gạch nối trong hai mảng của một bức tranh - mảng bức tranh chỉ toàn là hình ảnh của sự vật và mảng bức tranh đã có dấu vết con người. Trong một bức tranh với nhiều loại sắc màu sắc màu - xanh, vàng, hồng, trong đó màu hồng của hoa đào đã trở thành màu nổi bật. Sắc màu hồng rực rỡ xuất hiện trong găm màu nhàn nhạt, Mong khung cảnh hoang tàn còn là cái nghịch lý trớ trêu, một sự bơ vơ lạc lõng.
Ngoài việc tạo ra sự tương phản ngầm ẩn bức tranh hôm nay gợi nhớ bức tranh năm xưa, Nguyễn Du còn chủ đích bài trí những hình ảnh lộn xộn, chẳng cổ trình tự:"cỏ mọc, lau thưa, song trăng quạnh quẽ, vách rã rời, gió, mưa, én, lầu không, rêu phong” trong mọi không gian trước - sau, cao - thấp, trong - ngoài, trên - dưới. Tất cả nương tựa vào nhau bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa. Đó là sự xuống cấp của sự sống, sự phát triển tự do của thiên nhiên và tâm trạng đầy bi kịch của một con người.
Trong bức tranh này, Nguyễn Du đã dùng đến nhiều loại đường nét - đường nét xiêu quẹo, ngả nghiêng (vách mưa rã rời); đường nét thể hiện sự vươn lên một cách tự do, cao thấp không hài hòa (cỏ, lau, rêu); đường nét thể hiện sự vận động theo chiều ngang hoặc lên xuống (én liệng) và cả những đường nét mờ nhạt (rêu phong dấu giày). Nó như mhững mảnh vụn bày ra bừa bãi không ai chăm sóc tỉa tót.
- Mùa thu:
Không đi chệch với quy ước của người phương Đông, mùa thu trong thơ Nguyễn Du cũng buồn, gợi nhớ nhung thương cảm, tiễn biệt, chia ly. Những Môtif "cúc vàng, giậu thu, sen tàn, lá ngô đồng, rừng phong thu được sử dụng nhiều. Lê Thu Yến trong bài nghiên cứu về thơ thu Nguyễn Du có kết luận: "Trong Truyện Kiều, mùa thu được miêu tả với nhiều sắc màu tương hợp đa dạng. Có vui, có buồn, có xinh đẹp có tàn phai... với trời mây cao vời vợi, đáy nước long lanh, lá ngô giếng vàng, sân ngô cành biếc, lá phong nhuộm hồng ..." [25,214].
Nguyễn Du họa tác nhiều những bức tranh mùa thu trong phần Thúy Kiều gặp gỡ Thúc Sinh, Sở Khanh, những mối tình mang tính tạm bợ.
Khảo sát toàn bộ tác phẩm, ta thấy mùa thu trong thơ ông mang nhiều ý nghĩa:
- Trong thơ Nguyễn Du, mùa thu được dùng để định vị khoảng thời gian trôi chảy hoặc thời gian có sự xuất hiện của nhân vật - lúc xác định, lúc không xác định:
- Nửa năm hơi tiếng vừa quen, (1385)
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. (1386)
Giậu thu vừa nảy giò sương, (1387)
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi, (1388)
- Thú quê thuần hức, bén mùi, (1593)
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. (1594)
- Sen tàn, cúc lại nỡ hoa, (1796)
- Mùa thu không chỉ buồn, mùa thu còn góp phần tạo vẻ đẹp cho cảnh trời nước mênh mông hư ảo:
Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. (1604)
- Mùa thu mùa của sự chia tay và tiễn biệt:
Người lên ngựa, kẻ chia bào, (1519)
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san. (1520)
Cái không gian thực nơi chia tay và cái không gian nội tâm như hòa trộn trong một bức tranh thu đặc biệt. Bức tranh có gam màu đỏ trong vàng thê lương tê tái, có một sự chuyển màu rất kỳ diệu thần tình - xanh xuân, vàng hạ, vàng đậm, đỏ sẫm khi rừng phong vào thu. Trong đôi mắt dõi theo của nhà thơ, con người như nhạt nhòa nhỏ bé mờ ảo gần như mất hút trong khung cảnh rừng phong nhuộm sắc như đang mỡ rộng đến vô cùng. Không gian cách trở như ngày càng xa dần, từ cái khoảng cách - người lên ngựa và kẻ chia bào chuyển thành rừng phong tràn ngập lá đỏ và nhuốm sắc vàng của trăng, cái bạt ngàn của rừng dâu. Có chăng đây còn là sự chuyển biến trong tình cảm - vui đến buồn, chung đôi và xa cách lẻ loi? Hình ảnh rừng phong chuyển sắc cũng được Nguyễn Du nói nhiều trong thơ chữ Hán: "Bán tại giang đầu phong thụ lâm" (Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông(T ạp ngâm III) hay "Phong thụ lâm trung diệp loạn phi" (Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây) (Tân thu ngẫu hứng) "Thu lai thùy nhiễm phong lâm thúy" (Trong rừng phong lá thu bay loạn xạ) (Tổ sơn đạo trung). Nhưng đó chỉ là những xức cảm vô hạn của Nguyễn Du trước những nét gợi cảm của một loài cây tiêu biểu cho mùa thu.
Cái màu quan san là màu gì nhĩ? Phải chăng đó là màu chia ly xa xôi cách trở, buồn hiu hắt và tê tái, màu của nội tâm đầy âu lo trước một hiện thực mông lung, tương lai mờ mịt. Nói đứng hơn đây là cái màu không cố thực nhưng tổn tại trong tâm linh nàng Kiều. Lipôvítan cũng có một bức hoa nổi tiếng về mùa thu vàng. Đó là bức tranh về màu thu đẹp buồn nhưng không gây ấn tượng cách trở chia ly. Nhận xét về chất hoa trong bốn câu thơ tả cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều, Trần Đăng Xuyên có viết: "Cảnh chia tay được dựng lên bằng bút pháp hội hoa: Không có âm thanh, chỉ có hình, có sắc. Không gian được sắp xếp theo thứ tự từ gần đến xa, mỗi lúc một thêm mênh mông rộng lớn gợi lên khoảng cách ngày càng Xã dần của người đi kẻ ở. Đa câu thơ gợi lên ba sắc màu: Màu đỏ sẫm của rừng phong vào thu, màu hồng của các bụi đường trường, màu xanh ngăn ngắt của ngàn dâu" [46,19]
+ Không gian vắng lặng thê lương khuya khoắt cũng là không gian nội tâm trống vắng buồn đến nao lòng khi một mình một bóng ngồi chép kinh:
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu. (1934)
+ Khung cảnh Kiều và Sở Khanh đi trốn càng rùng rơn và vắng lặng hơn. sắc màu nhợt nhạt khói sương làm Kiểu lo sợ và như linh cảm được nỗi đau thân phận, tai hoa đang lình rập:
Đêm thu khắc lậu canh tàn, (1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. (1120)
Lối mòn cỏ nhợt màu sương, (1121)
Lòng quê đi một bước đường một đau. (1122)
Trong toàn bộ bức tranh thu sắc vàng là sắc màu chả đạo - vàng ngô, vàng cức, vàng sen, vàng rừng, vàng trăng, vàng đỏ cửa rừng phong. Những bức tranh có ngày có đêm, cố sớm có khuya, có không gian mênh mông cách trở, có gió mùa thu dìu dịu, có trăng mùa thu lúc khuyết lúc tròn, lúc thẳng đứng, lúc chênh chếch, có nước mùa thu êm ả, sáng ương. Tất cả đều buồn mong manh như dự báo một sự rạn vỡ chia lìa, cách trở "màu quan san, nửa vành trăng khuyết, thành xây khói biếc".
Trong những bức tranh thu đó có bức tranh trở thành tuyệt tác về mùa thu, rất gần với những bức tranh sơn thúy Đường Tống. Nếu nhìn ở góc độ hội họa có thể xếp bức tranh này vào nhóm tranh thuộc trường phái ấn tượng:
Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. (1604)
Bức tranh được thêu dệt bằng trí tương tượng tuyệt vời, mang nét đẹp vừa thực vừa hư. Khung trời rộng lớn lại ở trong khung nước, xanh trời hoa cùng sắc xanh của nước, xanh núi được rải sắc vàng của ánh nắng mặt trời. Giữa hai khoảng không cao thấp là những hình khối khác nhau được kiến thiết bằng chất liệu mong manh của khói. Có thể nói, ánh sáng, màu sắc, hình khối, hư và thực như hoa trộn vào nhau tạo nên một bức tranh thu vượt khỏi cái khuôn ước lệ vốn có trong văn học cổ điển. Ngôn từ đã hóa thân thành hình tượng, câu thơ trải ra thành bức tranh, thi phẩm đã thăng hoa thành họa phẩm.
"Thơ thu Nguyễn Du không đạt đến cái trong veo vô tâm, vô sự như ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng không ngơ ngác mơ màng như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, càng không yên ả thanh bình, râm mát như chiều thu của Nguyễn Bính... mà đặc quánh những tủi buồn, vất vả, đắng cay của cuộc sống đời thường..." [25, 218].
Nhìn chung, mùa xuân và mùa thu là hai mùa được thi hào hoa tác nhiều nhất, bởi lẽ nó là mùa tình yêu - mùa tiễn biệt. Đó là hai cái mốc về hai cuộc tình của nàng Kiều - cuộc tình thơ và cuộc tình hờ, cuộc tình say đắm và cuộc tình lẩn trốn khổ ải.
- Mùa hè:
Cũng như mùa xuân và mùa thu, mùa hè cũng có những bức tranh đẹp gợi cảm:
Dưới trăng, quyên đã gọi hè, (1307)
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông. (1308)
Khác với các nhà thơ khác miêu tả mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng ve sầu tái tê, hoa phượng đỏ trời, gió nồm lồng lộng, bức họa mùa hè trong thơ Nguyễn Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắc gọi mùa. Cái rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng găm màu đậm đặc rực rỡ của hoa lựu như đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Sự sống và sắc màu như trồi dậy mạnh mẽ đơm hoa kết trái. Thiên nhiên như khêu gợi con người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người "tòa thiên nhiên"
- Mùa hè còn được ghi nhận trong sự vận chuyển màu sắc, sự vận hành của thời tiết chuyển mùa xuân sang hè, hè sang thu:
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh. (1474)
Sen tàn, cúc lại nở hoa, (1795)
- Mùa đông:
Có lẽ đây là mùa thi hào đề cập ít nhất, chỉ một lần duy nhất nhưng nó cũng trở thành "nhân vật" nhằm diễn tả nỗi sầu muộn khắc khoải chờ mong của chàng Thúc đang đếm từng thời gian trôi chày mong ngày gặp lại cố nhân:
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân. (1796)
Tìm đâu cho thấy cố nhân? (1797)
Dưới ngòi bút của thi hào thời gian co giãn rất linh hoạt. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các mùa trong thơ Nguyễn Du, Xuân Diệu có viết: "Bốn mùa chuyển rất thần tình... Với một câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả một mùa; với hai câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả một năm" [92,136] và có khi là cả ba năm. Ba thu dọn lại một ngày dài ghê".
Dù xuân hay hạ, thu hay đông, tất cả đều có những tín hiệu đặc trưng, những găm màu phù hợp: gam màu lạnh chả yếu là màu xanh thường được dùng cho mùa xuân, găm màu nóng chủ yếu là vàng đỏ thưởng được dùng cho mùa thu và hè.
Thiên nhiên dưới ngoài bút thi hào như đẹp hai lần. Ngoài những hình ảnh mang tính ước lệ còn có những sáng tạo, phá rào bất ngờ. Những phá rào ấy thường để lại những kiệt tác có một không hai. 3.1.2.2. Cảnh lầu Ngưng Bích:
Như các nhà nghiên cứu đã khẳng định đây là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm Truyện Kiều. Bức tranh được phác hoa thông qua cảm quan của con người, nhân vật duy nhất và cũng là trung tâm cửa bức tranh. Dưới ánh trăng lầu Ngưng Bích như cao hơn (trăng như sắp chạm vào đầu). Nhân vật trữ tình ở trên tầm cao có thể quan sát không gian đủ hướng:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, (1033)
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung. (1034)
Bốn bề bát ngát xa trông, (1035)
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. (1306)
Bức tranh mở ra từ từ, mỡ cả hình ảnh lẫn ngữ âm (âm o sang âm a) và nhạt nhòa dần. Cảnh được phối trí theo kiểu xa gần, cao thấp rõ mờ. Trước hết, đó là cái lầu có tên rất đẹp Ngưng Bích nhưng lại là nơi giam chặt tuổi xuân con người, xa dần là núi, trăng, cát, bụi. Tất cả đều là những sự vật hữu hình nhưng vô cảm cách chia "xa, gần, nọ, kia". Nét màu chủ đạo và chi phối toàn bức tranh chính là sắc vàng của trăng. Nhưng không phải là trăng "vằng vặc giữa trời" khi Kim Kiều thề ước hay "trăng thanh" khi Từ Hải xuất hiện mà là "trăng gần" với người để chia sẻ nỗi niềm cô đơn, quạnh vắng. Cứng dưới ánh trăng vàng, mọi vật trở nên nhạt nhòa hư ảo. Trong mắt Kiều, núi non trùng điệp với những sắc xanh đậm đặc giờ chỉ còn là những đường viền mờ ảo loáng thoáng vắng lặng, những bãi cát vàng nơi cồn nọ hay những hạt bụi hồng nơi dặm kia trở nên xa vời. Không gian bát ngát, cảnh vật heo hút, con người càng trở nên nhỏ bé, chơ vơ, trơ trọi. Bức tranh được thêu dệt bằng sắc màu hư ảo dù đẹp nhưng buồn, mang đầy chất tâm trạng - hoài niệm, nhớ thương, âu lo.
Trăng hôm nay lại gợi nhớ trăng năm xưa với đôi tình nhân và chén rượu thề nguyền giờ chỉ còn là kỷ niệm. Trong chiều sâu tâm thức của Kiều đã hiện ra hình bóng một người yêu lý tưởng đang khắc khoải chờ mong ngày tái ngộ, hình ảnh người mẹ già không ai chăm sóc, tựa cửa chờ con. Tất cả những bức tranh vô hình trong tâm tưởng đã biến thành những bức tranh hữu hỉnh được thêu dệt bằng ngôn ngữ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, (1039)
Tin sương luống những rày ương mai chờ (1040)
Bên trời góc bể bơ vơ, (1041)
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. (1042)
Xót người tựa cửa hôm mai, (1043)
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?... (1044)
Trở về với thực tại dưới mắt Kiều bức tranh khác lại hiện ra:
Buồn trông cửa bể chiều hôm, (1047)
Thuyền ai thấp thoáng cánh buuồn xa xa? (1048)
Buồn trông ngọn nước mới sa, (1049)
Hoa trôi man mác, biết là về đâu? (1050)
Buồn trông nội cỏ dầu dầu, (1051)
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. (1052)
Buồn trông gió cuốn mặt đuềnh, (1053)
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. (1054)
Bức tranh có cấu trúc khá cân đối: thuyền - bể, nước - hoa, nội cỏ - chân mây, gió - sổng. Trong cái cao lại ứng với cái thấp, trong cái lớn lại bao hàm cái nhỏ, có trên ắt có dưới. Không gian hội họa đi từ xa đến gần cuối cùng là trung tâm điềm "ghế ngồi". Ghế ngồi hình ảnh biểu hiện sự hiện hữu của nhân vật duy nhất ương khung cảnh. Nó lại được bao bọc bởi ánh sáng lờ mờ âm thanh dữ dội, sắc màu pha tạp nhàn nhạt. Đằng sau bức tranh hiện hữu là thế giới nội tâm con người. Một nỗi buồn vây kín không rứt, một sự hãi hùng lo sợ ở tương lai gần, một khát vọng rất con người - khát vọng tự do.
Nơi đây không còn sự sống của con người, mọi vật đều thay đổi, chỉ duy có hình ảnh sắc màu của hoa đào là không thay đổi. Hoa đào tượng trưng cho mùa xuân, mùa xuân lại tượng trưng cho tình yêu. Tình yêu dù chỉ còn là hoài niệm nhưng nó vẫn mãi mãi rực rỡ như cánh hoa đào lúc độ xuân về. Hình ảnh "hoa đào" được Nguyễn Du mượn từ ý thơ của Thôi Hộ: "Nhân diện bất ưi hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong" (Mặt người chẳng biết đi đâu mất, Hoa đào vẫn như cũ, vẫn cười với gió đông) và đặt thật đúng chỗ "Cái có đột đến giữa cái không như một cứu cánh, một điểm tựa của tâm linh. Nó như một an ủi, vỗ về làm dịu lại nỗi đau của con người cùng một lúc đã mất đi quá nhiều những gì vô giá" [21,213]. Hình ảnh hoa đào đã trở thành dấu gạch nối trong hai mảng của một bức tranh - mảng bức tranh chỉ toàn là hình ảnh của sự vật và mảng bức tranh đã có dấu vết con người. Trong một bức tranh với nhiều loại sắc màu sắc màu - xanh, vàng, hồng, trong đó màu hồng của hoa đào đã trở thành màu nổi bật. Sắc màu hồng rực rỡ xuất hiện trong găm màu nhàn nhạt, Mong khung cảnh hoang tàn còn là cái nghịch lý trớ trêu, một sự bơ vơ lạc lõng.
Ngoài việc tạo ra sự tương phản ngầm ẩn bức tranh hôm nay gợi nhớ bức tranh năm xưa, Nguyễn Du còn chủ đích bài trí những hình ảnh lộn xộn, chẳng cổ trình tự:"cỏ mọc, lau thưa, song trăng quạnh quẽ, vách rã rời, gió, mưa, én, lầu không, rêu phong” trong mọi không gian trước - sau, cao - thấp, trong - ngoài, trên - dưới. Tất cả nương tựa vào nhau bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa. Đó là sự xuống cấp của sự sống, sự phát triển tự do của thiên nhiên và tâm trạng đầy bi kịch của một con người.
Trong bức tranh này, Nguyễn Du đã dùng đến nhiều loại đường nét - đường nét xiêu quẹo, ngả nghiêng (vách mưa rã rời); đường nét thể hiện sự vươn lên một cách tự do, cao thấp không hài hòa (cỏ, lau, rêu); đường nét thể hiện sự vận động theo chiều ngang hoặc lên xuống (én liệng) và cả những đường nét mờ nhạt (rêu phong dấu giày). Nó như mhững mảnh vụn bày ra bừa bãi không ai chăm sóc tỉa tót.
- Mùa thu:
Không đi chệch với quy ước của người phương Đông, mùa thu trong thơ Nguyễn Du cũng buồn, gợi nhớ nhung thương cảm, tiễn biệt, chia ly. Những Môtif "cúc vàng, giậu thu, sen tàn, lá ngô đồng, rừng phong thu được sử dụng nhiều. Lê Thu Yến trong bài nghiên cứu về thơ thu Nguyễn Du có kết luận: "Trong Truyện Kiều, mùa thu được miêu tả với nhiều sắc màu tương hợp đa dạng. Có vui, có buồn, có xinh đẹp có tàn phai... với trời mây cao vời vợi, đáy nước long lanh, lá ngô giếng vàng, sân ngô cành biếc, lá phong nhuộm hồng ..." [25,214].
Nguyễn Du họa tác nhiều những bức tranh mùa thu trong phần Thúy Kiều gặp gỡ Thúc Sinh, Sở Khanh, những mối tình mang tính tạm bợ.
Khảo sát toàn bộ tác phẩm, ta thấy mùa thu trong thơ ông mang nhiều ý nghĩa:
- Trong thơ Nguyễn Du, mùa thu được dùng để định vị khoảng thời gian trôi chảy hoặc thời gian có sự xuất hiện của nhân vật - lúc xác định, lúc không xác định:
- Nửa năm hơi tiếng vừa quen, (1385)
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. (1386)
Giậu thu vừa nảy giò sương, (1387)
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi, (1388)
- Thú quê thuần hức, bén mùi, (1593)
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. (1594)
- Sen tàn, cúc lại nỡ hoa, (1796)
- Mùa thu không chỉ buồn, mùa thu còn góp phần tạo vẻ đẹp cho cảnh trời nước mênh mông hư ảo:
Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. (1604)
- Mùa thu mùa của sự chia tay và tiễn biệt:
Người lên ngựa, kẻ chia bào, (1519)
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san. (1520)
Cái không gian thực nơi chia tay và cái không gian nội tâm như hòa trộn trong một bức tranh thu đặc biệt. Bức tranh có gam màu đỏ trong vàng thê lương tê tái, có một sự chuyển màu rất kỳ diệu thần tình - xanh xuân, vàng hạ, vàng đậm, đỏ sẫm khi rừng phong vào thu. Trong đôi mắt dõi theo của nhà thơ, con người như nhạt nhòa nhỏ bé mờ ảo gần như mất hút trong khung cảnh rừng phong nhuộm sắc như đang mỡ rộng đến vô cùng. Không gian cách trở như ngày càng xa dần, từ cái khoảng cách - người lên ngựa và kẻ chia bào chuyển thành rừng phong tràn ngập lá đỏ và nhuốm sắc vàng của trăng, cái bạt ngàn của rừng dâu. Có chăng đây còn là sự chuyển biến trong tình cảm - vui đến buồn, chung đôi và xa cách lẻ loi? Hình ảnh rừng phong chuyển sắc cũng được Nguyễn Du nói nhiều trong thơ chữ Hán: "Bán tại giang đầu phong thụ lâm" (Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông(T ạp ngâm III) hay "Phong thụ lâm trung diệp loạn phi" (Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây) (Tân thu ngẫu hứng) "Thu lai thùy nhiễm phong lâm thúy" (Trong rừng phong lá thu bay loạn xạ) (Tổ sơn đạo trung). Nhưng đó chỉ là những xức cảm vô hạn của Nguyễn Du trước những nét gợi cảm của một loài cây tiêu biểu cho mùa thu.
Cái màu quan san là màu gì nhĩ? Phải chăng đó là màu chia ly xa xôi cách trở, buồn hiu hắt và tê tái, màu của nội tâm đầy âu lo trước một hiện thực mông lung, tương lai mờ mịt. Nói đứng hơn đây là cái màu không cố thực nhưng tổn tại trong tâm linh nàng Kiều. Lipôvítan cũng có một bức hoa nổi tiếng về mùa thu vàng. Đó là bức tranh về màu thu đẹp buồn nhưng không gây ấn tượng cách trở chia ly. Nhận xét về chất hoa trong bốn câu thơ tả cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều, Trần Đăng Xuyên có viết: "Cảnh chia tay được dựng lên bằng bút pháp hội hoa: Không có âm thanh, chỉ có hình, có sắc. Không gian được sắp xếp theo thứ tự từ gần đến xa, mỗi lúc một thêm mênh mông rộng lớn gợi lên khoảng cách ngày càng Xã dần của người đi kẻ ở. Đa câu thơ gợi lên ba sắc màu: Màu đỏ sẫm của rừng phong vào thu, màu hồng của các bụi đường trường, màu xanh ngăn ngắt của ngàn dâu" [46,19]
+ Không gian vắng lặng thê lương khuya khoắt cũng là không gian nội tâm trống vắng buồn đến nao lòng khi một mình một bóng ngồi chép kinh:
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu. (1934)
+ Khung cảnh Kiều và Sở Khanh đi trốn càng rùng rơn và vắng lặng hơn. sắc màu nhợt nhạt khói sương làm Kiểu lo sợ và như linh cảm được nỗi đau thân phận, tai hoa đang lình rập:
Đêm thu khắc lậu canh tàn, (1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. (1120)
Lối mòn cỏ nhợt màu sương, (1121)
Lòng quê đi một bước đường một đau. (1122)
Trong toàn bộ bức tranh thu sắc vàng là sắc màu chả đạo - vàng ngô, vàng cức, vàng sen, vàng rừng, vàng trăng, vàng đỏ cửa rừng phong. Những bức tranh có ngày có đêm, cố sớm có khuya, có không gian mênh mông cách trở, có gió mùa thu dìu dịu, có trăng mùa thu lúc khuyết lúc tròn, lúc thẳng đứng, lúc chênh chếch, có nước mùa thu êm ả, sáng ương. Tất cả đều buồn mong manh như dự báo một sự rạn vỡ chia lìa, cách trở "màu quan san, nửa vành trăng khuyết, thành xây khói biếc".
Trong những bức tranh thu đó có bức tranh trở thành tuyệt tác về mùa thu, rất gần với những bức tranh sơn thúy Đường Tống. Nếu nhìn ở góc độ hội họa có thể xếp bức tranh này vào nhóm tranh thuộc trường phái ấn tượng:
Long lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. (1604)
Bức tranh được thêu dệt bằng trí tương tượng tuyệt vời, mang nét đẹp vừa thực vừa hư. Khung trời rộng lớn lại ở trong khung nước, xanh trời hoa cùng sắc xanh của nước, xanh núi được rải sắc vàng của ánh nắng mặt trời. Giữa hai khoảng không cao thấp là những hình khối khác nhau được kiến thiết bằng chất liệu mong manh của khói. Có thể nói, ánh sáng, màu sắc, hình khối, hư và thực như hoa trộn vào nhau tạo nên một bức tranh thu vượt khỏi cái khuôn ước lệ vốn có trong văn học cổ điển. Ngôn từ đã hóa thân thành hình tượng, câu thơ trải ra thành bức tranh, thi phẩm đã thăng hoa thành họa phẩm.
"Thơ thu Nguyễn Du không đạt đến cái trong veo vô tâm, vô sự như ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng không ngơ ngác mơ màng như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, càng không yên ả thanh bình, râm mát như chiều thu của Nguyễn Bính... mà đặc quánh những tủi buồn, vất vả, đắng cay của cuộc sống đời thường..." [25, 218].
Nhìn chung, mùa xuân và mùa thu là hai mùa được thi hào hoa tác nhiều nhất, bởi lẽ nó là mùa tình yêu - mùa tiễn biệt. Đó là hai cái mốc về hai cuộc tình của nàng Kiều - cuộc tình thơ và cuộc tình hờ, cuộc tình say đắm và cuộc tình lẩn trốn khổ ải.
- Mùa hè:
Cũng như mùa xuân và mùa thu, mùa hè cũng có những bức tranh đẹp gợi cảm:
Dưới trăng, quyên đã gọi hè, (1307)
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông. (1308)
Khác với các nhà thơ khác miêu tả mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng ve sầu tái tê, hoa phượng đỏ trời, gió nồm lồng lộng, bức họa mùa hè trong thơ Nguyễn Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắc gọi mùa. Cái rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng găm màu đậm đặc rực rỡ của hoa lựu như đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Sự sống và sắc màu như trồi dậy mạnh mẽ đơm hoa kết trái. Thiên nhiên như khêu gợi con người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người "tòa thiên nhiên"
- Mùa hè còn được ghi nhận trong sự vận chuyển màu sắc, sự vận hành của thời tiết chuyển mùa xuân sang hè, hè sang thu:
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh. (1474)
Sen tàn, cúc lại nở hoa, (1795)
- Mùa đông:
Có lẽ đây là mùa thi hào đề cập ít nhất, chỉ một lần duy nhất nhưng nó cũng trở thành "nhân vật" nhằm diễn tả nỗi sầu muộn khắc khoải chờ mong của chàng Thúc đang đếm từng thời gian trôi chày mong ngày gặp lại cố nhân:
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân. (1796)
Tìm đâu cho thấy cố nhân? (1797)
Dưới ngòi bút của thi hào thời gian co giãn rất linh hoạt. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các mùa trong thơ Nguyễn Du, Xuân Diệu có viết: "Bốn mùa chuyển rất thần tình... Với một câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả một mùa; với hai câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả một năm" [92,136] và có khi là cả ba năm. Ba thu dọn lại một ngày dài ghê".
Dù xuân hay hạ, thu hay đông, tất cả đều có những tín hiệu đặc trưng, những găm màu phù hợp: gam màu lạnh chả yếu là màu xanh thường được dùng cho mùa xuân, găm màu nóng chủ yếu là vàng đỏ thưởng được dùng cho mùa thu và hè.
Thiên nhiên dưới ngoài bút thi hào như đẹp hai lần. Ngoài những hình ảnh mang tính ước lệ còn có những sáng tạo, phá rào bất ngờ. Những phá rào ấy thường để lại những kiệt tác có một không hai. 3.1.2.2. Cảnh lầu Ngưng Bích:
Như các nhà nghiên cứu đã khẳng định đây là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm Truyện Kiều. Bức tranh được phác hoa thông qua cảm quan của con người, nhân vật duy nhất và cũng là trung tâm cửa bức tranh. Dưới ánh trăng lầu Ngưng Bích như cao hơn (trăng như sắp chạm vào đầu). Nhân vật trữ tình ở trên tầm cao có thể quan sát không gian đủ hướng:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, (1033)
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung. (1034)
Bốn bề bát ngát xa trông, (1035)
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. (1306)
Bức tranh mở ra từ từ, mỡ cả hình ảnh lẫn ngữ âm (âm o sang âm a) và nhạt nhòa dần. Cảnh được phối trí theo kiểu xa gần, cao thấp rõ mờ. Trước hết, đó là cái lầu có tên rất đẹp Ngưng Bích nhưng lại là nơi giam chặt tuổi xuân con người, xa dần là núi, trăng, cát, bụi. Tất cả đều là những sự vật hữu hình nhưng vô cảm cách chia "xa, gần, nọ, kia". Nét màu chủ đạo và chi phối toàn bức tranh chính là sắc vàng của trăng. Nhưng không phải là trăng "vằng vặc giữa trời" khi Kim Kiều thề ước hay "trăng thanh" khi Từ Hải xuất hiện mà là "trăng gần" với người để chia sẻ nỗi niềm cô đơn, quạnh vắng. Cứng dưới ánh trăng vàng, mọi vật trở nên nhạt nhòa hư ảo. Trong mắt Kiều, núi non trùng điệp với những sắc xanh đậm đặc giờ chỉ còn là những đường viền mờ ảo loáng thoáng vắng lặng, những bãi cát vàng nơi cồn nọ hay những hạt bụi hồng nơi dặm kia trở nên xa vời. Không gian bát ngát, cảnh vật heo hút, con người càng trở nên nhỏ bé, chơ vơ, trơ trọi. Bức tranh được thêu dệt bằng sắc màu hư ảo dù đẹp nhưng buồn, mang đầy chất tâm trạng - hoài niệm, nhớ thương, âu lo.
Trăng hôm nay lại gợi nhớ trăng năm xưa với đôi tình nhân và chén rượu thề nguyền giờ chỉ còn là kỷ niệm. Trong chiều sâu tâm thức của Kiều đã hiện ra hình bóng một người yêu lý tưởng đang khắc khoải chờ mong ngày tái ngộ, hình ảnh người mẹ già không ai chăm sóc, tựa cửa chờ con. Tất cả những bức tranh vô hình trong tâm tưởng đã biến thành những bức tranh hữu hỉnh được thêu dệt bằng ngôn ngữ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, (1039)
Tin sương luống những rày ương mai chờ (1040)
Bên trời góc bể bơ vơ, (1041)
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. (1042)
Xót người tựa cửa hôm mai, (1043)
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?... (1044)
Trở về với thực tại dưới mắt Kiều bức tranh khác lại hiện ra:
Buồn trông cửa bể chiều hôm, (1047)
Thuyền ai thấp thoáng cánh buuồn xa xa? (1048)
Buồn trông ngọn nước mới sa, (1049)
Hoa trôi man mác, biết là về đâu? (1050)
Buồn trông nội cỏ dầu dầu, (1051)
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. (1052)
Buồn trông gió cuốn mặt đuềnh, (1053)
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. (1054)
Bức tranh có cấu trúc khá cân đối: thuyền - bể, nước - hoa, nội cỏ - chân mây, gió - sổng. Trong cái cao lại ứng với cái thấp, trong cái lớn lại bao hàm cái nhỏ, có trên ắt có dưới. Không gian hội họa đi từ xa đến gần cuối cùng là trung tâm điềm "ghế ngồi". Ghế ngồi hình ảnh biểu hiện sự hiện hữu của nhân vật duy nhất ương khung cảnh. Nó lại được bao bọc bởi ánh sáng lờ mờ âm thanh dữ dội, sắc màu pha tạp nhàn nhạt. Đằng sau bức tranh hiện hữu là thế giới nội tâm con người. Một nỗi buồn vây kín không rứt, một sự hãi hùng lo sợ ở tương lai gần, một khát vọng rất con người - khát vọng tự do.
Trần Đình Khiêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét