Chữ
người tử tù - Nguyễn Tuân
Nhận được phiến trát của
Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, Viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc trong đề lao:
- Này, thầy bát, cứ
công văn này, thì chúng ta sắp nhận được sáu tên tù phải chết chém. Trong đó
tôi nhân thấy tên đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn
Cao! hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn ca tụng cái tài viết chữ rất nhanh
và rất đẹp đó không?
Thầy thơ laị xin phép
đọc công văn.
- Dạ, bẩm chính y đó.
Dạ bẩm, có chuyện chi vậy?
- Không, tôi ngh eten
quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái tên đó luôn, thì tôi cũng hỏi
thế thôi. Thôi cho thầy lui. À, nhưng mà thong thả. Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn
lại cái buồng cuối cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buông giam đó có cầm
giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn
Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa
không?
- Dạ bẩm, thế ra y văn
võ đều có tài cả. Chà chà!
- Ờ, cũng gần như vậy.
Sao thầy lại chặc lưỡi?
- Tôi thấy những người
có taif thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ,
phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thương tiếc.
- Chuyện triều đình quốc gia, ta biết chi mà bàn bạc cho thêm
lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì kkhốn. Thôi thầy lui về mà trông nom việc dứơi trại
giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho ó mặt ở trại trước khi lính tỉnh trao
tù cho mình lĩnh nhận. Đêm nay, thầy bắt thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt
hai tên. Hễ chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên không đánh kẻng, đánh kẻng,
đánh mõ thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng để mai tôi phạt nặng. Chớ cho mấy tên thập
thò nó đánh bạc nghe!. Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi,
đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một
cây đèn leo lóet rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan ngồi bóp thái dương
một cách băn khoăn. Tiếng kiểng và mõ rất đều đặn, rất thưa thớt. Lướt qua cái
thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, văng vẳng từ làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn
ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen và thẳng lên nền trời
lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống chân trời không
định.
Tiếng dội chó suả ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ
canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay lên cao dần lên khỏi
mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.
Nơi góc án thư vàng đã nhọt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây
đèn nến vợi dần mực tầu. Hai ngọn bấc lép bép nổ, làm rụng tàn đèn xuống tập giấy
bản, có dấu son bên ty Niết. Viên quan coi ngục ngấc đầu, lấy que hương khêu
thêm một côn bấc. ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt
người ngồi đấy.
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa
lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên
quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc
luật đều hỗn loạn xô bồ.
Ông trời hay chôi ác đày ải những cái thuần túy vào giữa một
đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đởi kiếp
với lũ quay quắt.
Ngục quan lấy làm nghĩ ngợivề câu nói ban chiều của thầy thơ
lại "- Có lẽ lão bát, này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình,
chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết
trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. Ta muốn biệt đãi
ông Huấn Cao, ta muosn cho ông ta đỡ cực khổ trong mấy ngày cuối cùng còn lại,
nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì ta xem khó
mà ở yên. Để mai ta dò ý tứ hắn xem sao rồi sẽ liệu".
Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu tên tù mà
công văn chiều hôm qua, đã báo trước cho ngục quan rõ tên tuổi,làng xóm và tội hình.
Sáu phạm nhân đèu mang chung một chiếc gông dài đến tám thước. Cái thang gỗ lim
nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến lọan, nếu đem ra cân, cũng phải nặng đến
bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu tên tử tù. Màu gỗ
thân gông đã cũ và mồ hôi cổ và tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nứơc sơn bóng
nhóang. Những đoạn gông đã bóng thì lóang như có người đánh lá chuối khô. Nhữg
đoạn không bóng thì lại xỉn lại những chất ghéy đen sánh. Trong khi chờ đợi cửa
ngục mở rộng, Huấn Cao đứng đầu gông, quay cổ lại bảp mấy bạn tù
- Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải rỗ gông đi.
Sáu người đều quì cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông, đầu
cúi cả về phía. Một tên áp giải đùa một câu :
- Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người
sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy
không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.
Huấn Cao lãnh đạm, không thèm chấp chỉ trút mũi gông nặng xuống
thềm đá tảng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đất đánh thuỳnh một cái.
Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau làm hộ nhăn mặt. Một
trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen.
Cánh cửa đề lao mở rộng.
Sáu người né mình tiến vào như một hiệp thợ ngõa, thận trọng
khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai.
Trái với phong tục nhận tù như mọi ngày, hôm nay viên quan
coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể, tuy y cố
ý giữ kín đáo mà cũng đã quá rõ rồi. Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại còn
biệt nhỡn đối với riêng Huấn Cao. Bọn lính lấy làm lạ, đều nhắc lại :
- Bẩm thầy, tên ấy chính là chủ xướng. Xin thầy để tâm cho, hắn
ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.
Mấy tên lính, khi nói chữ "để tâm" có ý nhắc viên
quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra.
Ngục quan chỉ điềm đạm:
Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nứơc. Các chú chớ có nhiều
lời.
Bọn lính giản cả ra nhìn nhau và không hiểu. sáu tên tử tù
hơi ngạc nhiên về thái độ quản ngục.
Suốt nửa tháng ở trong buồn tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một
người tho lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bửa cơm tù. Mỗi
lúc dâng rượu với đồ nhắm, người thơ lại lễ phép nói một câu:
- Thầy quản chúng tôi biếu ngài ít quà mọn này để dùng cho ấm
bụng. Ở trong buồng đây lạnh lắm.
Ông Húân Cao vấn thản nhiên nhận rượu thịt coi như mình có
quyền hưởng thụ những thực phẩm đó. Rồi đến một hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng
kín, khép nép hỏi ông Huấn:
Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết
ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài đừng
làm quá. Sợ đến tai lính tráng họ biếtthì phiền lụy cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài
muốn gì xin cho tôi biết. Tôi sẽ liệu.
Ông đã trả lời quản ngục:
Người hỏi ta múôn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng
có tới quấy rầy ta.
KHi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều, ông Huấn
đã đợi trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục.
Nhưng đến cái cảnh chết chém, ông còn chảng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị
oai này. Ngục quan đã làm cho ông Huấn bực mình thêm khi nghe xong câu trả lời,
y chỉ nhã nhặn lui ra với một câu: " Tôi xin lĩnh ý". Và từ hôm ấy,
cơm rượu lại đưa đến đều và có phần hậu hơn trứơc nữa; duy chỉ có y là không để
chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc nhiên nhiều, năm bạn thân của
ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
Có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn
Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục. " Hay là y muốn
dò đến những điều bí mật của ta?" " không, không phải thế, vì bao
nhiêu điều quan trọng ta đã khai bên ty Niết cả rồi, còn gì nữa mà dò cho thêm
bận."
Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng vẫn dài
như nghìn năm ở ngoài. Viên quản ngục không lấy làm óan thù thái độ khinh bạc của
ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nứơc, đến trên đầu người
ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu
lại giữ tù.
Viên quản ngục hy vọng một ngày rất gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt
tính nết thì y sẽ nhờ ông viết cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn
và can lại. Thế là y mãn nguyện.
Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở
nguyện của viên quản ngục này coi là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình
một câu đối do tay ông Huấn Cao viết, chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính
ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà
treo là có một vật báo trên đời. Viên quả ngục khổ tam nhất là có một ông Huấn
Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin chữ. Không
can đảm giáp mặt lạimột người cách xa y hàng bao nhiêu thế kỷ tài học, y chỉ lo
mai mốt đây ông Huấn bị hành hình thì cái thèm muốn kia chỉ là ảo mộng...
Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt khi tiếp đọc
công văn. Quan hình bộ Thượng Thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và đông chí
vào Kinh... Pháp trường lập ở trong ấy kia. Và ngày mai, sớm tinh mơ sẽ có người
đến lĩnh tù.
Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại cho lính gọi lên
kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong câu chuyện, nói được một
câu: " Dạ bẩm,,ngài cứ yên tâm đã có tôi". Rồi ù té chạy ngay xuống
phía trạii giam ông Huấ. Thầy đấm cửa buồng giam thùm thùm, hớt hơ hớt hải kể
cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn tin buồn cho
ông Huấn biết về việc về Kinh chịu án tử hình. Ông Huấn Cao trầm ngâm rồi mỉm
cười:
- Ngươi về bảo với chủ ngươi, tối nay kúc nào lính canh tại về
nghỉ thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ ta thì
quý thực, ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ. Nhất
sinh ta cũng chỉ mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người
bạn thân của ta thôi. Ta rất cảm kích tấm lòng biệt nhãn liên tài của các người.
Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý
như vậy.Thiếu chút nữa bta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên
vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong buông tối chật hẹp,
ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột và gián.
Trong một không khí tỏa như đám cháy, ánh sáng đỏ ngòm của một
bó đuốc tẩm dầu rọi lên trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch
còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lai lịa. Một tên tù
cổ đeo gông, chân vứơng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng
phẳng trên mảnh ván. Tên tù viết xong một chữ, tên quản ngục lại khúm núm cất
những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phíên lụa óng. Và cái thầy thơ lại
gầy gò thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khỏan, ông Huấn Cao
thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng dậy và đĩnh đạc bảo:
- Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chỗ ở đi. Chỗ
này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn
rõ ràng như thế. Thoi mực kiếm được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi
thơm ở chậu mực bốc lên không?... Ta bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về quê mà ở
đã , rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững
và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lúc lụi tàn lửa rụng xuống nền đất
phòng giam tiếng lửa tắt nghe sèo séo.
Ba người nhìn bức chàm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quản cảm động, vái tên tù một vái và nói một câu mà dòng
nước mắt rỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn ngào.
- Xin bái lĩnh.
NGUYỄN TUÂN
“… Mày hãy diệt hết những con người cũ ở trong mày đi… Mày phải
tự hoại nội tâm mày đi đã. Mày hãy lấy mày ra làm lửa mà đốt cháy hết những
phong cảnh cũ của tâm tưởng mày.”
(Nguyễn)
Bị phát vãng lên đường ngược, ở một tỉnh phía tây Bắc bộ vào
những năm khủng bố thời Pháp thuộc ấy, tôi đã chú ý đến một người tù. Anh Lịnh.
Thật vậy, trong đời sống hằng ngày của trại an trí, người bị
đi đày kia là tượng trưng cho đời tù của bọn trí thức say đắm với công cuộc, vướng
luỵ vì hoài bão, đưa Cách Mệnh lên thành một tôn giáo, và trong cảnh đày ải tù
tội, tinh thần lúc nào cũng vững vàng như cái thái độ bất diệt của bậc chân tu
chuyên nhất trong niềm đạo hạnh.
2910 - phải, Lịnh đeo con số ấy khi đi tù -, đã là một đối tượng
phức tạp để tôi gởi vào đấy một dấu -? và một dấu -! rất đậm.
Trại an trí V.B. chỉ thuần có tù chính trị người Kinh lẫn người
Thổ. Ở đấy, ngoài cái áo số vải nâu, chúng tôi có quyền dùng những đồ may mặc
đem theo. Ngoài nắm cơm của căng, chúng tôi có quyền mua bán thực phẩm riêng bằng
những số tiền do thân quyến hoặc cố hữu gởi lên. Và được viết và đọc - trong một
cái chừng hạn tự do tương đối nào đó.
Lịnh có rất nhiều áo len của người quen đan gởi lên cho.
Không chuyến nào mà người phu trạm già ấy lại không có một gói bưu kiện áo quần
giao cho Lịnh. Người ở ngoài, dưới vùng hạ bạn, đã nghĩ nhiều đến một kẻ ở
trong và thiết tha đến cái khí núi giết được người nơi đường ngược đây. Lịnh có
rất nhiều măng-đa. Ở cuốn sổ gởi tiền của tù kí trên buồng giấy trại, Lịnh có
riêng một trang đặc. Còn thư tín ở bên ngoài đưa đến vào những hòm phát thư,
người Tây quản trại kì nào cũng phải gọi đến 2910.
Rất nhiều anh em cùng trại ít được chăm sóc bởi người của đời
sống bên ngoài, ít nhận được măng-đa và thư, nhìn Lịnh 2910 bằng con mắt thèm tủi.
Ai đời đã đi đày lên thượng du, mà ngày tết Nguyên Đán còn có người lặn ngòi
ngoi nước đến trại xin phép Tây cho gặp Lịnh để giao cho Lịnh một của thuỷ tiên,
một cân mứt sen trần kèm bình trà mạn!
Tôi đã phải bận tâm đến Lịnh mà nhiều người lính đã liệt vào
hạng tù cậu vì Lịnh có cái bề ngoài của một người tù phong lưu (!) Không, Lịnh
không phải là một người tù cậu. Lịnh là một người tù thuộc, đời sống tinh thần
đã được luyện qua gần khắp các nhà giam ở xứ ta, đã từng nhiều phen tuyệt thực,
vượt ngục và sở dĩ chuyến này lại lên đây nữa là vì vẫn chưa chịu chán mỏi với
hoài bão. Một hôm quét vôi trên đồn, muốn tò mò đến quá khứ của tù 2910, tôi đã
lẻn vào buồng giấy quản trại và đọc tập lí lịch của Lịnh gởi kèm lên theo.
Chao ôi, sao đời Lịnh nhiều án tích chính trị, nhiều hoạt động
và không sờn gan mệt trí với đề lao đến như thế! Có thể nói rằng Lịnh có ở cuộc
đời bất công này là để riêng đi ở tù vì lí tưởng, ở tù cho đến chết thì thôi chứ
không thèm yên nghỉ với cái sống tự do giả vờ của bên ngoài. Đời hoạt động của
Lịnh hình như đã nêu ra được vấn đề này: là định một cái nghiệp dĩ cho kẻ tri
thức giác ngộ cả trong hoàn cảnh câu thúc và cả ở hoàn cảnh ngoài đề lao nó
cũng đầy rẫy những tội ác và tù túng của đời sống mâu thuẫn.
Tôi liền có cảm tình với Lịnh, tìm cách gần Lịnh. Ngày tháng
trên rừng trôi qua trên sự cầu thân đó, cũng bớt được nặng nề. Ngoài những lúc
phải theo lính canh vào rừng ngả cây cổ thụ phát quang rừng lau, phá đồi, đánh
gianh lợp nhà, cắt cỏ cho trâu dê bên đồn, lấy nước suối ngọt cho bên trại anh
em, những lúc được về ăn nghỉ trong trại, tôi ngắm Lịnh. Những cử chỉ vụn vặt của
Lịnh đã đi vào con người tôi không sót một nét. Tôi ngắm Lịnh, lặng lẽ và kính
cẩn. Mệt lắm thì tôi chợp đi một lúc, chờ một hồi kèn chiều bên đồn dựng đứng
mình dậy để vào rừng làm nốt công việc trong một ngày tù. Một buổi trưa, Linh vỗ
vai lay nhẹ tôi: “Anh xuống nhà ăn, uống với tôi chén trà nóng. Tôi đã bắc ấm lên
bếp, nước gần sủi rồi.” Buổi trưa rừng, ở trại giam, có người mời uống nước trà
nóng là một điều thú vị nhất. Trà nóng vừa chuyên xong vào một đoạn vầu gọt làm
chén, Lịnh nhìn thẳng vào mặt tôi: “Tôi đoán không nhầm. Anh không chịu khó cưỡng
lại giấc ngủ trưa ở thượng du thì chẳng mấy chốc mà sốt đến nơi đấy. Người lính
125 bên đồn cũng ngủ trưa như thế trong nửa tháng nay rồi đái ra máu rồi chết.
Từ giờ, anh đừng ngủ trưa nữa. Mặt anh đã bắt đầu vàng rồi. Anh chiêu mấy viên
thuốc này đi.” Lịnh đưa tôi chén nước nóng và mấy viên thuốc. Thì ra không phải
là một buổi nhậm sà chơi vui mà là một buổi chữa bệnh và Lịnh đã để ý đến sức
khoẻ của tôi từ hôm nào rồi. Tôi ngoan ngoãn nuốt mấy viên thuốc tròn dẹp và
ngà ngà như màu ngô nếp. Lịnh nhìn qua tấm hàng rào nứa tép ken cánh sẻ dày đến
sáu lượt nứa, gởi tầm mắt vào rừng xa đang nhấp nhánh khí núi hâm nóng, thủ thỉ
nói tiếp: “Càng ở vào hoàn cảnh tù tội, chúng ta càng phải giữ mình làm trọng.
Để lúc trở về trung châu, còn có mặt trong hàng ngũ của đoàn thể. Ta sẽ có lỗi
nhiều với công cuộc, nếu phải để thân ở thượng du vì nỗi bất cẩn đối với cái
thân mình lúc này. Mỗi người chúng ta phải gởi xương ở đây vì sốt rét rừng,
hàng ngũ về sau sẽ hở kẽ.
Thiếu đi - dù là một người - công cuộc sẽ chậm ít ra là một bước trong thời gian”. Tôi yêu kính câu nói của Lịnh chứa đầy một niềm sốt sắng giống như lối nói của nhà lãnh đạo ký trú với những đồng chí chưa hoàn toàn nhập điệu.
Thiếu đi - dù là một người - công cuộc sẽ chậm ít ra là một bước trong thời gian”. Tôi yêu kính câu nói của Lịnh chứa đầy một niềm sốt sắng giống như lối nói của nhà lãnh đạo ký trú với những đồng chí chưa hoàn toàn nhập điệu.
Và từ hôm ấy, để đánh lừa giấc ngủ trưa ở rừng tù, tôi đã học
chữ Ăng-Lê và Lịnh, mỗi trưa, dành ra hai mươi phút để dạy tôi học ngoại ngữ.
Trong việc này, ông thầy bao giờ cũng chuyên cần hơn người học trò, bởi vì có
nhiều buổi hễ có người rủ chơi cờ tướng là tôi đã bỏ lớp học của Lịnh. Nhiều độ
lượng, Lịnh chỉ điềm đạm: “Cũng chẳng sao. Điều cần nhất, là đừng ngủ trưa.
Đánh cờ trưa, cũng là một cách vui gọn để chống sốt rét rừng.”
Không phải dạy tôi học thì Lịnh lại dùng thời giờ ấy đọc sách
và biên chép luôn tay vào những cuốn sổ tay dành riêng mỗi cuốn cho một việc.
Có người lính nào vào trại tìm đến Lịnh thì Lịnh lại bỏ việc riêng đấy mà giúp
họ. Vẽ hộ một bức truyền thần. Viết hộ một bức thư, và nhiều bức thư của người
lính thượng du nhớ nhà gởi về thăm vợ con hoặc vấn an thầy mẹ. Thư lại viết
theo thể thơ lục bát. Chiều theo ý những người lính, Lịnh đã xoay cái thư ấy ra
thành những câu vè mộc mạc và anh lại còn phải viết bằng chữ nôm. Ra Lịnh vẫn
có cái đức dung người và Lịnh vẫn vui vẻ trong khi làm những việc tầm thường đó
không ngày nào là không xảy tới. Ở một cái đồn thượng du, lúc nào mà chẳng có một
người lính nhớ vợ thương cha. Lịnh được thiện cảm của cả đồn. Các ông quản đội
trên đồn, có việc hiếu hỉ gì ở quê nhà, là đều có nhờ đến Lịnh cho chữ câu đối
– lúc nôm, lúc chữ Hán, tuỳ theo trường hợp. Cả ngay đến lão quản trại an trí
là người Pháp, cũng nhờ Lịnh dạy Việt ngữ. Nhưng đến việc này thì Lịnh chối từ,
mặc dầu quản trại hứa sẽ để cho Lịnh ở nhà không phải vào rừng mà sương nắng
ngày hai buổi. Lịnh đã lẩm bẩm riêng với anh em: “Dạy mày học tiếng ta để rồi
mày dò la chuyện bên căng và kiểm duyệt thư của anh em cho kĩ phải không?”. Vì
có người tọc mạch mà tôi mới biết rằng Lịnh đang nghiền ngẫm bộ Kinh Dịch và
đang xoay nó vào Biện Chứng Pháp Duy Vật. Một buổi nghỉ ngày chủ nhật, thấy tôi
đến ghé nhòm vào trang vở chi chít những chữ Pháp và chữ Hán, Lịnh tươi tỉnh –
bao giờ Lịnh cũng hoà nhã tươi tỉnh – hỏi tôi: “Tôi đố anh biết Pearl Buck có
giỏi chữ Hán không? Và André Malraux tập viết chữ Hán theo lối thiệp nào?” Câu
đố ấy rồi cũng bỏ lửng. Nhưng tôi ngờ rằng Lịnh biết nhiều lắm. Cũng như tôi đã
thấy rõ cái đức làm người của Lịnh mà cảnh tù chung mỗi ngày càng làm bật hẳn
lên.
Lịnh không trốn việc hoặc đùn nó cho những anh em khác. Kỉ luật
của anh em trong trại đặt ra để giữ trật tự chung cho cả căng, anh tuân theo.
Ra ngoài làm việc rừng, lúc nào túi dết Lịnh cũng có sách vở, nhưng chặt xong
phần cây hoặc cuốc xong phần đất của mình rồi anh mới chui vào bụi khuất mà đọc
mà viết. Cái điều lạ nhất là anh ít viết thư, mặc dầu thư ở ngoài gởi lên rất
nhiều. Tiền măng-đa của anh kí trên buồng giấy rất nhiều mà anh ít dùng tới. Thỉnh
thoảng biết đến những anh em túng thiếu vì không có sự chu cấp của bà con vùng
xuôi đoái tưởng đến thì anh lại rủ họ mua đồ ăn thức dùng vào số tiền gởi kho của
anh. Mỗi kì có phiên ở bên kia sông quạnh họp chợ Mường, Tây cho anh em ở căng
ai có tiền gởi thì kê những thứ định mua rồi uỷ cho người đi chợ. Người mua
bánh ngọt thuốc lá trà tàu, xà phòng, gà vịt, trứng, đỗ; người mua guốc nón,
diêm đinh; có người mua cả rượu lậu và ba ba núi. Đến lúc anh giữ việc kinh tế ở
căng hỏi Lịnh xem anh muốn mua những gì thì lần nào cũng vậy, anh chỉ cần có giấy
mực và bút chì. Chỗ giấy mực đó anh dùng để biên chép - chứ không phải để viết
thư hoặc trả lời thư như nhiều người - và để biếu các anh em người Thổ nghèo
theo lớp học chữ quốc ngữ do anh trông nom. Mỗi kì được phép viết thư trong tuần
lễ, anh toàn ngồi đề bì hộ anh em Thổ và cho tất cả anh em trong trại vay tem của
mình. Anh nghĩ đến anh rất ít và rất hoà nhã khi được chia sẻ với anh em. Kì tắm
giặt hằng tuần nào ở bên con sông quạnh là bánh xà phòng nửa cân của anh cũng vẹt
hẳn đi và nhiều khi tan hết ra bọt nổi ở mặt dòng nước rừng. Lịnh ít nói, nhưng
không trở nên người khó chịu; ít cười, nhưng vẫn tươi sáng và cái sáng ấy làm
lùi được bóng đen của nhà tù. Buổi sớm dậy, Lịnh luyện phép thở, ôn ít quyền
thuật với anh em Thổ rồi cắp bị nón đứng vào hàng. Không bao giờ Lịnh khai ốm để
đi nhà thương và nghỉ nhà. Ngày hai bữa cơm, có thức ăn hoặc không, anh cũng chỉ
ăn đủ ba lưng bát. Ăn cơm chiều xong, anh đi bộ quanh rào trại. Rồi lúc mặt giời
gần lặn để chiếu hết cho một ngày mất tự do, cái việc Lịnh lấy làm thú nhất là
được anh em lại cử cho đọc nhật báo - báo ở tỉnh vừa về kỳ thư - và phê bình thời
cục thế giới. Tình hình chính trị và ngoại giao các nước, Lịnh tinh suốt và thuộc
lầu lầu. Lúc cần phải ôn đến những biến cố xã hội trên khắp thế giới, Lịnh có
cường kí của nhà viết sử. Ngồi chót vót trên thang đu tập thể thao, đọc xong một
lượt tin tức trong và ngoài nước, Lịnh mới mổ sẻ đến cái chương trình Đại Đông
Á của Đại Nhật Bản (!) Phải nghe những nhời Lịnh vang rền lúc ấy thì mới biết đến
cái say sưa của môn thuyết khách và mới hiểu tại sao chúng ta không chịu ở yên
với trật tự hiện đại của sự vật. Lúc Lịnh ở chỏm thang leo xuống, tôi yêu Lịnh
quá, muốn nói đùa Lịnh rằng anh giỏi như thế, tin tưởng vào Cách Mệnh như thế
thì làm gì mà Tây nó chẳng bắt, ví Tây nó có tha anh ra bây giờ thì cũng lại đến
Nhật bỏ tù lại mất thôi, chứ ai cho anh yên ở ngoài đề lao để anh dựng trật tự
mới và xây đắp cái Thị Trấn Ngày Mai trên phá hoại gây ra theo đúng ý nguyện của
Cách Mệnh. Nhưng thấy Lịnh nghiêm chỉnh quá, tôi lại không dám đùa.
Tôi kính yêu Lịnh 2910 như một người anh cả trong cõi học và
trong cõi đức. Những lúc đi rừng hai buổi tôi thường cố điều đình với lính để
cùng đứng vào một kíp với Linh mà ra ngoài làm việc. Những người lính đáng yêu ấy
đã làm theo ý của tôi. Hễ thấy 2910 đứng vào kíp đẩy xe nước, thì họ lại tủm tỉm
chỉ vào tôi: “790! Cho 790 đẩy xe nước với 2910. Tha hồ mà đưa sách lẫn cho
nhau trong bụi sim nhé.” Hễ thấy Lịnh đứng vào kíp củi, mặc dầu là số người đi
lấy củi đã quá đủ số rồi, họ lại kéo tôi vào hàng ngũ đi củi: “Ấy, 790, trả cuốc
lại cho kíp đất. Cho đi lấy củi. Vào mà thay dao năm đi.” Rồi họ lại hóm hỉnh
mà cười sát vào tai tôi: “Tha hồ khuất mặt Tây mà đánh chén trong rừng với 2910
nhé!” Những người lính khả ái ấy đã lầm. Chẳng bao giờ Lịnh uống rượu. Người
đàn ông nào đã đi tù và đã từng lấy rượu ra để đánh lừa những ngày dài như
nghìn năm của mình, ai ngạc nhiên thì cứ ngạc nhiên đi, nhưng suốt một thời ở
căng với tôi, Lịnh 2910 không hề nhắp đến một chén rượu nào, mặc dầu rượu tù là
rượu quý, - quý ở chỗ khó khăn của hoàn cảnh - mặc dầu nhiều lần các ông đội quản
cai bên đồn đã giận Lịnh vì Lịnh từ chối những chén chân thành của họ. Về chuyện
rượu, tôi chỉ nhớ Lịnh thốt ra môt câu này: “Thử như ngày xưa thì tôi… thì…”.
Hôm ấy là tết Nguyên Đán, tôi nhớ cuộc đời tự do ở ngoài quá, lúc say ngày đầu
năm, tôi phá cả kỉ luật của anh em, làm kinh động cả trại an trí, suýt nữa quản
trại Tây phạt chung cả những bạn không uống. Lúc tôi tỉnh rượu, đang ngán ngẩm
với một rừng chiều mịt mùng sương lam, trước giờ điểm, Linh đến gần tôi, cho
tôi liều thuốc nhức đầu và nói với tôi một câu không hết ý như thế. Đánh bạn tù
với Lịnh, tôi hay gợi đoán đến cuộc đời tình cảm bên trong của Lịnh và tôi ngờ
Lịnh đã từng có một câu thề độc hoặc một nỗi oan khiên đối với rượu nên anh
tránh rượu, dẫu rằng chỉ nhắp một tí để mọi người ở cảnh tù vừa lòng trong một
cuộc họp mà chỉ có mượn đến rượu thì mới làm vui được thôi. Cơ thể người đàn
ông nào - thứ nhất lại là đàn ông bị đi đày - mà lại không chịu được một chén hạt
mít rượu trắng! Gia chi dĩ ở rừng tù, rượu, nếu uống theo một điều độ nào đó, lại
còn có công dụng trị được sốt rừng và giá ngự sơn lam chướng khí nữa. Hẳn phải
có một duyên cớ gì ghê gớm lắm thì cái người rất yêu cả trại đó mới không chiều
anh em cùng hội và cơ hội bên đồn canh đến mực không chịu nhượng bộ như thế.
Tôi cũng không gạn hỏi thêm Lịnh và không có mời Lịnh uống. Ăn chung mâm, bao
giờ 2910 cũng chỉ ăn cơm và hễ cơm tù có rượu thì chỉ một mình 790 tôi uống
thôi.
Lại một buổi chiều nữa, cuối xuân đất trích nhớ nhà, tôi say
và 2910 ngồi cạnh lập-là tôi, xem tôi say. Thời tiết cuối xuân sang hè, rừng
lim trổ hoa xám bỗng nổi cơn giông. Gió ngàn bị quấn trong kẹt thung lũng đâm
ra cuồng và cứ vật mãi vào hàng rào nứa tép của đất tập trung. Gió xoay quanh
căng chúng tôi đủ bốn hướng tám mặt. Mỗi lần gió đổi chiều, lướt qua những đầu
nứa vát tréo nhọn, cái hàng rào lại rung lên như một cây phong cầm đồ sộ bị hiếp
bởi một tay nhạc công cường bạo. Có những thanh âm gùn ghè gầm thét, có rất nhiều
cung bực của than thở. Tôi không tách được tiếng rỉ rền nào là riêng của hàng
rào nứa và tiếng oán tiếc thở dài nào là riêng của gió rừng biến động. Tôi chỉ
biết tai tôi đang nghe một thứ nhạc đàn đầy thanh âm tấm tức. Gió giông không
tìm được lối thoát lại càng nghẹn ngào và vật mình vật mẩy với mấy tường nứa rừng
nhọn hoắt. Bỗng Lịnh để nhẹ tay vào vai tôi: “Này nghe nó như các khổ dựng của
cây đàn dây ấy, 790 ạ”. Tôi vội đặt chén xuống.
Tôi nhìn trừng trừng vào mắt Lịnh. Tôi trông thấy rõ cái ảnh
đảo ngược của tôi trong tròng mắt Lịnh. Tôi muốn cả người tôi đi thẳng vào
ngưòi Lịnh bằng cách lọt qua hai cái lỗ của con người mở kia, để lòng tôi hoà
chung vào giữa cái lòng Lịnh, trên một nỗi niềm nhớ nhung gì. Chừng như Lịnh
cũng đoán được cái ý quái gở đó ở tôi, bèn nheo mắt lại và làm lệch nhỡn tuyến
ra phía khác.
Thế rồi rừng rú tan trận gió cuồng. Và điệu đàn gió ngạt thở
đang gục dưới hàng rào nứa tối dần với ngày tắt gió tắt nắng. Dư vị của bữa rượu
tù nhớ trung châu để lại nơi đáy họng tôi một chất bồ kết. Lịnh bỏ tôi đấy, đi
ra thang đu thể thao và bắt đầu đọc báo hằng ngày cho cả trại nghe.
Tôi cứ ngồi bệt đấy với chén rượu tàn. Câu nói vừa rồi của Lịnh
đã như một thứ nước cường toan làm bốc khói độc ở một thứ kim khí trong người
cũ tôi giắt theo lên đây.
Tôi vốn là một người hay la cà đắm đuối với tất cả những gì
là đàn sáo ca hát. Hát bộ, hát chèo, hát gõ. Ca Huế, ca cải lương Nam Kì. Tôi
đã đem một phần đời văn sĩ của tôi mà đặt vốn vào đàn hát. Lời lãi lấy về trong
khoảng rung động, không phải là không có, nhưng hệ luỵ tự gây lấy, thực cũng
không là ít vậy. Từ khi bị bắt, bị giam cầm ở ty Mật Thám rồi bị phát vãng lên
chỗ rừng xanh, cái tâm sự ấy tôi đã hắt trả cho cuộc sống dưới đồng bằng. Ngày
ngày ở căng làm việc tay chân - chém cây, ngả gỗ, đào đường, lợp nhà, đẩy nước,
vân vân - thể xác quần quật nhiều, cũng chẳng còn mấy tâm tư mà nghĩ đến chuyện
tơ trúc của thời tự do trước nữa. Vả chăng, có rảnh tâm lúc nào, thì lòng lại
chỉ tràn ngập những lo lắng về nỗi ốm đau và ý chết vì nước độc vì tai nạn lao
động trong rừng thâm. Một buổi chiều tù rừng nổi gió giao mùa, nỗi u hoài mở
toang lòng tôi và không bị ngăn ngừa mảy may, câu so sánh của Lịnh vừa rồi đã xộc
thẳng vào người tôi, làm tôi hoang dại ra mất vài hôm.
Rồi nó cũng qua đi. Cũng như bất cứ cái gì ở cuộc sống này.
Có một chút gì còn lại, là tôi lại ngờ thêm được một điều nữa về thân thế Lịnh.
Ngoài sự oan khiên về rượu, hẳn người bạn tù này còn đeo thêm một cái nghiệp
trái về âm nhạc.
Cách đây ít hôm, một buổi lấy nước ở bờ sông, ông đội kéo
riêng tôi ra một chỗ:
- Này, 790 có muốn nghe hát cô đào không?
-?
- Chuyện thực đấy mà. Để rồi rủ luôn cả 2910 nữa. Hôm trước
mình đi phép có việc ăn khao ở nhà quê. Đem cái bài hát nói của 2910 làm ra nhờ
cô đầu hát ở bữa tiệc đông, ai cũng khen hay, 2910 làm có cả mưỡu đầu mưỡu cuối.
Lão cứ củ mỉ cù mì thế mà tài hoa đáo để. Này, không cái gì là không biết. Chắc
trống 2910 cũng sắc tay lắm. Để ít hôm nữa, hàng cơ góp tiền thết tiệc ông Quản
được lên lương có mời ca công về hát, tôi dàn xếp để một số anh em sang sông lấy
cỏ. Vừa cắt cỏ quanh nhà ông Quản khao, vừa nghe hát cho nó đỡ nhớ những chuyện
dưới xuôi. Nhá!
Thế rồi đúng vào hôm hàng cơ thết tiệc ông Quản khố xanh ở
bên kia sông, chúng tôi sang sông cắt cỏ. Cắt cỏ là một việc nhàn nhã hơn là đi
ngả gỗ. Cắt cỏ nghĩa là gần như đi du thuỷ du sơn và lại cắt ngay gần chỗ cái
nhà có tiệc vui mà nghe vọng vào những tiếng đàn hát của mâm tiệc. Trong số mấy
người cùng đi cắt cỏ, bấy giờ tôi mới nhớ ra là thiếu mất Lịnh 2910. Hôm qua
như lời ông đội dặn khẽ, tôi đã bảo Lịnh là sáng nay thế nào cũng đứng vào kíp
đi cỏ. Lịnh gật gật, tỏ ý hiểu rõ đến những chi tiết ngầm của việc sang sông
này. Lịnh không có mặt ở đây lúc này, không thể là vì quên được. Chắc là vì một
lẽ gì. Những chuyện bất trắc hằng ngày như thế trong cái đời tù, làm sao mà
phòng ngừa tính trước cho hết được. Buổi chiều thuật lại cho Lịnh nghe về cái
buổi “nghe hát” bên sông, Lịnh chỉ điểm vào những nét cười giao thiệp, chứ
không tỏ ý kiến gì. Biết đến những điều này - ông đội lại kéo tôi ra chỗ vắng
mà phàn nàn riêng: “Tôi chắc 2910 không muốn đi hôm đó. Ra điều rằng không được
hoàn toàn là người chính hiệu của bữa tiệc ấy thì anh không dự. Những người có
tài và có chí như các anh, có bao giờ có những cái thèm khát tầm thường. Tôi biết
thế mà tôi cứ bảo các anh sang sông vì tôi tưởng rằng đấy cũng là một cách bất
ngờ để giải trí cho các anh ở trên rừng này. Nhưng thôi, để hôm có cái bổng lớn,
để hôm nào đủ tư cách, tôi sẽ tổ chức riêng một chầu hát, – cho nó xa đồn hơn nữa
- rồi tôi sang trại máy riêng các anh đi. Mấy anh thôi. Tôi sẽ bịa với Tây rằng
phải đi xa rừng, phải đem cơm đi, buổi trưa không về trại, cho nó nhiều thời giờ
hơn. Hôm ấy, các anh sẽ đánh trống uống rượu, tự do như là lúc ở ngoài ở dưới
xuôi ấy. Tôi cũng muốn có dịp nghe trống các anh lắm. Tôi đánh hẳn phải là quê
hơn. Chắc rồi 2910 phải bằng lòng. Các anh không nên bận tâm về những chi phí.
Cho một bọn thuốc phiện lậu đi lọt qua đồn này, thì là thừa tiền dùng chứ gì nữa.
Đó là cái lộc của đồn rừng trấn thủ, chứ tôi cũng chả mang của nhà lên đây mà
phá, các anh đừng ngại. Mấy khi lại gây được ra chuyện vui để giữ làm kỉ niệm
chung, phải không anh! Mà tên lính nào ton hót với quản trại Tây, tôi đã có
cách trị cho nó và có cách chống chế lại với Tây.”
Tôi lại đem câu chuyện này nói cho Lịnh biết. Lịnh biến hẳn sắc
mặt. Và kịch liệt tuyên bố không dự: “Nhưng mà các anh không nên bận vì tôi. Và
cũng đừng cho ông đội biết trước rằng tôi không đi hôm đó. Ngày mai tôi sẽ nói
với anh trật tự cho tôi lên làm phụ bếp trên đồn, không đi rừng trong ít lâu vì
người độ này cũng yếu lắm.”
Một buổi sáng rừng còn đọng sương. Ông đội hí hửng vào trại,
nháy mấy người chúng tôi và nói to lên là lấy bọn tôi đi rừng chặt tre đực và
phải đem cơm đi mà ăn buổi trưa trong rừng, đến chiều mới về. Chúng tôi hiểu ý.
Đến lúc ông đội và chúng tôi tìm đến Lịnh, thì Lịnh đã lọt lên đồn giữ việc phụ
bếp mất rồi. Ông đội tỏ vẻ thất vọng. Vì bây giờ sục được lên đồn để vào bếp lấy
lại 2910 mà cho vào kíp đi rừng thì Tây nó đâm nghi mất. Ông đội hay đi lại với
chúng tôi, vốn đã bị Tây nghi ngờ và để ý lắm rồi.
Chúng tôi đi sâu vào rừng, qua mấy làng Mường. Không có Lịnh,
ông đội buồn ra mặt. Buổi trưa ấy, đốn tre xong, người lính riêng của ông đội
có đem đến rượu và thức ăn thịnh soạn, nhưng không có cô đào hát. Ông đội cắt
nghĩa: “Thôi để hôm khác, ta nghe hát vậy. Hôm nay chỉ đánh chén thôi anh em ạ”.
Hình như ông đội biệt đãi riêng Lịnh và thiếu Lịnh thì ông không muốn bày ra
chuyện trống hát nữa. Nhiều người vừa ăn uống, vừa tỏ ý oán ghen với Lịnh. Trại
an trí, sau cái buổi họp trưa giữa rừng ấy, Lịnh hụt đi một số cảm tình. Riêng
tôi thì tôi chỉ thấy Lịnh có tính gàn. Và ích kỉ nữa. Ừ, mình không thích,
nhưng một số anh em đã thích, thì sao lại nên có cái thái độ ấy!
Chuyện trống hát ở giữa rừng cũng không bao giờ có nữa. Và
cũng chẳng ai mong đợi hoặc nghĩ đến. Mùa nước độc đã đến, - lá lim, quả ngái rụng
xuống mặt suối kể đã nhiều - ai cũng chỉ còn lo ốm thôi.
Bỗng một buổi chiều nắng như quay chín được người, tự nhiên Lịnh
đem chuyện hát ả đào ra thủ thỉ với tôi. Anh thông thạo lắm. Lịnh nói qua về
cái thái độ anh đối với việc ông đội muốn bầy điều vui bữa nọ. Anh kết luận:
“Chắc anh cũng hiểu nhầm tôi”.
Rồi tiếp, giọng xa vắng: “Tôi có một cuốn vở viết. Không hiểu
tại sao nó lại theo tôi lên đây. Trong túi dết này. Anh cầm lấy mà đọc. Không
có gì là dài cả”.
Tôi chui vào một bụi lau cao.
Vở mở bằng một trang đề: “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC”, dưới đề chua
một dòng nhỏ: “Ai hay hát mà ai hay nghe hát.” Vở nhàu bẩn. Chữ đúng là tự dạng
Lịnh, sắc và gọn.
“Ai hay hát mà ai hay nghe hát...”. Lãnh Út gọi Bá Nhỡ lên, bảo
ban về việc ngày mai điều khiển dân ấp Mê Thảo đi đánh cây cổ thụ ở suối Vầu:
- Em phải trông cẩn thận kẻo chúng nó làm gãy mất ngọn. Bắt đầu
vào dốc suối, đúng cái cây thứ ba về bên tay phải ấy.
- Thưa Cậu, phải qua sông?
- Không thể nào tránh sông được. Muốn đi lối nào thì đi, con
sông Tấm vẫn nằm giữa suối Vầu và ấp ta. Cậu đã vạch rõ cho chúng nó cách thức
đưa cây về ấp rồi. Nội trong ngày mai, phải đưa được cây về tới đây trước lúc mặt
giời lặn. Quá nửa đêm sẽ hạ thổ cây gạo. Cho kịp ngày kia giỗ Mợ Lãnh. Em có mặt
ở suối Vầu, chúng làm việc chu đáo hơn. Chậm trễ, hư hỏng, phần lỗi Em chịu lấy.
Sáng mai phải đi vào suối từ lúc chưa tan sương, không phải lên trình Cậu nữa,
để cho Cậu ngủ lâu hơn mọi ngày. Thôi cho Em xuống.
Trời sẫm rồi đen. Gió ngàn hôm lùa mạnh vào nương dâu. Cậu
Lãnh Út thắp cây sáp ong, ngồi bên án thư, lần giở lại tập thơ Mợ Lãnh gọt rũa
lúc sinh thời. Người chủ ấp Mê Thảo, qua những lời thơ di cảo đang mường tượng
đến dáng dấp ngôn ngữ người vợ chết sắp đến kì giỗ hết. Cậu Lãnh Út thở dài tiến
lại phía vách đối diện lửng lơ một bức tranh trung đường phong kín chỉ hé ra có
hai đầu trục. Cậu trang trọng gỡ múi dây, đỡ dần bức tranh thả vào lòng tay run
run. Giấy tranh bồi cọ loạt soạt vào tường phòng vắng rộng. Cậu Lãnh thắp thêm
một cây hoàng lạp nữa, đi lại trong phòng và lúc dừng bước ngắm vào tranh thì
thần thái trông thiểu não quá chừng. Lòng tranh lụa hiện lên một tấm hoạ mĩ
nhân. Ấy là một người đàn bà áo trắng đang ngồi chép sách trên một cái đôn màu
cốm, bên một khung cửa sổ có mấy tàu lá chuối già lọt vào. Màu xanh tái của
tranh gia thêm xa lạ vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm buồn lên vẻ nhớ vợ của
người ngắm tranh. Bức tranh trung đường ấy là bức truyền thần toàn thân Mợ
Lãnh. Nguyên trước ở tường ấy chỉ treo vẻn vẹn có một tấm hình bán thân Mợ Lãnh
do hiệu ảnh dưới tỉnh phóng đại theo hai chiều 24x32. Từ ngày Mợ Lãnh chết một
cách bất đắc kỳ tử, Cậu Lãnh đâm ra thù oán và ghét máy móc, Cậu đã cậy một họa sĩ trứ danh phỏng hình người vợ vào tấm này và huỷ tấm ảnh của máy chụp kia đi.
Mợ Lãnh bị vào cái tai nạn đoàn hoả xa lật úp xuống vực gần hầm Sen ga Liên Chiểu,
làm người quan phu Lãnh Út ấy đã trở nên một kẻ thù ghê gớm của thời đại cơ
khí, tưởng Tagore Ấn Độ cũng đến thế thôi. Thời đại khoa học phát sinh ra được
máy móc nào là Cậu ngoảnh mặt đi đến đấy. Thậm chí Cậu dằn dỗi với những vật dụng
cần thiết hàng ngày do đời cơ khí chế tạo ra. Ô-tô xe đạp máy bơm nước sông tưới
nương dâu, Cậu bán rẻ đi và cho không nữa. Cậu bán cả những ống chì dẫn hơi nước
để sưởi buồng nuôi tằm vào cữ tháng giá. Đến như máy và đĩa kèn hát, máy đánh
chữ, bút máy, lò cồn đun nước, đèn măng-xông, ống hàn thử biểu, lịch có ngày
tháng in bằng máy, Cậu đều vứt hết. Khẩu súng một nòng bắn đạn chì hoa khế trừ
mãnh thú và khẩu hai nòng bắn chim, Cậu gói làm một quẳng xuống khúc sông Tấm.
Tang lễ Mợ Lãnh vừa xong được một tuần chay thì quanh chỗ giới
hạn đất ấp Mê Thảo tự nhiên dựng lên mấy chòi canh. Ai ở các nơi vào đất ấp
Tháo - tục danh của ấp Mê Thảo - đều bị dân hàng ấp giữ lại khám xét rất kỹ xem
có giắt theo vật dụng gì có tính cách máy móc không. Có nhiều bạn của Lãnh Út bị
lẫn lộn đồng hồ mỗi lúc lên chơi ấp và lộn về. Ô-tô xe cộ của quan khách thường
bị gạt xuống dưới chân đồi xa.
Từ khi Cậu Lãnh thành người goá bụa, trong sự đãi đằng khách
khứa bà con lên chơi, Cậu Lãnh vẫn không giảm đi tí lễ nào và bớt đi khoản tiền
tiếp tân nào. Người chủ ấp Tháo vẫn có danh là rộng rãi. Nhưng dù sao, cái thái
độ phản khoa học và gàn ấy đã làm cho ấp vắng hẳn người các nơi lui tới thăm viếng.
Cả người thăm viếng và người mua bán.
Còn mồ ma Mợ Lãnh, ấp Mê Thảo phồn thịnh là thế mà giờ thì sự
làm ăn ở đấy rời rạc thưa thớt và vẻ ấp gầy rạc hẳn đi. Cái vàng óng nuột của tằm
ấp Tháo đã xuống hẳn màu tơ. Ở đấy sức hoạt động kinh tế chỉ còn gởi gấm vào những
chuyến nước ống luồng tưới dâu lấy lên khỏi lòng sông Tấm cách xa nương hàng mấy
mươi lượt đổi vai. Rồi để nối sự sản xuất và đổi chác của ấp với đô thị thương
mại, mươi chiếc xe bò bánh gỗ đặc gập ghềnh trên đường đất đỏ khập khểnh đã
đánh thụt lùi ấp vào đáy thời gian một đời sống trung cổ.
Ở đấy, giờ người ta sưởi cho tằm bằng than gỗ và tiết nóng nực,
có những đứa trẻ chuyên môn cầm quạt giấy phẩy phất cho tằm. Ông chủ ấy không mặc
đồ len vải có chỉ máy khâu nữa. Ông đã mặc thứ vải chàm của thổ dân gần vùng dệt
tay, giặt giũ bằng nhựa trái bồ hòn, đêm đọc sách bằng sức sáng của dầu ép. Lúc
giải trí, đi săn cầy bắn chim thì ông chủ ấp thù văn minh cơ khí đó đã có một
đàn chó dày lông, một cái nỏ và vài cái bẫy. Việc ấp giao dịch với bên ngoài xa
có cần kíp đến mấy đi nữa thì cái ông chủ sự Dây Thép ở tận cuối châu Tràng Sa
này cũng đừng hòng thu của Cậu Lãnh Út tiền một tấm điện tín nào. Và đám chủ
báo chí và xuất bản cục, hãy để yên cho người độc giả kẻ thù của máy in này. Đã
lâu, Cậu Lãnh không đi tỉnh nữa vì xuống đến đấy thì thế tất nhiên, tai mắt lại
sẽ phải thừa nhận cuộc đời cơ khí. Có lần người ta đồn rằng người Pháp mở rộng
chương trình đại công tác và vẩy thêm đường thiết lộ xuyên qua châu Tràng Sa, sẽ
bắc cầu qua sông Tấm men theo chân ấp Tháo, Lãnh Út mất ngủ đến nửa tháng và định
sẽ bán rẻ ấp đi nếu có bọn cán sự chuyên môn sở Hỏa xa nhô máy vào ngắm sơn
xuyên vùng ấy. Rồi Cậu Lãnh sẽ lùi vào rừng.
Mặt giời lệch bóng, ba chục dân ấp Tháo lực lưỡng bắt đầu thắt
cổ cây gạo sừng sững trên dòng suối Vầu. Nhiều múi thòng lọng dây thừng thít
mãi vào những cành to giang ra như cánh tay đầu hàng. Những cật người uốn cong
gò bấy nhiêu đầu thừng về một phía. Cây gạo xiên dần xuống rồi vật mạnh xuống
như một kẻ chiến tranh bị trúng độc kế ở mặt trận, làm tung bắn lên những thân
hình người đang oằn oại trên những đoạn luồng già dùng làm bẫy cắm chèn vào kẽ
gốc. Suối Vầu tung nước. Rừng Vầu vang bật lên một tiếng quật gốc già. Đầu rễ
cái gốc gạo nhựa rỉ tuôn tợ máu phun. Bọn người đánh cổ thụ ấp Tháo dúi ngang
vào dưới thân cây gạo rồi đẩy dần cây to xuống dốc. Đến những chỗ không thả đà
được thì họ lại lồng đầu thừng vào cánh nách mà kéo, vừa kéo vừa hò dô ta. Thân
họ vẹo về một chiều trước, như xống ngọn cỏ bị gió lùa mau.
“Một ngày đã ngả bóng dâu
“Trở về ấp Thảo tưới dâu (ta) chăn tằm… (dô ta)
“Rừng thiêng ta ngả cỗi sơn lâm (ta dô ta)
“Lần lừa ấp Thảo trông tằm (ta lại) thương dâu (dô ta)
“Con người rút ruột con sâu
“Đem tơ trả miếng lá dâu xót lòng
“Dô ta… ta ớ dô ta”.
Bá Nhỡ lẩm bẩm theo: “Ấp Tháo chứ lại ấp Thảo!”. Gỗ chạy ầm ầm,
lăn thấm qua những giọt mồ hôi người ngả gỗ. Tiếng đồng vọng dô ta làm chấn động
một cánh rừng bị thương và vang theo mãi xuống bến sông Tấm đã ken sẵn mấy bè nứa.
Bè trôi ra giữa sông đưa cây cổ thụ về bờ bên kia. Bọn người ấp Tháo lau mồ
hôi, dịt các vết thương, nói chuyện về ấp tàn, về chủ ấp cuồng và về cây gạo.
- Chơi lạ. Chỉ có Chúa Trịnh ngày trước thì mới giồng giọt
như thế. May chuyến này không ai bị cây đè chết.
- Cái gì cũng phải theo lẽ tuần tự. Cây to này đưa về rồi
cũng chết mà làm củi mục thôi. Sống thế nào được. Phải giồng nó từ lúc bé kia
chứ!
- Cây gạo thì quý gì. Gỗ nó chỉ dùng làm áo quan cho bọn
nghèo. Hoa thì chỉ quyến rũ được sáo đá và quạ thôi.
- Năm ngoái đã một cây. Lù lù đen sì giữa ấp như cột đồng trụ.
Mà chẳng một cành nào đâm chồi. Quý gì cái gối quạ lấy được trên cái tổ cây ấy.
Đen và tanh ngòm. Khéo không lại chạm vía yêu tinh và bóng các Cô các Cậu trên
rừng mà khốn thôi.
- Mà làm sao cứ đến kì giỗ bà chủ thì ông chủ lại bắt đi đánh
cây gạo về giồng ở ấp? Cúng à! Năm nay giỗ hết bà chủ đây. Sang năm có đánh cây
cổ thụ nữa không?
- Cơ màu này rồi cũng đến bán ấp. Cứ uống những trận rượu như
thế rồi phát điên phát cuồng lên thì còn lắm là dâu và tằm. Nếu ông chủ bán ấp,
lại chỉ khổ cho bọn mình bị gán thân cho chủ khác. Công nợ như mình, vợ con ăn
mặc đều tính vào dâu tằm người ta tự bao lâu nay, mỗi chốc vỗ được nợ mà đưa
gia đình về dưới xuôi được sao.
- Cây của người ta đang ra quả. Chỉ vì nó ở giáp hàng rào ấp
mình, cành quả nó ngả sang đất mình, thế mà đòi bẻ và nhận lấy nhận để là của
mình. Tai ngược hơn cả đàn bà một mắt.
- Mà người sao gàn dở đến như thế. Ai có cái máy bật lửa cũng
khám cũng phạt cũng cấm. Lắm khi định ăn điếu thuốc lào thì cứ như là thằng ăn
cắp.
- Say rồi đâm càn rỡ quá. Bò của người ta lạc vào ấp, ông ta
bắt người nhà giữ chân bò căng ra rồi xẻo lấy miếng thịt mông, nướng ăn tái.
Nhăn răng ra cười, kêu rằng chỗ mông cắt ấy sẽ thành sẹo cũng không hại gì ai.
Nói thế mà nghe xuôi tai được đấy!
- Thế đã khổ sở bêu riếu đâu bằng ông ấy hiếp cả người đi chợ
qua vùng đấy. Ban ngày, giữa chỗ Ngã Sáu Quán Chuột ấy. Quây màn ra giữa giời
mà làm được việc ấy giữa ban ngày thì có khổ cho rượu với chè không chứ!
Ba xe bò bánh gỗ đặc nối càng vào nhau đã chờ bên kia bờ. Cây
gỗ tươi trệu trạo sau vòng bánh lăn dần về Mê Thảo. Họ cứ nói chuyện. Và chỉ
riêng có Bá Nhỡ đi đốc thúc ở phía sau là hiểu riêng cái tâm sự của chủ ấp
thôi.
Bá Nhỡ nguyên có dính vào một vụ giết người dưới trung châu.
Tuy là tòng phạm mà cũng bị kêu án tử hình. Mợ Lãnh vì chút tình máu mủ xa, đã
bảo chồng làm cho y một tập lí lịch giả và cho lên ẩn náu luôn trên ấp Tháo. Bá
Nhỡ chịu cái ơn cứu sống ấy, ở với vợ chồng chủ ấp hết sức trung thành, việc tằm
tang ở ấp, tịnh không tơ hào lấy một xu. Ở vào chân quản gia trông coi cả ấp rộng,
Bá Nhỡ không một phút nào là lộng hành. Sổ sách hàng ấp, một tay y cả. Lắm việc
hiểm hóc quanh vùng, có khi chủ ấp không biết gì và đều là ở Bá Nhỡ hết. Bấy
nhiêu tuổi đầu rồi mà Bá Nhỡ vẫn xưng em với Cậu Lãnh. Mợ Lãnh chết vì nạn xe lửa,
Bá Nhỡ buồn hơn cả người chủ ấp trẻ tuổi gãy gánh tình. Bá Nhỡ có tài đàn hát.
Bất cứ nhạc khí nào, cái gì y chơi cũng thành ngón cả. Làn hát lắt léo nào, Bá
Nhỡ cũng uốn giọng theo được miễn là cho y được nghe một vài lần. Đán hát ấy Nhỡ
đem ra làm khuây cho chủ ấp. Lãnh Út chết vợ trẻ, đâm ra buồn phiền, xao nhãng
việc sản xuất, bỏ mặc việc cai trị trong hàng ấp, chỉ ngày ngày uống rượu, lắm
lúc say, phạm cả vào điều bạo nghịch làm cho dân ấp ta oán. Nếu không có Bá Nhỡ
thì ấp Mê Thảo tan rồi. Cậu Lãnh uống nhiều quá, lắm kỳ hụt cả vào tiền thuế trạch.
Một mình Bá Nhỡ lại vá víu bằng mọi cách. Mỗi lần Cậu Lãnh làm điều không phải
với dân hàng ấp những lúc tửu hậu, Bá Nhỡ lại dàn xếp và đền bù. Ấp Tháo vì thế
vẫn còn lay lắt nổi trong cảnh tằm tang và dân ấp cũng đều biết đến cái công ơn
người quản gia chịu khó và công bằng.
Cậu Lãnh Út buồn khổ đến đâu, cái buồn khổ ấy thấm sang tâm hồn
người quản gia trung thành đến đấy. Ngoài nỗi lo tính cho sự trung hưng kinh tế
của Mê Thảo, Bá Nhỡ săn sóc đến tinh thần Cậu Lãnh không một lúc nào rời. Bữa
rượu tối nào của Cậu Lãnh là cũng có người quản gia ngồi bồi rượu. Giữa những
chén rượu uống một hơi, Bá Nhỡ bình cổ văn, ngâm thơ Đường Luật và diễn lại cho
Cậu Lãnh nghe - theo một lối riêng - nhiều đoạn Kim Cổ Kỳ Quan, Đông Hán Tây
Hán Hậu Hán và Đông Chu. Lắm lúc mang đàn ra gảy. Lại còn sắm lẻ từng vai tuồng
một cho Cậu Lãnh xem. Chèo cũng thế. Có lần Bá Nhỡ một mình diễn vở Lưu Bình
Dương Lễ, lần lượt hết sắm vai nam lại sắm qua vai nữ.
Đôi khi chủ ấp có tang cũng nhoẻn cười. Nhưng cái vui đột ngột
gây nên bởi trò lại héo úa ngay trên chén rượu nhờ người thiên cổ. Một mình
không làm vui nổi cho Cậu Lãnh thì Bá Nhỡ lại cậy đến những đoàn thể chuyên
nghiệp. Bá Nhỡ cho dựng nhà rạp lên rồi cho đi tìm phường ca công, gánh hát
chèo hát tuồng ở các vùng lân cận về.
Nhưng, được hoà hẳn lòng vào cái vui của đàn trống múa hát ầm
ĩ ấy, vẫn không phải là Cậu Lãnh. Vẫn lại chỉ có đám dân bình dị cần lao trong ấp
Tháo thôi. Họ coi đó là những ngày hội hiếm có và sau những kì chơi hội đó thì
họ lại cần cù thêm với việc tằm tang. Bá Nhỡ cũng tự an ủi được ít chút về chỗ
tổn phí. Rảnh việc điều động ấp, nhìn trộm Cậu Lãnh, người quản gia đáng quý ấy
thường tự hỏi mình: “Làm thế nào cho sức của người trẻ tuổi này được hồi sinh với
sự sống hiện tại? Lòng kẻ chung tình ấy cứ chuyên hướng mãi về một phía tuyền
đài thì rồi ấp này đến tan mất và rồi người chủ ấp trẻ tuổi tội nghiệp ấy cũng
đến kết quả cuộc đời ở một nhà thương điên nào. Sống, đâu có phải là ngồi ì ra
đấy để chuyên tâm nhớ một người vợ chết. Nhớ thương một cách tiêu cực. Phải cho
Cậu Lãnh tục huyền với đời sống mới được”.
Quá đêm, cây gạo đánh ở suối Vầu về đã chôn đứng trước nhà
khách Mê Thảo. “Phải, vào giờ này, chuyến hoả xa ấy lật úp xuống vực gần hầm
Sen đây.” Lãnh Út còn lẩm bẩm những câu gì nữa rồi mới chịu trở vào phòng thay
quần áo thường ra thành đồ chế phục. Mọi khi dùng hoàng lạp, đêm tiên thường kì
giỗ hết Mợ Lãnh, chủ ấp cho thắp toàn nến trắng. Cậu Lãnh lại mở và thả bức
tranh trung đường xuống. Cậu quấn dối xong mấy vành khăn vải trắng, quỳ xuống
và hướng vào lòng tranh lụa, dâng một tuần rượu.
Ngoài hành lang, dân hàng ấp đem vàng nhang trầu rượu lên góp
vào ngày kị bà chủ ấp. Bá Nhỡ thu nhận lễ vật và xua tay nhẹ nhàng bảo họ lui dần
đi. Vì trong nhà đã bắt đầu có tiếng khóc.
Cậu Lãnh khóc to dần mãi lên, gợi đến cái thống khổ của toàn
thể một đám chuyển cữu. Nỗi lâm li lọt xuống từng gia đình dân ấp rải rác quanh
đấy. Họ lây nỗi buồn riêng, thương cho chủ ấp và nhớ đến người hoá ma. Khác hẳn
mọi đêm thường, chim cú vùng Mê Thảo tắt tiếng cầm canh. Rồi tiếng khóc vụt rống
lên in hệt cái tiếng người rừng - mình mẩy mọc lông móng chân móng tay hoá ra
vuốt - bỗng phẫn nhớ đến nhân loại bị xa cách lâu ngày. Cơn khóc rống đã đổi
sang thành tiếng hú hồn. Gió hiu hiu trên nương dâu, kéo lê thê những tiếng thảm
rợn ấy xuống những vùng phụ cận thấp xa.
Cất cơn khóc, não cân bị kích động, Cậu Lãnh không tài nào ngủ
được. Cậu Lãnh lại đem rượu ra uống. Khác với mọi đêm chỉ uống rượu suông, bữa
rượu này lại dùng đến đồ nhắm. Ấy là một mâm nhộng rang lối văn hoả, lòng mâm
lót lá dâu da, ngọn mâm rắc lá chanh thái chỉ. Sinh thời, Mợ Lãnh bữa cơm nào
cũng ăn nhộng, cho rằng nhộng là một giống sạch nhất và tin rằng ăn được nhiều
nhộng thì tóc sẽ mượt óng. Kỳ giỗ này cũng như kỳ đầu trước, trong các món dâng
cúng ở bàn thờ, Bá Nhỡ vẫn nhớ đến cái hèm này của người đã khuất và cho đặt
lên một mâm đồng bạch nhộng rang rất to, đường kính mâm hai thước ta, phải để
riêng một bàn.
Dờ đến nai rượu uống dở đêm trước thì hũ không còn lấy một giọt,
Cậu Lãnh tìm cái mõ cá lớn, cầm dùi đánh bảy tiếng. Đấy là một ám hiệu trong ấp
dành riêng cho người chuyên giữ việc rượu cho chủ ấp. Đánh hết bảy tiếng ấy mà
chưa lên thì lại đánh tiếp bảy tiếng khác.
Người giữ việc rượu đã chạy lên, thở hồng hộc:
- Dạ, bẩm Cậu, ở hũ lớn cũng chỉ còn độc một bình.
- Vậy thì cho đào một hũ mới.
- Dạ đào về phía nào?
- Chỗ nào có chôn thì đào.
- Dạ nguyên là từ năm ngoái, cụ Quản (tức là Bá Nhỡ) đặt tên
cho nhiều thứ rượu tuỳ theo từng lứa cất. Mỗi lần hạ thổ cụ đều có ghi tên và
ngày tháng bằng dấu vôi. Lại còn nhiều hũ cơm mới tra men cũng hạ thổ. Con không
được tường lắm, sợ đào nhầm, sẽ bị cụ Quản quở.
Cụ Quản - Bá Nhỡ - đã hiện vào. Vẫn hay rằng hiệu lệnh bảy tiếng
mõ là để gọi riêng người dân ấp giữ việc lấy rượu, nhưng bao giờ đào đến rượu
chôn là chẳng phải có Bá Nhỡ dòm nom đến. Cái người phụ việc kia thì có biết
gì. Và đến Cậu Lãnh thì càng không biết đến gì nữa, ngoài cái việc cố hữu là
say và thương và nhớ.
Bá Nhỡ lên tiếng: “Bác xuống kho lấy lên đây hai bó đuốc, lưỡi
mai và cuốc bàn.”
Cảnh ấp, những đêm đào rượu chôn, trở nên quái đản. Khách qua
đường đêm vắng, tưởng đấy là một vụ chôn của hoặc là đào mả trộm.
Hướng vào nhà khách và cách nhà khách độ ba mươi bộ, có một
cái gò con. Chỏm gò phất phơ toàn một giống thạch sương bồ. Sườn gò, đây đó ít
gốc rền tía. Gò ấy, chính là huyệt rượu. Bá Nhỡ chôn cơm men và rượu cất ở mả
rượu ấy. Ngoài Bá Nhỡ ra, cấm dân ấp không được ai lai vãng gần tửu phần. Tửu
phần đã phân ra từng khu đông tây nam bắc và chia từng hàng luống như ở một
nghĩa trang sơn thôn. Trên các khu và các luống tửu phần, có những thẻ tre sơn
vôi trắng, viết chữ đen và sơn đỏ, có thể lẫn với bài bùa phù thủy. Ấy là Bá Nhỡ
ghi ngày tháng từng lứa rượu và đặt tên cho từng mẻ rượu, lắm thứ tên những
nghe không thôi mà đã muốn đem cái vui buồn trong lòng ra gởi ngay vào đấy. “Vô
Cố Nhân” - “Mê Thảo Hầu” - “Thuần Hoành Quận Chúa” - “Ức Sấu Viên”. Đến cái tên
sau cùng này trong cách tìm chữ đặt tên riêng cho rượu ấp thì Bá Nhỡ đã bày rõ
cái thân mật tình cảm mình đối với tâm sự của chủ nhân Mê Thảo. Chữ Sấu Viên là
tên hiệu riêng của Mợ Lãnh lúc làm thơ, Mợ Lãnh qua đời rồi, thấy Cậu Lãnh nhớ
vợ quá, Bá Nhỡ bèn đặt việc ấy vào một cái tên rượu. Đêm đêm nhớ vợ chủ ấp lại
uống hàng chục chén và có khi hàng vò “Nhớ Con Vượn Gầy”! - người Mợ Lãnh vốn gầy
và hai tay rất dài. Gợi cảm thay! Và cũng tốn nước mắt thay! Khi uống đến thứ
nước say ấy, chính Cậu Lãnh đã ốm nhiều trận vì những đêm suông bên cạnh vò
sành “Ức Sấu Viên”, tiếng khóc vượt qua mấy lần nương dâu trĩu sương cành.
Cỏ gò chôn rượu bừng dậy chật xanh bóng thạch sương bồ, bên
cái sáng bốc khói của đuốc lớn. Người phụ việc cầm cuốc, Bá Nhỡ cầm mai, hì hục
đào. Những tiếng đục đục loài kim khảo ruột loài thổ. Lặng lẽ hơn hết là cái
người chủ ấp ngồi trong phòng đợi rượu đào. Ánh sáng thản nhiên của bạch lạp tỏa quanh áo tang khăn trắng người tửu đồ tình chung đang vò võ đối mặt vào tranh lạnh.
Một hũ “Vô Cố Nhân” đã lấy lên khỏi sườn gò. Lau rửa sạch, Bá
Nhỡ kính cẩn đưa nó lên bàn rượu và Cậu Lãnh kính cẩn cậy nắp gắn kín trám đường.
Chén “Vô Cố Nhân” trôi vào cuống họng thì gà trong thôn ấp gáy lần thứ ba. Bó
đuốc của người phụ việc lấp lại huyệt rượu gò đang lụn tàn đóm, xèo xèo trên cỏ
dầm. Vài con rắn cạp nong trườn từ hang ra, nuốt những tàn lửa đã nguội.
Cú rừng giờ mới rủ nhau đổ một hồi tan canh. Sáng hẳn rồi, mà
Cậu Lãnh chưa tàn bữa rượu giỗ, Cậu uống đến đâu, mồ hôi cứ theo chân tóc mà
tuôn chảy. Rồi cậu cầm một lưỡi kiếm cũ, chạy ra vườn chuối, gặp cây nào là
chém ngang vào thân cây ấy. Tiếng thân chuối gãy gục và tàu lá toạc rách, làm
chấn động cả cái ấp ngái ngủ.
Sau trận rượu giỗ hết Mợ Lãnh, không lần nào người say rượu ấy
khóc nữa. Chỉ có mồ hôi trào ra nơi các đầu sợi tóc thôi, hình như để thay cho
nước mắt cạn. Bá Nhỡ càng lo, khi thấy chủ ấp không nói một tiếng nào, không
khóc một lần nào. Có việc gì cần lắm, Cậu Lãnh chỉ cầm bút mà viết ra thôi. Bá
Nhỡ ngờ rằng tâm con bệnh này đang nhảy sang một giai đoạn trầm trệ khác. Bá Nhỡ
lại cầu đến bọn đàn hát nhà nghề để cứu vãn cái tâm hư ấy. Lại chèo, gõ, bộ,
các phường hát có tiếng đều được quản gia vời vào đất ấp. Cậu Lãnh dở chứng, xuống
bút ra lệnh bãi hết những cuộc vui ấy. Một điều lạ nữa là Cậu Lãnh cũng không
thèm uống rượu nữa. Rượu của mẻ cất nào Cậu cũng chê là có mùi nước lã. Để thay
vào sự uống rượu, chủ ấp bắt mua pháo để đốt. Pháo bánh kêu không được to thì
mua diêm sinh về chế hóa mà làm ống lệnh. Tằm, giật mình, chết cứ từng lứa. Lắm
lứa đang chín, bụng đỏ ửng và trong suốt như là hổ phách, sắp kéo tơ mà chết cả
vì tiếng pháo của người cuồng. Dân ấp, những người không có gia đình, đã có một
số bỏ trốn đi. Bá Nhỡ ngồi chờ cái ngày tận thế của Mê Thảo.
Chủ ấp thôi không uống, không khóc, không nghe đàn hát nữa
thì trông càng thê thảm vô cùng. Cả ngày cả đêm cứ ngồi sững mà nhìn tranh,
dáng điệu như nhà sư nhập định, mắt không nhắm, miệng không mở lấy một tiếng.
Cậu Lãnh ngồi im như thế được một năm, bóng in hẳn vào tường,
đường viền quanh bóng in trông sắc gọn như nét cắt. Lấy nước cọ không đi và lấy
vôi đặc quét lên mấy lần, cục bóng xám trên vách ấy vẫn cứ hiện bật lên. Thân
hình Cậu Lãnh khô sắt chẳng khác gì thân hình kẻ vận hoả tâm ra để tự diệt
mình. Những lúc Cậu bất đắc dĩ phải cử động thì tứ chi cậu cứ như là chân mượn
tay mượn, bước đi không thật nữa và tay cầm đến vật gì thì đều sai lệch đổ vỡ hết
cả. Còn cái khối óc thì hình như là đã trót cầm cho Rượu và cho Tương Tư, cầm
lâu ngày quá đến không chuộc được về nữa rồi. Cậu Lãnh đã đến cái bực lỳ. Một
hôm chợt thấy bóng mình trong gương đứng và từ đấy cũng không dám rửa mặt và
thau nước nữa. Trông thấy bất cứ cái gì lấp loáng như mặt nước đọng là Cậu rúm
người lại; nỗi hốt hoảng ghê rợn hơn cả người mang bệnh nọc chó dại.
Bỗng một đêm mưa to gió lớn, chủ ấp choàng dậy, vớ lấy chiếc
mõ cá mốc meo, đánh một hồi bảy tiếng. Đã lâu lắm những đêm Mê Thảo không bị
khua động vì thứ hiệu lệnh gọi rượu này. Giữa hồi mõ thứ hai thì Bá Nhỡ đã lên,
mình khoác chiếc áo tơi đêm mưa.
- Em lấy rượu Cậu uống.
- Ừ.
- Một năm nay Cậu từ rượu. Tửu phần vẫn bỏ hoang và rượu chôn
vẫn nguyên đấy. Gắn kỹ, chắc hương vị vẫn giữ được. Để cho đào ngay lên Cậu
xem.
Thấy chủ ấp đòi uống, Bá Nhỡ mừng rỡ cuống quýt. Hình như người
quản gia được yên lòng hơn khi chủ ấp lại trở về với thói tật cũ. Ngắm chủ ấp cầm
lại cái chén đã bỏ quên hằng năm, Bá Nhỡ lấy làm hân hoan lắm và tự nhủ thầm:
“Cậu cứ uống đi. Rượu đã có Em này cất cho Cậu không bao giờ thiếu lấy một giọt.
Còn việc làm ăn trong ấp, cái kén tơ cái lá dâu, thuế má công xá người làm, Cậu
cứ mặc Em tính liệu. Miễn là Cậu đừng buồn, may ra ông Giời mà thương lại, xui
cho Cậu lại tục huyền với đời sống - đời sống nhiều khi cũng lạ chỉ tượng trưng
bằng cái hình ảnh cụ thể người đàn bà muôn năm! - Cậu lại tục huyền mà hồi dần
lại với cuộc đời cần lao như ngày cũ thì Em này vui sướng biết đến đâu! Cậu cứ
uống đều đều đi. Uống cho triền miên ngày tháng đi”.
Rượu vào, Cậu Lãnh lại nhớ đến đàn hát đã bẵng đi một năm
tròn. “Này Em, cái Cô Tơ ấy độ này ở tỉnh hay nhà quê nhỉ? Hôm nào Em bảo Cô
hát lại cho Cậu nghe. Một cây đàn đi theo với cô ta thôi. Giờ Cậu sợ những cái
gì là đông đúc ầm ỹ”. Câu nói của Cậu Lãnh thốt ra lúc ngà ngà, rồi tửu đồ cũng
bỏ đấy và quên mất. Nhưng Bá Nhỡ thì quên thế nào được. Bá Nhỡ để tâm việc tìm
Cô Tơ. Cho người đi tìm không ăn thua gì, Bá Nhỡ thân hành đi tìm lấy, lòng hửng
lên như buổi mai ngày hè. “Cậu Lãnh rồi có lẽ khỏi. Phải, Cậu mà không nghe đàn
hát tức là hỏng rồi đó, tức là bệnh không thuốc nào chữa nổi nữa. Trừ phi không
đủ điều kiện thì thôi, chứ con người ta sống ở đời, có ai mà lại không nghe đàn
hát bao giờ. Đến người chết rồi cũng còn muốn nghe nhạc nữa là”.
Nghe nói Cô Tơ dọn nhà hát ở bất cứ chỗ tỉnh thành nào là Bá
Nhỡ lộng hiểm mà tìm đến, chấp cả cái việc người ta có thể dò biết cái án cũ tử
hình còn treo trên đầu mình. Đi thông mấy tỉnh mà đều không được gặp, Bá Nhỡ
bèn tìm hẳn về làng nguyên quán Cô Tơ. Quả như điều dự đoán, Bá Nhỡ đã gặp người
danh ca, ở một nếp nhà gianh vùng quê Nhộn. Ông Chánh Thú - chồng Cô Tơ - mất
đi rồi là Cô không dọn nhà hát ở tỉnh nữa, lùi về quê sống cái đời người thôn nữ
làm việc với đồng áng sương nắng hai mùa. Lúc Bá Nhỡ lần về đến quê Nhộn thì Cô
Tơ đang làm cỏ ở ruộng ngoài chân đê, phải cho người đi tìm về.
- Cô đã về. Có lẽ Cô quên tôi rồi. Tôi ở trên ấp Mê Thảo mà
Cô đã có lần lên hát, cách đây gần ba năm.
- Ông tha lỗi cho. Chúng tôi quên mất thật. Đời chúng tôi đi
hát nhiều nơi quá, thật không nhớ cho hết được. Dạ ông cho tìm về, hẳn có điều
gì dạy bảo?
- Chúng tôi đi mấy tỉnh tìm Cô. Nay được gặp, thật cũng bõ
cái công lặn lội. Chũng tôi muốn tỉnh Cô về trên ấp chúng tôi hát một buổi.
Cô Tơ không trả lời ra sao, đẩy chén nước mời về phía Bá Nhỡ,
tay sửa lại vành khăn tang. Giời chiều đã nhuộm vàng cây cau ngoài sân, chủ nhà
xin phép ông khách cho lùi sang buồng bên để thắp tuần hương chiều thường lệ ở
một cái bàn thờ. Lúc trở ra, ngồi ăn giầu, Cô Tơ nói chuyện với khách: “Chẳng
nói giấu gì ông, từ khi ông Chánh nhà chúng tôi mất đi, chúng tôi không cầm đến
lá phách nữa. Bất nhẫn lắm, ông ạ. Bởi vì hát lên thì lại động đến vong hồn người
đàn ngày xưa, ông ạ. Không biết ông có nghe qua đàn ông Chánh nhà chúng tôi lần
nào không nhỉ! Tội lắm ông ạ. Bây giờ, chúng tôi giải nghệ rồi, sống cái đời
goá ở chỗ thôn quê, được cái cũng nhàn và đủ ăn đủ mặc. Phần ngựa xe trên tỉnh,
chúng tôi nhường lại cho các chị em đồng nghiệp còn trung thành với nghệ với tổ.”
Bá Nhỡ tưởng đấy là một câu khách sáo, cười một cách giao thiệp.
Sẵn cơm rượu bưng ra, Bá Nhỡ ăn uống tự nhiên như người nhà và nhân tiện ngày hết
đã lâu, cũng nhận luôn lời chủ nhà giữ lại nghỉ đêm ở đấy. “Ở vùng chúng tôi,
hàng quán xa quá và không được tươm tất. Chẳng mấy khi ông về đến đất cổ lậu
này, mời ông nghỉ chơi lại, sớm mai hãy đi. Đêm hôm ông có cần dùng điếu đóm nước
nôi gì, xin cứ gọi đứa bé nằm ở chõng tre kia.” Thế rồi chủ nhà kiếu lùi xuống
nhà ngang và Bá Nhỡ cũng đi ngủ ngay, định ngày mai sẽ nói chuyện tiếp với Cô
Tơ về nhật kì khởi hành lên ấp và định về chỗ tiền thù lao.
Sớm ngày sau, sau tuần nước, lại có cơm rượu bưng ra nữa. Cô
Tơ xin phép ăn riêng ở nhà ngang. Lúc Cô Tơ trở lên thì Bá Nhỡ đang ăn tráng miệng,
nhồm nhoàm nói: “Vậy hôm nào Cô lên được ấp chúng tôi, xin Cô nhất định cho để
chúng tôi cho người về đón.”
Cô Tơ cười nhẹ và khoan thai nhắc đúng lại những câu hôm qua
đã nói với ông khách. Cô thêm: “Chẳng mấy khi ông lần về đây tìm chúng tôi, thực
là quý hoá quá. Không nhận được nhời với ông lên hát trên ấp, thật là phụ cái bụng
quý của người tri âm lắm. Nhưng không thể làm sao được. Ông miễn chấp cho.” Bá
Nhỡ chào ra về, bụng nghĩ có lẽ Cô Tơ không nhận nhời ngay vì chưa có người kép
nào xứng đáng để cùng lên ấp, đi với người đàn kém sợ phí tiếng đi. “Thì ta sẽ
làm người kép đó trong một buổi chứ sao. Ta không rõ ngón đàn ngày trước của
ông Chánh Thú chồng cô ta ra sao, nhưng Bá Nhỡ này có cầm đến cây đàn đáy thì
cũng không đến nỗi là những tiếng bật bông. Rồi xem. Có lẽ ta đánh đàn đáy vào
hôm đó. Đỡ được một tay kép ngoài. Cuộc vui sẽ thân mật hơn, Và ý Cậu nhà cũng
chỉ muốn ít người thôi.” Trên con đường trở lại Mê Thảo, người quản ấp vui tươi
như hôm vừa rồi thấy Cậu Lãnh đòi uống lại.
Một tháng ròng, Bá Nhỡ cho đón một người kép nghiện về ấp để
luyện lạ ngón đàn đáy, cung đốn thầy đàn quá là phụng dưỡng cha già, chỉ đinh
ninh hễ thành thuộc hết cái bí mật của nhà nghề khi đã ghim được rồi, là sẽ hạ
sơn đón Cô Tơ mà xóng tơ mình với trúc người, - ít ra là một lần này - để Cậu
Lãnh có dịp đầu thai lại vào đời sống.
Mà tập đàn đáy đến như Bá Nhỡ thì tức là cướp cả nghề của kép
nghiện đấy. Bá Nhỡ không thèm buông một tiếng tơ nào. Đã bấm đến tiếng đàn nào
thì tiếng đàn ấy cứ chín nục đi. Không một chữ nào sượng. Tưởng có đi đàn thờ ở
một cửa đình nào, thì ông thần làng lấy giải cũng không bắt được Bá Nhỡ đàn lỗi
ở bất cứ khổ nào. Trông Bá Nhỡ thắt cổ chó mỗi lúc nối dây, xinh đáo để. Mà người
tỉ mỉ đến thế là cùng. Không một bộ phận cỏn con nào của nhạc khí lôi thôi kềnh
càng ấy mà Bá Nhỡ không thuộc. Không nói gì đến cái quá giang cái thú của đàn,
đến như cái mõ phím đàn, cái vú đàn, Bá Nhỡ cũng tò mò đến. Thế rồi những ngón
đàn như vê, lẩy, chụp, vuốt, nhấn, những tiếng thoảng, những chỗ xoè, Bá Nhỡ đều
nhập tâm cả coi cũng như là công việc sổ sách hàng ngày trong ấp tằm.
Bá Nhỡ đi bào lại một cây đàn đáy cũ, thành bằng gỗ trắc đã
lên nước, tang bằng gỗ ngô đồng Chiêm Thành. Gỗ mặt đàn in sâu những thương
tích của nghề do cái đầu gảy muôn thuở của cao bực tiền chủ đàn đã cẩn mãi vào
tang. Bá Nhỡ lìa Mê Thảo, ôm cây đàn cũ ấy về quê Nhộn.
Lần này, gặp Cô Tơ, Bá Nhỡ nói ngay: “Có lẽ Cô sợ không có
người đàn nên lần trước, thỉnh Cô, Cô không chịu đi. Lần này tôi đem luôn cả
đàn xuống, đàn thử Cô thẩm âm mấy khổ, hễ Cô thấy không đến nỗi sượng lắm, thì
Cô nhận lời mời nhé!” Thế là ngồi vặn trục, thử lại dây, Bá Nhỡ đàn luôn.
Tùng tung tếnh, dênh dênh a dênh
Tùng tung tùng tung tùng tếnh tùng tung tụng, tung tùng tếnh
tùng tênh tùng tung (xòe)
Tùng tếnh tang tùng tang, tùng tang tếnh tang
Tếnh tênh tang tùng tếnh tênh tang
Tếnh tùng tếnh tênh tang
Tùng tếnh tùng tênh tang (xòe)
Đầu tiên, Cô Tơ còn bỡ ngỡ với những tiếng đàn mà đến mấy năm
nay Cô coi như là việc cổ tích đã cất vào cái tủ mọt nào rồi. Ông Chánh Thú chết,
Cô liền không cho tai mình nghe bất cứ tiếng đàn nào của người đàn ông nào. Cô
chưa hết ngẩn ngơ thì Cô đã phải chú ý đén ngón đàn khuôn của ông khách. Những
chỗ buông bắt, sao mà giống cái nghệ thuật ngày xưa của ông Chánh Thú đến thế.
Miệng Cô mấp máy, cổ họng muốn dặng hắng, Cô muốn hít hơi cho đầy hai lá phổi.
Cánh mũi cô phập phồng nhẹ, Cô muốn hát vo theo những khổ đàn của Bá Nhỡ cứ như
thấm mãi vào người. Cô muốn quỳ xuống mà lạy tổ muôn lạy và hối vì đã có ý muốn
giải nghệ. Bá Nhỡ để nằm cây đàn xuống giường, đầu dọc đàn đụng vào tà áo người
chủ nhà góa. Cô Tơ nhích ra, thở dài.
- Cô có thể cùng đi với tôi lên trên ấp ngay giờ chứ?
- Biết nói thế nào cho phải với ông bây giờ. Chúng tôi cũng
chẳng lấy làm cao quý gì cho lắm để ông phải vời đến mấy lần. Ngày trước thì lại
chẳng được gặp những bực như ông cho. Tôi không thể nào đi hát được nữa ông ạ.
- Đàn tôi còn non, Cô sợ tôi không ghim nổi chăng?
- Không phải. Đàn ông chín lắm. Nghe đàn của ông, đến người
đá cũng phải bật ra tiếng hát. Tôi nói thực đấy ông ạ.
- Vậy sao Cô không chịu nhận nhời mời? Phách, tôi chắc Cô không
quên được rồi, dẫu có bỏ lâu ngày đến đâu đi nữa. Hay là Cô chưa được khỏe?
- Thưa ông, tôi không đau ốm gì cả. Thôi ông chịu phiền vậy.
Để tôi cho tìm một người bạn tôi ở thôn dưới về ấp hát hầu các ông nghe vậy.
Cũng gần đây.
- Nếu Cô không nhận nhờ cho thì Cậu Lãnh chúng tôi cũng không
dám phiền đến ai. Nếu Cô ngại điều gì, thì chỉ dám phiền Cô cất công đi cho một
lần này thôi. May ra mà Cậu Lãnh tôi khỏi được, thì chúng tôi chịu ơn Cô nhiều
lắm.
- Nghe hát, khỏi được! Khỏi gì ạ? Ông nói thêm cho chúng tôi
rõ.
Bá Nhỡ liền đem tình cảnh ấp Tháo và bệnh tình chủ ấp kể tường
tận cho người đào nương nghe. Cô Tơ lấy làm suy nghĩ quá.
- Thế này ông nhá. Đáng nhẽ thì chúng tôi cũng không nói ra.
Vì nó là một câu chuyện kín ở trong nhà, riêng đối với một người đã khuất.
Nhưng ông đã đem việc trên ấp mà kể cho chúng tôi nghe, chúng tôi cũng không
dám giấu ông về cái tâm sự của tôi nữa. Và khi tôi thuật xong ông nghe rồi, ông
đừng nhắc lại chuyện lên hát trên ấp ông nữa nhá!
- Xin Cô cứ kể cho nghe đã.
- Đây là một câu chuyện nhà, tưởng không bao giờ có thể bận đến
ta ông. Số là lúc ông Chánh nhà chúng tôi nằm xuống, vợ chồng thương yêu nhau
quá mà không làm thế nào để cưỡng lại được mệnh giời, chúng tôi có thề độ với
nhau một câu. Là vắng chồng rồi thì thề không uốn một tiếng hát nào cho thiên hạ
nghe nữa, trừ phi… trừ phi lại có người nào dám cầm đến cây đàn đáy cũ của chồng
tôi mà đàn lên lúc tôi gõ. Lắm lúc nhớ tiếng hát mình quá và lại thêm công việc
nhà nhiều khi thiếu sự chi dùng, chúng tôi cũng có ý rời quê lên tỉnh để dọn
nhà hát lại. Nhưng cứ nghĩ đến nhời thề đối với cây đàn của chồng mà lại không
nỡ, mà lại không dám…
- Tôi ngắt Cô một chút. Thưa Cô, tôi tuy không tài giỏi, bằng
ai, nhưng tôi dám đàn vào cây đàn của Ông Chánh Thú. Ít ra là một lần trong đời
tôi. Tiếng đàn hay hay không hay là ở ngón đàn của người đánh chứ có phải là của
riêng nhạc khí đâu. Nếu có chiếc đàn của ông Chánh đấy, xin phép Cô cho tôi thử
một vài khổ, xem nó khó khăn đến thế nào.
- Ông để tôi nói tiếp. Nguyên cây đàn đó hình như có phù chú
yểm bùa biếc gì ấy. Tang đàn làm bằng nắp ván thôi cỗ quan tài một người con
gái đồng trinh. Hồi còn mồ ma nhà tôi, cái đàn ấy cũng đã sinh ra nhiều chứng lắm
rồi. Về sau này, cứ vào những đêm tối giời, thành đổ mồ hôi cứ vã ra như tắm và
thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và vật mình vật mẩy với bức vách, cứ lủng
củng suốt đêm. Thấy thế mãi rồi nó cũng quen đi, chứ mấy lúc đầu, tôi sợ lắm. Vả
chăng, vì có sự nhớ thương mà rồi cũng đỡ cái nỗi kinh hãi đi.
- Cây đàn ông Chánh đổ mồ hôi và thở dài?
- Vâng. Tôi không dám buộc ông tin những điều ấy. Nhưng việc
đó ở nhà này, đàn bà chúng tôi thường vẫn thấy có sự linh ứng luôn luôn.
- Cô có thể cho tôi nhìn qua cây đàn ấy không? Hiện có ở nhà
này chứ?
- Dạ vâng. Dựng ở cạnh bàn thờ. Nhưng tưởng nói qua ông nghe
thế là đủ và chẳng cần ông phải xem đến.
- Không, Cô cứ cho tôi đứng cạnh nhìn qua. Với lại, Cô cũng
nên cho tôi thắp một tuần nhang trước bàn thờ ông Chánh nhà. Tuy không được biết
nhau lúc sống, nhưng có hề gì điều ấy. Cũng là một nòi tài tử cả mà. Lễ nhau một
lễ cũng là điều phải.
Bá Nhỡ có một lối nói cứ xoắn lấy việc, không thể nào từ chối
được. Vả chăng, người cũng có cái cốt cách phong nhã. Cô Tơ đành phải đưa một
ông khách nhất kiến vào xem bàn thờ chồng và nhất là cây đàn cũ dựng đấy. Bá Nhỡ
đang ngắm nghía cây đàn bụi bám đầy, mạng nhện giăng cả lên mấy sợi tơ dây -
khom mình cách xa đàn độ một với tay - bỗng đàn cũ nổ một tiếng tách gọn như
cái tiếng nứt dọc bóng đèn a phiến. Bá Nhỡ giật mình ngấc lên, lùi ra một chút.
Thì ra một sợi dây vừa đứt phựt, nó đang xoắn quấn và rung rung gởi lại vào
phòng vắng ít dư ba của thanh âm dùng dắng rỉ rền.
Bá Nhỡ lặng lẽ thắp hương, khấu đầu làm lễ trước bàn thờ lạnh
mộc. Bát hương nấu âm, tự nhiên các chân nhang đều cháy bùng lên và tàn lụn dần
trên gio bát. Cô Tơ sợ quá và sắc mặt Bá Nhỡ cũng có tái nhợt đi. Trở ra ngoài
phòng khách, Bá Nhỡ gật gù:
- Hồn ông Chánh có điều thiêng lắm đấy, Cô ạ. Thế rồi cây đàn
còn những làm sao nữa, hở Cô?
- Năm ngoái, cũng có một người đến đây nằn nì tôi hát nói.
Ông ta cũng sành đàn lắm. Nể quá, tôi gõ mấy khổ, rồi phải bỏ dở. Và cho đến
bây giờ vẫn còn hối hận.
- Sao, sao, Cô?
- Ông ta đàn được mấy khổ vào cây đàn của nhà tôi…
- Cây đàn cũ của ông Chánh dựng trong buồng thờ vừa rồi?
- Chứ ông bảo còn cây đàn đáy nào khác nữa. Nghĩa là tôi đã
thề với ông Chánh tôi như thế. Tôi cũng tưởng cứ làm đúng với lời thề thì không
việc gì. Nếu tôi biết trước được có sự xảy ra thế thì tôi đã ngăn được ông
khách ấy. Không nghe hát thì có ai chết bao giờ. Chứ cứ nghĩ như cái lần ông
khách ấy nghe hát mà tôi thấy tội cho tôi quá. Cái mạng con người, ông ạ.
- Ông ta chết bên cây đàn?
- Tôi không nói đùa. Và xin ông trang nghiêm lại lối nói cho.
Ông khách ấy không chết. Nhưng thành ra bỏng mất hẳn nửa bên người. Ông có muốn
gặp lại cái người bán thân bất toại vì ca nhạc ấy, tôi chỉ chỗ cho ông tìm đến
mà hỏi chuyện. Ông ta người vùng Bắc.
- Đầu đuôi câu chuyện thế nào, xin Cô cho được nghe rành rọt.
- Ông ta ngồi đàn mà tôi thì gõ. Không có ai cầm trống. Mới
xong được câu mưỡu. Tôi mới buông dở chữ quê sau ở câu “Nhớ quê chàng lại tìm
đường thăm quê” thì thấy ông ta rùng mình mạnh, tay đàn lìa hẳn đầy gảy, cả người
rung lên mặt xám đi và mắt dại hẳn ra. Tôi vội bỏ cỗ phách đấy, chạy đến đỡ ông
ta vì người ông ta cứ thế mà thỉu dần đi. Phải tìm ông thầy và đổ thuốc cho ông
ta gần sáng mới tỉnh lại và nói được, miệng lệch hẳn về một bên. Nhớ lại câu
ông ta nói mà nhiều lúc tôi muốn xoay nghề. “Tôi đam mê đàn hát quá, không nghe
lời Cô dặn qua về cây đàn thờ, để đến nỗi thành phế nhân, lỗi thật chỉ tại tôi.
Giờ phiền Cô cho người đưa hộ tôi về nhà được thì tôi chịu ơn Cô thật là nhiều
lắm.” Tôi có thuê cái võng và cậy hai người khoẻ mạnh võng ông ta về vùng Bắc.
Võng ông ta vừa ra khỏi cổng nhà ngoài sân kia, thì bên buồng thờ bát nhang
cũng hoá và cháy bùng lên như hôm nay ấy ông ạ.
Bá Nhỡ ngồi một mình cạn hết chén này đến chén khác, không có
hỏi thêm nói thêm một câu nào, khi cáo từ Cô Tơ, chỉ nài chủ nhà phải nhận chỗ
tiền đưa về sự phí tổn lặt vặt.
Về tới Mê Thảo, Bá Nhỡ vào thẳng buồng riêng mất một đêm một
ngày, mắt không phút nào nhắm và cánh tay để trên trán đọng hẳn máu lại. Viêc tằm
việc ấp, có điều cần kíp đến mấy, dân ấp cho người lên vấn kế, Bá Nhỡ cũng xua
tay đuổi xuống. Thậm chí Cậu Lãnh cho đòi, Bá Nhỡ cũng không chịu lên, lấy cớ rằng
khó ở lắm. Bá Nhỡ không ăn không uống, chỉ nằm dài thế mà nói chuyện riêng với
riêng mình thôi.
“Như thế nghĩa là cầm đến cây đàn của Chánh Thú là phải chết.
Nếu không chết thì cũng phải thương tổn đến thân thể như cái lão gì bên vùng Bắc.
Ta có nên quyến luyến với cái thể xác ta nữa không? Ta thử nghĩ xem ta có còn để
dành ta vào việc gì khác không? Hay những ngày mai ngày kia cũng chỉ là sự tái
diễn của ngày này thôi! Đổi tên đổi tuổi lên cái ấp nuôi tằm để rồi mà hết hẳn ở
đây hay là hết ở một chỗ nào khác trong không gian? Cậu Lãnh đãi mình rất hậu.
Đấy là một cái ơn tri ngộ. Ta muốn trở nên một chút ánh sáng, ta muốn trở nên một
cái đốm lửa để làm bừng dậy trong lòng con người tê dại này. Có thể đấy là một
cuồng vọng. Có thể chỉ là một cuộc thí nghiệm suông mà riêng mình chịu lấy phí
tổn thôi. Nhưng cuộc thí nghiệm nào mà chẳng có trị giá. Hình như ta sắp đọc thấy
cái ý nghĩa của thời giờ ta đang tiêu đây. Ta học nghề đàn, ta phải đánh lên
thành tiếng, dẫu rằng đời chơi đàn của ta chỉ vẳng được lên có một lần, trong một
trường hợp đặc biệt. Quái, sao cây đàn của Chánh Thú ám ảnh và thử thách ta đến
thế! Cầm cái đàn ma quái ấy mà gảy để Cô Tơ hát, để Cậu Lãnh đánh trống! Ta muốn
làm được việc ấy ngay bây giờ”. Bá Nhỡ nghĩ trước đến những nương dâu xanh lá
um sau này mà mắt mình không ngó đến nữa. Bá Nhỡ nghĩ trước đến những lứa tằm
chín - ruột đỏ trong suốt như hổ phách gọt mài - mà sau này tay mình không đụng
đến nữa. Ý nghĩ trả nợ đời và đời y lúc này cũng chỉ là một sự rút ruột con tằm.
Có còn vương được tơ nữa về sau hay không thì chưa biết, nhưng rồi đây cầm đến
cây đàn Chánh Thú ấy mà đánh lên thì cái thác của đời tằm nào mà chẳng là say
sưa. Nhả cái tơ lòng ấy ra, đánh lên cái tơ ấy cho dội vang lên một dây phút của
thời gian rồi mà hết luôn với tất cả chung quanh! Bá Nhỡ muốn cười to một tiếng.
Tiếng cười ấy không thành, nhưng Bá Nhỡ đã ngã vật được xuống. Và mắt người nằm
đấy tuy không nhắm, nhưng lòng người ấy đang chiêm bao đến những giây khắc sắp
tới của đời mình. Từng cái một, tóc người ấy trắng mãi ra như sợi cước.
Vô tâm đối với xung quanh đến như Cậu Lãnh mà cũng phải giật
mình khi trông thấy cái đầu trắng xốp như mây của Bá Nhỡ đang động đậy và đưa gần
mãi về phía mình, bên lối cỏ của tửu phần.
- Có hai hôm vắng mặt, mà sao đầu Em đã ngả bạc hết cả rồi?
- Cậu tưởng đời Em còn xanh lắm sao?
- Chết chửa, không còn gốc nào xanh. Em chịu khó xuống lại buồng
riêng lấy gương soi mà xem. Tóc Em thật như là tơ trên đầu một vị tiên ông nào.
Bá Nhỡ lại muốn cười to, tâm bận với một chữ tơ. “Tơ tóc”. Tơ
trên đầu. Tơ trong lòng. Tơ đàn. Sợi tơ cây đàn nay mai ở nhà Cô Tơ. Tiếng tơ
tiếng trúc của một bữa tiệc lên đường nay mai bằng cái đi muôn thuở của âm nhạc.
Chủ ấp và quản gia đối ẩm, thân mật hơn mọi ngày. Chén rượu
chen tiếng đàn. Nhân tiện, Bá Nhỡ cũng muốn ôn lại những khổ đàn đáy, tưởng như
mình sắp đi thi làm quản nhạc. Hơi rượu ủ lấy hơi tơ. Tiếng gảy kẹp lấy tiếng
rót. Thời gian thản nhiên lướt trên hai cái tâm sự. Một người uống để kéo dài đời
mình ra bằng sự nhớ thương một cái bóng trắng. Một người đánh đàn để càng cảm
thấy rằng đời mình rồi sắp là cuộc đời của một sợi tơ do tay mình cấu đứt. Thế
mà lòng người đánh đàn quyết liệt ấy cũng vẫn cứ se thắt được để rồi lại tự nhủ
thêm mình rằng: “Ta không vợ không con, đổi tuổi đổi tên họ, lẩn lút lần lữa
nơi ấp người, trên đầu đội một bản án toà đại hình. Ta còn đợi gì nữa ở cuộc đời
ta! Ta không chờ mong gì ai. Và tất cả cả các thứ tầu và chuyến tàu của cuộc đời
này không chờ một kẻ hành khách cô độc đây. Có ai đưa ra được một lí lẽ chính
đáng nào để ta không nhấn ngón tay vào phím đàn Chánh Thú! Đã nhìn thấy cây đàn
cũ ấy thì phải đánh - đánh cái cuộc đời mình vào đấy - để rồi xem nó thành được
ra tiếng gì”. Bá Nhỡ thấy cái cám dỗ của những phút muốn thử đến một cái gì, muốn
thử mình với một cái gì.
Gần tàn tiệc đêm, Cậu Lãnh vụt nhớ đến cái thèm ước cũ: “À,
hôm nào Em cho tìm Cô Tơ về ấp hát một buổi. Đàn của Em nghe chín lắm. Sao mọi
khi không thấy Em chơi đàn đáy! Ừ, chưa có lần nào Em đánh đàn đáy. Có Cô Tơ
hát thêm vào nữa, thì cuộc đời cũng không đến nỗi toàn là những chén “Vô Cố
Nhân” đó Em ạ.”
Chủ ấp lại đòi vợi thêm nửa bì “Vô Cố Nhân” nữa để cho mặt giời
rọi lêch ánh buổi mai rừng vào miệng những chén trào sóng còn sủi tăm. Đã trên
dưới nghìn đêm rừng rồi, gà ở ấp Tháo chỉ có gáy chõ vào một chén rượu của một
con người này.
Bá Nhỡ lại xuống núi, tay không mà xuống núi chứ không có đem
đàn theo như lần trước. Lần này là lần thứ ba mà một người đánh đàn tìm đến một
nếp nhà gianh để cầu một tiếng hát.
Trông thấy Bá Nhỡ bước vào nhà, Cô Tơ càng lo sợ nghĩ đến cái
mộng hôm trước không khéo mà ứng vào ông khách trên ấp này đây. Đêm nọ gần về
sáng, Cô Tơ nửa thức nửa ngủ chờn chợn nghe thấy tiếng người rón rén đi từ
trong buồng thờ ra. Cô quay mặt lại phía cửa màn thì đã thấy ông Chánh Thú đứng
sững đấy, áo sô gai rộng tay và hoen ố. Cô định vùng chạy đi thì hồn người chồng
ra hiệu là không việc gì mà sợ. Ngồi men vào thành giường, cái hồn mặc đồ vải
trắng bệch ấy phào phào với vợ: “Một ngày rất gần đây, sẽ có một người tìm đến
để nghe mình hát. Cứ để cho người ấy đàn vào cái đàn dựng ở bàn thờ tôi. Mình đừng
có ngăn giữ người ta. Mình phải hát cho người ấy đàn. Đàn xong thì người ấy lăn
ra chết. Thế nghĩa là người ấy sẽ thế mạng cho tôi ở dưới cung Thuỷ Tinh này.
Thì tôi mới được trở lên làm người dương gian. Đàn dưới này cho Diêm Vương
trong mười vương phủ, tối tăm khổ sở lắm. Những thanh âm ngục tối, mình ôi!
Mình nhớ kỹ lấy để tôi được đầu thai về cái thế giới tơ trúc trên dương gian. Lần
trước đã hụt mất một dịp đầu thai rồi vì mạng cái người bên Kinh Bắc ấy còn vững
lắm, tôi bắt chưa được. Thôi tôi về đây”. Một luồng gió lạnh lay động lá màn.
Cô Tơ ngồi hẳn dậy thì không thấy gì nữa. Và một điều lạ là trong buồng thờ lại
có ánh đèn. Ai thắp? Bao giờ Cô cũng tắt đèn thờ trước khi đi nằm. Cô vào đến
nơi thì có ba tiếng nứt tách rất dứt khoát. Ấy là ba sợi dây tiếu dây trung dây
đại ở đàn đáy kế tiếp nhau mà cùng đứt. Một con đom đóm vờn bay trên cây đàn nhễ
nhại mồ hôi. Trên nền tang đàn gỗ ngô đồng, có những đốm lân tinh lập loè. Cô
Tơ lại gần nhìn mới biết đấy là máu của dây đàn đứt. Đầu các dây còn rung lên,
ruột sợi tơ rỉ tuôn ra một thứ nước đặc sệt như máu con giời leo và xanh đục
như ruột bọ nẹt. Chất ấy đọng thành giọt ở các đầu dây và loé tia xanh lạnh lên
dưới cái sáng chờn vờn của lửa con đóm. Cô Tơ thắp một tuần nhang bất thường
và, đổ cỗ phách ra khỏi túi vóc, Cô gõ mấy câu hát thờ.
Công việc đồng áng của Cô Tơ vào sau giấc chiêm bao ấy có điều
trễ nải hơn mọi khi. Rồi là thấy Bá Nhỡ vào nhà cô.
Sực nhớ lại mấy nhời trong mộng, Cô Tơ chỉ vội mời Bá Nhỡ uống
nước, và bỏ mặc khách đấy, Cô lùi ngay vào buồng thờ châm đèn hương, thỉnh
chuông và cầm hai đồng tiền gieo xuống đĩa xin âm dương, khấn: “Nếu mộng triệu ứng
vào người khách chơi đàn trên ấp Mê Thảo đang ngồi ngoài kia, thì tôi muốn xin
mình tha cho người ấy. Mình chờ đến người sau rồi hãy đầu thai lên lại với cuộc
đời bằng thịt bằng xương thật này. Cũng không lâu gì đâu, Mình muốn lúc nào thì
cứ báo mộng cho tôi là tôi tìm ngay được một người cầm vào đàn của mình mà đánh
để rồi chết. Thiên hạ nào phải thiếu gì người cầm đàn chạy theo vợ Mình. Có
trôi sông cũng không hết. Nhưng đến cái người ngồi ngoài nhà kia thì tôi thấy
không đang tâm. Tôi xin mình, mình chứng giám cho tấm lòng ngay thẳng và thương
người của vợ Mình. Tôi gieo tiền, Mình bằng lòng thì một đồng sấp một đồng ngửa.”
Tiền khất đài một mặt bôi vôi, ba lần gieo xuống đĩa thì ba lần
chỉ quay tít mà cười rồi lăn ngửa cả ra đĩa, chứ không keo nào được cả. Cô Tơ
hoa mắt, nghẹn nơi họng và trong người như có ai đặt hoả lò. Rồi cô lặng cúi trở
ra phòng khách, không dám nhìn thẳng vào Bá Nhỡ.
- Thưa Cô, tôi về ấp đã nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ đánh đúng vào cây
đàn thờ dựng trong buồng. Sự gì sẽ phải xảy ra cho tôi, tôi vui lòng chịu lấy.
Cô không nên lo sợ ái ngại gì cho tôi cả.
- Thưa ông… Thưa ông…
- Thưa Cô, tôi đã nhất định. Nếu tôi có tránh được cái việc
đánh vào cây đàn ông Chánh, tôi thấy đời tôi nó cũng chẳng thêm hơn lên lấy được
một điều gì. Có lẽ còn nhạt là khác nữa.
- Thưa ông…
- Thưa Cô… mà lần này chắc không còn có cách gì để Cô từ chối
nữa. Vì Cô không phải lên hát tận trên ấp. Cô ngồi hát ngay ở bục kia. Tiện lắm.
- Thưa, không có trống?
- Điều đó, tôi đã tính rồi. Chừng vàng mặt giời thì võng Cậu
Lãnh tôi sẽ có người cáng tới đây. Cậu Lãnh sẽ cầm chầu. Cô sẽ hát, tôi sẽ đàn
- đàn ngay vào cái đàn ông Chánh. Thôi, Cô bảo dọn qua loa cho tôi cái gì để
tôi uống mấy chén cho nó ấm bụng.
Trông người quản gia ấy nâng chén độc ẩm, người ta phải liên
tưởng tới cốc rượu mạnh của tội nhân sắp lên đoạn đầu đài. Bởi vì, chốc nữa -
chỉ một chốc nữa thôi - khi mà Bá Nhỡ cầm đúng cây đàn thờ ấy lên, hễ bắt đầu
sòng lên ba tiếng tức là kí vào một bản án tử hình đấy.
Cả người Cô Tơ là một cõi bồn chồn không có biên giới. Cô ở
nhà ngang chạy lên nhà trên, nhìn vào mâm rượu rồi lại nhìn trộm Bá Nhỡ và rồi
lại chạy xuống. Cứ thế mãi. Cô muốn được trốn lánh đi đâu chứ không muốn là một
niềm xúc cảm gì ở cái nhà này nữa. Cái sinh mệnh của người tự tống tửu cho mình
kia chỉ đang treo vào một sợi… tơ! Và Cô sắp hát cho người ấy nghe để cho sợi
tơ kia đứt phựt.
Chiếc cáng điều ấp Mê Thảo đã dựng giữa sân nhà Cô Tơ hai đầu
gác lên hai cái trấu gỗ ổi già. Cậu Lãnh vẫn chưa tỉnh rượu. Hai lực điền dân ấp
vực Cậu Lãnh vào, đặt Cậu ngả lưng bên gối xếp. Bá Nhỡ ra hiệu cho chủ nhân triệt
soạn và mời Cô Tơ đổ phách ra mà gõ ngay đi thôi. Sau khi châm mấy nén hương
vĩnh quyết vào bát hương thờ Chánh Thú, Bá Nhỡ đã khệ nệ ôm cây đàn thờ từ
trong buồng ra. Cô Tơ cầm phách gõ.
Bá Nhỡ thử dây, vặn trục đàn. Trục nghiến gắt và nấc dần mãi
lên. Cần đàn ôm sát vào mặt, Bá Nhỡ ngửi thấy một mùi tanh tanh và gỗ đàn đã
truyền sang lòng tay một chất nhờn sánh. Buông đầu gảy xuống dây, đàn vẳng ngân
một tiếng cuồng loạn. Và những đầu ngón tay phải - Bá Nhỡ đàn tay trái cũng như
cầm đũa cầm bút - nhấn xuống dây đã ran lên những cảm giác buốt nhức. Bá Nhỡ chững
chạc buông ba tiếng sòng.
Cậu Lãnh còn đang li bì vội choàng dậy, cầm roi chầu đánh
luôn mấy tiếng. Người Cậu Lãnh chỉ còn ở hai cánh tay và hai cái tai, chứ cật
và chân cứng đờ và mắt thì nhắm nghiền, cầm vểnh lên giời. Cô Tơ như mất hẳn hồn,
cái tâm chỉ còn lên xuống theo với bực đàn. Gỗ bục dưới thân tan loãng đi đâu để
cả người Cô Tơ phiêu phiêu lững lờ trôi mãi giữa không.
Chưa bao giờ Cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng
đàn đáy buổi này. Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không
gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm.
Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít.
Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm
tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của
những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là cơn
gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cữ cuối
thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tuỷ. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ
cành. Nó là cái lê thê của nấm vô danh hiu hiu ngọc vàng so le, Nó là cái oan uổng
nghìn đời của chỉ tơ con phím. Nó là một chuyện vướng vít nửa vời.
Tiếng đôi lá con cỗ phách Cô Tơ dồn như tiếng chim kêu thương
trên dậm cát nổi bão lốc. Nhiều tiếng tay ba ngừng gục xuống bàn phách, nghe
tàn rợn như tiếng con cắt lao mạnh xuống thềm đá sau một phát tên. Tay phách
không một tiếng nào là nhụt. Mỗi tiếng phách sắc như một nét dao thuận chiều.
Và gõ đến như thế thì thật là đem cái vinh quang đến cho tre cho trúc và tạo
cho thảo một một tấm linh hồn. Dưới mười ngón tay hoa múa dẻo quánh, tre trúc bật
nảy lên vì thỏa thích. Đàn và hát dắt nhau mà lướt bổng. Cậu Lãnh Út mềm tay
roi, càng mê tơi đi vì tơ trúc ríu ran. Chưa hồi tỉnh cuộc rượu của ấp, Cậu lại
tự bồi thêm trận rượu của đêm nhạc. “Đàn ai đàn…”
Nắn những đương gân ngang nó gò cong mình xuống đàn nó day thịt
da tê cóng trên dây sắc buốt như cật nứa, mấy đầu ngón tay Bá Nhỡ đang chịu một
nhục hình bá đao tùng xẻo. Nghe phách Cô Tơ, ở những khổ rung thưa rồi mau, Bá
Nhỡ say sưa trong cái nhận thức là mình đang chết dần giữa đàn hát và mỗi một
tiếng trúc tiếng tơ đánh thêm lên là mình lại càng lả dần về cõi chết. Có người
tự tử bằng mùi hoa ngát, có người tự tử bằng hơi nhạc. Người đang luyện phím khảo
dây bỗng nở một nụ cười héo sững trên hai môi tái.
Máu chảy ra nhiều quá. Toàn thân Bá Nhỡ đỏ ngòm. Áo quần màu
trắng của Bá Nhỡ vụt trở nên vóc đại hồng, trông hệt một người phục sức để ăn
thượng thọ. Người Bá Nhỡ đã là một cái vại đựng chất lỏng có nhiều chỗ rò rỉ.
Máu trong cơ thể Bá Nhỡ cứ đều một dòng tuôn mà thấm lậu ra ngoài, Bá Nhỡ đã thấy
khát nước. Và khắp mình mẩy, xót nhức không biết đến đâu là chừng hạn nữa. Mỗi
tiếng đàn là một miếng thịt lẩy ra. Tí một, tiếng đàn đưa nhau về nơi vĩnh quyết.
Tùng. Tang. Tùng. Tùng! Tụng. Bá Nhỡ vấp một chỗ nhấn, đầu ngón chừng đỗi dây
lát trên mõ phím cao quyện huyệt. “Đàn ai… đàn.. một tiếng…”
Vừa có một mũi kim nào châm vào cái đốt cuối xương sống Bá Nhỡ,
làm cho cây đàn đột ngột bật hẳn cần dọc lên. Rồi không rõ từ đâu vào, vẫn ở đoạn
xương sống, có rất nhiều hạt muối lạo xạo đánh loãng chất tuỷ người đang gò
đàn. Ruột nhũn hẳn ra, óc se thắt lại, chỉ còn có cái tâm Bá Nhỡ là điều động với
lớp tơ trúc dật dờ.
Gân tay Cô Tơ xuống phách đã có chiều lảo đảo vì chuột rút. Hạt
châu lẩy bẩy đọng trên môi người hát, sáng đục như mắt chuồn chuồn. Phải nuốt
nước mắt mặn chát tuôn đều với máu người đàn đối diện, tiếng hát Cô Tơ có nhiều
chữ buông bắt đã hết vuông hết tròn. Tiếng hát đã sưa làn rồi khê và mực hát đã
có chỗ bửng. Cả hát cả đàn đang dắt tay nhau sa lầy trên cái mênh mông bùn sũng
ngào vỏ ốc, mờ rộng xanh lơ ngút chân trời. Cô Tơ rùng mình. Hình như đây là
pháp trường đang có những tiếng mớm chiêng đồng. Như ăn phải bát cháo lú bên
sông Hắc Thuỷ, Cô mê thiếp đi. Tiếng hát méo dần.
Thoáng một tiếng dây đàn đứt. Cô choàng tỉnh để nhận cái đầu
tơ ấy bắn vào mặt. Thái dương Cô tê dại trong khoảnh khắc. Rồi vững lại tay
phách, chỉnh lại hơi cổ hơi mũi, Cô Tơ hát bây giờ mới vượt qua những đỉnh nhọn
của thế giới âm thanh. Tiếng hát mọc cánh, thăm thẳm trong trắng tinh khiết quá
pha lê gọt. Cô đang gọi nước suối đá ngọt trào dâng lên. Tiếng phách trúc díu
dan như cô đục lại được muôn điệu của muôn giống chim. Có những tiếng tre đanh
thép, sắc bén đến cái mực cắt đứt được sợi tóc nào vô tình bay qua khoảng nơi
phách đang bốc cao vươn mình dựng dậy như vách thành. Đôi tai Cậu Lãnh Út chỉ
là cái phễu để Cô Tơ rót vào đấy cả một rừng chim và cả một suối thuỷ tinh.
Cô Tơ giờ mới để ý đến những tiếng trống điểm. Trống người chủ
ấp trẻ ấy sát phạt thật. Thật là một thứ trống lợi hại. Trong tiếng trống, có
tiếng đổ nhào của ngói gạch vụn rời. Hình như tất cả những lâu đài cung điện của
cuộc đời nhỡn tiền đều tan rã theo một cái roi quật xuống mặt da loài thú. Hình
như phải có được vô vàn vàng lụa luỹ thế mà phí đi thì mới đổi được ra thành
cái tiếng âm âm đục đục ấy. Chầu, điểm đến như thế thì khỏi nào mà tránh được
chuyện oan trái với người gõ trúc.
Lúc này, Cậu Lãnh chỉ biết có sự thẩm âm. Âm trúc, âm tơ. Còn
ngoài ra Cậu không biết gì hết. Chén tống rượu cứ liên tiếp mà vơi mà đầy, gia
nhân đi theo rót đưa đến đâu thì Cậu uống đến đấy. Tưởng lúc bấy giờ, cả quê Nhộn
này có phát hoả, cả chung quanh Cậu đất có sụt nứt hết, Cậu cũng mặc. Cậu đang
ngủ cái giấc ngủ thôi miên của âm nhạc. Không một tiếng nào lép, roi cứ như ôm
lấy tang mít, rồi cứ như dán vào mặt da.
“… Nguyệt dãi tàn nhang… ư… Con sông hồ nước biếc…” Nhưng thật
ra Cô Tơ chuyên hướng tiếng hát vào lòng người chơi đàn chứ không bận gì mấy đến
người điểm chầu. Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh mệnh chỉ còn dính vào cuộc đời
bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn, là cuộc đời người đang xuống cái đầu
gảy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn. Hơi tơ thiểu não như lời gởi gấm giối
giăng. Nó buồn rộng xa nhoè quá một tiếng lên đường. Thôi thì đây cũng là những
tiếng cuối cùng của đời, Cô Tơ cố bắt buông từng chữ cho thật chín nục để kẻ sắp
hết làm người kia đem đi cho thật đầy đủ cái dư âm của cõi sống. Làn hát chênh
đi như lời giã từ ngượng nghịu.
Trong buồng thờ Chánh Thú, có tiếng cười sằng sặc ở sau cái
bài vị. Bát hương bàn thờ sứ chẻ dọc làm hai mảnh, tiếng nẻ toác to gọn như mắt
tre nổ trong lửa. Hai mảnh sứ nhào lăn xuống nền đất, kêu đánh xoảng. Riêng Cô
Tơ nhận thấy tiếng đổ vỡ này và hiểu nó là điềm báo hiệu của một điều linh
thiêng gì. Qua cái màn mỏng nước mắt, người hát trừng trừng vào người đàn. Bá
Nhỡ vốn đã còm, giờ lại càng khô sút hẳn đi. Máu tuôn ra nhiều quá, đánh đống
quanh chỗ Bá Nhỡ như một khối hồng hoa. Bắt tay đàn để xuống mạnh một cái đầu gảy
thứ nhất ấy là máu trong người Bá Nhỡ vợi đi từ đấy. Và thân hình ngót dần đi
và teo tóp mãi lại chẳng khác gì cái xác khô người tăng già khổ hạnh. Hình như
tới một chừng mực siêu thanh nào đó, âm nhạc có cái vật tính là làm quắt lại da
thịt và chuốt dài thân người ta.
Bá Nhỡ chỉ còn là một cái bóng. Bóng loãng dần và không động.
Bóng cứ nhạt mờ thêm mãi qua cái hôn mê của nỗi thảm tình thương và Cô Tơ chỉ
còn nhận thấy có mỗi một cái chấm sáng trên thân người ôm đàn là còn linh động.
Ấy là cái mặt ngọc chiếc nhẫn ở ngón tay nắn dây. Tất cả sinh khí một kiếp người
chỉ còn gởi có vào một cái mặt nhẫn linh động theo âm đàn. Nhưng mà ngón tay cầm
đàn gảy cũng đã uể oải rồi trên con phím. Rồi bẵng hẳn đi trong phòng không có
một tiếng đàn nào nữa. Như một thứ keo, máu cũ khô quánh đã gắn chặt mười đầu
ngón Bá Nhỡ vào mấy sợi tơ đỏ sẫm và mặt tang ngô đồng hoen ố. Mười ngón như một
đã bị đóng đinh liền vào phím cây đàn.
Máu tuôn đã hết chất nồng và chỉ còn tỏa ra một mùi tanh nhạt.
Bá Nhỡ gục vào đàn, nách cắp lấy thành đàn mà nhoài ra giường. Gỗ bục đêm và
thân người nhoài ra kia lạnh bằng nhau.
Phía sau gáy Bá Nhỡ, vụt bay lên một con bướm đen loang lổ những
chấm tròn hồng hoàng. Tinh hồn Bá Nhỡ đã xuất thoát ra kia đang díu đôi cánh ốm
rồi biến dần vào bóng khuya. Một con châu chấu ma nổ ruột trên tim nến lả lay.
Thế là hết hẳn ngân rung của chỉ đàn. Điệu hát Hoà Mã, chưa
quá một phần ba.
Như một hành khách hoả xa tỉnh giấc lúc tàu đổ vào ga, Lãnh
Út choàng dậy, hất hàm hỏi: “Kìa, sao lại nghỉ lâu thế! Nối lại dây chóng vào”.
Cô Tơ bỗng oà lên. Tiếng khóc nức nở thê thảm. Cô chạy lại đỡ xác Bá Nhỡ, đẩy
chiếc gối may vào gáy một tấm thi hài co quắp. Cúi mình xuống cái xác dầm dề đỏ,
Cô Tơ đang vuốt mắt cho Bá Nhỡ, bỗng lại giật bắn mình lên vì một tiếng tách nữa
nổ ngay cạnh Cô. Cây đàn vừa bị tay người lạnh thả dần xuống mặt bục, đang tự
tan vụn ra từng miếng con. Phím long rồi, cần, thành, tang đều tung bật hết mộng
chốt, và cùng một lúc nhả hết những đường sơn gắn. Đàn chỉ còn là một đống vụn
gỗ linh tinh những bừa bộn bên một cuộc đời đánh đàn đang khô dần lớp máu cuối
cùng.
Lãnh Út - nước mắt vận chuyển hết vào nội tâm thành một niềm
tư tưởng im vắng ghê lạnh - chống tay vào cầm, ngây sững như đất tượng nung, ngủ
ngồi ngay dưới chân xác chết mất một nửa phần đêm và lan sang nửa ngày sau, mắt
mở to, mi không chớp lấy một lần.
Tỉnh giấc ngủ ngồi, Lãnh Út nhẹ đặt thi thể Bá Nhỡ vào cáng
đưa về Mê Thảo. Chiếc cáng đi theo cái đà của gió mưa thuận mùa. Lãnh Út bám
vào đòn cáng mà lần về ấp. Lẽo đẽo chạy theo sau xa là Cô Tơ, mặt trùm kín
vuông khăn lượt trắng mỏng.
Bá Nhỡ được hạ thổ vào lúc xế chiều. Và ngay buổi tối ấy, tửu
phần cũng bị khai quật luôn lên. Mặt đất gò rượu ngổn ngang đất đào và vô vàn
là chum là hũ bị tháo nút ngả nghiêng ở miệng huyệt rượu. Nhiều vò rượu, nước
sánh đặc chảy ra lênh láng. Nhiều hũ cơm ủ đang kết men, - lắm cái hình bó và sắc
cốt hiện lên đẹp như phát khanh tướng đến nơi.
Sẵn bó đuốc cháy, Lãnh Út vứt luôn vào tửu phần khai quật. Gò
rượu phát hỏa. Lửa men khê nồng bốc lên liên tiếp. Cho đến hết canh ba mà ngọn
lửa men rượu xanh lè cũng chưa dịu ngọn. Đêm phóng hỏa tửu phần, thảo mộc chim
muông vùng Mê Thảo bị một trận say lây. Cây cành cỏ lá đều mê man rũ rượi rầu
nhũn. Thú ngàn rống to lên như cảnh động rừng. Chim bị say, cánh cụp cứng lại
mà lìa khỏi tổ, rụng xuống đất như quả chín rời cành mẹ.
Lảo đảo, Lãnh Út lắp bắp ấm ớ nói mê giữa một giấc chiêm bao
không ngày tháng: “Sau một cái tử biệt, giờ ta phải tính đến một nỗi sinh ly
khác. Đối với đàn, hát, từ bây giờ ta nguyện làm một người điếc, một người cô
đơn một người phản bội. Và trên vong linh Bá Nhỡ, ta thề độc là không bao giờ cầm
đến một cái chén nào của cuộc đời này.”
TÁI BÚT. - Một năm sau, ấp Mê Thảo mọc lên một ngọn chùa.
Chùa Đàn. Chùa Đàn nhận tượng mới và chuông mới vào trước kỳ giỗ đầu Bá Nhỡ mười
hôm.
Cô Tơ đòi giữ việc kinh kệ cho Chùa Đàn và nhận trông giúp
luôn hai mẫu dâu ruộng bầu hậu cho Bá Nhỡ. Dưới nhà thờ, có bia bầu hậu cho Bá
Nhỡ, ghi ngày kỵ và lễ vật dâng vào định kỳ ấy. Ngày kỵ Bá Nhỡ, dân hàng ấp đều
được nghỉ việc tằm tang bốn buổi liền.
Bệ vôi nhà thờ tổ chưa có pho tượng Phật nào. Nhưng ở đấy,
sau bát hương đặt một tảng gỗ đẽo có ngọn vút lên, trông xa như một gốc trầm. Lại
gần nhận kỹ thì là cả một cây đàn đáy với những nét chính của nhạc khí tạc chìm
vào gỗ mộc. Cứ vào hai buổi chuông chiêu mộ, tảng gỗ thờ đó lại đổ ít mồ hôi dầu
và xê động khỏi chỗ. Ngày nào, Cô Tơ cũng phải kê đặt lại tượng đàn thờ.
Được hai năm thì ấp Mê Thảo sang tay chủ khác, người ngoại quốc.
Lúc bán ấp, Lãnh Út cố điều đình vẫn giữ lại hai mẫu tự điền
vốn cất ra làm ruộng hậu.
Chùa Đàn dựng trên khoảnh đó.
Quê Tương, mùa xuân một năm tuổi
Kính gởi sư thầy Tuệ Không
Chùa Từ H…
Kẻ không đi tu này, muốn bạch cùng sư thầy Tuệ Không một vài
điều để cùng luận với Nhà Chùa một thái độ về đời sống. Trước khi hầu chuyện
Nhà Chùa, sư thầy cho phép chúng tôi nói chuyện với những độc giả cũ thân mến
và trung thành của chúng tôi về thiên truyện bỏ dở đã.
Nhà Chùa cứ thỉnh xong hồi chuông chiều một trăm linh tám tiếng
ấy đi thì chúng tôi sẽ trở lại với Nhà Chùa đấy.
Vậy là tôi đã đọc xong “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC” trong một bụi
lau cao, rừng tù kéo lê thê cái bóng chiều hôm thượng du. Tôi đọc chỉ có một
hơi, say sưa đau khổ với người trong đoản thiên. Trong lúc đọc, có một người
lính tập cầm súng bên, tầm mắt dán xuống một giải đường đỏ lượn dưới núi để xem
hễ có Tây quản trại xộc lên khám công việc, thì ra hiệu cho tôi biết. Tôi đọc hết “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC” thì kèn đồng trên lô-cốt đồn cũng nổi một hồi rôm-bê. Tôi
phủi đất ở quần áo, đứng lên, lần về trại giam. Tôi thất thểu trên dốc núi,
khuôn cái lòng mình vào tâm người trong tập đoản thiên giắt trong túi dết. Hình
như chân tôi đang bước hộ ai đâu đây, theo một cái đà đi của người trong nhật
ký. Phải, “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC” chỉ là một tập nhật ký mặc dầu người viết nó
không dùng ngôi thứ nhất lúc tự thuật, không ghi niên hiệu của biến cố và đã đổi
hết tên người tên đất. Dưới tập vở viết, chỉ chua: “Georges Philippar, 1932”. Tức
là… Lịnh viết trên một con tàu bể chạy đường Cực Đông, sau khi bỏ ấp, xuất
dương, làm bồi tần sống cuộc đời công nhân và truy tùy Cách Mệnh ở ngoài xứ.
Chính chiếc tàu to lớn này, kỳ hạ thủy chạy đường Viễn Đông Thượng Hải đã tải rất
nhiều khí giới của đế quốc gởi sang Thượng Hải để đàn áp Cách Mệnh Trung Hoa và
chuyến về đã bị đốt cháy ở giữa Hồng Hải. Tôi ngờ Lịnh có dính vào chuyện
Georges Philippar phát hoả, làm chết một nhà báo tâm huyết Albert Londres và
suýt chết luôn một ông quan xứ ta đi đón một ông vua Bảo Đại về nước nhận ngôi.
Tôi nhớ rằng nhiều lần Lịnh đã giảng kỹ cho tôi về các công tác phá hoại.
“TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC” đích là một quãng thiếu thời của Lịnh
lúc còn mê man o bế cái sống cá nhân của mình. Trái với lời rào đón khiêm tốn của
tác giả nói về phép hành văn, tập nhật ký diễn theo một lối thuật hoài đặc biệt
đã đem đến cho tôi nhiều rung động hiếm có. Ra khi người ta đã có một cái tâm sự
và lại thiết tha và lại chân thành khi gởi nó vào giấy mực, thì người ta chấp
được cả sự tưởng tượng của ngòi bút lành nghề. Và Lịnh, nếu chỉ cứ chuyên nhất
vào cuộc đời chính trị, văn nghệ bị thiệt thòi hẳn đi về nhiều nỗi.
Đi theo tốp lính áp giải về trại, đầu tôi còn ê ẩm vì không
khí một cái ấp nuôi tằm trong nhật ký. Đấy là một cái ngục tối. Ấp Mê Thảo là một
cảnh địa ngục mà lính canh là rượu, là hát, là kỉ niệm, là sự nhớ tiếc một người
vợ chết. Ở tù, còn có thể vượt ngục được. Chứ đã ở đến cái ấp Mê Thảo ấy, có đủ
tiền, có thừa rượu và sự chiều chuộng của đời sống dư nhàn thì chỉ còn có chết
oan uổng ở đây thôi, chứ còn thoát ly thế nào được. Vậy mà Lịnh đã xổng ra được.
Để mà đang là một con số 2910 đi bước một xuống dốc núi, trước mặt tôi.
Tôi nhìn Lãnh Út - Lịnh - 2910 mà rờn rợn cho một cuộc đời.
Tôi nhìn Lịnh như một người đã bị thần trùng bắt đi, tra khảo mãi không xưng mà
rồi lại còn được trả về đời sống. Ghê thật! Một người đã được cuộc sống phong
lưu bỏ tù vào cái vỏ cá nhân tự cưng dưỡng mình, một người đã chìm nổi về rượu
suýt chết vì rượu và đã làm chết lây người khác bằng đàn hát sở thích, một người
đã trối ngấy lên vì rượu vì nhạc dầm dề cơ thể, một người đã ốm những trận thập
tử nhất sinh vì những cảm giác ma tuý ấy, người ấy có quyền nói câu này mà tôi
nhớ mãi: “Nay tôi không sợ bắt bớ tù tội và tất cả sự đàn áp của kẻ thù mà tôi
chỉ sợ người mời uống và rủ đi nghe hát.” Tôi tin được câu nói ấy của Lịnh.
Lịnh đã đem những tuổi hoa niên cầm cố cho ma men, đã uống một
bữa rượu dài ba bốn năm ròng, - mặt giời mặt giăng chỉ có kế tiếp triền miên mà
rọi vào một cái cốc quen thuộc của con người ấy. Lịnh ngồi im sững trong không
và thời gian đến nỗi bóng mình tụ thành vệt lên vách vôi, đã từng nghe người ta
vừa hát vừa khóc và nghe người ta đàn đến cái mực hộc máu ra mà gục chết dưới gốc
nhạc khí, đối với một người sa đoạ và sám hối như thế, cuộc đời còn nỡ đủ tàn
ác và bất cố liêm sỉ để mời người ấy nghe lại một khổ đàn hoặc cầm một cái cốc
nữa không? Nghe hát đến chết người, uống rượu đến suýt chết cả mình, đích là
cái quá khứ Lịnh chứ còn là của ai vào đấy nữa!
Không phải là Lịnh thù oán gì tửu và nhạc đâu. Lịnh chỉ đổi
đi cái đối tượng của mê mải - người Lịnh lúc nào cũng chứa nỗi say đắm một cái
gì - và hướng dục vọng mình vào một phía mới nào nó rộng rãi và đúng nghĩa hơn.
Lịnh vẫn là một người say cái Đẹp, say cái Say. Nhưng sau cái thời kì hỗn loạn
của ấp Mê Thảo, giờ Lịnh là người tình nhân của Cách Mệnh, Lịnh chỉ nhận có những
chén mà công cuộc trao cho, thưởng cho mỗi lúc phá một cái gì để dựng lại một
cái gì. Những chén ấy, thường Lịnh uống cả cấn. Lịnh vẫn say như ngày xưa,
nhưng không cần mượn đến cái thứ rượu tầm thường ta vẫn nhắp vào lúc vui lúc buồn
hằng ngày. Trận say thứ hai này trong đời Lịnh - 2910, có lẽ đến lúc tắt nghỉ,
Lịnh cũng không thèm tỉnh lại. Với cuộc Cách Mệnh Thường Trực của cuộc đời
chênh vênh lạc nền tảng này, ai đã dám nói một câu chót?
Đêm ấy ở trại an trí, tôi châm đèn thức khuya hơn để đọc lại
tập nhật ký của Lịnh. Mãi đến hai ngày sau, tôi mới trả Lịnh với một câu: “Dẫn
rượu của đời sống vào cuộc đời bút mực đến một chốn hãi hùng như thế, chừng như
cũng mới chỉ có anh. Bởi vì cái tâm sự của anh cũng dị thường lắm. Tôi muốn xin
phép anh, mượn anh những tài liệu sống đó để sau này xây một chút không khí gì
cho một thứ văn phẩm nào của đời tôi nghèo hẹp, anh có vui lòng không?” Không cần
suy nghĩ, Lịnh dúi ngay tập bản thảo đó vào túi dết tôi: “2910 biếu luôn anh cả
cái bản thảo rách bẩn này. Anh giữ lấy làm cái kỷ niệm của một lần gặp nhau.
Anh muốn dùng nó làm gì thì làm… “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC” sang tay anh cũng là phải.
Vì xem chừng như anh cũng là nòi rượu, thích đàn hát và ưa bay nhảy lắm thì phải.
Đời tôi đời anh, nếu tôi đoán không nhầm thì hình như cũng đã có nhiều đoạn đường
song hành.”
Bạch sư thầy Tuệ Không,
Bây giờ tôi mới được hầu chuyện sư thầy về cái nghĩa sự sống
sự chết trong đời người. Và tôi muốn cho một nhân vật trong “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC” được đối chất ngay với sư thầy.
Ấy là Cô Tơ.
Và Cô Tơ, chính là sư thầy lúc này đó.
Cô Tơ, Tuệ Không, chỉ là một.
Cũng như Lãnh Út - Lịnh - 2910.
Nhà chùa không được chối, bởi vì Phật của Nhà Chùa bảo thế.
Sư thầy bỏ Chùa Đàn, sư thầy tìm ra quét lá ăn mày sư tổ ngoài tỉnh Đông. Rồi
sư thầy gởi mình ở Quỳnh Lâm, Dật Yên, ở Chùa Keo, chùa Dận, Yên Tử, Chùa Cói.
Sư thầy tu, kể cũng đã tốn nhiều chùa! Đi tù về, tôi bận lòng về một tập nhật
kí đem theo xuống núi và tôi đã cố dò tìm hỏi han về hành tung của sư thầy. Bằng
cách gì? Đó là cái công phu riêng của ngưòi nghệ sĩ muốn tìm lại một cái kiểu mẫu
người sống để đối chiếu mẫu cũ với một sự sáng tạo hiện nhiên của nghệ thuật.
Nhà Chùa không thể hiểu được! Sư thầy chỉ cần biết rằng tôi đã bắt mối được với
cuộc đời tiêu cực của Nhà Chùa. Sư thầy hãy gấp cuốn Kinh Hoa Nghiêm lại. Và ăn
bớt của Phật một vài tuần nhang thắp, để cái thời giờ đó mà luận định lại một
thái độ tư tưởng, - cùng với kẻ vô đạo này.
Vậy là trước khi đi tu để chối đời sống, sư thầy đã là con
hát của một cuộc đời sông hồ. Và ở cái lãnh thổ này đang cần đi gấp đến sự thực
hiện hoàn toàn của lịch sử và chưa qua được giai đoạn quốc gia, sư thầy không
thể đùn cho ai mà không nhận lấy cái dĩ vãng ngày nọ của sư thầy, nguyên chỉ là
một thái độ người thương nữ của bến Tần Hoài. Và ra điều rằng mặc mãi gấm vóc
tơ lụa rồi thì bây giờ mặc sang vải cứng nhuộm nâu chăng? Ra điều rằng chán nơi
tử các phồn tạp thì lại đi tìm cái mộc mạc lặng lẽ ngày nay để làm đối lập cho
cái xán lạn ồn ào ngày trước, mà sư thầy đã quên quê hương sinh trưởng, quên
tên thật tuổi thật, sư thầy đã vỗ đời sống để đem đổi tất cả thành ra một cái đạo
hiệu? hoặc đi hát hoặc đi tu, riêng trong hai việc mặc và ở dẫn ra đó, có lúc
nào sư thầy nghĩ đến những người đã cung cấp cho sư thầy những điều cần dùng hằng
ngày ấy cho thể xác không? Có lúc nào sư thầy nghĩ đến một người thợ dệt - dệt
tơ cũng thế dệt vải cũng thế, - một người thợ mộc một người thợ nề? - xây nhà
gác cũng thế mà làm đình làm chùa thì cũng thế. Để trả để đáp đền lại cái công
phu của bấy nhiêu con người ấy, sư thầy trước kia đã gõ một cỗ phách và bây giờ
đang gõ một cái mõ. Trước là một tiếng trúc của con người không chịu cảm thông
với thời thế, giờ là một tiếng gõ của con người đi trốn sống. Tôi không dám bảo
rằng thanh âm không có giá trị trong công việc đổi chấc của nhu cầu hằng ngày.
Vì cho đến bây giờ, cái tiếng gõ của một đồng xu một đồng bạc, không những vẫn
có chân giá trị của nó mà lại còn rất nhiều thế lực ở đời trao đổi nữa. Nhưng ở
thị trường của đời sống, cái tiếng gõ mõ của Nhà Chùa quả đã vượt ra ngoài mọi
ước lệ của giao dịch. Và cho rằng đã lập dị được trong sự ăn chay thì con người
ta có quyền bắt đời sống tiêu cái thứ tiền giả đó sao? Thà sư thầy lại cứ là
“cái Cô Tơ” ấy mà gõ cái tiếng tre đực như xưa, cuộc đời còn thấy thái độ ấy là
có nghĩa hơn.
Nhân nhắc lại tên Cô Tơ mà tôi lại ngẫm thêm về cuộc đời của
nhân vật ấy trong ký sự. Tất cả giá trị cả Cô Tơ ấy trong “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC” là đã làm cho Lãnh Út tái sinh lại qua cái chết của Bá Nhỡ. Qua cái hủy thể của
một người đánh đàn, Cô Tơ đã là một cái cớ thiêng liêng để Lãnh Út thác sinh lần
nữa vào cuộc sống. Cùng một lúc, làm chết một người đàn ông nhạc sĩ này để làm
sống lại một người đàn ông nghệ sĩ khác đang li bì dìm mình trong nước độc, rồi
cô ta lần đến một ngôi Chùa Đàn để mà tự tử dần - hay nói là đi tu thì cũng thế.
Sao lại có thể vô lý như thế được? Vụ tự tử câu dầm lâu ngày ấy chưa đến đoạn
chót hoàn toàn tắt thở. Vì cho đến lúc này, sư thầy vẫn còn ngồi ở dìa đời sống
để nhai cái hạt lúa của cuộc đời tạo ra và để đánh dấu cho sự có mặt mập mờ của
sư thầy ở cuộc đời, ngày nào sư thầy cũng nện mạnh một cục gỗ vào hai lúc lặn
và mọc của mặt trời. Trước khi chết hẳn mà chữ Nhà Chùa gọi là tịch, về chỗ
thanh toán một cái nợ áo và cơm - sư thầy tưởng ăn cơm không có thịt và mặc áo
vải là không chịu không nợ chung quanh hay sao? - của cuộc đời, đời sống muốn
sư thầy trả cho bằng những tiếng gì không phải là thanh âm mõ.
Bạch sư thầy Tuệ Không - nhất danh nữa là Cô Tơ.
Đối với đời sống cần phải sòng phẳng, thái độ của sư thầy là
một chuyện đánh bạc gian và cái thời khắc biểu của Nhà Chùa chỉ là những ngày
tháng cảu một bệnh nhân trầm trệ. Sự hô hấp của tăng già chỉ toàn có thán khí thôi,
lúc hít vào cũng như là lúc thở ra.
Ông Phật bảo rằng muốn là khổ. Và muốn không khổ thì chúng ta
nên giết chết những cái muốn đi bằng cái việc ta tự tử ta và cổ động điều đó
thành một phong trào có hội sở hương khói ngày ngày, hồ bóp nén con người tình
cảm chúng ta cho nó ngạt chết hẳn đi.
Lý trí của những người lành mạnh, trong nhân loại lại dạy rằng
chúng ta còn khổ mãi thế này là vì chúng ta chưa thành đạt trong cái ý nguyện
làm người của người đời. Chữ muốn, ta phải viết hoa nó lên. Cái Muốn ấy tức là
Khoa Học, là những khoa học và rồi nó sẽ là cái thành công của Cách Mệnh.
Còn có dục vọng nào chính đáng sâu sắc rộng đẹp bằng ý thức của
Cách Mệnh! Cái Muốn trong chủ định đi tới chỗ thành Con Người hoàn toàn ấy sẽ đặt
ngay Nát Bàn ở giữa cuộc đời thật tại này để ta có thể dờ mó được. Vậy mà có những
pho sách gỗ in đã bảo sư thầy nên diệt hết những dục vọng cao quý ấy đi để chạy
theo một bóng hạnh phúc ở mãi chỗ huyền ảo nào. Ấy thế rồi sư thầy mặc áo thật
của cuộc đời, ăn hạt gạo thật của cuộc đời để phản ngay đời sống bằng cái sống
lộn sòng như thế đấy. Không thừa nhận đời sống để mà nắn chuốt lại đời sống
theo những phép tắc xây dựng của thực tế, vỗ tuột công ơn của đời sống bằng một
cái thái độ tiêu cực ấy, chừng như cũng chỉ có những người cungc một nhãn hiệu
tư tưởng với sư thầy mới làm nổi được việc ngỗ ngược bất công đó thôi.
Bạch sư thầy Tuệ Không.
Đời sống là do chúng ta làm ra cả. Bây giờ nó còn hỗn độn, nó
còn lệch vẹo. Nhưng một ngày tới, nó sẽ đẹp, nó phải đẹp, nó sẽ không là bể nước
mắt như bây giờ mà nó sẽ là những công trường của vui cười. Để tới cái tương
lai ấy, chúng ta có mặt ở cuộc đời để mà dính vào cái phần kiến trúc riêng của
mình vào công việc xây dựng khổng lồ chung kia. Đằng này sư thầy trốn chạy cuộc
sống bỏ đi ngồi riêng ra một chỗ để chuyên soi mói đến cái phần không hay của
nhân loại và định tốt đẹp riêng lấy một mình. Đáng lẽ phải là một ngưòi thợ thì
sư thầy lại đã đi tu. Đáng lẽ phải ngồi ở một cái nhà máy, thì sư thầy đã tìm một
mái chùa. Niềm giác ngộ ấy, nếu có thành quả, thì lại càng đày sư thầy vào một
tội vị kỉ. Nói theo giọng Nhà Chùa nữa, thì chúng sinh thế giới còn chìm đắm
đông như cát sông Hồng Hà, sư thầy Tuệ Không định thành Phật với những ai? Một
mình chăng? Trong “TÂM SỰ CỦA NƯỚC ĐỘC”, đã có một Cậu Lãnh Út biến cải thành một
con số 2910. Để đăng đối với Lãnh Út - 2910, sao lại chỉ là Cô Tơ - Tuệ Không?
Sư thầy có thấy thiếu hẳn sự cân đối giữa hai nhân vật chính ấy của CHÙA ĐÀN
không? một đằng là sôi nổi sức sống, một đằng là dằng dặc những ám khí. Một bên
là đường đưa vào dương gian, một bên là lối dẫn về cõi chết. Phải, sư thầy đang
tự tử đó. Viết đến đây, bất giác tôi lại nhớ đến một cái tin vặt nhật báo nọ.
Số là có một thiếu phụ đã gặp điều bất mãn giữa cuộc sống mâu
thuẫn này. Thiếu phụ đó đã bỏ cái nhà mình đến ở một cái nhà của ông Phật để trở
nên một ni cô, nghĩa là trở nên một người ăn cắp gạo và vải của cuộc đời. Đời sống
chưa kịp đưa sổ đến hỏi nợ ni cô về chỗ ăn mặc trong suốt một thời kỳ lẩn lút đời
sống đó thì đùng một cái, không rõ vì lý do tình cảm gì, ni cô đã chấm dấu chót
cho cuộc tự tử dần bằng một nhát dao. Tờ báo đã nêu việc ấy lên dưới cái đề:
“Ni cô Mỗ đã quyên sinh!”.
A Di Đà Phật, tôi đọc tờ báo mà muốn cười. Vì rằng chẳng cần
đến cái mũi dao kia mà thiếu phụ ấy đã tự an táng mình khi đổi mình ra thành một
ni cô rồi kia mà. Cái chết gây nên bởi mũi dao này, là một vụ tự tử lần thứ hai
và nếu có đả động đến vụ quyên sinh ấy của người tu hành, có lẽ tờ báo kia nên
thêm vào hai chữ lập phương nữa thì mới phải.
Sư thầy,
Tại sao tôi cứ đòi chen lấn vào những trang kinh nhật tụng của
Nhà Chùa và giở lại những tờ dĩ vãng của Nhà Chùa? Đối với sư thầy thì Cô Tơ ấy
đã được sư thầy mai táng và tụng kinh sám hối cho rồi kia mà!
Không, Cô Tơ ấy phải sống - nghĩa là sư thầy cũng phải tái
sinh ngay lại vào cuộc đời thực tại này. Không cần phải đợi cho tóc mọc lại -
vì cần kíp lắm rồi - sư thầy Tuệ Không hãy trở ngay vào cuộc đời đi. Hãy trả lại
cho mái chùa cũ những câu kệ ngâm đã bao lâu nay. Hãy vứt lại cái mõ, cầm ngay
lấy đoạn trúc xưa mà hát lên một bài cho xứ sở rung thêm lên nữa với công cuộc
đang sinh thành. Trước mắt, quanh ta, Cô há chẳng thấy công cuộc đang tưng bừng
đi tới. Và trên xứ sở này đang ngổn ngang những công trình xây dựng mới, có rất
nhiều người thợ vấp ngã vì run rẩy vì bồng bột vì mệt nhọc vì vội vàng. Hãy hát
lên, Cô Tơ! Cầm ngay trúc ra mà nhịp đi. Bắt cao giọng nữa lên. Cái lâu đài của
Thị Trấn Ngày Mai chót vót mấy mươi từng, đỉnh đụng mây cao thế kia mà!
Cô hát lên những đau khổ những gian nan những lẩy bẩy những
thí nghiệm những oan uổng bất đắc dĩ của Con Người và những cố gắng những hy vọng
của cả hiệp thợ. Không việc gì mà dụt dè, Trước là một việc, giờ là một chuyện
khác. Trước hát cho dăm bảy kẻ nghe trong một khung cảnh ích kỷ ốm yếu. Giờ hát
cho cả một quê hương đang vi vu gió mới và lồng lộng một trời cao rộng chói
lòa.
Lịch sử đang chép những thanh âm của Cô đấy và đánh giá tiếng
hát Cô ngang hàng với những tiếng nhát búa, nhát bay tiếng gặt hái của tất cả một
thời.
Cô hát nhiều nữa lên. Lời đã có thời đại đặt hộ. Điệu cũng thế.
Cho tới ngày nay, chưa có cuộc Cách Mệnh nào của Con Người mà
bỏ được tiếng hát, Cô Tơ ạ.
Họ là bốn người hình thù kỳ quái, ngồi bên một chậu tiết đánh
đứng đỏ như son, trong một căn nhà lá ở Ô Đống Mác, một buổi sớm tết Trung
nguyên.
Cái làng chơi sư tử giấy rằm tháng tám ở đất Bắc vào đời hai
vua Thành Thái và Duy Tân vốn đã quen với bốn cái tên ngộ nghĩnh của bốn vị tay
chơi này. ấy là Ngồ Béo, Vạng Sài Goòng, Trưởng Lỡ và Sường Sáu Ngón.
Nhân vào kỳ tết rằm tháng Bảy, Ngồ Béo cho họp mấy bạn đồng
chí lại để dự định việc làm đầu sư tử và tổ chức đám rước vào ngày Trung Thu chỉ
còn trong có một tháng nữa thôi.
Ngồ Béo là người không có học, tính ngỗ ngược, lực khỏe lắm
và đã từng ghi tên tuổi mình vào xã hội hỗn loạn thời ấy bằng một huyền sử đem
về từ một cái bãi lau sậy lịch sử đất Hưng Yên. ấy là người đồng thời nói thế
và cũng chưa từng thấy Ngồ Béo cải chính một lần nào. Trong cái đời Ngồ Béo, nhất
sinh, kẻ thất phu ấy chỉ lấy việc múa sư tử làm một điều khoái hoạt nhất. Đời sống
của Ngồ Béo, cả một năm hình như chỉ có một ngày rằm tháng tám là đáng kể. Y đã
nói rằng "Nếu đức Thánh Tản Viên có hạ sơn mà cho em một cuốn sách ước thì
em chỉ ước rằng đời em ngày nào cũng được là một ngày tết Trung Thu. Tết Trung
Thu, hợp thành đảng đi múa sư tử, đánh trống trận, bật hồng, cướp cỗ và đớp
bánh nướng, thú lắm các chú ạ".
Ngồ Béo có một người vợ chuyên làm nghề bán thịt ở cửa ô. Thấy
người đàn bà đồ tể ấy, chọc tiết lợn, cạo lông lợn và những lúc liếc lưỡi dao bầu
vào cán cân sắt tiếng nghe rít rít mau mau như tiếng mảnh vỏ chai cạo ống
giang, nhiều nhà hàng xóm lấy làm rờn rợn ở trong lòng mình, ở đằng sau gáy
mình. Họ phỏng đoán trước đến những cuộc xô xát giữa vợ chồng Ngồ Béo. Có một lần,
người chồng bạo thiên nghịch địa ấy, một buổi say rượu, đã muốn đem vợ ra để
làm sinh vật tế cờ. Ngồ Béo bắt luôn con dao bầu sáng nhoáng của người vợ lăng
loàn đang cầm ở tay vừa tuột xuống vì bàn tay nhầy nhụa những mỡ. Vợ Ngồ Béo
tránh miếng đoản đao, thuận tay vớ được chai rượu, ghè mạnh đít chai vào thành
giường cho mất hẳn cái cù lao ở trôn chai đi. Đường chai vỡ, lởm chởm những
răng cưa sắc muột. Vợ Ngồ Béo cầm lăm lăm cái khí giới bằng thủy tinh mà chuôi
là một cái cổ chai, thử thách chồng: "Mày tài giỏi thì cứ vào đây với
bà". Cuộc đổ máu ấy không xẩy tới và sẽ không bao giờ xẩy đến nữa vì hai vợ
chồng Ngồ Béo đã biết nhau là xứng đáng kết làm đôi bạn. Vợ chồng phục lẫn nhau
đã đành mà ngay đến các "chú nó" cũng thường ca ngợi đến cái đức tính
gan đởm của vợ Ngồ Béo.
Cái chậu tiết hãm kia là của vợ Ngồ Béo để lại cho chồng trước
khi đội mẹt thịt nhà ta góp với cái nhầy nhờn của buổi chợ sớm tại cửa ô. Nàng
đã bảo chồng:
- Hôm nay là ngày Tết, buổi chiều ai chả phải cúng và đón các
cụ ở "dưới ấy" lên. Vậy nhà nên mời các chú ấy ăn uống vào buổi sáng.
Tôi hãm tiết rồi đấy. Nhà mượn chú Trưởng Lỡ giúp cho một tay. Tôi phải đi bán
thịt chợ Tết, chứ nếu được rỗi mà ở nhà thì phải biết, gái này mà đánh tiết
canh thì cứ xâu lại mà treo.
Buổi sớm ấy, có bốn kẻ thất phu ngồi uống rượu với tiết canh ở
cửa ô Đống Mác. Máu đông món nhắm có màu sắc một chậu huyết ăn thề. Gợi đến việc
múa sư tử năm nay, Ngồ Béo nhắc lại chuyện năm trước và trách luôn Sường Sáu
Ngón:
- Chú hỏng. Năm nay không cho chú chặn hậu nữa. Chặn hậu thế
nào mà năm ngoái chú để cho bọn Bạch Mai nó cướp mất đầu sư tử, và để cho chú
Trưởng Lỡ bị ba nhát xẻng chém vào trán.
Trưởng Lỡ xoạc miệng ra để nói to, làm răn rúm lại ba cái sẹo
bóng phía trên lông mày.
- Mấy vết thương của em dạo ấy cũng chả có gì là đáng kể. Chơi
dao thì phải có lúc đứt tay chứ. Có cái đáng phàn nàn là chúng ta đã đánh mất một
cái đầu sư tử rất quý. Khởi thủy là tự tay anh Ba tôi làm ra nó. Đến đời chú
tôi múa là được bốn năm. Tôi kế nghiệp vào, vừa vặn cộng lại được là chín năm.
Giá năm ngoái không bị kẻ kia cướp qua tay, năm nay ta làm một cái lễ thập chu
niên cho con sư tử của bọn mình thì vẻ vang biết mấy.
Sường Sáu Ngón muốn cho anh em đừng lôi mình ra mà trách móc
nữa, bèn kiếm một câu chuyện làm quà với Ngồ Béo.
- Các anh đều biết lão Sập Vầy làm tài phú ở hiệu Đông Hưng
Viên đấy chứ. Chú ấy muốn anh em mình năm nay lại lên múa ở hiệu chú. Hôm nọ gặp
em trong ngõ Sầm Công, chú có bảo đã để dành riêng một quầy thịt lợn rừng sấy
Quý Châu để làm riêng mấy cân bánh nướng treo giải sư tử cho anh em mình.
- Ừ thì múa. Bánh nướng Đông Hưng Viên ngon có thể quên nguy
hiểm được đấy. Năm nay anh lại cất công từ dưới này lên tận Hàng Buồm một chuyến
nữa. Chả phải vì tham mấy miếng bánh, nhưng chính là để cho những đám khác
chúng nó biết rằng đây mình bất chấp đến cả chúng nó vì chúng cứ tưởng rằng
giang sơn nào là của riêng anh hùng ấy. Để rồi năm nay ta thử xem cái bọn thằng
Thiềm Thừ Sắt ở ô Quan Chưởng có còn giữ độc quyền nữa thôi. Nó thường bảo phố
Hàng Buồm là riêng của nó, đứa nào dám đem sư tử lên đến "giang sơn"
nó mà múa thì nó cho một nhát xẻng và một manh chiếu bó xác.
- Sập Vầy lúc ấy thích anh lắm. Lão bảo anh múa hay lắm. Đến
ngay bọn tùy tướng quân Cờ Đen đóng ở tỉnh Đoài, ngày xưa múa cũng chỉ hay đến
thế thôi. Lão còn khen anh về cả cái tài ăn bánh nướng nữa. Mỗi cân bánh chỉ ăn
có bốn miếng. Vừa múa vừa ăn. Đứng công kênh trên vai bốn năm người nối lên
nhau làm cái thang đã chênh vênh rồi mà anh chỉ múa đầu sư tử đỡ có một tay,
còn một tay thì thò từ trong mồm sư tử ra giật bánh giải mỗi cái vừa một miếng
ngồm ngoàm.
Ngồ Béo cười khì khì một hồi, xong rồi bèn nhìn ra phía cửa
mà kêu:
- Quái, sao cái tên Lương Con bây giờ chưa thấy mò tới nhỉ.
Anh đã nhắc đi nhắc lại đến ba bốn lượt để hắn nhớ ngày mà xuống rồi kia mà.
- Lương Con nào? - Vạng Sài Goòng hỏi.
- À, một đàn em. Con một ông Đồ! Thế mới thú chứ. Có chú Vạng
đây chưa biết đến hắn đấy nhỉ. Để anh kể chuyện cho mà nghe. Nguyên ông cụ đẻ
ra chú Lương Con là một người đi thi mãi mà không đỗ. Ông bèn theo lũ cháu sang
Hà Nội ở luôn ở Hàng Bạc với những người làng làm nghề vàng bạc. Chín phần mười
những người Hàng Bạc là thuộc về phường Châu Khê tỉnh Hải Dương cả đấy chứ. Ông
ta bây giờ ngồi viết chữ cho những người thợ chạm khắc vào vàng bạc và gần ngày
Tết thì mang chậu mực và cây mực ra đình Hai Ông Tướng Hàng Bạc mà viết câu đối
thuê. Một ông bố hiền lành như thế mà lại đẻ phải một ông con chỉ thích múa gậy
và nhẩy đá bì cát. Lương Con hay xuống đây học võ, thụ nghiệp cụ Cử Miên, tập
chuyên lắm nhé. Có y làm đàn em, năm nay làm đầu sư tử cũng đỡ được một khoản
giấy bản. Y có khoe rằng Cụ Đồ Châu Khê có những mấy chục chồng sách nho tấn
vào mấy cái níp sơn đỏ cứ chắc cứng lại. Chỗ ấy mà đem ra dùng thì có bồi đến một
chục cái đầu sư tử đại mới hết được giấy bản... Năm nay có bồi, ta cho bồi độ
mười lăm lượt giấy. Khí nặng một tí nhưng tha hồ cho xẻng cuốc chém xuống.
Gần tàn tiệc, Lương Con mới tới. Để trả lời một câu hỏi bằng
mắt xếch của Ngồ Béo, chàng buồn rầu nói rất khẽ:
- Ngày mai mới có dịp đưa xuống được. Em rình cả đêm hôm qua,
cả sớm nay mà vẫn không cậy được mấy cái níp sách.
Ngày mai, đúng hẹn, Lương Con đưa xuống nhà Ngồ Béo có đến
hai bồ con sách chữ Nho.
Đã sẵn cái cốt gỗ đầu sư tử mượn từ đâu và đưa về từ bao giờ,
bọn Ngồ Béo xoay trần ra bắt đầu bồi đầu sư tử để kịp chơi rằm tháng sau.
Họ tháo sách, để riêng ruột sách ra một tập và bìa phết cậy
ra một tập. Họ bỏ bìa cậy ngâm vào những nồi nước và sau khi bìa đã sũng nước
thì đem bỏ vào cối mà giã như giã giò. Những nắm bột giấy lẫn chất cậy nâu nâu ấy,
họ dùng để đắp mũi, đắp gò má và mi mắt và sừng sư tử.
Người ta gỡ những tờ giấy bản ruột sách, căng phẳng ra và đắp
lên cốt gỗ một lượt lại một lượt. Dưới sức thấm tẩm của lần hồ vữa, những chữ
son, những chấm son chấm câu đã hết cả tươi thắm và xạm mãi mầu xuống. Hôm cái
đầu sư tử thành hình đắp bồi thì cái mùi thơm của những cuốn sách chữ Nho của
Ông Đồ Châu Khê đã là một cái mùi ung ủng như mùi gỗ ngâm nước bùn. Tháng bảy
hay mưa dầm, khí trời lại nồm, mùi ung ủng ấy càng bốc mãi.
Đấy là cái kết quả mười năm đèn sách của Ông Đồ Châu Khê. Bao
nhiêu công phu của Ông Đồ Châu Khê ngồi gẫy lưng chấm câu cho mấy bộ Kinh giờ
chỉ còn là thế. Trong cái đầu sư tử giấy, có cả một bộ Kinh Thi, một bộ Kinh
Thư, một Kinh Lễ, một Kinh Dịch, thêm một tập thơ của Ông Đồ những lúc than
thân, những lúc than thời. Cái thời của Ông Đồ Châu Khê đã hết từ năm ngoái kia
rồi, nghĩa là năm Nhâm Tý, Nhà nước mở một khoa thi cuối cùng cho người theo chữ
Hán. Năm Nhâm Tý khoa thi cuối cùng, Ông Đồ Châu Khê cũng lại bay. Và năm nay
là năm Quý Sửu, Ông Đồ ấy vẫn chỉ là một Ông Đồ ngồi ăn ốc trông giăng ở một
cái gác tẩu mã phố Hàng Bạc, với một ông bạn già cũng lỗi giờ sinh như mình.
Đêm rằm tháng tám ấy, trước khi vào tiệc rượu thưởng giăng -
có rượu cất hương sen Hồ Tây, có ốc gác mồ hóng bếp, có xôi vừng nén - Ông Đồ
Châu Khê pha một ấm chè hạt, nước sôi đun bằng những mấu vầu chẻ lạt bẻ khuôn
vàng còn thừa lại, tàn than trắng xốp như bông. Để thi vị hóa cảnh mình thanh bạch,
Ông Đồ gọi chè hột là chè tùng viên - hột tùng! ắ và cái than hoa loài tre kia là
than bạch tuyết. Ông nhìn trăng và tự nhủ rằng đem than bạch tuyết mà nấu chè
tùng viên thì còn gì thơm ngon bằng. Phường Châu Khê, người Hàng Bạc, xưa nay vốn
lại có tiếng là pha chè hạt rất ngon.
Ngoài đường phố có tiếng ồn ào của những đám rước sư tử diễu
qua và tiếng trống, thanh la vọng mãi vào cái gác sâu này.
Ông Đồ Châu Khê, vẫn chưa biết là Lương Con, con mình đã rút
mất mấy phần ruột sách quý của mình, bèn chỉ mấy cái sách sơn son cũ màu, nói với
người bạn già bằng một giọng cảm khái:
- Chữ Nho bây giờ hết thời rồi. Sách thánh hiền bây giờ chỉ
còn là đám giấy loại. Mỗi vụ Trung Thu, bọn làm đầu sư tử phá hại không biết
bao nhiêu là sách của cổ nhân. Một cái hồi loạn Văn Thân, bọn ta đã bị cái nạn ấy
rồi. Bao nhiêu sách giấy bản là đem ra làm áo giáp hết... Bác không tin lời tôi
nói thì hôm nào thử lấy một mũi mác đâm xem có thể thấu qua được một cuốn Tính
Lý này không. Hết làm áo giáp trấn thủ đỡ mũi nhọn đánh nhau lại đến làm cốt bồi
đầu sư tử múa chơi, cái công tiền nhân đeo một cái bồ "Kính tích tự chỉ"
sau lưng những lúc lượm giấy rơi ngoài đường, nghĩ mà lại tiếc quá bác ạ.
May mà tôi còn giữ lại được hết cả ở trong kia.
Cụ tự đắc, nhấp chén cười khà.
Cũng một đêm rằm ấy, vào cùng một cái giờ cảm khái của Ông Đồ
Châu Khê, ở phố Hàng Buồm, có một đám múa sư tử to quá, đang đòi ăn giải thưởng.
Nhiều tay anh chị quen, búi tóc giấu trong một vuông nhiễu
xanh trông như đức Thánh Quan, cũng nghỉ một buổi xe cao su con bọ ngựa; phụ
vào đám rước Ngồ Béo để trợ lực lúc động dụng.
ở trước con sư tử do Ngồ Béo múa rất dịu dàng, Lương Con đánh
côn, múa ngọc để dứ con thú càng quay cuồng nhiều. Trông Lương Con không ai ngờ
đấy lại là con một ông Đồ. ở trán chàng có một cái sỉ mẩu gắn kính, ở ngực
chàng có một cái thần hồng bằng nhiễu điều, ở bắp chân chàng có một đôi xà cạp
vằn hổ rất ăn với đôi giày Tầu điểm một quả bông hỏa diệm sơn. Lương Con thỉnh
thoảng lại cho bật hồng, ngậm một ngụm dầu tây phun vào búi giẻ cháy nơi đầu
que sắt. Lửa bùng lên, soi sáng con sư tử, soi rõ vào mặt Lương Con mồ hôi chảy
ròng ròng. Chàng hét, chàng lộn. Tiếng trống và thanh la lúc thưa lúc mau làm
cho mọi người đều say với cái đầu sư tử râu bạc phơ phơ. Nhưng mọi người đều lấm
lét nhìn nhau khi hai cái xe bò kia đã đun từ cuối đám rước lên đến gần chỗ
múa. Một xe bò toàn chiếu cói. Một xe bò toàn xẻng bóng nhoáng. Và đuốc nứa. Và
đuốc giẻ tẩm dầu.
Nhiều người nghĩ trước đến lúc hai đám du côn cướp đầu sư tử
của nhau và chém nhau bằng xẻng và liệm tử thi nhau bằng chiếu, nhiều người tự
hỏi xem có nên bỏ dở cuộc vui mà về ngay bây giờ hay không.
Trung Bắc Chủ nhật, số 29 (15-9-1940)
Giữa quãng cuối đời vua Thành Thái và đầu đời Hoàng Tôn Tuyên
hoàng đế,đất Thuận Hóa có ba người đàn bà rất đẹp và rất lẳng lơ.
Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng cái tiểu xảo, bằng cái
duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp ấy đã thừa tô điểm cho xứ
Huế trong một thời.
Cái thời ấy là thời của Nhà nước Bảo hộ tạm gọi là yên trong
cuộc bình định. Nơi quê hương, vào những ngày u hoài âm ỉ, gió Đông Bắc còn gửi
mãi về cái mùi diêm sinh đem từ ngoài bờ cõi vào. Nhưng, mặc kệ, dưới chân một
nếp hoàng thành, bên bờ một con sông nước không bao giờ có sóng, mỗi ngày vẫn
có ba người đàn bà ca hát từ lúc mặt trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc. Tiếng
đàn hát trên mặt nước một con sông nông lòng và không gợn chút tăm cá, đã vẳng
đưa ra rất rộng. Thấy thế, một vài ông già mặc áo vải, mỗi lúc chống gậy trúc
ra bến, ngắm bóng nắng tàn rụng phía bên tả ngạn sông Hương, đã thốt ra những lời
than thở.
Nhưng, giọt lệ già của người mặc áo vải rỏ rơi xuống thì cát
nơi bãi sông cứ việc thấm hút và uống cạn. Và có một cái gì vẫn còn lại mãi mãi
ở hai bờ sông Hương thì vẫn chỉ là những tiếng hát. Tiếng đàn hát của giai
nhân.
Họ là một bộ ba có ba cái tên rất đẹp, rất thơ mộng: một người
là Mộng Liên, một người là Mộng Huyền và một người nữa tên là Mộng Thu. ở Huế,
những cái miệng tuổi tác đã bắt đầu theo thị hiếu mà nói luôn luôn đến ba cái Mộng
xinh kia và luôn luôn tấm tắc:"Thần kinh hữu tam Mộng".
Giữa cái thế giới đàn sáo của thành đô, ba cái Mộng xinh đẹp
mỗi đêm rải rác ra mọi bến đò tản mát ở dọc sông Hương, những cái sở đắc về
thanh và sắc của mình.
Nước một con sông hiền lành đẩy nhẹ cánh hoa vô định lừ đừ
trôi một mình theo những cái xoáy nước yếu đuối. Mỗi đêm, ba cái Mộng gõ một nhịp
phách, bấm một dây tơ và để rồi phá cười lên vài trận. Để cho cái xã hội đàn
ông mặc áo xanh ẩm ướt phải thèm muốn. Thế rồi trong một đêm tốt đẹp, có một
ông Phó Sứ giữ lăng, đã đứng lên làm chủ cho một cái Mộng. Mộng Liên đã về hẳn
với quan Phó Sứ.
Một cái miệng cười, mười ngón tay tháp bút trước kia là của
chung thiên hạ, bởi vì nó không có sở cứ, bây giờ đã trở nên của riêng một nhà.
Cặp vợ chồng ấy là một lứa đôi tài tử.
Ông bà Phó Sứ giữ lăng không mấy khi ở yên một chỗ.
Cái nghề của họ buộc họ phải xê dịch luôn luôn và mãi mãi. Suốt
một dải Trung kỳ, họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ
lại mở một cái túi đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu
bạc văn chương, Mộng Liên lại đàn, lại ca để làm vui cho cuộc đỏ đen rất trí thức
này.
Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh.Cái chiếu bạc thả
thơ của họ thường trải ở một phủ nha, huyện nha hay là nơi tư thất một đốc bộ
đường. Bất kể lúc lên voi, lúc xuống chó, lứa đôi này đã để dấu giầy trên mọi
chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi thơ và cái túi phách ăn người của họ. Họ nhờ
vả cổ thi, kiếm ra cũng được rất nhiều tiền. Nhưng cái giống lãng tử cầm tiền
thường không nóng lòng bàn tay và có mấy khi họ nghĩ đến sự bảo hiểm cho ngày
mai của mình. Vợ chồng ông Phó Sứ chưa bao giờ nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một
chỗ nhất định nào.
Quê hương của họ là Cờ bạc và Đờn hát. Nhà cửa đôi lưu đãng ấy
gửi vào trong cái truy hoan của thiên hạ. Cái lãi trong đời bấp bênh của họ là ở
chỗ nhiều người đã nhắc nhỏm tới cái tên Mộng Liên và Phó Sứ, mỗi khi lứa đôi
chậm tới hay là đã lâu rồi mà chưa thấy trở lại. Người đánh thơ được,người đánh
thơ thua xiểng liểng, ai ai cũng đều nhớ đến họ những khi xa vắng. Hình như bấy
nhiêu người đều nhận ôngPhó Sứ là đáng mặt làm nhà cái cho những buổi thả thơ rất
nên thơ; mở xong mỗi tiếng thơ có khi ăn thua từng mấy chục bạc, người ta đều
ngâm đi ngâm lại câu thơ thả. Nhà con, nhà cái đều ngâm vang cả nhà, chừng như
muốn thi nhau một cái giọng tốt, chứ đồng tiền mất đi hay thu về được gấp ba số
đặt, thời có gì là đáng kể. Giữa hai tiếng bạc trên một chiếc chiếu la liệt những
mảnh thơ đề, Mộng Liên đêm đêm kề đùi tựa má ông Phó Sứ, lại đánh đàn, lại ca
Nam bằng, ca Nam ai.
Có lẽ không riêng gì ở một nơi, mà ở mọi nơi, những lúc sốt
ruột chờ mong vợ chồng ông Phó Sứ trở lại với túi thơ, mỗi buổi gần giờ tan buổi
hầu, những lúc việc quan thanh thản, bao nhiêu thầy thừa phái ở các ty Phiên,
ty Niết và những ông Hậu bổ, Thông Phán tỉnh, Kinh Lịch đã nói những câu:
- Quái lạ, sao cữ này hai ông mụ đó đi lâu quá chưa trở lại
thả thơ cho bọn mình chơi hè!
- Đánh thơ của lão Phó Sứ có cái rất thú là được thua chi
chi, mình cũng đều lấy làm thích cả. Bởi vì lão biết chọn những câu rất hay mà
thả. Mỗi lúc ngâm lên, cái hay của câu thơ đã làm cho bọn mình lạnh hết cả người.
- Chẳng thế mà quan Kinh ngài đã mấy lần phải bán lương non,
thua nhẵn.
- Chơi cái gì thì chơi, chứ đến cái lối đánh thơ thả, cái
nghiệp những anh đã hay chữ lại thêm tự phụ, là chỉ mãn kiếp thua không còn lấy
một đồng một chữ tiền.
- Và có nhiều đứa dốt cay dốt đắng, thì lại mỏi tay vơ tiền.
- Quan bác có biết tại sao không? Đệ cho không có cái nào lợi
hại bằng lão Phó Sứ. Hắn lấy ý tứ ra mà dò tiếng bạc của từng người. Nếu lão biết
quan bác thích lối thơ liệu, đọc lên âm thanh và niêm luật tròn trĩnh, nhịp
nhàng, thế nào lão cũng rình lão thả một đôi chữ rất quê kệch hay là khổ độc.
Quan bác mấy khi lựa những chữ quê kệch mà đặt tiền. Vậy nên lão vòng những chữ
rất ngớ ngẩn đó. Thế là quan bác mất nghiệp, nếu bữa đó, quan bác lại đặt tiền
đến tột cửa. Và lão lại còn bán cho mấy cửa đánh những chữ ngô nghê mà lão biết
trước sao mình cũng khinh rẻ.
- Kỳ tháng trước, quan Kinh phải đi khám án mạng ở vùng quê
thành ra bỏ lỡ mất buổi thả thơ mà tôi rất lấy làm hứng thú. Ngài nghĩ, tôi đã
bắt thóp được một câu do sự vô ý của mụ Mộng Liên. Nguyên hôm ấy, lão Phó Sứ
cho thả năm chữ: cầm, thử, đan, thiếp, sầu trong một câu thơ mà lão
"vòng" chữ đầu" Vòng tâm duy hữu dạ đăng tri". Kể cũng khó
đánh đấy chứ. "Ngọn đèn dầu ban đêm soi tỏ, biết cho tấm lòng gì?"
Lòngđàn? Lòng son? Lòng một thiếu phụ? Lòng sầu? Phân vân lạ. Bỗng tôi thấy mụ
Mộng Liên ngồi cạnh,nhìn chăm chú vào chữ thả đứng đầu là chữ cầm, rồi mụ thánh
thót bấm khẽ mấy tiếng đàn nguyệt. Tôi đánh ngay chữ cầm ngài ạ. Tôi đoán già
là lúc ở nhà vòng chữ, chồng đưa đùi cho vợ gối, lão Phó Sứ đã bị tiếng đàn của
vợ dạo lên buổi đêm ảnh hưởng nên lão mới thả chữ cầm. Và đánh chữ cầm,thế nào
cũng ăn. Hôm ấy tôi đặt hai chục được sáu chục và muốn tỏ ý cám ơn người đánh
đàn một cách kín đáo, hôm sau tôi đã mua biếu Mộng Liên một cây đàn nguyệt có bốn
cái trục bằng ngà voi nẩy. Đấy, chơi thơ, nhiều khi tâm lý nhiều vào là ăn.
- Tâm với lý gì. Có biết thơ thả, lão Phó Sứ thường mua lại của
ai không? Mua của Tào Sắt bên phủ Tuy Lý Vương! Hai ba đồng, tiền công vòng một
trăm câu. Thơ Tào Sắt mà thả, thì đừng có hòng mà ăn.
- Này, các ngài có được rõ câu chuyện lão Phó Sứ dám thuê thợ
bên Tàu khắc riêng cho mình mấy tấm thạch bản in thành một tập thơ mỏng không?
Lão ra khuôn mẫu cho họ in nhiều câu có những chữ lạ, rất ngộ nghĩnh và mỗi khi
đem câu đó ra mà thả thực không ai ngờ đến. Nhưng chỉ có khi nào đánh to lắm,
lão mới giở đến bí thuật này. Lão tìm đến những quan to và có tiếng là hay chữ,
lão mới thả một hai câu thật gay go. Các quan thua, đòi lão phải dẫn chứng cổ
thi, lão giả vờ bịt tên sách lại,che kín lề, mép và gáy cuốn thơ, chỉ cho xem đủ
cái câu thả đó và đủng đỉnh, tủm tỉm trình với cả làng rằng đó là một câu thơ Tống.
Thật là rõ ràng chữ thạch bản, chữ tuy nhỏ bằng con kiến, nhưng đeo kính vào
xem, chữ không nhòe lấy một nét. Nhiều người thua cay, thường chỉ tự trách mình
xem cổ thi ít quá và tặc lưỡi kêu: "Cổ nhân dùng chữ úp mở uyển chuyển quá
đi thôi. Họ cậy có tài, tự cho mình cái quyền hạn hững chữ quá lắt léo, đem cái
quyền lực của sáng tạo ra mà làm bọn mình đảo điên cả nhận thức và cả tiền bạc
nữa. Còn ai biết đằng nào mà lần nữa". ấy một năm lão Phó Sứ dùng lối thả
thơ sanh tử như thế độ một đôi lần, đủ gỡ lại những bữa thua to. Chà! Nhưng mà
nghĩ lắm lúc cũng tội. Vợ chồng họ nhiều khi thua nhẵn. Lắm bữa không có lấy một
chữ tiền mà thửa dây đàn nữa. Và hai ông mụ phải vờ cáo bệnh nằm bệt một nơi có
khi đến hàng tháng.
- Cụ Tuần trước ở đây, chơi không được lịch sự, thành thử vợ
chồng ông Phó Sứ họ cũng đâm nhờn. Ai đời đi mặc cả với họ mỗi buổi đánh thơ
xong, phải đưa cho mình một số nhất định là bao nhiêu, mặc dầu họ thua hay là
được. Không những thế, Cụ lại còn quấy nhiễu họ giữa những tiếng bạc lớn. Lấy
tiền nhà cái, lúc năm đồng, lúc mười chữ, tẹp nhẹp quá. Hình như Cụ còn chớt nhả
với cả mụ Mộng Liên nữa.
- Thì cũng phải lấy hồ chút ít chứ sao? Có thế thì những buổi
hội giảng đầu tháng bên tòa bên tỉnh xong, Cụ mới giữ các quan phủ huyện lại
cho chớ? Vậy chớ ai trả tiền những mâm rượu linh đình giáo đầu cho mỗi cuộc thả
thơ?
- Cái ông huyện Bình Khê, người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm
lạ. Ông ta chúa hay vờ vĩnh. Nhà cái chưa thả thơ xong, ông cứ vờ vĩnh giục ồn
lên những là lâu và làng đặt tiền chậm như thế thì một đêm, phỏng thả được mấy
câu thơ. Thế rồi ông vồ lấy lá thơ đặt ở giữa chiếu, dọa mọi người nếu không đặt
tiền nhanh lên thì ông thổi tuột lá thơ ra và xin làng, nếu nghĩ lâu quá, thì đợi
đến câu sau hãy đánh vậy. Mỗi lần ông cầm lên đặt xuống lá thơ, cái mẩu giấy
tàu bạch cuộn tròn như tổ sâu kèn lại nới giãn dần ra một chút. Và ông đã hé
nhìn được chữ gì viết trên đầu giấy, cuốn tròn tận vòng trong cùng lá thơ. Mắt
ông ta nhanh như cái cắt. Có lần ông Phó Sứ vòng một chữ bút, ông huyện vờ xin
thổi thế nào mà nhìn được cái nét sổ dài. Rồi là có bao nhiêu tiền đem đặt vào
chữ bút đến tột cửa! Nhưng, mụ Mộng Liên xem chừng cũng hiểu, nên mỗi lần sau,
ông huyện Bình Khê động tay vào lá thơ là mụ lại buông tay đàn, chận lấy giấy
và nhìn trừng trừng vào giữa mặt ông huyện có tính gian giảo kia.
Đêm hôm đó người ta bày cuộc đánh thơ ở nhà ông Kinh Lịch. Mọi
người tụ tập ở đấy đều lấy thế làm vừa lòng. Vì, ít ra, ở đây, người ta cũng
chơi bời có phần được tự nhiên hơn ở trong dinh các cụ. Ông Kinh Lịch là một
người trọng cái sạch sẽ của tâm hồn, nói to cùng mọi người là ông không thu tiền
hồ. Ông chỉ yêu cầu ai được thơ nhiều nhất thì nên cho người lão bộc nhà ông một
số tiền nhỏ mọn để đền lại cái công nó làm dầu, làm đèn, nấu cháo và bưng điếu.
Ông Kinh lại còn khẩn khoản với mọi người đừng nên làm huyên náo nhà cửa lên.
Ông vui vẻ nói:
- Đã hay rằng vớ được câu thơ hay, ai mà chẳng muốn ngâm vang
lên. Thứ nhất lại ngâm vang câu thơ thả mình vừa đánh trúng cái chữ hiểm hóc,
thì ai mà bụm miệng được. Một người ngâm, cả làng phụ họa vào, ồn ào bằng vỡ chợ,
cái đó cũng là thường tình. Nhưng, tôi xin các ngài biết cho là chúng ta ở
trong thành, gần ba dinh Cụ Lớn, mình không nên làm náo động quá. Bình khe khẽ,
đủ nghe với nhau thôi.
Cả một lũ con bạc lên mặt tài giỏi, nhìn ông Kinh Lịch cười
hóm hỉnh và khoan thai bước vào chiếu giữa. Ông Kinh Lịch châm thêm dăm bảy cây
sáp nữa đã gắn sẵn vào đế đèn đồng. Tất cả thành thử đến hơn mười cây nến,
chung nhiệt độ lại để tăng bốc cái mùi thơm gắt ngát của một bình hoa rộng miệng
chứa gần trăm gốc huệ trắng. Hoa huệ mãn khai cuộn cong đầu cánh trắng lại như
những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở mạnh,
của hơi thở dồn vang càng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả,
có người rít mạnh mồi thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng hoa
huệ. Hơi huệ ngùn ngụt bốc lên, quyện lấy mùi dầu dừa nơi mái tóc Mộng Liên. Mộng
Liên mặc chiếc áo màu hỏa hoàng ngồi ép sát vào chồng, mặc một chiếc áo lụa năm
thân nhuộm màu khói nhang đột chỉ trứng rận. Ông Phó Sứ vừa gỡ túi thơ vừa hỏi
làng:
- Dạ thưa, có đánh thơ cổ phong không? Và có đánh chữ chân
không?
Một con bạc ít tuổi và chừng như mới tập tõng lối chơi chữ
này, hỏi lại:
- Đánh thơ cổ phong? Thôi, nếu thả thơ cổ phong thì anh em ở
đây đưa tiền cho ông tiêu hết. Còn đánh chữ chân là thế nào?
- Cái ông thừa nhà tôi đến hay lẩm cẩm. Đã đi đánh thơ đòi ăn
tiền thiên hạ, còn hỏi lục vấn thế nào là chữ chân. Thưa ông, câu thơ bảy chữ,
đem vòng chữ thứ bảy cuối cùng cho làng đánh, thế gọi là đánh chữ chân ạ.
- Nếu thế thì đánh cả chữ trắc và cả chữ bằng à? Thôi, xin
làng cứ theo như lệ mọi khi mà đánh. Đây, chúng tôi không phải là thi bá, không
dám đánh chữ vần, chữ chân.
Ông Phó Sứ và Mộng Liên nhìn nhau cười; vợ chồng có ý bảo thầm
nhau rằng làng cũng khôn đấy nên mới không dám trêu vào lối đánh thơ hiểm hóc
này.
Lá thơ đầu tiên đã ra khỏi miệng túi gấm vẫn khư khư nằm
trong tay Mộng Liên. Cả làng chăm chú nhìn và ngâm ngợi và ngẫm nghĩ. Cái gì mà
".... thượng, mai khai, xuân hựu lão"? Cuối lá thơ thả, có sẵn năm chữ
thả viết xương kính: tái, sơn, đình, mộ, Văn. Cả làng ngâm:
- "Vòng" thượng, mai khai, xuân hựu lão.
Vẫn lời cái ông thừa trẻ:
- Tái, sơn, đình, mộ, Văn. Ta đánh chữ tái "Tái thượng,
mai khai, xuân hựu lão". Hoa mai... nở trên mặt ngọn ải... xuân lại già nữa.
Nghĩ ngợi lâu, ông thừa trẻ trở nên do dự. Thấy ông Thông
phán tỉnh, người có tuổi và vốn sành về môn thơ thả, đánh chữ Văn, ông tỏ ý ngạc
nhiên:
- Văn thượng, mai khai, xuân hựu lão. Quái nhỉ! Sao lại Văn?
Rồi ông thừa cứ mân mê mãi cọc tiền, không biết nên đặt chữ
gì để ông Phó Sứ phải sốt tiết lên cắt nghĩa hộ cho bằng vẻ lễ phép ngụ nhiều
ngạo mạn kín đáo.
- Thưa ngài, Văn là con sông Văn chảy qua đất Lỗ, quê đức
Thánh Khổng. "Mai nở trên sông Văn, xuân lại già". Cụ Phán tỉnh đánh
thơ như thế, câu đó ngài cho làm lạ lắm sao?
Và, xem chừng cả làng cũng không có một ai đánh thêm được đồng
nào nữa, ông Phó Sứ xin làng cho phép ông được thổi lá thơ cuộn tròn để tuyên bố
cái kết quả tiếng bạc đầu tiên. Ông đã nhẹ nhàng cầm lá thơ, phồng má định thổi
phù một cái. Một vài người vội vàng vứt thêm tiền đặt vào mấy chữ tái, sơn,
đình. chỉ có chữ mộ là không ai đánh cả.
Mộng Liên ngồi đánh được một phần ba bản đàn Nam bình*.
Thế rồi tiếng bạc mở.
Và cả làng đều ngã ngửa ra khi đọc rõ lá thơ thả kia là câu:
"Mộ thượng, mai khai, xuân hựu lão". Cả làng nhao nhao:
- Ô, cổ nhân dùng chữ ác thật. Hoa mai nở trên nấm mồ, xuân
càng già. Thơ phú thế có giết người không? Ai biết đằng mô mà lần, mà đoán.
Ông Phó Sứ trước khi vơ tiền cả làng, vì không ai đánh chữ mộ,
ông đã vội trình với làng một trang sách thơ mở rộng. Và tay vừa chỉ một dòng
chữ in nhỏ, mồm vừa nói:
- Thưa với làng, câu này lấy ở bài Tọa phóng hạc đình của Từ
Dạ.
Bao nhiêu bộ mặt tâng hẩng đều cúi cả vào trang cổ thi và ề à
ngâm lại:
- "Mộ thượng mai khai, xuân hựu lão; Đình biên hạc khứ,
khách không hoàn". Hay, hay thiệt.
Ông Kinh Lịch đêm ấy thua to. Ông truyền cho người cuốn chiếu
bạc và ân cần dặn vợ chồng ông Phó Sứ tháng sau có trở lại thì thế nào cũng phải
tổ chức cuộc thả thơ ở ngay nhà ông cho ông gỡ lại. Ông còn nằn nì xin ông Phó
Sứ làm quà cho mình tất cả những lá thơ đã dùng đánh suốt một đêm qua. Thấy nhà
cái trù trừ, ông Kinh Lịch nói dỗi:
- Có cho, thì tôi giữ làm chút kỷ niệm.
Ông Phó Sứ cười, trao vào tay ông Kinh mấy chục lá thơ đã
dùng đến nhầu nát rồi và thắt chặt lại miệng túi gấm còn đựng đến gần trăm lá
thơ khác chưa dùng đến còn phong kín cái bí mật một chữ thơ. Rồi nhà cái nhà
con chắp tay từ biệt nhau với một câu đính ước: "Cữ thượng tuần tháng sau,
xin lại gặp nhau ở đây nữa".
Nhưng ngày thượng tuần tháng sau, ông Phó Sứ và Mộng Liên
không trở lại. Rồi quá cữ trung tuần, rồi qua luôn cả cữ hạ tuần. Nhiều khách
thả thơ đã dầy công chờ đợi vợ chồng ông như một cái bóng chim như một cái tăm
cá.
Một hôm có người ở kinh ra, nói chuyện cùng ông Kinh Lịch:
- Ông Phó Sứ chết ở chân Đèo Ngang rồi. Mộng Liên giờ là người
góa và đang lúng túng tìm người giữ cho cây đàn. Số là đi qua Hoành sơn quan,
thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước
bao la. Ngay chỗ dướichân ngọn tường ải có chữ "Đệ nhất hùng quan" của
đức Thánh tổ ngự phê ấy, ông ạ. Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết
đường. Mộ để sát ngay bên đường thiên lý. Cái giống ma trơi này, sẽ thiêng vô
cùng. Rồi đây những lúc thanh vắng, những lúc trăng bãi gió ngàn, hồn ma tha hồ
mà trêu ghẹo khách bộ hành vô Kinh đấy ông ạ. Cám cảnh cho lão, đâu có bậc thời
sĩ quê vùng Ngũ Quảng có làm đôi câu đối điếu. Xin đọc ông nghe:
Ra Bắc vào Nam, trăng gió đề huề thơ một túi,
Lên đèo xuống ải, mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm.
(Vang bóng một thời, Nxb. Mai Lĩnh, Hà Nội, 1940)
Hình như năm nay thu nó về sớm hơn một kỳ; phải không hở anh
Cử? Ông già sáu mươi cài hết hàng khuy hổ phách nơi tà áo chiếc áo lụa Nguyễn
tím than đã bợt, ngẩng đầu hỏi người con đang soạn bộ đồ trà. Cậu Cử mở qua loa
cuốn lịch, thưa lại:
- Thưa thầy, lập thu vào ngày mồng một tháng bảy.
Ông già sáu mươi kêu: "Thảo nào!" và hỏi tiếp:
- Đến tháng tám này là đúng vào ngày đầy tuổi tôi con bé cháu
Tố Tâm đấy nhỉ?
- Dạ thưa thầy vâng.
- Một năm đủ mười hai tháng. Lên một, Tố Tâm nó chơi đèn được
rồi đấy. Năm nay anh Cử có định bày cỗ cho các cháu chơi tết Trung Thu không?
Dưới nhà, vọng lên tiếng trẻ khóc bú và tiếng đàn bà ru con.
"A ơ... Tâm ơi, Tâm ngủ đi Tâm... Để mợ ra đầm, gánh nước tưới hoa... à
ơ...".
Ông già tỳ cùi tay lên gối xếp da quang dầu, vuốt chòm râu bạc,
nhìn ra cơn heo may lay bức mành, làm gật gù bông cúc nơi chậu cây cảnh ngoài
sân. Ông già nét mặt nghiêm trang, bảo cậu Cử:
- Các con gọi tên con cái, nên gọi cho đúng. Tên cháu bé là Tố
Tâm, thì phải gọi đúng như thế. Sao lại ăn bớt đi mất một chữ. Không thể bảo
như thế là tiện là dễ gọi được. Người ngoài người ta cười cho.
Cậu Cử vội chạy xuống nhà rồi lại chạy lên ngay. Nói tiếp về
việc bày cỗ tháng tám, cậu Cử thưa:
- Đã đến mấy năm nay, nhà ta bỏ mất cái tục lệ ấy. Cứ kể có
bày ra lại, nó cũng vui nhà.
Dưới nhà, lại vẳng đưa lên cái giọng ru con ban nãy:
"À ơ, Tố Tâm thừa chút hương trời... à ơ ư...".
Ông cụ già bằng lòng. Người con dâu thứ ở nhà dưới ru trẻ
theo cái ý của ông già vừa ngỏ với cậu Cử. Cậu Cử cũng hài lòng vì vợ đã tỏ ra
là một người thuần thục, biết nghe lời gia huấn. Không những thế, mợ Cử còn tỏ
ra là người cũng võ vẽ thi ca nữa. Vì con gái út là một thứ hương thơm bắt được
của trời!
Thằng Ngộ Lang, đứa con đầu lòng lên bảy tuổi, chạy lên mách
với cậu Cử: - "Em Tố Tâm ngủ rồi cậu ạ". Rồi nó leo lên sập, nhảy vào
lòng ông nội, cũng đòi uống trà tàu. Cái lối chạy lên làm nũng ông nội như thế,
và được ông nội thỏa nhận, thằng Ngộ Lang đã có thói quen. Ông già sáu mươi yêu
cháu vô cùng. Có khi ông lại đọc cả thơ chữ Hán để cho đứa trẻ sớm thông minh
kia ngồi nhại mình. Nhớ được một hai câu ngũ ngôn ngăn ngắn, nó lại chạy xuống
bếp túm dải yếm mẹ và đọc sai gần hết để mợ Cử lại phải phì cười chữa lại từng
thanh âm một. Từ khi cụ Thượng Nam Ninh không ở chức tổng đốc vùng xuôi, về trí
sĩ ở Hà Nội, tại cái nhà ngói chật hẹp phố Hàng Gai này, thằng Ngộ Lang là một
cái vườn cảnh cho cụ vui cái thú điền viên. Cụ khen cháu cụ là đĩnh ngộ. Mỗi bữa
rượu sớm, mỗi tuần trà trưa, cụ đều cho Ngộ Lang ngồi kèm một bên. Đã mấy mươi
lần, vợ chồng nhà Cử hai hết sức van xin ông đừng nuông cháu quá, sợ Ngộ Lang
đâm ra hỗn. Cụ Thượng phật ý, bảo dâu và con nếu không để cho cụ như thế thì cụ
vào ở trong huyện Thọ Xương vậy. Vợ chồng cậu Cử không biết làm thế nào, đành cứ
phải để Ngộ Lang mặc sức quấy và làm nũng ông nội. Cụ Thượng cười và thôi không
dọa vào ở trong huyện Thọ Xương, nơi mà người con trai cả lỵ đã mấy năm nay. Thực
thế, cái ý vào ở với cậu Cử cả, giờ là một ông quan lệnh, ý đó chỉ là một lời dọa.
Ông lệnh Thọ Xương đã mấy mươi lần đem cả vợ con đến nhà hẹp phố Hàng Gai để rước
cụ Thượng vào trong huyện ở cho mát hơn rộng hơn. Cụ Thượng chỉ trả lời ông huyện
Thọ Xương:
- Lần sau, anh được lúc việc quan thanh thản, có ra chơi
ngoài phố này với thầy, đừng có nên đem lính ra nhé. ồn lắm. Chúng nó có sinh
vào thời vua Lê chúa Trịnh, thì cho thêm vào cái đám Kiêu binh Tam phủ được đấy.
Thầy rất sợ hàng phố người ta nói vào.
Mấy lần sau ra thăm cha, ông huyện Thọ Xương không dám đem mấy
tên lính trọ trẹ ra theo nữa, nhưng đả động đến việc cũ, thì chỉ thấy cụ Thượng
trả lời:
- Thầy ở đâu thì cũng thế. Miễn là được tĩnh mạc là hơn cả.
Anh cũng rõ cái tính tôi vốn sợ cái bọn lính hầu cận và lại hay tránh sự giao
thiệp. Tôi tưởng vào ở tư thất một huyện nha nó phiền nhiễu lắm. Thôi anh cứ để
tôi ở ngoài này.
Ông huyện Thọ Xương biết cha mình có bụng yêu chú Cử em hơn
nên kiếm cớ ra như thế, bèn nói dỗi:
- Dạ, con tưởng hồi trước thầy còn ở chức, sự giao thiệp và
đưa đón những tạp khách cũng nhiều lắm, và nhiều không kể cho hết được, lại là
những cái gai mắt của toán lính hầu cận thầy. Một cái dinh Đốc bố đường, thưa
thầy, sai nha không phải là ít. Vậy mà con không thấy thầy phàn nàn bao giờ cả.
Cụ Thượng hiểu ý, cười:
- Bởi thế cho nên tôi mới thèm đến sự an nhàn lúc được dưỡng
lão. Vả lại thầy ở ngoài này nó quen đi rồi. Bao giờ anh được lùi về vườn và nếu
trời còn cho thầy sống một vài giáp nữa, ông con ta sẽ ở chung để sửa sang một
cái vườn có đủ hoa bốn mùa. Anh không lo rằng chậm. Thôi, cứ để thầy ở ngoài
này.
Cụ vừa trả lời ông huyện Thọ Xương vừa nhìn ông Cử hai đứng
sau người anh, có ý bảo thầm người con thứ rằng: "Bao giờ thầy cũng chỉ muốn
ở với con, bởi vì con có tâm hồn giống như ta". Rồi ngắt sang câu chuyện
khác, cụ hỏi:
- Các anh có nghe thấy ở các phường người ta đồn về cái tin đức
Thành Thái ngự du ra khánh thành cầu Bồ Đề với quan Toàn quyền Đô Mỹ như thế
nào không? Chắc ông huyện thì rõ nhiều hơn là em Cử nó. Mấy nhịp cầu tất cả nhỉ!
Hình như là chín nhịp đấy nhỉ?
Thường mỗi một lần từ chối lời mời mọc chí tình của người con
cả, ông già lại có một câu chuyện đánh trống lảng như thế, để giữ lấy hòa khí
trong đám "anh em chúng nó". Cùng là con cả, nhưng cụ Thượng đã thấy
rõ ông Cử cả, tức là ông huyện Thọ Xương đương chức kia, là một người có tâm
thuật rất hèn kém. Cũng là một giọt máu sinh đôi mà sao ông Cử cả và ông Cử hai
không giống nhau lấy mảy may, từ quan niệm nhân sinh cho đến từng cái nhỏ nhặt
hàng ngày. Cụ Thượng tin rằng khi cụ trăm tuổi đi rồi thì ông huyện Thọ Xương
dám làm mọi chuyện phương hại đến gia thanh. Cái người ấy, thường cụ vẫn hạ mấy
chữ "vô sở bất chí" những lúc nghĩ riêng mình với mình: "Ta nằm
xuống, là thằng này sẽ làm mất hết những chính tích hay trong một đời làm quan
của ta". Bởi chán về người con lớn đã tìm được lối xuất thân, cụ càng nghĩ
mà thương và yêu người con thứ. Cũng là thân danh một ông cử nhân có vợ, có
con, mà vẫn còn đơn giản như ngày để chỏm. Ông Cử hai có khoa mà không có hoạn,
và cái khoa mục ấy giá không nói ra thì không ai biết. Người có hoa tay, thêm
được chút tâm hồn lãng tử, nên ông Cử hai sống cuộc đời mình như người ta chơi
chơi vậy thôi. Người ấy, thực là một người không có lấy một giây phút trịnh trọng
đối với nhân sinh. Ông ta sinh ra để mà đùa với cuộc sống và bắt đầu từ việc
đem ngay cái tài hoa của mình ra mà đùa nhả với sự nghiệp thân thế mình. Hồi cụ
Thượng còn nhậm ở dưới Sơn Nam hạ, cái gia đình lớn ấy chưa quy về một mối, ông
Cử hai quanh năm đi dạy học ở bốn tỉnh tứ chính Đông Nam Đoài Bắc. Không cần phụ
huynh học sinh xử hậu hay bạc, không cần địa phương ấy là có đất văn tự hoặc
dân ấy là có nếp văn chương muốn cầu học chữ của thầy, có khi tới ở đó ít ngày,
ngồi giảng bài chưa ấm phòng học, ông đã quẩy khăn gói tráp điếu lên đường. Người
tuổi tác có hỏi, ông trả lời là vì cảnh ở đấy không dung được người. "Bực
trượng nhân thử nghĩ: cái gì mà nước chỉ chảy xiết không bao giờ tụ; cây trồng
đến ba năm bói không có quả; ớt nhấm không thấy cay; hoa chỉ có mùi thơm về phần
đêm; núi chỉ bằng đầu chứ không có chỏm ngọn, và mây trời không bao giờ hiện đủ
năm sắc. Cảnh như thế, tôi ngồi mà làm gì. Chữ thánh hiền không phải ở chỗ nào
cũng đem bố thí được".
Ông Cử hai đi dạy học, đã lấy cái việc dạy học làm một mưu hồ
khẩu mà y như là đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích. Và
những lúc mỏi chân phải ngừng ở lại các thôn ổ, ông lại còn thỉnh thoảng ngừng
cả cái miệng giảng sách hoặc ngừng chấm nét son lên quyển bài, để đề một bức
châm lên lá quạt tặng bạn đồng song, để khắc chữ triện và trạm trổ một hòn đá
xù xì cho thành một con thạch ấn, để dúng ngón tay trỏ vào chậu mực vẽ một bộ tứ
bình thủy mặc có hình đủ bốn thứ cây cỏ tứ hữu: cúc, trúc, lan, mai, treo chơi
trên vách đất quán trọ nơi ngồi dạy học.
Gần ngày tết nhất, người trưởng tràng lúc thu xong sổ đồng
môn, chỉ khổ lên vì đi tìm thầy. Tết mùng ba, ông Cử hai đã trốn khỏi nhà trọ từ
hôm trước để để đi ăn hàn thực và đi hội đạp thanh với các bạn sính làm thơ tức
cảnh. Tết Đoan ngũ, ông lên núi hái lá thuốc, những mong được như hai người Lưu
Nguyễn ngày xưa gặp tiên. Tết Trung thu ông lên chùa Thầy ngắm trăng Chợ Giời họp
trên đỉnh núi Sài Sơn. Gần tết Nguyên đán, nếu chưa về nhà, thì ông ẩn ở trong
một mái đình vắng nào để gọt cho hết một lắp thủy tiên. Cái hành tung của người
nghệ sĩ không chịu sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh ấy, thực
khó mà dò hỏi. Lùng tìm cái dấu bàn chân một chính khách thất quốc lúc vượt bể
ra ngoài mưu việc lớn, có lẽ còn dễ hơn đi đuổi theo ông Cử hai những lúc cái hứng
giang hồ ở người ông nổi dậy.
Từ ngày cụ Thượng nghiêm phụ về trí sĩ ở Hàng Gai, Hà Nội,
ông Cử hai không tha phương làm ăn nữa. Ông ở riệt ở nhà chép lại cuốn gia phả,
và sao được bao nhiêu pho Kinh mượn trên chùa Trấn Quốc cho cha. Thế rồi mợ Cử
sinh thêm được con Tố Tâm. Trước ngày ở cữ Tố Tâm, vườn lan nhà cụ Thượng Nam
Ninh ở Hàng Gai nở đều mấy chậu vừa Tiểu Kiều, Đại Kiều. Cụ Thượng cha gọi thế
là lan báo hỉ và đặt tên luôn cho cháu gái là Tố Tâm. Mợ Cử hai, thấy chồng
không ra mặt bất đắc chí và phẫn uất với buổi giao thì nữa, chỉ ngày ngày thờ
cha già và chơi với Ngộ Lang và Tố Tâm, cũng vui cười hể hả thêm lên. Một hôm Mợ
đã dám ru con rất to, như rót vào tai chồng:
Ba năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu lại, cơ đồ vẫn nên.
Thằng Ngộ Lang và con Tố Tâm ngoan vô cùng. Thằng anh mến con
em, nhiều khi cắn cả má em để cho em vừa khóc vừa theo, ồn ào và dễ thương lạ.
Con Tố Tâm chưa đầy tuổi tôi, mà má đã lúm đồng tiền, mà mắt đã trong như nước
hồ thu. Ngắm con gái, anh hoa sớm lộ ra ngoài, mợ Cử hai có điều ngài ngại. Buồn
một cách thoảng qua thôi. Chỉ có một lần thằng Ngộ Lang làm cho mẹ nó buồn sợ
hơn hết là một buổi tối, nó vén màn the lên, kéo mẹ nó đến gần cửa song có con
tiện, chỉ cho mẹ nó xem một vừng trăng sớm ló bên đầu hồi nhà.
- Mợ ơi, ra đây mà xem ông giăng.
- Ông giăng làm sao?
- Ông giăng đẹp lắm. Có hai cái cánh nhọn.
- Thế thì đẹp gì. Ông giăng có tròn thì mới đẹp chứ!
- Tròn cả không đẹp mợ ạ.
Từ lúc ấy, thằng Ngộ Lang cứ vắt tay lên trán mà ngắm giăng
như một người lớn đang suy nghĩ. Mỗi lần mẹ nó bảo bỏ lá màn xuống cho khỏi muỗi
thì nó lại sụt sịt khóc. Và nó cứ vắt tay lên trán nhìn vừng giăng lên mỗi lúc
một cao. Ông Cử hai vừa về, nó nhẩy choàng dậy, vui mừng như một người đứng tuổi
khi tìm được một tâm hồn bầu bạn, nó lôi tay bố nó xềnh xệch đến chỗ chấn song,
chỉ vừng giăng bạc có cánh nhọn và nói:
- Ban nãy ông giăng khéo hơn bây giờ kia cậu ạ. Ngộ Lang nằm
chờ mãi mà không thấy mây che lấy ông giăng của Ngộ Lang. Thế đêm nay có mây
không hở cậu?
Vợ chồng ông Cử hai nhìn nhau hồi lâu, chốc lại liếc qua Ngộ
Lang đứng bần thần bên cửa sổ có ánh giăng xuyên qua. Người vợ hình như lấy cặp
mắt lo lắng bảo thầm chồng: "Tính di truyền giọt máu nhà lại bắt chúng ta
cho ra đời một tên tài tử nữa rồi" để cho người chồng nghĩ thêm rằng:
"Đời thằng Ngộ Lang rồi cũng chỉ đến lăng băng mà thôi. Cái vừng giăng lưỡi
liềm kia sau này còn lôi kéo cái thơ mộng Ngộ Lang kia đi xa lắm. Việc ấy cũng
là số mệnh định cả và điềm ra như thế".
Qua ngày Tết Trung Nguyên, ông Cử hai để tâm vào việc sắm cỗ
tết Trung Thu cho hai trẻ Ngộ Lang và Tố Tâm và vợ chồng cũng quên cái việc Ngộ
Lang mê cái bóng giăng lưỡi liềm đêm trước.
Mấy hôm nay, ông Cử hai chạy suốt ngày như một người bận rộn
nhiều lắm. Chốc chốc lại tha về mấy cái mai cá mực, hoặc ít mụn nhiễu đủ các
màu tươi và bao nhiêu là giấy hàng mã cùng là que nứa và dây lạt. Ông Cử hai, một
người tài hoa giang hồ, đến cái tuổi chán sự bay nhảy và đã nghĩ đến chuyện vui
cùng gia đình.
Người ấy đã hồi tâm lại, mong gây cái êm ấm cho gia đình vào
một ngày tết của con trẻ. Người ấy đi kiếm các vật liệu để làm cho lũ con một
cái đèn xẻ rãnh. Từ trước tới giờ cái người ấy có sao Thiên Cơ chiếu vào hoa
tay, chỉ đi làm đèn xẻ rãnh ở những chỗ đầu sông ngọn nguồn cho các thứ trẻ con
thiên hạ, hồ mong trả cái nợ áo cơm đối với những người bao dung mình vào những
ngày và tháng bẽ bàng.
Mấy ngày liền liền, ông Cử hai nghĩ tìm một cái đầu đề mới lạ
cho đèn xẻ rãnh. Hay là lấy sự tích Tam Quốc ra làm? Không thấy hứng lắm, bởi
vì đã đến ba bốn lần ông mượn tích Tam Quốc rồi. Người ta còn nhắc mãi đến bây
giờ cái đèn xẻ rãnh của ông hồi mấy năm về trước, diễn cái tích "Triệt
giang phò A Đẩu" lúc Triệu Tử Long nhẩy sang thuyền Tôn phu nhân trên sông
Ngô, trông cứ như thật. Cái tài làm đèn xẻ rãnh của ông được nổi tiếng truyền rộng
ra một vùng Kinh Bắc là từ cái đèn "Triệt giang phò A Đẩu" ấy. Tác phẩm
chỉ độc có một cái ấy, ngày nay ông Cử hai không còn nhớ ra được là đã vào tay
ai. Hình hài ông vào hồi ấy cũng còn là chuyện bỏ qua, huống hồ chỉ là một công
trình tiểu xảo kia! Ai đi nhớ mà làm gì!
Mấy hôm nay ông nghĩ đầu đề làm đèn xẻ rãnh cho thằng Ngộ
Lang, thực khó hơn là tìm vận thơ gieo cho một bài bát cú phú đắc. Chưa biết
nên diễn cái tích gì đây! Hết ngày ấy sang ngày khác, ông ngồi bóc sẵn hạt bưởi
và chẻ những hạt na ra từng hai mảnh một. Hạt bưởi xâu vào que phơi khô, tức là
những cây nến cắm vào đèn giấy cho lũ trẻ con nhà nghèo chơi đêm ngày rằm.
Cụ Thượng nướng đỏ cái tiêm sắt vào ngọn đèn thổ hà, xiên mũi
tiêm nóng vào lòng mảnh hạt na, hút một điếu thuốc lào, thở khói pháo. Mảnh hạt
na vừa tàn thì tro thuốc nơi nõ điếu cũng vừa tụt gọn vào điếu. Gọn gàng và
ngon lành đến thế là cùng. Cụ Thượng hỏi ông Cử hai:
- Thế anh đã nghĩ làm đèn như thế nào chưa?
- Con định hỏi lại thầy về cái tích này xem có nên không. Là
diễn một tích trong truyện Ngô Việt Xuân Thu, lúc Phạm Lãi đem Tây Phi sang
dâng Ngô Phù Sai.
- ừ, Phạm Lãi gặp Tây Thi giặt lụa ở bến Trữ La, hồi này thú
vị đấy. Nhưng anh Cử định diễn từ đoạn nào? Phải làm những quân gì? Đừng nên
làm nhiều quân lắm. Cái sức luân chuyển của tán đèn đốt lửa chỉ có chừng độ
thôi. Nếu dùng nhiều quân quá, sức máy gạt ngang sẽ yếu đi nhiều.
- Con đã nghĩ rồi. Cái rãnh chính để hình dung một con sông
chảy từ đất Việt sang đất Ngô. ở phía bên phải chiếc đèn, đắp một hòn núi giả
hơi cao. ở rãnh phụ ấy đặt một cái máy gạt ăn vào hai hình quân Ngô Phù Sai và
Ngũ Tử Tư. ở nơi góc bên trái, cũng ở một cái rãnh phụ nữa, lại một chiếc máy gạt
ăn vào một chiếc thuyền ở trên có hình Phạm Lãi ngồi. ở cái rãnh chính thì có
chiếc thuyền lớn. Đấy là thuyền Tây Thi tiến Ngô.
- Thế anh cho các quân ấy chạy và gặp nhau như thế nào?
Ông Cử hai dúng ngón tay trỏ vào cái đĩa dầm sứ có nước, vẽ
xuống mặt án thư mấy hình phác họa vị trí của từng quân đèn xẻ rãnh.
- Thưa thầy, khi tán đèn quay, thì cái thuyền Tây Thi đi từ
phía trái sang phải. Khi thuyền gần tới hòn núi giả, động đến cái máy gạt có cần
thép ăn vào hai quân Ngô Phù Sai và Ngũ Tử Tư, thì hai hình này cử động. Ngô
Phù Sai sẽ ưỡn mình ra phía sau như là ngắm kỹ nàng Tây Thi ở trong cái thuyền
tiến cống đang đi thấu vào bờ cõi nước Ngô. Còn hình Ngũ Tử Tư thì cử động hai
tay như là ôm lấy Ngô Phù Sai, can ngăn không nên thâu nhận lấy cái họa Tây
Thi. Về phía bên trái cỗ đèn, khi thuyền Tây Thi vừa lướt qua cái trục máy gạt ở
rãnh phụ phía trái, thì chiếc thuyền con có Phạm Lãi lộn ngược đi khuất vào góc
đèn. Thầy nghĩ thế nào?
- Anh dàn quân thông đấy. Thành ra hết bốn quân Tây Thi, Phạm
Lãi, Phù Sai, Ngũ Tử Tư, ừ, bốn quân và... hai con thuyền. Chưa lấy gì làm nặng
quá sức quay của tán đèn. Có thể thêm một quân nữa.
- ý thầy muốn thêm một quân Thái Tể Bá Hy nữa, thưa thầy phải
thế không? Vâng, có cái ông Thái Tể nữa vào nó cũng vui trò. Phải thêm một cái
gạt nữa cho cái ông nịnh thần vong quốc này. Lúc thuyền Tây Thi đến, trong truyện,
chính Thái Tể Bá Hy ra đón Tây Thi, và từ đấy, đã đưa Ngô vào đường diệt vong
theo đúng cái kế hoạch của Việt vương Câu Tiễn.
Cụ Thượng và ông Cử hai ra công làm năm quân ấy cho chiếc đèn
xẻ rãnh lấy tên là "Ngô vương cự gián nạp Tây Thi".
Công việc chẳng có gì, vậy mà cũng mất đến hơn mười hôm. Ông
Cử hai tìm những mẩu nến bạch lạp rất to cháy dở còn thừa lại trên đầu các đèn
nến thiếc Sông Ngân nơi bàn thờ. Và đi lục lọi thêm những mẩu khác nữa trong tủ
để cho nó đủ. Mẩu nến của kỳ giỗ xa xôi sót lại, vẫn chưa mất hết hẳn những giọt
nước mắt sáp của những ngày hương đèn năm trước. Ông Cử hai đem đốt chảy và hợp
thành được một tảng sáp lớn. Ông chuốt quân đèn xẻ rãnh và lấy sáp này làm cốt
cho quân. Cũng may mà những mẩu sáp thừa kia đủ dùng, chứ không thì cũng hơi rầy
vì cái khoản vật liệu này. Độ này nhà túng lắm, mọi việc mua bán đều phải lấy
tiết kiệm làm đầu. Đã hay rằng ông huyện Thọ Xương vẫn có đưa ra luôn để đỡ
thêm vào việc chi tiêu trong nhà, nhưng ông Cử hai vẫn lấy thế làm phiền.
Thế là tạm xong được mấy cái cốt hình người. Bây giờ mới bắt
đầu làm đến đầu người, mặt người. Thằng Ngộ Lang ngồi chồm hổm bên cạnh bố, hỏi
luôn miệng:
- Tai sao cái mặt này cậu để trắng, cái mặt khác lại có hai
chấm đỏ, và cái mặt kia cậu lại bôi đỏ hết cả đi?
Cụ Thượng đang ngồi lựa mụn lụa xanh đỏ bó thành quần áo cho
quân sáp, cười và bảo:
- Cháu đừng có nghịch thì mới chóng có đèn chơi. Mặt trắng là
quan văn. Mặt đỏ là quan võ. Những người trung thần nghĩa sĩ cũng đều mặt đỏ cả.
Người phản nịnh thì mặt trắng mốc có điểm mấy vệt đỏ nhờ nhờ.
Ngộ Lang chỉ vào lũ mặt người:
- Thế ra ông làm cho cháu một cái đèn có cả người nịnh và người
trung, quan văn và quan võ đấy à. Sao ông không cho quân đèn mặt đỏ tất cả đi?
Ông Cử hai gọt đầu người bằng mai cá mực, để công nhiều nhất
khi gọt đến mặt Phạm Lãi và Tây Thi. Nàng Tây Thi tất nhiên phải có khuôn mặt đẹp.
Nhưng nghĩ đến cái thú vị của một đời người như lúc Phạm Lãi dám bỏ lại sau
mình cả một cái giàu sang nhất nhì mà đi chu du Ngũ hồ, nghĩ đến phút ấy trong
cái sinh bình một người xưa, ông Cử hai cũng làm luôn cho Phạm Lãi một cái mặt
rất đẹp, cấy vào đấy một bộ râu năm chòm đen nhánh, Ngộ Lang cũng tỏ ý thích
cái đầu Phạm Lãi và cả cái đầu nàng Tây Thi nữa.
Đèn xẻ rãnh đã hoàn thành. Cái tán đèn xẻ rãnh to quá. Phải
thắp đến mười con bấc nơi đĩa dầu sở, cái sức mạnh của lửa mới quay chạy được
tán đèn. Ngày đầu tháng tám, ông Cử hai đem đèn ra thử.
Có người học trò cũ ở Sơn Tây về qua Hà Nội, biết ông Cử hai
có con, đem đến biếu thầy học cũ một cái bánh dẻo mặt trăng, mặt bánh to một
thước, thế nào lại nhằm ngay vào giữa hôm ông Cử hai thử đèn xẻ rãnh. Ông bày
đèn ra sân, đốt hết cả mười con bấc cháy sáng. Ông bày luôn ra sân bộ đồ trà, mời
cụ Thượng ra ngồi vào cái ghế đẩu đã để sẵn trước đèn. Cụ Thượng ngồi, ăn bánh,
uống nước và trịnh trọng như một người được mời tới để định giải thưởng cho đèn
xẻ rãnh. Rồi cả nhà, mỗi người một miếng, trông vui vẻ lạ. Vui nhất là Ngộ
Lang. Cả đến con Tố Tâm bé thế mà cũng ăn được hai mảnh bánh mặt trăng.
Quân đèn bắt đầu diễn vòng đầu. Mặt trước đèn có nến soi vào,
sáng như một sân khấu rạp tuồng thu bé lại. Thuyền Tây Thi từ từ tiến vào sân
khấu. Lúc nàng vào được đến phần ba lòng sân khấu, lướt qua chiếc thuyền Phạm
Lãi, động đến cái máy gạt thứ nhất ở góc trái đèn, thì thuyền của Phạm Lãi quay
vào trong và lẩn mất. Nàng Tây Thi vẫn xuôi trên sông Ngô rồi biến vào nội địa
đất Ngô. Cái máy gạt ở góc phải cỗ đèn động đánh xịch một cái nữa, thì trên hòn
núi giả làm bằng giấy trang kim đốt đen, Ngũ Tử Tư bắt đầu ôm lấy Phù Sai với
dáng điệu của người tôi trung hết sức ngăn chúa. Nhưng dưới chân giả sơn, cái
người nịnh thần Thái Tể Bá Hy đã đon đả đi gần lại thuyền Tây Thi, giơ tay ra
đón lấy. Trên cái núi giấy, hai hình tội chúa kia vẫn cử động như ban nãy, một
người tỏ vẻ can ngăn, một người vùng vằng không chịu nghe. Thuyền Tây Thi dưới
này, đi sâu mãi vào đất Ngô và khuất hẳn. Vậy là đủ một vòng đèn xẻ rãnh.
Ngộ Lang nhảy lên mà cười. Cái đèn này là của riêng nó để bày
cỗ ngày rằm. Con Tố Tâm khoa mãi hai chân và hai tay như muốn sà xuống chỗ đèn
sáng. Rồi nó khóc. Mợ Cử hai bảo chồng:
- Hay là làm cho mỗi đứa một cái. Càng đông đèn, cỗ càng vui.
Giữa mâm cỗ, bày một con gà uốn hình ông Lã Vọng. Ngộ Lang đã có đèn xẻ rãnh.
Giờ làm cho con Tố Tâm một chiếc đèn kéo quân, cho nó khác đi.
Ngay ngày hôm sau ông Cử hai lại túi bụi vào việc làm đèn kéo
quân. Ông đã đem một tập sách thơ cũ ra, lột mất mấy cái bìa sơn cậy, cắt bìa
ra, ghép hai mảnh bìa làm một, dán lại làm hình người, Tố Tâm thì chỉ chơi đến
đèn kéo quân thôi. Nhưng dù sao, ông Cử hai cũng để hết công phu vào việc làm
đèn. Chiếc đèn kéo quân của con Tố Tâm, đến hôm bày cỗ rằm, cũng còn hơn các
bàn cỗ nhà khác ở chỗ nó có những hai chiếc tán kia, mỗi cái tán ăn vào một đĩa
đèn, một tán xoay vòng theo chiều thuận, một tán xoay theo vòng nghịch. Đèn chạy,
hai vòng quân, một vòng trẩy đi, một vòng trẩy về, vui mắt lạ! Lại còn đèn cá
và thiềm thừ nữa. Mợ Cử hai ngâm sẵn một vại ốc và bửa những quả bưởi rất khéo,
cốt giữ nguyên vẹn lần vỏ, trổ vào vỏ những hình trám thủng, để hôm sau con nó
thắp lên rồi tha hồ mà lăn tròn cái thứ đèn cù ấy trên mặt đất. Ông Cử hai tìm
lên vùng Hồ Tây đặt rượu sen thứ có tăm. Chưa bao giờ cái tết Trung Thu nhà ông
nhộn nhịp cả nhà đến như thế.
Rút từ tập truyện ngắn Vang bóng một thời,
Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1940
Bữa tiệc "Thạch lan hương" được bày ra dưới bàn tay
khéo léo của nhà văn Nguyễn Tuân, một bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ dân tộc mang
một vẻ đẹp kỳ lạ đối với những người ở thời đại của "đồ ăn nhanh"...
Đứa cháu đích tôn và lũ cháu ngoại đang loay hoay ngoài sân với
những đồ đồng ngũ sự lổng chổng trên đám trấu và tro đẫm nước.
Ông chúng, cụ Kép làng Mọc, cũng đang loay hoay với mấy chục
chậu lan xếp thành hàng dưới giàn thiên lý.
Trái với thời tiết, buổi chiều cuối năm gió nồm thổi nhiều.
Cơn gió nồm thổi nhẹ, như muốn nhạo cái ông già kia mặc cả một
tấm áo trấn thủ bằng lông cừu trắng. Trời nồm nực, bức đến tắm nước lã được,
ông cụ Kép mặc áo lông cừu xứ Bắc! Không, đấy chỉ là một thói quen của cụ Kép.
Mỗi khi cụ ra thăm vườn cảnh, trong một năm, trừ những ngày hạ ra không kể còn
thì lúc nào cũng khoác tấm áo cừu. Mùa xuân, mùa thu, khí hậu ấm, áo mở khuy.
Sang đến đông tuyết, cụ cài hết một hàng khuy nơi áo, thế là vừa. Trong cái vườn
cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều
tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc
áo lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem
cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý.
Buổi chiều ba mươi Tết năm nay, cả một cái gia đình cũ kỹ nhà
cụ Kép đang tới tấp dọn dẹp để ăn tết.
Mợ ấm cả, mợ ấm hai ngồi lau lá dong chăm chỉ. Thỉnh thoảng họ
ngừng tay để hỏi nhau xem còn thiếu những thực phẩm gì trong cái mâm cơm cúng
chiều nay. Lũ con đàn bi bô ngoài sân. Chúng đang đánh bóng ở ngoài sân những
lư, đỉnh, cây đèn nến bằng đồng mắt cua và bằng thiếc sông Ngâu. Chốc chốc, lũ
trẻ ại mỉm cười, nghển những đầu thưa thớt ít sợi tóc tơ, nhìn vào phía trong
nhà cầu, hỏi mẹ chúng:
- Bao giờ cậu mới về, hả mợ?
Không biết nên trả lời con trẻ thế nào cho tiện, mợ ấm cả đưa
mắt cho mợ ấm hai.
Ông ấm cả và ông ấm hai, đi làm việc ở tận xa chưa thấy về ăn
Tết. Cứ lời những người trong làng có người đi làm việc nhà nước thì được nghỉ
những từ chiều hai mươi chín kia mà. Muốn được khuây nỗi mong, hai chị em dâu,
người đã đứng tuổi, càng thái đồ nấu cỗ cho thực nhanh. Gớm, những miếng trứng
tráng để bày mặt cỗ bát, thài hình miếng trám, sao mà đẹp thế. Đứng bên cạnh mẹ,
đứa nhỏ nhất trong đàn con đã thủ thỉ van nài mợ ấm hai:
- Mợ cho con cái miếng mợ cắt hỏng kia nhá!
Người mẹ không nghỉ tay làm việc trên tấm thớt. Lừ mắt nhìn
con. Thằng bé vội chạy ra ngoài, sán đến cạnh cụ Kép:
- Ông đang làm gì thế hở ông?
- Ấy chết, cháu đừng mó vào hoa của ông. Ông đang thăm xem
đúng hôm nào thì hoa của ông nở đủ.
- Ông cho cháu một cái... Cháu xin ông cái lá gẫy kia nhá!
- Cháu không nghịch được những thứ này. Thôi, đi lên trên nhà
với ông. Mợ cháu mà trông thấy cháu ra nghịch cây của ông, thì cháu lại phải
đòn đấy.
Nhớ đến trận đòn phất trần hôm nọ, vì trót nghịch gẫy mất mấy
giò lan của ông nội, thằng bé mặt phụng phịu và hai tay đánh đai vào mình ông
già, kéo trĩu cả tấm áo lông cừu. Nó làm nũng ông và quấn quít lấy ông, mong
ông sẽ che chở cho, nếu mẹ nó nom thấy nó ra nghịch chậu cây cấm.
Cụ Kép cười khà khà. Rồi cụ lại vạch từng gốc rò lan, xem xét
tỉ mỉ đến màng hoa, đến rò lan và thân lá. Hết chậu này đến chậu khác.
Tưởng chừng như cháu mình cũng là một người biết đến chuyện
chơi cây, hiểu đến thời tiết trong một năm, có đủ những kinh nghiệm, thói tục
và thông minh của người lớn, ông già đã nói với cháu bé:
- Tự nhiên, cuối năm lại nổi gió nồm. Cháu có thấy bực mình
không? Ông tiếc cho mấy chục chậu lan của ông quá. Nở hết thôi!
Đứa cháu không hiểu đến ý nghĩa câu than phiền của ông già,
ngửng bộ mặt ngây thơ lên, hỏi hai ba lần:
- Hoa sắp nở, sao lại tiếc hở ông?
Cụ Kép nhìn lại cái người bé tí hon đứng với mình trong vườn
lan, thân cao không vượt khỏi cái lá lan uốn cầu vồng, cụ Kép đãi đứa cháu ngây
thơ một nụ cười rất độ lượng, mắt nhấp nháy kính tuổi:
- Nếu không có nồm, thì hoa trong vườn ông còn lâu mới nỏ.
Hoa sẽ nở nhằm vào ngày rằm tháng giêng. Đúng vào ngày Tết Nguyên Tiêu. Ông
cháu chúng ta sẽ có hoa mà thưởng xuân, cháu đã hiểu chưa? Bây giờ cháu chạy
vào gọi bõ già ra đây cho ông bảo.
- Bõ đi ra bờ ao rửa đá cuội từ ban trưa kia ông ạ.
Phải, phía cầu ao trong vườn cụ Kép, một người lão bộc, đang
lom khom dúng rổ đá xuống nước ao và sàng sẩy rổ đá như kiểu người ta sàng mẹt
gạo. Tiếng đá bị tung lên dập vào nhau kêu sào sạo, khiến lũ cò trắng nghỉ chân
trên lũy tre vội bay mất. Bõ già nghỉ tay, nhìn đàn cò sợ hãi bay cao, với nét
cười của một người chịu vui sống trong sự an phận.
Bõ ở với cụ Kép đã lâu lắm. Cái hồi cụ Kép còn là một thầy
khóa sinh hai mươi tuổi, bõ già đã nếm cơm ở của nhà này rồi. Chính bõ vác lều
chõng cho cụ đi thi tú tài. Những việc lớn nhỏ trong nhà, bõ đều nhớ hết. Bõ nhớ
cả đến ngày giỗ giúi trong họ. Không có bõ nhắc nhỏm có lẽ nhiều lần mợ ấm cả
đã bỏ mất ngày giỗ. Bõ già hình như chỉ trải cuộc sống của mình để hằng năm, nhắc
nhỏm đến những ngày giỗ trọng và giỗ giúi của gia đình người khác.
- Thưa mợ, đến mười sáu tháng tư này lại là chính kỵ cụ ngoại...
Thưa mợ...
Mợ ấm cả, muốn tỏ sự cảm ơn, kín đáo đãi bõ già một miếng trầu
kèm miếng cau tươi mềm. Trong cái gia đình yên lặng này, bõ già được thiện cảm
của mọi người, không phải vì ỏn thót mà chính vì lòng thẳng thắn. Lắm úc trông
tội nghiệp lạ. Bõ tính toán, xếp đặt việc nhà chủ y như một người có quyền lợi
dính dấp vào đấy. Cái hoài bão to lớn của bõ, là lúc trăm tuổi nằm xuống sao được
một cái "áo" gỗ vàng tâm thật dày.
Ở đây, không ai nỡ nói nặng bõ. Và, đến những việc nặng, mọi
người đều tránh cho bõ già. Công việc thường trong một ngày, có nhiều hôm chỉ
thu vào việc chuyên trà tàu và thay bã điếu cho cụ Kép. Thậm chí trong những
ngày cuối năm bận rộn như hôm nay, mà bõ già cũng không phải mó tay vào việc gì
cả. Làm lợn gói giò chả, vo gạo, đồ đậu xanh làm bánh chưng, làm dầu đèn, lau
bàn thờ, nhất nhất không việc gì phải qua tay bõ. Mãi đến trưa hôm ba mươi Tết,
cụ Kép mới bảo bõ già đi rửa mấy trăm hòn đá cuội trắng. Nghe thấy bõ già nhận
lấy cái việc rất ngộ nghĩnh đó, cả nhà đều cười. Thứ nhất là lũ trẻ con. Cụ Kép
vẫn nghiêm trang dặn người bõ già:
- Bõ đem đá ra bờ ao rửa cho sạch. Lấy bẹ dừa mà kỳ cho nhẵn,
cho trắng tinh ra. Xong rồi,lựa những viên đá tròn bỏ vào một cái rổ. Những
viên đá xù xì, không tròn trĩnh, để một rổ khác.
Bõ già tỏ ý hiểu:
- Thưa cụ, con biết rồi. Cụ lại sắp cho dọn một bữa rượu
"Thạch lan hương". Nhưng sao năm nay, lại soạn đá sớm quá? Thưa cụ,
con nhớ mọi năm cứ hạ cây nêu xong rồi mới đem cuội ra ngâm kia mà...
- Thế bõ không thấy giời đổi gió nồm đấy à? Thế bõ không biết
năm nay hoa nở sớm hơn mọi năm sao? Tôi đã cho ngâm thóc để lấy mầm nấu kẹo mạch
nha từ mấy hôm nay rồi.
Bõ già gật gật...
Cụ Kép là người thích uống rượu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ
đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Vì bây giờ
trong nhà cụ cũng đã thừa bát ăn. Xưa kia, cụ cũng muốn có một vườn cảnh để sớm
chiều ra đấy tự tình. Nhưng nghĩ rằng mình chỉ là một anh nhà nho sống vào giữa
buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao mất bao nhiêu
giá trị tinh thần; nhưng nghĩ mình chỉ là một kẻ chọn nhầm thế kỷ với hai bàn
tay không có lợi khí mới, thì riêng lo cho thân thế, lo cho sự mất còn của mình
cũng chưa xong, nói chi đến chuyện chơi hoa. Cụ Kép thường nói với lớp bạn cũ rằng
có một vườn hoa là một việc dễ dàng, những đủ thời giờ mà săn sóc đến hoa mới
là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành
chí tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng. Như thế mới
phải đạo, cái đạo của người tài tử. Chứ còn cứ gây được lên một khoảnh vườn,
khuân hoa cỏ các nơi về mà trồng, phó mặc chúng ở giữa trời, đày chúng ra mưa nắng
với thờ ơ, chúng trổ bông không biết đến, chúng tàn lá cũng không hay thì chơi
hoa làm gì cho thêm tội.
Đến hồi gần đây, biết đã đủ tư cách chơi cây cảnh, cụ Kép mới
gây lấy một vườn lan nho nhỏ. Giống lan gì cũng có một chậu. Tiểu kiều, Đại kiều,
Nhất điểm, Loạn điểm, Yên tử v.v... Chỉ trừ có giống lan Bạch ngọc là không thấy
trồng ở vườn. Không phải vì lan Bạch ngọc đắt giá mỗi giò mười đồng bạc, mà cụ
Kép không trồng giống hoa này. Trong một buổi uống trà đêm, cụ Kép nói với một
người bạn đến hỏi cụ về cách thức trồng cây vườn hoa:
- Tôi tự biết không chăm được lan Bạch ngọc. Công phu lắm,
ông ạ. Gió mạnh là gẫy, nắng già một chút là héo, mưa nặng hột là nẫu cánh. Bạch
ngọc thì đẹp lắm. Nhưng những giống nhẹ nhàng ấy thì yểu lắm. Chăm như chăm con
mọn ấy. Chiều chuộng quá như con cầu tự. Lầm lỡ một chút là chúng đi ngay. Những
vật quý ấy không ở lâu bền với người ta. Lan Bạch ngọc hay ưa hơi đàn bà. Trồng
nó ở vườn các tiểu thư thì phải hơn.
Thiếu hẳn loài Bạch ngọc, cụ Kép đã cho trồng nhiều giống Mặc
lan, Đông lan, Trần mộng. Giống này khỏe, đen hoa và rò đẫy, hoa có khi đậu được
đến nửa tháng và trong mươi ngày, nếu chủ vườn có quên bón tưới, cũng không lụi.
Chiều hôm nay, hoa Mặc lan chớm nở.
Chiều mai, mùng một Tết, hoa Mặc lan mãn khai đầy vườn.
Đêm giao thừa, bên cạnh nồi bánh chưng sôi sình sịch, bõ già
đang chăm chú canh nồi kẹo mạch nha. Cụ Kép dặn bõ già phải cẩn thận xem lửa kẻo
lơ đễnh một chút là khê mất nồi kẹo.
Hai ông ấm, con trai cụ Kép, người lớn tuổi đứng đắn như thế,
mà lại ngồi gần đấy, phất giấy vào những nan lồng. Thực là hai đứa trẻ con đang
ngồi nghịch với lồng bàn giấy. Họ trịnh trọng ngồi dán hồ, vuốt giấy. Ông cụ
Kép đứng kèm bên, mỗi lúc lại nhắc:
- Này Cả, thầy tưởng miệng lồng bàn, con nên đan to hơn miệng
chậu. Con chạy ra, lấy cái que đo lại lợi chậu xem. Nếu rộng thì hỏng hết. Đo lợi
chậu Mặc lan thôi.
Hai ông ấm, ngồi phất được đến mười cái lồng bàn giấy. Họ rất
vui sướng vì họ tin đã làm toại đượcsở thích của cha già. Cụ Kép co ro chạy từ
nồi mạch nha, qua đám lồng bàn giấy, đến cái rổ đá cuội đã ráo nước thì cụ ngồi
xổm xuống, ngồi lựa lấy những viên đá thật trắng, thật tròn, để ra một mẹt
riêng. Ông ấm cả, ông ấm hai lễ mễ bưng những chậu Mặc lan vào trong nhà. Cả ba
ông con đều nhặt những hòn cuội xấu nhất, méo mó, xù xì trải xuống mặt đất những
chậu lan gần nở. Mỗi lần có một người đụng mạnh vào rò lan đen, cụ Kép lại xuýt
xoa như có người châm kim vào da thịt mình.
Nồi kẹo đã nấu xong nhưng phải đợi đến gần cuối canh hai kẹo
mới nguội.
Bây giờ thêm được bõ già đỡ một tay nữa, cả ba ông con đều lấy
những hòn cuội để riêng ban nãy ra mẹt, đem dúng đá cuội vào nồi kẹo, quấn kẹo
bọc kín lấy đá, được viên nào liền đem đặt luôn vào lồng chậu hoa. Những viên
đá bọc kẹo được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót lên nền đất chậu hoa.
Úp xong lồng bàn giấy lên mười chậu Mặc lan thì vừa cúng giao
thừa.
Ba ông con, khăn lượt áo thâm lạy trước bàn thờ đặt ngoài trời.
Năm nay, trời giao thừa lành.
Cả một buổi sớm, cụ Kép phải bận ở đình làng. Trước khi ra
đình cụ đã dặn bõ già ở nhà phải sửa soạn cho đủ để đến quá trưa, cụ và vài cụ
nữa đi việc đình làng về sẽ cùng uống rượu thưởng hoa.
Bõ già đã bày ra giữa sân bốn cái đôn sứ Bát Tràng mầu xanh
quan lục. Trước mặt mỗi đôn, bõ già đặt một án thư nhỏ, trên đó ngất nghểu hai
chậu lan còn lù lù chiếc lồng bàn úp, và một hũ rượu da lươn lớn có nút lá chuối
khô. Bõ già xếp đặt trông thạo lắm. Trong mấy năm nay, đầu mùa xuân nào bõ già
cũng phải ít ra là một lần, bày biện bàn tiệc rượu Thạch lan hương như thế. Bõ
già hôm nay lẩm bẩm phàn nàn với ông ấm hai:
- Năm nay cụ nhà uống rượu sớm quá và lại uống ban ngày. Mọi
năm, cứ đúng rằm tháng giêng mới uống. Vả lại uống vào chiều tối. Đốt đèn lồng,
treo ở ngoài vườn, trông vào bữa rượu hoa, đẹp lắm cậu ạ.
Ông ấm hai vui chuyện, hỏi bõ già:
- Này bõ già, tôi tưởng uống rượu nhấm với đá cuội tẩm kẹo mạch
nha thì có thú vị gì. Chỉ thêm xót ruột.
- Chết, cậu đừng nói thế, cụ nghe thấy cụ mắng chết. Cậu
không nên nói tới chữ xót ruột. Chính cụ nhà có giảng cho tôi nghe rằng những cụ
sành uống rượu, trước khi vào bàn rượu không ăn uống gì cả. Các cụ thường uống
vào lúc thanh tâm. Và trong lúc vui chén, tịnh không dùng những đồ nhắm mặn như
thịt cá đâu. Mấy vò rượu này, là rượu tăm đấy. Cụ nhà ta quý nó hơn vàng. Khi
rót rỏ ra ngoài một vài giọt, lúc khách về, cụ mắng đến phát thẹn lên. Cậu đậy
nút lại không có rượu bay!
Phía ngoài cổng, có tiếng chó sủa vang.
Bõ già nhìn ra thấy bốn cụ tiến vào đã quá nửa lòng ngõ duối.
Cụ nào cũng cầm một cây quạt thước, chống một chiếc gậy tre càng cua hay trúc
đùi gà. Uống xong tuần nước, cụ Kép mời ba cụ ra sân uống rượu. Bõ già vòng tay
vái các cụ và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một.
Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy
phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ và bõ già đánh
hơi mũi: những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ vào khoảng không trong vắt như
có ý theo dõi luồng hương thơm đang thấm nhập dần vào các lớp khí trời. Cơn gió
nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian.
- Dạ, xin rước các cụ.
Dứt tiếng cụ Kép, tất cả bốn cụ đề úp lòng bàn tay vào nhau
thi lễ và giơ tay chỉ thẳng vào giữa mời nhau ai cao tuổi xin nhắp chén trước
đi. Tiệc rượu bắt đầu. Bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lưng chủ, có vẻ cũng
thèm say lắm.
- Trời lạnh thêm chút nữa, uống Thạch lan hương mới đúng
phép, chủ nhân ạ!
- Chính thế. Nhưng đệ sợ chờ được lạnh đến, thì hoa vườn nhà
tàn mất. Trông kẹo mạch nha không đông, còn dính vào lớp đá lót, đệ cũng biết
là không được khéo lắm. Trời nồm biết làm thế nào.
- Này cụ Kép, kẹo đá thơm ngon đấy. Chỉ hiềm có mùi ung ủng
pha vào hương lan. Chắc kẹo nấu bén nồi, khê và thêm không được đông nên mới có
tạp vị nhiễm vào.
Sau mấy câu phê bình về tiệc rượu, tỏ ra mình là người biết thưởng
thức những vị thanh lương đạm bạc, bốn cụ đều xoay câu chuyện sang phía thơ
văn.
Cụ Tú người cùng làng với cụ Kép mở đầu câu chuyện làm thơ.
- Sớm nay, đệ đã khai bút rồi. Đệ nghĩ dược một đôi câu đối.
Để các cụ chữa cho mấy chữ. Chiều nay sẽ viết luôn vào giấy hồng điều để xin
phép dán thêm vào cổng nhà.
Ba cụ cùng cạn chén một lúc, cùng nói một lúc:
-Cụ Tú hãy cạn luôn ba chén rồi hãy đọc đôi câu đối mới. Câu
đối của cụ còn ai mà hạch nổi chữ nào. Cụ nói gì mà khiêm tốn vậy... Chúng tôi
xin nghe.
Chờ cụ Tú dặng hắng lấy giọng, mỗi cụ đều bỏ vào mồm những
viên kẹo mạch nha đá cuội ướp hương lan. Những nhân đá đánh vào răng kêu lách
cách. Mỗi ông già đọc một đôi câu đối.
Rồi chén rượu ngừng là một lời thơ ngâm trong trẻo. Cứ thế
cho tàn hết buổi chiều.
Mấy cụ đều khen lẫn nhau là thơ hay. Trong cái êm ấm của buổi
chiều xuân sớm, tiếng ngâm thơ quyến rũ cả đến tâm hồn một người lão bộc. Bõ
già, chiều mồng một Tết tự nhiên mặt sáng tỏ hẳn lên. Cái đẹp của tiệc rượu
ngâm thơ lây cả sang người bõ.
Vò rượu vợi với chiều xuân sớm quên đi.
Những vò rượu vợi dần. Trong lòng đĩa sứ đựng nhân đá, hòn cuội
cao dần lên, bõ già đưa thêm mãi những đĩa sứ vào bàn rượu.
Từ phía đầu làng, dội về mấy tiếng pháo lẻ loi. Lũ cháu nhỏ,
nấp sau cột nhà, muốn chạy ra xin bõ già phát cho chúng những hòn cuội đã nhắm
rượu xong rồi kia.
Tên thực ông Tây già chủ đồn điền ấy là Rê-Bít-Xê. Nhưng người
mình đã đông phương hóa cái tên Rê-Bít-Xê từ hồi ông còn là quan cai trị xứ
này. Trước khi được về hưu để vỡ đồn điền giồng cà-phê ở hai vùng Nghệ An, Hà
Tĩnh, ông Rê-Bít-Xê đã làm chức Công Sứ ở nhiều tỉnh Trung Bắc lưỡng kì và, sự
thực, cái tên Rê-Bít-Xê được hóa chệch ra là Lê-Bích-Xa là từ cái hồi ông Tây
đó bắt đầu lĩnh chức Đại Pháp Lưu Trú Quan ở tỉnh Quảng Ngãi. Quan Tuần Vũ Quảng
Ngãi là người hoàn toàn cựu học, mỗi lần có giấy má gì ở bên tỉnh đưa sang tòa
mà không có tính cách công văn lắm, lại viết lên đầu thư riêng:
"Lê-Bích-Xa Công Sứ đại nhân...". Quan Tuần lấy làm thú lắm chữ
Lê-Bích-Xa, nghe nó Tàu lắm, không còn tí gì là Tây nữa. Vả chăng ngài không có
chút nào là dính với cái học mới nên chữ "Rê" mà đọc ra
"Lê" nghe nó cũng tiện lợi: ngài và thuộc hạ phải cái bệnh là không uốn
được tấc lưỡi. Cho nên mỗi lần cơ quan Công Sứ nào mới đổi đến mà tên có vần
"r" là vần tên ấy sẽ biến cả ra là Lê hoặc La, Li, Lô, Lư vân vân. Có
lẽ cũng vì thế mà đại danh quan nguyên Toàn quyền Robin đã biến thành Lỗ Bình đại
thần.
Nhưng mà chúng ta nên trở lại với cụ Tây đồn điền Rê-Bít-Xê
nguyên là Lê-Bích-Xa công sứ đại nhân. Và muốn tránh sự bỡ ngỡ của chúng ta mỗi
khi đọc những ngoại âm, trong truyện này, vai chính của chúng ta sẽ được mãi là
Lê Bích Xa.
Vậy thì cụ Lê Bích Xa là một vị trí sĩ làm đồn điền cà phê
vùng Hoài Hoan. Cụ Lê doanh ấp lập trại ở đấy từ bao giờ không rõ nhưng những gốc
cà phê thấy đã to lắm. Cụ đã cho trẩy hạt bán ra ngoài không biết đến mấy vụ rồi.
Vị hưu quan đó giờ là một lái buôn chính hiệu và thỉnh thoảng lại cho lộ ra những
cái cốt tài tử của mình những lúc chơi tranh xem tranh hoặc bày tranh. Cụ Lê
không vẽ tranh, nhưng cụ buôn tranh. Hình như tôi đã quên không nói ngay ở đầu
rằng cụ Lê Bích Xa là một người buôn tranh cổ. Nhiều bức lạ lắm. Đã đành là đẹp.
Nhưng nhiều bức quái lắm quái lạ như là có trò phù thuỷ dính vào ấy. Nhiều người
được cụ lấy tình thân cho xem những bức tranh cổ - những bức quý như thế, cụ Lê
ít khi cho đem bày ra chỗ công chúng thành hẳn một cuộc triển lãm - lúc trở ra
đều ngơ ngác ít nhiều và ngờ cụ Lê là một người có ảo thuật hoặc không thì cái
người vẽ tranh cổ đó cũng là một ảo thuật gia.
Nhà riêng ông Tây già Lê Bích Xa nhiều tranh quá. Người ta phải
tưởng đấy là một nhà bảo tàng chứa tranh Tàu. Tiền của mỗi vụ cà phê thu về rất
nhiều nhưng chủ nhân đều cho đi mua tranh hết.
Người ta ngờ việc mở đồn điền của vị Tây già này chỉ là một
cái cớ và mục đích muốn đạt được thì phải là một bảo tàng viện cổ hoạ Trung Quốc
kia.
Cụ Lê Bích Xa có dùng một vị Tây lai trẻ tên là Dăng để giúp
cụ những lúc soạn tranh tìm tranh. Có người lại bảo cậu Dăng này ngày trước có
làm phóng viên trường Bác Cổ Viễn Đông. Cái điều chắc chắn nhất là cậu Dăng người
rất ít tuổi nhưng sức học nặng lắm. Không rõ cậu học môn khảo cổ từ bao giờ mà
môn học so sánh của cậu sâu rộng đến nỗi các niên hiệu các tên vua lịch triều bất
kể nước nào, và tên các nghệ sĩ bất kể thời nào xứ nào, cậu nhớ vanh vách rồi
thì là kê khai, so sánh, suy luận. Giá có viết ra thì thành từng pho sách được ấy.
Ở người cậu thành ra là cả Đông Tây Cổ Kim rồi còn gì nữa. Suốt một vùng Nghệ
Tĩnh ai cũng biết cậu Dăng. Nhưng họ chỉ biết đây là một người Tây lai hạnh kiểm
rất khá, không có gì là mất nết, bao giờ cũng nhớ đến mẫu hệ, rất có hiếu với mẹ
và đối với người bên ngoại, thường vẫn lấy lễ ra mà xử. Dân gian gần đó chỉ biết
cậu Dăng có bấy nhiêu thôi, chứ thực không rõ một tí gì về cái tài đọc tranh và
cái sức đi tìm tranh của cậu ở khắp vùng quê Bắc Kỳ.
Một lần ấy cụ Lê Bích Xa gọi cậu Dăng lên buồng riêng và sau
một tuần cà phê đặc có chế rượu rôm:
- Này Dăng, có lẽ cũng nên sắp mà đi Hưng Yên đi thôi. Về
chuyện cái bức tranh Hàn Kỳ ấy mà. Hình như có một lần và rừng săn hươu, tôi đã
nói chuyện cho cậu nghe rồi. Lúc ấy đang cùng mải tìm lối chân hươu, cậu có
nghe và nhớ không? Nhưng tôi cũng cứ kể lại. Nguyên hồi tôi còn ở chức thủ hiến
vùng Hưng Yên, có một người chánh tổng huyện An Thi đem dâng tôi một bức tranh
để gỡ mình khỏi một vụ án hình. Hồi đó tôi còn quý cái lương tâm nhà nghề lắm.
Vả lại lúc ấy còn trai khoẻ, tôi chưa để bụng vào chỗ chơi đồ cổ. Tôi bèn đuổi
lão chánh tổng đó đi ra và doạ bỏ tù nó thêm về cái tội đòi hối lộ thượng quan.
Cái thằng cha táo bạo thế! Bây giờ tôi mới biết bức tranh đó là quý. Nó vẽ một
ông tướng già đang ngồi xem sách đêm trong quân trướng. Trên án sách có một ngọn
nến cháy trên đế son. Góc phải bên án, có vẽ một thanh bảo kiếm tuốt trần ghếch
lên cái hộp tướng ấn. Trông thì bẩn thỉu lắm. Lụa bồi đã bong rách và lòng
tranh nhiều góc dán đã nhấm nhiều. Nhưng mà tranh đó... (nói đến đây Lê Bích Xa
ngừng lại, tợp thêm một ngụm rôm, đôi mắt già sáng bừng lên bao nhiêu là thèm
muốn)... nhưng mà tranh đó, cái chỗ quý giá thì không biết thế nào mà nói cho hết
được. Mua được về rồi con mắt người Mỹ mà nhìn thấy là chúng ta sẽ có một cái
cơ nghiệp để hưởng chung, Dăng ạ. Tôi tin rằng cậu và tôi, bao giờ cũng sống gần
nhau mãi mãi. Tôi rất tin cậu và yêu cậu như là yêu con. Rồi dần dà tôi sẽ truyền
hết cho Dăng những cái sở đắc của tôi về cái bí thuật tìm tranh cổ.
Sớm ngày hôm sau, dân hàng ấp đã đánh sẵn xe ngựa cho cậu
Dăng xuôi tỉnh về đáp tàu ra bắc - xe ô-tô, tài xế ốm nặng. Cậu Dăng đánh thức
cụ Lê Bích Xa dậy.
- Tôi đi Hưng Yên đây, cha già ạ...
Cụ Lê giụi mắt ngáp:
- Hôm qua tôi uống nhiều quá. Có lẽ gần hết chai rôm. Ít khi
cao hứng như thế.
- Tôi đi Hưng Yên đây, cha già ạ.
- À tốt lắm. Đi đi.
Cụ Lê rút ở tủ két con thúc vào mặt tường, phía trên thành đầu
giường một cuốn sổ in, kí vào một tờ vẽ hoa rêu lằng nhằng và xé đưa cho Dăng:
- Tạt vào nhà Đông Pháp ngân hàng Hà Nội mà lấy tiền. Đi Hưng
Yên lấy tranh xong rồi tiện đường, sang luôn bên Cổ Am hỏi xem dân làng đã chịu
bán cái lô hương chưa. Họ thuận hay chưa, cũng cứ đưa cho dân làng trước một
nghìn bạc cho họ tiêu chơi. Mà, phải lấy dấu lý trưởng và cả một vài chữ ký của
bô lão nữa nhá. Thôi, đi cho được nhanh chóng. Tôi ngủ lại, có lẽ chiều hôm mới
dậy.
Cụ Lê Bích Xa ngáp, vươn vai. Thấy Dăng vẫn còn ngần ngừ, cụ
tưởng là cụ đã hiểu một điều gì, bèn cười:
- Cái séc ấy bốn mươi ngàn phật lăng, cha tưởng là thừa thãi
lắm chứ còn gì nữa. Một nghìn đồng đưa cho dân bên Cổ Am và còn ba ngàn đồng
thì mua bức tranh. Có lẽ mua tranh, đến ba ngàn đồng cũng đã là nhiều lắm rồi.
- Không phải thế. Tôi muốn ông cho tôi cái địa chỉ của người
chánh tổng có tranh đó kia.
- Tôi cũng không nhớ là về làng tổng nào và tên người đó tôi
làm thế nào mà nhớ lại được. Vả lại tôi tưởng một người như Dăng thì có cần gì
phải hỏi kĩ đến như thế mới tìm đến được nhà người ta. Cậu làm như xưa nay chưa
bao giờ cậu thuộc làu địa dư hàng tỉnh của xứ Bắc ấy.
Cụ cười. Cậu Dăng cũng cười theo. Cụ Lê Bích Xa chìa tay ra,
lắc mạnh tay Dăng: "Thôi, đi cho tốt tốt", rồi chui luôn vào chăn.
Ngoài cổng đồn điền, tiếng móng ngựa, dịp nhạc và sát vòng
bánh thưa và bé dần.
Sau đó độ dăm hôm, dân vùng Ba Tổng Lê ở Hưng Yên nhao nhao
lên với nhau rằng hình như có quan Đoan về sục rượu lậu. Có người lên mặt thông
thạo lại thì thầm rằng đó là quan Tây khảo cổ về đào mả Tàu đấy chứ. Cái việc
Dăng về một làng vùng An Thi tìm mua tranh đã là một việc náo động cả cuộc đời
an nhàn cần cù và bình dị của đám dân quê. Người ta sợ sệt lo lắng cũng mất đến
một ngày tròn. Mãi sau ông lí sở tại mới cắt nghĩa rằng đấy là quan Tây về mua
cái bức tranh quái gì của cụ Chánh Thuận "đâu giả những mấy nghìn bạc"
thì cả làng mới thở đánh phào một cái và lại cày cuốc gánh gồng được như cũ.
Cậu Tây Dăng mà tìm đúng được nhà cụ Chánh Thuận kể cũng tài
thật. Thì ra đối với những người đi tìm vật báu trên đời thật không có cái gì
là khó là không làm được cả. Có thế thôi, chứ dẫu có đến thiên nan vạn nan, họ
cũng chẳng coi là mùi gì. Về những cái gay go trên con đường tìm đồ cổ, đâu có
lần Dăng đã có nói chuyện đến những cái vất vả lúc vào huyệt đạo dưới mặt Ai Cập
để tìm vào lăng tẩm các vua pha-ra-ông.
Đứng trước bức tranh cổ của cụ Chánh Thuận vừa treo lên cây cột
mẹ gỗ mít giữa nhà thờ, Dăng ngắm mãi và ngờ ngợ. Lòng tranh thì cũ xưa lắm mà
lần vóc bồi thì tươi sáng.
- Tranh này, hình như tiên sinh mới cho bồi lại.
- Dạ, bẩm quan, có thể. Mới bồi độ dăm năm nay. Vì nó đã nát
lắm rồi.
Dăng trầm ngâm trước tranh, cố tìm cái quý giá trong những
nét vẽ đã gần hết đường bút lông. Cậu ngắm mãi hình người trong lòng bức tranh
trung đường. Cậu chỉ thấy nét mặt ông tướng Hàn Kỳ là tươi đẹp quắc thước. Chỉ
có thế thôi. Nét chỗ khoẻ, chỗ mềm dẻo tài tình. Nhưng chẳng nhẽ cả giá trị bức
cổ hoạ lại chỉ có thế? Đã gọi là vẽ, thì hoạ sĩ nào hẳn cũng phải vẽ đến được
như thế. Phải có những cái gì khác thế quá thế nữa kia chứ! Thì cụ Lê Bích Xa mới
chịu trả ba nghìn đồng ra tỏ lòng thèm muốn như đi mua ngọc biết nói. Cụ Lê
Bích Xa về môn cổ hoạ, Dăng đã phải tôn làm bực thầy học mình kia mà. Cái tài học
ấy, Dăng đã được bái phục về cái lần đó cụ Lê giảng cho Dăng về màu phẩm huyền ảo
của những bức tranh đám sa môn bên Tây Tạng.
Dăng đứng rồi, Dăng lại ngồi. Sau khi đặt cái ghế bành hướng
vào bức tranh cách tranh độ ba thước để "quan" Dăng ngồi thẩm tranh,
cái ông cụ Chánh Thuận, cả một buổi sớm ấy cũng mất cả công ăn việc làm và chỉ
biết có nín thít mà ngồi túc trực đó xem người mua tranh có cần dùng hỏi han gì
không. Cái ông khách trẻ đó cũng là lạ. Ngồi suốt một buổi, bên cạnh cụ Chánh
Thuận, ông không nói lấy một câu. Ông chỉ có vòng tay trước ngực, ngồi đực ra
và dán chặt mắt vào tranh. Ông hút không biết bao nhiêu là thuốc lá. Tàn tro và
mẩu đầu thuốc dưới chân vị Tây trẻ, đã đùn lên thành một đống rác. Ông lim dim
mắt, nhìn bức hoạ qua vờn khói, say sưa và thắc mắc và có lúc nét mặt người trẻ
ấy xa vắng như khuôn mặt một nhà sư già nhập thiền lúc tĩnh toạ. Dăng càng ngắm
tranh, càng thấy mình bất tài. Cầm ví đếm tiền, chàng có ý không muốn trao nó
cho ông Chánh Thuận. Không phải Dăng có ý tiếc tiền, dẫu rằng cái tiền ấy không
hẳn của mình lấy mảy may. Từ đi vào con đường khảo cổ, Dăng đã được dùng tiền
nhiều gấp bao nhiêu ngần ấy kia. Có khi chỉ đổi lấy một mảnh sứ vỡ, Dăng cũng
đã bỏ ra một số tiền bằng tiền mua một nếp nhà lầu rồi kia mà.
Nhưng thôi, lời thầy đã dạy như thế, Dăng chỉ có biết tuân
theo. Dăng đưa đủ số cho ông Chánh Thuận và lên đường về lĩnh mệnh cụ Lê Bích
Xa. Cụ Lê Bích Xa đã nhận được điện tín của Dăng trước ngày về, đem tranh về. Cụ
liền soạn sẵn một bữa tiệc lớn cho riêng chỉ có hai người: cụ và Dăng. Và đám
dân đồn điền lấy làm lạ về việc cụ cho họ nghỉ luôn những ba ngày mà vẫn cứ cho
ăn cả lương. Không những thế, họ lại còn được chủ đồn điền ban cho gạo thịt, rượu,
cà phê và đường; cứ bốn người một chai rượu và tám người một ki-lô cà phê. Người
bảo rằng hay là cụ Lê Bích Xa ăn mừng ngày sinh nhật. Nhưng có kẻ thông thuộc
việc nhà ông chủ, lại nói rằng lễ sinh nhật mọi năm thường làm vào giữa mùa lạnh
kia mà. Có đâu một người trong một năm lại ăn những hai lễ sinh nhật mình. Cả một
đồn điền cà phê xao xuyến - cụ Lê Bích Xa vui.
Cái buồng riêng của cụ Lê Bích Xa đã được kê dọn lại. Cụ cho
cất bớt đi rất nhiều thứ. Mọi khi gian buồng này, không mấy ai được vào. Thân
tín đến như Dăng mà đâu cũng chỉ được để chân tới vẻn vẹn có hai lần. Đấy đã gần
như một nơi chính tẩm một ngôi đền. Đấy chứa rất nhiều của lạ trên thế gian thuộc
về đủ các loại. Những kỉ niệm lữ hành. Những vật quý tích trữ được, sưu tầm được.
Linh tinh quá. Và có nhiều sưu vật bé chỉ bằng khuy áo mà nói đến là y như là
cơ man tiền bạc. Mỗi vật đều có trước số theo thứ tự phân loại, kê khai vào một
cuốn sổ và được chụp ảnh lại dán riêng vào một cuốn an-bom, dưới mỗi ảnh đều có
cước chú hình dáng cân lượng màu sắc, và cả tên tuổi những vị tiền chủ các vật
đó. Thật là cả một cuốn sổ căn cước, một sổ bộ lí lịch. Thường mọi ngày, cụ Lê
Bích Xa, mỗi đêm vào phòng này, đều phục sức rất trang nghiêm, tay cầm nến rọi
vào từng vật, dáng đi chậm chạp thành kính: đứng ngoài nhìn cái bóng chậm yếu ấy
cử động dè dặt, ta tưởng đấy là một kẻ tu hành đang thầm kín làm một lễ dâng
hương vào những giờ u tịch của đêm ấp.
Dăng đã đưa bức cổ hoạ về. Bàn tiệc đã bày sẵn. Lê Bích Xa
không cho Dăng có thời giờ đi thay quần áo và tắm gội, cụ liền nâng mừng Dăng một
cốc uýt-cây tẩy trần và đòi xem ngay tranh. Tường đã đóng sẵn một cái đinh mới.
Cái đinh ấy chờ bức tranh cổ đã từ mấy bữa nay. Hai thầy trò loay hoay mắc
tranh lên đấy. Ngồi đối diện bức hoạ xưa thướt tha trên nền tường, sự chăm chú
của Lê Bích Xa bị nghi ngờ tràn mãi vào. Lòng hoài nghi ấy càng tăng thêm mãi.
Lê Bích Xa thay mãi kính tuổi. Có khi đeo hai ba kính chồng lên nhau. Đến lúc
mà cụ đi gần lại tranh, rọi kính hiển vi lên nền lụa cũ một hồi lâu xong, cụ
quay lại Dăng và chậm rãi:
- Hỏng mất rồi Dăng ạ.
- Thưa thầy tranh này vừa bồi lại. Họ cũng nói thế.
- Chính vậy. Họ đánh tháo mất ruột tranh rồi. Chúng ta bị lừa
to rồi.
- Thầy muốn nói đây không phải là nguyên bản bức tranh? Đây
chỉ là một bản sao bức cổ hoạ?
Cụ Lê Bích Xa không trả lời. Mắt người sưu tầm đồ cổ có những
nét chìm đường nổi của suy nghĩ và thương tiếc. Lại cho người ra Ba Tổng Lê đòi
lại tiền lão Chánh Thuận? Mấy ngàn bạc, tuy là một số tiền to tròn đấy, nhưng
đòi lại để làm gì. Cái đáng giữ lấy, đâu có phải là tiền, bức tranh cổ kia chứ.
Rủi bị tranh giả, Lê Bích Xa chỉ hận tiếc mình đã chẳng có duyên với vật báu,
giờ biết nó lạc vào đâu mà sẵn tìm. Người đã biết chơi cái ruột tranh xưa đó, hẳn
không vì vàng bạc mà thuận nhường lại cho, vì có biết mà tìm đến cầu thân.
Một đêm ròng ấy, chủ ấp không ngủ.
Ông già ngồi đối diện bức tranh có đèn măng-sông ba trăm nến
soi tỏ. ánh sáng mạnh và xanh trong càng làm tỏ thêm những thở dài tiếc thêm của
chủ ấp không ngủ.
Ngày sau, Dăng lên buồng thỉnh an thầy và hỏi cụ Lê Bích Xa
xem giờ nên xử trí ra sao với bức tranh bị đánh tráo và chàng xin chuộc lại lỗi
bất tài vô học sơ suất mình bằng sự bỏ tiền ra đền lại cho cụ, nếu Chánh Thuận
manh tâm không hoàn lại mấy ngàn đồng.
- Thầy bắt đền con mà làm gì. Thầy cũng không đến nỗi nghèo
thiếu. Và bị mua nhầm tranh này, lỗi cũng không hẳn tại con cả. Vì cái học lực
xem cổ hoạ của con, dẫu sao cũng chưa vào được mức cao đẳng. Mà lúc con đi lấy
tranh, thì thầy lại không dặn kĩ về cách thử. Ai biết đâu rằng trong thế giới
chơi tranh, lại cũng có người quái quỷ như mình. Kẻ kia đánh tháo ruột tranh,
thực cũng là người có mắt tinh đời. Đáng nên gần lắm.
- Có lẽ người ấy là tên khách bồi tranh?
- Rất có thể.
- Con muốn được nghe thầy giảng cho về cái quý giá của bức hoạ.
- Thầy sắp nói đến mà. Con hãy ngồi xuống đã. Uống đi. Và
cũng không nên tiếc nữa. Vô ích. Thế gian còn vô số cái khéo cái quý. Chỉ sợ
mình không có mắt xanh đối với những vật có cái bề ngoài của vô hồn. Chỉ sợ
mình kém đức để được làm bạn với vật báu thôi, con ạ.
Cụ Lê Bích Xa từ tốn đặt xuống bàn một bộ đồ hút thuốc lá
chưa cuộn, lấy ở giá điếu ra hai cỗ píp, đưa cho Dăng một. Mồi thuốc thơm ở hai
ống điếu tỏa khói lần. Nước bọt chốc chốc chảy từ họng điếu xuống tàn lửa mồi
thuốc, đánh dấu thời khắc qua bằng những tiếng sèo sèo gợi cảm. Lê Bích Xa đứng
lên đi mấy vòng, bắt đầu giảng về bức cổ hoạ Trung Quốc, giọng đĩnh đạc trong
trẻo. Buồng người chủ ấp có tuổi phút đã trở nên một giảng đường mà Dăng là một
thính viên chăm chú.
- Con có biết tác phẩm này là của ai không? À của Lỗ Hường
Diên người tỉnh Mân - cái tỉnh Trung Quốc, nổi tiếng về môn hội hoạ quái ác, hẳn
con đã tường! Như con trông thấy đó, tranh vẽ một ông tướng và một ngọn nến
cháy soi xuống một cuốn sách mở của ông lão tướng. Tất cả giá trị huyền ảo của
tranh là thu vào ngọn nến. Ngọn nến ấy, nếu cha đánh diêm châm vào thì nến sẽ
cháy sáng như một ngọn nến của cuộc đời thực tại chúng ta. Con hãy cứ bình tĩnh
ngồi xuống mà nghe cha nói tiếp. Cha nói cái gì nhỉ? À nếu châm lửa vào đầu nến
đó của tranh thì tranh sẽ sáng bừng lên. Và, chỉ có nến cháy thôi, chứ tranh vẫn
âm u nguyên vẹn; lửa nến sáng vẫn không làm hại gì đến đời vật chất của tranh.
Muốn cho tranh trả lại vẻ bình thường của tranh thì chỉ có thổi tắt phụt ngọn nến
đi thôi.
- Thưa cha, con đi vào con đường cổ hoạ Trung Quốc kể cũng đã
lâu ngày nhưng chưa từng nghe - chứ không nói đến sự thấy nữa - tới những việc
quái dị như vầy.
- Dăng, con hãy đứng lên ghế kia, đánh hộ cha một que diêm và
châm ngay vào đầu nến tranh.
Tranh tự nhiên sáng bừng lên. Nến bốc dần sức sáng, soi xuống
trang sách và khuôn mặt hồng hào vị tướng già quắc thước ngồi trong lòng cổ họa.
Giá lúc này, lửa nến lả lay ngọn đi một chút theo với tý gió đông của phòng
khách đây thì Dăng đã tưởng tướng Hàn Kỳ ngồi kia là người của cuộc đời này và
đang là một vị quý khách ngoài thời gian của chủ ấp đây. Dăng lùi mãi ra xa, nhỡn
tuyến bị sự hiển linh của tranh sáng chi phối. Dăng dụi mắt. Giữa không khí
kinh ngạc kinh sợ thầm lặng đem lại bởi quái ảo giọng cụ Lê Bích Xa cũng phào
phào xa vắng như từ một thế giới nào gửi về - Lụa vẽ tranh, nguyên có những hai
lượt. Vì còn cả cái ruột trong không bị người có mắt tinh đời nào đó lấy mất,
thì ngọn nến sáng của chúng ta cháy mãi mãi. Ta có thể treo mãi tranh này trong
nhà, dùng ngọn nến này mà chơi thay đèn, đêm đêm thắp lên. Nhưng uổng quá,
chúng ta chỉ còn có một lần lụa ngoài của bức tranh nên sự thần diệu này chỉ có
được trong giây lát thôi. Thắp lâu nữa thì cháy luôn cả tranh mất. Con lại chịu
khó đứng lên ghế thổi tắt nến tranh đi rồi cha sẽ giảng tiếp về cái bí thuật của
lối họa xưa tỉnh Mân này.
Nến tranh tắt. Phòng giảm hẳn sức sáng - cái cây bạch lạp nơi
tranh lúc sáng tỏ, sức sáng vốn ngang bằng một ngọn măng-sông nhỏ. Mùi cà phê tỏa
trong sáng dịu của phòng lặng.
- Lỗ Hường Diên vốn là một họa sĩ nổi tiếng về môn vẽ và lại
kiêm cả khoa thôi miên nữa (tỉnh Mân vốn lại là quê hương của môn hư linh học).
Cứ chỗ thầy biết thì lúc tạo nên bức tranh này, Lỗ đã phải vi hành hương mãi
vào vùng Ma Thiên Nhẫn để tìm nguyên liệu như chất lân tinh và diêm sinh ở những
mả hoang gần đấy - núi Ma Thiên Nhẫn vốn là đất cổ chiến trường - và chất thạch
nhung ở đáy lòng sông Bộc Ly. Con cũng chưa biết công dụng hóa học của mấy loại
khoáng này. Lân và diêm sinh thì cháy sáng và thạch nhung thì không cháy, mặc dầu
bỏ thẳng vào lửa. Lụa vẽ tranh, dệt bằng tơ loài sơn tằm đánh săn lại với thạch
nhung cán nhỏ ra. Vẽ đến ngọn nến, họa sĩ dùng chất lân và diêm Ma Thiên Nhẫn
trộn lẫn với thuốc vẽ. Vẽ xong, họa sĩ thôi miên vào đầu ngọn nến. Đấy là ruột
tranh. Cái lần trong. Lần lụa vẽ ngoài, chỉ là cái lượt hoa mỹ của màu sắc và
hình vẽ phủ lên để giữ vững cái cốt kỳ diệu ở trong. Tranh cổ lâu ngày, lượt lụa
ngoài cũng hấp thụ được cái thần diệu của cốt trong. Và thắp vào ngọn nến ngoài
cũng có cháy. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc thôi.
- Thưa cha, những lối hiểm hóc này của môn hội họa, cha sở đắc
được ở nguồn khảo cứu nào? Sách không có nói đến.
Cụ Lê Bích Xa sẽ cười mỉm không trả lời thẳng vào câu hỏi của
Dăng. Cụ kể sang một chuyện khác:
- Cái lối vẽ lấy chất lân trộn vào thuốc để điểm ngọn lửa
tranh và lấy thạch nhung để làm nến tranh, đâu còn có. Cái bức vẽ tích "Phục
Nữ Thổ Thư" cũng gần như thế. Nguyên tranh này diễn lại việc mừng Phục Hy
Nga đọc cho thượng thư lệnh Triều Thố đời Hán chép lại những lời của lũ sách bị
mất đi về đời Tần Thủy Hoàng phần thuê khanh nho. Lúc Phục Hy Nga đọc cho Triều
Thố ngồi chép, bên án sách có hai người quỳ nâng đèn lồng soi sáng trong sách. Ấy
lửa đèn lồng, cũng điểm theo cái thuật ấy. Nhưng không rõ tranh tích sau này có
phải là sản phẩm của tỉnh Mân không.
Cụ Lê Bích Xa ngừng một hồi lâu rồi bàn với Dăng:
- Bây giờ cha nghĩ thế này. Là cũng không đòi tiền cái lão
chánh tổng ấy nữa. Và cũng không giữ tranh này để chơi riêng nữa. Cha sẽ tổ chức
một buổi nói chuyện về cổ họa Tàu và đem đan cử luôn tranh Hàn Kỳ này ra và
châm lửa nến thí nghiệm ngay cho công chúng xem. Sẽ làm một tiệc trà tại câu lạc
bộ Pháp Việt ở tỉnh. Mời cả thân hào và những bất cứ là ai người Pháp người Nam
có cảm tình với nghệ thuật. Của báu, có khi cũng không nên giữ lấy một mình.
Cha sẽ phí bức tranh cổ đó, đốt cháy cho thiên hạ đây xem chơi.
Tại tiệc trà đi kèm vào buổi tối nói chuyện về tranh Tàu tổ
chức ở Vinh, công chúng Việt vỏn vẹn có năm người. Bất chấp cả cái thiểu số
đáng là một cái cớ để hoãn lại ngày nói chuyện, cụ Lê Bích Xa vẫn bình tĩnh giảng
về cổ họa Trung Hoa và cứ cho châm ngọn lửa nến trong bức tranh ba nghìn đồng của
mình treo ở tường câu lạc bộ. Lửa nến cháy, nhiều người trầm trồ cảm động. Phép
kì diệu đó chỉ đúng được có hai mươi phút nghĩa là bức tranh đã cháy ra gió trước
khi diễn giả nói đến câu cuối cùng của đề chuyện mình...
Ít bữa nay, Lý Văn buồn bực ra mặt, bỏ nhà ra đi đến hai ba
hôm. Nhiều người lạ mặt đến hỏi, vợ con Lý Văn đều không biết thế nào mà trả lời.
Những người khách dữ tợn ấy có khi trở lại đến hai ba lần. Không được gặp chủ
nhân, họ không lấy thế làm hậm hực. Vợ Lý Văn có hỏi gặng, họ chỉ trả lời nhiều
câu nghe rất ngang tai.
- À, anh em chúng tôi cũng chơi bời như ông Lý nhà ta đây. Hễ
ông Lý có về, bà nói giùm cho là có bọn Huần ở Kim Sơn ra thăm. Bá Huần, bà nhớ
thế cho. Và có tin gì hay, xin ông Lý nhà cho anh em biết sớm.
Bọn Bá Huần Kim Sơn đi chưa khỏi thì lũ chó mẹo ở ngoài cổng
lại sủa vang lên một hồi. Lại ba bốn người nữa đến hỏi thăm ông Lý. Người nào
cũng quấn khăn đầu rìu, trông rất dị thường.
- Chúng tôi là người Tam Tổng. ở nhà lâu ngày tù chân quá,
nhân đi qua đây, ghé thăm ông Lý và hỏi ông xem có công việc gì đáng để anh em
đỡ tay hộ không.
Bà Lý Văn chỉ biết dạ và thưa và luôn miệng mời khách hãy ngồi
chơi để cho cháu nó đi đun nước.
- Thầy cháu đi lên tỉnh vắng - bà Lý nói.
Mấy ông khách người hạt Tam Tổng không chịu ngồi yên một chỗ
để xơi một khẩu trầu. Họ cũng không chịu ngồi yên để chờ đợi ấm nước trà đun sắp
sủi. Họ chắp tay ra đằng sau lưng, lững thững dạo quanh nhà một vòng. Đàn chó mẹo
tha hồ mà sủa, mà rộ; có lúc chúng chờm vồ lên lưng khách. Khách vẫn thản nhiên
để cho đàn chó nhà bà Lý gậm bắp chân. Bà Lý vừa quát lũ chó một cách vô hiệu,
vừa để ý ngắm đến những bắp chân tròn trĩnh của mấy ông khách lạ. Thì ở đấy, có
cần gì đợi lũ chó nhà bà Lý cắn, trên lần da chân bóng như đồng đen kia, đã
loang lổ nhiều vết sẹo rất to, cái thì trắng nõn nước da non đang lên, cái thì
đen thẫm màu thịt thối thâm đã lâu ngày.
Đàn chó xem chừng cũng chán mấy người lạ kia nghênh ngang
trong nhà chủ mình và có ý coi cái khoảnh sân vườn này như là của họ. Trái với
những lần khách thấy những người lạ qua đây có cầm que hay gậy tre gai với sự rụt
rè kiêng nể là chúng cắn vồ và đuổi nhiều, lần này đàn chó mẹo, sau một hồi thị
oai suông đã lảng xa mấy ông khách người Tam Tổng.
Sau một hồi "nhỏ to" ở giữa sân, họ nói chõ vào
trong nhà:
- Thế ông Lý có nói bao giờ về không?
Từ trong nhà thấp, tiếng bà Lý đưa ra:
- Dạ, thầy cháu hôm đi, không thấy dặn gì cả. Xin mời các ông
vào xơi nước kẻo nguội.
Ngoài sân mấy ông khách vẫn thì thầm bàn tán. Họ không trả lời
mời nước của bà Lý. Trong một lúc gắt gỏng, bà Lý chỉ nghe được một mẩu chuyện
lúc họ nói to: "... Chả có nhẽ lão Lý lại đi đánh một tiếng bạc bất thình
lình như vậy. Bao giờ lão đi, cũng có anh em mình tả phù hữu bật". Thế rồi
họ kéo nhau đi, sau mấy mồi thuốc lào rít đến tụt nõ và sau mấy câu chào hỏi kệch
cỡm ngô nghê. Bên chiếc điếu cày dài đến thước rưỡi ta, họ còn để lại một cái hộp
tròn đựng thuốc lào. Nắp hộp làm bằng vỏ cam khô. Lúc vỏ cam còn tươi, ở trong
khuôn ép, người ta đã tỉ mỉ trổ lên đấy một cái mặt hổ phù.
Cai Xanh - người khách có hộp thuốc lào này và vừa ở đây ra -
Cai Xanh là một tay chơi nổi tiếng ở mấy vùng Thanh nội và Thanh ngoại. Những
tay anh chị trong đám giang hồ phóng khoáng thường được biết đến tiếng Cai
Xanh. Và những tay chơi chưa được gần y thì chỉ thèm muốn có một dịp nào nhập
vào đảng y để được biết rõ đến nghệ thuật của một bậc đàn anh. Có mấy lần, Cai
Xanh hay bàn với những người thân tín về việc Ông Thám ngoài Yên Thế.
Người ta biết đến Cai Xanh, người ta biết luôn cả đến những đồ
vật mà Cai Xanh hay giắt luôn trong mình. Như con dao hai lưỡi, cái hộp thuốc
lào, v.v... Con dao hai lưỡi ấy, ít khi cai Xanh phải dùng đến. Khi đã dùng đến
thì thế nào cũng có chuyện. Trong những phút rất nguy nan, phải giết kẻ khác để
gỡ lấy mạng mình, chưa bao giờ Cai Xanh chịu phóng dao và bỏ dao lại trên chiến
địa. Hóa cho nên con dao đó, sau những khi cắm ngập vào thớ thịt còn nóng hổi
dòng máu của bao nhiêu tử thi, dao đó lại trở lại nằm trong hầu bao của Cai
Xanh. Chung quanh con dao thép sáng ngời, một huyền sử đã bao trùm, cũng như một
huyền sử khác đã chạy chung quanh cái hộp đựng thuốc lào của Cai Xanh.
Những lúc nhàn tản, không dự một đám cướp to nào, những lúc
nhỡ độ đường không có tiền trả những hàng quán hẻo lánh trên con đường Thanh nội
Thanh ngoại, Cai Xanh đã lễ phép nói với bao nhiêu là nhà hàng:
- Tôi lỡ quên không giắt theo tiền trong người, nhà hàng cho
tôi gửi tạm vật này làm tin, mai mốt tôi sẽ cho người nhà tới chuộc nó về.
"Nó" đây là cái hộp thuốc lào ở trên nắp vỏ cam có
khắc cái mặt hổ phù. Những chủ quán ở rải rác đường Điền Hộ phần nhiều cũng là
đầu trộm đuôi cướp cả. Khi nào họ không đi ăn cướp được thì họ là người lương
thiện, mỗi ngày rót vào bát đàn vài lượt nước trà xanh nóng hổi cho người đi đường
giải khát. Họ vừa rót nước, vừa nheo cặp mắt lại như muốn đếm tách bạch ra từng
đồng tiền trong tay nải khách qua đường nghỉ chân. Không biết ai đã nói chuyện
cho họ nghe từ bao giờ về cái hộp thuốc lào của Cai Xanh mà mỗi lần thấy người
khách ngang tàng kia gửi vật mọn đó làm tin thay cho món tiền thiếu, chủ quán
nào cũng đều xoa tay, không dám nhận: "Dạ không dám. Khi nào ông anh sẵn
thì cho đàn em xin. Cái đó có là bao mà dám phiền lòng ông anh".
Hôm nay, cùng một vài bạn lợi hại đến thăm Lý Văn mà không được
gặp, Cai Xanh có ý vờ bỏ quên lại hộp thuốc lào, để nhắc cho chủ nhân biết y đến
không phải là việc phiếm và khi nào về nhà, chủ nhân nên triệu y đến ngay. Vì
có việc cần phải bàn. Cái việc lơ đễnh rất hữu ý đó, cái chuyện bỏ quên hộp thuốc
lào vẫn là một ám hiệu của Cai Xanh dùng tới mỗi lúc đi tìm bạn để "đánh một
tiếng bạc lớn" nghĩa là cướp một đám to.
Thế mà, không hiểu rõ một tí gì, bà Lý Văn cứ phàn nàn cho mấy
ông khách Tam Tổng đến chơi đã không được gặp chồng mình lại còn bỏ quên đồ vật.
Xa xôi hàng mấy ngày đường, đến bao giờ các ông ấy mới lại trở lại đây để nhận
vật bỏ quên. Mà bây giờ các ông ấy đi hẳn đã xa lắm, biết đuổi theo thế nào cho
kịp.
Một ngày nữa lại hết.
Vào một sớm thứ hai, một thôi tiếng chó sủa ngoài cổng, mở đầu
cho cái ồn ào hàng ngày trong gia đình nhà Lý Văn. Bà Lý ngừng tay dưới bếp, đã
tưởng chồng mình về. Té ra chỉ là một ông khách lạ mặt nữa, đến hỏi thăm chồng
với sự nóng nảy của một người quen vội vàng. Y tỏ vẻ thất vọng, xin đi ngay. Bà
Lý muốn ông khách hấp tấp kia cho mình biết tên. Khách cười. Trên khuôn mặt đen
như cột nhà cháy, nẻ ra hai đường răng trắng nhởn. Ông khách chạy vội ra phía đầu
chái nhà, vơ lấy cái mai dựng ở tường, móc túi lấy con dao găm, khắc vào cán
mai một đường tròn đều như tiện, trao mai cho bà Lý:
- Bà cứ đưa cán mai này cho ông Lý nhà, tự khắc ông sẽ biết.
Độ chiều mai tôi lại sang chơi.
Bà Lý Văn cũng chỉ biết vâng dạ cho qua chuyện. Từ ngày bà
làm bạn cùng với ông Lý Văn, đến bây giờ đã mấy mụn con, bà chưa từng được biết
chồng bà có những người bạn lạ lùng như thế bao giờ.
Lý Văn đã về. Không kịp bỏ khăn áo, Lý Văn đã nằm ềnh ra giữa
phản. Từ chối hết cả những lời mời mọc ân cần của vợ hỏi ăn cơm hay là ăn cháo
hay là dọn rượu, Lý Văn chỉ nằm ngửa nhìn thượng lương nhà, tay trái vắt lên
trán. Trên mặt y, chốc chốc những đường gân lại dăn dúm lại vì giày vò của suy
nghĩ.
Bà Lý mon men lại gần chồng.
- Mấy hôm thầy nó đi vắng, có đến dăm bảy ông khách lạ đến hỏi
thăm. Các ông ấy đều không nói tên. Có một ông khắc cái gì vào cán mai này và dặn
đưa ngay cho thầy nó xem.
Bà đưa cho chồng cái cán mai có tiện một nấc ở đầu cán.
- A, Phó Kình! Thế người ta đến từ bao giờ?
- Sáng qua. Theo lời ông ta hẹn, có lẽ chiều nay ông ta lại
trở lại đây.
Lý Văn tự nói một mình: "Mình đang tìm Phó Kình. Thôi,
được rồi, có cây "bút chì" này giúp sức, ta không lo gì nữa".
Bỗng Lý Văn ngồi nhỏm dậy. Y vừa nhìn thấy ở mép bàn thờ cái
hộp đựng thuốc lào con con. Y vội quờ lấy cái hộp có in mặt hổ phù.
- Ấy, của cái bọn ông khách gì nói là người vùng Tam Tổng đấy.
Ông ta lúc đi bỏ quên. Tôi bận trẻ không kịp chạy theo để trao trả cho ông ta.
Lý Văn không để ý đến nhời vợ, ngắm nghía hộp thuốc lào sung
sướng, lim dim mắt, nói như người mơ ngủ: "Cai Xanh!" "Tiếng bạc"
này, thế nào cũng ăn to. Một cây "bút chì" của Phó Kình và một cái lá
chắn của Cai Xanh, thế nào đám này cũng lọt. Ta đang lo thiếu hai tay này. Chắc
thế nào Phó Kình cũng tới tìm Cai Xanh. Và có lẽ họ đã gặp nhau ở giữa đường rồi
cũng nên. Tất thế nào chiều nay hai người cũng có mặt ở đây một lúc.
Thế là Lý Văn đã truyền cho vợ đi lấy độ chục chai rượu ngon
và quát tháo người nhà bắc ngay nước sôi để làm lợn. Bà Lý Văn chỉ biết làm
theo. Từ những ngày nào, trong cái gia đình này, mỗi một lời nói to của ông Lý
là một mệnh lệnh. Một mặt, người nhà chọc tiết lợn, tiếng con vật bị đâm dao bầu
vào cuống họng kêu eng éc. Một mặt bà Lý đi ra đầu làng để liệu cho xong cái
khoản rượu.
Lý Văn chạy tới tấp như một kẻ chức sắc gặp ngày phải đương
cai. Ngồi ở nhà được một chút, y nghĩ thêm được một điều gì, y lại vụt chạy đi
rất lâu. Y chạy đi chạy về như thế, tính ra đã được ba lần. Đến lần thứ tư thì
y dắt luôn đến năm sáu người cùng về, trong số đó cả Cai Xanh và Phó Kình.
Người ta nói cười oang oang. Lý Văn vào nhà trước, trải vội
chiếc chiếu cạp điều phủ mặt ván ngựa.
- Mời các chú vào trong này.
Cả bọn kéo lên giường sau khi rửa chân cạn, hai bàn chân bẩn
vỗ vào nhau mươi lượt. Cũng như từ bao giờ, bà Lý đã lẩn đi đâu mất. Ông Lý đã
dặn vợ hễ khi nào ông có đông bạn lạ đến uống rượu thì bà nên vắng nhà. Vì thế,
dọn xong rượu, lần nào bà cũng đi biệt.
Người ta ngồi vào mâm rượu với sự uể oải của người không đói
ăn, với sự nghiêm trọng của một người biết trước bữa rượu này là khơi mào cho một
việc quan hệ cần phải giải quyết trong hơi men nồng. Thực khách đều giữ một vẻ
mặt bí mật.
Trong số mười chai rượu, thì đến bốn năm cái đã là vỏ thủy
tinh không. Chiếc mâm đồng thước rưỡi có lót lá chuối tươi, đựng thịt thủ thái
dối đầy tú hụ lên thế, lòng mâm thịt đã vợi đến một phần ba. Một vài người dặng
hắng. Đôi ba kẻ vê sẵn những mối thuốc lào, mắt nhìn trừng trừng vào người đang
rít điếu cày. Lý Văn khạc mạnh. Y giả vờ gọi đầy tớ thực to. Không có đứa nào
thưa, y tủm tỉm:
- Thưa các quan, nhà vắng cả, xin các quan bàn qua lại việc
đó. Rồi để phân phát ngay công việc cho anh em và định ngày làm.
- Còn định gì nữa - Cai Xanh ngắt câu chuyện - Nếu có làm thì
làm ngay đêm nay đi. Nhân thể đêm nay lại tối trời. "Tiếng bạc" này,
em xin thưa để bác Lý biết: nếu đêm nay không mở ngay đi thì "tiếng bạc"
đến vỡ mất.
- Cũng được. Vậy thì anh em cắt và nhận công việc luôn đi -
Phó Kình bây giờ mới lên tiếng.
- Cứ như lệ cũ mà theo, vẽ vời cắt đặt lại làm chi cho thêm
phiền ra. Thì cũng lại cầm lá chắn là anh Cai và đánh "bút chì" là em
chứ còn ai vào đây. Nếu có neo người thì anh Lý nhà đỡ cho một cây "bút
chùng" kèm sát bên cạnh em cho em vững tay ở những con đường độc đạo. Còn
các chú nó đây - Phó Kình xòe tay chỉ mấy người ngồi ăn từ nãy chưa nói gì -
thì chia nhau ra mà đỡ lấy việc vặt như thả chông, bật hồng, vân vân. Còn thì mới
đến người ngoài. Các ông anh nghe đàn em bàn thế đã tạm ổn chưa?
Phó Kình tu một hớp rượu đánh ực. Cả bọn đều nhao nhao:
- Thôi, thông lắm rồi. Vậy thì nhất định đêm nay hết trống
canh hai bắt đầu cất quân. Sang đúng đất bên ấy, vừa vào giữa canh ba.
Cả bọn đều một loạt đánh ngã vài chai lớn nữa. Rồi trong
không khí ồn ào, người ta đọc đi đọc lại cái câu: "ở đời muôn sự của
chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi". Cả bọn đều lấy làm thưởng thức
câu đó và mỗi người đều tự đặt ngay mình vào địa vị người dám nghĩ dám làm.
Nghèo, cực, khái. Lấy chỗ tiền bạc của bọn bất nghĩa, đem chia cho anh em khác
nghèo như mình .
Phó Kình đã nóng mặt, xắn tay áo, ngồi chửi đổng:*
- Này phải biết, một cây "bút chì" của em, em dám
chấp cả một ấp người chúng nó.
Nói xong, Phó Kình nhảy xuống đất, quơ trong gầm giường lấy
cái mai, tháo cuộn dây thừng quấn trong người thay thắt lưng, buộc một đầu mối
dây vào cán mai có tiện đường rãnh từ hôm nọ. Cả bọn đang vui câu chuyện, đều
ùa theo Phó Kình ra mặt sau nhà, đứng một loạt đối diện với bụi chuối tiêu phất
phơ tàu lá ở bờ rào xa. Phó Kình cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải vào
cánh tay trái. Bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ vững đốc
ngọn mai, nói to: "Đàn anh thử xem em hạ cây chuối phía bên trái".
Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gục xuống mặt
đất, kêu đánh roạt. Và Phó Kình đang cười hề hề, cuốn vòng dây thừng vào cánh
tay trái. Được giật về từ lúc nào, cái mai đã ở gọn trong hai bàn tay y.
- Bây giờ đàn anh lại xem em lấy buồng chuối chín cây xuống để
chút nữa lễ thánh.
Lưỡi mai xén qua cuống buồng chuối, đi quá đích, chạm cả vào
đến quá nửa thân cây chuối. Cả bọn cười vang. Lý Văn dè dặt lời khen:
- Ngón "bút chì" của chú hay đấy. Nhưng cũng còn nặng
tay. Chưa được ngọt đòn lắm. Nhiều khi mình chỉ nên đánh dọa người ta thôi. Nếu
không cần đến, thì chớ nên làm tổn hại đến nhân mạng.
Sẵn có đàn gà đang đi trong luống khoai lang, Lý Văn mượn Phó
Kình đưa cho mình cây "bút chì", buộc thòng lọng múi dây vào cổ tay
trái và bảo: "Chú nào ném hộ anh hòn đất đi!".
Tiếng hòn đất đụng đất kêu đánh bộp. Mấy con gà bay tà tà khỏi
mặt vườn, đập cánh bồm bộp. Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh vụt.
Một tiếng gà kêu oác.
Cả bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gãy mất hai chân.
Vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và cặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn
dính vào đùi bởi lần da hoen máu.
Lý Văn gác mai, nói với tất cả bọn:
- Nếu mình ném mạnh tay quá và không biết tính sức đi của
"bút chì" thì nát mất gà. Các chú không phải đánh những tiếng bạc vào
sinh ra tử, các chú không biết, chứ đòn "bút chì" khó khiến lắm. Và một
cây "bút chì" ngang tàng như thế mà lại phải lụy một cành tre đấy.
Chú nào hay xử cây "bút chùng", ở các đường độc đạo, nên cẩn thận khi
thấy bên địch tung cành tre ra để phá "bút chì". Để hôm nào rảnh, anh
sẽ dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo bằng gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn
chiến ấy thì đầu người rụng cứ như sung.
Rút từ tập truyện ngắn Vang bóng một thời,
Nxb. Mai Lĩnh, Hà Nội, 1940
Đêm thứ bảy này, cũng như tất cả những đêm thứ bảy trước,
Xuân phải đánh đàn nhiều quá, bởi vì những tối thứ bảy là tối kiếm được nhiều lời,
những tối mà khách sạn Bagatelle trên đường Quần Ngựa mở cửa cho người ta ăn và
nhảy cho đến sáng bạch nhật. Thật đúng như cái lối chơi "sáng đêm" của
thành phố Sài Gòn, người ta có thể đi xem Tuồng - Cải Lương từ chín giờ tối cho
tới gần sáng, giữa chừng chỉ nghỉ mắt một chút đủ thời giờ để đưa cái miệng khô
nhạt vào Chợ Lớn ăn dăm bảy miếng síu dề, hồ lấy sức lại để xem tiếp lớp tuồng
càng gần đoạn chót, càng múa may nhiều, càng inh ỏi nhiều.
Xuân đi trên con đường đê Parreau giải nhựa, trời mát thế mà
chàng vẫn luôn luôn rút mùi xoa ra thấm mồ hôi đẫm mái tóc và tràn cả xuống
thái dương. Ba bốn giờ sáng rồi còn gì ra xe pháo ở chỗ này.
Xuân định rẽ ngang sang phía nhà dầu Tam Đa, rồi xuống tìm
Quý, người bạn chàng cũng làm nhạc công ở tiệm khiêu vũ Moulin Sans Souci. Tiệm
khiêu vũ sát ngay ven Hồ Tây này, ở xóm Thụy Khuê, nguyên trước là một mái đình
cổ. Nơi thờ kính cũ kỹ ấy giờ cũng đông khách thập phương đến "chơi"
lắm, bởi vì người ta đã sửa sang lại cho nó thành một cái Nhà Xay Lúa Vô Ưu.
Quý vốn đàn ở đấy, cũng kiếm được ra tiền. Nhưng từ ngày có người Tàu sang đây
lánh nạn đông quá, Quý gặp cái cô Tú Sương Hương người Thượng Hải manh mảnh ấy,
Quý đâm ra chán nghề, chỉ muốn hủy hợp đồng với chủ tiệm và Xuân không chắc bạn
mình có còn ở đấy nữa không mà đến tìm cho mất công. Lâu nay Xuân muốn gặp lại
Quý, nhưng tối đến thì là cái thời khắc biểu của tất cả nhạc công, và lúc ban
ngày có được rảnh việc, nhưng người nhạc công còn phải ngủ trả nợ cho mắt đêm
qua, đêm kia, đêm kìa... Thành thử Quý và Xuân lâu nay không có gặp nhau và bây
giờ Xuân lại cứ thẳng đường đê Parreau mà đi, nhất định không rẽ sang Nhà Xay
Lúa Vô ưu tìm bạn nữa. "Thà không tìm hẳn nhau, còn hơn là tìm mà không thấy".
Xuân thở dài, tai lắng nghe chuông sở La Pho điểm bốn tiếng rè rè bên bờ hồ nước.
Xuân thấy đêm gần tàn, nhớ đến ăn và tự bảo: "Biết thế ban nãy mình cũng
cùng ăn đồ nguội với anh em cho nó xong. Cái lão chủ tiệm ấy được cái khá là
đêm đêm lúc hết giờ đánh đàn cho khách hàng của lão chơi nhảy, lão không có bủn
xỉn về bữa ăn đêm của đám anh em nhạc công mình".
Đi qua Bách Thú, tuy là đi ở vòng ngoài công viên mà Xuân
cũng bắt lấy được một vài tiếng động của cái vườn rộng mà đêm đã nhuộm thẫm một
màu bí mật và tội lỗi. Một con gấu nhớ rừng, rống mạnh lên mấy tiếng liên tiếp,
nghe như tiếng người thuê nhà trên gác hay kê lại chiếc tủ áo. Một con công chợt
tỉnh ngủ, tưởng đã sáng, vội kêu mấy tiếng "Xấu hổ! Xấu hổ!". Đã đi đến
cổng đình Ông Bảy rồi mà Xuân vẫn còn nghe thấy cái thanh âm đồng vọng của một
con vượn cái kêu rầu. Người làng Ngọc Hà đã lũ lượt gánh rau đi qua Cửa Bắc, xuống
bán ở chợ Đồng Xuân từ bao giờ.
... Cái hiệu cháo lòng sáng ở ven đường Cửa Nam, trông sang
chợ là một nơi có đủ hạng người đến. Nhưng số đông, vẫn là đám phu xe. Người ta
vào đây là để ăn cho mau, cho ấm cái bụng trống không rồi đi làm việc ngay với
cái ngày cần lao của người ta bắt đầu từ lúc còn tối đất. Xuân phải lấy đêm làm
ngày theo với nghề sống của mình, đến đây húp một bát cháo nóng để rồi về đi ngủ.
Chàng thấy mệt lắm, chán lắm, xương thịt buồn như người nghiện thiếu a phiến. Nếu
bây giờ ăn xong, lần về đến nhà mà giấc ngủ lại chưa đến cho thì Xuân tin sẽ phải
khổ sở vật vã nhiều lắm. Đã có bao nhiêu người rất khôn ngoan, không bao giờ
dám điên dại lấy một phút, vụt trở nên phạm nhân, tiêu tiền một cách kiêu ác, đập
phá đồ đạc và đến cả những cuộc đời chung quanh, chỉ vì lúc bấy giờ, họ đã cầu
nguyện mãi một giấc ngủ không chịu đến cho đúng lúc.
Trời đêm nay đổi tiết, mọi vật trở nên khô cứng, co lại. ở
góc buồng riêng của Xuân, có một cây đàn đứt dây. Sợi dây ruột mèo đứt đánh bộp
một cái. Tiếp cái tiếng khô ngắn rã rời ấy là một hồi tiếng vang của chùm kim
thanh yếu ớt rỉ rền rung trong thùng đàn khô nỏ. Lòng Xuân cũng se lại vì cái
âm hưởng tượng trưng ấy. Thương cây đàn đã mấy bữa bỏ quên không đánh đến, quên
không nới dây những lúc cây đàn được vô sự. Xuân vặn trái lại những trục đàn,
đánh chùng lũ dây xuống. Trục đàn không có dầu trơn, gắt rít lên. Nhẹ nhàng chải
dây đàn, vuốt sợi tơ, Xuân chợt nhớ đến một mẩu chuyện được nghe đã lâu lắm ở một
nơi hòa nhạc. Là cái ông Hoàng Ngũ Đại ấy, ở Huế, những ngày phải lên trên Tân
Lăng trông nom lăng tẩm và sửa sang những chỗ vôi gạch sứt mẻ, biết sẽ phải vắng
khỏi phủ mình lâu ngày, trước khi đi, bao giờ tự mình cũng lấy cái áo lụa xanh
năm thân đột chỉ trứng rận của Đức ông đem đắp phủ lên cây đàn cho khỏi có bụi
bám vào dây và cho sợi tơ đỡ ải. Họ kêu là ông Hoàng ấy ủ đàn.
Đàn đứt mất cái dây đại, Xuân lẩm bẩm: "Đứt vào quãng giữa
thế này thì nối sao được nữa. Thế là lại mất hai đồng bạc mua sợi khác. Mà bây
giờ là ngày cuối cùng tháng".
Khách sạn trên Quần Ngựa đêm hôm thứ bảy này lại đông như lệ
thường. Đám nhạc công phải đàn luôn tay. Họ là sáu người. Một người Tây lai, một
người Phi Luật Tân, một người Tầu và hai người nữa cùng một quốc tịch với Xuân.
Xuân xử cây đàn contrebasse mà anh em thường gọi đùa là cây đàn bò.
Đám người giàu có ngồi ở dưới kia phần nhiều là người ngoại
quốc dắt nhau tới tiệm Bagatelle để thỏa mãn ít nhiều nhục dục. Một cặp vợ chồng
già uống rượu để tiếc đời. Một cặp nhân tình trẻ muốn say sưa để mà càng thương
xuân. Giữa hai món ăn, họ nhẩy. Bọn Xuân, theo bài khiêu vũ phải đàn liến thoắng
lên cho những người ấy tìm thấy được vui trong lòng. Bọn Xuân, như một cái máy
thụ động, cứ việc ngồi đấy ôm lấy nhạc khí mà đàn, đàn cho đến sáng hửng. Bao
giờ những vị thực khách kia đã mỏi, nghỉ, thì đám nhạc công cũng mới được quyền
mỏi mệt. Đám nhạc công thực tình nhiều buổi đã muốn phản kháng lại, không muốn
bấm phím nữa, không muốn ngậm cái đầu dăm kèn, không muốn hoa cây vỹ lên nữa.
Tai họ đã ngấy những thanh âm quen thuộc ngày ngày của khúc loạn tấu rồi.
Xuân cảm thấy cái đời nhạc công của mình ở một khách sạn
khiêu vũ, không những là vô vị mà còn nhục nhã là khác nữa. Tấu nhạc trong hoàn
cảnh này đã hết là một cái thú thanh cao âm thầm của tâm hồn. Ra từ trước tới
giờ Xuân chỉ là một kẻ a tòng vô tình giúp một tay vào những trò kiêu sa dâm ác
của một đám người thừa ăn mặc, tìm nhau ở đây để ăn một bữa cơm đắt tiền, mượn
tiếng đàn để làm tiêu một cuộc no say hãnh diện và trai gái ấy đã mượn luôn âm
nhạc để cho nhau chút ảo tưởng của tình ái mà mặt thực thì chỉ là những thú
tính thô kệch. Ra Xuân đã hoa mãi một cây vỹ, tòng đảng chạy theo những cái ô
trọc, trong lúc xuẩn động ấy đã gây nên bao nhiêu ồn ào và đổ vỡ. Chàng buồn rầu
hơn nữa, khi nhận thấy từ trước tới giờ, chưa bao giờ mình là nghệ sĩ, tuy đã
sáu bảy năm nay, đêm nào mình cũng đánh đàn. Đánh đàn để làm vui cho thiên hạ.
Và trong lúc ấy thì mình quên lãng hẳn cái lòng mình. Người ta thường bảo đấng
nghệ sĩ là một kẻ chúa ích kỷ và tính vị kỷ ấy đã là nguyên tắc của bao nhiêu
tác phẩm lớn. Nhưng bấy lâu nay Xuân đã duy tha quá. Xuân chỉ biết có người
chung quanh. Chàng đã chạy theo thiên hạ mà hòa nhạc, chàng đã ca ngợi những
cái vui buồn tầm thường ở cạnh mình. Cái công chúng múa may quay cuồng ở dưới
sàn nhảy Bagatelle kia, là những người đang vui, đang buồn, đang nhớ nhung,
đang thương tiếc, đang sung sướng. Mỗi người có một tâm cảnh. Họ trúng số, họ
nhớ nhà, họ muốn khóc vợ, họ đánh mất tình nhân, họ đều mượn đến tiếng đàn của
bọn Xuân để biểu lộ thêm cái tâm trạng họ. Hình như họ cần phải kêu to lên cho
rõ cái vui buồn ở lòng họ. ừ, thế này thì đáng giận thực. Đời bắt Xuân sinh ra
cầm một cây vỹ thì cây vỹ ấy tưởng chỉ phải hoa lên để diễn tả những điều u ẩn
của lòng Xuân thôi, chứ sao chàng lại đi ca ngợi những thất tình của thiên hạ.
Xuân nhận thấy mình, từ trước đến nay, đối với thiên hạ thì hậu quá mà đối với
riêng mình thì đã quá bạc bẽo.
Tiếng đàn đãng trí của Xuân vấp đến khổ này là bốn lần tái phạm,
nấc mạnh lên một cái. Anh em cùng ngồi cử nhạc, thấy Xuân lỗi điệu, đưa mãi mắt
cho bạn, lấy chân đá vào giầy bạn để nhắc Xuân uốn vỹ theo vào nhạc luật bởi vì
bản đàn đang vào khổ dồn và dưới kia khách khứa nhảy đang hứng. Xuân càng lạc hết
cả cung bực. Mắt chàng hoa lên.
Giữa lúc ấy, có người ném mạnh cái đĩa gạt tàn thuốc lá rơi
thõm vào bụng Xuân.
- Ê, lũ nhạc công, đàn địch lối gì thế hử? Bay cho tai bọn
tao là tai trâu cả sao!
Bà đầm cùng nhảy với người to lớn vừa nói câu ấy và có lẽ là
vừa ném cái gạt tàn thuốc lá ấy, cũng bĩu môi ra cười.
Xuân chống đàn xuống sàn đứng thẳng mình dậy, tay cầm ngang
cây vỹ như một người dũng sĩ hoành ngang cây giáo để nghênh địch, mắt lừ lừ thử
thách. Chàng giận quá không nói được ra tiếng. Bọn Xuân lại hòa nhạc tiếp, bởi
vì ông chủ tiệm Bagatelle đã khéo khu xử đôi bên.
Lúc nghỉ tay đàn, có một người ốm yếu, rụt rè đến gần bọn
Xuân, để một đồng bạc giấy vào lòng đĩa.
- Tôi xin mấy anh bản đàn Con sông Danube xanh.
Dưới sàn nhảy người ta lại tái cuộc.
Bọn Xuân đánh bản đàn Con sông Danube xanh hay như chưa bao
giờ được thế! Bởi vì cả bọn Xuân đều lấy làm thương người khách lẻ loi kia bởi
vì cả bọn đều có thiện cảm với người khách chơi ốm yếu kia vừa rón rén lên để một
đồng bạc vào lòng đĩa với tất cả cái chân thành của một khách yên hoa nghèo và
có giáo dục. Bọn Xuân không rõ tên và địa vị người khách cứ hôm nào đến cũng chỉ
xin có bài đàn đó. Họ chỉ biết trước kia, vị khách đó ăn mặc sang hơn bây giờ
và hay đi với một người đàn bà dong dỏng, tóc tợ màu da đồng. Nàng đẹp lắm. Mê
nàng, bao nhiêu người nhảy đầm. Bây giờ, người đàn bà ấy, có đến mấy tháng
không lui tới tiệm này. Và vị khách kia, muốn trung thành với kỷ niệm ngày vui
cũ, cứ cách một đêm lại tha cái thân hình cô độc lên đây, người trông bạc nhược
hơn trước, quần áo nhàu nát hơn trước và uống rượu thì chỉ dám uống cầm chừng
và chỉ chọn những thứ nào rẻ tiền nhất. Hôm đầu, người khách đó ngập ngừng đặt
đồng bạc vào tay anh Khương đánh chũm chọe và nói như khóc: Con sông Danube
xanh đã là một cái ám ảnh trong đời tôi. Các anh vui lòng cầm tạm lấy chỗ này.
Tôi giờ không đủ tư cách để mời các anh uống rượu. Mỗi vị một tuần! Phải long
trọng được như thế thì mới xứng đáng phải không các anh nhỉ!".
Dứt bản đàn Con sông Danube xanh, có một người to béo khác
thích quá vỗ tay hô ầm lên, chạy lên cái bệ âm nhạc, nói bô bô:
- Này, đám nhạc công, ta đãi mấy người một tuần rượu.
Đến lượt Xuân, Xuân lắc đầu, không uống rượu mời của người to
béo ấy. Chàng chỉ bảo bồi rót cho mình một cốc nước lọc. Giá như mọi hôm thì dù
có không uống, chàng cũng cứ bảo bồi lấy cho mình những thứ rượu đắt tiền. Tội
gì, có người dửng mỡ trả tiền mà lại không phá và làm lợi cho lão chủ một chút.
Nhưng đêm nay, Xuân chán và bực lắm rồi!
Cái người to béo ấy đùa mấy câu thô tục xúc phạm đến lòng tự
ái Xuân, Xuân cầm luôn cả cốc nước đá hắt vào bộ vãn phục của y.
Đêm thứ bảy ấy, mới có một giờ khuya, mà Xuân đã được về nhà,
bởi vì đêm ấy cũng là đêm cuối cùng của Xuân tấu nhạc, tại tiệm Bagatelle.
Chàng đã xin thôi việc ngay sau lúc ồn ào đó và nếu không thôi thì chủ khách sạn
cũng chả nhận chàng nữa. Đêm ấy trời ngả nồm, Xuân về đến nhà, trằn trọc mãi.
Trời nồm, dăm bảy con gián gặp ánh sáng đèn, bay vung lên, cánh lướt qua mấy
cây đàn không phủ túi lụa, dây đàn vang rung lên rồi nhạt dần thanh âm trong
cái buồn tênh của một đêm nhạc công vừa giải nghệ...
Cữ này Xuân không phải làm việc đêm, đâm ra ngủ cả ngày lẫn
đêm, cửa đóng kín mít, phần âm phần dương thành ra lẫn hết. Những lúc Xuân chợt
mở mắt, chợt nhớ đến cái cử chỉ của người khách thô bỉ hôm nọ đã làm chàng nổi
phẫn bỏ nghề. Xuân lại nhớ đến những lúc mình lĩnh lương, rủ anh em đi hát ban
ngày ở xóm. Xuân cũng đã hành hạ mấy người kép đàn đáy những lúc họ nhỡ đàn thiếu
một khổ để che chở cho một cô đào hát xóc phách non tay. Xuân cũng đã làm tình
làm tội họ, những khi họ mệt không ra công đàn lối đàn khuôn; những sợi dây đại
ấy nắn mệt lắm và đau đầu ngón tay lắm...
Bây giờ suy bụng mình chàng mới thấu rõ đến lòng họ lúc ấy... Chàng nghếch lên cây đàn ở đầu giường và lấy làm chán cho cái nghề đánh đàn làm vui cho thiên hạ. Chàng vươn vai, tay khoa phải đàn, chiếc đàn rớt xuống sàn tưởng tan vỡ ra ngay được. Mọi khi, đàn rơi như thế, Xuân đã xuýt xoa nhiều. Nhưng bây giờ chàng mặc cho đàn rơi không cần biết đến cái đổ vỡ ấy... Xuân vốn ít Nho học, chàng chỉ nhớ mang máng cái truyện ông gì ngày xưa đem chẻ cây đàn vì cái ông gì ấy - người tri kỷ thẩm âm mình - đã chết đi. Giá lúc này, tìm lại được cái anh bạn kể chuyện ấy mà hỏi cho ra mấy cái tên người xưa thì thú biết chừng nào.
Bây giờ suy bụng mình chàng mới thấu rõ đến lòng họ lúc ấy... Chàng nghếch lên cây đàn ở đầu giường và lấy làm chán cho cái nghề đánh đàn làm vui cho thiên hạ. Chàng vươn vai, tay khoa phải đàn, chiếc đàn rớt xuống sàn tưởng tan vỡ ra ngay được. Mọi khi, đàn rơi như thế, Xuân đã xuýt xoa nhiều. Nhưng bây giờ chàng mặc cho đàn rơi không cần biết đến cái đổ vỡ ấy... Xuân vốn ít Nho học, chàng chỉ nhớ mang máng cái truyện ông gì ngày xưa đem chẻ cây đàn vì cái ông gì ấy - người tri kỷ thẩm âm mình - đã chết đi. Giá lúc này, tìm lại được cái anh bạn kể chuyện ấy mà hỏi cho ra mấy cái tên người xưa thì thú biết chừng nào.
Ngủ đã nhiều quá, mắt hùm hụp, Xuân hôm ấy cần phải ra đường
đổi không khí. Lâu nay cứ ngày ngủ, đêm thức, mặt chàng bợt ra như người thiếu
máu. Soi gương, Xuân thấy mặt mình còn thiếu cả ánh sáng nữa. Thấy một người mù
thổi sáo cốt để bán lạc rang cho mau hết hàng, Xuân bực mình quá, đòi lại đồng
xu đã đặt vào lòng bàn tay đứa trẻ đeo thùng lạc. Mua tờ báo, xem thấy cái tin
Nhà nước cấm các tiệm nhảy đầm không cho khiêu vũ nữa, Xuân nở một nụ cười.
"- Cũng là hay. Bây giờ mọi người nhạc công sẽ thất nghiệp,
sẽ không phải đàn cho thiên hạ nữa. Họ sẽ đủ thời giờ để đàn riêng cho lòng
mình nghe thôi. Và anh em đều có thể cùng trở nên nhạc sĩ cả, nếu biết lựa phím
mà tìm thấy chính cái vui buồn riêng tây của lòng mình".
Trung Bắc Chủ nhật, số 19 (1940)
Truyện ngắn "Một vụ bắt rượu lậu" về nội dung cũng
như hình thức, không quen thuộc lắm với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Chúng tôi chọn in truyện này vì nó tiêu biểu cho thời kỳ sáng tác đầu tiên của
ông, với một loạt truyện ngắn trào phúng có khuynh hướng hiện thực phê phán.
Dân cày ở làng Phong Cốc, bây giờ thực không còn lấy cớ gì để
phàn nàn với nhau trong lũy tre xanh và với người ngoài, ở giữa đường chợ đông,
rằng quan trên không săn sóc tới. Đấng phụ mẫu của họ là quan phủ Thiệu Hóa -
làng Phong Cốc thuộc về Thiệu Hóa phủ, Thanh Hóa tỉnh - những khi hành hạt qua
đó thường vẫn không quên bảo với thầy Đề rằng nên tạt vào đấy mươi lăm phút để
xem cái "dân khí" vùng đó lâu nay ra sao? ở đình làng, trong những
ngày này, hương chức kỳ cựu đều được quan Phủ khuyến khích họ nên giảng giải
cho lũ đàn em về cái đức làm dân đối với bề trên không được tỏ vẻ kháng cự, và
cái đạo làm dân trong một nước thái bình, ở một thời yên lặng, phải đóng sưu
thuế, theo tạp dịch cho đều đều. Nếu sự phục thiện của dân đã kết quả được một
phần thì càng nên gắng nữa cho được mười phần, càng nên cố sức nữa lên mãi mãi.
Rồi nhà nước sẽ thương tới, và quan Phủ hứa thêm rằng ngài đã bẩm tỉnh cho, thì
tha hồ mà được nhờ... Nhưng lúc quan phủ gần trẩy đi sang làng khác, ngài vẫn
không quên bảo thầy lý mới, như mấy lần trước: - Thầy nên coi chừng đến công việc
của thầy và sự hành động phi pháp của dân làng. Trách nhiệm của thầy nặng lắm
đó! Thầy giữ việc làng thay thầy lý trước (bị chết một cách rất thê thảm và chẳng
vinh dự gì) trong khi thừa hành công vụ, chắc thầy rõ phận sự của thầy trong
lúc này, hơn ai hết thảy. Thầy Lý run lẩy bẩy, chỉ biết mồm "dạ dạ"
đưa mãi hai bàn tay chắp lên khỏi ngực. Thầy không dám nhìn thẳng vào quan và
thứ nhất là nhìn vào ông Đề ngồi gần ngang hàng với quan; trong một lúc nhốn
nháo ở đình lúc quan mới tới làng, thầy Lý đã dám liếc trộm ông Đề khi ngài này
sai bác Cửu châm đóm để ngài hút thuốc lào vào điếu dóng của quan phủ, có cái
xe trúc uốn cầu vồng dài đến gần bốn thước ta. Ông Đề cặp mắt sáng như tia lửa,
những lúc nheo nheo mí mắt lại, thì không khác gì mắt con vọ lúc ở trên cành gạo
chú mục nhìn đống thịt chết ở mặt đất. Thầy Lý tin rằng nếu ngấc mắt lên mà đụng
gặp phải nhỡn tuyến của ông Đề già thì sẽ bị thôi miên mất: và thôi miên thuật
kia sẽ bắt thầy phải tường tận cung khai gia sản nhà mình ra xem của chìm là
bao nhiêu và của nổi là bao nhiêu để ông Đề vui vẻ trả lời bằng ý nghĩ rằng có
một ngày rất gần đây, chúng nó sẽ phải thay đổi chủ và thầy thì cố nhiên là sẽ
mất quyền sở hữu ấy. Nghĩ đến đấy, thầy Lý càng không dám giữ đầu mình cho thẳng
thắn, chỉ biết cúi mặt xuống đất hết nhìn đôi ủng da tây của quan Phủ, đôi guốc
kinh của ông Đề và đôi bàn chân lấm của mình. Thầy Lý lúc này thật là một ông
hóa thân của sự sợ hãi. Thầy chỉ biết dạ, dạ mãi, để đáp lại những lời đanh
thép mà thầy chỉ hiểu một cách mang máng. Bỗng thầy giật mình khi nghe thấy
quan gắt: - Cái anh Lý này "chướng" quá. Người ta hỏi thầy xem số rượu
dân làng uống trung bình trong những ngày thường chênh lệch với những ngày tế lễ
như xuân tế, thu tế, hoặc vào đám ăn chạ là độ bao nhiêu, mà thầy cứ dạ là
nghĩa lý chi? Vô lý quá! - Dạ bẩm ông Lớn, về việc dân làng con uống rượu, con
cũng không lấy gì cho tường lắm. Dạ, con mới được dân cho con ra thay anh Lý bất
hạnh của con được độ mấy tháng. Câu trả lời của thầy Lý có vẻ đần độn một cách
lừng khừng gần giống như lời bướng bỉnh thốt ra ở cửa miệng những dân cứng đầu
cứng cổ. Tuy rằng là thật thà, nhưng thầy lý cũng vẫn đủ trí khôn nhận rằng có
lẽ nó sẽ làm cho quan Phủ đến phải nổi trận lôi đình. Mà quả nhiên thế thực. Thầy
Lý hiền lành kia nghĩ đúng đấy. Vì quan Phủ đã biến sắc mặt, làm om cả đình
làng: - Thầy làm việc quan như thế hỏng, hỏng to. Đừng nói chi đến chuyện nay
mai thầy mong được nhà nước cho tưởng lục hay mong điền vào chân chánh phó tổng
khuyết. Nếu anh không thay đổi cách làm việc thì cái triện lý trưởng của anh
cũng khó lòng mà giắt được lâu đâu. Việc dân trong làng uống rượu mà thầy mù tịt
như vậy thì chết thật. Thầy làm việc không được mẫn tiệp rõ quá rồi. Nếu ta
không thương anh, đem một việc này mà bẩm tỉnh thì liệu anh có còn giữ được đồng
triện không? ấy thế rồi quan và ông Đề và lính tráng trẩy đi để một lũ kỳ cựu
hương chức làng Phong Cốc đưa mắt nhìn nhau và nhìn ông Lý vừa bị quan quở. Thầy
Lý đâm mê và toát mồ hôi. Mồ hôi thấm qua cái áo lụa nâu già và làm đẫm cả lưng
chiếc áo the dài mầu nước dưa. Thầy Lý ra khỏi đình làng. Trận gió bấc thổi rụng
lá vàng, thổi bay tà áo thầy và lớp mồ hôi gặp gió lạnh càng se đến đâu càng
làm cho thầy lạnh "trông thấy" đến đấy. Với không khí lạnh lẽo ở
ngoài trời, thầy thấy trong mình bớt bừng bừng và lúc về tới nhà, thì thầy đã lấy
lại được sự trật tự hoàn toàn cho bộ óc vừa bị kích thích mạnh. Vào đến nhà, bỏ
khăn áo, thầy nằm vắt tay suy nghĩ. Thầy bỏ bữa cơm ngon có rượu ngâm thuốc, có
món nhắm tốt. Trông thấy rượu, thầy sực nhớ ra vì câu chuyện ban nãy mà thầy bị
quở ở giữa làng. Thầy điên tiết lên muốn đem lẳng "mẹ nó" cả chai cả
nậm ra ngoài ao. Bà vợ thấy chồng có thái độ lạ lùng khác mọi ngày, dám chê cả
món dê bóp tái và bánh tráng vừng bà công phu mua tận chợ bên sông gặp ngày
phiên, vội đón hỏi: - Làm sao thế? Nghe nói quan về làng ta định bắt dân mở trường
và khai giếng thêm phải không? Sao lại bỏ bữa rượu? Thằng Kha nhà theo tôi sang
chợ ngoan lắm. - Mở trường, khơi giếng! Ai bảo thế? Đình với giếng gì? Việc triều
đình nhà nước, u mày biết gì mà hỏi! Cất rượu đi! Thầy Lý bỏ mặc vợ tưng hửng
đang lủi thủi lấy lồng bàn đậy mâm cơm để dành. Thầy đang lo đến cái tiền trình
của tên lý trưởng vừa bị quan hạch là không đầy đủ bổn phận. Thầy càng ngẫm kỹ
mấy câu quan vừa nói ban nãy thì ra cái chân lý trưởng của thầy là bấp bênh. Nó
như cái thế quả trứng bị để ở đầu đẳng sớm tối vỡ lúc nào không hay. Rồi thầy lại
lẩn thẩn nghĩ đến chuyện những chức phận ti tiểu lúc quên tạ ơn những vị đỡ đầu
thì bị quan thầy báo thù lại như thế nào... Nhưng không, thầy Lý nhớ rõ ràng rằng,
thầy đã được quan Phủ ban cho thầy cái vinh dự bắc chiếc ghế đẩu ngồi gần quan
trong tư thất, sau khi quan đã rủ lòng thương nhận cho thầy cái phong bì
"lễ mọn" mà thầy khom khom cúi dâng lên bề trên bằng sự thành kính của
kẻ biết ơn và tạ được ơn. Thầy còn nhớ như in vào ruột những câu của quan giảng
dụ hôm đó vồn vã ôn tồn và những cảnh quan coi thầy như là đầy tớ tay chân...
Thầy Lý đưa tay qua trán, nhắm mắt lại, tưởng lại những phút ấy mà thầy rạo rực
cả người. Sướng quá, thầy tự hỏi mình rằng cái số phận tầm thường của một người
lý trưởng được hưởng những phút như phút ấy độ mấy lần trong một đời? Thầy so
sánh quan Phủ hôm ấy và quan Phủ hôm nay sao khác hẳn đi? Không, có lẽ quan nhiều
việc đến nỗi quên hẳn là mình đã tạ lễ? Phải, phải, không có thể như thế được.
Thầy lại cho rằng hay tại mình tạ thiếu. Nhưng không, vì hôm đó, quan đã khen
thầy một câu: "Anh Lý người linh lợi lắm. Anh đưa túc số như thế này, tôi
tiêu nó được thành món". Nếu thế thì là nghĩa lý gì, và nguy hiểm quá nhỉ!
Vì ai còn biết mạch mối đằng nào mà tìm, mà hiểu. Trong ba, bốn ngày liền, thầy
Lý cứ ăn kém đi vài bát cơm, ngủ kém đi vài canh dài, với những ý nghĩ ấy nó
không tha ám ảnh thầy. Rồi một buổi trưa già, thầy vừa bỏ mẩu triện đồng vào
tráp đen thì thấy lũ trẻ làng đang reo ầm lên ngoài cổng: - A... a... a... Tây
về!... Có Tây về làng ta! Thầy Lý thấy khác trong người, vì không biết tại sao
thầy nghĩ ngay tới sự chẳng lành sẽ xảy ra. Thầy đang sửa lại khăn áo, sắp ra
xem là chuyện gì thì con chó mực ở sân gân cổ lên trời sủa váng cả nhà lên. Một
tốp người, quần, áo, mũ, giầy vàng khè một màu kaki đã tiến vào nhà, đứng đầy cả
sân. Thầy Lý nhìn họ: người nào cũng oai phong lẫm liệt, người cầm thuốn sắt, kẻ
đeo túi da đựng súng lục liên. Thầy lẩm bẩm: "Thôi bỏ mẹ, lại lính
đoan", và tiến ra sân. Lính đoan thấy ông Lý ra vội xúm cả lại xung quanh
cứ đặc cả lại như là đàn muông săn lúc vây được con sói rừng, đều một loạt nói
bô bô: - Trong làng có rượu lậu!
Ông đi ngay! Có cả quan Đoan về đấy! Bấy giờ thầy Lý mới biết là có cả quan Tây Thương Chính về nữa. Thầy vội vàng chạy ra vái dài quan Đoan. Người Tây tay cầm ba toong song, đứng ở gần cổng; rồi cả bọn kéo đi rất nhanh theo một ông Đội đoan có bộ râu "củ ấu" là người dẫn đường xem có vẻ thông thạo đường lối trong làng lắm. Đến ngõ đình, cả bọn ập vào nhà bác nhiêu Tìn. Thầy Lý trong bụng phấp phỏng vì từ lúc đi đến giờ, thầy chỉ biết theo nhà đoan thôi. Lúc đến nhà nhiêu Tìn, thầy mới hiểu rằng quan Đoan về bắt rượu lậu ở nhà tên nhiêu Tìn, một người mà thỉnh thoảng vẫn đưa lại nhà thầy những chai rượu rất ngon trong những ngày nhà ông Lý có kỵ dùng thứ rượu cúng rất tinh khiết. Thầy Lý than thầm cho nhiêu Tìn đã gặp sự chẳng lành... Cảnh náo nhiệt bầy ra trong nhà người bị Đoan vào khám xét đã chiếm hết cả giác quan thầy Lý. Lính đoan gọi ầm ĩ: - Chủ nhà là nhiêu Tìn đâu? Nhiêu Tìn đâu? Bỗng ông đội Đoan vừa reo, vừa chạy: - Nó đây rồi! Các thầy mau theo bắt lấy! Kia kìa nó đang mang vò cơm chạy! Nó vừa mới vọt ra cổng ngang! Lính đoan chạy, cả quan Đoan, cả thầy Lý cũng chạy theo một người nhà quê đang ôm một cái chĩnh chạy miết ra phía bờ ao gần đình làng, cách họ độ ba chục bước. Trẻ con khóc. Chó sủa. Đàn bà kêu, và các ông già bà lão trố mắt chống gậy "càng cua" đứng nhìn theo đám bụi mù bay. Lúc thầy Lý theo kịp được nhà Đoan đến bờ ao thì thấy thằng cha nhiêu Tìn đang lõm bõm ở giữa ao, hai tay bưng một cái chĩnh có nắp. Chung quanh bờ ao, người đứng vây đen ngòm. Quan Đoan vừa nhìn thầy Lý vừa nhìn ông đội nói một hồi tiếng Tây dài, mặt đầy vẻ tức giận, dẫm chân, múa tay, trông đáng ghê sợ lắm. Ông đội Đoan chỉ thuốn xuống phía ao bèo, nói chõ xuống người bưng chĩnh: - Mày có muốn sống không? Nhiêu Tìn, mày có chịu lên không? Chúng ông mà xuống tóm được mày thì mày bỏ đời! Nhiêu Tìn ở giữa ao mếu máo nói lên: - Con lạy các quan, các quan tha cho con. Các quan đừng giết con. - Ai giết mày? Mày cứ đưa cái vò lên đây! - Lạy các quan, con trót dại có làm ít tương để ăn. Lạy các quan, thật con có dám đem bán đâu! - Tương với mắm gì? Mày không lên, ông mà phải lội xuống thì... thì... - Con khổ lắm. Các quan tha cho con! ối, mẹ thằng Tìn đâu, tao khổ lắm! Các quan làm tội tao, thì tao đổ tương xuống ao đây này!... - Này thằng kia, nếu mày đổ vò cơm kia xuống ao, thì quan Đoan sẽ bắn mày! Mày định làm phi tang đi hở? Quan Đoan đứng ở trên bờ vừa chửi rủa bằng tiếng Tây vừa rút súng lục, tay trỏ bấm sẵn cò, chĩa vào nhiêu Tìn. Ông Đội đoan đứng nói với về phía thầy Lý. - Này ông Lý, nếu nó dìm chĩnh cơm để mất tang chứng rượu lậu, ông phải chịu một phần trách nhiệm đấy. Thầy Lý hoảng cả người. Thầy lại càng hoảng nữa khi thấy quan Đoan chĩa súng về phía mình. Rồi liên tưởng, thầy nhớ đến vụ đổ máu vừa xảy ra trong làng cách đây mấy tháng: trong một vụ bắt bớ hàng lậu do quan Đoan Bécnắcđê chỉ huy, ông Lý trước mà mình thế chân bây giờ đã bị đạn Nhà nước nổ chết trong giây lát, giữa một lúc mà người ta bảo rằng nhà Đoan cần phải chân chính tự vệ. Thấy quan Đoan mắt đỏ ngầu, mồm sùi bọt, quát tháo rầm cả góc ao, thầy càng cuống cả lên. Mà dưới ao, thằng cha nhiêu Tìn vẫn cứ mếu máo và van lơn các quan đừng xuống ao, và nếu xuống hắn dọa sẽ đánh chìm cái chĩnh tương mất! - Thế thì muốn sống mày phải lên ngay! Tiếp lời ông Đội, thầy Lý cũng bảo nhiêu Tìn: - Thế mày lên đi! Tao xin mày đấy! Mày làm chuyện phi pháp để lụy cả đến lý trưởng làng này! Mày định cho tao theo ông Lý trước hay sao? Mày không nhớ đấy à? - Con lạy ông, ông xin cho con, không có các quan giết con mất. - Thì mày cứ lên đi, tao sẽ xin cho. Mày cầm cho khéo cái vò kia, rồi lên ngay đi! ừ, lên đằng phía quan Đội ấy. Bao nhiêu cặp mắt đều nhìn vào nhiêu Tìn đang lõm bõm bưng cái vò bước lên bờ ao. Hắn run lập cập, vì ngâm nước lạnh thì ít mà vì sợ nhà Đoan thì nhiều. Ông Đội giằng lấy tay hắn lôi lại trước mặt quan Tây Đoan, và truyền cho hắn mở ngay nắp chĩnh ra. Hắn sợ khi nhìn quan Tây Đoan, nhìn ông đội, nhìn ông Lý và lập cập mở nắp chĩnh. Thấy quan Tây Đoan đã bớt giận, ông Đội cũng tươi tỉnh được nét mặt, bảo nhiêu Tìn: - Ông tưởng mày ở cả ngày ở dưới ấy! Ông lấy làm khoái trá khi nhìn vào trong lòng chiếc chĩnh. Nhưng sao ông lại cau mặt lại và mũi hít mạnh, đánh hơi. Ông sấn sổ hỏi nhiêu Tìn: - Cái gì ở trong chĩnh? - Dạ bẩm tương. Con có dám nói bậy đâu, con làm có một ít để kho cá ăn ở nhà chứ thực không dám đem ra chợ bán; ông Đội tỏ vẻ khó chịu trình với quan Tây Đoan rằng đây là một thứ nước chấm của nhà chùa thường ăn chay và người An Nam dùng với cơm. Quan Tây đoan bắt ông Đội nếm và hỏi ông có dám cả quyết như thế không. Ông Đội trả lời nhất định rằng trong chĩnh đó không có chất gì để làm rượu. Thầy Lý thấy câu chuyện khám xét kết cấu một cách ngộ nghĩnh không ngờ như vậy, phải hỏi nhiêu Tìn: - Thế sao lại bưng vò tương mà chạy? Các quan khám rượu lậu kia mà! Ai bắt tương? Cái lý của anh gian lắm! Anh phải khai cho rõ ràng ra kẻo phiền đến cho tôi lắm đấy! Nhiêu Tìn hoàn hồn, khai với thầy Lý: - Con thấy người làng đi chợ về, dạo này đồn rằng Nhà nước đánh thuế cả tương và nước mắm, con thấy tương con làm không có giấy phép nên con sợ, con phải chạy đem vứt đi... * * * Lúc sự yên lặng đã trở lại trong làng và mọi người đã ngặt nghẽo cười khi giải tán - trừ nhà Đoan rời làng Phong Cốc với nỗi tức bực - thì trời đã xế bóng. Bác nhiêu Tìn cũng mỉm cười bưng chĩnh tương về nhà, trong bụng nghĩ thương vợ phải một phen chạy rượu lậu vất vả, và không biết vợ đã đem giấu kín vò cơm ở nơi nào đây. Bác tự nghĩ nếu không có chĩnh tương này thì chỉ có Trời mới gỡ nổi cho bác khỏi ở tù. Đông Dương tạp chí, số 29 ra ngày 27-11-1937
Ông đi ngay! Có cả quan Đoan về đấy! Bấy giờ thầy Lý mới biết là có cả quan Tây Thương Chính về nữa. Thầy vội vàng chạy ra vái dài quan Đoan. Người Tây tay cầm ba toong song, đứng ở gần cổng; rồi cả bọn kéo đi rất nhanh theo một ông Đội đoan có bộ râu "củ ấu" là người dẫn đường xem có vẻ thông thạo đường lối trong làng lắm. Đến ngõ đình, cả bọn ập vào nhà bác nhiêu Tìn. Thầy Lý trong bụng phấp phỏng vì từ lúc đi đến giờ, thầy chỉ biết theo nhà đoan thôi. Lúc đến nhà nhiêu Tìn, thầy mới hiểu rằng quan Đoan về bắt rượu lậu ở nhà tên nhiêu Tìn, một người mà thỉnh thoảng vẫn đưa lại nhà thầy những chai rượu rất ngon trong những ngày nhà ông Lý có kỵ dùng thứ rượu cúng rất tinh khiết. Thầy Lý than thầm cho nhiêu Tìn đã gặp sự chẳng lành... Cảnh náo nhiệt bầy ra trong nhà người bị Đoan vào khám xét đã chiếm hết cả giác quan thầy Lý. Lính đoan gọi ầm ĩ: - Chủ nhà là nhiêu Tìn đâu? Nhiêu Tìn đâu? Bỗng ông đội Đoan vừa reo, vừa chạy: - Nó đây rồi! Các thầy mau theo bắt lấy! Kia kìa nó đang mang vò cơm chạy! Nó vừa mới vọt ra cổng ngang! Lính đoan chạy, cả quan Đoan, cả thầy Lý cũng chạy theo một người nhà quê đang ôm một cái chĩnh chạy miết ra phía bờ ao gần đình làng, cách họ độ ba chục bước. Trẻ con khóc. Chó sủa. Đàn bà kêu, và các ông già bà lão trố mắt chống gậy "càng cua" đứng nhìn theo đám bụi mù bay. Lúc thầy Lý theo kịp được nhà Đoan đến bờ ao thì thấy thằng cha nhiêu Tìn đang lõm bõm ở giữa ao, hai tay bưng một cái chĩnh có nắp. Chung quanh bờ ao, người đứng vây đen ngòm. Quan Đoan vừa nhìn thầy Lý vừa nhìn ông đội nói một hồi tiếng Tây dài, mặt đầy vẻ tức giận, dẫm chân, múa tay, trông đáng ghê sợ lắm. Ông đội Đoan chỉ thuốn xuống phía ao bèo, nói chõ xuống người bưng chĩnh: - Mày có muốn sống không? Nhiêu Tìn, mày có chịu lên không? Chúng ông mà xuống tóm được mày thì mày bỏ đời! Nhiêu Tìn ở giữa ao mếu máo nói lên: - Con lạy các quan, các quan tha cho con. Các quan đừng giết con. - Ai giết mày? Mày cứ đưa cái vò lên đây! - Lạy các quan, con trót dại có làm ít tương để ăn. Lạy các quan, thật con có dám đem bán đâu! - Tương với mắm gì? Mày không lên, ông mà phải lội xuống thì... thì... - Con khổ lắm. Các quan tha cho con! ối, mẹ thằng Tìn đâu, tao khổ lắm! Các quan làm tội tao, thì tao đổ tương xuống ao đây này!... - Này thằng kia, nếu mày đổ vò cơm kia xuống ao, thì quan Đoan sẽ bắn mày! Mày định làm phi tang đi hở? Quan Đoan đứng ở trên bờ vừa chửi rủa bằng tiếng Tây vừa rút súng lục, tay trỏ bấm sẵn cò, chĩa vào nhiêu Tìn. Ông Đội đoan đứng nói với về phía thầy Lý. - Này ông Lý, nếu nó dìm chĩnh cơm để mất tang chứng rượu lậu, ông phải chịu một phần trách nhiệm đấy. Thầy Lý hoảng cả người. Thầy lại càng hoảng nữa khi thấy quan Đoan chĩa súng về phía mình. Rồi liên tưởng, thầy nhớ đến vụ đổ máu vừa xảy ra trong làng cách đây mấy tháng: trong một vụ bắt bớ hàng lậu do quan Đoan Bécnắcđê chỉ huy, ông Lý trước mà mình thế chân bây giờ đã bị đạn Nhà nước nổ chết trong giây lát, giữa một lúc mà người ta bảo rằng nhà Đoan cần phải chân chính tự vệ. Thấy quan Đoan mắt đỏ ngầu, mồm sùi bọt, quát tháo rầm cả góc ao, thầy càng cuống cả lên. Mà dưới ao, thằng cha nhiêu Tìn vẫn cứ mếu máo và van lơn các quan đừng xuống ao, và nếu xuống hắn dọa sẽ đánh chìm cái chĩnh tương mất! - Thế thì muốn sống mày phải lên ngay! Tiếp lời ông Đội, thầy Lý cũng bảo nhiêu Tìn: - Thế mày lên đi! Tao xin mày đấy! Mày làm chuyện phi pháp để lụy cả đến lý trưởng làng này! Mày định cho tao theo ông Lý trước hay sao? Mày không nhớ đấy à? - Con lạy ông, ông xin cho con, không có các quan giết con mất. - Thì mày cứ lên đi, tao sẽ xin cho. Mày cầm cho khéo cái vò kia, rồi lên ngay đi! ừ, lên đằng phía quan Đội ấy. Bao nhiêu cặp mắt đều nhìn vào nhiêu Tìn đang lõm bõm bưng cái vò bước lên bờ ao. Hắn run lập cập, vì ngâm nước lạnh thì ít mà vì sợ nhà Đoan thì nhiều. Ông Đội giằng lấy tay hắn lôi lại trước mặt quan Tây Đoan, và truyền cho hắn mở ngay nắp chĩnh ra. Hắn sợ khi nhìn quan Tây Đoan, nhìn ông đội, nhìn ông Lý và lập cập mở nắp chĩnh. Thấy quan Tây Đoan đã bớt giận, ông Đội cũng tươi tỉnh được nét mặt, bảo nhiêu Tìn: - Ông tưởng mày ở cả ngày ở dưới ấy! Ông lấy làm khoái trá khi nhìn vào trong lòng chiếc chĩnh. Nhưng sao ông lại cau mặt lại và mũi hít mạnh, đánh hơi. Ông sấn sổ hỏi nhiêu Tìn: - Cái gì ở trong chĩnh? - Dạ bẩm tương. Con có dám nói bậy đâu, con làm có một ít để kho cá ăn ở nhà chứ thực không dám đem ra chợ bán; ông Đội tỏ vẻ khó chịu trình với quan Tây Đoan rằng đây là một thứ nước chấm của nhà chùa thường ăn chay và người An Nam dùng với cơm. Quan Tây đoan bắt ông Đội nếm và hỏi ông có dám cả quyết như thế không. Ông Đội trả lời nhất định rằng trong chĩnh đó không có chất gì để làm rượu. Thầy Lý thấy câu chuyện khám xét kết cấu một cách ngộ nghĩnh không ngờ như vậy, phải hỏi nhiêu Tìn: - Thế sao lại bưng vò tương mà chạy? Các quan khám rượu lậu kia mà! Ai bắt tương? Cái lý của anh gian lắm! Anh phải khai cho rõ ràng ra kẻo phiền đến cho tôi lắm đấy! Nhiêu Tìn hoàn hồn, khai với thầy Lý: - Con thấy người làng đi chợ về, dạo này đồn rằng Nhà nước đánh thuế cả tương và nước mắm, con thấy tương con làm không có giấy phép nên con sợ, con phải chạy đem vứt đi... * * * Lúc sự yên lặng đã trở lại trong làng và mọi người đã ngặt nghẽo cười khi giải tán - trừ nhà Đoan rời làng Phong Cốc với nỗi tức bực - thì trời đã xế bóng. Bác nhiêu Tìn cũng mỉm cười bưng chĩnh tương về nhà, trong bụng nghĩ thương vợ phải một phen chạy rượu lậu vất vả, và không biết vợ đã đem giấu kín vò cơm ở nơi nào đây. Bác tự nghĩ nếu không có chĩnh tương này thì chỉ có Trời mới gỡ nổi cho bác khỏi ở tù. Đông Dương tạp chí, số 29 ra ngày 27-11-1937
Trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt Nam, có một
cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực
tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc.
Xứ Phần Lan rừng thông trùng trùng xanh ngắt, nước hồ biếc biếc,
phụ nữ da trắng một màu tượng tuyết, gái trai quần áo len ngũ sắc người nào
cũng như nai nịt sắp biểu diễn điền kinh. Mình thành ra lạc lõng vào một thế giới
vật chất nó sạch sẽ quá, sạch đến cái mức tạo cho tôi một thứ nghi ngờ nơi đây
là một ấn tượng giả tạọ Cảnh và người Hen-xanh-ky, ví phỏng đây đó lem nhem đi
ít chút, có lẽ tôi dễ thân gần hơn. Chúng tôi ở đây mười ngày, mỗi ngày họp trả
tiền ăn mỗi người là sáu đồng đô la, nó là cái tiêu chuẩn đã khá cao của đoàn đại
biểu ta đi hoạt động quốc tế. Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo;
nghi thức lúc ăn thật là trang trọng: đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh
bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong
các truyện thần thoại phương Bắc này. Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội
Hòa bình thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống
sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả
có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rất coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi
kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người bình thường
thôi.
Chúng tôi là mấy anh em trong đoàn đi, mỗi người một công tác
chuyên môn, nhưng đều cùng đã gian khổ với nhau trong kháng chiến và cũng là
người Hà nội cả. Quanh hồ khu Ô-ta-ni-ê-mi, chúng tôi ngồi dưới rừng thông xanh
phân tích với nhau xem tại sao lòng dạ mấy người đang thấy nhớ thương một cái
gì xa xôi lắm. Từ hôm xách va ly ra tàu qua nước này nước khác, thế là mấy
tháng rồi; ở nhà đã hoàn thành tiếp quản Hải phòng rồi, đất đai miền Bắc giải
phóng toàn bộ rồi... Nhưng mà chúng tôi đã kéo cuộc nhàn đàm xoáy vào chuyện ẩm
thực và muốn giúp đở nhau tìm hiểu vì đâu mà lâu nay ăn uống kém ngon. Có người
bèn chỉ tay thẳng xuống nền cỏ bờ hồ Phần Lan, buông thõng một câu: "Bây
giờ có ngay một gánh phở đỗ bên bờ hồ này, thì tớ đả luôn sáu bát!". Tất cả
đều reo lên. Thì ra gần đây chúng tôi héo hắt đi, vì xa đất nước, khẩu vị lạc
điệu, thấy nhớ nhà nhớ nước, trong cái nhớ nhà nhớ đất nước, có cả một sự nhớ
ăn phở nữa. Hình ảnh bát phở quê hương đưa ra lúc ấy giải quyết đúng vào thắc mắc
chung của mấy người. Tất cả đều thi nhau đề cao những đức tính của phở dân tộc.
Dưới đây liên tiếp những mẩu chuyện góp về một bát phở, về một miếng ăn kỳ diệu
của tất cả những người Việt Nam chân chính.
- Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần lan có nhiều cái rất kỳ
quặc không. Thịt bò rán, lại phiết mứt công-phi chua ngọt sắt lên trên. Cam
chanh lại ăn kèm với cá gỏi. Cơm lại ướp vào tủ nước đá, mình thấy đĩa cơm có
khói, lúc ăn buốt đến chân răng. Nghệ thuật ẩm thực tôi gọi tên là lối nấu nướng
của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ
điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở.
- Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn
phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng
tùy thích. Phở là món ăn bình dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân
lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công
dân Việt Nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn
là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần
hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa,
mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.
- Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa,
chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở,
cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức
với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp
cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp
với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có
nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt
qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái
nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có
giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong,
tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến
sáng, để mai đi làm khỏe. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt Nam,
tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều
hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy
như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng
vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng
hai Tết.
- Vì hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác
va giầu có thêm lên. Trước kia tôi cứ tưởng chữ "xương xẩu" là một tiếng
đôi, và chử xẩu chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đã làm cho từ ngữ tôi hôm ấy
thêm lên một danh từ. Xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở
có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đã thấy những người phu xe kéo vào hiệu
phở gọi một chén rượu với một bát xẩu. Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến
mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quý giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp,
ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi
còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn. Trong tiểu thuyết Việt-nam
trước đây, nhớ người ta có viết cái truyện "Anh hàng phở lấy vợ cô đầu". Tôi còn được nghe một cô điếm ngày xưa ví von than đời tàn "đời hồi này
như một gánh phở bánh trương mỡ nguội đóng váng". Phở nguội tanh thật là
buồn hơn cả cái sự đời cô gái thập thành bị ma cô lừa bỏ. Chữ nghĩa của ta hay
thật! Người ta bảo chữ phở là xuất xứ từ chữ "ngưu nhục phấn", và ta
đã Việt Nam hóa chữ phấn thành ra chữ phở. Chữ phở nguyên là một danh từ, còn
chuyển thành một hình dung từ: cái mũ phở. Chữ nghĩa của ta hay thật!
- Đố biết thế nào là mũ phở? Lại cứ phải dựng chân dung những
người bán phở gánh chân chính ngày xưa thì mới tầm nguyên ra được. Những người
bán phở gánh xưa kia có người đỗ ở đầu phố này, hoặc giữa phố nọ, hoặc ở tít
trong cùng một cái ngõ cụt, mỗi người một "giang sơn nào, anh hùng ấy",
người mua quen mặt người bán, và người bán thuộc cả thói quen và sở thích người
ăn trong phố. Những anh hàng phở" hùng cứ một phương" này lại còn thuộc
cả nhân số từng bộ khẩu và ngày giỗ tết trong từng gia đình khách hàng quen của
mình. Họ thường là những người làm ăn chân thật, hay mặc một cái áo vành tô vải
vàng hoặc dạ màu cứt ngựa của ông binh khố đỏ thải ra, trên đầu là một cái mũ
cát mất cả núm chỏm, và nhất là hay đội những cái mũ dạ méo mó đã mất cả băng
hoặc rách cả bo. Những cái mũ này đặt lên đầu người nào cũng không chỉnh, mà
hình như chỉ đặt lên đầu những bác phở gánh là có một ý nghĩa. Không những thế,
cái mũ phở ấy, còn là một dấu hiệu tập hợp, một cái hình thức gây tín nhiệm nữa.
Những con người đội mũ rách ấy thường là người làm phở ngon, nếu không ngon thì
chỉ ít cũng phải là ăn được. Phở gánh với ông đội mũ phở nay thấy hiếm, chỉ còn
phở xe, phở hình tàu thủy có ống khói phở, phở quán, phở hiệu. Đồ chơi trẻ con
ngày xưa làm bằng sắt tây sơn màu, ở phố Hàng Thiếc, có ghi lại cái dáng ông phở
gánh, bánh xe đồ chơi càng chuyển càng cử động cái cánh tay cầm dao nhấc lên
thái xuống.
- Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu
phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người
chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ,
phở Trưởng ca, phở Tư ... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán
phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu: phở Gù,
phở Lắp, phở Sứt... Cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy
tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người
sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà-nội có nhiều sáng kiến để đặt
tên cho những người họ yêu tin. Anh hàng phở ấy hãy đứng ở đâu bán hàng, họ lấy
luôn cái địa điểm ấy mà gọi thành tên ngườị Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu
ghi, anh phở Bến tầu điện, anh phở Gầm cầu... Có khi lấy một vài nét đặc thù
trong cách phục sức mà gọi. Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa,
đã thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này. Có lẽ vì gần với
quần chúng trung lưu và người nghèo, nên cũng như "ông chủ" hiệu hớt
tóc, hiệu cà phê, tên anh hàng phở cũng chỉ có một tiếng gọn gàng. Tôi chưa hề
thấy ông bà hàng phở nào nổi tiếng trong nghề mà tên lại dài lê thê, chẳng hạn
như phở Tôn thất Khoa gì gì, hoặc phở Trần thị Kim Anh gì gì đó. Cái tên càng độc
âm ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy; cái tên một chữ, gọn như một nhát
dao thái xuống miếng thịt chín. Vả lại những biển hàng hiệu phở dù là giữa đất
Hà Nội văn hoa mỹ tự, cũng chỉ đặt tên một cách nôm na, không kẻ những chữ
huyênh hoang. Tôi chưa thấy biển hiệu phở nào mà lại đề tên một cách quá trầm bổng
du dương cả. Ví phỏng có ai mở phở mà nổi máu hay chữ lên mà đề biển thì tôi
không bao giờ chọn những hiệu phở có tên như "Thu Phong" "Bạch
Tuyết" "Nhất chi Mai" mà vào ăn. Trong nghề phở, nó cũng có những
cái nền nếp của nó.
- Nhưng khoa phở đã có những việc nó đòi phá cả những khuôn
phép của nó. Theo tôi nghĩ, cái nguyên tắc cơ bản của phở là làm bằng thịt bò.
Có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó
ngon hơn thịt bò, nhưng đã phở thì phải là bò. Có phải là vì muốn chống công thức
mà người ta đã làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột? Cứ cái đà tìm tòi ấy, thì rồi
sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu,
cắc kè... nghĩa là loạn, phở nổi loạn. Có nhẽ ngày ấy thiên hạ sẽ gọi là đi ăn
một thứ phở Mỹ miếc gì đó. Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại,
ở Hải phòng và Hà nội, đã có thùng phở có cả những bàn tay trẻ con: nhưng đó lại
là chuyện khác.
- Lại còn phở ngẩu pín. Chắc thứ phở này chỉ những người năm
bảy vợ hoặc thích léng phéng mới hay ăn. Tên thứ thịt phở này, còn gợi lại một
thứ roi của bọn Tây độc ác hay đánh cu ly đến thối thịt tím xương.
- Lại còn phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở
bò, ăn một vài lần phở gà trong đời mình cũng không sao. Nhưng có một hàng bán
phở gà ở Hà nội mà nhiều người thủ đô không bằng lòng chút nào. Y bán vào buổi
sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như
một quý tộc đó, cũng đã khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng!
Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đã có những bạn lưu dung khen
ông ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà
béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ sẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái
đầu gà, cái cẳng giò gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống
một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đã có những bợm rượu khu phố
ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nữa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người
ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng
một bát, thì bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hãy đứng ở đây một buổi sớm
mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt
đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở
đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu
vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi. Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao
nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng lê và bán hàng rất
cửa quyền, khách phải đi lấy lấy bát. Có người đã dắt sẳn từ nhà đi một củ hành
tây, có người quả trứng gà... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát mình đã thủ sẵn
và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuýt
xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên mình, nó nhầm mình...
Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà Nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia.
Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà Nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia.
Trong kháng chiến có những tay phở nổi tiếng ở vùng tự do như
phở Giơi, phở Đất, phở Cống, (tên vẫn một tiếng thôi) nhưng cũng có những bát
phở, chưa được đúng cách thức lắm mà ăn vào vẫn cứ thấy cảm động. Ví dụ, phở ở
căn cứ địa, làm ngay trong cơ quan. Một vài cơ quan ở quanh Trung ương, chung
nhau giết bò để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Thịt sẵn, xương sẵn, nhưng
thiếu nước mắm, thơm, hành mùi, bánh lại là bánh đa khô. Nhưng cứ làm. Những chầu
phở ngày chủ nhật ở bên bờ suối cơ quan, thật là đầu đề phong phú cho báo liếp.
- Hình như Thạch Lam trước đâ cũng có bàn về phở, nhưng vẫn
còn phiến diện. Thạch Lam có nhắc đến vấn đề cải lương ở Hà nội văn vật. Đầu
năm 1928, ở Phố Mới, cái phố trước đây mang tên thực dân Đồ phổ Nghĩa, có một
hàng phở cho cả húng lìu, cả đầu vừng, đậu phụ. Nhưng những cái lối tìm tòi ấy
không thọ, vì trình độ nhận thức của quần chúng phở không sa đọa như người chế
tạo. Quần chúng vẫn đòi hỏi những cái cố hữu của phở. Ngày nay cũng còn có người
cho cả tương tầu lạp chíu chương vào phở, nhưng đây là cái quyền của người có
tiền, ai muốn bày vẽ ra thế nào, nhà hàng cũng chiều trong phạm vi có thể của
phở. Nhiều người bảo nên ăn phở tái thì bổ hơn phở thịt chín. Có thể là như thế
đấy . Nếu cần bổ thì cũng có thể uống Pan-tô-cờ-rin Liên sô hoặc làm tễ thuốc Bắc,
còn kết quả trông thấy rõ hơn là ăn phở tái. Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái
"gu" của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi
thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt
mhỡn thức tạo hình, người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng
thịt tái. Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẵn thịt chín, thái cứ
vụn ra không thành hình thù gì cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thể việc ấy
không hề gì với khách hàng không cần ăn no vội. Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn
thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các
thứ khách: đối với những khách quen, với những người có thể ông chưa biết quí
danh nhưng ông đã thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông
đã đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ròn, nạm dắt
hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng
bình tĩnh của một người được tỏ bày cái sở trường của mình trong nghề. Ông nào
ăn phở mà có chất họa thì thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay. Có những lúc ông phở
ấy gắt, gắt với vợ ông, vì ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim
quay trong hồi Hà Nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện
với khách về cái khoa thái. "Chặt thái loài có cánh đã khó, mà thái miếng
thịt bò không xương còn khó hơn. Tôi dạy mãi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được,
đàn bà thường chỉ thái bánh thôi".
- Trong số những thắc mắc của một số ông Hà nội trí thức dở
người ta có nhắc đến một ông lo sau này ta tiến lên kinh tế hoàn toàn xã hội chủ
nghĩa, kinh tế phân tán không còn nữa, thì mất hết phở dân tộc, và rồi sẽ phải
ăn phở đóng hộp, mỗi lúc ăn bỏ cái hộp phở ấy vào nồi nước sôi trước khi đục ra
ăn, và như thế thì nó trương hết bánh lên. Cũng ngay trong hiệu phở, có người
đã đập ngay lại: "Thôi đốt ông đi . Ông đừng có làm cái chuyện lo giời sập
ấy đi. Hiện nay phở đang phát triển mạnh ở thủ đô Hà Nội, lớn nhỏ, gánh rong,
bán trong nhà, bán ngoài hè, có đến trên dưới hai ngàn chủ phở. Người Việt Nam
còn thì còn phở bát, bát phở trong tương lai vẫn nóng sốt như bây giờ. Phở bát
của ta không thể thành một thứ đồ hộp đâu, người công dân Hà Nội này xin trả lời
ông là một nghìn lần không, không, không thể có sự thô bạo ấy".
- Cái thế giới phở Hà Nội trước đây hình như cũng có những thứ
nhân vật nghiệp dĩ của nó. Làng chơi, học trò, ông binh, thày ký sở buôn, ông
phán sở tòa, con bạc, chủ hiệu nhỏ, những người lao động vận tải, những người làm
nghề tự do... Có những lính lê dương chạy đến hàng phở, ăn xong tính tiền, lật
ngay cái mũ đỏ ra trong cái mũ có cái quần lĩnh vừa cướp ở nhà chứa ra; người
khách hàng lính đánh thuê đó đã vắt quần lĩnh đó xuống quầy hàng thay một thứ
trả tiền, rồi ù té chạy... Có những tay giầu sụ nhưng tính nết hấp lìm, mua
bánh mì thả vào nước phở béo mà cứ gọi là ăn cơm Tây bình dân. Có những người
đàn bà trái duyên trộn cơm nguội vào bát phở nóng, mà ăn một cách ngon lành,
nhưng người ngoài trông vào thì thấy nó thê lương thế nào ấy. Có những kẻ sống
không nhà cửa, chuyên môn đứng đường, chạy hàng sách chợ đen đủ các thứ, lúc
tính tiền hoa hồng, lấy bát phở tái năm xu làm đơn vị giá cả,"việc này mà
trôi chảy, ông bà chị cứ cho em một trăm bát tái năm, vân vân...".
Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở
ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng
rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong
ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà Nội vẫn có phở,
mà tiếng rao lại vắng hẳn đi? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả
những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những
thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta. Những tiếng rao ấy, một phần
nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.
Chúng tôi ngồi trên bờ một cái hồ xứ Bắc ở ngoại thành Hen
xanh ky tưởng nhớ đến một bát phở quê hương, và đối với món ăn đó của dân tộc
đáng yêu chúng ta ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã phát hiện những đức tính dồi
dào của phở, tự mình cho đó là những cơ sở vững chắc để dựng lên một nền lý luận
cho món phở. Sau đó mấy tháng trở về nước, đặt chân lên đất Hà nội, bữa cơm đầu
tiên của tôi là một bữa phở. Về sau này, hay rủ nhau đi ăn phở, tôi được đi sâu
vào ý nghĩ của một anh bạn nó đã trở thành một ám ảnh: "Mình khen phở mình
là một món ăn ngon, nhưng trước khi khẳng định giá trị dân tộc của phở, có nên
tranh thủ thêm ý kiến của bạn bè, quốc tế của ta không? Bạn Liên xô, bạn Ba
lan, Hung, Tiệp, Đức sẽ có cảm xúc gì về món phở Việt-nam? Họ đã có dịp nếm phở
chưa?" Bài dân ca của mình họ nghe rồi, đất nước mình, các bạn thấy rồi.
Nhưng còn phải cho bạn mình "thấy" phở nữa, bởi vì phở cũng là một thứ
tiếng hát yêu đời của tất cả những tấm lòng con người Việt Nam chân chính và
bình dị. Thế rồi một hôm khác, cũng trong một quán phở nổi tiếng Hà Nội, tôi đã
nghe được mẩu chuyện giữa hai nữ sinh một trường phổ thông cấp 3 gần đây:
"Phở hiệu này, ăn mê quá. Thế đố chị biết Hồ chủ tịch và các lãnh tụ Đảng
có thích phở không? - Làm thế nào mà biết được - Này, nói đùa chứ các cụ mà đến
ăn cho hiệu nào, thì chủ hàng thật là sung sướng vô bờ đấy chị nhỉ!". Hai
cô rút lấy túi gương con chiếu lẫn vào hàm răng nhau xem có vướng tí hành tí
rau mùi nào không, cười ríu rít như chim đàn nhảy quanh bàn phở. Mẩu chuyện hai
cô học trò như giúp tôi hiểu thêm nữa về phở, và giúp tôi nhận thức đến những
cái nó quan trọng hơn cả phở nữa.
Ít lâu nay, chúng ta hay nói đến thực tế Việt Nam, đến vấn đề
thực tiễn Việt Nam, đến những đặc tính của Việt Nam trong mọi điều kiện chuyển
mình tiến lên. Tôi thấy rằng trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt Nam,
có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở.
Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc. Trong một
giọt nước rơi lóng lánh có cả câu chuyện của vầng thái dương; trong một miếng
ăn, cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước bao la giầu
có tươi đẹp. Tôi thấy tổ quốc chúng ta có núi cao vòi vọi điệp điệp, có sông
dài dằng dặc, có biển bờ thăm thẳm, có những con người Việt Nam dũng cảm xây đắp
lịch sử quang vinh, có những công trình lao động thần thánh như chiến thắng Điện
Biên, nhưng bên cạnh những cái đó, tôi biết rằng Tổ quốc tôi còn có phở nữa.
Trong những năm chiến tranh giải phóng, kẻ thù bay trên bát phở, có những bát
phở phải húp vội trong đêm tối tăm, quệt ngang ống tay áo mà nhẩy xuống lỗ lầm;
có những bát phở bị bom, bánh trương lên mà người ăn không còn thấy trở lại một
lần nào nữa. Nhớ lại cái hồi tôi về công tác ở vùng sau lưng địch, tôi không thể
quên được mấy cái quán phở khuya trên con đê miết lấy vùng căn cứ du kích; những
bát phở nóng ăn sau những đêm vượt vành đai trắng và xuyên qua vị trí địch, ăn
có một hương vị thật là đặc biệt; sau này nó tổng càn, nó hất hết các quán trên
đê, không biết người bán phở đêm đó, có còn sống hay đã chết trong chuyến ấy rồi?
Lại còn cái lần đi chiến dịch với tiểu đoàn Lũng vài, tôi không quên được những cuộc hành quân với đồng chí cấp dưỡng ban chỉ huy; đồng chí ấy gánh rất nhiều nồi niêu ga-men và thực phẩm cồng kềnh, các chiến sĩ đều đùa gọi là "ông hàng phở của tiểu đoàn". Trước kháng chiến đồng chí ấy vốn mở hiệu phở; nay hòa bình rồi, đồng chí có còn sống mà mở phở lại? Nhiều hình ảnh phở trong những năm gian khổ đã hiện về. Giờ mà ngồi an tâm ăn bát phở nóng sốt giữa ban ngày bất giác cần nhớ ơn nhiều người. Rồi mối cảm xúc phở vụt chốc bay xa rộng mênh mông. Bỗng nghĩ đến những vùng chăn nuôi xanh rờn áng cỏ sữa khu tự trị Thái Mèo, những đàn bò Lạng Sơn, Thanh Hóa đang cúi xuống ngốn cỏ ngon trên đất nước. Gạo mấy vụ liền lại được mùa, bột bánh mịn và dẻo. Rau cỏ vùng ngoại thành Hà Nội: mở rộng mãi những diện tích xanh ngon vô tận, rau thơm hành hoa phưng phức cái hương vị thổ ngơi.
Lại còn cái lần đi chiến dịch với tiểu đoàn Lũng vài, tôi không quên được những cuộc hành quân với đồng chí cấp dưỡng ban chỉ huy; đồng chí ấy gánh rất nhiều nồi niêu ga-men và thực phẩm cồng kềnh, các chiến sĩ đều đùa gọi là "ông hàng phở của tiểu đoàn". Trước kháng chiến đồng chí ấy vốn mở hiệu phở; nay hòa bình rồi, đồng chí có còn sống mà mở phở lại? Nhiều hình ảnh phở trong những năm gian khổ đã hiện về. Giờ mà ngồi an tâm ăn bát phở nóng sốt giữa ban ngày bất giác cần nhớ ơn nhiều người. Rồi mối cảm xúc phở vụt chốc bay xa rộng mênh mông. Bỗng nghĩ đến những vùng chăn nuôi xanh rờn áng cỏ sữa khu tự trị Thái Mèo, những đàn bò Lạng Sơn, Thanh Hóa đang cúi xuống ngốn cỏ ngon trên đất nước. Gạo mấy vụ liền lại được mùa, bột bánh mịn và dẻo. Rau cỏ vùng ngoại thành Hà Nội: mở rộng mãi những diện tích xanh ngon vô tận, rau thơm hành hoa phưng phức cái hương vị thổ ngơi.
Đêm Hà nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở. Xưa
kia phở ông Trưởng Ca bán đến bốn giờ sáng ở đình Hàng Bạc - cái nơi tập trung
nhân dân Hà Nội năm đầu kháng chiến để rút ta khỏi vòng vây địch. Đình cũ không
còn ông Trưởng Ca nữa, nhưng nay đã có ông phở Sửa sai thay ông mà thức khuya.
Người Hà Nội đặt tên đến là hay.
Trước đây ông nấu bếp hiệu cao lâu Tàu; rồi ông ra mở phở. Rồi
ở quê ông quy nhầm ông, ông phải về quê, giao lại quán phở cho bạn. Nay ông được
sửa sai, lại trở lại thủ đô, chính quyền khu phố miển thuế cho ông một thời hạn
và tìm một chổ lợi địa thế cho ông mở hiệu. Món quà của ông phở "Sửa
sai" càng thơm ngon một cách chất phác hơn bao giờ. Có thể là cảm tình của
khách hàng, đối với một người phở quen nay được khôi phục càng làm cho bát phở
giải oan có thêm nhiều dư vị nữa. Những bát phở hồn hậu ấy cũng chỉ là một sự đền
bù công bằng đối với những người làm ăn lương thiện khu phố đi xem hát về hoặc
họp hành bình bầu học tập xây dựng vừa xong.
Nguyễn Tuân
Chị Hoài không phải là người chị ruột tôi. Đấy chỉ là một người
chị tôi mượn của cuộc đời bừa bộn những oan trái. Tôi đi xin được người chị hiền
ấy ở đâu và từ thưở nào, thực cũng khó mà chỉ cho rõ được. Tôi chỉ biết rằng từ
ngày bắt được chị giữa một cái ngã tư lộng gió của cuộc sống bạo ngược này,
lòng tôi có thấy ấm và đỡ vắng hơn trước nhiều .Và ngẫm đến những thôi đường
lăng nhăng dở dang một cách rất đẹp đẽ từ trước đến giờ, tôi phát một lời ước :
" Giá mà ta có được một người chị ruột như vậy ? ". Giá mà như thế,
thì làm sao ? Thì, thì cuộc đời hiện tại của tôi đã chẳng là cuộc đời tôi bây
giờ nữa. Thì một đống va ly lữ hành kia-hình vuông, hình chữ nhật, nhớn nhỏ nhỡ,
bằng ruột mây, bằng da, bằng gỗ, bằng bìa hoá học - tôi đã đem đánh đổi cả ra
thành một cái gì vững hơn, yên nghỉ hơn, không đổi dời luôn. Có lẽ cái lô va ly
của những tuần những kỳ xê dịch tôi sẽ đổi lấy một cái tủ áo rất to rất vững của
một cảnh sống ngăn nắp căn cơ.Rồi chị ruột sẽ không bao giờ đi lấy chồng, rồi
tôi sẽ tìm sinh thú ở cần lao chứ không ở nhàn tản nữa; ở một nhà, mỗi lúc có
phải ra ngoài hỏi một ngôi chùa cổ, thăm một người bạn mệt, viếng một con sông
lấp, khám một cái bia tàn, một khoảnh chợ cũ, đi mua hoa, mua quả, mua lá, mua
cỏ là đều có nhau. Người chị ruột sẽ đính hộ tôi những cúc áo tuột chỉ, mạng những
lỗ áo bị tàn thuốc dùi thủng, chăm non chĩnh tương vại cà liễn dưa và cắt cho
những mẩu nhật trình có nhắc đến văn nghiệp của tôi - ví tôi có được một sự
nghiệp trứ thuật đáng kể - rồi sưu tầm lại, dán lại và làm nhiều việc hiền lành
khác nữa. Nếu như thế mà cũng còn chưa đủ vui cho tay chân và lòng, thì người
chị tôi sẽ may thuê. Tôi đi viết mướn, chị tôi may thuê. Hai chị em dành dụm
mua một cái máy khâu và một cái máy đánh chữ. Ở cái đời cơ khí này, nhiều khi
cũng phải làm bạn với máy móc. Đêm đêm tiếng lách tách con chữ chiếc máy của
tôi mổ xuống đệp giấy bóng sẽ làm bạn với những tiếng sè sè máy khâu dùi nhanh
mũi kim xuống những vuông vải hồ cứng nơi bàn may của chị tôi. Ấy thế rồi trăng
cứ việc chếch, đêm cứ việc vợi, người chung quanh cứ việc sống bằng mưu thuật,
lòng hai chị em không oán Trời, không trách Người, chúng tôi cứ vui sống vàvui
làm, mệt mỏi mà chưa xong công việc nhận thì lại pha một ấm trà ngay vào cái ấm
chuyên đất của ông nội còn giữ được và,vào khoảng hai chén trà, hai chị em đọc
chung một trang sách xưa luận về cái đức làm người.
Sự đời tính dễ thế mà trúng được kể cũng đã khó vậy thay !
Nghĩ đến cái chương trình sống được một cách bình dị như thế, lòng tôi thèm thuồng
vui nhẹ và đợi chờ. Bất giác tôi lại nghĩ đến cái quãng thiếu thời của thầy
tôi.Hồi thầy tôi còn để chỏm, ngày ngày tập bài chữ Hán trên trường quan Đốc tỉnh,
cô tôi ngồi kèm thầy tôi học bên cạnh cái thúng khâu thuê các thứ áo; thầy tôi
không thuộc bài thì dọa, dỗi và tháo tung những đường chỉ khâu dở. Cáichỗ thành
được một thầy tú tài ký lục của thầy tôi về sau này, một phần lớn là nhờ ở người
cô hy sinh đáng quý hoá ấy. Nói đến người cô tội nghiệp, tôi muốn rỏ mấy giọt
nước mắt xuống ngay đây để khóc cho một cảnh đời gái già chỉ sống với trơ trọi.
Con cái không có, chỉ biết vuốt ve có một con mãn mướp. À, trong cuộc sống muôn
nghìn màu vẻ này, nó có nhiều mẩu đời lủi thủi lạ lùng lắm kia, những kẻ sung
sướng ạ.
Thầy tôi, mỗi lúc có kiếm được chút bổng nào trong cái đời một
người công chức, mỗi lúc thầy tôi có đưa riêng cho để tiêu vặt thì cô tôi lại để
dành mua cá khô kho cho miu ăn dần và dúi riêng cho các cháu chơi quay đánh đáo
và ăn quà vặt. Tôi là đứa cháu phá tán nhiều nhất và tàn nhẫn nhất về chỗ tiền
đó. Cái tuổi ấy nào còn biết nghĩ đến ai. Hỡi cô ơi.
Nói đến chuyện con mãn mướp của cô tôi, bao giờ tôi quên được
những dáng điệu lấm lét lúi húi của người cô sợ sệt mỗi lần mẹ tôi bắt được cô
tôi dầm nhiều cá kho cho bát cơm mãn. Thấy lũ chúng tôi có cảm tình với con vật
kia, mẹ chúng tôi có ý không bằng lòng và nói những câu mát mẻ : " Thôi
tôi xin các ông mãnh đừng động vào đứa con riêng của bà ấy. Hòn ngọc đấy
".
Trời. Mẹ tôi gọi cô tôi là bà ấy và gọi con mãn mướp là một đứa
con riêng!
Người chị tội nghiệp của thầy tôi qua đời ở một cái trại
hoang, lúc nằm xuống, khó nhọc quá, mất đến mấy ngày mới "về" nổi.
Ngày cuối cùng, cái miệng mếu máo còn cố nhai một chiếc bánh giò nguội tanh. Một
thằng em tôi nhận ăn thừa tự. Cũng như cái sống thiếu thốn của cô tôi, cái chết
lúi sùi của cô tôi đã chẳng cho thầy tôi lấy mảy may yên khuây. Nhưng thầy tôi
còn có được chỗ an ủi là đã được có một người chị ruột khả kính thế để mà tưởng
nhớ đến vong linh. Còn tôi? Giá tôi cũng có một người chị ruột thì, thì...
Chị Hoài chẳng hẳn là một người chị ruột, nên cuộc đời tôi vẫn
chưa chịu lập lại hẳn. Cuộc cách mệnh hoàn toàn về tâm tính tôi chỉ có thể
trông cậy vào một người chị ruột lý tưởng mà thôi. Còn như chị Hoài, dẫu chị có
tốt mấy đi nữa, chị cũng chỉ là một người chị gượng, chị cũng vẫn là người của
thiên hạ. Tôi mượn chị của cuộc đời rộng rãi, một ngày kia cuộc sống lớn lao lại
có thể đòi mất. Cái của báu mà mượn được cũng là quý rồi. Mượn của cuộc sống
thì lại gửi trả cho cuộc sống. Tôi giữ riệt lấy thế nào được.
Nghĩ đến chuyện có vay phải có trả này, lòng tôi thấy buồn một
cách rất nên thơ. Rồi tôi vẫn sống nguyên cái đời xưa cũ của tôi, chẳng chịu sửa
đổi thêm bớt tí nào, tự mình quấy ngầu ngày tháng mình lên cho thành bọt thành
sóng cả, rồi lại tự mình đem mình ra làm một chiếc thuyền gỗ chạy trên những
cái sóng nước thí nghiệm ấy. Và đang ngồi yên lành ở một nơi này thì lại nhớ tưởng
đến một nơi nọ nào, đùng đùng ra đi để rồi lúc đến được cái chốn nọ thèm khát ấy
thì lại đâm ra tiếc thương nơi mình vừa rời bỏ. Mỗi lần đổi chỗ là tôi lại gây
thêm ra được dăm cái ơn tình và rất nhiều oán thù. Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa
cuộc đời như một viễn khách không có quê hương nhất định, cái gì cũng ngờ hết,
duy chỉcó tin chắc ở cái kho cái vốn tình cảm và cảm giác của mình. Sau mỗi
ngày tập riết như thế để tự mình tìm lấy mình, lắm buổi đứng trước tấm gương bụi
bặm soi mặt vào gương, tôi chỉ nhận thấy mặt tôi là một tảng gỗ đẽo vụng còn phải
sửa chữa nhiều cho gọn hết những đường lởm chởm ấy đi. Buồn nhất là những lúc
soi gương, hỏi kỹ cái bóng mình thần ra trong lòng gương lem nhem nước thuỷ cũ
mỏi, tôi lại càng có cái cảm tưởng quái gở rằng mình chỉ là một người lẻ loi, một
vị quan phu - tuy lúc bấy giờ tôi vẫn nhớ đến cái tiểu gia đình tôi quàn tạm ở
một cái tỉnh nhỏ miền trong nọ.
Những lúc mỏi mệt như thế là tôi lại tìm lên nhà Chị Hoài, ngồi
gần Chị Hoài. Có khi cả ngày tôi chỉ ngồi nhìn Chị Hoài. Người nhìn không cho
thế là sỗ sàng và Chị Hoài cũng không tỏ vẻ ngượng. Hình như Chị Hoài cũng hiểu
rằng chị đẹp thật và người đàn bà đã có một khuôn mặt đẹp mà lại không giấu cất
được kín đi thì phải cho người chung quanh nhìn cho đến no thì mới phải đạo. Những
cái nhìn vô tội ấy cũng chỉ như những cái nghe một câu hát sầu lạnh đượm một vẻ
đẹp xa vắng thôi. Thể đến cái lòng yêu đẹp, muốn gần gũi cái đẹp, hiểu đến cái
tình lành của tôi và luôn thể muốn cho tôi được thỏa thê ở cặp mắt đang cầu khẩn
- Chị Hoài vốn là người tinh ý lắm, - chị giả vờ kêu mỏi, ngả lưng xuống chiếc
giường rủ buông nửa lá màn the màu trứng sáo. Chị Hoài nằm xuống để cho tôi được
thấy rõ mớ tóc. Chị vốn tự biết rằng tất cả cái đẹp ở người chị đều kết tụ vào
một mớ tóc mây.
Chị Hoài có một lối nằm nghiêng mặc cả áo dài mà tôi tin rằng
không thiếu phụ nào ở cái thời này bắt chước được. Nằm rất nũng nịu mà không hớ
hênh, cũng như đã nhiều lần, chị làm dáng, làm đỏm mà vẫn không ra ngoài nét
đoan trang, buồn mà không tẻ, vui mà không ồn, và lúc phải thô thì không tục.
Có cái tài nhất là Chị Hoài mỗi lúc vừa nằm xuống rất nhẹ nhàng thì cả một mớ
tóc trần quấn rất chắc ấy đổ tung xuôi xuống như một trận mưa rào đen nhánh. Rồi
mớ tóc mây dài như một sải rưỡi ôm lấy gáy, ấp lấy bả vai. Cái người nào trong
suốt một đời người mà không được ngắm một mớ tóc cho tử tế, thì cái thẩm mỹ
quan của người ấy còn lung lay lắm, chưa lấy gì làm định.
Trong phòng, không một tiếng động. Tôi giở sách ra đọc. Cứ hết
mỗi trang, ngước lên, tầm mắt tôi lại hạ đúng vào cái mớ tóc soai soải. Hai
ngón tay tháp bút Chị Hoài đang vuốt xuôi những sợi tóc và giả vờ tuốt trứng chấy,
lúc thưa, lúc mau. Tôi không nói gì. Người chị đẹp đang xoay mặt vào phía trong
ấy cũng không nói gì. Chỉ có tôi đang nói chuyện với một mớ tóc mây. Chỉ có hai
ngón tay Chị Hoài đang nói chuyện với những sợi chỉ tơ thâm một mớ tóc xoã.
Gian nhà có hai người, lặng mà không vắng. Thế rồi trong giữa cái hiu quạnh tay
đôi ấy khe khẽ nổi lên giọng kể truyện Nhị Độ Mai, khẽ nhẹ một cách rất mơ hồ
thủ thỉ. Cái giọng trong trẻo cố thu bé lại hình như chỉ đủ riêng cho một người
nghe vừa thôi, chứ đông người thì lại không thấy gì nữa. Chừng như Chị Hoài đã
tính kỹ luồng âm thanh khi cất giọng cho vừa đủ kể truyện theo một lối thân mật
âm trầm vừa vặn cho chỉ có hai người. Chị kể rằng:
" ... Mai Kha ới hỡi Mai Kha,
Rời nhau một bước nên xa mấy trùng ... "
Lòng tôi vụt trở nên thương nhớ thăm thẳm gấp mấy giọng hát u
hoài ...Trong giây phút, đặt sách vào lòng, tôi thấy nhộn nhạo trong lồng ngực
và ước muốn được làm ngay cái chàng Mai Sinh kia để còn được bồi hồi thêm nữa
khi thẩm âm giọng kể truyện cũ. Ngả theo cái chiều tưởng tượng gây gây mùi hoài
cựu, tôi nghĩ xa, tôi nghĩ gần, rồi tôi càng nhận thấy cả một đời Chị Hoài cũng
chỉ là một đời nàng Hạnh Nguyên bước đi một bước là thêm một bước cống Hồ. Rặt
cống Hồ. Cống hồ. Toàn là nhịp cống hồ. Toàn là cung nam. Nó chìm hẳn xuống, những
tiếng tơ rầu. Bất giác, môi tôi cũng mấp máy, tôi cũng khe khẽ kể Nhị Độ Mai
theo, theo một điệu than tuồng Bình Định cổ. Những câu tôi đột ngột nhớ đến để
than Nam Xuân chỉ là một câu của Xuân Sinh:
" ... Một mình bước xuống làm thinh,
Mượn ai trên âââ ấy tự...hừ... ừ... tình dzơới ai.i ...
"
Sau bốn câu rút ở tích cũ Hoa Mai Nở Hai Lần, Chị Hoài và tôi
lại im lặng trong cái hiu quạnh tay đôi. Mãi một lúc lâu, Chị Hoài mới quay mặt
ra phía ngoài, đôi mắt đỏ ngầu, cố làm ra giọng tự nhiên:
- Anh cũng thích cái đoạn tiễn biệt nơi Trùng Đài ấy lắm sao? Đi xem tuồng cổ, lúc họ bày cảnh Trùng Đài, có phải lúc cầm tay nhau khóc
trên sân khấu. Hạnh Nguyên và Mai Sinh,mỗi người đều đứng trên một cái ghế đẩu
không? Hôm nào anh thấy rạp tuồng ngoại ô quảng cáo diễn tuồng cổ về đoạn Nhị
Độ Mai này, anh nhớ lên rủ tôi cùng đi với.
Tôi lảng sang chuyện khác:
- Chị có biết rằng chị có một lối quấn tóc thần tình lắm
không? Các bà ấy cùng đi chùa Nhang - (Chị Hoài, mỗi khi nói đến chữ hương, thường
đọc chạnh ra là nhang, không hiểu vì lẽ gì. Thí dụ chùa Nhang, quê nhang. Từ
ngày gần chị, tôi cũng thành ra nhiễm phải cái tật ấy) - về với chị đều kháo
chuyện nhau rằng từ hôm khởi hành khỏi Hà Nội, xuống Hà Nam, nằm đò dọc suốt từ
đấy vào Bến Đục, ngủ một đêm ở Chùa Ngoài, lượt về cũng lại nằm đò thêm một đêm
nữa ở Phủ Lý mà tịnh không thấy chị phải quấn lại khăn sửa lại cái lưỡi trai
đàng sau gáy, sửa lại mái tóc, sửa lại vành khăn. Mà các bà ấy mỗi khi nằm xuống
rồi ngồi nhỏm dậy thì là cứ phải quấn lại, chít lại, dắt lại giọt khăn cứ luôn
tay. Chị có một lối gối đầu riêng giữ cho khăn khỏi tuột sổ? Cái lối chị quấn
tóc trần lại càng lạ nữa. Chặt chẽ, chắc chắn không khác gì đánh đai lấy đầu;
như thế mà, như vừa rồi, chị khẽ nằm nhoài xuống một cái là tóc lại sổ tung đổ
bung ra hết, mở gỡ hết rất chóng vánh dễ dàng, thế là thế nào hở chị?
Chị Hoài khẽ hé mộtnụ cười thong thả đầy kiêu hãnh:
- Anh hỏi để làm gì? Định làm sách sao? Đàn ông các anh hỏi
chuyện đến là tỉ mẩn.
Một mâm cơm chiều soàng sĩnh đã bưng ra. Tôi lại tự mời tôi dự
vào cái mâm cơm đạm bạc rau dưa ấy. Ý chừng người u già sạch sẽ ngoan ngoãn kia
cũng đã tính trước đến cái tính suồng sã và cái tình đi lại thân thiết của tôi
đối với Chị Hoài, nên mở lồng bàn ra, là đã sẵn có hai đôi đũa hai cái bát rồi.
Tôi cầm đôi đũa mun bít bạc hai đầu và đoạn giữa có khảm xà cừ một giòng thơ đời
Tống. Tôi cầm đến cái bát cổ chính hiệu, trôn bát in chữ Nội Phủ, thành bát vẽ
Bảy Người Hiền Trong Rừng Trúc, buột miệng gợi đến cái cảnh thanh bần nhà Chị
Hoài: "Ăn cơm trên chị, thực là ăn đũa ăn bát".
Chị Hoài ra hiệu cho người u già mở vung niêu cơm đất xới trước
cái lượt cơm hớt vào bát chị đã rồi mới đưa u già xới cho tôi độ lưng chừng
bát.
- Ở nhà này bao giờ cũng có một đôi đũa đẹp dành riêng cho
anh. Những lúc nào anh thấy trối ngấy lên về những món ăn nặng béo của các bữa
cơm nhà trọ và cơm hiệu rồi, thì anh cứ lên đây nếu anh không chê những tạp vị
này.
Người u già đứng phía sau Chị Hoài, tay bưng miệng tủm tỉm cười,
cúi mặt nhìn xuống đất như dán mắt vào hai đầu ngón chân cái giao chỉ của u, cốt
để giấu một cái vẻ vui mà già ta cho là sấc, không dám chia sẻ với Chị Hoài
nuôi u. Không, hãy ngửng đầu lên mà cười cho thẳng thắn, hỡi bà u già cũ kỹ và
ngoan ngoãn kia. U cứ ngửng mặt lên mà cười. Nếu Chị Hoài có lừ mắt mắng thầm
u, tôi sẽ bênh cho. Một người đã từng nuôi nấng, ẵm bế, cho bú sữa và mớm cơm
cho chủ từ những hai mươi mấy năm về trước như u đây, một người nhũ mẫu như u,
có thể tự mình cho mình cái quyền vui cười chính đáng trước mặt chủ. Đừng sợ,
già ạ.
- Thưa bà, nhân còn ít dưa muối hỏng, tôi mua cá trê nấu hết.
Dạ, còn cá trê om mẻ nữa, sắp xong.
Dưa khú nấu với cá trê, nhiều người vẫn khen là ngon lắm.
Nhưng tôi rất ghét cá trê vì đối với cái giống cá béo da không có vẩy và đen
bóng này, tôi sẵn có một thành kiến sợ và tởm. Từ cái lần đi xem một đám bốc mả,
lúc người ta cậy nắp ván thiên một cỗ ván thôi đầy ứ những nước có nhiều sao mỡ
béo lềnh bềnh ở trong chất nước mả xương chưa tiêu đang nhung nhúc một đàn cá
trê, từ cái lần được thấy lũ cá trê béo vàng ệnh ấy mà tôi cứ sợ mãi. Thấy ai dọn
cho ăn cá trê là tôi giãy nảy lên, đưa đầu đũa đi chỗ khác hoặc kiếu đau bụng,
nhức đầu, bỏ cơm, nếu mâm cơm không còn món ăn nào khác.
Nhưng đây là mâm cơm nhà Chị Hoài. Một người thanh thú như chị
mà còn ăn được cá trê thì sao tôi lại không dám động đũa tới, ít ra là một lần
này. Thôi tôi cũng đành liều. Tôi nhìn cái đĩa lá lật lớn đựng rau riếp thái chỉ
rất nhỏ. Tôi nhìn cái bát sứ to vẽ Đàn Cá Hoá Long vượt những đợt sóng Vũ Môn,
đựng cái chất nâu nâu, đen đen, nửa lõng bõng nửa sền sệt. Tôi gắp rất nhiều
rau và dưa, gắp cả một cái xác ớt đỏ ngòm, tôi chỉ gỡ có một chút cá trê vào
lòng bát cơm, gọn gàng thận trọng quá cái lúc tập ăn miếng mắm tôm đầu tiên vì
quá nể lời mời của một người đàn bà có tài củi lửa. Tôi nhắm mắt, và ùa một miếng
vào tận cái chỗ sâu nhất trong miệng, rùng mình một cái, rồi vừa nhai vừa ngửng
đầu trông lên những dui kèo nhà như lúc bị nghẹn cơm.
- Anh làm cái bộ tịch gì mà kỳ quặc như vậy? Nếu có thực là
nghẹn thì nín thở và bắt đầu đếm đi. Đàn bà thì đếm chín và đàn ông thì đếm đến
bảy là khỏi rồi.
Tôi cố nín, vừa nhai kỹ để ngẫm nghĩ về cái vị cá trê ăn lần
đầu. Chờ đợi mãi không thấy có việc gì xảy ra, tôi lại gắp miếng thứ hai. Và đến
miếng thứ ba thì thấy cá trê là một vị ngon. Từ ngày đó, không những tôi hết sợ
cá trê mà lại còn đòi hỏi nữa.
Nếu đời tôi không gặp Chị Hoài thì có lẽ sự ăn uống của tôi
không bao giờ lại có cái vị cá trê thêm thắt vào. Đấy là một cái kỷ niệm đáng kể.
Đến nhà Chị Hoài mà ăn dưa khú nấu với cá trê thì thú thực. Thú, có cái nghĩa
là được một dịp tốt để tủi hổ cho một cảnh đời. Quãng đời Chị Hoài cũng không
khác một vại dưa muối hỏng mấy. Chỉ có một chút mắm muối non đi hoặc gia thêm
cho đúng mà cái vô duyên đâm ra không thể chữa được đến như thế này đây. Ngẫm đến
cái công ơn của Chị Hoài gây cho tôiđược thân gần loài cá trê mà muốn tán rộng
thêm ra, tôi lại càng muốn nhắn những người ưa làm việc đời một câu rằng:
"Muốn cho người chung quanh biểu đồng tình với mình về một cái sở thích của
mình để đi tới một cái kết quả gì, trước hết phải gây được thiện cảm đã. Cái điều
kiện Tình lúc này mạnh hơn điều kiện Lý. Người ta đã có cảm tình với mình, đã
yêu mình rồi thì nói gì mà người ta không nghe; lúc ấy chẳng cần phải giảng giải
thế nào là phải hay không là phải."
Năm mươi năm về trước, du khách ở vùng Thanh Hóa thường khi
đi qua chỗ bến đò ái Sơn, về hữu ngạn con sông Mã, nhận thấy ở vệ đường tay mặt
một khoảnh vườn độ bốn, năm sào, xung quanh trồng toàn một thứ tre đằng ngà.
Đáng chú ý nhất là cái cổng kiến trúc theo lối cổng bên Phù
Tang hải đảo. Nếu khách biết chữ Hán và đọc được chữ thảo Bát hiền đại chủ đời
Thanh, thời khách nhận thấy ba chữ tên biệt thự viết phỏng theo lối chữ Tăng Quốc
Phiên. Trên cái nền bằng gỗ lim sơn màu "cấn rượu", ba chữ thếp vàng
"Túy lan trang" như hoạt động trên miếng bạch thạch cẩn vào gỗ đỏ.
Chủ nhân "Túy lan trang", một vị hưu quan, từ ngày
được nộp lại triều đình chiếc ấn vàng, lui về chỗ huê viên, thường để hết thời
giờ vào việc vun trồng, chăm chút một thứ lan rất quý, tìm tận ở Yên Tử sơn, hồi
còn tại chức nơi tỉnh Đông ngoài Bắc. Hoa xưa kia, quen cái khí hậu nơi đỉnh
núi cao; nhất đán hoa về nơi đồng bằng, hoa không khỏi một phen rầu rĩ với ngày
nắng hạ, đêm sương thu chỗ xứ lạ mà lá úa giò gầy. Sớm, chiều hai buổi thăm hoa,
chủ nhân lan viên chỉ lo hoa kia chẳng ở mãi với mình, mà cái công ngàn dặm chọn
đất lành bọc cỏ quý quảy về quê hương sẽ lấy chi đền chuộc lại. Sau một hồi tàn
tạ giữa lan viên, hoa lại bắt đầu cười với gió xuân về. Thoảng mùi lan đượm, ngắm
lá lan xanh rờn trên mấy hàng chậu sứ túy lan lớp đất phủ lần vỏ sò cùng hòn cuội
trắng, chủ nhân như sống một cảnh đời mới. Rồi lan kia như cảm tình người tri kỷ,
ngày một thêm hoa và chả mấy chốc chủ nhân phải lùi lầu trang về một mé huê
viên, nhường nơi đất tốt cho cỏ quý nẩy ngọn thêm cành.
Chủ nhân lấy luôn tên giống lan đặt làm tên biệt thự, ngụ cái
ý yêu hoa và tỏ cho khách qua đường biết vườn nhà đầy cỏ lạ.
Nhớ đến lời sư Cụ chùa Quỳnh Lâm vùng tỉnh Đông dặn lại sau
khi cho giống lan, mỗi bận xuân về, sớm sớm, chủ nhân lại phải cho cả vườn Túy
lan say với hơi rượu thời cái vương giả hương ấy mới còn ở với người thế gian.
Ngày xuân phải bón lan bằng hương rượu, chủ nhân rất lấy làm sung sướng được gần
vùng cất rượu ngon có tiếng ở châu Thang là làng Vĩnh Trị. ái Sơn đối ngạn Vĩnh
Trị và đứng ở Túy lan trang trông rõ đê làng Vĩnh Trị. Những buổi sớm mùa xuân,
mặt nước con sông Mã phẳng lặng như tờ, lại lăn tăn làn sóng nhỏ do mái chèo đập
làn nước của một chiếc thuyền nan bơi từ bến ái Sơn sang bến làng Vĩnh Trị. Bọn
người sinh nhai chỗ duyên giang, dậy sớm đứng trên mạn thuyền để thở cái không
khí trong sạch bình minh vui cười bảo nhau:
"Lại thuyền cô chiêu Tần bên Túy lan trang qua Vĩnh Trị
lấy rượu cho hoa!".
Phải, cô chiêu Tần - con gái ông chủ vườn Túy lan trang đi lấy
rượu về bón huê đấy!
Quan án Trần, vì cái thích chơi hoa, phải giảm những sự chi
dùng trong nhà để có đủ tiền đặt thứ "rượu khê" cho hoa lan, trị giá
hai quan một vò bên làng Vĩnh. Mà mỗi sớm, chèo thuyền đi lấy rượu theo lời cha
dặn, cô chiêu Tần đã diễn ra trên dòng nước sông Mã một cái cảnh tượng giống
như trong tranh thủy mặc của người Tàu. Một người con gái mà cái dáng điệu dịu
dàng đã in theo khuôn nhịp chốn đài trang, tóc búi cánh phượng, áo mặc rộng tay
màu thiên thanh, chân đi dép cỏ mà lại thực hành một cái ý nghĩ chan chứa màu
thơ - ngày xuân cảnh sớm, bơi thuyền lấy rượu cho hoa - đủ làm cho lãng tử được
thấy cái đẹp ấy phải đưa mình vào mộng.
Vươn mình trên con bạch tuấn, cậu ấm Hai nghì cương, xuống
yên, buộc ngựa vào gốc thùy dương, rồi đi tản bộ đến một cái quán dựng trên đê.
Ngồi trên bệ đắp bằng đất sét, cậu ấm Hai như chờ đợi một người và muốn giết thời
giờ, luôn tay phe phẩy cái roi ngựa làm bằng cành liễu khô bẻ ở cổng huyện Đông
Sơn là nơi người cha ngồi chức Huyện úy. Cậu ấm Hai ngồi chờ cô chiêu Tần đi lấy
rượu về. Ngồi đợi người yêu lâu quá sức đợi và khi cúi mặt nhìn nền mặt đất chực
chỗ quán nước, cành liễu khô đập luôn luôn vào đôi má chiếc giày tàu bằng nhung
đen đế gai xe tám sợi, không đủ cho người quên hết những ý nghĩ về thời gian một
khắc một chầy, cậu ấm Hai lại cất mình lên ngựa cho khuây khỏa nỗi lòng khi vắng
bạn. Con bạch tuấn được lỏng cương vế, cũng uể oải lê bốn vó trên đường. Vó câu
một bước lại dừng, con bạch tuấn còn mê man những đám cỏ non của ngày xuân phủ
kín mặt đê dài. Rồi vẳng tiếng hát nơi đầu sông đưa lại. Cậu ấm Hai nhận thấy
được tiếng người quen, gò đôi cương nâng cao đầu ngựa trắng; lỏng tay buông tay
khấu, lần bước dặm đê, ngựa đã từ từ đi xuống nơi dốc chỗ bến đò. Cậu ấm Hai,
cô chiêu Tần cùng nhau thi lễ: người xuống ngựa, khách dừng chèo, nơi giang đầu
lại có cái cảnh tượng như hệt cảnh tả trong bài thơ của Bạch Lạc Thiên.
- Xin lỗi công tử đã dầy công chờ tiện nữ. Dưới Nguyệt viên
vào đám, đặt nhiều rượu ở bên Vĩnh Trị, nên hôm nay qua lấy rượu cho lan phải đợi
lâu. Vậy công tử sang bản trang từ bao giờ?
- án từ nơi huyện đã xong nên bữa nay gia nghiêm muốn qua Túy
lan trang xem hoa nở. Gốc trầm Quảng Nam buộc ở đầu ngựa này sẽ dùng để đốt lên
trong khi lệnh nghiêm và gia nghiêm cho phép tiểu sinh ngồi trì hồ.
- Quan Lệnh doãn cho công tử mang trầm qua Túy lan trang như
mỗi lần hội diện cùng gia nghiêm, thời bên bàn rượu, trước những giò lan nở, tiện
nữ lại một phen được nghe lại tiếng đàn thập lục của công tử.
Quan Lệnh doãn huyện Đông Sơn là bạn thân và là khách quý của
quan án Trần bên Túy lan trang. Ngày còn làm kẻ thư sinh, hai ông già ấy, đã
cùng thi một trường, thụ giáo một thày và xuất thân cùng một hội. Sóng nước bể
hoạn, tuy không làm chìm đắm nổi khách công danh trong khoảng mấy chục năm trời,
nhưng cũng đã làm cho hai người đòi phen tơ tưởng lúc xa nhau. Hoạn hải từ ngày
thuyền buộc bến, quan án Trần về ở Túy lan trang, cho là một cái diễm phúc được
vui tuổi già gần người cố hữu. Rồi muốn cho cái tình thân ấy được thân hơn một
bực nữa, đôi bạn già ngỏ ý cho nhau rõ rằng sẽ đi lại với nhau bằng cái tình
thông gia gây nên bởi cuộc phối hợp nay mai của hai trẻ. Đều là người hiểu rõ
cái lẽ sự vật trên thế gian, hai ông già không chịu uốn mình theo lề thói giả dối
và thực hành cái luân lý khổ khắc với đôi trẻ thơ. Cho nên còn ở cái thời kỳ vị
hôn phu và vị hôn thê mà cậu ấm Hai cùng cô chiêu Tần thường được gặp nhau và
trò chuyện. Nếu cuộc đời cứ theo cái nhịp êm đềm mà đưa đôi già, đôi trẻ ấy đi
với ngày lụn tháng qua, thời chân hạnh phúc của con người ta, Tạo hóa có lẽ
dành riêng cho nhà họ Trần và nhà quan Lệnh doãn Đông Sơn. Lạc thú hai gia đình
ấy ví có thời mé lầu Túy lan trang bày chi thiên lệ sử; khách tài tình phỏng
ngàn năm không để giận thời giống lan kia, còn cợt mãi gió xuân về! Nếu hầu hết
những hạnh phúc đều giống nhau ở chỗ ấm cúng, êm đềm, đầy đủ thời mỗi nghịch cảnh
lại có bộ mặt riêng tùy theo cái đau đớn của người trong cuộc.
Năm ất Dậu, đời vua Đồng Khánh, vùng Hoan ái phải qua cơn
binh lửa gây nên bởi loạn Văn thân. Cũng có người lấy danh nghĩa mà dúng tay
vào công cuộc phá hoại; nhưng vứt đâu cho hết những kẻ lợi dụng thời cuộc, làm
cho thỏa thích lòng dục trong lúc giao thời trắng đen không tỏ rõ. Cái thời loạn!
Mà thời loạn thời trai thời loạn chứ sao? Cô chiêu Tần sống vào buổi non sông mờ
cát bụi, đã đành trông ngóng cái thời bình. Cậu ấm Hai gặp lúc loạn ly, không
những không có thủ đoạn của kẻ làm trai thời loạn, mà còn tỏ cho người thời ấy
biết rằng một kẻ thư sinh chỉ có cái tâm hồn lãng mạn là một người chọn lầm thế
kỷ.
Chọc trời khuấy nước, trong khi người ta ham chuộng cái sức khỏe mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, thời ở tâm người tài tử, buồn, tủi, cực đến dường nào! Trước những cái tin máu, xương thành sông núi, trăm họ bị làm cỏ, hai trái tim thơ ngây, của cô chiêu Tần và cậu ấm Hai, đều đập chung một điệu hãi hùng. Riêng về phần quan án Trần, thời thân già đã không lấy làm quan tâm đến vóc xương khô, còn những lo cho hoa, làm sao ngăn nổi gót chân đám người ô hợp nếu một mai chúng tràn đến.
Chọc trời khuấy nước, trong khi người ta ham chuộng cái sức khỏe mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, thời ở tâm người tài tử, buồn, tủi, cực đến dường nào! Trước những cái tin máu, xương thành sông núi, trăm họ bị làm cỏ, hai trái tim thơ ngây, của cô chiêu Tần và cậu ấm Hai, đều đập chung một điệu hãi hùng. Riêng về phần quan án Trần, thời thân già đã không lấy làm quan tâm đến vóc xương khô, còn những lo cho hoa, làm sao ngăn nổi gót chân đám người ô hợp nếu một mai chúng tràn đến.
Quan Lệnh doãn Đông Sơn lo việc tuần tiễu quân nghịch cũng
thưa đi lại trên quan án Trần. Nơi Túy lan trang, hoa thường vẫn nở, người thường
vẫn không chểnh mảng việc vun xới cho hoa mà chỗ lan viên lần lần như đã thấy cảnh
điêu tàn. Không phải tại người, không phải tự hoa; chỉ tại cái không khí nặng nề
của thời loạn phảng phất trên chỗ hoa viên.
Một đêm kia, về quãng cuối năm Bính Tuất, mưa tuôn rả rích,
gió thổi vù vù, một cái đêm đông đầy những sự bí mật tối đen.
Cô chiêu Tần, kinh động mở mắt dậy. Mé lầu trang lửa đỏ ngất
trời. Tiếng người đi lại nhộn nhịp. Tiếng người quát tháo dữ dội. Họ nhét giẻ
vào miệng cô chiêu Tần, rồi vực đi. Chỗ bến đò ái Sơn, bốn chiếc thuyền từ từ dời
bến. Đứng trên mui thuyền có tiếng người con gái gào khóc, một người vạm vỡ mặc
quần áo đen, quấn khăn đầu rìu, tay cầm một cây "hồng" đốt bằng giẻ tẩm
dầu, soi sáng quắc mặt nước con sông.
Bên Túy lan trang, lửa vẫn đỏ ngòn mà tịnh không ai cứu hỏa.
Tre và gỗ chỗ lầu trang thi nhau mà cháy trước những ngọn lửa xanh lè liếm
quanh loài thảo mộc. Lúc mà ngọn lửa đám cháy không soi rõ những đám lan xanh rờn
trên chậu sứ, thời canh đã sang tư. Đêm tăm tối buông một bức màn bí mật, lạnh
lẽo lên trên chỗ hoa viên tàn tạ. Chỗ đầu sông, đàn đóm lập lòe nơi bến nước,
gió đêm vi vút bãi lau già!
Sớm hôm sau, các người ở vùng đấy, ngồi triết lý suông, giữa
hai ngụm nước chè tươi nơi quán:
- Quan án Trần cũng vì bị kinh động, cảm xúc mạnh quá mà chết.
Cô chiêu Tần, thuyền cướp mang đi. Cái biệt thự kia bị cháy ra tro. Cho hay sống
vào thời loạn, cái phú quý và cái sắc đẹp cũng nhiều khi là cái mầm vạ lớn.
Từ khi lan vắng chủ, từ khi hoa không người nâng giấc, giống
cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỷ, thề không ở lại với thế gian. Vả chăng
người giai nhân đã đi, cái hào hoa cũng tận. Cái thuật cất "rượu khê"
bên làng Vĩnh Trị, cũng không ai truyền lại cho ai nữa, để lại một mối tiếc cho
"làng men" mỗi khi nhắc tới cái phong vị hồi cận đại.
Sau cái đêm dữ dội ấy, cây cỏ nơi Túy lan trang đều một loạt ủ
rũ như để tang cho người thiên cổ. Tơ liễu khóc mưa, tóc tùng reo gió, bóng tre
lìa bụi, đều ngậm một cái tình buồn trước cái hương trời lăn lóc khoảnh vườn hoang. Lan đã biết tạ chủ, thời cỏ cây kia há kém ai!
Để lại bên sông một khoảnh đất cao hơn mặt ruộng, đứng xa
trông như một cái gò phát bằng ngọn, ngày nay, Túy lan trang chỉ còn là một chỗ
đi về của đám mục đồng. Tụi trẻ kia không biết kính trọng cái âm phần của giống
Túy lan khi yên giấc sau lúc tạ chủ, cho trâu bò giẫm nát cả mồ hoa!
Thiên "thảm sử Túy lan trang" cũng đi theo với thời
gian và bị xóa nhòa trong trí nhớ người đồng thời. Ngày nay du khách đi qua
vùng ái Sơn đất Thanh Hóa, nghe thấy những danh từ "Gò Lan tạ" và
"Quán cậu Hai" phải hỏi mãi mới ra nghĩa cũ. "Gò Lan tạ" là
nền tảng Túy lan trang và là cái nơi vùi hoa lan; "Quán cậu Hai" là
nơi cậu ấm Hai nghỉ ngựa trước khi gặp người ngọc chỗ lầu trang, vẫn hết sức
giơ cái thân tàn chịu lấy cái gió mưa nơi đầu bến. Gò, quán kia đã ghi vào
trong tâm trí khách chơi hoa một cái kỷ niệm buồn rầu. Vườn xuân lan tạ chủ;
đàn đóm lập lòe nơi bến nước mà gió đêm vi vút bãi lau già...
Tiểu thuyết thứ bảy, 1935
Ở làng Hồ Khẩu có nhà họ Chu làm giấy nổi tiếng đã đến mấy
mươi đời liền. Ông tổ bốn đời của nhà họ Chu, đâu suýt nữa có lần ra làm quan.
Thời ấy, nhà vua xuống chiếu cho quan địa phương phải làm sổ đệ dâng về những
môn bách nghệ trong nước và tên họ những người có tài thủ công trong các môn ấy.
Về các phường làm giấy bán giấy, một hạt Hà Đông, nhà họ Chu được đứng đầu vào
sổ kê khai bách nghệ. Ý chừng quan địa phương đã cho giấy là có mật thiết với
văn chương khoa bảng của một nước sùng thượng kẻ sĩ nên đã liệt họ Chu lên đầu
sổ. Chẳng rõ như thế có phải không, nhưng cứ cái chất giấy dó của nhà họ Chu
đem ra xét thì đến giấy trúc của Tầu cũng xê ra lui chứ đừng nói là giấy dó của
bất cứ lò nào xứ ta nữa.
Nhà họ Chu vốn không làm giấy moi bao giờ. Chỉ toàn làm giấy
lụa và giấy lệnh hội để viết bằng viết sắc. Và vào khoảng đầu năm Tí Mão Ngọ Dậu
có khoa thi, thì nhà ấy mới làm đến thứ giấy để học trò đóng quyển gọi là giấy
thi. Giấy của họ Chu chế ra, bao giờ soi lên cũng có hai chữ Chu Hồ in lối thủy
ấn. Hai chữ thương tiêu viết theo lối triện cổ trước đời Tần nhắc cho người
dùng giấy biết rằng đấy là giấy của họ Chu làng Hồ Khẩu. Trông đến tờ giấy dó của
nhà này là ai cũng biết ngay, chẳng cần phải soi lên mà tìm dấu thương tiêu thủy
ấn nữa. Cái đám đàn bà con gái buôn tạp hóa họ đã đố nhau là xếp ra trước mặt rất
nhiều loại giấy của rất nhiều nhà làm giấy bán ra, rồi người bị đố sẽ nhắm mắt
lại, chỉ được lấy tay rờ mà phải gọi được tên giấy của lò nhà nào ra. Chẳng bao
giờ các bác các cô ấy gọi sai các loại giấy của nhà họ Chu cả. Thì ra gồng gánh
ăn phường ăn hàng mãi khắp chợ thôn quê, họ đã hiểu hết những đức tính của giấy
nhà họ Chu. Nó nhẵn mặt mà không cứng mình mà chất lại dai và lắm tờ khổ rộng
mình dầy thế mà bắc đồng cân lên thì nặng chỉ như cái lông ngỗng. Mặt giấy xốp,
nghiêng giấy ra ánh sáng mà nhìn chất cát dó thì nó như làn da má trinh nữ phẳng
đượm chất tuyết của lớp lông măng. Vuốt vào mặt giấy, người ta có cái cảm tưởng
được sống là một điều dễ chịu; mùa nực, rờ vào giấythấy mát cả lòng bàn tay và
về tiết đông ấp tay vào giấy nhà Chu, thấy nó âm ấm như có sinh khí. Đưa lên
mũi, tờ giấy đượm hơi thơm của một thứ mùi thảo mộc còn tươi sống, thật là một
vật quý trên thế gian. Tờ giấy dó từ nhà Chu họ đưa ra thị trường, ai nhìn thấy
cũng lấy làm sung sướng. Nó đẹp đến nỗi mọi người đếu yên trí rằng dẫu đứa thất
phu có cầm bút vẽ bậy vào đấy thì những nét lếu láo ấy vẫn cứ thành được hình
chữ. Nhưng hồi ấy người ta còn trọng nho phong và chúng nhân đều là người trí
sĩ cả, nên tờ giấy nhà họ Chu còn được may hơn là phận những vách đá giơ mình
ra cho người dốt thích thơ vào. Người có chữ nhưng mà văn xoàng và chữ xấu thì
đều không nhẫn tâm đè giấy họ Chu ra mà viết. Người dốt thì biết kiêng sợ và chỉ
trông thấy giấy có thủy ấn Chu Hồ là đã chạy xa rồi. Thành ra, kẻ sĩ ở vào cái
thời ấy thấy ai dùng đến giấy Chu Hồ là họ tìm đến; vì chẳng được văn đại khoa
thì âu chữ cũng phải có nét bút thiếp - Mà sự dùng giấy dó nhà họ Chu Hồ đã thành
một lối biểu dương riêng của một phái quý tộc trong làng văn mặc.
Cái lần ấy được triệu vô kinh và được hầu lạy quan thượng thư
bộ Lễ để tỏ bày những đức tính của giấy dó lò nhà, ông cụ họ Chu đã làm cho bực
lão thần và tất cả thuộc nha một bộ phải kinh ngạc và trầm trồ. Ông cụ đã bày
các thứ giấy các loại án thư và bắt những con gián con nhậy con dài đuôi thả
vào đám giấy ấy. Thì lạ quá, cả một lũ côn trùng kẻ thù truyền kiếp của sách và
giấy đều chạy lảng xa rất nhanh khỏi chồng giấy và lẩn trốn đi đâu hết cả. Bộ Lễ
bèn làm giấy dâng lên chỗ chín bệ và nhà vua bèn xuống chỉ cho ông cụ già họ
Chu sung vào một chân trong Cẩn Tín Viện để ở luôn nơi Thành Vàng sớm tối chế
giấy cung cho cả một hoàng tộc và cả một triều đình. Bộ Công đã có chỉ phải xây
hai lò giấy dó bên sông Hương và ông già họ Chu sẽ là vị quan trọng dụng lần thứ
nhất để coi mấy lò giấy mới mở đó. Nhưng ông già họ Chu lấy làm sợ hãi mà tâu
lên rằng hiện trong mình đang mang cái tang mẹ và xin được lộn về bắc, cứ ở nơi
Tây Hồ nguyên quán mà chế giấy Ngự Chỉ và thường niên đệ vào kinh do quan địa
phương săn sóc việc đưa đi theo những kì hạn nhất định. Triều đình thấy việc
ông già họ Chu cũng thuộc về một trường hợp đình gián nên cũng ưng và không nghị
tội.
Vậy từ ấy, giấy Chu Hồ tiếng lại càng bay rộng ra. Thường
niên gặp kỳ vạn thọ hoặc khánh đản triều đình vẫn nhớ đến công người làm giấy,
ban cho nhà Chu hết Tưởng lục này đến Tưởng lục nọ và ân tứ cho vô khối là vàng
lụa. Đời một người thôn dã lái buôn mà được đặc sủng đến dường ấy, thực cũng là
một sự đáng ghi lại nơi ngoại sử của một thời trong một nước chỉ biết quý yêu
có kẻ sĩ. Và cổng lò giấy nhà họ Chu làng Hồ còn nhiều ngày lại vui nhộn quá cửa
hầu quyền. Lốt xe vệt móng trước nhà người thường nhân, hãn hữu lắm mới chịu ăn
rêu đậu cỏ.
Những bực cao sang tài huấn của một thành đô vẫn thường lấy chỗ ông già Chu là một nơi hẹn hò với hạnh phúc. Được cái nhà họ Chu có cái đức làm người bình dị rất vững, nên vẫn cố giữ mực thường, không vì thế mà thành kiêu lộng và lại càng vui với cần lao và nghề nhà ngày một càng tinh xảo. Vào nhà ấy người ta không thấy có gì là lộ ra cái lối phú quý chơi trèo. Giá vào kẻ khác thì ít ra ở đấy cũng đã điểm những vệt vàng lớp son - mà vả cũng chính đáng lắm chứ sao. Nhưng không. Ở đây vẫn chỉ có cái tầu dó gỗ xù xì, tảng đá ép ấy vẫn nhẵn lặng và hòn đá nghè giấy rất khiêm tốn nằm trên giữa nền đất trị. Từ đời ấy đến đời khác vẫn chỉ có bấy nhiêu. Rất cổ điển, cổ kính và đơn bạc. Cái gì mà cả dòng nhà ấy biết quý yêu thì vẫn lại là cái tờ giấy do mình chế ra cho người có chữ dùng.
Những bực cao sang tài huấn của một thành đô vẫn thường lấy chỗ ông già Chu là một nơi hẹn hò với hạnh phúc. Được cái nhà họ Chu có cái đức làm người bình dị rất vững, nên vẫn cố giữ mực thường, không vì thế mà thành kiêu lộng và lại càng vui với cần lao và nghề nhà ngày một càng tinh xảo. Vào nhà ấy người ta không thấy có gì là lộ ra cái lối phú quý chơi trèo. Giá vào kẻ khác thì ít ra ở đấy cũng đã điểm những vệt vàng lớp son - mà vả cũng chính đáng lắm chứ sao. Nhưng không. Ở đây vẫn chỉ có cái tầu dó gỗ xù xì, tảng đá ép ấy vẫn nhẵn lặng và hòn đá nghè giấy rất khiêm tốn nằm trên giữa nền đất trị. Từ đời ấy đến đời khác vẫn chỉ có bấy nhiêu. Rất cổ điển, cổ kính và đơn bạc. Cái gì mà cả dòng nhà ấy biết quý yêu thì vẫn lại là cái tờ giấy do mình chế ra cho người có chữ dùng.
Cho đến bây giờ.
Cái tảng đá xanh màu núi mùa thu và vuông mỗi chiều hai thước
ta, dùng để nghè giấy cho nhẵn mặt, vẫn chỉ là một vật rất thành thuộc ở với
nhà họ Chu đã đến sáu bảy đời. Nó câm lặng mà phụng sự như không biết có mình nữa.
Và người ta quý nể nó như là nương nhẹ một người lão bộc. Ít khi người nhà họ
Chu nỡ nặng tay gieo đầu chầy xuống miếng đá của tổ phụ lưu lại, những khi nghè
mặt dó giấy. Mà người ngoài cùng làm nghề này thì cũng chỉ thấy viên đá là một
viên đá, đánh cho nó cái giá của một viên đá thôi. Cả đến nhà họ Chu cũng nghĩ
vậy.
Nhưng… hòn đá ấy vốn có một đời sống thuộc về tâm hồn. Kể
cũng hơi lạ…
Rừng Hoành Bồ có một nương dó. Rộng sâu lắm. Cũng gần thành một
cánh rừng riêng. Gió thung lũng thổi vật vào nương dó, mỗi đợt muốn đi gấp qua
hết lòng nương thì cũng phải tàn mất nửa điếu thuốc quấn. Trong cái lỗ cùng tịt
của rừng dó, có một cây dó không rõ mọc từ đời nào mà cao vút, cành lá vênh vào
át cả những cây Thiên niên tùng gần đó. Loài dó vốn là một loại cây trung bình,
thường chỉ cao hơn đầu người, mấy khi đã có được chút bóng dài. Vậy mà cây dó cổ
thụ này mình to như mình lim, mỗi lúc mặt giời chỉ lệch quá ngọ một phần nén
nhang là bóng nó đã rợp cả một khoảng lòng suối xa kia để làm vui cho một đàn
cá hương ngư. Người trung châu mình vốn hay khiếp lánh những cái gì to quá,
không dám nhận những cái cao to là hẳn vật riêng của thế giới mình bèn gọi cây
đại thụ đó là Gốc Dó Thần, phải nhắc đến thì chỉ dám nói thầm và lần gặp mùa
bóc dó, họ đều lảng xa khỏi gốc dó thần. Góc nương dó có gốc cây thần, chả mấy
mà đã thành hoang vu và trở nên bí mật như một rừng cấm, gió ngàn có lách qua
được kể cũng còn mệt. Chỉ có bọn thổ dân sơn cước muốn mở một lối đi tắt là còn
dám lần vào đó chứ đến bọn người Kinh đi bóc dó thuê là đều lùi cả.
Nhiều buổi rừng dó lặng gió quang mây, từ góc rừng cấm nổi
lên những tiếng hát, giọng không ra bắc không ra nam mà hơi hát thì toàn bắt
chênh đi cả; lúc xa lúc gần, cái thứ tiếng nói không ai hiểu là tiếng gì đó đi
khắp cả nương dó. Tiếng nói, đôi khi lại có chen vào ít tiếng trúc. Bọn người
Kinh đi lên rừng Hoành Bồ bóc dó, nghe thấy tiếng hát giữa nơi mênh mông đìu
hiu, giá đừng có những cái lối khiếp đảm tầm thường, thấy bất cứ cái gì không
quen thuộc như là cơm áo và tiền là y như đã sợ - thì vào những ngày gió tạnh
mây quang nơi nương dó ấy, là họ đã có dịp gần nghệ thuật và tai nghe được cái
tiếng thuần túy của nghệ thuật rồi đấy. Họ nghe tiếng hát lần lần vẳng lên thì
cái lòng kinh hãi nơi lòng họ cũng tăng lên dần dần. Thậm chí có người ngất đi
và cấm khẩu, phải đốt đến hàng đống là khô mới tỉnh lại. Mới hay tiếng hát u hiển
và tiếng trúc tuyệt vời có khi lại cũng làm tội đến cả những kẻ đi làm thuê ăn
công nhật. Rồi có bao nhiêu người Kinh đi bóc dó thuê kia đều lấm lét bỏ cả việc,
quây quần lại sát thít vào nhau bên đống lửa cho đỡ sợ. Tiếng hát tắt đã lâu lắm
bọn họ mới lại dám lò dò ra làm nốt buổi. Nhưng người thổ dân cùng đi bóc dó
chung với họ, lấy thế làm cười và bảo họ:
- Không việc gì mà thất đảm đến như thế. Cô Dó hát đấy. Cô Dó
không có làm hại ai bao giờ.
- Các bác bảo cô Dó hát? Ai là cô Dó?
Đám thổ dân sơn cước vui vẻ chỉ đúng cái cây Gốc Dó Thần ở
phía xa:
Cô Dó ấy đấy. Cô ở cái cây đấy. Cô là hồn sống của cái cây ấy.
Chúng tôi vẫn thấy luôn. Hôm nào đi làm về, gặp cô thì y như về đến nhà, ở mãi
trên kia - bọn tôi cũng đều vui và quên mệt. Cô lúc nào cũng mặc một cái áo màu
chàm.
Họ còn nói bọn thợ Kinh nghe rằng cứ năm nào cô Dó hát trong
nương thì giấy dưới vùng xuôi làm ra rất nhiều. “Chắc dưới vùng xuôi lại có
khoa thi khoa thiếc gì , nên năm nay cô Dó lại hát”. Bọn thợ Kinh tính ra thì
năm họ đang bóc dó vụ chiêm đây là một năm Mão. Vả nghe thấy đám người núi nói
chuyện giọng thành thực, nên bọn Kinh cũng đỡ sợ và từ đấy một vài người lại
còn sinh ra tò mò nữa. Họ rình cô Dó ra hát - Bọn thổ dân nói đúng đấy. Cô Dó mặc
áo xanh màu lam và cứ đi đến gốc Dó Thần thì vụt mất. Nhiều lần thấy thái độ bọn
thợ Kinh là suồng sã lộ liễu quá, cô Dó giận dỗi mất hàng mấy hôm. Bấy giờ thấy
nương vắng tiếng cô Dó, bọn thợ Kinh phần đông mới thấy nhớ và thấy hình như
ngày làm của họ thiếu mất một cái gì. Nhưng sau đấy ít ngày, rừng dó lại vang
tiếng sáo tiếng hát. Bởi vì vui hát là bẩm tính của cô Dó và cô vốn không phải
là một sinh vật trong nhân loại nên lòng tha thứ ở người cô rất quảng đại.
Chuyện này đồn về đến vùng xuôi.
Có cậu Năm nhà họ Chu ở ven hồ Lãng Bạc nghe chuyện lấy làm
mê lắm. Vụ bóc dó mùa năm sau cậu Năm bèn dặn dò lại công việc làm ăn cho người
nhà trông đỡ lấy lò giấy làng Hồ Khẩu rồi theo luôn bọn thợ bóc dó lên rừng
Hoành Bồ. Cậu tìm vào nương dó đánh gianh làm nếp nhà bên suối, ngày ngày ăn
cơm lam chấm với tro giang tàn nứa đốt ra làm muối. Cậu Năm nhất định chờ cô
Dó. Đôi khi cậu Năm bắt chợt được tiếng hát tiếng trúc, nhưng đến bóng người áo
chàm thì từ ngày vào nương, cậu chưa được thoáng một lần nào. Thì ra cái giống
tình xưa nay vẫn là thế, lúc không thì chẳng sao, khi mà một bên đã hơi hiểu đến
tình ý thì y như e lệ thẹn lánh rồi là bày ra cái trò bất diệt đi trốn đi tìm.
Biết có người trai đẹp dưới Kinh tìm đến chỗ cỏ cây muôn năm xanh tươi để chí
tình cầu đến cái thanh cái sắc của mình, cô Dó trở nên mất hết tự nhiên rồi
lãng hết lối mọi ngày tung tăng trong nương. Và giờ, có cao hứng lắm thì cô Dó
chỉ ngồi trong Gốc Dó Thần mà hát cho đủ thành điệu thôi. Thế mà cậu Năm đã chờ
bên gốc cổ thụ hôm nào không rõ. Cậu Năm là người có chữ nên cậu ngờ rằng điệu
hát cô Dó mang máng như lối trong giáo phường đọc phú và nhiều khúc thì lại có
cái âm luật xốc vác của thơ cổ phong năm chữ ngâm bằng một giọng bi tráng khê nồng
của người khách hiệp gặp đường cùng. Đến đoạn sau thì dài hơn, trong trẻo như
pha lê và vui như tiếng thông reo giữa giời nổi gió. Có dờn dợn chăng thì là
cái đoạn chót của bài hát. Nó lơ lớ ấm ế ôi a như lối ma hời đưa võng ru con. Đứt
câu hát, lại có tiếng cười gằn và tiếng thở dài. Buồn cho hoang vu và cảm thấy
lẻ loi, tay dờ dẫm Năm ta bấm móng tay vào vỏ dó thì thấy từ ruột cây tuôn rơi
xuống hai dòng lệ đặc. Trời, như vầy thì đến phải lấy nhau mới xong. Cậu Năm
bèn khấn xin cô Dó cho thấy mặt. Bóng dương đã ba lần chếch bên cây to mà cậu
Năm vẫn một niềm chôn chân đứng chờ giữa trời. Cây to vẫn im lặng, gió rừng chiều
gỡ một cái lá, thả từ chỏm cây vào lòng cậu Năm như trao cho nhau một bức thư
không lời.
Ngày thứ tư, mặt giời vừa vươn lên khỏi ngàn trước mặt là đã
thấy cậu Năm đứng dướic gốc dó tay cầm một cây rìu lưỡi sáng quắc. Người tình
nhân ấy bữa nay trông quả quyết như một người sơn tràng sắp ngả một cây gỗ rừng
rồi tay đè rồi đẽo sẹo rồi cốn nốt và thả đà. Cậu Năm vỗ vào thân cây, tiếng nói
thất thanh, kêu rằng cậu không đợi được lâu hơn nữa - trong người cậu thấy rề rề
mầm bệnh sốt rét rừng và nếu hôm nay cô Dó còn lánh mặt nữa, thì phải phá nhà
cô nghĩa là chém cây cổ thụ mà “còn tình chi nữa là thù đấy thôi” rồi cậu xuôi
luôn về Kinh đây này cho mà biết. Đến nước này thì cô Dó phải ra. Dưới gốc, kẻ
khóc người cười. Cả hai cùng e ấp rồi cùng khấu đầu tạ lỗi. Sóng vai trên cỏ
sương hai người bàn đến chuyện đưa nhau về Kinh. Chợt nhìn đến lưỡi tầm sét
sáng như nước nằm dưới chân, hai người cười liếc nhau và cậu Năm cầm liệng luôn
xuống dưới lòng con suối bạc. Sợ người ta ngượng vì mình và yêu nhau kém tự
nhiên đi, mấy con bướm phấn đậu ra những ngọn lau xa. Đàn chim - má cũng ửng hồng
lên vì chút thẹn lây - bay đãi lạc đậu lên chòm xanh, chừng cũng cho thế là phải,
bèn rủ nhau đi sang rừng khác, sau khi gáy lên mấy dịp tươi nhanh để tỏ mừng. Mấy
bụi sim quanh quất gần đều cho mở một loạt cánh tím, mặc dầu mùa hoa tím đã hết
từ ngày hạ.
Cô Dó sụt sùi hỏi cậu Năm rằng:
- Trên này tôi đã quen với thảo mộc. Về dưới Kinh anh cây cỏ
cằn vắng, chất xanh nghèo nàn sẽ biết gửi mình nơi nao và ở vào đâu?
- Em sẽ ở với đá với nước. Lấy cái xanh của nước thay tạm cho
cái xanh của lá, lấy cái lành vững của đá thay cái mềm lạnh của cây, anh tưởng
cũng tiềm tiệm được.
- Đá nào? Nước nào?
- Nước Hồ Tây. Và phiến đá làng Hồ Khẩu. Nhà anh làm giấy ở kẹt
vào giữa một con sông và một cái hồ rộng. Có hòn đá nghè giấy, mỗi chiều bằng
vai em, tưởng em cũng không đến nỗi chật quá. Vả em vốn sinh trưởng bằng nhựa
dó và dưới ấy là nhà anh làm giấy, sự sống hàng ngày có thêm em nữa, cũng không
phiền thêm chút nào. Thế giờ liệu đã xuống núi được chưa?
Cô Dó gật gật. Rồi cô xin phép cậu Năm cho cô khóc một lúc để
tỏ chút nghĩa với Rừng Cao Cả. Cô quỳ xuống lạy Ngàn Xanh hai lạy, giọt dài
không khác người con gái lạy sống cha mẹ đẻ lúc bước chân về nhà chồng. Cậu Năm
mắt cũng rớm lệ. Con suối bạc cảm động quá ngừng hẳn lại, không chịu chảy xuôi
nữa. Lòng suối im ả như gương tàu phản chiếu không nhòe lấy một đường viền nào,
cái bóng hai người đang lấy tà áo chùi lẫn cho nhau những châu lệ hạnh phúc sớm
mờ. Hai người say sưa và mệt mỏi, đi trên một cái lối mòn ăn ra dốc đèo.
Chúa rừng cho nổi một cơn gió nóng tiễn đưa cô Dó ra cửa
ngàn. Có một con hươu đực đang vươn cổ cao nhìn cô Dó xuống đồng bằng, mỗi lúc
một bé dần. Nó quật sừng nó vào cái cây đại có những cành ngang và lá to làm bận
tầm mắt nó.
Cái bóng áo chàm người sơn thần nữ vu quy đã tan lẫn vào cái
xanh lớn lao của ngàn già. Bữa ăn chiều ấy, hươu đực ngốn tấc cỏ thấy chát đắng.
Nương dó mất tiếng hát từ đấy. Sớm ngày sau rừng dó bỗng kêu
một tiếng ầm như ngọn núi nào lở thụt ngã xuống vực. Gốc dó thần đổ vật. Người
giai nhân đã đi. Đất này trơ lại những lá úa rầu.
Nhưng mà từ nay ven hồ Tây và trên dòng sông Tô Lịch lại có
tiếng cô Dó bây giờ xuống hát ở dưới đồng bằng.
Hát riêng cho cậu Năm nhà họ Chu nghe thôi.
Hôm về tới làng Hồ Khẩu, trời đã canh hai, cả nhà đều đã ngủ
say. Cậu Năm đưa cô Dó về nhà mà không ai biết tí gì cả.
Trông thấy viên đá xanh nghè giấy đặt chìm xuống nền đất trị,
cô Dó cười hỏi chồng:
- Đấy phải không?
Cậu Năm đang dở tay đốt đèn quay lại gật gật. Thế là cô Dó lẩn
mình ngay vào tấm đá, sau khi ăn hết hương thơm của mấy trăm tờ sắc vừa seo
xong còn ướt để ở ngoài hiên – Mấy ngày đi đường, cô đói quá. Lại vừa mệt nữa.
Nên chỉ kịp chào cậu Năm và nói có một câu “Đầu canh tư, anh đánh thức em dậy với”
là cô đã ngủ ngay trong lòng đá.
Riêng cậu Năm thì không ngủ được. Ngồi uống rượu một mình cho
đỡ lạnh, Năm thấy phải độc ẩm có ý buồn buồn, bèn thành kính rót một chén xuống
mặt phiến đá và tuy mới sang canh ba được có một lúc, cậu cũng đánh thức vợ dậy
để cùng nhắp một chén tân hôn.
- Này em này, đã sang canh tư rồi. Sao tua dua tháng mười đã
gần tụt hết xuống phía đoài rồi đấy. Em ngồi dậy uống một chén mừng cho đỡ lạnh
- Anh lấy một ít bột dó chưa seo đắp lên mặt đá cho em kẻo
trong này lạnh lắm. Ngày thường, anh bắt đầu làm việc từ lúc nào?
- Cứ trời gần hửng sáng thì anh đã trở dậy nghè giấy. Đúng ngọ,
ngừng tay một lát ăn cơm. Mặt trời lặn thì anh nghỉ hẳn tay chầy.
- Từ nay có em về ở cùng, anh nên đổi thời khắc biểu cũ đi.
Em thuộc chất âm, ít chịu được cái nóng sáng của mặt giời. Em muốn từ bây giờ,
anh thay giờ làm việc, lấy đêm ra mà làm ngày. Như thế nó tiện cho em những lúc
phải đỡ đần anh một tay. Vả chăng, cái việc em về làm bạn với anh, cũng không
nên cho người khác biết cả đến người nhà nữa. Muốn giữ bền được hạnh phúc,
chúng ta nên mai ẩn ít nhiều tung tích của mình đi để tránh những việc dòm giỏ
của chung quanh. Lại còn thế này nữa: là thỉnh thoảng em có muốn lách mình ra
khỏi đá để hát cho anh nghe hoặc đánh bóng mặt giấy cho anh, mà phải lộ tấm
hình hài cho người ngoài thấy thì thực là một điều không những là bất tiện mà lại
còn nguy hiểm cho hai mình nữa. Nào, anh đổ xuống mặt đá cho em một chén rượu nữa,
người em vẫn còn mệt lắm, nhưng đã là ngày vui nhất trong cuộc đời thì phải say
và phải hát chứ. Em sẽ hát bài ngắn thôi rồi đi nằm. Lúc nào gà gáy canh một
đêm nay, em sẽ dậy. Anh cũng đi ngủ; để tối hãy làm giấy.
Cậu Năm nghe theo lời vợ hiền. Và từ bấy giờ cả nhà đều phải
để ý đến những giấc ngủ ngày triền miên của cậu Năm. Hỏi, cậu bảo rằng cậu vừa
tìm được một phương pháp mới để chế giấy cho tốt hơn: giấy nghè vào lúc đêm hôm
thì mặt bóng hơn, chất chắc hơn vì… vì nó có hơi sương và tia trăng tia sao! Cậu
nói thế mà cũng có khối người trong nhà nghe được đấy.
Ở ven hồ Tây, giờ cảnh đêm đông không còn lặng lạnh như mọi
khi nữa. Trong sương, đùng đục những dịp tiếng chầy nhà cậu năm giã dó và lắm
buổi lại còn lẫn một thứ tiếng hát, âm thanh lơ lớ và nhịp, lúc mau như tiếng
khổ dựng trong nhà Tơ và lúc thưa thì giống hệt lối ngâm thơ Thiên Thai rồi
ngân dần lên và lại dần dần ngân mà xuống đúng như hơi hát cung bắc hay lúc đổ
con kiến. Đêm đêm, cậu Năm làm giấy và cô Dó cũng lách mình ra khỏi đá giúp chồng.
Cả ngày chỉ ngủ không ăn, giờ, bữa cơm chính của cậu Năm thường lại là một bữa
siu-dề có điểm mấy chén rượu. Vợ chồng vui vẻ, nói khôn nên lời. Ái tình và cần
lao. Lắm khi ngà ngà mà say, phất phơ mà đi, nhìn đêm lạnh giăng suông, nhớ rừng
cũ, cô Dó lại càng hát nhiều nhiều. Khuya im một mầu sương muối, cỏ cây đùng đục
vẩn trong sữa giăng loãng, giời đất trông ra như lúc hỗn mang. Cô Dó đánh bạo
ra ngoài. Đêm đông trường chỉ có tiếng hát của cô dó chập chờn đi từ giới hạn một
bờ Tây Hồ đến bờ một khúc sông Tô Lịch. Tiếng huyền diệu và mờ mù bao la.
Từ đấy lò chế giấy nhà cậu Năm họ Chu làng Hồ Khẩu biết một kỷ
nguyên mới - giấy tự nhiên thơm đẹp lên và bỏ xa sự cạnh tranh của nghìn vạn
người sống bằng vỏ dó. Loại giấy Chu Hồ có từ bấy giờ. Ấp tờ giấy đẹp vào lòng,
biết nó là cái công ơn của người vợ hiền nhiều đêm đã cần cù vì mình, cậu Năm
đê mê vì chân hạnh phúc và thú cần lao nhiều phút ban ngày sướng quá, ngất đi
và tỉnh cơn cuồng lại vỗ mãi vào phiến đá nghè có ý đánh thức vợ dậy mà xem
mình đang khóc vì… hoan lạc.
Có một lần, cô Dó dở giời khó ở mất đến một tuần, giấy Chu Hồ
tự nhiên xuống hẳn mặt. Đã có bao đêm liền, cậu Năm bó gối gác chầy bên phiến
đá, nghiêm và rầu như kẻ sắp gieo mình xuống dòng. Dưới lòng đá, có tiếng phào
phào đưa lên:
- Em đã rõ chứng bệnh em rồi anh ạ. Ra em không chịu được cái
mùi hoa hòe nhà ta vẫn mua về để nhuộm giấy sắc. Đổ cái chất vàng ấy lên mình
em, em ăn phải cho nên đầy và cứ phù dần người ra. Anh thử bỏ vứt bột hoa hòe
đi em xem.
Có như thế. Sau khi cậu Năm cho đổ hết hòe xuống hồ - làm
vàng ố cả một vùng xanh trong - thì cô Dó cất cơn ngay. Lò giấy nhà họ Chu,
thôi hẳn việc chế giấy sắc vàng lại cũng từ đấy. Ngày tháng. Hai người càng yêu
nhau trong ca vui và cần lao; trăm năm cũng già. Không, cô Dó vẫn trẻ. Chỉ có cậu
Năm là già đi vì cậu vốn thuộc chất dương và vốn thời gian chi phối. Cậu Năm
chính là ông cụ tổ ba đời của ông cụ họ Chu được nhà vua cho quan bộ Lễ vời vào
kinh để sung một chức ở Cẩn Tín viện đấy.
Cậu Năm trăm tuổi đi rồi, cô Dó đêm đêm ra ngồi ở ven Hồ Tây
và ven sông Tô có mấy tháng liền, sự nhớ thương lại biến thành nhiều khúc hát
buồn và những bài ca điếu ấy, cô có chép vào một tập đề là “Chu Ngũ Lương Nhân
Hoài Khúc” giữ luôn dưới lòng đá và nét chữ cô Dó lởm chởm nhọn hoắt và so le
như ngọn cỏ bồng. (Mấy mươi đời sau, đâu có một người tài về môn cách vật trí
tri bảo đấy là thứ chữ không phải của loài người chế lấy mà dùng; nó là thứ chữ
Sơn Hoàng của Chúa Rừng truyền dạy cho các hồn cây hồn quả hiến viết lúc dâng
bài Chúc Thọ và chỉ những người nào có số hổ vồ là đọc thông được thôi).
Phiến đá xanh nghè giấy, từ cụ Năm về giời, bỗng trắng toát
ra. Phiến bạch thạch lẫn vải bố góc bàn thờ mới. Sau ba năm, cô Dó rất có thể lộn
về rừng - cái quê hương cũ vốn muôn năm xanh vui của mình. Nhưng không, cô vẫn
còn thương cậu Năm nhiều lắm và thề ở lại giúp và dựng cho lũ con lũ cháu và lũ
chắt nhà chồng, có cái định kiến là đến bao giờ dân trung châu hạ bạn tuyệt nghề
làm giấy bản thì cô mới bỏ nhà chồng và lộn về rừng. Từ ngày theo chồng về Hồ
Khẩu cho đến quá về sau cái thời chồng chết, người quả phụ ấy chỉ có một lần
tìm đường qui ninh về rừng thăm lại Mẹ Ngàn.(Cô Dó quy ninh đâu vào cái khoảng
người cháu bốn đời nhà cậu Năm)
Từ cậu Năm mất đi, con cháu nhà họ Chu lại trở lại tập quán
cũ, nghĩa là nghè giấy vào lúc ban ngày. Dưới đá trắng cư tang, nghe những âm
chầy non dại đổ xuống dó ướt, cô Dó mỉm cười. Thương trẻ, đêm đêm Cô lại hiện
ra, hà ít hơi mình vào giấy và lấy tay vuốt từng tờ giấy một. Giấy Chu Hồ vì thế
vẫn giữ được vẻ quý mà riêng lũ con cháu nhà cậu Năm thì vẫn không biết lấy mảy
may về sự hiển linh nhà mình. Đời ấy và đời khác…
Năm 1925 vào cuối đời Hoàng Tôn Tuyên Hoàng Đế, đất Nam Kỳ,
trấn Gia Định… có một ông huyện… tên là Khỏe. Ông huyện Khỏe là một người phú
quý tột bực, hay gây ra nhiều điều thất đức. Lúc trẻ tráng, cái lối ngông lối hợm
của ông huyện Khỏe lại… vô địch nữa. Điền địa của cha mẹ để lại cho thì là bờ
xôi ruộng mật, đều là nhất đẳng điền cả. Thủa ấy ông thực là công tử số một,
chơi vàng cả một giời và đến ngay đám công tử Bạc Liêu nghe đến danh ông thẩy đều
xanh cả mắt… Khoảng thời thiếu niên của ông huyện Khỏe, thật lúc nào cũng là
vui như hội Tây. Giờ ông đã có tuổi vẫn giàu có như xưa nhưng đã trở nên phải
chăng trong cử chỉ hằng ngày. Ông chỉ còn đi xe hơi hai mươi bốn ngựa thăm ruộng
xa như một đất phong cường và các nhà máy xà phòng, gạo và dầu cù là của ông rải
rác ở khắp lục tỉnh. Người thương nhân này lúc về già còn buộc thêm vào cái đời
con toán của mình một cái thị hiếu chơi những vật hiếm trên đời. Những đồ vật
không cứ là cổ và đẹp nếu là độc nhất vô nhị trên trần thì bao nhiêu ông cũng
mua. Và những bực có tài xem đồ cổ ông đều giữ luôn trong nhà, lấy thứ lễ hạng
nhất ra mà đãi. Trong đám thực khách nhà ông huyện Khỏe có một người tên là
Chiêu Hiện được chủ nhân tin trọng lắm, coi gần như quản gia. Ông Chiêu Hiện
quê vùng phủ Quốc, bỏ xứ Bắc vào trong Nam đã lâu, lúc bỏ nhà đi, có chỉ vào
cái cầu Phùng mà thề độc rằng “bất thừa xa mã bất quá thử kiều”. Ở Sài Gòng được
ít năm, ông Chiêu Hiện bị vướng vào một vụ cướp có án mạng tại Chợ Lớn… Chiêu
Hiện thụ cái ơn ấy canh cánh để bên lòng và tự nhủ trong suốt một đời thể nào
cũng phải tìm lấy dịp để trả ơn lại ông huyện nghĩa là lúc nào cũng nghĩ đến việc
đi tìm báu vật cho ân nhân. Xứ Bắc Kỳ cũng như về mặt nhân vật, về đường bảo vật
vẫn còn nhiều cái lạ lắm. Đôi ba năm, Chiêu Hiện lại lộn về một lần để sục xem
có được cái gì không. Lần ấy lộn về Hà Nội, không rõ dùng chước thuật gì mà
đánh tráo ngay phiến bạch thạch đó, đem về cho ông huyện Khỏe.
Thâu ngày thâu đêm, đá đã qua hết giang khẩu và những con đèo
rất hiểm nghèo. Về đến biệt thự ông huyện Khỏe, đá bỡ ngỡ với thời tiết ở đấy
quanh năm nóng như lò nung vôi, đá bỗng đổ mồ hôi. Cầm chén rượu rũ bụi, lúc đã
thong dong, ông Chiêu Hiện mới đứng lên kể lai lịch đá cho người ân nhân mình
nghe. Và quả như lời ông Chiêu Hiện nói, đêm ấy lúc canh đã dịu lạnh, trong phiến
đá có tiếng hát giọng buồn. Không rõ lời nhưng nghe cái âm tiêu sái ấy, đến như
ông huyện Khỏe mà cũng sụt sùi. Chiêu Hiện bèn dẫn giảng rằng đấy là một trong
những bài thương ở tập “Chu Ngũ Lương Nhân Hoài Khúc” của hồn đá làm ra từ lúc
thiếu chồng. Tính hay khoe của, ông huyện Khỏe, ngay ngày hôm sau, gửi luôn thiếp
danh đi mời các khách quý đến ăn tiệc và “xem một hòn đá biết sụt sịt trong
đêm”. Tàn tiệc rượu có một cuộc dạ vũ. Chiêu Hiện mặc đồ lễ… ra xin với quan
khách chỉ nên vui nhộn đến đúng giờ tý thôi, nếu có bụng chân thành muốn nghe
những tiếng thương xót của hòn đá “nó là cái cớ đẹp của buổi hợp hoan này”.
Trong biệt thự im vắng và tắt hết điện chỉ còn leo lét một ngọn đèn cầy. Sau đấy
một giờ, lòng đá lại như đêm trước, bật nổi lên những tiếng tương tư thê thảm.
Tân khách thẩy đều rơi châu. Tờ mờ sớm, họ ra về và bắt chủ nhân phải hứa là có
một ngày gần đấy phải cho họ được xem đến mặt người sương phụ trong đá kia. Và
từ đêm ấy, còn tiếp bao nhiêu dạ hội khác. Mới hay, chẳng cứ là tiếng người mà
cái tiếng ly khổ của hồn một phiến đá lương thiện có tình lại còn là cái cớ vui
cho người đứng ngoài nữa.
Muốn đánh lừa cô Dó phải nhầm lẫn về hoàn cảnh mới gắt để thỉnh
thoảng hiện hình ra như trước, ông Chiêu Hiện đã xui ông huyện Khỏe cho đào cả
hai bên biệt thự lên, một bên giả làm dòng con sông Tô Lịch, một bên giả làm
vùng nước ven Tây Hồ, tiền nhân công tính theo lối nhà nước ngăn đắp đập. Ngày
lạc thành cái mẩu hồ lộn sòng và cái khúc sông giả vờ đó, lại tiệc yến. Những
tân khách của những kỳ dạ hội cũ đã được nghe đá khóc thì bây giờ lại theo ước
cũ đến đây uống rượu nữa để xem mặt cái hồn đá sầu. Nửa đêm ấy, cô Dó hiện ra
thật, vẫn mặc tấm áo chàm như ngày ở rừng xa, nhưng dưới gấu đã xé xơ ra cho nó
thành tấm áo trảm thôi (áo đại tang) và mớ tóc tang rối như xơ dó vừa ăn vôi.
Có bao nhiêu người bừng bừng hơi rượu rải rác núp trong xó tối, khẽ trầm trồ với
nhau là đẹp và đoan chính đến bực ấy là cùng.
Cô Dó chập chờn trên nước sông đào, trên nước hồ đắp, tỉ mỉ rờ
vào các lá cây thân cây quanh đó. Cô thấy không phải là cây quen thuộc của xứ Bắc.
Đây chỉ là những lá cành của kè, cọ, dừa xiêm, vú sữa, măng cụt, sầu riêng
thôi. Ngờ ngợ đến sự nguy hiểm của một trung thổ lạ, cô lại vội lẩn ngay vào
trong lòng đá trắng. Từ đấy không ra nữa và cũng ít khi lên tiếng nhớ cậu Năm.
Sau đêm ấy ông Chiêu Hiện bỗng nấc lên mấy tiếng rồi lả dần
đi. Vực ông vào buồng bệnh, thấy Chiêu Hiện cứ mở thao láo mắt mà thiếp đi đã một
ngày một đêm, ông huyện Khỏe biết là chứng bệnh cũ của người quản gia lại phát
lại và chỉ dặn người nhà phải ngày đêm túc trực nơi giường bệnh, ngâm giấy phèn
vào nước, cứ mỗi giờ lại đổ cho uống, chứ tịnh không phải thuốc thầy gì cả. Mọi
khi vẫn thế. Nhưng lần này thì hơi phiền hơn; là đã quá mười ngày rồi mà Chiêu
Hiện không thấy tỉnh lại. Mọi lần trước chỉ ba bốn ngày đêm thôi. Bệnh này
trong sách Y Dược Đại Toàn gọi là bệnh Miên nhất khí và người nào hay có cái
khiếu về hư linh học thì thường hay mắc phải.
Thế mà đến ngày thứ mười hai, ông Chiêu Hiện đã tỉnh lại.
Nghe ông huyện Khỏe thuật lại cho hay rằng mình đã ngủ mười hai ngày có dư,
Chiêu Hiện đã bốc đứng người dậy, kêu xong hai tiếng “hỏng rồi” thì lăn đùng ra
giữa nền cẩm thạch, mồ hôi vã ra như tắm. Không hiểu là cái gì “hỏng rồi”, ông
huyện Khỏe mặt như chàm đổ, sợ sệt nhìn con bệnh bây giờ đang lăn lộn như có ai
cấu rốn. Đến lúc tỉnh lại lần thứ hai, hai mắt dại dột Chiêu Hiện chán chường
nhìn vào khoảng không và miệng - tiếng đã thất thanh, lại nhắc lại: “Hỏng rồi”,
đầu lắc mãi như từ chối một cái gì. Chiêu Hiện tập tễnh bước lại chỗ đặt viên
đá trắng, ấp tay vào mặt đá, ấp tai vào mặt đá vẫy ông huyện Khỏe lại:
- Đến phải đập vỡ đá này thì may ra mới chữa được người trong
ấy, cô Dó không khéo chết mất rồi ông Huyện ạ!
- Ông Chiêu nói chuyện cho tôi rõ đầu cuối với.
- Nguyên là thế này. Hòn đá này phải ăn chất vỏ dó. Thiếu nó
thì cái người nằm khóc trong đó mọi ngày cho ông nghe sẽ phải chết khô. Ông nhiều
việc không hay để ý đến, chứ thực ra từ ngày mang đá về, tôi đã mang theo về
bao nhiêu là bó vỏ dó để ngày ngày ấp lên đá cho người trong đó ăn. Gần hết,
tôi lại đánh giấy ra Bắc cho người bà con gửi vào. Từ hôm bị bệnh, đột ngột nằm
xuống, không kịp dặn ai thay cho việc bón đá, đến nay là quá mười ngày, người
trong ấy chết đói rồi chứ còn gì nữa.
- Vậy bây giờ nếu phải đập phiến bạch thạch ra để cứu lấy người
trong đá thì ông cứ tùy tiện mà làm.
Một nhát búa. Một tiếng xé rất khô gọn và ít mảnh vỡ bắn tung
lên. Hòn đá chẻ ra làm hai theo chiều ngang và phần trên khi đã bật ra thì quỷ
thần ơi! Có một người đàn bà rất xinh bé đang nằm ngủ. Nàng mặc một cái áo lam,
xiêm cũng màu lam. Lúc ông Chiêu Hiện đã nhẹ nhàng ẵm nàng ra đặt lên giường
thì mảnh phiến đá vỡ vẫn còn in khuôn những nét hình một tấm thân người nhỏ,
nhiều khoảng trũng xuống như chỗ đựng nước trong một cái nghiên dùng viết đại tự.
Chiêu Hiện rờ vào ngực cô Dó thấy còn nóng, vội gọi gia đinh
đem cái bó vỏ dó ông cất trong kho ra ngay mau. Chúng đều trả lời rằng không biết
ai đã tưởng là thứ dây dợ gì lấy đi gói buộc hết cả rồi. Cái tia hy vọng cuối
cùng đã tắt nốt. Ông Chiêu Hiện dẫm chân kêu giời, nước mắt đỏ như máu, tiếng mất
hẳn đi. Bèn lấy giấy, bút đàm cùng ông huyện: “Ông phải làm ngay hai việc: nhất
diện là cho đánh xe đi lên Sài Goòng về các miền lục tỉnh, vét lấy hết giấy bản
của ta, chứ giấy moi và giấy tàu của các Chú chế ra thì vô dụng. Một mặt nữa
thì cho đánh ngay dây thép ra Bắc - theo địa chỉ này - bảo phải gửi ngay vào
cho dăm kiện vỏ dó theo lối đại tốc”.
Trong lúc chờ giấy bản, vớ được mươi quyển chép dở những thi
ca của mấy chỗ thế gia ngoài Bắc, ông Chiêu Hiện đem xé vò ra, chất thành một đống
to, đốt sưởi cho cô Dó hồi lại. Người đá chết lả đã dần dần tỉnh lại, ngón tay
động làm buột rơi một cuốn sách nhỏ ngoài bìa bằng lá cây có nét kim khí vạch
sáu chữ “Chu Ngũ Lương Nhân Hoài Khúc”. Cô Dó mắt vẫn còn nhắm nghiền nhưng môi
đã mấp máy được và đang hé cười. Những những luồng khói đặc ở luồng giấy bản đã
thưa loãng dần. Khói tắt, hương giấy tàn đi, người cô Dó càng lạnh, lạnh thêm lạnh
mãi rồi cứng chắc lại, mồm ngậm kín một khóe cười không kịp nở hết. Cô Dó đã trở
nên người thiên cổ. Cô Dó đã thành người của một thế giới khác, của một thế giới
ngọc đá muôn năm. Cái màu xanh ở tấm áo đã đậm và bóng hẳn lên thành một thứ ngọc
lam trong sáng.
Bên tử thi đá lam, có một người nấc lên mấy tiếng. Ông Chiêu
Hiện tưởng còn có thể điên cuồng thêm nữa khi lũ gia nhân sai đi mua giấy bản về
đưa trình vẻn vẹn được độ ba trăm tờ hoen nhàu với một câu: “Dạ, chúng con đang
cho xe lên Sài Goòng và về cả lục tỉnh mà cũng chỉ vơ vét được có bấy nhiêu. Dạ
bẩm trong này ít dùng thứ giấy này. Việc quan và tư thảy đều dùng có giấy tây
thôi”. Ngẫm nghĩ một hồi lâu, Chiêu Hiện trấn tĩnh được lòng tiếc và tự nhủ rằng
thôi chẳng qua ông huyện Khỏe có cái số không được làm quý nhân nên quý vật nó
mới không chịu ở với. Và cô Dó đã nhất định đi, giá có nấn ná lùi lại đến lúc
này chờ giấy bản về kịp, thì cái đệp giấy khốn nạn mỏng và biển lận kia cũng
không đủ để sưởi nóng cô, hồ cầm lấy chút hơi tàn mà chờ vỏ ở Bắc gửi vào theo
lối đại tốc. Sau phút lấy nước ngũ vị tắm cho thi hài đá lạnh, Chiêu Hiện thấy
lòng chứa chan hối lỗi vì đã phạm vào tội giết mất một thứ ngọc sống. Vì có biết
thế này thì đã không khi nào ông dìu ngọc vào đất Sài Goòng để đến nỗi đắc tội
với ngọc đá và đánh hỏng cả cuộc đời một vật báu. Chiêu Hiện lại khóc lên ba tiếng
để sau ba tiếng của mình khóc ngọc tị trần vừa dứt thì tiếp theo nghe đến ba tiếng
cười của ông huyện Khỏe. Ông huyện Khỏe đã ôm lấy xác cô Dó vui reo ồn ào:
- Trời, té ra là ngọc thạch. Thúy ngọc ông Chiêu ạ. Một khối
ngọc toàn bích. Việc gì mà ông buồn khóc. Thì ra trước kia nó là thứ ngọc biết
nói. Mất người nhưng chúng ta vẫn còn lành vẹn một phiến ngọc ví bán đi thì có
thu về được cơ man là tiền bạc. Hoặc là bán, hoặc là để đem làm vật tạ lễ một vị
quan thầy. Người ngọc ví có còn sống để lên tiếng một đôi khi mà làm vui cho
đám tửu đồ nhà tôi thì cũng vẫn là một sự đáng quý đấy. Mất đi ai chẳng tiếc.
Nhưng mất người mà còn sót lại ngọc, thì cái di hài này có lẽ còn quý giá hơn
người lúc sống kia đó vậy. Để tôi đem dâng cho quan thầy tôi…
Thôi, nín đi mà bác Chiêu.
Chiêu Hiện đã nín thật. Nghe giọng lưỡi ông huyện Khỏe, ông
Chiêu thấy khắp mình toát ra một thứ mồ hôi dầu. Trời, thế này thì ra từ bao
nhiêu lâu nay ông đã thờ nhầm phải một người có nhân cách đê hạ quá. Đã thấm
chưa! Ở vào một trường hợp tang tóc ngập lòng này, lòng người ta phải đau rầu gấp
bội lòng người chết vợ trẻ hiền, mà ông huyện Khỏe đã vội tính đến nước bán Xác
Ngọc, cũng là cho ngọc đi ở vào cửa hầu nhà khác thì tưởng không còn sự tuyệt
tình nào phụ bạc hơn được nữa. Nhớp đến thế là cùng. Một người đã vô sở bất chí
đến như thế thì còn cái gì ở thế gian này mà hắn không làm đến. Có khi rồi, nếu
không sớm liệu, thì ông ta sẽ bán đến cả mình nữa như bán một tên nô lệ cho chủ
khác. Ngọc về ở với ông ta, chẳng may xấu số về giời sớm, ngọc đấy mà ông ta
còn đòi bán đi nữa, huống chi là mình. Ở sát cạnh một người thiên về danh lợi
quá đến nỗi không còn lấy mảy may tình ý về kỷ niệm; cứ ở gần kề đứa bạo ngược,
không sớm liệu thì rồi vạ kéo đến cũng chỉ một sớm một chiều đấy thôi.
Ngay đêm ấy, Chiêu Hiện đã bỏ ông huyện hàm. Lúc bỏ đi, không
thèm chào, không thèm đem theo một vật gì là tặng phẩm của ông huyện vẫn đưa từ
trước tới giờ. Chỉ để lại có mỗi một lá thư, trong nói là về Bắc chữa cho khỏi
ít cố tật trong người; không dám hứa là có quay trở lại với ân nhân cũ nữa
không, nhưng dẫu sao ơn ngày trước tưởng cũng đã đáp lại được chín mười bằng một
cái tử thi ngọc xanh đó.
Mười mấy năm bỏ làng đi vào trong làm… cho một tên bạo phú,
giờ về quê cũ, một tấm vải đắp lên cái thân dầu dãi đã cuối chầu, ông Chiêu Hiện
qua sông Hát Giang lại nhớ lời thề cũ là không có ngựa xe thì không chịu qua cầu
Phùng đây mà lộn về phủ Quốc. Nỗi buồn ấy đã thấm vào đâu khi Chiêu Hiện lộn lại
làng Hồ Khẩu hỏi thăm về sự làm ăn của nhà họ Chu. Thì ra, từ ngày bị đánh tráo
phiến đá nghè, nhà ấy làm ăn mỗi ngày một xuống và giấy Chu Hồ bây giờ đã là một
câu chuyện gần như cổ tích, một câu chuyện chỉ còn thuộc về lịch sử giấy đẹp của
nghìn xưa.
Để duy trì cái sống hàng ngày, nhà họ Chu bây giờ cũng làm giấy
nhưng là giấy moi…
Lòng nặng về tội ác, ông Chiêu Hiện có chép lại việc này, đủ
ngành ngọn vào cuối cuốn gia phả tỏ ý ăn năn nhiều về chỗ đã giết chết mất ngọc
biết nói và dặn con cháu từ sau chớ nên xúc phạm vào bất cứ một phiến đá tảng
đá hòn nào; mặc dầu nó có là đá bên đường đi nữa.
Sau đấy một tháng, chứng bệnh cũ miên nhất khí bỗng phát lại
và lần này thì ông Chiêu Hiện ngủ luôn một giấc để lũ con đưa ra một cánh đồng
tỉnh Sơn Tây, huyệt đào sâu xuống mới có nửa thước, đã thấy lởm chởm lổn nhổn
những đá tổ ong.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét