Thứ Tư, 14 tháng 8, 2019

Nguyễn Công Hoan - Tuyển tập 2

Nguyễn Công Hoan - Tuyển tập 2
Cậu ấy may lắm đấy
Lần đầu tiên mà tôi giơ khẩu súng lên, sắp bóp cò để bắn con chim gáy đậu trên ngọn tre, trong lòng tôi xốn xang vô hạn.
Thì các bạn hãy thử nghĩ xem. Ngón tay này mà tôi co lại ấy là kết liễu một sinh mệnh. Mà cũng viên đạn nhỏ xíu, cũng cò máy xinh xắn ấy, trỏ nó vào bụng người ta, mà làm một phát tức khắc mình trở nên đồ sát nhân, bị toà án xử cho mình mất chỗ đội mũ. Thế mà lại mang nó đi doạ dẫm nước khác để xâm chiếm đất đai, thì mình còn trở nên đồ phát xít bị báo Đông Pháp chửi bới nữa, mới “giết đệ” chứ!
Con chim gáy chẳng biết đang ở giây phút nghiêm trọng. Nó vẫn cúc cu gáy đều. Thế giá nó có chết cũng không thể cãi được rằng không phải số. Tôi bỏ hết những điều nghĩ ngợi vô ích, cố ngắm cho đúng để bóp cò. Phải, nếu tôi có bắn tài đi nữa, cũng không đời nào tôi có thể thành đồ sát nhân hoặc đồ phát xít được. Cớ ấy rất dễ hiểu, là tôi không có súng. Hơn nữa tôi là dân An Nam, lẽ tất nhiên không được phép tự do có khí giới để muốn doạ lấy nước nào làm thuộc địa cũng được.
Súng ấy nguyên là của ông bạn với chú toi. Vì hai ông đương ăn cơm trong buồng, nên tôi táy máy mang ra nghịch. Và nhân thấy có tiếng chim gáy ở đầu nhà, tôi bèn nếm mùi săn bắn xem nó ngon lành đến bực nào.
Con chim vẫn hót những tiếng véo von.
Đứng nấp ở cạnh đống rơm tôi hết sức láy gân, gò lưng ra đằng trước, tỳ mạnh đầu báng súng vào xương vai, áp thật ghịt vào má và nhắm kỹ một mắt lại trống ngực tôi nổi mạnh. Bụng tôi sôi lên ùng ục.
Đoành!
Lá rụng lạt sạt. Con chim tốt số vỗ cánh bay đi.
Nhưng bộp! bộp! Và đồng thời với hai tiếng rơi ấy, tôi thấy tiếng trẻ con reo ầm.
- A, hai con?
Tôi chửa kịp ngạc nhiên, thì nỗi mừng đã đến. Một đứa trẻ chạy vào cổng, đưa trả tôi một đôi chim xám vừa béo vừa to.
Trên nhà, mọi người nghe tiếng nổ, tất cả chạy ra sân Nhưng khi ai nấy thấy sự tinh nghịch của tôi đã đem về một kết quả phi thường, thì không những không ai mắng, còn khen tôi là khác. Một phát, tôi đã trúng hai con gầm ghì.
Ông khách lấy làm bái phục tôi, nói:
- Phát đầu tiên, Quốc nó đã tỏ ra là bắn giỏi. Rồi sau này, nó sẽ ăn đứt chúng ta.
Tôi cười lạt một cách nhũn nhặn, để ngoa ngoắt mà chịu tiếng khen. Tôi cảm ơn hai con chim khốn nạn đã hy sinh cho tôi được danh dự. Tôi lặng ngắm cây đa rậm lá mọc sau bụi tre, và nghĩ mãi không hiểu sao đôi gầm ghì này đỗ ở đâu, để tôi bắn lầm phải, đến nỗi chết một cách oan uổng.
Song than ôi, ở đời này, có biết bao nhiêu kẻ vô tài trở nên danh tiếng lẫy lừng do những sự tinh cờ tức cười hoặc biết bao nhiêu đứa xây danh dự mình lên trên đống thây đồng loại. Thì tôi mới giết oan có hai con chim, cái sĩ diện bắn giỏi của tôi nó có to gì mà phải nghĩ ngợi với ân hận?
***
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Mà cố nhiên tiếng bắn giỏi là tiếng đồn lành. Nó đồn di xa lắm, vào tận Ninh Bình, lọt đến tai ông chủ đồn điền Quýnh.
Ông Quýnh có hơn tám trăm mẫu ruộng, mà chỉ có mỗi một con gái, mặc dầu ông bắn rất giỏi. Trong hai mươi năm trời, ông hạ được ba mươi con cọp bằng bốn mươi phát đạn. Người ta cứ bảo vì ông tàn sát nhiều thiên tướng, nên trời bắt tội ông không được có con trai. Chứ bắn giỏi, khoẻ lại hay bắn như ông, lẽ nào chỉ đẻ có mỗi một cô con gái? Nhưng cái đó thuộc về dị đoan.
Song, không hề gì. Miễn là ông Quýnh biết có tôi đây là nhà thiện xạ, để ông bằng lòng gả cô Mai cho tôi.
Ông Quýnh giàu hơn tám trăm mẫu ruộng. Cái mỏ ấy thực tốt cho những kẻ muốn khai. Trời sinh ra tôi tên là Quốc, lại sinh con gái ông tên là Mai. Hai chữ tên này thực hợp và cần cho sự đào mỏ bằng cuốc, bằng mai không nói. Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông còn cạn nữa là.
Ông Quýnh yêu cô Mai lắm. Lẽ đó cố nhiên. Ông muốn có con rể cũng như ông, nghĩa là bắn giỏi, để giúp ông giữ vững lấy đồn điền, sợ khi điền tốt “nổi loạn”.
Điều đó không phải ông đã quá lo xa, vì ngoài sự ông đáng thờ vì có con gái đẹp và giàu, ông phải cái xấu là có tâm hồn Hít le, nghĩa là cứ thích chiếm ruộng đất của bọn dân nghèo khố ở sát cạnh khu vực của ông.
Khi chú tôi nghe tin ông Quýnh hâm mộ tiếng tôi rồi, thì ông nghiêm nghị bảo tôi rằng:
- Mày không xem chỗ nào có súng mà mượn để tập bắn, rồi về nhà người ta thì làm thế nào?
Chú tôi coi tôi như đi làm dâu vậy. Vì ông Quýnh vẫn tuyên bố, ai lấy con ông, tất phải ở gởi rể. Rồi một khi tôi đã được vác áo thụng xanh đến nhà ông, tôi lại không biết loay hoay khẩu súng thế nào, thì người ta bảo ở nhà có người lớn mà không biết dạy.
Trong việc hỏi Mai, bạn chú tôi làm mối. Sau lời quảng cáo phóng đại, lấy sự bắn đầu tiên mà chết cập rập những đôi gầm ghì làm chứng cớ, ông Quýnh đã hơi xiêu lòng.
Rồi sau hết, ông nói:
- Cháu nó cũng đã có nhiều người hỏi, song tôi xét ra toàn hạng văn dốt vu dát, tôi sợ không coi nổi cơ nghiệp này. Hiện nay cũng còn hai đám nữa, nhưng tôi chưa nhận lời. Vì tôi còn phải dò la lâu.
Thế rồi muốn cho cuộc nhân duyên mau mau có kết quả mối tìm dịp cho tôi làm quen với Mai. Chúng tôi vụng trộm thư từ cùng nhau. Và sau hai tháng trời tấn công ái tình bằng lối du kích, tôi bàn với Mai nên để cuộc yêu nhau này thành công khai, nghĩa là Mai cứ thú thực cùng cha để đòi lấy tôi cho kỳ được.
Ông Quýnh chiều ý con, nhưng nói:
- Tao cũng vẫn bằng lòng gả mày cho nó, nhưng tao muốn chờ khi nào người ta nói lại thì nhắn nó về đây, bảo nó đi bắn thử, xem tài nó thực hư thế nào.
Điều kiện ấy, tôi rất lấy làm lo ngại. Mà tôi ác cảm cái lối tuyển người trong thời buổi cạnh tranh này làm sao! Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải qua một kỳ thi. Chỉ trừ làm vua là không phải sát hạch gì hết, nên bất cứ thế nào cũng có thể chễm chệ trên ngai vàng, còn thì tuốt tuột là phải thi cả.
Ác hại quá, bây giờ tôi lại phải thi làm rể? Kỳ viết - viết thư tình cho Mai - đã trót lọt, nay đến kỳ khấu vấn. Mà kỳ khẩu vấn này, lại chẳng như những kỳ khẩu vấn thường dùng đến miệng người ứng thí, mà phải mượn đến miệng súng? Thật là lối nói chuyện của các bố phát-xít bên Âu châu. Song, ở phía trời Tây, mấy xừ ấy họ phát-xít vì họ muốn độc tài. Chứ nhút nhát như tôi, thì độc gì. Chửa nghe thấy tiếng súng đã són ra ấy. Có họa là độc dạ, vì mình quen theo chủ nghĩa phát xia?
Song, đã liều ba bảy cũng liều.
Về đến đồn điền, tôi được ông Quýnh tiếp rất chu đáo. Nên tôi phải gãi vào chỗ ngứa của ông:
- Thưa ông, quanh đây có rất nhiều chim. Nhất là mạn gần sông, lắm giang quá. Có lẽ ít lâu nay ông thưa săn bắn.
Ông Quýnh cười, gật:
- Phải, vì đến bốn tháng nay, tôi bận hết việc nọ đến việc kia, chứ trưa, ngày nào tôi cũng vác súng đi, thì chim chóc dạt đâu mất cả.
Rồi ông tiếp:
- Mai cậu cứ lấy súng của tôi mà bắn.
Tôi làm bộ ngại, để tỏ ra mình thạo:
- Nhưng lỡ có ai hỏi...
Ông Quýnh cười:
- Làm gì có ai dám hỏi. Trong đồn điền, toàn người nhà cả.
Tôi vui mùng:
- Thế thì thích quá.
Kỳ tình, đêm hôm ấy, tôi lo mê.
Hôm sau, không thể lấy cớ nhức đầu sổ mũi để trốn thi. Tôi định vác súng ra đi. Thấy tôi nai nịt gọn gàng, Mai mỉm cười, nhìn tôi rất tình tứ.
Trời nắng. Cái nắng tháng ba làm cho người ta dễ ốm, nếu người đi nắng không có một hy vọng tốt đẹp là lấy được vợ giàu.
Tôi đi rõ thật xa. Đến tận chỗ mà giá có tiếng to như tiếng súng, ông Quýnh cũng không nghe thấy.
Những đàn giang xoè cánh bay lượn trên không, làm rợp cá thửa ruộng. Nhiều con lò dò trên bùn lầy, ngỏng cổ lên bờ đường để nhìn.
Hay là bắn giang?
Đó là một ý hay. Giang to, dễ trúng. Tội gì tôi không nắm cổ những dịp may mắn tình cờ. Tôi lấy làm lạ cho những thằng đã hỏi Mai trước. Ý hẳn chúng nó cầu kỳ, cố tìm cho được những thứ chim hiếm có và bắn khó để khoe tài. Chúng nó ngu thì chúng nó chết. Ngày xưa, người ta mới kén rể bằng cách bắn sẻ, chứ ông Quýnh có thách như thế đâu? Âu là tôi cứ bắn những con giang to bằng cái mẹt này. Hễ ông chê giang không quý vì thịt không ngon, thì tôi sẽ chống chế là định tâm bắn thứ chim này để nhân tiện thử tài nội trợ của Mai một thể. Phải, với thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì thuyền quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. Hẳn là ông Quýnh không thể “truy” tôi vào đâu được nữa.
Tôi đứng nấp sau gốc cây, chờ dịp thuận tiện để đưa ra những phát đạn hùng dũng. Tôi dương súng ngắm kỹ, rồi bóp cò. Nhưng lần nào cũng vậy, những con nhát thì vỗ cánh bay đi. Nhưng con bạo còn quay cổ, lơ láo nhìn, rồi rắc lại ít phân làm kỷ niệm, mới bay theo các bạn.
Tôi xấu hổ.
Và nực nữa. Mồ hôi ra, vừa vì xấu hổ, vừa vì nực.
Tôi lại đi.
Lại một đàn giang nữa đậu ở bờ sông. Tôi phải báo thù cho hai phát ban nãy.
Đoành?
Cũng một lượt, chúng nó bay mất.
Ba viên đạn làm tôi nhục nhã.
Mà viên đạn cuối cùng trong túi, nó cũng chẳng tử tế gì đâu Tôi ngồi nghỉ ở cạnh đường, đặt súng vào lòng, thở dài. Hỏng, không khéo phen này thì mất vợ!
Tôi đã tính đến nước chuồn thẳng. Song không trôi.
Còn cái nó cạnh tôi, tôi không đem nó đi theo được.
Người An Nam không có tự do mang khí giới, thật là hết sức tai hại. Đã chẳng chiếm nổi một tý thuộc địa nào thì chớ, lại còn những lúc này, không thể mang súng của người khác mà đi bài tẩu mã được.
Thôi thì tôi đành vác mặt mo về đồn điền để hàng ông Quýnh và từ biệt Mai. Số phận của nhân duyên tôi phó mặc trời, chứ biết nói thế nào cho xuôi được? Đạn mang đi bốn, nay còn có một. Chẳng lẽ nói mình đau bụng, nên thấy trong có thuốc, đã trót nuốt chửng mất ba viên.
Khốn nỗi, thuốc ấy lại là thuốc súng.
Bỗng một ý kiến nảy ra trong óc tôi. Người thông minh nhanh nhẹn, láu lỉnh trong lúc cùng, thường bật ra được những mưu kế phi thường, các bạn ạ. Tôi chợt nhớ ban nãy, qua chợ, có thấy bán rất nhiều giang sống. Âu là tôi chịu hy sinh mấy đồng bạc để bảo toàn lấy danh dự vậy.
Tôi hăm hở đi.
Đến chợ, tôi mặc cả giang và chọn bốn con to béo nhất. Được lắm. Bốn phát đạn mang đi thì đây, tôi đem về bốn con giang nặng trĩu. Thiện xạ, thế chứ còn thế nào! Tôi xách giang đến một gốc cây, treo ghì cẳng cả bốn con vào cành, thiết rõ chặt, rồi dí miệng súng vào tận nơi, ngắm cho phát đạn xuyên qua cả bốn bụng, rồi mới mắm môi mắm lợi, bóp cò. Bay nữa đi?
Phát súng nổ, bốn con giang trước không thể cựa quậy được, nay thêm nữa là chết ngoẻo.
Tôi cởi trói, xách riêng từng con, đi về, sĩ diện như ông tướng.
Thấy tôi đến cổng, ông Quýnh chạy ra đón như đón một chàng rể hiền. Mai cũng mừng rỡ khen tôi rối rít.
Tôi làm bộ mệt nhọc, vứt giang ra hè, và thở, ông Quýnh nhìn bốn con chim ủ rũ, gật gù nói:
- Thế thì cậu bắn lần này may lắm đấy.
Tôi sung sướng, trỏ một con:
- Thưa con này, con phải đuổi theo nó đến mười thửa ruộng. Nó động thấy con là bay mất.
Ông Quýnh cười:
- Giống giang tinh mắt lắm. Cho nên bắn nó rất khó.
Thật là cậu rất may. Tôi càng đắc chí, trỏ con khác và nói khoác đẫy.
- Con này khoẻ quá, bị đạn rồi mà còn cố bay. Một suýt nữa nó sang bên kia sông thì mất. May quá, mới đến chỗ cây đề thì nó kiệt lực, đụng vào cành, rơi xuống.
- Phải, tôi đã bảo cậu may lắm mà?
Mai nhìn cha, nói:
- Cũng phải biết bắn, chứ cứ may thế nào được.
Thấy người yêu bênh, tôi càng như cởi tấm lòng.
Theo đà nói khoác, tôi trỏ con thứ ba.
- Con này thì mải ăn, con dò đến tận sau mà không biết.
Cả mấy người cùng cười. Ông Quýnh nói:
- Tham ăn cho chết. Tôi không mấy khi được những dịp ấy. Vì giống giang rất tinh mắt cho nên tôi bảo cậu may là đúng lắm.
Thấy tiếng may, tôi liếc Mai. Mai cũng nhìn cha, có ý không bằng lòng. Như thế đủ cho tôi rồi. Được Mai đồng ý, tôi hả hê lắm. Cho nên còn con thứ tư, tôi nói kháy ông Quýnh:
- Con này thì thật không tinh mắt tí nào, vì con đứng ngay đằng trước mà bắn, lúc nó đang nuốt dở con cá.
Ông Quýnh gật gù:
- Tôi bảo cậu may là đúng lắm, vì mọi khi giống giang rất tinh mắt.
Mai thấy cha cố dìm nhân tài, bèn lườm và nũng nịu:
- Thầy lại cứ bảo thế!
Ông Quýnh ngọt ngào cười, nhìn con gái, nhìn tôi rồi ngồi xổm cạnh bốn con giang, ông cầm cả bốn cái cố giơ lên như để phân vua, và giảng:
- Thầy bảo cậu Quốc bắn được lũ giang này là may lắm, thầy nói chẳng ngoa, vì xưa nay giang rất tinh mắt. Đây con xem nếu cậu ấy không may, sao tình cờ lại gặp cả bốn con bị khâu mắt sẵn thế này mà bắn bao giờ.
Thôi chết rồi! Tôi giật mình đánh thót, cố dương to mắt để nhìn kỹ. Bỗng cá trong người tôi như bị cái gì nó bò khắp mạch máu. Thì ra bấy giờ tôi mới trông thấy mắt giang bị khâu bằng chì thâm thật!
Trời ơi! Túi tôi hết đạn, tôi tự tử bằng cái gì bây giờ.
Cây mít
Sau nhà ông Lũng có cái vườn rộng ngót nửa sào.
Giữa vườn có một cây mít to, lá rườm rà, bóng rợp cả khu. Từ gốc lên, bám vào thân cây, đến cành, chi chít nhưng quả lớn. Khách qua đường, ai không biết, nhìn cái cây sai quả, thì tấm tắc khen:
- Quí hoá chưa! Thật là hái ra bạc.
Nhưng sự thực, cây mít này đã gây bao tai hoạ cho gia đình ông Lững, và chứng kiến bao đau khổ của bố con ông.
Ngày xưa - nghĩa là sáu mươi năm về trước, còn đời ông nội ông Lũng, thì ông cụ vẫn trồng trọt hoa màu ở cái vườn này. Tuy đất hẹp, nhưng mùa nào thức ấy, thu hoạch quanh năm cũng có đồng ra đồng vào.
Một năm - năm ấy ông Lũng lên chín - ông cụ xin được của người họ ở làng Vòng một cây mít mật con.
Ông cụ gánh về, trồng ở giữa vườn, rào xung quanh cẩn thận, và bảo con cháu:
- Giống này sai và ngon. Tao chưa được ăn bao giờ.
Nghe nói quí lắm. Nhưng chắc gì tao đã sống đến ngày có quả Tao chỉ ước chết vào vụ hè, để chúng mày chúng tao toàn bằng mít.
Cây mít lớn dần.
Ông nội ông Lũng qua đời.
Bố ông đẻ thêm nhiều con.
Gia đình trở nên túng quẫn, thường ngày ba tháng tám, vẫn phải đi vay gạo hàng bữa.
Xóm ông có thằng địa chủ tên là Tồn. Hiện nay nó vẫn còn sống. Nó thích ăn mít. Nhà nó cũng có một cây, nhưng cây nhà nó quá không sai và chứng ngon. Nó đã lấy giống mít Vòng, nhưng trồng cây nào, chết cây ấy.
Nó chỉ ước ao có cây mít Vòng để ăn và lễ quan. Nhưng muốn có, thì phải mua. Mua thì phải mất tiền. Giống địa chủ có quen mua mất tiền cái gì bao giờ đâu. Giống ấy chỉ quen nhận đồ biếu. Nếu không ai biếu thì ăn hiếp hoặc ăn lừa. Nhưng khốn nỗi, ở Vòng không ai là tá điền của nó, mà cũng không ai nợ nần gì nó để nó kể ơn lấy không mít của người ta.
Một lần mẹ ông Lũng ốm. Bà thèm của ngọt. Trong nhà lại hết tiền. Bố ông nghe nói nhà thằng lý Tồn có mật, nên đến mượn tạm. Nó đưa hẳn một bát, lại cho vay thêm hai đấu gạo nếp. Nó bảo:
- Người ốm thèm ăn gì, cứ cho ăn cái ấy, tự khắc khỏi.
Sau khi mẹ ông khỏi bệnh, thằng Tồn đến đòi mật và gạo. Bố ông không có để trả. Nó không nói gì, ra vườn ngắm cây mít, mới cao độ một thước, nói:
- Có đúng giống mít Vòng không?
Bố ông đáp:
- Thưa đúng.
Nó đứng một lát rồi về.
Nửa tháng sau, nó lại đến đòi nợ. Bố ông lại không có để trả. Nó nói:
- Thế thì vợ chồng mày gán cho tao cây mít con này.
Mẹ ông thấy không thiệt thòi gì, lại được sạch nợ, thì cho là một sự may mắn, nên bảo chồng:
- Phải đấy, cứ gán cho ông lý. Đến kỳ cúng ông thì xin ông ấy một quả. Chứ nhà ta ai thiết ăn.
Thằng Tồn bắt bố ông làm giấy nhường đứt cho nó cây mít.
Vườn nhà. Nhưng cây của người.
Cái năm cây mít bói quả đầu tiên, bố ông đến nói với nó, xin để cúng ông cụ. Nó ngọt ngào đáp:
- Thế là đúng. Người trồng cây phải được ăn quả trước người thác. Được, mày cứ lấy. Nhưng đừng bổ. Cúng xong lại mang trả tao.
Đến mùa rau, mẹ ông nhìn cây cải cứ bé cằn đi, nghĩ mãi mới tìm ra lý do:
- Tại cây mít che mất nắng, nên rau không lớn được. Phân gio tưới tắm là thế chứ còn thế nào nữa.
Bố ông thở dài:
- Rồi cây mít còn to, bóng rợp còn rộng. Rễ nó lại ăn hết mầu đất. Không biết rồi vườn này trồng gì.
Năm sau, theo lệ năm trước, bố ông không nói với thằng Tồn, trảy một quả mít chín, định để cúng ông cụ.
Thằng Tồn - khi ấy đã làm phó tổng - giận cái thói nông dân tự do chiếm đoạt tài sản của địa chủ, nên phải làm cho bố ông biết tay nó.
Tay nó cầm cái ba-toong, hầm hầm đến nhà. Nó không đánh bố ông. Nhưng quật vào bài vị của ông nội ông, và chửi thằng ăn trộm mít. Nó hất cả mâm cơm cúng xuống đất.
Thấy bố ông nói bướng, nó trói vào gốc mít, bắt quỳ hai đầu gối vào hai nửa quả mít mới bổ đôi. Rồi nó đánh và giao hẹn:
- Từ nay, ông giao cho vợ chồng mày phải trông cây mít. Mất quả nào, ông chẻ xác vợ chồng mày ra. Cho chừa thói ăn cắp?
Bố mẹ ông cực quá, nhưng không biết làm thế nào được. Cây lớn dần. Cà vườn bị cớm nắng. Cỏ cũng không mọc được huống chi là hoa mầu.
Mẹ ông bàn:
- Hay là bán quách vườn đi.
Nhưng không ai mua. Vườn ấy không thể trồng trọt. Và không ai dại mà làm người canh mít công không cho địa chủ gian ác, mất quả nào, chết với nó quả ấy.
Mẹ ông kiếm ăn mỗi năm một vất vả thêm. Thiếu đất để trồng hoa mầu, gia đình bớt hẳn một mối lợi.
Rồi sực nghĩ ra, bà bàn:
- Hay là ta bán vườn cho cụ chánh? (thằng Tồn đã làm chánh tổng).
Bố ông đến nói với nó:
- Ngày xưa cái năm u cháu ốm, cụ có giúp một bát mật với hai đấu gạo. Con gán hầu cụ cây mít. Ngày ấy cây còn nhỏ, không nói làm gì. Nhưng hai mươi năm nay, cây ấy sai quả, mùa nào cụ cũng hưởng. Đó là quyền của cụ. Con không dám nói đi nói lại. Nhưng có một điều con phải nghĩ ngợi nhiều, là cây của cụ, nhưng nó lại mọc trên vườn nhà con. Cho nên, con muốn nhường đứt hầu cụ cái vườn. Kẻo con vẫn mang tiếng là có cây mà không được ăn quả.
Thằng Tồn bỏ dọc tảu xuống, ngồi nhỏm dậy, đáp:
- Anh nói cũng có lý, nhưng anh có để phần có lý cho tôi nữa hay không. Anh làm như ở đời này chỉ có mỗi một mình anh là khôn thôi ấy!
Rồi nói thêm:
- Anh xem, gần tất cả cây ăn quả ở xóm này là của tôi mua hết. Cũng như cây mít của anh. Nhưng có ai kêu ca phàn nàn gì đâu? Có ai đến nói nhường vườn cho tôi không? Ai cũng trông nom cho tôi rất cẩn thận, không cây nào suy suyển quả nào. Hơn hai mươi năm nay, tôi ăn mít Vòng đã quen rồi. Thôi anh về đi, nói lắm, rác tai tôi.
Nói đoạn, nó sai người đuối bố ông Lũng ra cổng.
Năm năm sau, bố mẹ ông qua đời.
Ông Lũng cũng đẻ nhiều con. Gia đình càng đâm ra túng thiếu. Ông đã phải bán đến thửa ruộng cuối cùng cho thằng Tồn. Nhưng cái vườn sau nhà thì cho cũng không ai muốn lấy.
Bà Lũng bực mình lắm. Mỗr năm mùa mít đến, bà nhìn những quả xanh nhu nhú như cái nắm tay ở thân cây bà tính lấy gậy nhọn chọc cho thối mẹ tất cả đi cho đỡ ngứa mắt. Nhưng bà không dám. Tuy thằng Tồn đã từ chánh tổng nhưng con cả nó làm lý trưởng uy quyền không kém bố ngày trước. Thằng này cũng có cái thói cho vay để chiếm cây ăn quả của vườn người ta.
Ông Lũng thì coi cây mít như một vật thù. Chính nó làm cho hai đời trong gia đình ông, vì túng bấn, là vợ chồng, bố con lục đục, cãi cọ nhau luôn. Mùi quả chín thơm ngào ngạt luôn luôn nhắc ông đến những nỗi uất ức. Nhất là khi thấy đứa con nhỏ tập nói “cây mít của nhà ta”, thì ông càng căm hờn. Ông nội ông, bố mẹ ông, nay đến vợ chồng ông, có cây mít ở vườn đấy, nhưng đã ai được biết mùi mẽo nó như thế nào đâu.
Một hôm, nghe con ông khóc, đòi ăn mít, ông không thể nhịn được. Ông cầm con dao dựa, chém vào thân cây hai nhát thật mạnh.
Việc đến tai thằng Tồn. Lập tức, nó phăm phăm đến.
Nó chửi ông là làm phản. Nó sai đầy tớ đóng bốn cái cọc ở cạnh gốc mít, buộc bốn chân tay ông vào, rồi cắm cây chuối vào lỗ đít, và đánh. Ông như con ếch bị căng, giẫy giụa. Một lát, máu đít vọt ra.
Bà Lũng ở đồng về, tay xách giỏ ốc. Thấy chồng bị đòn, bà vội vàng chạy đến. Thằng Tồn giật lấy, quăng ra ngoài hàng rào, rồi đá bà một cái ngã sóng soài. ốc rơi tung toé.
Thằng bé con bò lổm ngổm theo cái giỏ, vừa nhìn qua kẽ rào, vừa khóc. Nó đói, mong mẹ về để có ốc ăn. Sau trận đòn, mình mẩy ông Lũng sưng vù, bốn năm hôm mới khỏi.
Dạo tháng năm năm ngoái, một đêm, mưa to gió lớn.
Cái cành mít to nhất bị gậy, rơi thẳng xuống nóc nhà.
Nhà vốn yếu, nên đổ. Cái cột đè lên đùi bà Lũng. Bà chữa mãi không khỏi. Hiện nay, đi đâu bà cũng phải chống nạng.
Cho tới năm nay, vừa đúng bốn mươi mốt năm, thì đội phát động về. Ông Lũng lấy lại được cây mít. Các cây trong làng cũng được giải phóng thoát tay địa chủ về với gia đinh nông dân.
Lại đúng vào vụ mít chín. Ông Lũng bổ một quả to nhất làm tư, bóc ra múi, đặt lên bàn thờ, rơm rớm nước mắt, khấn ông bà cha mẹ. Rồi vợ chồng con cái xúm lại ăn. Không ai nói với ai câu nào. Hmh như họ sướng quá. Không phải sướng vì được hưởng cái vị thơm ngọt của giống mít Vòng, nhưng sướng vì đã giành được cái quyền ăn quả của cây nhà trồng đã ba đời nay.
Nhưng ông Lũng ăn có ba miếng. Ông đứng phắt dậy, lấy cái đĩa, xếp vào đó độ hai chục mùi to nhất, và nói:
- Để đến tối, họp xong, tao đánh lừa anh cán bộ về nhà, để mời anh ấy ăn vói tao, thì tao mới thật thấy ngon, thấy sướng.
1955
Chiếc đèn pin
Lần sau, có việc lên tỉnh, ông huyện Văn Giang vẫn vào trọ nhà Giốc như thường. Thế là bác thông phiên đã đoán sải. Bác tưởng hôm nọ xảy ra, nó động tới chỗ liêm sỉ của ông huyện, bác sẽ mất đứt mồi.
Mà rồi biết đâu, ông ta lại chẳng cổ động các quan khách đến trọ cả nhà khác, thì thật là hoạ vô đơn chí.
Nhưng mà không. Ông huyện vẫn vui vẻ sai bảo bác, như quên khuấy chuyên hôm nọ, đến nỗi bác nghĩ rằng hay là đêm ấy bác đã chiêm bao mê hoảng mà thôi.
Song, quyết là sự thực. Ngay hôm sau, khi ông huyện đã về, bác Giốc nhiếc móc cô Khuê, đến nỗi cô ứa nước mắt nức nở nói:
- Thầy mà cứ đổ cho con phải lòng cái nhà ông dê già ấy rồi con tự tử cho mà xem! Con ngờ đâu ông ấy phải gió thế.
Bác Giốc quắc mắt, hỏi:
- Sao thấy ông ấy vào, mày không hô hoán lên?
- Thì con có trông rõ đâu. Mãi đến lúc thầy đánh diêm soi, con thấy sáng, bừng mắt ra nhìn, con hoảng, mới kêu rú lên.
Nghĩ ngợi một lát, bác Giốc nói:
- Lần sau, tao chắc ông ta không còn mặt mũi nào vào trọ đây nữa. Nhưng hễ mày đi phố có gặp, mày nên tránh xa ra.
- Ngộ ông ấy cứ đến đây thì làm thế nào?
Bác Giốc hút xong điếu sái ba, ngồi nhổm dậy, tu một hụm nước rất nóng, đáp:
- Thì mày về nhà cô Lý mà ở. Ông ấy có hỏi, tao bảo mày đi đòi nợ.
Khuê trầm ngâm, thở dài, nói:
- Thật tự nhiên tốn tiền hành lý đi tránh nạn. Ít ra cũng mất ngót đồng bạc. Sao thầy không đề con ở nhờ nhà ai trên tỉnh này có được không?
- Ai người ta nuôi báo cô mày. Vả lại rồi người ta hỏi, tao sợ tai tiếng. Được, mày cứ nghe tao, về Rồng chơi với cô Lý mày dăm ba hôm.
Khuê nguây nguẩy:
- Về Rồng đi xa ốm lên ấy. Từ ga Gia Lâm kéo bộ theo đường đê thì nắng chết người! Mà làng Rồng cũng về huyện Văn Giang của ông ấy.
Bác thông phiên cau mặt.
- Nhưng trong khi ông ấy lên đây, mày đi Văn Giang mày còn sợ gì. Vả lại ông ấy là phụ mẫu dân Văn Giang đời nào ông thèm trêu ghẹo mày ở hạt ông cai trị.
Bàn bạc với con như thế, bác Giốc yên trí giấu được Khuê vào chỗ kín đáo xa xôi.
Ngờ đâu ông huyện Văn Giang thấy Khuê cắp nón và gói áo, lại biết rằng cô ra ga, thì ông vờ vịt hỏi bác Giốc:
- Con bé nó ra ga vào giờ này à?
Tưởng có nói thực cũng không hại gì, bác thông phiên đáp:
- Bẩm quan lớn, cháu nó về Rồng, chơi với cô Lý cháu.
Ông huyện mừng thầm, hỏi:
- Rồng nào? Rồng Văn Giang ấy à?
- Bẩm phải ạ.
- À thế ra nhà mày cũng có họ với người ở Rồng đấy?
- Bẩm cô cháu lấy chồng ở Rồng. Chú cháu trước kia làm lý trưởng.
Ông huyện nghĩ một lát, rồi hỏi:
- Lý trưởng nào thế nhỉ?
- Bẩm Lý Trung ấy ạ.
Ông huyện vừa gật gù vừa há to mồm ra mà:
- À, Lý Trung là em rể mày đó. Bây giờ tao mới biết. Ừ thằng ấy tao coi bộ cũng thực thà.
Nói đoạn, ông uống vội vàng chén nước rồi đi, sai lính xếp cả bàn đèn vào va-ly. Anh lính ngơ ngác không hiểu ý quan ra làm sao. Vì theo lệ thường, ngài rất lề mề. Trước khi vào hầu cụ thượng, dù súng lục kề mang tai, ngài cũng hãy làm một hai chục điếu cái đã.
Lần này thì chẳng có súng lục kề mang tai, mà ông huyện cũng hết sức lật đật! Ông vào dinh, thu xếp công việc cho chóng xong, định về Văn Giang nội nhật hôm nay, để đến tối, vào làng Rồng. Chỉ có sắc đẹp mới khiến nổi ông nhịn cơm trắng, cơm đen, đầy đoạ cái thân già như thế.
Chiều hôm ấy, về tới nhà, một mặt ông huyện bảo Cai việc cho người đến Rồng thăm xem nhà Lý Trung có phải mới có cháu gái đến thực hay không, một mặt ông sai làm mâm cơm, và tiêm chong chóng hút cho đủ bữa thuốc. Ông gắt gỏng với ông Đề và ông Bộ-ba vào trình việc án mạng lúc trưa ở làng Phụng Công. Ông bực mình những việc quan trọng ấy đến làm rối beng cả óc, không cho ông được thong thả để nghĩ ngợi đến cuộc gặp gỡ dịu dàng sắp sửa này.
Rồi xẩm tối, anh lính phụ khoẻ nhất đã đội khăn, mặc áo the dài chỉnh tề, kéo xe ông về làng Rồng.
Chiếc xe nhà lăn đôi bánh gỗ trên con đường gập ghềnh, ông huyện tuy đau đớn mệt nhọc, nhưng vẫn bắt chạy hết sức. Tay ông cầm chiếc đèn bấm năm pin, thỉnh thoảng lại bật sáng lên, để soi lối cho xe đỡ sa xuống ruộng. Hôm ấy là cuối tháng, trăng sao không có cả một cánh đồng như nhuộm mực.
Về đến Rồng, tuy ông ê ẩm cả lưng lẫn hai vế đùi, song ông thấy nhẹ nhõm ngay. Ông đi rõ nhanh, gọi cổng vào nhà lý trưởng đương thứ.
Ông nói thực với thuộc hạ mục đích của ông, và hỏi:
- Vậy thầy có kế gì giúp tôi không?
Lý trưởng gãi tai đáp:
- Lạy quan lớn, quan lớn thương đến, chắc cô ấy phải bằng lòng ngay. Vả lại cô ấy về đâu, chứ lại về hạt này, thì lọt làm sao được tay quan lớn. Mà con tưởng cô ấy định hầu hạ quan lớn, nên mới lập tâm đến chơi bà Lý Trung.
Ông huyện vui vẻ, vỗ vai lý trưởng, vừa cười, và nói:
- Ừ phải, thầy nghĩ đúng đấy. Thế bây giờ ta nên làm thế nào?
- Bẩm để lát nữa, con bảo nhà con chạy đến nhà Lý Trung, bảo cô ấy sang chơi.
Ông huyện lắc đầu, xua tay:
- Nó không đi đâu.
- Bẩm có, nhà con ghé vào tai cô ta, bảo thực rằng sang quan lớn đòi.
Ông huyện gật đầu, nhấp chén nước chè tầu, rồi giục:
- Thầy bảo cô ấy nhà thầy đi ngay cho tôi.
Cái tin quan về làng, tự nhiên đồn ầm từ nhà nọ sang nhà kia. Người ta biết rằng quan, vì nhận được cái xe nhà gỗ sơn đen để ngay ở ngõ ông Lý.
Cả làng lo lắng chẳng hay có việc gì chẳng lành, mà đang đêm hôm, quan về một cách bất thình lình như thế.
Duy cô Khuê hiểu. Cô kể sự tình với bà Lý Trung, và hỏi xem nên trốn tránh chỗ nào cho thoát.
Bà Lý Trung bàn bạc với chồng, rồi nhất định dắt cô sang nhà người anh rể họ ở làng bên cạnh.
May sao, hai cô cháu vừa bước chân ra khỏi nhà độ mươi phút, thì ở ngoài cổng có tiếng bà lý đương nheo nhéo gọi.
Song bà thấy thất vọng ngay, vì thấy nói hai cô cháu mới ra Hà Nội lúc chập tối.
Ông huyện được tin, như bị sét đánh. Ông há mồm mãi mới dấp dính nói được:
- Thế cô có vào trong nhà xem xét kỹ càng hay không?
- Bẩm không?
Ông huyện giơ cả hai tay lên trời, mắng:
- Đồ ngu? Thầy lý đưa tôi đi vậy. Tôi đã biết rằng vợ thầy không được việc gì đâu mà.
Lý trưởng sợ tái mét mặt, vội vàng thắp chiếc đèn bão và cắp tráp điếu, theo quan đi.
Đến nhà Lý Trung, ông huyện gọi người mở cổng.
Ông không nói rõ là khám xét gì, cứ xồng xộc sấn vào, bấm đèn lên nhà trên, xuống dưới bếp, ra cả chuồng trâu, chuồng lợn. Sau khi sục sạo một hồi vô ích, ông đứng giữa sân ngẩn ngơ thở dài. Lý Trung mời khan mời vã, sao ông cũng không ngồi nghỉ. Rồi chẳng nói chẳng rằng, một mình lại xăm xăm đi sang hai bên hàng xóm. Không biết nghĩ thế nào, ông không cho ai đi theo hầu, ông chắc Khuê đã nhanh chân, chui sang ẩn nấp ở đó.
Nhưng sự tìm tòi cố nhiên không có kết quả, gia dĩ ông lại bị thiệt hại: ông vấp vào cái chốt cổng suýt ngã, cái đèn bấm rơi bắn ra xa, tìm hết hơi cũng không thấy.
Ông phát cáu, gọi váng lý trưởng bảo đi về, và cùng đường, ông hết lẩm bẩm đến gắt gỏng:
- Thầy không được việc gì cả.
Lý trưởng sợ hãi, gãi tai nói:
- Lạy quan lớn, tha tội cho con. Bẩm bây giờ xin quan lớn cứ nghỉ ở nhà, con sai tuần đi tróc, thế nào cũng thấy cô ta.
Một người thất vọng đến đâu cũng không bao giờ dám tuyệt vọng, cho nên ông huyện bấu ngay vào cái chút hy vọng ấy, tuy biết nó chẳng vững vàng gì.
Ông nằm khan trên sập nhà lý trưởng, tay vắt lên trán, thỉnh thoảng lại thở dài. Ông tiếc cả cái đèn pin nữa. Thực là thiệt đơn thiệt kép.
Mỗi tên tuần vác gậy về không lại làm ông chán nản một tý. Rồi đến người cuối cùng thì sự tuyệt vọng của ông đến chỗ hoàn toàn.
Lúc ấy đã đầu trống ba. Ông bỗng vùng ngồi dậy, bới lại tóc, cắp khăn vào nách, xỏ chân vào giầy, gọi lý trưởng.
- Bảo nó kéo xe cho tôi về huyện.
Lý trưởng sợ sệt nói:
- Bẩm đêm đã khuya, mời quan lớn nghỉ lại, nhà chúng con cung sạch sẽ.
- Thôi, thầy cắt hai tên tuần lực lưỡng cho chúng nó đi hầu tôi.
Nói đoạn, ông huyện như người điên, đùng đùng đi một mình ra cổng chẳng chờ ai cả. Lý trưởng hộc tốc chạy gọi tuần, và sai người sắp sửa đèn đuốc. Chăng mấy chốc, giữa hai ngọn lửa sáng, chiếc xe đen đã ì ạch nghiến bánh lên trên con đường đất gồ ghề.
Sáng hôm nay, lý trưởng làng Rồng đang ngủ ngon giấc, thì có người đánh thức dậy, ký nhận tờ sức của quan huyện.
Văn Giang, ngày 25 tháng 2 năm 192...
Le Tri huyện sức Lý trưởng xã... tuân cứ.
Tối hôm qua, bản chức đi tuần lại xã thầy và có mang theo chiếc đèn bấm năm pin, mọi nhẽ.
Vậy không biết tên nào cầm đèn ấy, chưa nộp lại bản chức, nay sức thầy phải tìm cho ra và đệ tại bản nha trước ngày 2 tháng 3. Nhược bằng đứa gian giảo có ý chiếm đoạt, thì sẽ phải tội nặng.
Nay sức
Le Tri huyện
(ký tên và đóng kiềm)
Đánh vần xong, lý trưởng cậy cục dử mắt, bôi vào cột, thừ người ra nghĩ, mặt tái dần.
(Mars -1938)
Lại chuyện con mèo
Vừa bước chân tới cổng sở, tôi đã thấy chiếc xe Pho ấy đứng trước thềm nhà, và tiếng chủ tôi nói oang oang trên gác.
Bốn năm nay, làm ở đây, tôi chưa hề thấy có việc khác thường như lần này. Tôi bình tĩnh sao được. Chủ tôi vốn là dân làng bẹp, dân làng bẹp hạng nặng, nên ngày thường sớm lắm là tám giờ ông mời tỉnh giấc. Mà sau khi rửa mặt, mặc quần áo, điểm tâm (bằng nước cà phê sữa) và điểm phổi (bằng khói thuốc phiện) thì ít ra đến chín giờ ông mới xuống làm việc được. Vậy mà chẳng hay hôm nay đã xảy ra việc gì phi thường, đến nỗi ông bỏ cả lệ.
Tôi vội vàng rảo bước vào buồng giấy để chờ sẵn. Vì chắc rằng trước khi đi vắng, ông chủ cần dặn dò tôi điều nọ điều kia, hoặc giao công việc cho tôi.
Nhưng chờ mãi, tôi vẫn không thấy gì. Tôi đến bàn chủ xem có dây thép hoặc thư từ gì khẩn cấp không.
Cũng chẳng có gì đáng chú ý. Tôi ngạc nhiên hết sức.
Ngoài sân, vẫn vọng ra tiếng chủ nói và tiếng chân người chạy ở tầng trên.
Tôi mở cửa gọi loong-toong. Nhưng không ai trả lời.
Bỗng người bồi chạy vụt qua. Tôi vội vàng hỏi:
- Việc gì thế?
Người ấy không dừng lại, chỉ cau mặt để đáp bằng hai tiếng vùng vằng, cộc lốc:
- Ô! Thôi!
Tôi nhận thấy trên má anh có hằn năm vết đỏ, nên tôi chột dạ, càng cố tìm cho hiểu việc gì.
Mà tiếng gót chân dồn dập nện ở cầu thang mới làm tôi kinh hãi làm sao.
Thì may quá, thấy người sốp-phơ léo nhéo ở ngoài hiên, tôi vội vàng mở cửa sổ ra:
- Việc gì thế, bác?
- Đi nhà thương. Đương gắt như mắm đấy!
Trả lời một cách oán hờn, anh ta lại vội chạy ngay xuống bếp.
Đi nhà thương? Trong nhà đã xảy ra tai biến gì?
Hay thằng Jean, thằng con trai yêu quí của chủ tôi đã làm sao? Có thể thế lắm. Thằng bé này, chắc vì vú nó lơ đễnh, đã để nó ngã gác. Hay nó bị cảm phong?
Nhưng sao chủ tôi không gọi dây nói mời bác-sĩ đến cấp cứu? Tôi thương hại thằng bé, nếu nó đã gặp nạn. Nó là một đứa ngoan ngoãn, lễ phép. Vừa mới chiều qua, khi thấy tôi hết công việc, nó sán đến cạnh tôi, đặt hai cánh tay mũm mĩm lên bàn và kiễng chân, há miệng, để ngó lên chỗ tôi làm việc. Ai mà không yêu nó được.
Tôi bế nó, đặt trên đùi. Nó hỏi tôi bằng những câu rất ngây thơ, khiến chủ tôi phải cười đau bụng.
Tôi vừa tính lên gác để thăm nó, nhân tiện xem có thể giúp ích cho chủ việc gì chăng. Thì bất đồ, tôi thấy chính thằng Jean đương níu tay, co vú nó ra sân sau.
Nó vẫn hồng hào, ngoan ngoãn, và nhất là vẫn lành lặn như thường.
Tôi vẫy tay, gọi vú:
- Chị Hai!
Và hất hàm, tôi trỏ tay lên gác để làm hiệu hỏi.
Chị Hai mỉm cười, gật đầu, đáp lại tôi bằng một tiếng:
- Đẻ!
Tôi cau mặt để nghĩ. Quái! Ai đẻ? Tôi lại hỏi:
- Ai?
Nhưng chị Hai muốn chừng không nghe rõ, nên đáp:
- Đi nhà thương.
Rồi chị bị thằng Jean co đi xa, khiến tôi nghĩ vấn nghĩ vơ một mình, mà càng không hiểu việc gì cả.
Đẻ? Ai đẻ? Hay bà chủ? Không có lý. Bà ấy mới có mang được bốn tháng. Chủ tôi nói chuyện với tôi thế.
Vậy lẽ nào bà ấy đã đẻ sớm thế được. Hay là đẻ non?
Nếu vậy, thật là một tai biến cho chủ tôi. Chủ tôi đã tát anh bồi. Phải chăng vì lo cho vợ mà ông đã loạn trí?
Tôi làm ở đây bốn năm. Chủ yêu tôi. Tôi mến chú. Sao tôi thấy cái tin dữ dội này mà thờ ơ cho được? Vả bà chủ là một người phúc hậu, thực thà. Tuy bà là vợ một người Pháp sống ở bên thuộc địa, người Pháp ấy lại là nhà doanh nghiệp khá to, vậy mà bà vẫn làm những công việc như vợ một người thường. Chính mắt tôi hàng ngày đã thấy bà vào bếp làm đồ ăn. Và khi rồi, bày vò cả quần áo giúp bồi. Bà đối với kẻ ăn người làm rất ngọt ngào, rộng rãi, đến nỗi chưa bao giờ tôi thấy ai oán thán một câu nàn.
Tiếng chủ tôi vẫn một giong gắt gỏng ở trên gác.
Tôi đứng đắn đo, xem rằng lên hỏi thăm bây giờ có phải phép hay không. Vả cũng nên biết đích sự thực đã. Thì may thay, người loong-toong đã ở đâu về. Anh ta xuống xe ở cổng trả tiền vội vã và tay ôm cái chai và gói gì to, tất tả rảo cẳng vào nhà.
Nghe tôi hỏi, anh ta chí đủ thì giờ trả lời bằng ba tiếng, đã vội biến mất:
- Bông, băng, cồn.
Đích là những thứ cần cho sự đẻ. Tôi phải đi đi lại lại trong phòng, châm thuốc hút để nghĩ xem nên xử trí thế nào Từ lúc ấy, tiếng chân chạy trên gác càng vội vàng tấp nập.
Nhưng bỗng tôi ngạc nhiên hết sức. Và do đó, tôi lại yên tâm. Là vì tôi vừa nghe tiếng dịu dàng của bà chủ tôi gọi thằng Jean:
- Jean! Lên hôn Ba! Ba sắp đi đấy.
Ô hay! Ba thằng Jean sắp đi? Chủ tôi sắp đi? Đi đâu? Không có lẽ ông lại đi nhà thương để đẻ.
Tôi mong loong-toong xuống để hỏi.
Tôi nhẩm lại xem trong nhà nay còn ai có thể đẻ được nữa không? Không. Trăm câu hỏi vẩn vơ quấy lộn trong óc tôi. Và sau hết, tôi quyết rằng bọn bồi, bếp, sốp phơ, vú em, loong-toong không hiểu việc gì hết. Họ nói liều cả.
Nhưng bỗng không, sao từ nãy, trong nhà như có biến động? Hay chính chủ tôi đã gặp hoạn nạn gì chăng? Xưa nay ông điềm đạm, sao bây giờ ông to tiếng, cáu kỉnh làm vậy?
- Bác Năm đâu. - ông ấy hỏi - Có phải mua thêm xăng không đấy?
- Đủ cả rồi.
Thấy tiếng xôn xao ở chân thang, tôi vội ngó cố ra, thì những người ấy đã đâu cả.
- Gớm, đi tránh ra, người ta đã vội mê thần đồng lên, lại còn án hướng. Ông ấy lại bạt tai cho cái nữa bây giờ.
- Gắt cái con khỉ, ai không vội?
Tôi lại mở cửa, thì cũng chẳng thấy còn ai.
Trên đệm ô-tô, người ta đã đặt những gói nho nhỏ
Tôi bèn chờ ở cửa sổ, để đợi người mà hỏi.
Anh bồi ôm lễ mễ cái chai còn gắn xi nguyên, một cái hộp nhỏ từ trên gác xuống, rồi để trong xe. Tôi vẫy tay, toan hỏi. Bỗng bị chủ gọi giật, anh ta phải thưa:
- Me-xừ!
Rồi tất tả chạy lên.
Một lát, anh sốp-phơ hất tấp vặn kính cửa xe cho kín, rồi lấy tay trỏ để đếm đồ đạc. Anh ngồi sẵn, cầm tay lái để chờ. Lúc ấy, người loong-toong cũng đứng ở bậc thềm. Tôi hỏi:
- Bác đi đâu về thế?
- Tôi mua bông, băng, cồn. Nhà có sắm đủ cả, nhưng ông chủ bảo bông cũ, xấu, phải mua thứ mới. Ông ấy có hiếu quá?
Nói đoạn, anh lắc đầu, mỉm cười với sốp-phơ, rồi tránh rạp sang một bên, khiến tôi muốn hỏi, lại không dám hỏi nữa. Tôi biết là có cái gì đáng kính trọng sẽ qua trước mặt anh.
Cái đáng kính trọng ấy, hẳn là ông chú, hoặc bà chủ tôi.
Tôi đoán không sai: Bà chủ tôi tất tả ra xe, ngó vào trong, soát lại các đồ đạc, rồi nhìn lên gác, gọi chồng.
Bà đứng đợi, một tay giữ lấy cửa xe mở rộng.
Tôi tính ra sân hỏi. Nhưng khi thấy trên mặt bà có vẻ băn khoăn, nên tôi lại trù trừ.
Rồi tiếng giày chậm rãi xuống thang gác và ở sân, mọi người quay cả lại phía cửa.
Tiếng giày ấy là tiếng giày ông chủ tôi, tôi nghe đã quen tai. Hắn là không cần hỏi han ai, nửa phút nữa, tôi có thể biết cái việc quan trọng đã xảy ra trong gia đình này.
Chủ tôi tóc chưa chải, cavát buộc dối dá, ở trong nhà, xuống thềm. Ông đi thong thả, nhìn từng bước.
Mặt ông rất buồn bã, đau thương. Vừa đi, ông vừa nói những tiếng dỗ dành. Hai cánh tay ông khoanh lại trước ngực, vì ông phải nưng niu một vật nặng.
Ông gượng nhẹ, ngồi vào đệm xe, mặc cho bà vội đóng cửa lại.
Xe từ từ chạy. Mọi người nhìn theo, và bởi vì đã làm xong việc quan trọng, nên cùng nở một nụ cười.
Tôi cũng thấy được nhẹ bỗng, vì vừa tìm ra câu trả lời rất giản dị của bài tính đố tưởng rất khó tin.
Thì ra sở dĩ từ sáng đến giờ chủ tôi phải trăm đường vất vả, sinh ra ác nghiệt, cả nhà chạy loạn xạ, bối rối như có cuộc lở đất long trời, là vì con mèo Mi-mi sắp đẻ, nên chủ tôi phải sửa soạn để đem nó vào sở Thú y.
8-1939
Hé! Hé! Hé!
- Này xe, cái con mẹ thắt lưng tím đang đi trước hiệu Phúc An kia, có phải là vợ nhà Chánh tổng Đồng Quân không nhỉ?
- Bẩm cụ lớn phải ạ.
Cụ lớn - bởi vì người đàn bà này được diễm phúc hơn người khác ở chỗ có chồng làm quan đến chức tuần phủ. Cụ lớn nghĩ một lát, rồi hỏi:
- Tên con mẹ là Chánh gì hở?
Anh xe vừa bấm chuông, vừa đáp:
- Bẩm, chánh Tiền ạ.
Cụ lớn mỉm cười:
- Tên nó thế không trách nó giầu. Nhưng nó ăn mặc thế kia, đố ai biết nó có hàng vạn. Đến gần nó, mày đỗ cho tao xuống nhé.
- Dạ.
Lúc ấy bà chánh Tiền đương đi vội vàng trên hè. Bà không để ý đến đường phố, bởi vì ở nhà quê ra tỉnh, bà định sắm ít xẻng cuốc, cùng vài thứ lặt vặt, nên đi đi lại lại ở phố Khách đến mười lượt, để khảo giá các hiệu bán đồ sắt.
Bà mặc áo vải nâu dài không gài khuy, và quần sồi thâm ngắn cũn cỡn. Cánh tay bà khoác cái nón đã tầu tầu Tất cả bộ cánh của bà chỉ hơn người nhà quê thường có cái thắt lưng tím.
Bà đương nhìn vào hiệu Phúc An, bỗng tiếng cười khanh khách giòn tan ngay bên cạnh tai, làm bà giật nẩy mình:
- Hé? Hé! Hé! Bà chị lên tỉnh từ bao giờ thế?
Cụ lớn Tuần nắm lấy cổ tay bà Chánh, và vồn vã hỏi thế. Thì không ngờ bà này, được hân hạnh bất thần, sung sướng quá, đến nỗi rú lên một tiếng “ối”, và cảm động suýt rơi nước mắt. Bà ta vội vàng chắp hai tay để vái lùi lại một bước, cung kính chào:
- Lạy cụ lớn ạ.
Cụ lớn nhăn mặt, xua tay:
- Không, không cụ lớn cụ bé gì, chị em mình bạn gái, ai hơn tuổi là chị, ai kém tuổi là em. Có các ông ấy làm việc với nhau thì muốn gọi nhau là gì thì gọi.
- Dạ, lạy cụ lớn.
- Ồ đừng cụ lớn cụ bé gì mà? Hé? Hé? Hé!
- Lạy cụ lớn cho phép con gọi thế ạ.
- Gớm, các bà chị đến khó bảo. Thế nào, bà chị lên tỉnh từ bao giờ, sao không vào trong dinh chơi?
- Lạy cụ lớn tha tội cho, chúng con ăn mặc sồ sề, sợ vào thì làm bận mắt cụ lớn.
Cụ lớn cười xoà:
- Ồ bà chị cứ dạy thế. Tôi trách đấy!
- Lạy cụ lớn, cụ lớn là chỗ cha mẹ, cụ lớn tha tội cho con cháu.
- Thế thì bây giờ vào chơi vậy.
- Lạy cụ lớn, dạ.
- Vào ăn cơm với tôi cho vui nhé.
- Lạy cụ lớn, chúng con đã vô phép cụ lớn rồi ạ. Nhà quê chúng con hay ăn cơm sớm.
- Thì vào chơi nói chuyện vậy. Ông Tuần tôi đổi về đây, tôi đến thăm các bà chị một lượt, thế mà các bà chị lên tỉnh, không bà nào vào chơi với tôi. Tôi giận lắm đấy.
- Lạy cụ lớn, chỗ chúng con là con cháu, chỉ sợ ăn nói thất thố, nên không dám vào đó mà thôi.
Thì tôi đã bảo chỗ chỉ em mình là bạn gái với nhau, ta cần gì. Các bà chị đong bán, tôi cũng đong bán. Các bà chị làm ruộng, tôi cũng làm ruộng. Thật đấy, ở nhà, tôi cũng vần giặt giũ, quét tước, chứ có xềm xệp ngồi không như các bà quan khác đâu. Hé! Hé? Hé!
- Dạ.
- Vào chơi trong dinh nhé.
- Dạ, chúng con xin theo hầu cụ lớn.
- Ừ lên xe tôi mà đi.
Nói đoạn, cụ lớn gọi chiếc xe hàng, để nhường bà Chánh Tiền ngồi xe nhà.
Cử chỉ không ngờ này lại khiến bà Chánh cảm động.
Lần này, bà ứa nước mắt thật. Bà ngượng nghịu, run sợ thế nào ấy. Nhìn chiếc xe sơn giả đồi mồi, gọng kền sáng loáng, vải đệm trắng tinh, bỗng bà ghê cả người.
Bà tưởng như mình không xứng đáng được dùng những thứ sang trọng quá quắt như vậy. Và khi đặt tấm thân cục mịch lên trên chiếc đệm êm ái do cụ lớn nhường cho, bà khoan khoái nghĩ bụng không biết mấy mươi kiếp trước tu đã dầy dặn thế nào, nên kiếp này mới được đền bù bằng một phút hạnh phúc này vậy.
Bà ngồi mớm trên xe, bà vẫn còn rùng mình. Bà ngẫm đến lời ngọt ngào, tử tế của cụ lớn mà nở nang cả mày mặt. Sao lại có bà quan dễ dãi, phúc hậu như bà Phật này. Một đời người, dù khổ sở thế nào, mà được cụ lớn ban chuyện cho một lát, một lát thôi, thì còn ai muốn chết nữa. Vợ một quan Tuần phủ, vợ một cụ lớn đầu tỉnh, mà đối đãi với vợ một tên Chánh tổng quèn, ăn nói thân mật như chị em, nào nắm tay vồn vã, nào bà chị, nào hơn tuổi, nào vào chơi, nào trách móc, trời ơi ai được thế mà chả thọ thêm đến mười năm! Nghĩ đến đó, bà Chánh dào dạt cả tâm hồn.
Bỗng xe bấm chuông và chạy quành vào dinh. Bà Chánh vội vàng tụt xuống đất, và nói:
- Anh đỗ cho tôi xuống đi bộ, kẻo cụ lớn trông thấy lại quở!
Nhưng cụ lớn bà nghe tiếng. Cụ lớn quay lại xua tay cười:
- Không can gì. Đàn ông họ không hay chấp nê như bọn mình đâu.
Đến thềm nhà tư, bà Chánh chùi chân vào chiếc thảm rất kỹ lưỡng, rồi mới dám bước lên gạch hoa. Và cụ lớn phải kéo mãi, bà mới dám ngồi trên chiếc ghế bành đánh bóng. Bà thít người lên.
Cụ lớn gọi lính quạt nước, và lấy lọ chè cất trong tủ mà cụ lớn khoe là thượng hảo hạng. Chính cụ lớn tự pha ra chén, và đưa tận tay mời bà Chánh Tiền.
Mỗi lần bà Chánh được cụ lớn ban cho những câu tử tế dễ dãi, ngọt ngào, thì bà lại rơm rớm nước mắt.
Cụ lớn hỏi thăm về mùa màng, đong bán. Cụ lớn bàn lẽ thiệt hơn về lối làm ăn. Bà Chánh cảm sự nhã nhặn bao nhiêu, lại phục sự đảm đang của cụ lớn bấy nhiêu. Và cụ lớn nói cả chuyện buôn bán của cụ lớn khi gọi họ, khi đong thóc, khi cân sơn, khi buôn tơ, khi đặt đay, vân vân, bất cứ dịp nào có lãi, cụ lớn cũng không để tiền nằm yên bao giờ.
- Phi thương bất phú, bà chị ạ ông nhà tôi tiếng rằng làm quan, nhưng lương lậu có được là bao. Hé? Hé! Hé!
- Dạ, lạy cụ lớn, cụ lớn ông thực là nhân quan:
- Phải, cho nên tôi vẫn phải giữ nghiệp nhà, là lấy sự buôn bán làm căn bán. Làm bà quan, chẳng qua như được hưởng cái hoa thơm, chứ sung sướng sao bằng các bà chị có ruộng nhiều. Thế năm nay bà chị chỉ cấy có năm mươi mẫu thôi à?
- Dạ, lạy cụ lớn, năm nào chúng con cung chỉ cấy có ngần ấy, còn cho người ta làm rẽ. Vì nhà neo người, sức một mình con không kham nổi ạ.
- Phải, tội gì vất vả lắm. Vả lại chỗ cho người ta cấy rẽ, cũng thừa ăn tiêu rồi còn gì.
- Dạ.
- Chỗ năm mươi mẫu ấy, bà chị bảo trữ lại để bán là phải lắm. Thóc được giá mà không bán, chỉ tổ để chuột cắn.
- Bẩm cụ lớn; mấy lị nhà con chật, không có chỗ chứa thêm thóc nữa ạ.
- Ồ quý hoá quá, trong nhà bà chị có những hai lẫm thóc to tướng, thế mà không đủ để chứa thóc kia à?
- Dạ, lạy cụ lớn, thầy chánh nhà con vẫn cứ định xong mùa này thì xây thêm mấy gian nữa. Thầy cháu cứ không muốn bán, bảo trữ lại, chờ năm vỡ đường hãy hay. Nhưng con tưởng để thóc nằm chờ đấy, thà bán đi để đong cái khác còn hơn.
- Phải, bà chị nghĩ chí phải. Việc tiền nong phi ở tay bọn mình không cô lợi. Các ông ấy đàn ông đàn ang gặp đâu nói đấy, chứ sao bằng bọn mình. Hé! Hé! Hé!
- Dạ.
- Thế bà chị còn được bao nhiêu thóc ở trong nhà?
- Lạy cụ lớn, cũng còn độ hơn nghìn bạc, chứ chả mấy ạ.
- Ồ, quế hoá quá! Bà chị không bán à?
- Bẩm ý con muốn bán, nhưng thầy cháu cứ muốn giữ lại.
- Ồ, này, bà chị để tôi đong cho, cho ông tức một mẻ!
Bà Chánh sung sướng, đáp:
- Dạ, cụ lớn dạy thế còn gì bằng.
Thật đấy, cho tôi đong một nghìn nhé...
- Dạ, cụ lớn đã dạy, thế nào con chả xin tuân.
- Nhưng mà này, chỗ chị em, chả nên giấu giếm nhau. Tôi vừa có dăm nghìn, lại tậu cái đất trên Hà Nội để làm nhà cho khách chạy loạn thuê mất rồi. Bây giờ chỉ còn dăm chục để ăn từ nay đến cuối tháng. Bà chị có cho đong chịu hãy nhận lời.
- Lạy cụ lớn, bao giờ cụ lớn ấn cũng được, miễn là cụ lời nhận mua là may cho con lắm rồi.
- Thế bà chị không sợ tôi quỵt à? Hé Hé! Hé!
Bà Chánh cười theo:
- Lạy cụ lớn, tôi con nào dám ngờ cha mẹ.
Cụ lớn bèn nghiêm trang nói.
Nhưng mà này, chị Chánh ạ, tôi nhận đong của ba chị một nghìn đồng bạc thóc, nhưng tôi hãy cứ gửi ba chị ở nha đấy. Như vậy, bà chị hẳn khỏi nghi nhé! Hé Hé! Hé!
- Lạy cụ lớn, chúng con nào dám thế, xin cụ lớn cứ cho xe về.
- Không, tôi cứ gửi ở nhà bà chị. Bởi vì trong dinh chật chội, có chỗ nào chứa đâu!
- Dạ.
- Rồi bao giờ tôi thuê được nhà ngoài phố, sẽ cho nó về lĩnh thóc sau.
- Dạ.
Bà Chánh nói chuyện một lúc lâu nưa, mới hả hê cáo từ ra về.
Và cố nhiên đến nhà bà nhắc lại nguyên văn cho cả làng, cả tổng nghe những câu nói tử tế, nhã nhặn, dễ dãi, phúc hậu của cụ lớn Tuần.
Ba tháng sau, trời làm lụt lội và đói kém. Thóc lúa cứ cao lên vòn vọt. Việc vào dinh hầu cụ lớn đã thành ra một thời sự cu cũ. Cho nên bà Chánh Tiền chỉ còn trông thấy chỗ cây thóc bán chịu cho cụ lớn mà thôi. Bà thở vắn, thở dài. Thà cụ lớn cho người đem đi cho khuất mắt, hoặc cụ lớn bán cho ít nhiều để làm vốn thì bà cũng cam lòng. Từ nọ đến nay, bao nhiêu người xin đong mà bà không dám bán. Bà tiếc quá. Song nghĩ đi thì thế, mà nghĩ lại, bà cho là chẳng thiệt nào. Một đời dễ mà gặp được một bà quan đầu tỉnh đối với vợ một thầy chánh tổng vồn vã, dễ dãi, phúc hậu, như thế.
Người ta có tiền nghìn bạc vạn hẳn hoi, cũng không thể mua được lời nói tử tế của ngươi trên. Cho nên, nghĩ tới đó, bà lại thấy hả hê, sung sướng nguyên vẹn.
Một hôm, có người lính tuần về Đồng Quân, đưa bà Chánh phong thư. Bà bảo chồng mở ra để đọc:
“Bà chị.
Bây giờ thóc được giá, tôi nhờ bà chị làm ơn bán cho chỗ thóc tôi gửi bà chị trước. Cứ thời giá, thì chỗ ấy thu được đến hơn nghìn rưởi, nhưng tôi chỉ lấy trong nghìn tư mà thôi, còn bà chị có bán được hơn thì mặc ý. Vậy chỗ một nghìn, tôi xin nộp lại bà chị, còn năm trăm lãi thì đến 25 này, mời bà chị lên chơi và đưa cho tôi. Thực là tôi quấy rầy bà chị quá, xin bà chị miễn trách.
Lâu nay không thấy bà chị lên tỉnh, tôi nhớ lắm. Vậy thế nào 26 này, bà chị cũng lên, nhân tiện chúng ta nói chuyện với nhau cho vui.
BÀ TUẦN”
Nghe xong thư, bà Chánh Tiền nhăn nhó, rồi thở dài mãi.
Thóc này bán cho ai được, để kịp 26 có năm trăm đem lên nộp cụ lớn đây? Thì té ra bây giờ xoay ngược lại bà là con nợ của cụ lớn.
Suốt mấy ngày, bà lo lắm. Bà phải chạy khắp các nơi để mời người đến đong, nhưng không xong. Chả ai có vốn nữa. Mà ngày 26 cứ gần dần.
Lắm lúc định liều, bà tính cứ lên tỉnh, rồi bẩm với cụ lớn là thóc ế. Như vậy bà có thể không thiệt hại gì.
Song, thế không tiện. Cụ lớn đã tin cậy mà giao cho một việc. Mới có mỗi một việc. Chả lẽ chưa chi đã phụ bụng tốt của cụ lớn? Vả lại cụ lớn vồn vã, ngọt ngào, dễ dãi, phúc hậu, ai nỡ xử lại thế được?
Kết cục, là ngày 26, bà Chánh Tiền lên tỉnh có mang đủ số năm trăm lãi thóc của cụ lớn.
Món năm trăm ấy, bà phải viết văn tự để vay. Bà hậm hực, tức bực và oán thán cụ lớn lắm.
Nhưng mà:
- Ấy kìa! Hé! Hé? Hé? Bà chị! Tôi mong mãi!
Cụ lớn nắm lấy cánh tay và vồ vập nói thế. Bà chánh Tiền bỗng quên hết mọi sự. Bà lại cảm động, rơm rớm nước mắt, và hởi lòng hởi dạ như thương.
1937
Kìa! Con...
Nguyễn Công Hoan
Bây giờ lắm lúc ngồi buồn mà nghĩ đến chuyện ấy, tôi lại vừa buồn cười, vừa xấu hổ...
Ngày tôi còn đi học ở Hà Nội, tôi vẫn nghe anh em bạn kháo nhau rằng hiệu thợ may Đại Ích, mới dọn đến phố Hàng Bông, có một cô con gái đẹp lắm mà ai đã trông thấy một lần cũng phải chịu là một vị tiểu thư tân thời, một giai nhân tuyệt thế, và công nhận cái tên tặng cho cô là “Ngôi sao Hà Thành” là không sai. Ừ không biết các cô gái non, đến tuổi mà chưa được bổ làm vợ, thường ngày bị các công tử nhắc nhỏm luôn thì các cô có hay hắt sơi không? Có khi các cậu lại gọi chằng cả là “mợ nó” mới đáng phục chứ! Ấy, cô này cũng bị chúng tôi, đứa nào đứa ấy, khép án vắng mặt một cách vô lý thế. Duy có tôi, tuy chẳng đạo đức gì nhưng không nhận vơ, vì tôi mới chỉ được nghe tiếng chứ chưa được biết người, cho nên mấy bận đi gần, tôi cố ý liếc mắt nhìn trộm qua tủ hàng, nhưng tức quá không bận nào rõ, chỉ thỉnh thoảng mới thấy cô ấy ngồi thon lỏn bên quầy, mặt méo xệch sau hai lần kính tủ?
Cụ Đại Ích - tôi xin phép các ngài gọi thế - mà nói câu này, các ngài cũng bỏ ngoài tai, vị nào có con gái đẹp, thì tự nhiên trông ra phúc hậu, oai vệ ngay, mà đường đường một đấng bố vợ, dù râu ria chưa có, dù vẫn trẻ măng, nhưng tôn lên chức cụ cũng đáng, mà cô em càng nõn nà, thì ông cụ càng có giá trị. Cụ Đại Ích nhà tôi cũng có giá trị lắm, tuy mặt cụ cũng non nớt, chỉ độ băm nhăm bốn mươi tuổi là cùng. Cứ xét mặt cụ thì cũng là tay đáo để, thâm trâm lắm, nhưng đáo để thâm trầm ở đâu chứ đối với khách mua hàng, cụ rất dịu dàng, ngọt ngào, vui vẻ, nhất là rất lễ phép. Cái lê phép ăn người của nhà buôn, vì thỉnh thoảng nể lời ăn nói, cách cử chỉ của cụ nhiều người phải vui lòng, miễn cưỡng mua một thứ hàng không vừa lòng.
Tôi lập tâm xem mặt cô con gái cụ mãi mà không ăn thua. Một lần xin được tiền nhà may bộ quần áo tây, tôi quyết vào hàng cụ dù đắt rẻ thế nào cũng được một dịp làm quen, lần này còn lần khác. Tôi yên chí tài nào cũng gặp mặt cô con gái cụ, nhưng ngờ đâu số tôi đen, đã cố chọn vải, đo người, dằng dai cho đến hàng giờ đồng hồ mà không gặp, tôi đành ngậm bồ hòn ra không. Giá luật cho phép khách mua hàng được nằm ăn vạ lỳ tù tì ở nhà chủ cho đến khí thấy mặt cô con gái thì tôi cũng chẳng về!
Cụ Đại Ích tiếp tôi rất lễ phép. Cứ những lời cụ rót vào tai tôi thì tôi tưởng dẫu cụ đã tính bộ quần áo ấy đắt hơn hiệu khác ba đồng bạc, nhưng tôi cũng không dám ân hận chút nào. Mà giá cụ làm ơn thả ngay tiểu thư nhà cụ ra cửa hàng cho tôi được ngắm, thì dù cụ cưa nặng mấy, tôi cũng phải cố nhắm mắt, nhắm mũi mà thọc tiết ví.
Đây những câu sau này, tôi nhắc lại các ngài nghe xem có ngọt ngào không:
- Bẩm ông từ đầu mùa rét năm nay, chúng tôi được nhiều ngài chiếu cố may cái hàng này lắm.
- Nào, bác cai đâu ra đo hầu ông.
- Xin phép ông để cái này bên này.
Cách tiếp khách của cụ Đại Ích làm cho tôi ngượng nghịu quá chừng, bởi vì tôi mới ba tuổi toẹt, chỉ bằng con rể cụ là cùng, mà cụ lại gọi là ông. Bởi vậy, tôi phải gọi cụ là cụ.
Vài hôm sau, tôi đến thử quần áo. Lần này cũng như lần trước, bông hồng chẳng thấy ở trước mặt, mà tiếng lễ phép suông cứ làm ngượng hai tai. Rồi đến hôm lấy quần áo về tôi chẳng thấy được tia sáng của ngôi sao.
Hà Thành! Chán quá, thà vứt mấy chục đồng bạc xuống sông, xuống biển còn được xem tăm.
Tôi định cố tìm chỗ nào may hàng để bẻ hoẹ chữa đi chữa lại cho có cớ mà ra vào cửa hàng vài lần nữa, nhưng số đen đủi, họ lại may khéo quá mất rồi.
Nhưng từ đó tôi lấy lại được cái lãi con con, là được đứng vào hạng người quen của cụ Đại Ích. Vì một lần gặp cụ ở phố, tôi chào cụ, cụ còn nhớ mà khen bộ quần áo may sát người.
Một lần nữa, tôi cần sắm cái mũ, tôi cũng lại đâm đầu vào đó. Thôi thì đắt rẻ thế nào cũng bấm bụng mà mua, tuy cũng lại không gặp cô con, nhưng được nghe cụ mắng người nhà câu sau này, tôi cũng hả dạ:
- Xà! Láo nào! Bán cho người ta thì mới được tính giá ấy, chứ bán hầu ông đây kia mà! Xin bớt ông năm hào.
Như thế thì tôi đối với cụ Đại Ích chẳng phái là người xa nữa, nghĩa là người quen, người thân, người nhà, con rể rồi vậy! Cho nên chẳng lần nào tôi gặp cụ ngoài phố, tôi không cố làm cho cụ trông thấy, để chào trước, cùng bắt tay chuyện trò.
Nhưng tôi vẫn tấm tức một điều, là cô con gái yêu quí của cụ, tôi vẫn thấy anh em ca tụng, mà chính tôi thì chẳng rõ mặt ngang mũi dọc ra sao. Vì bận nào liếc mắt vào mà có gặp cô ngồi bên quầy, thì tôi cũng chỉ thấy mặt cô méo xệch sau hai lần kính tủ!
Một hôm, vào ngày Hội Chợ. Cũng như thói nhiều hạng công tử bột, tôi thắng bộ để đi diện gái. Tôi lướt hết dãy hàng nọ sang dãy hàng kia trong Hội Chợ, mà chẳng thấy một ma nào lọt vào mắt xanh. Đi đã bại hai cẳng, thì may sao, khi ngoặt ra cổng thấy đằng trước tôi, thướt tha một cái bóng hống đi một mình cũng ra phía cổng.
Cái bóng đó là một cái ô khum khum màu sữa, dưới cái khung ô, là một cái áo satanh hồng sáu khuy đang bay phấp phới, dưới cái vạt áo là hai cái ống quần rộng nhỏ bé như ống sậy; dưới hai gấu quần, là gót cao mun mút của đôi giầy mang cá da trăn. Thấy cái mồi ngon, tôi quyết săn cho được. Tôi rảo cẳng đuổi theo. Lúc đến gần độ mười thước, thì một luồng hơi thơm thoang thoảng đã làm nở nang mũi tôi.
Tôi cố trông suốt qua tầng vải ô, thấy vẽ rõ bóng một cái đầu xinh xắn, cái áo sa-tanh trơn nhẳn bóng như căng khít lấy cái lưng ong hum húp, tròn tròn, thỉnh thoảng làn gió tạt tung cái tà áo ngoài thì lại lộ cái áo cộc lụa mỡ gà viền đăng-ten, ôm chặt lấy cái đũng quẩn cẩm-châu phình ra, mà hai ông nếp là phẳng tắp!
Khi đang chòng chọc ngắm từ đầu đến chân con bò lạc ấy, thì thình lình tôi đi sát ngay trước mặt cụ Đại Ích mà tôi không biết. Cụ Đại Ích trông thấy tôi, tay cất mũ, tay giơ ra và nói:
- Kìa, thưa ông, ông cũng đi chơi Hội Chợ, có vui không?
Tôi thi lễ và trả lời:
- Vâng, thưa cụ, Hội Chợ năm nay cũng như mọi năm. Tôi định vào sắm cái hộp bằng tre chạm, nhưng không được cái nào vừa ý.
- Vâng, tôi cũng chẳng mua được cái gì.
Tôi không muốn nói chuyện lâu, nên chỉ cười lạt không trả lời thì cụ Đại Ích khéo mồm miệng mà nói tiếp:
- Xin phép ngài để tôi giới thiệu ngài một chỗ bán hộp tre chạm của người anh em. Tôi xin đi hầu ngài tới đó, ngài thử chọn xem rồi chiếu cố cho...
- Cảm ơn cụ, xin để bận khác, vì tôi có người nhà chờ.
Người nhà tôi tức là cô gì đây kia ấy mà, các ngài có hiểu không? Nếu cụ Đại Ích cùng đi với tiểu thư nhà cụ thì tôi xin cam lòng thả cô kia ra mà bám chặt lấy cụ. Vậy ai bảo cụ găm con gái ở nhà, để cụ chẳng được đi “hầu” tôi đến cái hàng của người anh em để tôi “chiếu cố”!
Thoát được nạn cụ Đại Ích, tôi lại phải đi rảo cẳng đuổi theo mồi. Lúc đến sau lưng, tôi càng ngắm cái dáng đi của cô ta, càng thấy yểu điệu, cái tay vung vẩy sao mà khéo và mềm thêm. Mà không biết nước hoa cô ấy mua bao nhiêu tiền một lọ mà thơm được làm vậy. Tôi tiến lên trước, để quay lại nhìn mặt! Ôi mẹ ơi? Ông bà nào ăn gì mà đẻ được con đẹp đến thế! Cái mái tóc tơ rẽ đường ngôi lệch, chải kỹ càng quá, nhưng nó kỹ càng ở chỗ cố ý làm cho người ta tưởng lầm là chải dối dá, nó loà xoà xuống trán, xuống má, nó toả ra che gần lấp gáy; lấp tai. Cái dây chuyền quàng qua cổ, giấu trong lần áo trước ngực, tuy kín mà kín hở, vì nó vẫn lóng lánh, nhấp nháy qua khe sợi tơ. Hai cái má bánh đúc, phinh phính dưới làn da mịn, đã xoa qua ít phấn lạt, lại được cái ánh phơn phót của mầu ô hắt xuống, mầu áo hắt lên, thành ra hây hây như cánh hoa phù dung. Đôi môi đo đỏ cũng khéo tăng thêm vẻ tươi của cái miệng bầu bậu, lúc nào cũng sắp sẵn một nụ đổ nhà đổ cửa.
Đến hai con mắt thi đẹp không có chữ tả nữa. Có lẽ tạo hoá cũng mất lắm công, kén chọn mãi mới được cái mặt này xứng đáng để giao cho hai con mắt ấy.
Nói tóm lại, trông cô tiểu thư này, nhu nhú như bông hồng mới nở, bầu bĩnh như cái gối mới nhồi bông vậy.
Tôi ngắm cô ấy, ngắm chòng chọc mãi khiến cô ấy ngượng, và phải che ô lấp mặt đi. Tôi đành giở thói trắng trợn, âu là bên phải cô đã che ô lấp thì tôi xoay sang bên trái vậy.
Trong bụng tôi bối rối. Tôi nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, bèn thảo vội ngay một bức chiến thư.
Tôi tủm tỉm, nói bâng quơ rằng:
- May quá, hôm nay đi Hội Chợ tưởng là phí công?
Nói đoạn, liếc vào cô ấy mà xoà cườỉ. Cô tiểu thư biết tôi có ý trêu ghẹo, bèn xoay cái ô sang bên trái.
Lập tức tôi lại đi sang bên phải.
- Gớm làm bộ quá! Cô đi Hội Chợ có mua được gì không?
Cái ô lại ngả sang bên phải, mà tôi thì lại đổi sang bên trái.
- Thưa cô, cô làm ơn cho tôi biết bây giờ là mấy giờ rồi?
- Cô ở phố nào? Sao tôi trông cô quen quá!
Cái ô lại nghiêng về bên trái, mà tôi lại luồn sang bên phải. Trời còn nắng đâu mà che ô! Cái đồng hồ đeo tay của cô xinh lắm nhỉ! Nó bé thế sao nó cũng chạy được?
Chà? Ước gì tôi được làm cái đồng hồ kia. Cứ môi câu tôi nói ra, thì cái ô và tôi lại chuyển đổi chỗ. Mà sao cô bé gan lì, nói thế nào cũng không hề nhếch mép!
Tôi thấy bao nhiêu mồi thả ra, mà cá chẳng cắn câu tôi bèn trâng tráo, miệng cười, mắt liếc, tay dúi cái ô và nói:
- Hoài của, người đẹp thế mà câm, người ta hỏi từng ấy câu mà không trả lời!
Bỗng tiếng giầy lộp cộp đằng sau đập vào màng tai tôi làm cho tôi quay lại. Thì ra cụ Đại Ích đi tới. Cụ Đại Ích không nhìn tôi, nhưng khi đến ngang mặt cô tiểu thư, cụ đập vào ô cô, ngọt ngào như nhắc cô rằng:
- À! Con, ông hỏi, sao còn không trả lời ông đi!
25 Novembre 1932
Chính sách thân dân
Từ chánh phó tổng đến thư ký, thủ quỹ trong hạt X.X. ai ai cũng lấy làm nghi kỵ tờ thông sức số 57, ngày 2 tháng giêng, của quan huyện Lê Thăng. Người ta bàn tán mãi, song, không ai rõ ý quan ra làm sao.
Người ta hỏi dò ông thừa, cậu nho, nhưng bọn này cũng trả lời một cách rất mập mờ:
- Thế là chính sách thân dân của ngài chứ gì! Mặt trận Bình dân mà lị.
Giấy sức ấy như thế này:
X.X. ngày 29 tháng giêng 193...
Quan Tri huyện huyện X.X., thông sức
các chánh phó tổng cùng hương lý các xã tuân cứ.
Từ ngày bản chức về trị nhậm hạt X.X., thấy các thầy hết lòng cùng bản chức trông nom sự trị an, đê điều thuế má, v. v. bản chức lấy làm cảm động lắm. Vậy bản chức thành thực có lời khen ngợi và mong rằng từ nay các thầy cứ tận tâm về nghĩa vụ thế mãi.
Nhưng muốn cho tình quan dân được khăng khít thêm nhiều, và muốn thi hành chính sách thân dân mà bản chức vẫn theo đuổi từ ngày xuất chính, bản chức không những phải quý nể người sống, mà nên thương tiếc đến cả người chẳng may quá cố, trong khi đang làm việc cho dân.
Vậy từ nay trong hạt các thầy, mỗi khi có ai bất hạnh qua đời, trên từ hàng chánh phó tổng, dưới đến thư ký, thủ quỹ không cứ là tạ thế vì bổn phận hay vì bệnh già, các thầy đều phải cáo phó cho bản chức biết để bản chức được dự đưa người thuộc hạ đến chỗ ở cuối cùng.
Bản chức thiên nghĩ khi sinh thời, mỗi người gánh vác một việc dân, việc nước, thì mỗi người có một nhiệm vụ khác nhau. Người nhiệm vụ to, người nhiệm vụ nhỏ. Cho nên bản chức là người trên mà các thầy là phần dưới.
Nhưng một khi đã không ở cõi đời nữa, thì bổn phận người sống là phải kính trọng linh hồn người chết, cho nên bản chức cần phải chào biệt một người giúp việc đã qua đời, đó là bổn phận riêng của bản chức.
Vậy các thầy nên đọc kỹ tờ sức này để hiểu ý bản chức và từ nay cứ thế mà thi hành.
Nay sức
LÊ THĂNG
Vậy có gì là khó hiểu? Bao nhiêu ý kiến thân dân sống, trọng dân chết, nó rõ nét cả ra trên từng ấy dòng, việc chi phải ngờ mà bàn với tán?
Nhưng khốn thay, dân chẳng tin như thế cho. Đối với lời ngọt ngào của quan phụ mẫu này, người ta sợ như gà phải cáo. Trước kia, người ta bị nhiều vố cay đắng vì những lời ngọt ngào như thế rồi. Cho nên bây giờ người ta phải chờ cơ hội xảy ra, một cơ hội chẳng ai mong có, vì nó là sự chết, để xem việc làm, mới có thể chứng thực cho lời nói được.
***
Dịp tốt để thí nghiệm chẳng phải chờ lâu.
Và dân chẳng phải nghĩ ngợi nữa.
Ông thủ quỹ làng An Đạo đã thở hơi cuối cùng.
Lập tức, không những chức dịch ấy đi trình quan, mà đến chánh phó tổng cũng lên tận huyện đề cáo phó.
Và quan hẹn sẽ về An Đạo từ chiều hôm trước để sáng hôm sau, kịp đưa người thiệt phận ra đồng. Ngài ngại dậy sớm. Đường đất từ huyện về An Đạo thì xa. Vả tang gia đã ấn định đúng bẩy giờ thì chuyển cữu.
Lúc ấy, trong nhà ông thủ quỹ, tiếng khóc cạnh linh sàng đương xen lẫn với tiếng cãi lý nhau quanh mâm rượu, thì bỗng có người báo quan đến.
Chà chà! Một tin quan trọng làm sao.
Hiếu chủ vội vàng mũ gậy ra đón tận đầu ngõ, cúi rạp xuống để chào. Và trong nhà, khách ăn chạy tản mát, đứng ngấp ngó ở sau tấm giại. Những mâm cỗ ăn dở bị khênh đi, tẩu thoát xuống dưới bếp. Người nhà quét tước và thu xếp vội vàng các chỗ cho sạch mắt.
Quan xuống xe, thong thả tiến vào. Ngài đứng ở sân, ôn tồn nói vài câu chia buồn. Hiếu chủ cảm tạ, mời ngài đến nghỉ ở nhà ông lý cho tĩnh mịch. Tang gia đã điều đình trước với ông lý dọn dẹp sẵn căn buồng và bầy biện cho lịch sự. Ông lý vừa được cảm tình với hiếu chủ, vừa được hân hạnh đón quan mà không phi tốn gì, nên bằng lòng ngay.
Đến chỗ nghỉ chân, quan rửa mặt, uống nước xong, thì vừa vào lúc lên đèn.
Một mâm cỗ chững chạc đã từ nhà đám khênh đến, đặt ở phản giữa. Hiếu chủ cung kính rước quan chứng giám tấm lòng thành. Quan gật, tụt giày ban ra, lên giường, ngồi xếp bằng tròn chính giữa.
Những ai có diễm phúc ngồi hầu cơm quan, đã được xếp đặt trước cả rồi. Quan rất vừa lòng, trò chuyện rất vui vẻ thân mật.
Ăn xong, theo thường lệ, phải có cuộc mua vui.
Chẳng lẽ quan ngồi chuyện suông với chức dịch cho đến khi ngài buồn ngủ? Cho nên, ông chánh tống đứng dậy, gãi tai nói:
- Bẩm quan lớn, xin phép quan lớn cho chúng con được hầu canh tổ tôm.
Quan cười, đáp dở đùa dở thực:
- Tôi không mang tiền đi.
- Bẩm xin có ạ.
- Ừ thế thì đánh một lát cho đỡ buồn, chứ bây giờ thì ai ngủ được.
Canh bài ấy đánh ba hội. Quan ít ù lắm. Bởi vậy, ông chánh tống phải giữ lời hứa. Vả nếu ông không biết điều mà góp cho quan, thì quan cũng đã hất hàm để giao hẹn rồi:
- Thật nhé, thầy góp cho tôi nhé.
***
Sáng hôm sau, quan dậy sớm, khăn áo chỉnh tề, đi bộ đến nhà tang. Ngài trịnh trọng theo cữu. Cạnh ngài, có người che ô hầu. Và xung quanh ngài, tuần làng nghiêm chỉnh cầm roi dẹp đường. Bất cứ ai, dù trẻ con đi xem, hay người quen kẻ thuộc, hay cả đến họ hàng bà con người chết, mà vô ý sán lại gần, là bị vụt liền.
Nhờ có quan đám ma thêm vẻ long trọng. Các chức địch hàng tổng và những làng gần An Đạo, không thiếu một mặt nào. Mà người ta đến đây để quan trông thấy hơn là để đưa người bạn đến chỗ ngủ ngàn năm.
Cả vùng, ai thấy quan đi đám một người thuộc hạ quèn, cũng lấy làm cảm động. Người ta khen ông thủ quỹ tốt số. Mà thực, giá ông này có khôn thiêng mà nhìn thấy sau linh cữu mình, một vị đeo thẻ bài ngà lững thững đi một cách nghiêm trang, thì có lẽ sung sướng quá đến nỗi sống lại mất.
Đám ma đến huyệt. Tiếng khóc nổi lên như ri, cầm lòng cho đậu, trong những phút đau đớn này. Đàn bà lăn xả vào quan tài, vật mình mấy. Đàn ông mếu máo, còng lưng xuống mà khóc. Nhưng trước khi giòng áo quan xuống hố, quan bảo thầy chánh tống bắt mọi người phải im.
Lệnh trên đưa ra, mấy anh tuần giơ roi vào vợ con người chết, quát:
- Im, không được khóc, quan truyền thế.
Mọi người không dám thút thít.
Quan bước đến trước huyệt, ngài móc túi lấy mảnh giấy giơ lên và đọc.
Nhưng buồn quá, ngài đọc tiếng Pháp. Cho nên, cố nhiên cả người chết lẫn người sống, không ai hiểu ngài nói gì.
Người thông minh, bảo đó là ngài đọc đít-cua. Người mê tín, bảo đó là ngài tụng kinh. Những người dốt đặc, còn phải nghe con cháu khấn bằng chữ nho, thì biết đâu, ông thủ quỹ chẳng nghe hiểu điếu văn tiếng Pháp?
Đọc xong, ngài lăm đăm đứng lặng, rồi cúi đầu một cái đoạn lui ra. Cả nhà tang chủ đổ xô lại, lễ tạ. Rồi ngài lên xe để về huyện. Ngài vẫy thầy chánh tổng lại gần, dặn nhỏ:
- Này, xe này tôi thuê khứ hồi một đồng, thầy liệu bảo họ trang trải mà trả nhé.
Rồi tặc lưỡi, ngài nói thêm:
- Mà tiền góp tồ tôm cho tôi hôm qua, thầy cũng nên bảo họ biết, tội gì mình chịu?
Chuyện này chỉ nhạt có thế. Nhưng hình như nó là chuyện thực. Bởi nó là chuyện thực, nên ông huyện Lê Thăng phải chịu trách nhiệm về phương diện nghệ thuật của văn chương.
Song, ta cũng nên phục ông Lê đã khéo nghĩ được những hành vi cho có vẻ tiểu thuyết. Ông là nhà tiểu thuyết rất tự nhiên và rất có tài.
Bây giờ, ở vùng ông cai trị, người ta còn đợi mua vui bằng nhiều tác phẩm sống của ông. Nhưng có một điều buồn cho thuộc hạ ông, là không những họ sợ sống, mà họ cũng sợ cả chết nữa. Họ sợ để khổ cho con cháu, vì quan lại cứ về đưa ma!
1938
Cho tròn bổn phận
Anh xe nhấc càng lên, nặng nề rạp người xuống, bước Vài bước thực dài để lấy đà, rồi mới đưa ngược khuỷu tay, cúi đầu mà chạy.
Trên nệm lò xo rung rinh, thấy đặt một thứ cây quý giá tuy hơi cổ thụ, nhưng chưa có vẻ gì cằn cỗi.
Ngọn cây còn xanh tốt, lại có điểm mộtbông hoa đỏ thắm. Vỏ cây đã có chỗ nhăn nheo, song người ta khôn khéo, lấy một lần bột gạo thơm che lấp đi. Toàn thân phủ nhiễu trắng, thứ nhiễu tây mềm nhũn và má trợi.
Cây đó là một cây thịt.
Cây thịt đó là bà Phán Tuyên.
Trên đùi bà đặt một gói hàng mới mua ở hiệu Tây về cho cô con gái yêu. Cái díp xe, mỗi khi gặp đoạn đường xấu lại rập rình làm cho những nạm thịt ở má, ở ngực bà Phán theo dịp, núng na, núng nính.
Bà nhìn sang hai bên hàng phố bằng con mắt của người rất tự kính trọng, và bằng lòng cái số phận tốt tươi Trời, Phật đã dành cho mình.
Thỉnh thoảng, muốn tỏ sự khinh bỉ đối với khách bộ hành nghèo kiết và hủ bại, bà móc trong túi ra một cái gương con và chiếc bông đẫm phấn, ngang nhiên hết sức làm trẻ lại cái tuổi sắp già.
Đến một chiếc nhà lộng lẫy, có hàng rào sắt, có chuông điện bấm, anh xe ngửa người ghì đà xe lại để đỗ. Rồi anh kính cẩn nâng lấy bọc hàng bà chủ trao cho.
Phía trong cổng, một con chó Tây, to như con bê gầm lên cắn, song lại thôi ngay, ve vẩy đuôi mừng rỡ.
- Cô An đâu mày?
Con sen đứng dẹp sang một bện, chắp hai tay thưa:
- Cô con trong buồng, có lẽ đang sửa soạn đợi bà.
Bà Phán oai vệ bước vào, cất tiếng lanh lảnh, thứ tiếng riêng của hạng giầu sang:
- Xong chưa con?
Cô An, tay còn gài dở chiếc cúc áo vai, vội vã chạy ra.
- Gớm, sao me về muộn thế! Hành lý và ô-tô xong đã từ bao giờ rồi ấy. Nếu không mau lên, thì đến nơi tối quá mất. Đâu. Me có mua được cho con không.
Bà không trả lời, điềm nhiên cởi gói giấy, giơ ra trước mắt long lanh của cô con gái chiếc áo khoác trắng tinh và chiếc “may-ô” sặc sỡ.
Vì bà muốn cho cô An, lần đầu được ra bãi bể, khoe cùng mặt trời, sự trẻ và sự đẹp của cô, nhân thể để cô có dịp phơi ra ngoài ánh sáng, bộ xương mông, xương quai xanh và xương sườn cụt.
Buổi trưa, Đồ Sơn chỉ còn là một con đường nhựa nát nhẽo, bên cạnh một làn nước phẳng lặng.
Cô An mặc nguyên bộ quần áo tắm, nằm trên chiếc ghế vải ngoài hiên, lim dim mong chóng ngủ để nằm mộng thấy một tấm chồng Tiến sĩ mai sau.
Cô sung sướng, thỉnh thoảng hé mắt ngắm lại cặp chân dài và thon bắt tréo lên nhau, với cái ngực nở nang, hai bên nhô lên hai đầu vú nhọn hoắt.
Trong nhà bà Phán ngồi dưới quạt trần, đương loay hoay với nước bài tổ tôm khó đánh.
Một xã hội phong lưu.
Những con ve rỉ rả kéo dài tiếng không lúc nào ngìmg làm nặng thêm bầu không khí oi ả mùa hè.
- Thưa bà, ông Phán nhà vẫn có tin ra được như thường ạ?
Bà Phán ngẩng đầu lên, ngập ngừng trong vẻ khó chịu; nhìn ông Hàn xem câu hỏi đó có ý châm chọc không.
Rồi bà chăm chú xoay lại phu bài, cố tình làm như không nghe tiếng.
Ngoài hiên, cô An cũng mở mắt, nhìn vào phía ông Hàn, rồi cựa mình, xoay đi nơi khác.
Trên nét mặt đang hớn hở của hai mẹ con, thấy lộ vẻ khó chịu dường như một hình ảnh xấu xa hiện ra trong óc họ, mà họ hết sức xoá nhoè đi không được.
Từ lúc đó, bà Phán ít nói chuyện bông đùa, mà cô An thỉnh thoảng lại cọ quậy không yên trên ghế vải.
Một năm về trước, một hôm ông Phán Tuyên đi làm không thấy về nữa. Bà Phán lo sợ, vào toà hỏi tin tức thì hay rằng hồi mười giờ sáng, ông đã nhận được cái trát bắt vì tội ăn hối lộ.
Dạo đó, bà chẳng làm gì có hai má và chiếc ngực quý phái ngày nay, và cô An còn là cái Chắt vô giá trị.
Sau ba tháng nằm ở trại “Ký giám”, ông Phán ra toà lĩnh mười tám tháng tù.
Khi lại bị xích tay giải về Hoả Lò, ông nom thấy vợ con đứng dưới bóng cây bên Toà án sụt sịt khóc thảm thiết, thì ông cũng không sao ngăn nổi được nước mắt.
Ông thấy cảnh tan hoang của gia đình mất chủ mà lo vì ngoài ông ra, còn ai có thể che chở cho hai tấm thân yếu đuối kia nữa?
Ngoài giờ ăn cơm và lúc điểm danh, ông chỉ nằm trên sàn, hai chân ghếch lên cái cùm gỗ, vắt tay ngang mắt nghĩ cách làm tiền nuôi bọn người vất vưởng ở ngoài.
Tuy cảnh trái ngược thực, song ông nghĩ đã là một người đàn ông, bao giờ cũng phải lo cho tròn bổn phận làm cha và làm chồng.
Lắm khi đêm khuya trằn trọc, trí ông đương bối rối thì đằng đầu trại, một bác tù cao hứng lại rống to:
Ai đưa tối đến chốn này
Bên kia Toà án, bên này Đề lao
Từ khi mắc nạn đề lao
Tin ra thì có, tin vào thì không.
Giọng hát khô khan, song ông nghe ra muôn phần não nuột. Ông toan nối điệu vài câu cho hả tấm lòng uất ức, nhưng bác Cai đã đập chiếc roi mây xuống sàn mà quát:
- Im mồm!
Trong trại, lại chỉ còn tiếng ngáy, với tiếng muỗi. Trời không nỡ phụ kẻ có lòng tốt. Hết hạn chống án ông nhận được một tin mừng: trong nhà pha, thiếu người làm bàn giấy, ông Sếp đã nghĩ đến ông.
Bắt đầu hôm sau, ông lại nghiễm nhiên ngồi biên chác, làm cái nghề cũ của mình.
Sự may mắn còn đưa ông xa hơn nữa: ông được giữ phận sự sắp đặt những chuyến tù phát vãng.
Đến đây, tôi hãy xin chua nghĩa hai điều:
- Một là: Khi người ta có tí quyền pháp trong tay, thì người ta có thể làm cái sức mạnh vô hình đó, biến thành một sức mạnh hữu hình thí dụ như những đồng bạc vừa xính, vừa trắng, vừa kêu. Hai là: ngục thất âm u không khi nào lại là chỗ để cho tội nhân ngồi đọc kinh Sám hối cả vì nếu tiếng “sợ” có hai chữ, thì tiếng “Liều” có bốn chữ, nhiều hơn.
Ông Phán đã sinh ra làm người, lĩnh chức “ông Phán”, th tránh sao ra ngoài hai điều ấy?
Vậy nên, ít lâu sau khi lêp bực “tù anh chị”, người ta thường bắt gặp những cuộc thì thầm dấm giúi giữa ông và bọn tù nhân đã thảnh án, sợ cảnh Vạn Bú, Sơn La
Người năm đồng, kẻ một chục, ông thu nhặt ngấm ngầm, chẳng may ngày không.
Số tiền bổng tự nhiên, đã là một liều thuốc cho ông ăn ngon ngủ kỹ trong ngục, đợi phiên gác thầy Đội Bốn để gửi về cung đốn vợ con.
Những khi giờ nghỉ buổi chiều, ông chải chiếu nằm xuống gầm sàn cho đỡ rệp, ngó mắt ra lỗ “tu mai” khoét dưới chân tường, thì trên môi chua chùa những râu, ông để nở một nụ cười bằng lòng của người đã lo tròn bổn phận.
Chẳng bao lâu, loạn tù hết, ông mang áo, chiếu trả lại ông Sếp, thuê xe về nhà.
Những sự thay đổi trong đời vật chất của bà Phán và cô An làm cho ông nở nang gan ruột.
Nhưng trên mặt phấn và môi đỏ nẫu của hai người ông thường thoáng thấy một vẻ bằn khoăn khó chịu.
Cho đến một buổi tối, bà Phán buột miệng, nghĩ to lên rằng:
- Giá ông được đi tù mười năm. có phải cả nhà sung sướng không nhỉ?
Cô An vội vàng nói theo:
- Vâng, thầy cứ ở trong Hoả Lò mà lại vui vẻ hơn đấy.
Ông Phán như tỉnh giấc mê, sửng sốt đáp:
- Ừ nhỉ!
Rồi ba người lùn nhau thẫn thờ, tiếc rẻ một dịp may hiếm có.
Viết 1934, in trong Ông chủ báo - Phổ thông bán nguyệt san số 61 (1940)
Chuyện chó chết cái thâm ý của anh chàng sợ vợ:
Trích trong bức thư mừng một người bạn gái có tính hung hãn sắp về nhà chồng
Chị sắp xuất giá tôi chắc chị chả thiếu chi đồ mừng quý hóa về vật chất; vậy muốn tặng chị một thứ lạ mắt, lạ tai về tinh thần, nên theo tính riêng của chị xưa nay, tôi xin chép câu chuyện chó chết này cho hợp thời, gọi là cây nhà lá vườn, chắc chị cũng chẳng từ chối tấm lòng thành thực của tôi vậy.
Tuy việc xảy ra đã mười năm nay, nhưng bây giờ tôi nghĩ lại, vẫn còn thấy bật buồn cười và rợn tóc gáy!
Chỉ e lời chẳng thấu ý, tôi viết ra không được rõ ràng khéo léo, vậy xin chỉ đọc xong, hãy thử gập cái thư này mà để địa vị vào tôi lúc bấy giờ, sẽ biết tôi vẫn còn là mạnh bạo, và thử ngẫm nghĩ kỹ, rồi ra chị có nên để cho anh khiếp oai không?
Ngày ấy vì nhà có súng, nên tôi cũng đã hiểu luật săn bắn, là mình không có giấy phép mang khí giới, thì dù có vác súng hầu người khác, cũng chỉ được đi cách người ấy năm thước thôi. Nhưng nếu người nào cũng biết trọng pháp luật cả, thì toà án còn lập ra để bắt tội ai? Chỉ vì nỗi dù có biết tội mười mươi, nhưng tặc lưỡi một cái, là cứ làm văng mạng? Mà nhất là tôi đây nếu chẳng cậy mình một chút, thì chi đã phải một phen lo mất mật vì câu chuyện chó chết của anh chàng sợ vợ này?
Khẩu súng ấy của cha tôi mua để bắn chim, nhưng vì cha tôi bận việc luôn, ít có khi rảnh để đi săn, mà tôi thì thèm quá.
Khẩu súng ấy vẫn treo ở tường, nhưng đạn thì cha tôi cất cấn thận trong tủ kính đứng có khoá ngay cạnh bàn giấy
Xung quanh nhà, mà nhất là trong các đồi bên cạnh huyện, lúc nào thấy gầm ghì chim gáy lạch đạch bay hàng đàn ở các bụi cây, mà anh lính cơ Ca-rán-tiêng còn mách tôi rằng ở các đồi ấy thường đêm đêm anh vẫn nghe thấy tiếng nai kêu hươu gọi. Anh lại giục tôi nên vác súng mà đi săn.
Cần gì, súng của Quan mà cậu mang đi bắn ở huyện nhà, thì bố đứa nào dám hỏi!
Anh Cá-rán-tiêng quê ở một làng gần rừng có nhiều cọp cho nên thỉnh thoảngg kể cho tôi nghe về cách săn cọp ở vùng ấy. Tôi thích nghe lắm, mà phục nhất là cái lối chòng lọng cổ cọp rất giản tiện mà thần tình; chí cần một cái dây chẳng to lắm nhưng biết cách giật thì con cọp dù khoẻ đến đâu cũng mất cựa! Anh chòng lọng thử cho tôi xem vào cổ con mèo rồi dạy tôi cái lối xếp dây và buộc nút.
Từ khi học được cách làm chòng lọng cọp, tuy tôi cũng chẳng hy vọng một ngày kia bắt được ông Ba mươi, nhân những lúc buồn, tôi hay lấy dây ra giật chơi mấy củ khoai lang lăn lóc dưới gầm phản, rồi khi đã thạo, tôi nghĩ ngay đến sự ăn cắp đạn.
Hôm ấy cha tôi có việc phải đi vắng hai ngày. Tôi mừng lắm. Cơm sáng xong, tôi lấy dây, tết cái chòng lọng cọp trèo lên mặt tủ, nhấc một tấm ván long đanh ra dòng xuống, giật cổ được sáu viên đạn. Khi sắp sẵn các đồ đi bắn xong, tôi xuống trại cơ, gọi anh Cá-rán-tiêng, rủ cùng đi cho vui, vì anh ấy bắn thạo lắm. Anh ấy thích đi, nhưng ngần ngừ đáp:
- Để đến bận khác. Quan đi vắng, tôi phải ở nhà coi huyện.
- Anh đi độ hai giờ đồng hồ thôi mà, thầy Quán đồn cũng chẳng biết đâu, vả anh đi bắn với tôi chứ với ai mà sợ?
Nghĩ phân vân một lúc, anh đáp:
- Vâng, cậu cứ đi một mình trước, chờ tôi ở đầu phố tôi sẽ đến sau.
Tôi qua trại cơ. Thầy Quản đồn thấy tôi ăn mặc gọn gàng và dáng đi hùng dũng, bèn ngắm và khen mãi, rồi thầy chúc:
- Cậu đi săn cho may mắn nhé!
Câu này rất kiêng kỵ. Trong làng săn, ai gặp người chúc thế, y như hôm ấy vác súng về không có khi lại bị rủi ro nữa.
Tôi cũng bị cái mê tín ấy nó bám vào óc, từ ngày được ngửi mùi thuốc đạn, cho nên tôi thất vọng ngay từ đầu.
Chúng tôi chui, rúc, trèo, leo, vào rừng, hết sức đi kiếm chim muông, nhưng chẳng gặp con nào. Rồi loanh quanh chúng tôi qua cái làng cách huyện ly ước ba cây số.
Hôm ấy là ngày phiên chợ, nên người lớn, trẻ con kẻo xem chúng tôi đông lắm, mà mình thì ngượng về một nỗi không được con nào. Chợ ấy hẹp, nhưng có một điều làm cho tôi chú ý nhất, là ở dọc đường đi tôi nhận thấy bốn năm hàng bán thịt chó, mà hàng nào cũng đông người đến mua, có người ngả ngay nón ra đấy đánh chén.
Tôi đi đến đầu làng, thì gặp một người chòng chọc con mắt nhìn tôi, lại tủm tỉm cười ra ý chế nháo. Hai tay thọc vào túi áo cánh, anh ta ưỡn ngực, vểnh râu ngắm mãi vào cái chùm dây xách chim rỗng tuếch, và nói bâng quơ rằng:
- Nhục chửa?
Đang vào cái tuổi hung hăng, tôi nào chịu nối những câu nói xỏ xiên cua những quân ngứa miệng, tôi liền quắc mắt lên nhìn, rồi đứng dừng lại, định chất vấn anh chàng láo xược, thì anh Cá-rán-tiêng, biết ý, lôi áo tôi đi và nói nhỏ:
- Thôi xin cậu, nó không biết.
- Nó là đứa nào thế?
- Lý trưởng cựu làng này đấy.
Thấy nói Lý trưởng cựu, tôi càng tức, vì lẽ gì nó chẳng biết tôi là con quan mà dám nói láo? Ấy phần nhiều các cậu con quan thường có cái thỏi hách hơn bố xin chị tha lỗi cho tôi.
Tôi cáu tiết, quay cổ lại nhìn, thì thấy nó vẫn nhìn theo tôi, mà lại bĩu môi ra cách khinh bỉ. Tôi giận quay gót trở lại, định cho nó một bài học hay về cách xử thế thì anh Cá-rán-tiêng lại kéo áo tôi mà rằng:
- Thôi, khẽ chứ cậu, con gì kia kìa...
Anh trỏ cho tôi ở cái đồi bên cạnh, một con vật gì lông vàng và có vằn đốm đen, đương lẩn trong bụi cây.
Tôi ngắm kỹ một lúc, rồi giật mình nói:
- Hổ! Hổ? Anh ạ.
Anh Cá-rán-tiêng tái mét mặt lại, cũng trố mắt lên rồi nói:
- Không phải, con gì đấy.
- Đích là hổ, con hổ con, trông lông nó thì biết.
Lúc ấy con vật nhích đi một tí, thì tôi quả quyết rằng:
- Không còn sai nữa. Anh để tôi bắn.
Anh chàng láo xược ban nãy cũng rảo bước sau tôi thấy tôi nói hổ, thì anh cũng chõ mõm vào rằng:
- Phải đấy, ở đây vần có mấy con hổ con. Bắn đi. Con gì cũng bắn phăng đi!
Tôi se sẽ lui lúi nấp sau gốc cây, quay lại thấy anh Cá-rán-tiêng có ý sợ mà lánh xa, còn anh Lý cựu kia lại dáng vui vẻ mà nhìn chòng chọc vào con hổ.
Tôi lắp đạn, giương súng, ngắm. Tôi hồi hộp, vì không biết phát này có rửa nhục cho tôi trước mặt cái anh vô lễ kia không, hay là nó lại làm thêm cho tôi mọt phen rát mặt nữa? Tôi ngắm rất kỹ, trúng lắm. Tôi bóp cò: Đoành!
Tiếng vang inh trời, một vùng khói toả tròn lan ra trước mắt, che lấp cả con vật. Bỗng anh Cá-rán-tiêng kêu ầm lên rằng:
- A! Chết rồi!
Anh Lý cựu cũng vừa vỗ tay, vừa nhảy như thằng cuồng:
- A ha! híp! híp lơ! Con ma quay lơ! Hồ chết rồi!
Chúng tôi mừng rú, thi nhau chạy lại bắt, thì trời ơi chị có cho tôi mượn mau cái rổ đề che mặt không, cái con vật nằm sóng soài ra giữa vũng máu còn đang trợn ngược đôi mắt và hầm hè nhe bộ răng nhọn hoắt ra ấy lại chẳng phải là hổ, mà chỉ là con chó vện! Khổ quá thì ra trông gà hoá cuốc, tôi bắn phải con chó vện nhà người ta? Lúc chúng tôi đến nơi mới được vài giây đồng hồ, đương nhìn cái thảm trạng ấy, thì con vật khốn nạn kia đã lìm lịm dần mà hồn về chín suối.
Tôi hối hận vô cùng. Cái cuộc đi săn hôm nay thực là dại dột quá! Tôi mang súng đã không có giấy, đạn lại đi ăn cắp thế mà lại bắn chết con chó vô tội? Rồi đối với chủ con chó ấy hẳn tôi còn lôi thôi to. Chẳng biết tôi giơ cái con quan của tôi ra thì sự lôi thôi ấy có giảm đi phần nào chăng, vậy mà chẳng may cho tôi nữa, người có con chó chết. lại chính là cái nhà anh Lý cựu đáng ghét ấy.
Chúng tôi đang tỏ ý lo riêng với nhau thì người ấy cũng chạy tới rồi nói:
- A, ông bắn chết chó nhà tôi.
Biết mình có lỗi, tói vứt ngay bộ mặt thù địch ban nãy mà dịu ngay cái nét hoà bình lại, mà tự giữ chủ nghĩa “bất đề kháng”.
- Phải, tôi bắn lầm.
- Ông bắn lầm? Phải! Rồi một ngày kia ông tương cả đạn vào bụng người ta nữa!
- Nhưng hình như tôi còn nhớ chính ông cũng bảo rằng hổ, và xui tôi bắn?
- Tôi nói đùa, mặc kệ ông chứ, ai bảo ông nghe? Chó hay hổ ông không biết à?
- Thôi thì nếu có phải chó của ông thật, thì ông bằng lòng, tôi đền tiền ông vậy.
. Ông là ai?
- Tôi là con Quan Huyện, ông này là ông Quyền Cá-rán-tiêng trong huyện.
Tôi tưởng tôi loè nó bằng chức tước to như thế, mà tôi gọi anh lính cơ là ông, lại lên giọng tây có uốn lưỡi thì nó đủ sợ, ai ngờ mặt nó cứ điềm nhiên. Tôi nói:
- Tôi đền tiền ông.
- Tôi không lấy đền.
Tôi hung hăng, trợn mắt, cầm ngang khẩu súng, hất hàm hỏi:
- Vậy anh muốn gì hơn nữa?
Lối bắt nạt ấy rất công hiệu. Trên cái mặt điền nhiên kia, quả lờ mờ có vẽ ra hai nét nhăn cười:
- Tôi chẳng muốn gì hơn, mời hai ông về nhà xơi nước.
Xơi nước? Tôi cần gì đến nước của nó? Tôi nói:
- Tôi không vào, tôi không khát.
- Thì mời hai ông vào chơi nói chuyện vậy!
Nói chuyện? Chỉ có báng súng của tôi muốn nói chuyện với ngực nó thôi? Nó tưởng tôi ngu ngốc như nó đấy ai chẳng biết nó dử tôi vào nhà để sửa một mẻ cho tôi đỡ tính ngông ngược? Tôi nói:
- Câu chuyện chỉ có thế, ông có muốn nói thêm gì thì nói ở đây.
- Thì hãy mời hai ông vào chơi thư thả đã.
Đến câu này thì thằng cha có ý nằn nì. Tôi hiểu cái thâm ý của nó, nhưng hai chúng tôi lực lưỡng dường này, lẽ nào lại bó tay cho nó thịt? Lòng tự ái làm tôi hăng tiết, tôi liền đi trước và bảo:
- Nào ta đi!
Ấy hùng dũng thế, mà vừa đi, tôi vừa phân vân trong bụng đấy.
Tay lễ mễ xách con chó mềm như sợi bún, anh ta sấn lên đi trước. Đến nhà, anh ta mời chúng tôi lên buồng khách, rồi treo ngược con chó lủng lẳng ở đầu bếp và không biết đi đâu mất.
Ở vào cái địa vị tù giam lỏng, mấy lần chúng tôi bàn nhau đánh tháo, nhưng đã trót xưng danh thật ra rồi thì có trốn đằng trời cho thoát? Tôi nóng cả ruột, buồn cá người. Cái kim ngắn đồng hồ trên tường đã trỏ chếch sang chữ một.
Một lúc tôi thấy con bé con ở dưới bếp mang nước sôi lên rồi bưng bộ ấm chén chè tầu ra nói:
- Thầy cháu mời các ông xơi nước.
Tôi chẳng dại gì mà uống nước của kẻ thù, biết rằng chè thực hay bùa mê, thuốc độc? Tôi đang xem xét ấm chén, ngửi chè, thì thấy một người lạ mặt đến, khăn áo chỉnh tề. Anh Cá-rán-tiêng nhận biết ngay là lý trưởng đương thứ. Người lý trưởng này lễ phép hơn người lý trưởng cựu, mà có ý thạo khoa giao thiệp lắm.
Anh ta cứ gợi chuyện ra hỏi, nhưng trong bụng tôi lo lắm, không biết ý tứ họ định làm những gì, nên tôi chỉ đóng vai trả lời bằng những tiếng đắn đo, đủ diễn ý tưởng, chứ không rậm lời như lúc thường. Rồi độ nửa giờ sau, người Chánh hội, Phó hội, Thư ký, Thủ quỹ lục tục đến dần.
Ơ hay, cả hội đồng hương hội họ kéo nhau đến làm gì đông làm vậy? Làm biên bản án mạng con chó chăng? Tôi càng sợ, mà không thể đoán được ra sao, vì xem ra bọn họ, anh nào bề ngoài cũng ôn tồn nhã nhặn như anh lý trưởng đương thứ cả. Lạ một nỗi anh chủ nhà không ra mặt, để mặc một lũ trên này ngồi nói chuyện với nhau. Họ hỏi thì tôi đáp, mà lúc thấy nguy tôi lại khôn khéo hơn, thỉnh thoáng tôi trả lời: Không biết. Tôi không thể dò được ý họ. Giá họ cùng hàng tuổi cùng tư tưởng, cùng kiến thức, cùng nghề nghiệp thì tôi xét tính tình dễ hơn. Cho nên trong bụng tôi bực dọc lo sợ, nhất là chưa thấy họ đả động đến chuyện chó chết. Mặt anh Cá-rán-tiêng cũng chẳng kém vẻ rầu rầu; nên hai ba lần, tôi nháy anh đứng dậy và ngỏ ý đòi về thì họ cố mời cho được. Lắm lúc tôi nằng nặc đòi đi ra, thì họ phải gọi lão lý cựu lên giữ lại, rồi mấy người ra đóng cổng.
Đến hai giờ chiều, tôi thấy tiếng đàn bà nói léo nhéo ở ngoài sân, về việc con chó. Tôi biết rằng vợ anh chàng láo xược đã về, mà mình sắp bí beng to đến nơi. Tôi đang sửa soạn một cuộc xung đột kịch liệt để đối phó trong lúc khó khăn, thì tôi thấy người chồng ở bếp chạy ra, lúc trợn mắt, lúc chỉ trỏ lên buồng khách, rồi người đàn bà có ý láo xược hơn chồng ấy hầm hầm chẳng khác gì con sư tử cái, chạy lên chào mọi người rồi hỏi tôi:
- Thưa cậu, tôi xin hỏi thực cậu, ai bắn chết con chó nhà tôi?
Tôi đứng dậy, trả lời một cách cứng cỏi:
- Tôi, chính tôi bắn vì tôi ngỡ là con hổ tôi đã xin đền, nhưng ông ấy không nghe.
- Được rồi!
Hai tiếng cụt thun lủn ấy chẳng phải để trả lời tôi mà chính là để phê vào câu chuyện chó chết, lại ngụ ý đe doạ. Tôi tức quá, toan bảo cho con mẹ hung hãn ấy mấy câu, nhưng nó đã nhanh chân ra sân, rồi mở cổng cắp rổ đi đâu, tôi không biết. Lúc đó hai người trai trẻ lực lưỡng ở ngoài đi vào, mà bọn hội đồng hương hội lại nói với nhau rằng:
- À, hai anh tuần này được việc đấy!
Rồi con bé con lên nói:
- Thầy cháu mời các ông xuống dưới nhà nói chuyện.
- Bọn họ đứng cả dậy, tôi và anh Cá-rán-tiêng cũng theo ra, nhưng người Chánh hội xua tay nói:
- Mời các ông cứ ngồi chơi.
Nó rồi ra cả, đóng chặt cửa lại, làm cho tôi chăng còn trông thấy gì ở ngoài.
Tôi lắng tai nghe, nhưng họ thì thào với nhau khẽ quá nên chỉ rõ có mấy tiếng sau, làm cho tôi rợn tóc gáy mà thương hại cho tôi mới hai mươi cái xuân xanh.
- Cho chết Chẳng phải trói? Mất cựa!... Con dao này chửa được sắc...
Lo quá, thân cô, thế cô, tôi biết tính làm sao? Súng để cạnh mình, tôi nằm, một tay vắt lên trán để nghi kế một tay thọc vào túi chỉ rình móc đạn ra. Tôi bàn mưu với anh Cá-rán-tiêng, xem nên chống cự bằng cách gì thì anh ta lại cuống quít quá tôi, thêm một mối lo nữa là anh đã bỏ trại không xin phép.
Rồi nghĩ luẩn quấn rối beng trong óc, tôi ngủ bẵng lúc nào không biết. Trong khi ngủ, tôi chiêm bao thấy bao nhiêu phen kinh hồn, và giữa lúc đương nằm mê thấy họ đem mình ra bỏ rọ, thì có người lay vai tôi đánh thức.
Tôi choàng mắt dậy: lũ người ban nãy đứng cả trước mặt. Tôi giật mình, nghĩ:
- Có lẽ giờ này là giờ quyết định cái số phận mình chăng?
Tôi bèn ngồi nhổm dậy, tay vớ vội lấy khẩu súng. Họ đồng thanh nói:
- Nào, mời cậu, chả mấy khi, ta hãy đánh chén đã?
Trời ơi, câu nào họ nói cũng y nhị sâu xa. Hay, nghĩa là họ còn để cho tôi vài phút mà ăn uống no nê chăng?
Tôi thấy lù lù trên bàn một mâm rượu đầy tú ụ, la liệt những đĩa, ngùn ngụt khói bốc lên thơm phưng phức nào dựa mận, nào thịt luộc, nào muối gừng, nào chả nướng. Tôi nhìn đồng hồ đã hơn năm giờ chiều rồi nóng ruột toan không ăn, thì họ mời và dắt ngồi vào ghế. Tôi cứ phải để ý dò từng tí, xem họ đưa mình đến cái hố nào. Họ mời tôi nâng cốc, cầm đũa, uống, ăn. Tôi ăn dè, uống ít, và chẳng nói câu nào, vì luôn luôn nghĩ đến tính mệnh, nên phải nghe ngóng, nhai mãi mới dám nuốt. Hễ họ gắp tiếp là không bao giờ tôi dám bỏ mồm, lại gắp trả vào đĩa. Một việc họ trả thù tôi, mà cần gom nhiều trí khôn lịch duyệt hơn tôi để bàn soạn và lại xếp đặt bằng một cái chương trình lâu thì giờ, bí hiểm thế, thì tài nào tôi chẳng phải giữ mình cẩn thận.
Họ ăn uống cũng ung dung, ì ộp như đám đánh chén trong đình, khen lẫn nhau nấu khéo. Mà họ nấu khéo thực, tiếc rằng tôi không dám bạo ăn, khéo đến nỗi từ ngày ấy đến bây giờ, tôi chưa được thấy bữa thịt chó nào ngon như thế nữa. Trong đám đánh chén, tôi để ý nhất vào anh chàng láo xược. Tôi thấy anh ấy ăn tục uống nhiều nhất, mà động anh ta nói câu gì ra, tôi cũng thấy ngang tai muốn bẻ. Không hiểu vì ác cảm mà tự nhiên tôi cảm tưởng thế hay sao, chứ mà tôi thấy anh ta làm gì, nói gì, tôi cũng chỉ muốn tặng anh một phát đạn vào ngực cho đỡ ngứa tay ngứa mắt!
Tôi ăn xong trước nhất, rồi đến anh Cá-rán-tiêng.
Vậy mà họ mới uống cạn có một chai rượu. Bao giờ cho hết hai chai nữa đương đứng chực ở giữa bàn?
Rửa mặt xong, tôi có thể đi đi lại lại để xỉa răng.
Lão lý cựu thấy tôi như vậy, bèn nói:
- Mới chửa sáu rưỡi, đã tối đâu, mời cậu hãy ngồi chơi. Thong thá chán!
Ờ, quái đến sáu rưỡi họ định làm gì tôi? Lo quá, sợ quá.
Hẳn chả còn nghi ngờ gì nữa, gần bẩy giờ, lão Chánh hội nhìn ra ngoài sân, thấy tối, nói:
- Thôi tối rồi, ông Cựu gọi hai chú tuần dưới bếp mang hai thanh giáo lên đây!
Nghe câu nói ghê cả người, tôi vớ lấy cái súng và liếc mắt gọi anh Cá-rán-tiêng, đứng lại gần tôi, trước bức tường để thủ thế cho dễ, vì tôi mới học được miếng võ ấy. Có lẽ sống chết phen này đây?
Đứng trước cái phút tôi đoán hẳn là phút cuối cùng lòng tôi nao nao không sao tả cho xiết nổi được. Bao nhiêu phiến ảnh trong hai mươi năm trời của đời tôi đều phưn phứt diễn nhanh như chớp ở trước mắt. Việc hay làm cho tôi tiếc đời, việc dở làm cho tôi hối hận mà bao nhiêu người thân thích với tôi, cũng lần lượt hiện ra trong trí nhớ, khiến tôi nghĩ tới tình cảnh ấy, nông nỗi này mà thổn thức, xuýt chẩy nước mắt. Chị ơi! Đọc đến đây, chị có thấy động lòng không? Nhưng đố chị đoán được cái thâm ý của anh chàng Lý cựu ấy thế nào mà gọi tuần mang giáo mác đến làm tình làm tội gì tôi và cái kết cục câu chuyện chó chết này thế nào đây?
Thưa, kết cục chỉ có thế thôi ăn xong, chúng tôi đi về tuy trời tối, rừng rậm, nhưng trong bụng vững như thành, vì đã có hai người tuần giáo mác dẫn lối cẩn thận! Vậy anh Lý láo kia làm thế là nghĩa làm sao?
Thế nghĩa là, người tuần đưa đương giảng cho tôi nghe thế, thế nghĩa là anh Lý này có tính sợ vợ mà lại thích ăn thịt chó, lâu nay vẫn khao khát thèm thuồng nhưng không dám xin tiền mua. Nay nhân thấy tôi vác súng qua, lại trông gà hoá cuốc, cho nên anh Lý “áp triện” nhận thực chẳng ngay con chó vện của anh ấy là con hổ, để tôi đưa phát đạn vào giữa đầu? Anh rất thoả lòng, nhưng còn sợ vợ bắt đem ra chợ bán mất, thì hụt bữa chén ngon, anh bèn cố mời cho được những tay tai mắt trong làng đến sẵn cho vợ mất nói, mà anh cố níu rịt lấy tôi, vừa để làm chứng, vừa để đền ơn, vừa để lấy thêm thế lực loè mẹ đĩ!
Vậy mà, than ôi! Sao anh chả cho tôi sớm hiểu thâm ý để tôi nói dăm ba câu cảm tình?
10 Avril 1932
Chuyện của cô ấy
Nên giấu tên cô ấy. Và cũng chẳng cần biết để làm gì.
Miễn là ta biết chuyện của cô ấy.
Cô ấy xinh, thích ăn diện. Đã đỗ tú tài. Không học tiếp đại học, vì lấy chồng. Vợ chồng rất yêu nhau.
Chồng cô ấy là công chức, tháng tháng lãnh một số lương đủ ăn xài. Nhưng ăn xài mới đủ thôi thì chưa ổn. Nếu chỉ đủ thì bao nhiêu thứ hàng tràn ngập trong các chợ, trên vỉa hè Sài Gòn, Gia Định, vừa đẹp vừa rẻ, vừa tiện lợi cho đời sống vật chất, ai tiêu thụ cho? Cho nên cô ấy cũng xin đi làm để có dư tiền.
Và cô được vào làm ở một sở của Mỹ.
Sở nào của Mỹ cũng có khối người Việt. Việc ít nhưng lương nhiều. Cảm ơn người bạn đồng minh tốt.
Cô ấy ở đó được chừng ba tháng, thì một buổi sáng, vào sở thấy trên bàn làm việc có một phong thư ngoài bì đề tên mình.
Mở bì ra, cô thấy một tập giấy đủ một trăm đô-la, và một bức thư:
“Thưa cô, tôi rất lấy làm vinh dự nếu được cô nhận lời đi chơi mát trong thành phố bằng xe hơi với tôi độ nửa giờ, sau buổi làm việc chiều mai 19-4. Nếu cô đồng ý tôi xin cô nhận chút quà của tôi đính theo đây.
Ký tên (một người Mỹ cùng làm trong sở, mà cô có biết mặt)”
Đọc xong, cô không suy nghĩ lâu, gấp thư và giấy bạc bỏ vào phong bì để nguyên chỗ cũ.
Buổi chiều đến sở, cô không thấy phong thư ấy. Hẳn là người Mỹ này biết cô không đồng ý, nên đã lấy đi.
Nhưng sáng hôm sau, là ngày 19 tháng 4, cô lại thấy chiếc phong bì trên bàn làm việc. Trong cũng có một trăm đô-la, và bức thư vài dòng như hôm trước. Chỉ có ngày hẹn khác, ngày 20 tháng 4. Vẫn tên ký của người Mỹ ấy.
Cũng như hôm trước, cô lại gấp tiền với thư vào phong bì, để lại ở bàn giấy. Nghĩa là cô không đồng ý cho cái anh chàng đó được vinh dự đi chơi phố với cô trong nửa giờ đồng hồ.
Lại cũng như hôm trước, buổi chiều cô không trông thấy chiếc phong bì ở trên bàn.
Nhưng rồi đến sáng ngày 21, cô lại thấy chiếc phong bì đặt ở trước mặt. Cũng đô-la và bức thư, nhưng đổi ngày hẹn là ngày 22.
Cô lại không nhận lời. Và cứ như vậy suốt một tuần, buổi sáng, bức thư để lại, buổi chiều, bức thư lấy đi và buổi sáng hôm sau, thư lại tới, chỉ đổi ngày hẹn thôi.
Việc này, cô chẳng cho các bạn đồng sự biết. Và cũng chẳng nói chuyện với chồng.
Ở Sài Gòn thường cô nghe thấy nhiều người khen Mỹ là lịch sự, là hào phóng. Dễ người Mỹ này lịch sự và hào phóng đây. Cô lại nghe nói Mỹ là bạn của Việt Nam, họ thường đi chơi với mình. Đối vẫn người Việt, họ lễ độ, nhã nhặn và đứng đắn. Nhất là đối với phụ nữ. Cho nên, buổi sáng thứ bảy, nhận được thư, cô có suy nghĩ. Suy nghĩ về cái con người quá xá là kiên tâm này đối với cô.
Hàng ngày, đi làm, cô đạp xe đạp mất chừng mười lăm phút. Cô mong dành tiền sắm chiếc Hon đa, đi cho khỏi mất sức và mất thì giờ.
Nay một người Mỹ chỉ mời mình đi chơi có nửa giờ mà biếu mình một trăm đô la. Hay là nhận lời quách.
Có làm sao? Nếu sáng thứ hai, cô vẫn thấy người ấy mời đi chơi, thì cô đừng nên từ chối nữa. Cô nghĩ thế.
Thì quả nhiên, trên bàn làm việc, cô lại thấy chiếc phong bì.
Cô đọc thư, nhận tiền, bỏ vào túi.
Chiều ngày thứ ba, biết là được hẹn, người Mỹ đợi cô ở cửa sở. Thấy cô ra, hắn lễ phép cúi chào. Cô giơ tay ra bắt. Hắn mở cửa xe, mời cô vào. Rồi nhanh nhẹn, hắn mở máy.
Trong khi đi các đường, hắn nói chuyện. Hắn hỏi thăm gia đình cô, hỏi tất cả những cảnh, những việc nhìn thấy trước mắt mà hắn chưa hiểu. Hắn nói về gia đình hắn, và hắn rất kính phục người Việt Nam, vì người Việt Nam có nhiều đức tính và rất thân thiện với người Mỹ. Giọng nói của hắn cho thấy hắn quả là lịch sự lễ độ và nhã nhặn. Hắn đưa cô đến đầu hẻm (vì nhà cô ở trong hẻm) thì vừa đúng nửa giờ. Từ giã hắn, cô giơ tay ra bắt. Hắn đứng thẳng, cúi đầu chào, như chào một người trên.
Việc này bẵng đi, đến mười hôm sau, cô ấy lại được tên Mỹ ấy mời đi chơi trong nửa giờ. Hắn hẹn ngày giờ đón cô, và cũng biếu cô một trăm đô la.
Nửa giờ đồng hồ nói chuyện với một người dân nước văn minh mà còn được tiếng tội gì mà không nhận?
Thế là cô lại đi chơi với hắn. Và cũng vẫn nhưng thái độ cử chỉ đúng đắn như lần trước.
Vậy là cô có dư tiền để sắm chiếc Hon-đa. Chồng cô hỏi tiền nào, cô chỉ mỉm cười, nói là đi vay.
Năm hôm sau, cô lại nhận thư và tiền của người bạn Mỹ mời cô đi chơi. Giờ thì phải dùng tiếng “bạn” mới đúng.
Rồi đến nửa tháng, cô không thấy hắn mời. Cô đã có ý mong.
Thì một hôm, cô nhận được phong thư. Đập ngay vào mắt cô, là tập dày những hai trăm đô-la. Hắn mời cô dùng bữa cơm thân mật với hắn ở khách sạn X. Cô có nghĩ đến cái ý “tầm gửi lấn ngành”. Cô từ chối bằng cách để lại phong bì ở bàn giấy. Nhưng rồi buổi chiều, chiếc phong bì thư mời ăn biến đi để rồi sáng hôm sau lại xuất hiện ở trước mặt cô.
Ba lần như vậy. Đến lần thứ tư, cô cho phong bì vào túi. Nghĩa là cô nhận lời.
Bữa tiệc chiêu đãi thật trang trọng. Và vẫn những cử chỉ lời nói lễ độ và thân mật như mấy lần trước.
Bốn hôm sau, cô lại được mời, và cô không chối từ.
Và lại một lần nữa: Chả sao có bạn là người nước văn minh, mình học thêm được sự văn minh. Lại có lợi nữa. Đời cô thật may mắn hơn các chị em khác. Cô sắm ti-vi tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, may mặc cho mình, cho chồng. Cô còn muốn có chiếc xe hơi, để chủ nhật; vợ chồng đi chơi với nhau. Giá mà đủ tiền tậu được biệt thự thì hoàn toàn sung sướng.
Mười hôm sau nữa, cô ấy nhận được thư của người bạn mời ăn, nhưng lần này ăn ở nhà hắn. Có lẽ hắn cho là yêu cầu khó khăn đối với một người phụ nữ, nên hắn biếu cô những ba trăm đô la.
Vì muốn có tiền để thoả mãn đời sống vật chất với chồng, nên cô không từ chối người Mỹ.
Bữa cơm hôm ấy cũng sang trọng không kém bữa cơm ở khách sạn. Chuyện trò còn có vẻ thân mật hơn.
Ăn xong, hắn tiễn xe cho cô về nhà.
Rồi một lần nữa, hắn lại biếu cô ba trăm đôla để mời cô về nhà ăn cơm với hắn.
Trong độ hơn một giờ đồng hồ, xe đón, xe đưa, chẳng mất công khó nhọc, còn được ăn ngon, được tiền nhiều, buôn gì lời bằng?
Hắn thuộc tính cô thích ăn gì, và không quen uống rượu mạnh, nên biết chiều ý cô và cũng chỉ dùng rượu bia. Hắn tỏ vẻ hân hoan và cảm ơn cô là tấm gương cho hắn bắt chước, nay hắn bớt được mấy thứ rượu có hại cho sức khoẻ.
Lần thứ ba, hắn mời cô đến nhà để ăn cơm. Lần này, hắn khoe rằng mẹ hắn vừa gửi cho hắn một thứ nước ở bên Mỹ mới chế ra. Chỉ cần một giọt tí xíu nhỏ vào rượu bia, thì thấy có mùi thơm lạ lùng, thơm đến mấy giờ đồng hồ ở cổ họng, và chất men lại dịu hẳn đi.
Cô uống bia với thứ nước ấy, thì quả nhiên thấy thế thật.
Nhưng cơm ăn xong, lạ quá, cô không muốn về nhà vội. Rõ ràng là một dục vọng của thú vật nó làm cô cồn cào không yên. Hẳn là tại giọt nước nhỏ vào rượu: Bởi vậy người bạn quý của cô đòi hỏi, cô chẳng từ chối tý nào: Cô vào buồng ngủ của nó. Và cửa đóng kín lại.
Đêm hôm ấy, khi về nằm cạnh chồng, cô ân hận, cô xấu hổ, cô nhục nhã. Cô muốn khóc, nhưng phải cố nhịn. Sợ chồng biết, cô càng không dám thú tội với người bạn trăm năm.
Lần sau tên Mỹ lại mời cô đến nhà chơi, nhưng không phải để ăn. Nó vẫn kèm theo ba trăm đô la như trước. Cô hiểu là từ nay, cô biến thành đồ chơi của nó.
Nó thuê bằng tiền. Nghĩ vậy, nhưng cô cứ đi. Không phải đi cho nó thoả dục vọng, mà là để mắng nó là đồ xỏ lá, đồ khốn nạn, miệng nói kính phục người Việt Nam, nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, dùng tiền, dùng thủ đoạn để cám dỗ cô, lừa đảo cô, làm hại đời cô. Cô sẽ ném trả tiền vào mặt nó.
Cô mắng nó thế thật, mà còn dùng nhiều lời đáo để hơn nữa để chửi rủa nó, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục ấy.
Thằng Mỹ chỉ cười. Nó không cãi. Nó còn mời cô xem chiếu cuốn phim nó mới quay được.
Ối trời đất ôi! Thì ra cuốn phim nó đã quay lúc cô vào buồng với nó, từ lúc cô lên giường nằm đến lúc cô mặc xong quần áo.
Cô la hét như điên như cuồng. Cô đòi nó phải đưa cô cuốn phim để cô huỷ đi. Nó không thể từ chối. Cô châm lửa đốt ngay trước mặt nó. Rồi cô về. Yên tâm.
Một tháng sau, cô nhận được thư của nó. Không kèm theo tiền. Cô hiểu là nó không dám bắt cô làm thú vật.
Thư nhiều chữ hơn những thư trước.
“Thưa cô,
Tôi sắp được về nước, nên cần bán những đồ đạc để lấy tiền. Tôi biết rằng cô cần mua lại một thứ, nên tôi viết thư này. Ấy là cuốn phim hôm nọ cô đã đốt. Cuốn cô đốt chỉ là bản in lại. Còn bản chính, tôi vẫn giữ để đợi đến ngày tôi rời Việt Nam sẽ bán lại cho cô. Vì là cuốn duy nhất và quý giá vô cùng, nhưng lại vì đối với cô là người mà tôi mang ơn, nên tôi chỉ bán tính bằng giá rẻ, là hai ngàn đô-la thôi.
Tôi đợi cô một tuần lễ để được nghe sự đồng ý của cô. Xin giao hẹn trước, là tôi không thể biếu không cho cô thứ quý giá này. Quá một tuần, nếu tôi không nhận được trả lời của người mà tôi dành quyền ưu tiên, tức là cô thì xin cô cho phép tôi để lại cho người khác.
Cùng lắm, nếu không ai có đủ tiền để lấy lại cuốn phim mà tôi bắt buộc phải cho không, thì người được tôi biếu phải là chồng cô.
Kính xin cô trả lời, và xin cô nhận những lời cảm ơn trước của tôi.
Ký tên”
Đọc xong thư, ấy bàng hoàng, tái mét mặt, suýt ngã. Các bạn đồng sự tưởng cô bị cảm, vội vàng cứu chữa cho cô. Cô nghiến răng, đập chân tay nguyền rủa hết lời thằng khốn nạn. Cô đã nhận của nó bao nhiêu tiền, thì lần này nó đòi lại tất cả. Và thằng ở cái nước có óc con buôn, còn buôn sự đểu cáng để lấy thêm hai trăm đô-la làm lãi nữa. Mà biết đâu lại không phải là thằng khốn nạn đã buôn sự hào phóng đối với cô bằng tiền của cục tình báo Mỹ CIA thuê nó khai thác một loại tài liệu cần thiết.
Cô nghĩ nhiều. Cô lo nhiều. Cô phát ốm.
Cô thú tội với chồng, mong chồng trả thù cho cô.
Không thể đội trời chung với chúng nó. Chồng cô tha thứ cho cô. Cô chỉ đáng thương, vì mắc mưu của nó.
Nhưng cô không thể chịu nổi nhục.
Cô đã tự sát.
Sài Gòn, 20 tháng 10 năm 1975
Cô Kếu, gái tân thời
Nhưng cô có nhận cái tên ấy nữa đâu!
Kếu là nghĩa thế nào? Nghĩ bao nhiêu, cô lại oán cha trách mẹ, không đặt cho cô cái tên mỹ miều. Mà chữ nho, nào thiếu gì tiếng hay, sao cô chịu mang cái tên nôm na xấu xí ấy mãi? Nhất là đi ngoài phố, bay là ở chỗ đông người, mà mẹ cô gọi: Kếu ơi! Thì cô đỏ mặt tía tai, hậm hực, lấy làm ngượng quá! Lại còn những chị em bạn cô? Cứ những lúc ở Bờ Hồ, hay thấy cô gặp một công tử quen nào, là nhè ngay cái tên cúng cơm của cô ra mà réo quang quác, rồi cười rúc rích.
Nhiều lần cô đã van lạy, xin rằng giữ sĩ diện cho cô mà gọi cái biệt hiệu cô mới nhờ người ta đặt hộ là Bạch Nhạn ấy, nhưng các mẹ ranh tai ngược, cứ vờ quên, để bêu cô, mới tức chứ?
Cô Bạch Nhạn - phải đấy, bởi vì cô đã thề độc đứa nào còn bêu cái tên cúng cơm của cô - cô Bạch Nhạn buồn lắm. Vì cổ hủ hết cách. Cái tên đã là “Ca êu sắc” mà lại ăn mặc lối cổ? Ấy thế cũng mang tiếng là con gái Hàng Đào! Các bạn cô, cô Bích Ngọc thì đã được mặc quần trắng và áo sáu khuy. Cô Song Khê đã được cạo răng. Đến ngay như cô Mộng Lê, mà bà cụ cũng chịu để chị đánh phấn và mặc áo mầu nữa là! Ấy là chẳng dám so kè với cô Minh Nguyệt, được mẹ chiều chuộng quá mà cho phép đi học cả nhẩy đầm ở nhà bạn trai đấy!
Thế mà cô Bạch Nhạn ta, úi chào, động có chải cái tóc xoè xoè ra một tí, là bị chửi liền.
Ức nhất là quanh năm cô chỉ được mặc đồ thâm như người có trở, trông tối sầm như bà cụ.
Ấy, giá cô không mua cái khăn nhung và nhờ bà mợ vờ đem lên cho, thì có lẽ bây giờ cô còn phải chít cái khăn xa-tanh trông như con Sen con Nụ.
Cô bực mình quá! Sao lại có bà cụ nghiệt như mẹ cô bao giờ. Bà cụ tưởng cứ đánh phấn với mặc áo mầu là đĩ cả đấy!
Bà cụ biết đâu rằng các cô gái non bây giờ, mỗi năm mỗi mốt, thay đổi xoành xoạch, thi nhau mà quần nọ áo kia.
Mà có phải nhà cô nghèo kiết gì cho cam! Tiền của nhà cô, tưởng có sắm ăn, sắm mặc bằng mấy người ta, cũng còn thừa nữa là. Nhưng bà cụ cứ bắt na bắt nét, bắt tập những nết ăn, ý ở, bắt học những câu nói, việc làm.
Một hôm, cô rình lúc bà mẹ ngủ, mới khẽ lấy hộp phấn Cô-ty mà cô nhờ người mua hộ, vẫn cất kỹ ở trong hòm. Cô đánh mặt cho rõ trắng, bôi cả nốt ruồi giả bên cạnh má. Cô ngồi soi gương, ngắm đi ngắm lại một mình độ nửa giờ. Rồi lại phải đi rửa mặt cho thật kỹ mới dám đi ngủ.
Năm nọ, cô có giấu mẹ, may ngầm một cái áo lam.
Nhưng cô chẳng mặc lần nào. Đến bây giờ mầu ấy lại là mầu cổ nhất rồi. Những lúc cô có việc đi cùng chỉ em bạn, thì tự cô thấy ê chệ nhất đám, vì cách ăn mặc của mình. Cô than thở, thì cô Song Khê xui rằng:
- Tội gì! Có tiền, cậu cứ sắm văng đi! Mẹ cậu có giết được cậu đâu mà sợ!
Nhưng cô không dám liều thế. Vì lỡ bị mẹ chửi thì cũng khổ. Cô Bích Ngọc cũng phàn nàn hộ cô:
- Ở đời này mà cử ăn mặc theo lối cổ, thì bất quá lấy được anh giáo học là cùng! Những thằng Cao đẳng nó chỉ ưa tân thời thôi.
Thấy bạn vẽ cái tương lai, cô lại thở dài, oán cái nền nếp nhà cô. Sao trời đã sinh ra cô là con gái; con gái phố Hàng Đào; con gái phố Hàng Đào có nhan sắc; con gái phố Hàng Đào có nhan sắc của một nhà giàu; đương thì đào tơ mơn mởn, mà không được sinh trưởng vào một cái gia đình được ăn mặc tự do, để được xứng đáng với từng ấy cái mà cô được hơn người.
Cô bực. Cô bực quá!
Thỉnh thoảng, cô ngồi trông hàng, ló mắt ngắm các tiểu thư đi ngang qua nhà mà đâm ghen.
Nhiều cô thực là xấu, cái môi cong tớn, cái mắt ốc nhồi, thế nhưng hễ ăn mặc đúng mốt tân thời thì trông không thấy xấu nữa. Thế thì cô, tuy trẻ và đẹp, nhưng vì ăn mặc đen thì cớ lẽ cái nhan sắc cũng bị tiêu đi mất rồi chứ còn gì? Gớm! Thế thì chán thật. Cô thèm! Cô thèm quá!
Năm nào cô cũng lên Hàng Ngang vài chục lần, để xem hàng mặc mới. Nhiều thứ đẹp và rẻ lắm! Cô ước ao.
Cô giơ tung cả cuộn của người ta ra mà ướm vào mình, đứng trước cái gương, ngắm nghía thật kỹ. Cô lấy làm thích lắm. Rồi cô lại nhà bạn, mượn áo mới may để mặc thử, rồi đi lấy dáng tha thướt, thì ai cũng phải khen:
- Bạch Nhạn nó mặc tân thời ăn lắm nhỉ! Thử cởi cái quần thâm ra xem nào.
Rồi họ lại nói:
- Ừ ra cứ mặt trái xoan và người thon thon, thì ai mặc quần trắng áo mầu cũng nổi.
Mỗi bận cô được khen như thế, thì về nhà, cô lại đâm nghĩ. Cô mơ màng đến ngày cưới cô, quyết thế nào cô cũng xin mặc quần trắng và áo sa-tanh hồng, thêu hoa to bằng cái bát. Rồi cô tưởng tượng đến người bạn trăm năm của cô, trẻ, đẹp, đẫy đà cứ chiều chiều dắt cô ra Bờ Hồ hóng mát. Những người ấy phải mặc quần Tây phẳng nếp, đầu chải thật bóng. Mà cô thì cầm cái mũ cho chồng, mặc lối tân thời từ đỉnh đầu đến dưới gót!
Cô mơ màng cho nên cô thèm quá rồi? Cô không chịu nổi nữa. Cô đánh liều. Cô giấu bà cụ, sắm một mẻ toàn nhưng thứ tân thời.
Cô mua đôi giầy cao gót, mũi vá; may một cái quần lụa Nhật Bản có bốn nếp gấp ở lườn, lại khâu trái một đường ở ống, mà ống thì hẹp, và vén gấu; một cái áo sơ mi viên đăng-ten và thêu hai bông hoa ở hai bên ngực; một cái áo cánh kín tà dài đến hông, cũng viền đăng-ten xung quanh; và một cái áo dài sặc sỡ, chi chít những hoa là hoa vẽ rắc rối như thời cục nước Tàu; một cái ví đầm bằng da hung hung, trong có sẵn những đồ để trang sức.
Cô sắm những thứ ấy, nhưng không dám để ở nhà. Cô gửi đằng chị Bích Ngọc, ở phố Hàng Trống.
Rồi từ đó, mỗi buổi chiều, cô thu thu hộp phấn vào bọc, cô đến chơi nhà cô Bích Ngọc.
Đến nơi, cô xổ khăn, lấy lược ra chải lại mái tóc. Rồi rẽ lệch đường ngôi.
Rồi uốn lại mái tóc cho cong xuống và thò ra mang tai. Rồi cô bôi phấn khắp mặt, tai và gáy. Rồi cô vươn cổ ra để xoa cho đều. Rồi cô rề dài môi ra để tô son. Nhưng cô bạn dạy rằng đừng nên bôi cả vào bề dầy của môi mà xấu, phải làm cho cái miệng chúm lại, nghĩa là phải theo chiều cái môi mà vẽ đỏ một cái môi giả, mỏng và hẹp hơn làn môi thật, gọi là môi quả tim. Rồi cô mặc quần trắng, xếp cho thẳng nếp, đứng ống. Rồi cô vận cái áo sơ-mi, cái áo cánh và áo dài sặc sỡ, vuốt cho phẳng phiu. Xong đâu đấy, cô lận đôi giày mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tú gương mà đứng. Cô quay đằng trước. Cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại. Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô ngắm. Cô bàn. Cô bình phẩm. Cô khoái lắm!
Rồi trong độ nửa giờ, ngắm chán, cô trút hết bộ cánh ra, xin thau nước, lau kỹ cái mặt rồi mặc quần áo thâm, đi về.
Ấy chẳng ngày nào là cô Bạch Nhạn không diễn tân thời một mình, một lúc như vậy. Có thế cô mới đỡ thèm, đỡ hậm hực Nhưng những hôm mưa lướt sướt cả ngày, thì cô nóng ruột quá. Mà cứ đến cái giờ ấy, quái lạ, cô nằm bẹp gí, chẳng thiết làm cái phải gió gì cả.
30-5-1933
Đàn bà là giống yếu
Sau năm năm chuyên môn khao cứu các thớ thịt đàn ông, cái Bống đã biết đặt cái sắc đẹp của mình vào những công cuộc khai mỏ.
Quả tim nó chẳng phải là cái bắp thịt đỏ hỏn, thoi thóp, cảm động nữa. Quả tim nó đã biến thành một gian buồng nhỏ, bọc sắt, có ống thu lôi trong đó chứa chất biết bao nhiêu hy vọng của nhùng anh chàng dại dột, nhìn đời qua cứa số nhà trường, tay cắp sách miệng lầm nhấm, nhắc lại câu: Đàn bà là giống yếu.
Một hôm, trong rạp hát, giữa chốn tối tăm, nó đã mỉm cười, đem quả tim quý hoá đó, nùng nịu đặt vào lòng một quan phu goá vợ, mà một bước lên chức bà lớn nghênh ngang.
Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà lớn. Nên chăng mấy chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu, chỉ riêng bộ mặt cũng đã long trọng. Người ta tương chiếc bánh dầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự, và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát-bàn, thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm sâu như bụng dạ một người đàn bà. Song, quan ông lại có cái hình thể kháng hẳn. Vì ở người ngài cái gì cũng cong, từ cái sống mũi đên cái lương tâm, từ cái lưng đến cách sử kiện. Tuổi đã già mà ái tình còn trẻ. Ngài mua được người ngọc ở chốn thành thị về để hầu hạ sớm khuya, thì thoả chí lắm. Ngài quyêt từ nay không chê bai những món lê nhỏ quá, để làm sao có đủ tiền cho người yêu tiêu xài vung phí.
Thường, những buổi chiều tà, khi bức màn đen lóng lánh kim cương rủ xuồng để che kín vũ trụ, trong vườn hoa, trước tư thất quan ông quan bà nhỏ to trò chuyện như một cặp nhân tình.
- Thế nào? Mai là rằm rồi, bà đã sửa soạn ra đền chưa?
- Đã đem đầu vào làm tôi con Thánh thì tôi quên làm sao được. A, ông này, tháng hai Chính, tôi tống cố nó đi rồi. Ai lại cung văn mà toét mắt, bẩn như ma. Lắm khi nửa giá chầu, chán quá, tôi phải thăng ngay lập tức.
- Đuối nó đi, đến mai, lấy ai hát cho bà?
- Đã hơn nửa tháng nay, vợ lý trưởng sở tại đã cho gọi nhà phó Bái thay rồi. Thế mới gọi là cung văn chứ. Đàn ngọt, hát hay, lại nhanh nhầu, sáng sủa. Thằng này khoẻ mạnh, vạm vở, ăn nói có duyên, chứ chẳng hom hem như thằng chết giẫm trước đâu.
- Dễ thường tôi hom hem thế này, cũng là tuồng chết giẫm nhỉ?
- Chết nỗi! Ví mình với thằng cung văn! Sao ông dại dột thế! Thật từ ngày hầu hạ ông, tôi như người đi xa về được đến nhà. Chẳng cần phải lầu son, gác tía, tôi mới được mãn nguyện. Đời tôi chỉ mong có hai điều: Một quả tim và một túp lều tranh.
- Còn thiêu một cuộn giấy bạc nữa là ba mới đủ?
Quan ông vừa nói tiếp, vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan bà: Một con nhái bén bám vào một quả dưa chuột?
- Bà đừng giận nhé. Thế bà có yêu tôi không?
- Gớm nữa? Lẩn thẩn lắm? Đàn ông chỉ hay bịa ra những câu hỏi để đàn bà chúng tôi phải bịa ra những câu trả lời! Có! Rồi sao nữa?
Quan ông đứng dậy, cầm tay quan bà, dắt vào nhà, đóng cửa lại, qua bậc cửa buồng, gài then kỹ lưỡng. Rồi, dưới bộ ria mép như một cái mũ nồi úp chụp lấy cái miệng chúm chím, quan để nở ra một nụ cười móm.
- Rồi thì... Bà còn đợi gì nữa.
Quan bà õng ẹo, đưa cặp mắt lườm yêu chồng thỏ thẻ:
- Nhưng mà thế thì rét lắm.
Năm phút sau, dưới ánh đền treo trong phòng, hiện nguyên hình bộ phận một người như hồi sơ sinh của các bà mụ nặn.
Cứ thế, những cảnh nồng nàn yêu dấu của hai linh hồn sắp nguội, mỗi buổi chiều lại diễn ra, đến nỗi mấy con thạch sùng cũng phải đánh ghen mà tặc lưỡi.
Cứ thế, ngày giờ trôi qua đi, quan phủ say tít, không còn nghĩ lại quãng đời dĩ vãng vấy bùn của vợ nữa. Thời gian cùng một tay vẽ những vết nhăn trên trán người đời, lại đem khăn lau xoá hết những sự xấu xa ô uế trên mặt họ, để cho ai, tới lúc chết, cũng được anh em đọc điếu văn kể công trạng và đức tính lúc còn sống.
Đến một hôm giông tố.
Mưa đổ. Gió gào. Trời lạnh buốt. Quan lớn đi bắt xóc đĩa, mãi khuya bì bõm mới về tới dinh. Bước chân vào hiên nhà tư, quan sung sướng nghĩ tới cái giường đệm bông, cái lồng ấp thịt, thì lại quên hết nỗi khó nhọc xông pha. Mưa vẫn đổ. Gió vẫn gào.
Cơn dông mỗi lúc một dữ.
Bỗng một luồng gió đánh bật cánh cửa, tung ra ngoài một cái bóng đen, xô cái bóng nhanh tít ra phía vườn, bắn nó lần vào quãng tối tăm mờ mịt.
Hồn vía chưa đến nỗi lên mây, nên quan lên còn có can đảm chạy ngay vào trong nhà.
Buồng bà lớn còn hé mở, có ánh sáng chiếu ra. Quan vội vã đẩy cửa vào thì chao ôi! Cơn gió bên ngoài không ngờ mạnh đến thế. Nó chui khe cửa, làm tung cả chăn đệm trên giường, làm xổ cả tóc bà lớn, làm tốc cả áo quần bà lớn, để lại trên tấm thân ngà ngực có một chiếc áo sơ mi.
Bên ngoài, mưa vẫn đổ. Gió vần gào.
Dầu người đần độn đến đâu cũng đoán được tấn kịch vừa xảy ra trong buồng ấm cúng này, nữa là quan lớn “đèn trời soi xét”.
Quan chẳng còn nghĩ nỗi quần áo ướt, khuỳnh hai tay vào háng, trừng mắt nhìn vợ.
Khác hẳn những kẻ có tội, bà điềm nhiên, lên giường quấn chăn nằm ngủ.
Quan không sao ghìm được cơn thịnh nộ, áp lại gần chỉ ngón tay dăn deo, rít lên:
- A, ra con này giỏi thực. Mày không coi ông ra gì. Vắng mặt ông một tý, mày đã rước trai vào!
Bà đưa mắt nhìn ông một cách ngạo ngược, ngắt lời.
- Tiếc thay, ông biết chậm quá rồi, ông ạ. Bây giờ ông mới bắt được thì ông ngu quá. Đã hơn nửa tháng rồi kia mà!
- Mày trêu gan ông! Ông thì cho mày vào tù?
Bà ngồi nhổm dây, nhìn chính giữa mặt ông, cười rũ rượi:
- Úi chà! Dễ nhỉ! Xin quan lớn đừng lôi đình. Khỉ lắm!
- Ông thì bắt cả nhà mày cho mà xem. Nuôi ăn cho béo để giở quẻ.
- Ông nuôi tôi béo? Thế tôi có trả công ông không? Bên mua, bên bán, ông có quyền gì mà hạch? Ông nên biết, cái quyền tự do của tôi, ông đã cướp mất...
- Quyền tự do của mày? To nhỉ, ông có nhôt mày không cho mày ra ngoài đâu mà mày báo mất tự do?
- Phải, ông chẳng đóng cửa cấm tôi đi lại, song cái thân tôi, ông đã nhét nó vào trong bốn bức tường trát bằng giấy bạc trộn với cơm, ông có biết không?
- Ai bảo mày đâm đầu vào?
- Thế ra ông không cám ơn tôi đã cho ông biết những khoái lạc mãn kiếp ông cũng không biết à? Tôi đã mở đường mở lối cho ông đi, ông không biết còn toan giở mặt. Đồ vô ơn!
- Con bé này thực không coi ai ra gì nữa!
- Tôi đã bảo ông rằng, tôi cho ông lợi dụng tôi để chóng được thăng, ông không hiểu, thế thì tôi cũng phải lợi dụng ông. Ở đời này, ai không thừa cơ lợi dụng là khờ.
- Gớm thật! Mày dạy ông luân lý thế phải không?
- Tôi còn dạy ông hơn nữa. Ông đừng có lôi thôi vào tôi. Này, ngay bây giờ, tôi chạy ra trại cơ, trại lệ, ngoài phố, gõ cứa nhà từng đứa mà bảo: Dậy mà xem, bà phủ ngủ với trai ngay bên cạnh mũi quan phủ.
- Ông cấm mày nói!
- Cấm thế nào được? Tôi chỉ bán cho ông cái phiến thịt của tôi, chứ có bán đâu cái tự do?
Câu nói bướng bỉnh làm tắc cơn thịnh llộ của quan ông. Cái búi tóc bí mật sau gáy, giá biết cử động, chắc cũng phải xổ ra mà ngỏng lên trời, làm thành một cái dấu ngạc nhiên.
Bà lớn được thể nói tiếp:
- Cái sung sướng của tôi chi là cái vỏ, cũng như chiếc áo lụa mầu này, ai biết đâu gói chặt một tấm thân nát bét. Chữ “tử tế” của ông nêu lên cho mọi người, giá viết nó là “bắt bí”, mà đọc là “bóp nặn” thì đúng hơn. Tôi có nói. Rồi tôi đi khắp chỗ quen thuộc, bạn bè với ông, báo với họ rằng: Mười mấy lần, bà phủ ngủ với trai, ngay trong buồng quan phủ.
Câu sau cùng, bà thong thả dằn từng tiếng nghe chừng đã có công hiệu. Ông thì như bị từng ấy nhát búa nện vào chỗ yếu, vội vã sấn lại, lấy tay bịt miệng bà:
- Có khẽ chứ không?
- Việc gì phải nói khẽ? Người ta chỉ nói khẽ những điều nói dối, những câu ân ái thôi. Chứ những lời nói thực, phũ phàng, thì việc gì phải nói khẽ.
- Những bọn người nhà nó biết thì sao?
- Thì nó sẽ bảo ông là thằng mù, thằng ngốc.
- Nỡ nào bà để chúng nó chửi tôi?
- Tại ai? Ai giở mặt trước?
Quan ông đấu dịu:
- Trong lúc nóng nẩy, nghĩ càn, bà chấp làm gì!
- Ông đã biết lỗi rồi chứ?
- Vâng, thì biết lỗi.
- Chưa xong: ông phải chuộc lỗi mới được. Lấp mồm tôi ông phải kiếm cái nút.
- Bằng gì nào! Bằng giấy “đỉnh” nhé?
- Không thèm?
- Bằng kim cương nhé?
- Tôi thừa rồi.
- Bằng ngọc thạch nhé?
- Tôi chẳng thiếu!
- Thế biết bằng gì bây gìờ?
- Ông không đoán ra à? Ông không nhớ chủ nhật trước, đi chơi Hà Nội, tôi trỏ cho ông cái ô-tô “Fo” mà chê: “Vợ chồng lão phủ xoàng lắm” đấy à? Ấy, nút mồm đấy!
- Chết chửa? Bà điên rồi sao? Mong những cái ấy đào đâu ra?
- Đào trong ruột những thằng dân của ông, chứ còn ở đâu nữa? Ông quên rằng ô-tô của bọn các ông chẳng phải chạy bằng ét-xăng, mà chạy bằng mồ hôi nước mắt của dân đen à. Ông ngu lắm, hèn lắm?
- Chả hèn lại thua?
Nói xong, ông toan ôm lấy bà, nhưng lại bị hất ra:
- Gớm chết? Ướt như chuột thế này. Ông có ừ không đã?
- Thì ừ chứ sao!
- Được rồi. Nhưng hôm nay tôi hãy phạt ông đã. Ông để tôi một mình đêm nay. Thằng ranh ban nãy làm mình mệt lử ra... Chứ như ông ấy...
Nói xong, bà cầm tay quan ông dắt ra ngoài, đóng sập cửa lại. Bà còn văng vẳng nghe quan ông hỏi câu sau cùng:
- Gượm đã. Ban nãy bà bảo mười mấy lần?
- Mười bẩy lần.
Bà trả lời liều vậy. Chứ bà còn đương tưởng tượng đến cái xe hòm nó nhe bộ răng kền sáng nhoáng ở đằng mũi, để cười, cười ông sẽ đưa bà đến chỗ phú quý vinh hoa hơn...
2-1934
Bước đường cùng
Pha nằm trên phản nhà ngoài, một tay vắt ngang trán, một tay cầm cái quạt mo, thỉnh thoảng đập phành phạch xuống chiếu. Anh không nực nhưng phải phẩy luôn như thế, để đánh tiếng rằng mình vẫn còn thức.
Làm lụng quần quật suốt ngày ở ngòai đồng, Pha mệt lắm. Mọi tối, vào lúc này, anh đương đánh một giấc ngon, nhưng hôm nay vì bận rộn, nên anh có sức để nghe ngóng và chờ đợi. Và để lo lắng nửa, vợ anh đương dở dạ đẻ.
Phải, anh không lo sao được. Ngày năm kia cái hôm vợ ở cữ, con bé dại, Pha đã một phen chí khổ. Vì đẻ con so, nên chị đau đớn quần, quằn quại hàng mấy giờ đồng hồ. Rồi đến khi cuốn queo,chị không chịu nổi, cứ réo mãi tên chồng lên mà chửi, những là mày làm khổ bà. Bà trùm Sủng, một bà tắm, trong ba mươi năm nay, đã đỡ cho gần khắp người hàng tổng, hôm ấy cũng sợ mê, giục anh phải lập tức trèo qua nóc nhà, rồi lại lội ao, từ bờ nọ sang bờ kia, tuy trời rét như cắt ruột.
Bây giờ Pha nghĩ lại việc ấy mà còn rùng mình, sợ như người phải đi sứ.
Bởi vậy, từ lúc bà trùm đến, mỗi khi nghe tiếng bà giục vợ rặn, và chị ấy ì ặch thở như người sắp tắt hơi, anh lại thương vợ và lo cho mình mãi vẫn vơ nghĩ bao nhiêu, Pha cảm cảnh trơ trọi bấy nhiêu.
Thực vậy, ba anh em ruột của Pha: Quấy thì chết, Quậy thì đi làm ăn ở trên mỏ Thái Nguyên, Hòa thì cữ tháng chạp năm ngoái, sau hồi đói kém, đi bạt tận đâu đâu, chẳng nhắn tin về. Anh vẫn tưởng hắn ra ngoài tỉnh, nhờ ông bát Hương là chú họ, vì ông này buôn bán giàu có. Nhưng không phải. Chị ruột anh, chị Sáo, nhờ trời được phong lưu, nhưng lại lấy chồng xa. Pha hơn anh em được cái vợ có vốn đi chợ. Gánh hàng xén đang giá bộ ba chục đồng ấy, đã cung cấp cho hai miệng đủ ăn, không phải chạy ngược chạy xuôi, và chỗ tám sào ruộng của cha mẹ chia cho, không đến nỗi chết non chết yểu.
Nhà Pha ở vào đầu sớm Chũm, làng An Đạo, làm trong miếng đất thiên thẹo, rộng độ mươi bước. Đất ấy của ông bà nhạc cho vợ chồng anh mới cười.Từ khi ăn riêng, anh mới cố dúm lấy một cái nhà, thôi thì để che mưa, che nắng, đỡ mang tiếng là có đất mà đi ở nhờ người khác.
Nhà ấy cũng như phần nhiều nhà trong làng chúng ta, nó là 2 cái mái lợp tranh, hờ hững úp trên những bức vách thấp lè tè và mỏng rinh rính. Nó có hai gian ngoài và một gian buồng, mà đầu nhà và dưới có rãnh nước đen đặc và nổi váng, dùng làm chỗ đun nấu. Ánh sáng đáng lẽ được đường hoàng lọt vào trong bằng cả một khỏang rộng không gian. Song, từ sáng đến chiều thẳm, người thì đi chợ người thì ra đồng, nên ngay từ lúc mặt trời còn lắp ló, sau bụi tre,cái liếp dùng làm cửa phải hạ xuống. Cũng bởi lẽ ấy hai vợ chồng, chẳng ai có lúc nào rỗi được ở nhà mà chăm non quét tước cả.
Nhà này tuy mới làm được có hai năm, nhưng thì giờ ấy cũng đủ nhiều cho nó phải làm đúng bổn phận với chu quá lãnh đạm của nó. Cho nên đã lâu nay, cái nhà ấy lấn cả ra ngoài cái giới hạn của công dụng.
Mái tranhđầy mạng nhện rủ lủng lẳng xuống hàng tràng, là một chỗ hứng rất được nhiều nước mưa, và tiện thể cho chảy vào nhà tong tỏng. Từ dưới cái mái ghẻ lỡ ấy đến mặt phản ồm yếu, là một kho to tát để giữ khư khư lấy một thứ hơi vừa ẩm vừa hôi, một công trình trộn lẫn rất ít công phu của các thức ăn, để mặc, để dùng, để ở. Dưới gằm phản tối tăm là ací trại muỗi, chỉ chờ lúc có người là thả đội quân du kích. Mắt nền là cái nền rât tốt, đầy xanh rêu, có điểm từng đống mùn mọt hung hung. Dưới tầng đất là chổ ở rất bình tỉnh của những gia đình đủ các thứ chuột to nhỏ, tha hồ mà sinh năm đẻ bảy. Và khắp cả, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ phải sang trái, nhà ấy lại cà cái hủ, đặt quyền sự nhốt vi trùng các chứng bệnh. Xung quanh hũ, ngay khi chủ hạ liếp xuống để đi vắng đã hiện ra hàng trăm, nghìn khe và lỗ để ánh sáng vào, chẳng khác gì từng ấy con mắt ghê gớm của các vị hung thần vay quanh tứ phía chòng chọc nhìn vào, để canh cho một thứ giết người nào ở trong được lọt ra ngoài vậy.
Vậy mà vợ chồng Pha ở mấy năm nay, đã không tự biết là can đảm. Hơn nửa lần nào đẻ, chị vẫn nằm trong buồng và mời bà trùm Sũng đến đở cho.
Bà trùm bước chân lên hè lúc nào, là bắt chị rặn lúc ấy. Bà vạch cái khăn bằng the che đôi mắt đã về già để cố nhìn cho rõ, rồi bước chân vào buồng.
- Gớm, sao mà tối thế này, có cho xin cái đèn không? Nào cứ cố lên. Trời phật đền cho thằng Cu thì tha hồ mà mừng.
Rồi cười ra ý bằng lòng, bà bảo:
- Được, buồng gái đẻ kín đáo thế này càng tốt.
Một lát ,sờ sọang chán bà lại cười hỏi:
- Ồ, thế kêu ở đâu đấy, tôi chẳng trong thấy gì cả. Có cái đèn vào đây hay không?
Lúc ấy Pha đã châm xong cái đèn rồi. Anh cầm đèn đến cửa buồng, đặt ở ngưởng và gọi với vào trong:
- Đèn đấy, bà ơi.
Bà trùm gắt:
- Gớm, cậu hạng vừa vừa chớ, vợ đẻ chứ ai đẻ mà sợ bẩn không dám vào.
Pha chưa kịp đáp thì vợ đã hì hạch thở, vừa gảii thích:
- Nhà tôi giữ vía lắm bà ạ.
Bà trùm dỗ dành:
- Cố lên, cố nhìêu lên, nó sắp ra rồi. Nín hơi lại mà rặn.
Ngọn đèn Hoa Kỳ khói um, theo tay răn reo của bà trùm đem vào. Ánh lửa đỏ chiếu ra ngoài đi lệch về phía cửa.
Pha nằm lặng trên phản để nghe
Bên trong vợ anh nghiến răng lại vừa thở hổn hển vừa kêu tắng từng tiếng:
- Đau lắm bà ơi, bà có thể làm cách nào cho tôi không chết mất.
Bà tắm gắt tự nhiên:
- Lả vào mồm dại nào?
Bà pha trò:
- Sướng lắm thì khổ nhiều, ai bảo! Cố lên tí nữa thôi, nó đã ra được cái đầu rồi.
Từ nãy, Pha trống ngực thình thình, bấy giờ thấy nhẹ bỗng ngừơi hẳn, Anh thấy vợ thở rất mạnh, chắc là lấy hết hơi sức.
Nhưng chị bỗng quằn quại kêu:
- Khổ lắm, bà ơi, nó đã ra đâu! Tôi tắt hơi mất!
- Phải gió, lại cứ kêu. Cố lên, im mà rặn!
- Khốn nạn nào có im được đâu. Đau lắm! Mệt lắm!
Mỗi lần thấy vợ mếu máo kêu, Pha lại nhăn nhó mặt theo, tưởng chừng như chính mìnhđau vậy. Giá có thể đau thay được, chắc anh chẳng từ. Nhưng biết làm thế nào? Pha lắc đầu thở dài.
Bỗng bà đỡ đập tay đánh đét một cái và gắt:
-Ghê gớm muỗi! Bác Pha có cho tôi mượn cái quạt không?
Pha ngồi nhổm dậy, đứng ngoài cửa, thò tay vào liếc mắt nhìn trộm và gọi:
- Qụat đây, bà ơi!
Chị Pha tưởng chồng xông xáo vội vàng nằm quay mặt vào vách, kéo chiếc quần che cái thân thể lõa lồ. Rồi vừa thở dốc, vừa nghiến răng, cố nói ra tiếng, chị đuổi chồng ra quần quật:
- Đi ra, khỉ! Phỉ hổ đàn ông
Bà trùm đứng dậy càu nhàu:
- Bác ấy có vào đâu nào! Chồng chứ ai mà thẹn!
Pha sợ tái mét mặt, Anh yên trí vợ bắt đầu tức, thì chắc lại nhớ đến việc chửi lần trước. Cho nên lúc đưa quạt cho bà Anh hỏi khẽ:
- Sao lâu thế hỡ bà?
Bà trùm ghé miệng vào tai anh nói thầm, Mùi quết trầu lại rõ hơn tiếng nói. Song, Pha cũng hiểu là bà muốn dặn gì rồi.
Lập tức anh lẳng lặng ra sân, xuống cái chuồng nhỏ xíu trước kia nuôi lợn. Anh víu vào cọc đóng ở cửa, cố hết sức lay, và dần dần nhổ lên đủ bốn cái.
Làm xong anh vui vẻđi rất nhanh lên nhà,anh tin rằng như vậy vợ anh sẽ đẻ dễ dàng, đẻ ngây bây giờ, và anh không lo nạn sang sứ nữa. Bà trùm đã bảo anh từ hôm nọ làm phép như thế rất hiệu nghiệm.
Nhưng chị Pha cứ kêu, kêu mãi, và mỗi cơn đau nỗi lên mãnh liệt, mà chị quần quại thì bà đỡ lại mắng:
- Rặn đi, chứ cứ kêu thì bao giờ nó ra, gớm, sốt cả ruột!
Chồng thì giục cuống người ta đến, mà nào đã đẻ! Để yên ở nhà, người ta đã ngủ được một giấc.
Mỗi lúc thấy vợ như kiệt lực, Pha lại thở dài và thất vọng, anh lo thế nào cũng phải chửi, nên vẫn phải cầm canh bằng chiếc quạt.
Nhưng một lát trong buồng im lặng. Anh lắng tai để nghe, Vợ anh không kêu, mà bà trùm cũng không giục rặn nữa. Có lẽ hai người cũng mệt và cùng ngủ thiếp đi.
Bỗng độ đầu trống canh ba, Pha thấy vợ rú lên gọi dồn:
- Bà ơi, bà trùm ơi! Khổ thân tôi,đau quá!
Không có tiếng trả lời, chị Pha gọi chồng:
- Nhà ơi! gọ ihộ bà trùm dậy đi, mau lên.
Pha cuống quýt nhỗm dậy gọi:
- Bà trùm, bà trùm, nhà tôi gọi bà!
Pha đón vợ sắp đẻ. Anh lo lắng hơn trước, bà trùm ú ớ thưa:
- Ơi, biết rồi! cố gắng một lúc nửa đi
Bà quạt phành phạch dăm cái rồi ngồi dậy.
- Nó đương ra bà ơi, bà đỡ nó cho tôi
- Ờ, tôi đây.
Chị Pha rặn, cố nhín hơi để rặn. Pha hồi hộp, một lát tiếng nhoe nhoe đưa ra. Pha mừng rỡ lại hồn.
- Ồ, thằng Cu
Pha sung sướng quá. Sướng cuống cả lên. Thế là vợ anh qua cơn vượt cạn. Mà trời cho đứa con trai. Thôi thế cũng bỏ cái công vợ chồng ăn ở hiền lành.
Đứa bé vẫn nhoe nhoe khóc. Bà trùm tắm cho nó. Tiếng nước dội róc rách. Nó càng khóc. Bà trùm làm gì một lát, rồi bảo:
- Nó đói đấy cho nó ngậm vú để nó đỡ khóc.
Một lát nửa bà bảo:
- Thôi tôi về.
Chị Pha ể oải nói: -
- Bà ngủ chơi đằng này, khuya rồi, về làm gi.
-Thôi chả ngủ đây, mai mất buổi chợ.
Bà nói đoạn ánh đỏ trong buồng chiếu ra nhà ngoài, bà trùm cầm đèn buớc ra cửa buồng, chào:
- Bác gái nằm chơi.
Pha đứng dậy đưa gậy cho bà và đỡ lấy cây đèn. Anh dắt bà xuống sân. Bà trùm vạch đôi con mắt chỉ còn lòng đen bạc phếch để nhìn Pha, rồi nói thầm:
- Cũng may đây, không có thì đến đêm. Thôi, thong thả, bác trai chơi nhé.
- Để tôi đưa bà về.
- Giỡn bác, sáng trăng như ban ngày đây mà.
Pha dặn:
- Mai bác đến sớm tắm cho cháu
- Ừ, à này, nhớ mua nước giãi cho bu nó uống nhé. Chả thuốc nào bằng, tôi nghiện đấy ngày nào đi chợ về cũng một bát.
Pha đặt đèn trên hè, dắt bà trùm Sủng đi. Tuy vậy bà vẫn sờ lối bằng gậy, vì chẳng trông rõ gì. Đường trong làng bà chỉ thuộc lòng mà thôi.
Bà trùm qua vạt nước kê cạnh cây cau, thì dừng lại, bà múc một gáo để uống và sung sướng kêu lên.
- Mát ruột!
Bà đổ chỗ nước còn thừa vào chum, rồi lại sờ soạng đi.
Pha nâng cổng lên để bà qua, rồi chào:
- Bà về.
- Phải, không dám, bác chơi.
Đàn chó bắt đầu làm náo động cả xóm Chũm.
Bừng mắt ra, Pha ngồi nhổm dậy, Tuy ít ngủ, nhưng anh tỉnh táo lắm, Anh lắng tai nghe tiếng vợ thở đều đều, bèn khẽ ra nâng hé cái liếp để đi lại nhà bếp.
Trời xanh ngắt, Vừng đồng đã đỏ ửng, nhưng ánh nắng chưa láng đến tận sân. Gió hiu hiu làm xào xạc bụi tre, bỏ rơi những chiếc khô bay tơi tả.
Đứng một nơi râm mát và nghĩ đến vợ đẻ con trai. Pha sung sướng, khoan khoái lạ. Anh đã lẩn quẩn mãi đêm qua về nghĩ đặt tên con, và định hôm nay trước khi ra đồng cấy nốt cho bà trưởng Bạt, anh rẽ vào nhà thơ ký, nhờ ông ấy vào sổ sai sinh cho.
Bỗng một con gà mái đi kiếm mồi từ sau nhà ra sân trước, làm anh chú ý. Tự nhiên anh nghĩ đến cách sinh nhai vất vả của vợ. Mấy hôm trước chị vẫn tỏ ý tiếc mấy buổi chợ khi phải nằm một xó.
Con gà lò dò đến gốc cau, bớt đất rỉa sâu, rồi ngẩn cổ lên nhìn, và nhún một cái, nó nhảy đứng bám vào thành vại.
Pha sợ bẩn nước giơ tay ra đuổi. Con vật hoảng dang rộng hai cánh, nhảy xuống. Bất đồ con chó mực xồ ra theo đuổi. Con gà cuốn queo, vỗ cánh bay đành đạch, và cục cục kêu. Chó vồ theo. Gà quang quác chạy. Và hai con đuổi nhau sang vườn bên cạnh.
Pha chắc tiếng động này làm vợ thức giấc. Anh không thổi cơm vội, hãy đứng ở gốc nhà xem tình hình. Thì quả nhiên, chị đã ló cái mặt xanh nhợt ra ngoài cánh liếp
- Gớm, gọi mãi mà chả thưa!
Người đàn bà ấy có dáng rất mệt nhọc, và vì mới đẻ, nên lại như gầy thêm. Chị tùm hum cái khăn vuông, mặc áo nâu dài và lận đôi dép một. Người ta bảo phụ nữ thuộc về phái đẹp. Song sự thực, với chị Pha hiện giờ, cậu ấy hòan tòan có nghĩa mĩa mai.
Pha nhìn bộ dạng ốm yếu, chán nản của vợ thì thương hại. Anh nói:
- Tôi thổi cơm cho bu nó ăn, rồi đến đĩ Dự báo tin và xin cành cau, mang lại nhà ông Ký Chỉnh nhờ khai sinh cho thằng cu mới được.
- Thôi, phiền lắm.
- Đĩ Dự với tôi thì hắn tiếc cái gì.
Pha chắc chắn như vậy, vì Dự là em vợ, và hai anh em vốn thân với nhau. Nhưng vợ anh lại nói:
- Đi đâu mà vội. Trẻ con mà cứ chụp ảnh là một, khai sinh là hai, là chúa đội đấy.
- Pha cười:
- Vẽ! Con bé dại trước thì ai khai sinh cho nó.
- Đọan anh vui vẻ mở rộng liếp ra và cùng vợ ngồi trên phản bàn việc:
- Này, bu nó ạ. Tôi định đặt tên cho thằng cu là Trộn. Bu nó bảo thế nào?
Chị nhăn mặt, lắc đầu:
- Không gọi thế, tên xấu lắm. Hôm nào đến nhờ ông làng Sáng đặt tên cho nó.
- Ồ, chả, chữ nghĩa gì, giỏ nhà ai quai nhà ấy, không cần, Quấy, Quậy, Hòa, Sáo, Pha! Thì tên thằng cu là Trộn, thế phải.
- Nhưng các bác có đặt tên cho lũ cháu thế đâu!
- Thì con bác Quậy chả là Sỏi, là Sành là gì
Vợ chồng đương dỡ câu chuyện, bỗng bên hàng xóm, có tiếng the thé của bác Trương Thi gái mắng con:
- Thằng Yển hư thật, mày có tìm xem nó đâu không, ban sáng nó vừa lảng vảng đây mà.
Bác trương trai ồ ồ nói:
- Tao thấy nó chui qua hàng rào bác Pha đấy
Bác trương gái lại the thé:
- Thế thì sang mà tìm, thấy đứa nào ăn cắp, đem mà đào mả bố nó lên!
Pha bị nói cạnh, bỗng nảy ra ý kiến:
- Bu nó ơi, phải rồi.
Rồi anh nói thầm, chị Pha cau mặt gắt:
- Cái gì nói to lên nào!
- Tôi nghĩ ra tên thằng cu rồi.
- Tên là gì?
- Để tôi bàn với cậu Dự rồi mai hãy khai sinh. Mai tôi bảo:
Chị Pha càu nhàu:
- Lại còn mai với chả kia. Thế nói bây giờ làm sao?
Pha vui vẻ, bảo vợ:
- Đặt tên nó là Bạch
- Sao là Bạch?
- Thì nhé, trương Thi nó đặt tên con nó là Yểng, tội gì mình không gọi tên mình là Bạch.
Vợ Pha tươi tỉnh, thân mật nói khẽ:
- Thế tên bố nó là Bạch à?
Pha vênh váo đáp:
- Ừ!
- Ừ, chỗ hàng xóm với nhau, mà nó đi lấy tên bố mình đặt cho con nó thì tội gì mình không báo thù? Không đặt thế làng nước lại bảo mình lép.
Hai vợ chồng đồng ý với nhau. Nhưng trong buồng thằng bé con khóc, làm cho tắt câu chuyện đương nồng nàn.
- Ồ, gớm, khỏe chửa ,đã ra ngoài đấy à.
Pha nhìn ra ngỏ, thấy bà trùm Sủng đương chống gậy đi đến ,và theo sau là bác San gái, con dâu bà. Bà trùm nói:
- Chứ ly người ta yếu như mày ấy. Mẹ Mới nó đẻ xong, nó lội xuống ao ăn trộm liền, để sáng hôm sau đem ra chợ bán.
Pha chạy ra đón hai người. Bà trùm bảo:
- Hôm nay tôi nghĩ buổi chợ. Độ này cũng ế hàng.
Bác San dừng lại giơ roi đánh chó, và nói:
- Tôi thấy bà tôi nói bác gái ở cữ nên sang thăm đây.
- Tạ ơn bác.
- Thế bác gái ở cữ thằng cu hay cái đĩ?
Tuy Pha cho câu trả lời là thừa nhưng cũng đáp cho phải phép:
- Thằng cu bác ạ.
Bác San chẳng ngạc nhiên và cũng chẳng mừng hơn tí nào ,tuy vậy bác cũng:
- Ồ, thế à! Thế bác gái nằm đâu?
Pha cho câu đáp mình là vô ích, vì bác San vừa thấy vợ mình vào buồng:
- Bu cháu nằm trong kia bác ạ.
Bà trùm chồng gậy, cố dướn mình bước lên thềm nhà rồi quay bảo con dâu:
- Chốc nửa về, mầy nhớ xin bác ấy nắm lá dành dành nhé. Tối qua tao thức khuya, mắt lại kệnh lên rồi.
Bác San không đáp, vẫn thân mật với Pha:
- Thấy nói bác gái ở cữ, gọi là thế, tôi có chục trứng cáy, đem sang bác ăn kiêng.
Pha cảm động đáp;
- Bác lại cứ cho! Bà tắm cho cháu, tôi chửa có gì cho lại, thế mà…
Bà trùm quay lại nói
- Nhà nó biếu bác, bác cứ nhận đi cho nó được không. Ngày trước nhà bác ở cữ thằng cu Chắt, bác gái cho những năm quả trứng gà kia mà!
Pha từ chối cho phải phép, tuy vẫn bíêt mình có quyền nhận đồ biếu trả nợ. Anh chẳng ngần ngại lâu, giơ tay cầm lấy xâu trứng cáy và mời khách ngồi chơi ở quán. Vợ anh bế con ra. Bác sau đỡ lấy thằng bé, nhìn mặt nó hôn hít nó
Một lát Pha đứng dậy nói
- Mời mấy bác ngồi chơi, tôi đi đằng này có tí việc
Bà trùm, cơ chừng vì thông minh hay hoặc vì lịch duyệt, đoán ngay chủ nhân định đi làm cái gì, vội vàng gạt:
- Đi đâu? đừng làm cơm nước gì đấy, chúng tôi ăn cả rồi.
Chị Pha nhếch mép cười:
- Không phải chúng cháu định đến ngày đầy cữ,mới mổ con gà, trước là cúng mụ, sau là mới bà mời bác đến uống rượu.
Bà trùm chữa then cười, ha hả:
- Ừ, bây giờ có gà cứ nuôi cho béo đi.
Pha nói cho lạc câu chuyện:
- Tôi đi khai sinh cho thằng cu đây
Vốn quen sống giản dị, bà trùm trịnh trọng mắng một cách thân mật:
- Thôi đừng vẽ. Lên năm, lên muời, nhờ trời chúng sống, lúc nào khai chẳng được.
- Thưa bác Tân cháu phải phép nhà nước bây giờ như thế, không có bố mẹ phải phạt.
- Thôi đi phép vua thua lẹ làng. Tục ở đây không có khai sinh như thế. Lúc nào người ta phạt cứ bảo ông già bà cả ở làng này ngày xưa có khai sinh bao giờ, sao vẫn sống lâu bảy, tám mươi cả.
Bác San hỏi:
- Thế hai bác đặt tên cháu chưa?
- Rồi.
- Vẫn giọng thân mật, bà trùm mắng:
- Gớm tên tuổi làm gì cho sớm. Cứ thằng cu mà gọi.
Chị Pha ngồi vững lại vì chị cần phải kể lể:
- Bà với bác tính thế thì ai nhịn được. Bên ấy hắn đặt tên cho thằng bé trùng tên với ông cháu, thì tôi tội gì không lấy ngay tên bố hắn đặt cho con tôi, để tôi réo cho sướng cái mồm.
Bà trùm làm như cũng giận lắm, hỏi dồn để thỏa chí tò mò:
- Ai?
Chị Pha trỏ sang bên nhà trương Thi:
- Lại còn ai!
- Thế bác định đặt thằng cu là Bạch à?
- Ừ.
Bác San can:
- Thôi người ta không bíết, bác sang bảo người ta một tiếng, để người ta đổi tên đi, chứ hàng sớm láng giền với nhau mà!
Chị Pha vạch xuống chiếu, tức tối nói:
- Tôi nói dối tôi chết, còn bao nhiêu cái uất ức, tôi chịu nhịn bảy tám tháng nay, nó làm như bắt nạt tôi không bằng ấy.
Bác San vẫn can:
- Thôi máu non đừng nghĩ ngợi
Ba trùm hất tất cả cái mặt đanh đá vào con dâu, thưỡi môi ra mắng:
- Câm mồn đi, chứ ly như vợ chồng nhà mày ấy.
Bác San lườm cãi:
- Bà bảo vợ chồng nhà tôi làm sao?
Bà trùm quai mồm ra 
- Thôi, già này xin! Mẹ kiếp! Bà chả thấy chúng nó làm gì cũng phải câm họng! Bà thì bà chửi cho ủng mồ ông tam đại tứ đại chứ bà lại chịu à!
Bác San sừng sộ toan cãi nữa, nhưng chị Pha can:
- Thôi xin bà, xin bác, để đến bận khác. Bà tính tôi làm như thế có phải không?
Bà trùm khen:
- Phải ăn miếng trả miếng, chứ cứ chịu nước lép thì có họa…
Chả có thì kiện nhau đếm tam phủ, tứ phủ chứ chắc đã làm gì nhau tốt.
Nói đọan bà trùm lấy nước tắm cho thằng Bạch rồi vẫn tức con dâu, bà mát mẻ “chào hai bác” rồi về trước. Bác San bế thằng bé, vạch vú cho nó bú, rồi khi thấy mẹ chồng ra khỏi cổng, bác bảo:
- Tôi ghét cái lối bà ấy cứ đem chuyện nhà nọ đi nhà kia nói. Ấy rồi thế nào nội ngày hôm nay, bên bác trương cũng biết chuyện này cho mà xem. Ở trong làng trong nước, nhất là hàng sớm láng giềng, ta nên chín bỏ làm mười, chứ không thì thù hận nhau đời đời.
Dứt câu nói, đôi bạn đã nghe tiếng bà trùm léo xéo bên nhà trương Thi, và chỉ độ mươi phút sau, ngay bên hàng rào, cạnh vách, tiếng the thé của vợ trương Thi, đã nổi lên để bình một bài văn bất hủ:
- Làng trên sớm dưới! Bên sau phía trước! Bên ngựoc bên xuôi! Tôi có con gà mái xám nó sắp ghẹ ổ, nó lạc ban sáng, mà thằng nào con nào ở gần đây mà qua, đứa ở xa mà lại, nó day tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha nó ra, không thì tôi chửi cho đới!
Chém cha đứa bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua bà cho nó ăn hãy còn, sáng hôm nay, con bà gọi hãy còn, mà bây giờ mày đã bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày,thì mày buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào thằng tam đại tứ đại nhà mày lên, bà khai quật san bằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà, nó về nhà mày nó biến thành cú thành cáo, thành thần nanh đò mỏ, nó mổ chồng mổ con, mổ cái nhà mày cho mà xem. Ớ cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà giết gà nhà bà, thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba, mày xuống âm phủ mày bị quỷ sứ thần linh rút ruột ra, ớ cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia ạ!
Chị Pha câm tức như chính chị bị chửi. Chị run lên, nghiến răng, xỉa xói bảo bác San:
- Đấy, bác xem, ai mà nhịn được?
Chị Pha bôi thêm tí nghệ vào mặt và chân tay, rồi sắp quang gánh, hạ cửa liếp để đi chợ.
Nằm ở nhà mấy hôm, chỉ tiêu mà không kiếm ra đồng nào, chị sốt cả ruột. Nhiều lúc vật tay xuống chiếu, chị thở mạnh ra những tiếng rên rất nảo nùng thảm thiết.
Bởi vậy, để được yên tâm lo việc sinh nhai, chị đã nói với bà trưởng Bạt cho cái Bống cháu bà nó bế hộ thằng Bạch, thì chị xóa công làm của chồng chị cấy cho bà mấy hôm nay mà bà còn chịu.
Bà trưởng bằng lòng ngay, vì cái Bống năm nay đã lên tám, bố mẹ chết cả rồi, nó ở nhà chơi cũng thế, phải tập làm đi thì vừa. Hễ thằng Bạch nó khóc, đã có bác tư Dậu, con dâu bà, cho nó bú chực. Khi trừ xong nợ, chị Pha hứa trả cho cái Bống mỗi ngày một xu.
Chồng chị chẳng nghỉ làm buổi nào cả. Cấy xong cho bà trưởng, anh định cấy đến ruộng nhà. Con nhà nông, trời cho sẵn bộ xương đồng da sắt để chống nắng với mưa. Ngày hè thiêu đốt, cũng như ngày đông tê tái, quanh năm anh phải lợi dụnh hai cánh tay nổi bắp, để đở mang tiếng con trai nhờ vợ, để được ăn ở lương thiện, và để mong đóng góp với làng cho người ta khỏi khinh.
Bởi thế cũng như phần nhiều dân quê, sự biết của anh rất hẹp, sự nghĩ của anh rất gần. Nó hẹp, nó gần trong vòng lũy tre quây quanh làng. Xa hơn nữa, là cánh đồng đời đời phẳng lặng. Cuộc sinh họat mộc mạc làm anh bằng lòng sống hiền lành yên phận, không ước muốn cao xa phiền phức, sống như ông cha anh đã sống từ trước, như phần đông người làng hiện đương sống bây giờ.
Mục đích cuộc đời chị Pha cũng không có gì khó hiểu. Nó theo nếp những người khác, là lấy chồng để nương tựa, buôn bán để có việc và đẻ con để nuôi.
Chị Pha đặt gánh lên vai. Thấy nặng, chị biết chị vẫn còn yếu. Nhưng mặt trời đã lên cao, rọi những tia chói lọi qua khe đám lá cây. Chị nghĩ đến chồng lúc này ở ngoài ruộng. Chị được sung sướng nhàn hạ hơn, vì khi nắng khi mưa, lúc nào cũng ngồi dưới mái lều. Chị bước rảo cẳng theo đà của hai chiếc bồ rún lên rún xuống.
- Này, chị Pha tôi nói cho mà biết, có về bảo anh ấy đổi tên cho thằng bé, không có chẳng ra gì với tôi đâu.
Chị Pha đứng dừng lại, đặt phịch gánh xuống đất. Chị hung hăng nhìn vơ trương Thi, mặt nóng bừng bừng. Nhưng chưa nói chị đã thấy run lên, đầu chóang váng, và mệt rốc hẳn người. Định thần một lát, chị mới đáp:
Ừ đấy, cứ đặt thế đấy, nghĩ là sinh sự thì sinh sự, chứ bụt trên tòa gà nào dám mổ mắt.
Trương Thi chạy ra, tay cầm thanh củi nói:
- Phải, muốn sinh sự sự sinh thì rồi xem
Chị Pha nghẹn hơi đến cổ, song biết thế không làm gì nổi. Nhưng không lẽ chịu nước lép, chị giở giọng chua ngoa:
- Nhà tôi không chứa nổi thổ đổ hồ, chồng tôi không ăn trộm ăn cướp, tôi không theo trai đánh đĩ không buôn lậu bán vụng, mười đời nhà đứa nào cũng không làm gì nổi tôi tốt!
Trương Thi bị chạm nọc, cười gằn trỏ vào mặt chị Pha, dọa:
- Ừ, mày xem tao có làm gì nổi mày không.
Chị Pha căm giận toan cũng mày tao, và chửi nhau một trận đáo để, nhưng bên địch đã kéo nhau vào nhà
Sao hàng rào, bà trưởng Bạt, đứng lấp ló nhìn qua lớp lá dâm bụt can:
- Thôi mà, chị Pha, một câu nhịn chín câu lành
Chị Pha uất lên, chùi nước mắt đáp:
- Đấy, bà tính xem ai sinh sự trước.
- Thôi, đi chợ đi, trưa rồi
Vẫn còn hậm hực, chị Pha cất gánh lên vai. Chị tiếc sao lúc nãy không cứ xông vào xé con mẹ ấy một mẻ. Nhưng chị tự an ủi :ở đời bao giờ hiền cũng gặp lành mà những kẻ gian ngoan tai quái như trương Thi, tự khắc đã có trời biết mà trị tội. Hạng ấy dứt khoát không thể giữ của bền được. Trương Thi là một tay chơi có tiếng ở làng An Đạo. Cứ một vết sẹo dài chéo trên tráng hắn cũng đủ tố cáo hắn sinh nhai bằng nghề gì. Ở tù ra hắn không ăn trộm cướp nửa, những hắn lại nấu rượu lậu. Việc ấy, cả làng biết đấy, nhưng chưa lần nào hắn bị bắt. Nhà Đoan ở cách làng có 6 cây số, cả Tây lẫn Việt Nam về sục sạo nhà hắn luôn, nhưng lần nào hắn cũng tẩu thoát được hết tang vật. Mà một khi người ta đã quay gót trở ra khỏi làng, hắn lại công nhiên nhóm bếp nấu một mẻ rượu lớn.
Cả làng ai cũng kiêng hắn, vì người ta không muốn day dưa với con người ngông ngược. Hắn tưởng thế là giỏi, càng chẳng sợ, chẳng nể ai. Ông lý trưởng, ông chánh hội, cho đến cả quan Nghị hách dịch là thế, mà hắn cũng chẳng coi vào đâu.
Chị Pha càng nghẫm nghĩ càng căm hờn. Chị không hiểu sao những người thù nhau với hắn, không nghe ngóng đích xác lúc nào hắn làm việc phi pháp, lập tức đi với Đoan về. Chỉ cách ấy mới làm con người nham hiểm phải tuyệt nghiệp, tù tội. Mà vùng này mới được yên ổn làm ăn, thỉnh thoảng đở thấy bóng những người mặc áo vàng, xồng xộc vào làng, để họ nhũng nhiễu, có khi không khám được rượu lậu, họ đâm cả vào nàh người ta ghẹo gái.
Đến chợ chị Pha chui vào lều, lấy nón quạt một lát, rồi vởi đôi bồ hàng ra bầy. Người quen kẻ thuộc ai thấy chị vắng mấy buổi, và nay bụng chị bé đi cũng biết là chị ở cữ. Với những người hỏi thăm, chị kể rành rọt cả cho nghe câu chuyện bực mình vừa rồi. Nói được như thế chị mới hả.
Chẳng mấy chốc, những hộp gỗ vuông có lòng kính trên mặt đã bày la liệt trước chị, trên chiếc vỉ buồm rộng bằng cói trải xuống đất. Thực là một cuộc triển lãm về công nghệ quốc tế: khuy, phấn, pin, gim, ví, xà phòng con mèo, thuốc lá, lưu hòang, thuốc lậu Từ Ngọc Liên, cỗ bài, dầu cô ba, truyện, vân vân. Trên xà rũ xuống những áo tích cô, khăn mặt bông, pít tất và giải rút.
Chị Pha ngồi trên chiếc ghế thấp thỉnh thoảng mỡ hộp trầu ra lấy một miếng để nhai cho đỡ buồn, và luôn luôn mời chào người qua kẻ lại.
Nắng như quăng lửa. Càng về trưa chợ càng đông. Mùi người trộn lẫn với mùi cá, mùi thịt, theo bụi bậm xông lên.
Chị Pha thấy đói bụng mỡ gói, lấy cơm nắm ra, chấm với trứng cáy.
Bỗng vợ đĩ Dự hớt ha hớt hải chạy đến bảo:
- Chị về nàh xem anh ấy làm sao kia kìa!
- Chị Pha giật mình hỏi:
- Nhà Tôi làm sao hở mợ?
- Ai biết được, thấy người ta túm đông túm đỏ ở sân đình ây.
Chị Pha vội vàng bỏ cả ăn lẫn hàng, nhờ em dâu trông hộ, tức tốc về. Chị cắm cổ chạy quên cả mệt. Chị cố đoán mà không sao biết được việc gì.
Đến đầu làng chị thấy đám đông đi về phía cổng đồng. Vì không gặp ai để hỏi nên chị cứ chạy theo, nhịn thở, nhăn mặt, ôm bụng mà chạy cho kịp. Gần đến nơi chị mới gặp một người mách:
- Có ruộng chôn ở ruộng anh ấy.
Tin sét đánh làm chị rụng rời tay chân. Chị hiểu ngay. Chị thấy chồng đầu không nón, mình không áo, mà mình nắng chang chang thì thương hại quá. Pha phải trói giật cánh khủyu, đầu dây chảo có người tuần cầm. Người tay đoan mặt đỏ, vẫn như mọi bận, đội mũ vải vàng rộng bìa, mặc áo sơ mi nịt và quần cụt, chống cái ba toong thật to... Đi với người tây có hai người lính áo vàng, nón vàng, giẫm chân không, nhưng có vẻ oai vệ lắm. Sau bọn nhà Đoan thì Lý Trưởng, chánh hội, phó lý, khán thủ, hai người tuần và đến trăm người kéo nhau đi xem. Những người này đều nhìn Pha bằng đôi mắt ghê tỡm, khinh bỉ. Tự nhiên họ ghét bỏ một người bất lương ,hành động trái pháp luật như kẻ cướp,kẻ trộm vậy.
Nguyên nha thương chính trên huyện được báo tin có rượu lậu chôn ở đông An Đạo, nên phái người về. Người nhà Đoan đến làng, gọi lý trưởng ra ruộng để nhận thực, và tìm bắt chủ ruộng là Nguyễn Văn Pha. Lý trưởng tuân lệnh, phán khán thủ và một tên tuần đến ruộng bà trưởng Bạt.
Pha đương cấy, thấy tự nhiên có người vồ lấy mình và trói, anh sợ hãi chẳng hiểu việc gì, ngơ ngác hỏi. Nhưng không ai trả lời cả. Họ thít rõ chặt, giòng anh về nhà.
Trong khi ấy lính đoàn vào nhà Pha, lấy thuốn sắt nhọn chọc chẳng còn thiếu chỗ nào, trong nhà, ngoài bếp đống tro, đống quần áo, chỉnh tương, mặc kệ.
Lục lọi không thấy gì mọi người trở ra,thì vừa lúc tuần giải Pha đến. Biết rằng bị khám rượu lậu và chắc nhà Đoan lầm. Anh nói:
- Thưa các quan tên con là Nguyễn Văn Pha đấy ạ
- Phải rồi ruộng mày có chôn rượu lậu
Pha tái mét mặt nhìn sang nhà truong Thi, thấy người đứng lố nhố dòm sang rào. Anh hiểu ngay vì đâu rượu lại bò đến ruộng Anh. Anh biết tội này là quan trọng và đành chịu chứ không thể cãi oan được.
Nhưng muốn anh phục nhà nước không bắt lầm ai bao giờ, người ta gảii anh ra đồng để được nhìn bằng hai mắt chính ruộng anh có rượu và ký nhận vào biên bản.
Chị Pha thấy chồng oan uổng, vội chay đến trước mặt người tây đoan, chắp hai tay vái lấy vái để và khóc lóc, nói:
- Lạy quan lớn quan tha cho chồng con, chồng con không biết nấu rượu bao giờ. Chẳng qua người ta thù.
- Người tây trợn mắt giơ ba toang lên dọa. Hàng trăm người chạy ồ như vịt, ngã cả lên nhau. Nhưng không có gì cản nổi người đàn bà ngu xuẩn và liều lĩnh, tuy mặt người ấy nhợt nhạt vì mệt, vì sợ.
- Lạy quan lớn, chồng con vẫn lương thiện không dám làm những chuyện phạm pháp. Đây, có mặt các cụ lý, cụ chánh, quan lớn hỏi ngay thì rõ.
- Lý trưởng quắc mắt.
- Ơ hay cái chị này, việc gì đến tôi chỗ ấy. Tôi không biết đâu. Bước! Quan lớn đánh cho bây giờ.
- Người tây đoan thản nhiên đánh diêm hút thuốc lá và chữa cái quai mũ. Chị Pha vẫn khóc lóc và nói lải nhải:
- Nó thù nó chôn rượu và ruộng nhà tôi
- Rồi cảm động quá chị nức to lên:
- Ai làm thế nào mà canh ruộng ở ngoài đồng được, hỡi trời! Khốn nạn thân tôi quá trời ơi.
- Người tính đoan xua tay đuổi.
- Đi lên Hà Nội mà lý sự, đây không biết. Rồi tù mất nhà, mất ruộng 
- Thấy chị Pha khóc một cách lố bịch, người tây đoan nhăn răng ra cười. Hình như hắn đã chai mắt chai tai về hàng nghìn hàng vạn tấn kịch có tiếng khóc lóc thắm thiết như thế.
- Thấy tiếng kêu vang của mình vô công hiệu, chị Pha quay lại nói với Lý trưởng bà chánh hội:
- Lạy các cụ, các cụ làm phúc nói với quan hộ cho thật là oan nhà cháu quá. Có người đáng bắt thì các quan không bắt.
- Người lính đoan quắc mắt:
- Im mồm!
- Chị Pha tức quá không chịu được bèn nói liền:
- Các ông làm việc vô lý, chỉ bắt ức người ta thôi. Ruông ở tận ngoài đồng, chả lẻ ra đấy mà ngồi canh suốt đời ờ?
- Mặc kệ. Lên Hà Nội mà kêu.
- Từ nảy Pha không van lạy gì. Anh cũng phản nhiên như người tay đoan, vì anh coi việc phải trói và giải đi, rồi phải tù, mất nhà, mất ruộng chăn nửa là một việc dĩ nhiên.
- Ở gần nhà đoan từ thưở nhỏ, làm gì anh chẳng thấy được mắt thấy tai nghe biết bao nhiêu việc như việc này.
- Bởi vậy, tuy thương vợ còn yếu đuối, anh chỉ lẳng lặng mà chịu tội, còn hơn là cữơng, là kêu, lỡ bị tát, đá đánh, thụi, lại thêm khổ vào thân nữa chứ ích gì.
- Pha theo người ta dẫn đến cánh Mả Giơi có ruộng mình có người lính đoan thứ ba nữa đang đứng đợi và ý chừng để canh tan vật.
- Bỗng chị Pha chạy vòng lên trước như có việc gì lạ vậy. Rồi tự nhiên chị quay lại, mừng rỡ, cuống quýt, chấp tay lạy người tay đoan và nói:
- Lạy quan lớn, ruông này không phải của nhà con. Cả ngần ấy mắt trố lên. Ai nấy ngạc nhiên hết sức. Pha cô nhìn, thì bỗng nhẹ hẵng người, như được sống lại
- Chị Pha cười khanh khách nói:
- Bẫm đấy là ruộng của quan nghị lại ạ.
- Mọi người tưng bừng ngơ ngác nhìn nhau, ra ý sợ hãi. Pha tươi tỉnh trỏ ruộng bên cạnh, nói:
- Ruộng nhà con đây chứ không phải ruộng ấy
- Người ta đoan hất hàm, hỏi lý trưởng. Lý trưởng và chánh hội đồng thời đáp:
- Bẩm ruộng này của tên phạm lại thật ạ
- Người ta nhúng vai, giơ ngang hai cánh tay:
- May quá! Pha lại lương thiện như thường
Dinh cơ Nghị Lại ở đúng giữa làng An Đạo. Song, sự thực, làng An Đạo với dinh cơ ông là hai thế giới tách biệt hẳn nhau.
Đó là một khu đất rộng ước hai mẫu, bốn mặt tường cao ba thước tây xây gần kín khắp, trừ nhà cụ Ánh ở oái oăm vào một góc. Những mảnh chai sáng nhoáng, tua tủa cắm thẳng trên tường, như lưỡi lê của đội quân canh đứng đều răm rắp. Giữa dãy tường theo đường cái, nổi lên cái cổng cực lớn, có chòi canh, nhưng họa hoằn hai cánh mới có dịp mở. Thường thường, người ta vẫn ra vào bằng cái cửa tò vò bên cạnh, rộng độ năm mươi phân tây, nhưng cả ngày đóng im ỉm.
Nghị Lại giàu có một cách hỗn láo. Tiền, thóc, ruộng, nhà của người khác lọt vào tay ông dễ dàng như trở bàn tay.
Với ông, sự học vấn không làm gì. Thưở bé, ông coi sách vở là kẻ thù số một. Bây giờ ông vẫn còn khoe một việc năm ông mới mười lăm tuổi. Hồi ấy ông học ở lớp tư. Một hôm không thuộc bài, ông bị thầy giáo mắng nhiếc. Lập tức, ông đứng phắt dậy, cắp sách ra khỏi nhà trường. Và từ đó, dù cha mẹ khuyên dỗ, mắng chửi thế nào, ông cũng không trở lại cái ngục thất nó chiếm đoạt hết cả tự do của tuổi sung sướng của ông nữa.
Rồi năm sau, khôn hơn, ông mới nhận ra rằng tự thuở nhỏ, ông vẫn bị giam hãm trong cái ngục thất nghiệt ngã hơn nhà trường, là gia đình, mà những người coi ngục còn nghiêm khắc bằng mấy mươi thầy giáo. Ông bèn tìm dịp thoát ly. Một tối, ông lấy cắp năm trăm bạc, theo một người bạn hơn tuổi, lên Hà Nội, hai anh em tập cách ờ xã hội.
Vì ở xã hội sớm thế, nên ông sớm học được đủ các ngón, mà ngón nào cũng tinh. Ông lấy làm hãnh diện rằng mới mười sáu tuổi đã giỏi trống cô đầu, mới mười bảy tuổi đã hút nổi hai mươi điếu thuốc phiện một lúc, và mới mười tám tuổi, đã có vô số nhân tình Hà Thành.
Ông chỉ chửi lại cha mẹ có hai lượt vì ngày xưa, ông ở nhà rất ít để phụng dưỡng song thân. Và nếu năm mười chín, không, đã mang điếu thuốc điếu sái, lâm vào cảnh túng bẫn, thiếu ăn thiếu tiêu, ông đã chẳng trở về với gia đình, và đã thực hành được câu thề không đời nào chịu gọi vợ chồng thằng chánh Hòe là bố mẹ. Chỉ vì nghĩ ngợi rõ kỹ lưỡng một đêm đói thuốc, ông mới tỉnh ngộ rằng ông đã dại mà không hưởng quyền làm con của một nhà giàu có hàng vạn.
Ông chánh Hòe thấy con về thì mừng, cho là đã biết hối, bèn dỗ dành cho con nên tu chí làm ăn, và cưới cho con người vợ. Một cô vợ đẹp, một ả phù dung, là hai cái dây chắc chắn nó ràng buộc ông với nơi chôn rau cắt rốn. Hai cụ liền huấn luyện cho ông cái phương pháp làm giàu. Và từ khi đứng chủ cơ nghiệp này, ông mới phục ông còn giỏi bằng mấy song thân ngày trước.
Nguyên khi ông bà chánh mất đi, thì dinh cơ mới rộng độ tám sào, mà ruộng vườn tất cả ngót trăm mẫu. Thế mà thấm thoắt trong mười năm trời, tường quanh nhà xây gần kín hết, mà ruộng nọ để ra ruộng kia, đến tháng này, ông có vừa đúng bốn trăm mẫu.
Bây giờ ông chỉ nằm khểnh, hút cho sướng cái tuổi năm mươi, thỉnh thoảng có dịp thì lại làm giàu chơi, chứ ông cũng lấy làm mãn nguyện lắm rồi.
Bọn hương lý đưa người nhà Đoan đến cổng lớn nhà Nghị Lại. Lý trưởng giơ tay giật dây chuông, thì đồng thời đàn chó cũng cắn dậy lên. Một lát, trên chòi có người nhìn xuống:
- Ai hỏi gì?
- Vào bẩm với quan rằng có quan Đoan đến nhé.
Năm phút sau phía trong cổng có tiếng tháo gióng gỗ và mở khóa. Hai cánh cửa theo hai bánh gỗ lộc cộc lăn trên gạch, mở toang, để hiện ra một anh lực điền cởi trần đứng choãi hai chân, đương cố sức mở cho hết cánh lim dầy dặn.
Người tây Đoan quen lối, đi thẳng vào sân, mặc dầu lũ chó xồ ra, lăn xả vào mà cắn. Ông qua chuồng trâu bò, lẫm thóc, để lấy bóng rợp, rồi bước chân lên thềm, vào buồng khách.
Buồng khách ấy khá gọi là tình tứ.
Đây là một cô gái Trung Hoa trắng hồng như trứng gà bóc, mũm mĩm, nằm hớ hênh trật cả đùi lẫn vế. Ở góc, lại một cô nữa, chẳng mặc gì để che tấm thân trắng phau béo phốp, nhưng lại thẹn thò chua ngoa, một tay bịt ngay chỗ chẳng nên bịt, và một tay giơ lên trời, cầm một cái... Một cái đây, hiểu ngầm là một ngọn đèn cụt đầu.
Những thức ấy, đáng lẽ khêu gợi lắm thì phải, song tiếc thay, nó chỉ là những bức tranh màu và pho tượng trắng đầy bụi bặm. Gia dĩ, may cho khách đa tình không đến nỗi ngây ngất, là trong buồng lại sẵn nhiều sức phản động, khiến người ta phải cụt hứng ngay.
Đầu tiên là một mùi tanh tanh ở trong gầm xông ra. Nó là mùi hanh đồng của những đỉnh, những đèn, những mâm, những nồi xếp la liệt dưới sập. Những thức ấy khó lòng lấy ra được, vì khi cất vào đó, người ta phải rất đông người cùng khênh bổng cái sập lên, mà khi hạ xuống, thành ra sập sát gần chấm đất.
Rồi đến những bàn ghế, tranh ảnh, cùng trăm thứ trang hoàng trên tường, không ra lối lăng gì. Cái thì thực đẹp, cái thì thực xấu, cái thì thực mới, cái thì thực cũ. Hình như những đồ ấy chủ nhân đã góp nhặt dần dần của các nhà khác. Sự bày biện bảo cho ta biết chủ nhân là một tay bất chấp nghệ thuật, nhưng là một người chịu khó tiếc của trời.
Nhưng cái phản động lực lớn lại là cái ảnh truyền thần Nghị Lại. Ta nên nhớ rằng ông Lại mới làm nghị viện. Song người làng phải nghe ông ta mà gọi ông là quan, nên ông không cần nể ai, chụp ngay cái hình mặc mũ áo đại triều và thuê vẽ. Họa sĩ lại là tay đồng chí của chủ nhân càng không cần nể ai nữa. Y đã tô màu tía lên trên áo rồng và vẽ thêm đôi giao long dưới đầu mũ có rắc kim nhũ. Song, trời ạ, cả một bộ triều phục uy nghi ấy lại dùng để trang hoàng cho một tấm thân có bộ mặt hom hem, nhăn nhúm, khủng bố người ta bằng hai nét nhăn xoạc cong sang bên má, làm cho đôi mắt xếch càng xếch thêm. Họa sĩ muốn tôn người có của, đã hòa màu hồng cho khéo để tô da mặt hồng hào như người Mỹ tráng kiện. Song sự thực, Nghị Lại là dòng dõi một giống người thuộc chủng tộc thứ sáu trên toàn cầu.
Thực vậy, nếu trắng, ông đã là người Âu, nếu vàng, ông đã là người Á, nếu đỏ, ông đã là người Mỹ, nếu nâu, ông đã là người Úc, và nếu đen, ông đã là người Phi. Đằng này ông lại xanh xanh, đích là da của chủng tộc người nghiện.
Nghị Lại ngạc nhiên, đớ người nhìn khách:
- Cái gì vậy?
- Ruộng ông có rượu lậu.
Nghị Lại tròn mắt nhìn:
- Có rượu lậu?
- Phải, thầy lý trưởng nói rõ để ông Nghị biết là ruộng nào.
Lý trưởng nói:
- Bẩm quan, cái thửa bảy thước ở cánh Mả Giơi, của nhiêu Sinh nhường quan tháng trước, mà quan cho nhà Lành cấy rạ ấy ạ.
Nghị Lại cau mặt, gõ mấy đầu ngón tay xuống bàn:
- Cái thửa ruộng ở cạnh thằng Pha ấy à?
- Dạ.
Ngẩn người một lúc, rồi Nghị Lại cười:
- Quái. Nhưng quan lớn bảo nhà tôi như thế này còn nấu rượu làm gì?
- Đành vậy, nhưng ông là chủ ruộng, thì theo luật, ông có lỗi. Hiện tang vật còn đó, ông ra đồng với tôi để xem và ký vào biên bản.
- Phát.
Một tiếng gọi trong lúc giận dữ, ai nấy giật mình.
- Dạ.
- Mày bẩm với cô Năm, đi theo lý trưởng ra xem có phải đứa nào nó bỏ rượu vào ruộng nhà không nhé.
Rồi ông nói với ông Đoan:
- Thôi, ta bất tất phải đi. Mời quan lớn cứ ở đây. nắng lắm.
Ông quay vào trong gọi:
- Mau lên, sao chậm thế?
- Dạ.
Tức thì một tên đầy tớ bưng khay rượu ra. Hai cốc sâm banh trong sáng lanh canh chạm vào nhau làm sóng sánh rượu vàng. Nghị Lại giơ tay mời:
- Rước quan lớn.
Khách chạm cốc rồi ngửa cổ uống một hơi. Nghị Lại rót thêm và nói:
- Cái cốc này người ta làm nông quá. Giá quan lớn cho phép, tôi lấy bộ cốc vang thì rót được nhiều hơn. Chắc quan lớn khát lắm.
Người tây đoan mỉm cười:
- Tùy ông.
- Thứ rượu này ngon lắm. Hồi sinh thời, cụ tôi không dùng, đem cất vào xó lẫm thóc đến ba mươi chai ấy. Bây giờ tôi mới biết, suýt nữa quên thì phí.
Rồi ông cười thực to để che lấp sự lo lắng và nghĩ ngợi.
- Về việc rượu này, chắc ông phải phạt nặng.
- Tôi không hiểu sao pháp luật lại quá bất công thế? Tôi đã làm nghị viên, rất trung thành với hai chính phủ, không nhẽ tôi lại dám làm điều phi pháp?
- Phải, điều đó tôi vẫn hiểu và không ngờ gì ông cả, nhưng pháp luật là pháp luật.
- Ruộng của tôi rất nhiều, không những ở tỉnh này, mà còn ở tỉnh khác nữa, chẳng lẽ thửa nào tôi cũng phải cho người đi canh hay sao? Mà nếu lệ nhà Đoan nghiêm ngặt thế này, thì những đứa ghét tôi, chỉ một ngày có thể dễ làm tôi khánh kiệt cả cơ nghiệp được.
Khách không đáp, chỉ mỉm cười. Nghị Lại nói tiếp:
- Làng tôi có một thằng xưa nay sinh nhai về nghề nấu rượu, tên nó là thằg trương Thi, chắc nó bỏ rượu lậu vào ruộng nhà tôi.
Chánh hội mách:
- Bẩm nó định bỏ vào ruộng nhà thằng Pha kia đấy ạ, vì hai đứa xưa nay vẫn thù hằn nhau.
- Phải, chính thằng Thi đi báo tôi.
- Đấy, việc rõ rệt như thế, mà quan lớn phạt tôi, thực là oan tôi quá.
Người Tây nhún vai:
- Nhưng tôi biết làm thế nào? Ông với tôi vốn là chỗ bạn bè thân.
Vừa lúc ấy cô Năm về, nhận đích là ruộng nhà. Nghị Lại nghĩ lung lắm.
Rồi ông sực nhớ ra, mắng đầy tớ:
- Kìa, chúng mày sao không mời các thầy xuống nhà ngang xơi nước?
Đợi khi trong buồng vắng, ông Nghị cười thân mật, nói:
- Đành tôi chịu cái vạ vịt, nhưng chỗ quan lớn với tôi, quan lớn có thể cứu tôi không? Tôi thì không văn hoa lễ phép được như ta, nên mới hỏi thẳng quan lớn như thế.
Người tây đoan lắc đầu:
- Không thể, việc tôi về đây khám rượu ở sở có biết, và người làng này cũng biết cả.
- Thì tôi tưởng như quan lớn làm như khám không thấy gì.
- Không được, có hẳn hoi và có hương lý làm chứng.
- Ồ, làm gì. Hương lý ở đây là đầy tớ của tôi cả, tôi bảo gì chúng nó không phải nghe? Quan lớn làm ơn cứ xé biên bản đi, thế nào tôi cũng không dám quên ơn quan lớn.
- Không được, ông ạ.
- Tôi làm nghị viện, rất trung thành với hai chính phủ. Cho nên tôi không muốn có dấu vết gì xấu trong lý lịch tôi với nhà nước. Tôi chỉ ngại điều ấy, chứ sợ gì món tiền phạt. Nhà tôi như thế này, tôi thiếu gì? Chắc quan lớn cũng biết, tôi hầu hạ các quan, có lúc tốn kém đến bạc ngìn, mà có tiếc gì. Đấy, ngay như mấy lần tết nhất, tôi vẫn đi lại hầu quan lớn thì quan lớn biết.
Ông Đoan gật gù, đáp:
- Nhưng tôi không muốn làm việc phi pháp.
- Thôi, tuy vậy nó hợp với tình bạn bè. Tôi không quên ơn quan lớn đâu mà. Trước kia tôi chưa nhờ vả gì quan lớn, mà còn đi lại hậu hĩ, nữa là bây giờ tôi hàm ơn quan lớn.
Người tây đoan nghĩ ngợi một lúc, rồi hỏi nhỏ:
- Thửa ruộng ấy, ông cho đứa nào cấy?
- Tên Nguyễn Văn Lành.
- Nó ở đâu?
- Nó ở tổng Hà Tràng, cách đây chừng mười cây số.
Người tây đoan nghĩ ngợi rồi gật đầu. Nghị Lại vui vẻ xui:
- Tuy ở xa, nó có thể chịu trách nhiệm về việc rượu lậu này vì tôi đã giao ruộng cho nó. Xin quan lớn cứ bắt và làm tội nó. Thế thì công bình hơn là bắt tôi.
Người tây đoan đứng dậy cười, bắt tay ông nghị và lắc đầu than thở:
- Tôi vất vả về ông.
Ông nghị khúm núm đáp:
- Không dám.
Rồi ông tiễn khách ra cổng, nhìn theo ân nhân với một nụ cười
Tất cả bao nhiêu bạn đầu gối tay ấp của Nghị Lại đều lên cả nhà khách, uống nốt chỗ rượu sâm banh còn lại và chờ chồng về, xem kết quả cuộc điều đình ra sao. Ai cũng tỏ ra mình tha thiết đến hoạn nạn của gia đình lắm.
Tiễn người nhà Đoan xong, Nghị Lại trở vào nhà, mặt hầm hầm, đi vào buồng khách.
Ông vứt bịch khăn xuống sập, cởi áo sa, áo trắng, và áo cộc ra. Bên bức truyền thần một ông quan mũ áo chỉnh tề, hiện ra một thằng người trơ trơ bằng thịt bằng xương. Nói cho đúng, thịt thì Nghị Lại hiếm, nhưng xương thì ông rất nhiều, vì ông cởi trần, nên để lộ ra một thân thể gầy còm rất đáng thương, tưởng chừng như cả bộ xương xộc xệch ấy chỉ dính vào nhau một cách lỏng lẻo, mà va vào đâu một tí, là cả cái khung người phải bẹp rúm ró, khó lòng nắn lại cho nó nguyên hình.
Cô Tư quạt cho ông, hỏi:
- Thế bây giờ công việc ra sao ạ?
Nghị Lại phùng mồm thở phù một cái, rồi kể lại chuyện cho các vợ nghe, cô Ba nói:
- Đấy, tôi đoán là không việc gì, chả đúng à, chắc quan nói người ta nể.
Cô Năm ỏn ẻn nói:
- Tôi thì cứ lo lo là.
Bà Cả cau mặt bảo đầy tớ:
- Phát, tao cho phép mày gặp thằng trương Thi đâu thì cứ cắt gân nó đi cho tao. Tội vạ đâu tao chịu.
Cô Ba xui ông Nghị:
- Cắt gân mà thôi à, quan làm cho nó ăn mày phen này ấy chứ lị.
Cô Hai nói:
- Mà cứ để ruộng ngoài lọt vào ruộng nhà thành ra rắc rối.
Cô Tư cãi:
- Thì quan dỗ dành nó mấy lượt, nó không bán đấy chứ.
Bà Cả chép miệng:
- Không thể để thế lâu được.
Trong khi từng ấy người bàn tán, Nghị Lại không thèm vào nửa lời. Ông nằm trên sập, ngẩn ra, nhíu đôi lông mi lại.
Chợt ngoài sân có tiếng chuông rung, rồi một lát, Phát đưa một người đàn bà vào.
Người đàn bà đặt gói chè vào cái khay, rồi ngồi thụp xuống đất, vừa lạy vừa nói:
- Lạy quan, thầy cháu sợ phép quan lắm, không dám đến để lạy quan, mà thầy cháu hiện từ trưa đến giờ không biết đi đâu mất. Thực quả tình thầy cháu chịu tội với quan nhiều.
Nghị Lại ngồi nhỏm dậy, hỏi Phát:
- Đứa nào thế, mày?
- Bẩm, vợ nhà trương Thi.
Nghị Lại trợn mắt quát:
- À, mày phản tao.
Vợ trương Thi sợ khóc lóc:
- Thầy cháu lo quá, phát sốt phát rét lên, mà thực quả tình nào có biết ấy là ruộng của quan. Lạy quan, quan làm tình làm tội gì thì thầy cháu xin chịu, nhưng xin quan nghĩ lại cho nhà cháu hai vợ chồng dại với bảy đứa con thơ.
- Chồng mày bỏ rượu lậu vào ruộng tao, rồi đi báo quan, mày còn bảo tao thương thế nào?
- Lạy quan, thực oan cho thầy cháu quá. Thầy cháu cũng như tôi con quan, vậy con nào lại phản bố bao giờ? Lạy quan, quan đánh cho hai chữ đại xá, thì con mới dám cho người tìm thầy cháu về. Con chỉ sợ thầy cháu liều, lại đi đâm đầu vào xe lửa hay xuống sông thì thực là khổ quá.
Nói đến đây, người đàn bà cảm động quá, lại nức lên khóc. Nghị Lại nguôi cơn giận, hỏi:
- Tao có thể bỏ tù vợ chồng mày lúc nào cũng được. Song, vốn tao nhân đức, tao không nỡ. Mày sinh nhai bằng nghề quốc cấm, lại đi làm hại người ta.
- Bẩm quả nhà con lập tâm báo thù thằng Pha, chứ có biết đâu ruộng ấy là của quan ạ.
- Tao cũng chiều tình cho nhà mày, nhưng sao trong làng trong nước, chúng mày nỡ cư xử với nhau tận tình thế?
Vợ trương Thi che lỗi, vội nói:
- Lạy quan, quan mắng chửi thế nào chúng con xin chịu, nhưng chính nó gây sự với con nhiều lần, con nhịn mãi đến nỗi uất lên không chịu được. Bẩm ở làng này, nó chẳng nể sợ, ai nó cũng nói chẳng ra làm sao.
Nghị Lại cười. Người đàn bà mỏng môi, lại hót thêm:
- Bẩm con nói câu này, quan lại bảo con ghét nó mà mách, chứ cái ngày quan dạm mua ruộng nhà nó, nó đã không bán, lại còn nói xấu vô số.
Nghị Lại cười lạt, nói:
- Hừ. Cứ nói cả huyện này, tao lấy ruộng đứa nào mà không được?
Vợ trương Thi phỉnh:
- Dạ, lạy quan, quan thì hay thương người, quan chẳng nỡ làm thế, quan để cho tôi con được nhờ.
Nghị Lại vênh váo như tưởng mình phúc đức thật, nhìn người đàn bà ra ý vừa lòng, rồi nói:
- Thế nhà mày với nhà thằng Pha thù nhau, sao không đi kiện trên huyện, lại bỏ rượu lậu như thế?
- Thưa quan, con có ngờ đâu lại bỏ nhầm ruộng, chứ nếu đúng thì không những nó phải đi tù, lại còn mất nhà mất cửa nữa. Kiện ở huyện, bất quá mình tốt lễ, quan trên mới xử cho được, và nó chỉ phải tù là cùng. Ngộ nó tốt lễ, thì mình công toi.
Nghị Lại lắc đầu cười:
- Bởi vì mày lo chỗ không đáng lo. Lo những chỗ đáng lo thì nó có thoát đằng nào được.
- Lạy quan, cũng tại nhà con không có tiền lễ quan huyện. Đằng này bỏ rượu vào ruộng thì chẳng tốn kém gì cả.
- Không có tiền lễ quan mà mày lại không biết ở làng này ai thân với quan để mà nói à?
Vợ trương Thi ngẫm nghĩ rồi đáp:
- À, lạy quan, tại con chưa nghĩ ra, bây giờ quan dạy con mới biết quan thân với quan huyện, con cũng sợ, chả dám đến nói, nhỡ quan chửi cho thì làm thế nào.
Nghị Lại mắng:
- Chúng bây làm như tao ác khẩu lắm ấy. Đứa nào cũng sợ tao chửi. Tao đã chửi đứa nào bao giờ. Ở làng này, ai có việc gì nhờ tao, tao cũng sẵn lòng giúp. Nào vay tiền ư, nào nói với quan hộ ư, tao đã từ chối ai chưa?
- Lạy quan, quan thương dân như thương con. Giá trước kia con biết quan dễ dãi thế này thì con cứ trăm sự nhờ quan cho xong.
Nghị Lại gạn:
- Thế bây giờ mày có muốn kiện nó không?
- Bẩm bỗng không chả lẽ lại kiện?
- Con mẹ mới thật thà chứ. Thiếu gì cớ? Mày cứ qua cửa nhà nó, nói trêu tức nó một câu, xem có thành chuyện to không nào?
Vợ trương Thi vui sướng:
- Dạ, lạy quan, rồi có thế nào thì trăm sự con nhờ quan.
- Mày về gọi chồng mày đến đây tao vẽ cách cho mà làm.
Vợ trương Thi sắp đáp, bỗng bên nhà Ánh chỗ hàng rào dâm bụt, nổi lên một hồi chửi rủa, tiếng lanh lảnh réo sang bên nhà Nghị Lại:
- Bà mất nhà mất cửa, bà đi ăn mày, nhưng bà hãy chửi cho sướng miệng hôm nay. Chứ nó lại độc ác tàn nhẫn thế à. Đất nhà nó rộng thế chứ còn muốn rộng đến đâu nữa, nó lại muốn chiếm cả nhà cho vuông, cho đẹp dinh cơ kia. Nó để chôn vợ chôn con nó à? Bà không bán, nó lập tâm thả chó sang nhà bà, để suýt nữa con bà chết sòi ruột. Rồi bà đánh chó nó, nó đi kiện. Nó lại xui người đến mách bà bán nhà để lấy tiền lễ quan, rồi nó mượn người đến mua rẻ.
Nghị Lại vờ không nghe tiếng, nhưng mặt cứ xám dần. Vợ trương Thi sợ ông ngượng, bèn chào và ra, bụng khấp khởi mừng thầm vừa thoát được nạn lớn, vừa được chỗ có thế lực để trả thù. Sung sướng bao nhiêu, chị phục quan nghị nhà chị bấy nhiêu, và nguyền rủa mãi những người ghét ông, họ bịa ra những chuyện chẳng đáng tí nào, để nói xấu ông là thằng giàu đểu giả, quanh năm hút máu mủ những hạng cùng đinh.
Chiều nay Nghị Lại ra đường, chơi mát.
Đó là một điềm lạ, không biết hay hay gở, và cho ai.
Không bao giờ ông đi như thế lại không có mục đích. Bao nhiêu công việc, ông đã định trong bụng cả rồi.
Đáp những cái vái dài của người nhờ vả ông, của người tự nhận là đầy tớ, tôi con ông, ông nhìn họ, chứ đầu và môi không nhúc nhích.
Đứng xem lũ trẻ con đánh khăng và cãi nhau, ông nhoẻn mép ra cười. Rồi tạt vào văn chỉ, ông lấy que móc đất chỗ chân cột, xem còn mối hay chăng. Ông rỗi rãi quá.
Quá điếm canh, ông bước thong thả hơn.
Ông đến xóm Chũm. Chị Pha ngồi ở ngõ, đương bế con, miệng lúng búng đầy cơm, tay cầm chiếc đũa, vội vàng đứng dậy, ngửa mặt lên trời chào:
- Lạy quan.
Ông Nghị hơi gật, ôn tồn hỏi:
- Ừ, nhà mày đâu, ít lâu nay tôi không gặp?
Lại ngửa cổ lên, chị đáp:
- Lạy quan xá tội cho, nhà con đến ba bốn tháng nay, những việc là việc.
- Mấy lần trên nhà có bận, tao có ý hỏi mà không thấy.
Thấy ông Nghị hỏi, Pha vội vã chạy ra, lễ phép vái chào. Sở dĩ lâu nay anh lánh mặt, vì mỗi lần gặp Nghị Lại, là mỗi lần anh bị ông hỏi đã nhất định chưa. Nhất định nghĩa là nhất định bán ruộng cho ông. Anh chỉ nhất định từ chối, mà ông thì nhất định đòi mua. Bởi vậy, mấy tháng nay, hai ba lần Nghị Lại cho gọi, mà anh đều nói dối là đi vắng. Hôm nay ông đến tận nhà, anh không chạy đâu cho thoát chuyện ông gạ mua ruộng.
Nghị Lại hỏi:
- Thế nào, lúa má nhà mày có khá không?
- Bẩm quan con mới cấy.
- À, tao nghe nói mày mới đẻ con trai?
- Dạ, vâng.
Ông nghị cười vui vẻ, bảo chị Pha:
- Lúc nào thong thả, bế nó vào trong tao, tao thưởng cho đồng bạc, nghe không? Đã cho nó ăn cơm rồi đấy à?
- Vâng, cho nó cứng cáp, mà con đi vắng luôn, cho cháu ăn cơm cho quen.
Rồi ông đứng sát gần Pha, thân mật, hỏi thầm:
- Thế nào, việc nó kiện mày ra làm sao?
Pha ngơ ngác hỏi:
- Bẩm ai? Con không biết.
Ông nghị nháy một mắt, trỏ sang nhà trương Thi. Chị Pha thấy câu chuyện đột nhiên, ghé lại gần, hai mắt trố lên để nghe. Pha lo lắng hỏi:
- Bẩm quan con không biết tí gì.
Ông nghị cau mặt mắng:
- Chết thật, việc can hệ thế mà mày không biết. Thế hôm nọ hai bên chửi nhau, đánh nhau thế kia mà?
- Lạy quan không, nó chửi con, nhưng con có chửi lại đâu?
- Thế sao nó lại kiện?
Pha không đáp, xám mặt, nhìn vợ bằng đôi mắt đầy ý nghĩa. Tự nhiên anh thương vợ dại con thơ và cảm nỗi nhà nghèo bị cơn hoạn nạn. Nghị Lại để cho sự lo lắng đủ thì giờ thấm thía rồi mới nói:
- Mà hình như nó lo ông lục sự.
Rồi ông cười, nói đùa:
- Giá nó nói với tao một tiếng, tao cho nó cái danh thiếp lên quan, có phải bằng mấy lục sự thừa phái có khi họ đơm đó không? Thế mày định theo kiện hay chịu ngồi tù?
- Bẩm quan, con chả biết tính thế nào cả.
- Việc này thì mày tính lấy, chứ ai tính hộ cho mày?
Pha thở dài:
- Bẩm ngồi tù thì khổ vợ con, mà theo kiện thì con làm gì mà có tiền?
Nghị Lại thầm thì:
- Tao đến đây hôm nay, định hỏi mày chỗ này đây, vì tao ghét thằng trương Thi, nó vừa làm hại tao, chắc mày biết đấy chứ?
- Dạ, dạ.
Pha vừa đáp, vừa gật lia lịa, anh đã hiểu câu nói thật của ông nghị.
Thằng bé con bị bế ngửa, chói mắt, và bị mẹ nhổ cơm vào mồm, khóc xa xả. Chị Pha lấy chiếc đũa quyệt quanh mép nó và gõ vào cột cổng cành cạch.
- Mà bản tâm là nó định hại mày kia đấy, nhưng phúc bảy mươi đời nhà mày, nó lại bỏ nhầm sang ruộng nhà tao.
Pha lại gật:
- Bẩm con hiểu.
- Cho nên tao tưởng mày theo kiện rồi kiện lại nó, chứ có đứa hàng xóm như thế, thực là nguy hiểm. Hiện nay còn nhà mà ở, còn ruộng mà cấy, nhưng biết đâu mai đây, vì một hũ rượu của nó mà mày không những khánh kiệt mà còn bị tù tội. Cho nên tao định đến đây bàn với mày, là tao cho mày tiền để mày kiện lại nó.
Tiếng “cho” là một tiếng chưa ai có hân hạnh được nghe phát ra ở cửa miệng Nghị Lại, vì vậy khi nói đến nó, ông dằn rõ to, và cũng vì vậy, cả bốn con mắt của vợ chồng Pha nhìn lại ông, như nhìn một cái kỳ quan vậy. Ông Nghị Lại nhắc:
- Tao cho mày tiền mà kiện lại nó. Mày có dám không?
- Bẩm con sợ quan trên bênh anh ấy.
Ông nghị vênh váo nói:
- Khi nào tao bảo ai kiện, tức thì quan phải xử cho người ấy thắng. Thế mày có điều gì ngại không?
Chị Pha bản tính tham lam và nông nỗi, mồm lúng búng cơm, bèn xui chồng:
- Nếu quan thương, thì tội gì. Làm cho nó biết tay chứ.
Nhưng Pha trầm ngâm, cúi mặt xuống đất, suy tính. Vợ anh nói:
- Tiền quan bỏ ra, quan lại nói với quan huyện giúp. Thì đằng nào thằng Thi không rũ tù phen này.
Nghị Lại nói khích:
- Thật đấy, mày không dám kiện nó thì mày cũng hèn, mà rồi nó đè đầu đè cổ cho, con ạ.
Nghe những câu có lý thì bùi tai, Pha quả quyết:
- Lạy quan, thôi thì trăm sự nhờ quan.
- Được, thế thì mai mày vào trong tao, tao vẽ lối cho mà làm rồi tao đưa tiền cho mà lo nghe chưa.
Nói đoạn, Nghị Lại quay đi. Hai vợ chồng Pha hể hả vái dài.
Nhưng mới độ vài bước, ông nghị quay lại, à một tiếng rất thiếu tự nhiên:
- À, nhưng mà nó còn đang kiện mày kia mà? Mày phải theo xong cái kiện này thì mới kiện lại nó được chứ.
Rồi không để Pha kịp suy nghĩ sâu xa đến những nỗi khó khăn, ông đã nói ngay để gỡ cho anh mối tơ vò:
- Được, để tao viết lên quan mấy chữ, ngài sẽ dàn xếp bỏ việc này đi, không xét nữa.
Pha hớn hở đáp:
- Dạ. Con tưởng con không chửi nhau với nó thì nó kiện thế nào được con?
- Ồ có chứ, cho nên mày phải kiếm cái gì quà cáp lên quan, với các ông thừa trên huyện, nghe chưa? Nghề thế, không thì ai làm việc không cho mình?
Ngập ngừng, Pha không đáp. Nghị Lại phải dỗ luôn:
- Mày ngại không có tiền à? Cái đó không hề gì. Tao cho mày vay. Mấy hột mà sợ?
Chị Pha khi ấy đã nhổ xong ngụm nước vào miệng cho con rồi, nên chị được tự do, bèn nói với chồng:
- Quan đã thương thì thầy nó đừng ngại. Tiếc đám đồng bây giờ, nhỡ tai hại về sau thì khốn.
Ông nghị híp mắt cười, khen:
- Ừ, con mẹ đàn bà mà giỏi.
Chị Pha sung sướng. Pha hỏi:
- Bẩm quan, tốn độ bao nhiêu?
- Độ dăm ba đồng chứ mấy vạn?
Không để chồng quyết định, chị Pha nói trước:
- Vâng, lạy quan, thế thì trăm sự nhờ quan.
Rồi nhìn chồng, chị đanh đá tiếp:
- Tôi tức lắm cơ, không kiện cho nó mất nghiệp thì không chịu. Chốc nó thầy lên hầu quan, quan cho cái giấy cầm lên ông huyện và lĩnh món tiền quan cho mà mua chè lá.
Nghị Lại khen chị Pha nhanh việc, rồi dặn Pha:
- Chốc nữa đến tao nhé. Nhưng tao tính cứ đem tiền vào cho đỡ kềnh càng.
Nói đoạn, Nghị Lại ung dung đi như đi chơi, một lát nữa mới về đến nhà.
Nghị Lại hãy cho Pha vay tiền, chứ chưa cho không, vì anh cần gỡ xong cái kiện rồi mới nói chuyện kiện người được.
Vì vậy Pha chỉ nhờ có ba đồng. Anh rất tin cái sức mạnh của phong thư ông nghị gởi cho quan. Việc theo kiện anh không tán thành lắm, nên thỉnh thoảng lại tiếc tiền và phàn nàn với vợ:
- Để ba đồng này, vợ chồng con cái ăn no được một tháng.
Mấy hôm nay, cả vợ chồng anh cũng không đi làm để ở nhà chờ trát quan. Vợ anh vì chạy quá sức hôm anh bị bắt rượu, nên cũng cần nghỉ ngơi cho lại người. Nhưng đến bốn hôm, chẳng thấy gì, mà ăn tiêu tốn kém sốt cả ruột. Mấy chỗ nợ công đều hứa đến mùa hè sẽ trả bằng thóc. Bởi vậy chị Pha phải giật tạm vào món ba đồng mất vài hào để đong gạo.
Đồng bạc để nguyên thì nó còn lâu lâu nguyên giá trị đồng bạc, nhưng khi nó tan thành hào, thì nó ngoảnh đi ngoảnh lại, nó mòn hết lúc nào không biết. Bởi vậy dần dần, vì sự cần phải tiêu, lại sẵn tiền trong túi, chị cứ phải mượn tạm mãi cho đến hết hào của đồng bạc ấy.
Rồi bác San đến chơi, mách cho chị có món vải trắng người ta để rẻ có một đồng, chị tham bốn , năm hào lãi, lại vay món còn lại để mua. Rồi thấy sự chờ đợi vô ích, chị bắt đầu lại gánh hàng đi chợ.
Một buổi sáng, Phát, đầy tớ Nghị Lại, dẫn một người lạ đến nhà Pha.
Người lạ mặt có cái đặc biệt là mặc hai áo cộc. Áo trong bằng vải, áo ngoài bằng đũi nhuộm vỏ sò, mà cũng dài đến đầu gối, cùng may lối năm thân và cũng có cổ rất cao. Người ấy mặt khinh khỉnh, đội khăn lượt quấn có năm vòng, nhưng đằng trước đếm được hơn mười nếp. Người ấy tay cầm chiếc roi mây quấn tròn đầu, đi tuột vào trong nhà, leo lên phản ngồi, không chào ai cả.
Phát trỏ người lạ mặt, nói:
- Đây là cậu lệ trên huyện trên. Anh có trát đòi. Quan bảo anh làm quen để vài hôm nữa để người dẫn lối.
Phát tươi cười, lấy cái điếu bát đặt vào giữa chiếu, Phát hỏi:
- Làm gì lôi thôi lại bị kiện tụng thế?
Pha cười không đáp.
Người lính hút xong điếu thuốc, há toang miệng cho làn khói đặc ngùn ngụt tuôn dần ra, rồi vẫn chưa nói tiếng nào, thong thả móc túi lấy đưa Pha một tờ giấy có đóng nhiều dấu đỏ.
Phát làm hết bổn phận giới thiệu, đứng dậy ra về, và máy Pha ra cổng, rỉ tai dặn:
- Cậu lệ đi từ sáng đến giờ chưa ăn gì, liệu cơm rượu cho chu tất nhé.
Pha bồn chồn cả người vì thấy phải tiêu bất ngờ. nhưng biết làm thế nào? Anh phải chạy ra chợ bảo vợ về làm đồ chén. Trong khi ấy, cậu lệ buồn, hút điếu thuốc lào nữa rồi lấy quạt phẩy mạnh chiếu, và ngả lưng,nằm một cách khoan khoái lắm. Một lát, tiếng ngáy vang như xay lúa.
Vợ chồng Pha ở chợ về, với một con gà, nửa chai rượu trắng. Hai người vừa đi đường vừa gắt gỏng nhau về nỗi hiện nay chỉ còn vỏn vẹn có sáu hào chỉ. Mấy hôm nay hàng ế, tiển bán ở chợ chỉ đủ ăn từng ngày, không thể bù trả món hai đồng bạc vay tạm được. nhưng vợ anh quả quyết nói:
- Thầy nó cứ về trước đi, tôi lại đằng ông nghị, lạy van ông ấy cho mượn vài đồng nữa vậy.
- Bu mày nói cứ như của nhà không bằng. Nếu ông ấy là người dế dãi về tiền nong, ông ấy đã chẳng giàu ùn ùn thế này được. Không biết chừng ba đồng bạc hôm nọ ông ấy lấy bà nghị phân đấy.
- Thì thầy nó bảo làm thế nào bây giờ? Ông ấy cho ta tiền để kiện còn được, há không cho vay để lo xong cái kiện này hay sao?
- Bu mày làm thế nào thì làm, hôm nọ ông ấy cứ bắt tôi vay năm đồng, mà tôi nhất định chỉ cầm có ba. Tôi sợ vay lãi mà nhất là lãi của tiền ông nghị.
- Được, thầy nó kệ tôi. Tôi là đàn bà, càng dễ nói.
Bàn nhau xong, vợ Pha đến nhà Nghị Lại, và anh về nhà mổ gà làm cơm. Độ nửa giờ sau, chị Pha hớn hở về, vừa đến ngõ đã khoe:
- Thế mà đàn ông lắm cái đoảng hơn đàn bà. Giá thầy nó đến, chưa chắc ông ấy cho vay đâu. Người ta cứ bảo ông ấy ác nghiệt. nhưng ít lâu nay, ông ấy dễ dãi đấy chứ.
Vừa nói, chị vừa cởi giải yếm, xòe cho chồng xem năm tờ giấy một đồng và cười nắc nẻ.
Pha chặt thịt và lòng gà xếp vào hai dĩa phố, rồi đặt lên chiếc mâm gỗ. Đầu và hai chân, anh bày một đĩa riêng. Vợ anh nhanh nhẩu gắp dưa giá và ra cây chanh, vặt dăm chiếc lá non, đặt ở góc mâm, bên cạnh chiếc chén muối bọt to và đỏ. Rồi khi hai bát chiết yêu nước luộc gà đã múc, thì mâm cơm trông đã tàm tạm tươm. Pha lấy khăn rửa mặt lau chiếc chén vẫn úp trên cũi trong buồng, rồi cung kính bưng mâm lên.
Người lính ngồi nhổm dậy, duỗi khục hai cánh tay, đứng lên, vươn vai, vặn lưng, bẻ đầu và vẩy cẳng, rồi lại ngồi xuống.
Pha rót rượu và mời:
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu.
Khách nhìn hai dĩa thịt gà trắng nõn, thì bằng lòng lắm, nói lấy lệ:
- Bác bày vẽ quá, cơm dưa muối thế nào xong thì thôi, lại đem mà mổ gà.
Đoạn hắn xoa hai bàn chân đầy đất vào nhau, ngồi xếp hàng tròn lại, cầm chén mời chủ:
- Nào ta cùng ăn cho vui.
- Đã ạ, tôi có phép cậu từ sáng rồi.
- À, tôi tưởng chưa ăn thì cùng ngồi cả vào đây cho vui. Tôi tiếng thế mà bình dân lắm kia,,, Vậy tôi có phép rượu bác nhé… À, bác bảo cho quả chanh với tí ớt.
Pha thấy phiền hết sức, song cũng phải bảo vợ chạy đi mua những thứ gia vị thiếu ấy. Khi chị Pha về, người lính trách:
- Tưởng nhà có sẵn, chứ nếu không thì mua làm gì?
Khách khề khà vừa uống vừa nhắm rất thô tục. trong khi ăn, anh ta chẳng nói với chủ tiếng nào. Đánh loáng, hai đĩa thịt luộc đã gần hết. Pha phát ngượng về sự thiếu đồ nhắm, phải làm lối lịch sự, xuống bếp chặt nốt chỗ thịt để dành chiều vợ chồng ăn với nhau. Thấy được tiếp đồ ăn, khách càng ăn càng uống già. Anh nốc từng hụm rượu và nuốt ừng ực.
Và thấy chủ nhân tử tế, anh ta mới cảm khái nói:
- Tôi lấy làm lạ, sao ông Nghị Lại lại cho người đưa tôi sang đây, mà không cho tôi ăn cơm ở bên ấy. Quan sai tôi về đây về việc của ông ấy, ông ấy phải mang ơn quan, phải mang ơn tôi, thế mà giàu có là thế, lại đùn cho nhà bác phải làm cơm rượu.
Pha dò hỏi việc kiện tụng của mình, người lính làm ra vẻ bí mật chứ không chịu thú rằng không biết.
- Việc quan, tôi nào dám tiết lộ ra ngoài.
Chẳng mấy chốc, nửa chai rượu hết bay, pha cầm lấy chai, nói rằng đi mua thêm, để gọi lịch sự của ông khách bình dân vốn hay từ chối. nhưng ông khách lại dặn:
- Này, bác xem ở đâu có bán cái số ngang thì mua, chứ thứ này nhiều cồn, uống không tốt.
Pha bấm bụng lấy hào rưỡi, và nhờ bác tư Dậu, con dâu bà trưởng Bạt, mua bên trương Thi hộ, chứ anh không dám ra mặt.
Ăn no say xong, người lính ngủ một giấc dài, rồi khi dậy, vòi Pha hai hào, gọi nhã là tiền xe để về huyện.
Trời nắng đã bắt đầu dữ. Hai bên đường chắng có một bóng cây. Chỉ có một cánh đồng phẳng lặng với làn nước loang loáng.
Pha lên huyện hầu kiện.
Anh đội khăn lượt, mặc áo vải tây đen và quần trắng vải to, là những thức anh sắm đã lâu, nhưng ít khi có dịp dùng. Anh mượn cái ô trắng để che, vì từ làng lên huyện xa những sáu cây số.
Anh vừa mừng lại vừa lo. Mừng vì trong lưng có phong thư của ông nghị, anh chắc chắn thế nào cũng được quan thương mà ngơ đi cho. Lo vì bỡ ngỡ, mới đến cửa quan lần này là một.
Anh giắt năm đồng hai hào tư. Chẳng phải anh biếu cả quan chỗ tiền ấy. Ông nghị bảo tạ độ hai ba đồng là quá phải. Ông đã dặn lối vào công đường, chỗ nào là trại lệ, chỗ nào là trại cơ, chỗ nào là buồng giấy ông thừa ông lục, chỗ nào là chỗ quan ngồi. Ông lại chỉ bảo anh rành rọt lời ăn tiếng nói với lính và quan nha. Ông bảo vì anh là dân, nên phải lên đúng ngày giờ hầu kiện cho phải phép, chứ cứ như ông thì chẳng phải đến công đường, hoặc lúc nào lên cũng được. Ông quả quyết anh chỉ phải giáp mặt quan độ một lát, rồi lại được về nhà ngay. Cho nên vợ anh dặn nhân tiện lên huyện, thì chỗ tiền thừa, anh ra phố đến hiệu chú Sỹ mua mười phong thuốc lá và vài chục diêm, nửa tá xà phòng, một hợp lơ và hai cỗ tổ tôm.
Đến cổng huyện, anh đứng ngoài nhìn vào, thấy trong tấp nập những người đi lại. Anh có ý tìm cậu lính hôm trước để gọi, nhờ cậu đưa đường cho thì hơn, vì cậu dặn khẩn khoản thế nào lúc đến huyện anh cũng vào chơi uống nước.
Nhưng anh không gặp người quen. Anh đành theo các người khác vào trong sân. Qua mặt người lính khố xanh bồng súng gác ở cổng, anh lễ phép ngả ô, rồi tiến đến gốc bàng có bóng mát, bẽn lẽn đứng chờ.
Tuy vậy, anh cũng sợ. Anh chẳng dám đường đột nhìn ai. Trong lúc đắn đo, lại thấy những tiếng dạ, những lính lệ cắm cổ chạy, anh tính trở về, nhờ ông nghị viết cho lá thư khác, đừng nói anh kiện tụng lôi thôi nữa.
Bỗng có người đến hỏi làm anh đứt mối nghĩ ngợi:
- Người kia, việc gì?
Pha khép nép thưa:
- Thưa cậu, tôi mang giấy của ông Nghị Lại lên hầu quan, nhờ cậu bẩm hộ.
Người lính không đáp, khủng khỉnh đi thẳng đến một người dân khác, đứng gần đó.
Một lát, một người lính nữa đến hỏi xẵng, và Pha cứ câu ban nãy trả lời. Một lát nữa, lại người lính nữa đến xoắn xuýt, nhưng lại có câu trả lời ấy thì lại có sự lãnh đạm ấy.
Pha nhớ cái quanh cảnh ở bến ô tô ngoài tỉnh, và sự mời chào của những người bán vé. Anh biết rằng đã khờ vì không đáp thực thà. Việc đưa thư cho ông nghị không khiến họ phải chú ý bằng việc mình có giấy quan đòi lên hầu. Bởi vậy, người lính thứ tư có dáng tử tế hơn, anh đáp:
- Tôi lên hầu kiện.
Nhưng người lính cau mặt gắt:
- Hầu hạ gì bây giờ? Quan đang bận.
- Nhưng giấy sức khẩn kia mà?
Người lính lại gắt:
- Đợi đấy, mai.
Rồi anh ta càu nhàu:
- Sức quan thì tờ đếch nào là không khẩn?
Kinh ngạc, Pha đáp:
- Chết, nhà tôi ở xa lắm, cậu vào trình quan hộ cho tôi còn về.
Cậu lệ ngắm Pha từ đầu đến chân, rồi đứng gần lại, hất hàm thân mật hỏi nhỏ:
- Có gì không?
Pha vui vẻ móc túi lấy phong thư, và mỉm cười đáp:
- Có, giấy của ông nghị tôi.
Bỗng huỵch một cái, Pha bị ngay một quả tống vào ngực đau điếng:
- Này nghị này. Cậy có nghị à? Nghị thì đến ngày kia.
Nói đoạn, lính lệ quăng phong thư xuống đất và bỏ đi chỗ khác. Pha sợ run, cúi nhặt. Anh không hiểu tại làm sao cả. Anh phải chạy theo nhũn nhặn hỏi:
- Sao lại ngày kia, cậu? Cậu làm phúc vào trình quan hộ.
Người lính đứng lại, nhíu lông mi, hất hàm về cửa công đường, như có ý thách:
- Đấy, cậu có nghị thì cứ vào.
Pha tưởng thật, vừa bước đi, thì bị lôi ngay tà áo lại. Mảnh vải cũ, rách toạc ngay một đường. Pha vừa tức, vừa sợ. Anh lính đỏ mặt, sừng sộ hỏi:
- Đi đâu?
Pha không biết đáp câu hỏi vô lý ấy thế nào. Người lệ vừa bảo anh cứ vào lại hỏi anh đi đâu. Thật là khó hiểu quá. Giữa lúc ấy, có tiếng gọi, lính dạ rất to và thoăn thoăt chạy đi, nhưng còn quay lại giơ bàn tay ra đe:
- Đứng đấy, liệu hồn.
Thấy mình được tự do, Pha mon men tiến đến cửa công đường, thập thò ngoài buồng giấy quan huyện.
Bên buồng cạnh, các ông thừa và nho đương làm việc rộn ràng.
Pha lách mắt, ngó qua lỗ thủng ở bức bình phong, nhìn vào trong, thấy quan đương hút thuốc lá và lấy dao cạo một miếng xương trắng. Anh toan mạnh bạo bước vào, thì thình lình: bốp. Một cái tát của tay chuyên môn làm anh đinh tai, choáng óc.
- Ối.
Anh bật lên tiếng kêu. Lập tức, anh bị giật cổ ra bực hè, suýt ngã bổ chửng xuống sân. Người lính nghiến răng, trỏ vào mặt:
- Mày định kêu cho cụ tổ mày nghe tiếng phải không? Bố mày đánh thì phải câm kia mà?
- Lạy cậu...
- Bố mày bảo mày đứng chờ ở kia sao mày không nghe? Muốn tù thì bảo.
Hết cơn bàng hoàng, Pha như cái máy theo người lính kéo áo lôi đi. Đến đầu công đường, người lính trợn mắt, hạch:
- Mày muốn vượt quyền ông, thì mày bảo?
Dứt lời, anh bị một quả tống nữa vào giữa ngực. Lần này đã là lịch duyệt, anh cố nhăn nhó chứ không dám kêu. Nhưng người lính cũng dọa:
- Kêu ông bỏ tù. Ông đánh cho mất thói tự do đi. Mày đừng tưởng quan như ông nghị nhà mày ấy.
Pha còng lưng, ôm ngực nói:
- Cậu bảo tôi phải vào mà.
- Bố mày bảo thế nghĩa là bố mày bảo liệu hồn. Quân ngu như lợn. Mày không biết mày muốn vào quan thì phải nhờ đến bố mày đây à?
Bây giờ Pha mới hiểu cái uy quyền của cậu lệ, thì ra còn to hơn cả ông nghị làng anh, anh vội vàng lạy:
- Lạy cậu, cậu tha cho. Có gì tôi không biết, xin cậu cứ bảo.
- Thế sao tao bảo có gì không, mày lại cậy có giấy của ông nghị mày. Ông nghị mày oai lắm thế à?
- Vâng, quả thật tôi không biết.
- Quả cái thằng bố mày. Thế mày tưởng mày lờ bố mày mà mày lọt quan à?
Pha hiểu, vội vàng nói:
- Cậu cử cho tôi vào, tôi xin hậu tạ.
Người lính lắc đầu:
- Không hậu tạ gì cả, có gì thì đưa ngay “tút xuỵt”, không có quan gọi tao bây giờ, tao không có thì giờ lôi thôi.
Nói chưa dứt câu, người lính thò tay vào nắn hai túi, và thắt lưng người dân khốn nạn. Khi thấy cục nút, hắn hiểu là tiền, vội vàng dịu ngay mặt lại, đổi giọng nói:
- Các anh ngu lắm kia. Có việc vào quan lại cứ không muốn mất tiền để người ta chỉ bảo công việc cho. Mau lên, đưa đây mấy hào, không thì...
- Lạy cậu, tôi quả thực nghèo túng.
Người lính trợn mắt:
- Đồ các anh ngu như lợn. Một đằng được vào hầu ngay, được xử tử tế, một đằng phải cơm hàng, cháo chợ để chờ không biết đến bao giờ, anh chọn đằng nào?
Pha nén lòng để cười nhạt. Anh không dám đắn đo, khẽ thở dài, thong thả quay mặt đi, cởi nút thắt lưng, lấy ra một hào, mỉm cười đưa vào tay người lính:
- Chỉ có thế này, cậu nhận cho.
Người lính cầm tiền bỏ túi xong mới nói:
- Bỏ ra hào nữa, không có thì thôi.
- Lạy cậu, làm gì còn?
- Thì thôi.
Người lính quay bước đi, anh Pha vội vàng gọi lại:
- Cậu.
Anh lắc đầu, lúi húi lấy ra hào nữa, và vừa buộc nút lại vừa nói:
- Thật quả chỉ còn thế này. Tôi có biết đâu lệ ở đây phải thế.
Bất đồ mấy mươi xu rơi tung ra. Người lính vội vàng nhanh như cắt, cướp lấy cướp để và cười sằng sặc đắc chí. Bỏ tiền vào túi xong, hắn đưa Pha đến trước buồng giấy quan, cầm tờ sức vào. Một lát hắn quay ra, vẫy tay bảo:
- Sang bên ông lục sự.
Thấy không được vào quan để đưa thư ông nghị, cái thư nhờ quan bênh vực mình, Pha trù trừ rồi đánh bạo nói khó với người lính:
- Nhờ cậu làm phúc trình quan cho tôi vào, để đưa ngài bức thư của ông nghị tôi.
Anh lệ gắt thầm:
- Con khỉ. Ban nãy thì không nói. Để đến mai cũng được.
- Không, thư cần kia.
- Đấy thì mặc kệ, đây không biết.
Pha nghĩ đến cái bạt tai lúc nãy, tần ngần không dám tiến. Nhưng người lính lại giục:
- Vào đi, quan đang rỗi, con khỉ.
Pha dựng cái ô vào tường rồi vào, khom lưng vái chào:
- Lạy quan lớn.
Quan vẫn cạo quân bài mà chược và hút thuốc lá như ban nãy. Ngài không ngẩng đầu lên, mà cũng không đáp. Cho nên Pha đứng khoanh tay chờ.
Quan phụ mẫu là một người có nhiều cái đặc biệt. Đứng trước ngài, ta có cảm tưởng hỗn xược như ta lại phải ăn một mâm cỗ đầy ắp những thịt mỡ khi ta đã no nê. Nghĩa là ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt xuống, cả tấm thịt trên quai hàm bị cổ áo cứng nó đùn lên, nó vẽ nên một nét răn, chia má ra làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phính và nung núc những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn đến nỗi giá chỉ một mũi ghim nhỏ lỡ đụng vào, là chỗ đó có thể chảy ra hàng lít nước nhờn nhờn mà ta quen gọi là mỡ. Lông mi ngài rậm mà vòng lên, đối với đôi mắt ngài hùm hụp cong xuống. Từ thái dương, đến má, đến xương quanh miệng ngài, người ta tưởng mặt ngài làm bằng sắt, vì nó đen đen. Nhưng không, màu ấy chỉ là di tích bộ râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo.
Ngài đặt lên đầu một vòng khăn không xứng đáng. Vì đối với cái mặt vĩ đại ấy, nó phải nhiều nếp hơn. Cho nên quấn quanh đầu ngài, nó như chiếc vành sắt đai quanh một thùng gỗ gánh nước. Mà khăn ấy, ngài đội một cách rất chướng, đến nỗi một người nào trong mặt trận dân chủ, tất phải cáu mà vô phép ngài ấn thật mạnh đằng sau xuống cho nó trùm nốt gáy.
Riêng ở người ngài, sự oai vệ cũng đã quá đầy đủ rồi, thế mà đằng sau đằng trước, bên phải, bên trái, còn bày la liệt những thứ khiến người yếu bóng vía phải rùng mình: thanh quất, súng lục, súng trường, gươm, giáo, bát xà mâu, kích,... rặt những thứ chỉ quyệt vào thằng dân nào là thằng ấy đủ chết mất ngáp.
Ngắm từng ấy thứ, tự nhiên mặt Pha xám dần.
Bỗng quan ngẩng lên nhìn: một luồng điện làm anh choáng vía, anh run lên, không nói ra hơi nữa.
- Việc gì?
Nghe hai tiếng ồ ồ ở cuống họng quá rộng, Pha hoàn toàn líu tắc lưỡi lại. Nhưng hỏi xong quan đưa mắt xuống quân bài ngay. Lúc ấy Pha mới hoàn hồn dần và nhớ mang máng lại các việc.
Pha móc túi lấ bức thư, vuốt cho thẳng thắn, tiến đến cạnh bàn giấy. Tự nhiên anh lại bắt đầu run và quên nỗi chỉ nói được rõ có mấy tiếng:
- Lạy... lớn... nghị...
Như cầy sấy, anh đặt thư lên bàn, và lùi lại góc phòng đứng khoanh tay để lấy hồn vía.
Quan vẫn cắm mắt vào mảnh xương trắng, đưa tay vớ lấy thư, rồi bóc phong bì ra. Đọc được vài dòng, ngài ngẩng đầu, nói:
- Quái, tao lạ cho ông nghị nhà mày ăn nói lắm giọng. Hôm nọ vừa viết cho tao nhờ xử cho thằng Thi được kiện, hôm nay đã nhờ tao xử hòa cho mày rồi.
Pha càng bối rối, không hiểu bụng dạ ông này thế nào mà đòn xóc hai đầu làm vậy.
Quan đọc nốt bức thư, rồi, vẫn không ngẩng đầu lên, gật đầu nói:
- Được, nể lời ông nghị, tao sẽ tha cho mày, nghe chưa? Sang buồng thầy lục, tao bảo thầy ấy liệu lấy cung.
Pha dạ, và ngắm nghía quan như ngắm nghía vị ân nhân. Lúc ấy quan vẫn vừa đọc thư, vừa với tay vào cái đĩa không, để ở góc bàn. Ngài vét mấy lượt mà chẳng được gì. Bỗng ngài ngẩng lên nhìn thẳng vào Pha, ngạc nhiên hỏi:
- Đâu?
Pha ngạc nhiên chẳng kém gì quan, vì chẳng hiểu quan hỏi gì. Song anh cũng trả lời:
- Dạ?
Quan cau mặt hỏi:
- Dạ cái gì? Đâu? Thế ông nghị nhà mày không dặn mày phải thế nào à?
- Bẩm có, con phải đem đầu đến kêu quan lớn thương cho.
Quan gật:
- Biết rồi, nhưng vào quan không có lối nói bằng nước dãi.
Rồi ngài bắt đầu nói xẵng:
- Mày đừng láo. Ông nghị viết cả cho tao là mày trình tao năm đồng và tạ tao hai chục, vì thế ban nãy tao mới bảo tha cho mày.
Pha dựng tóc gáy như nghe thấy tiếng sét. Thực là tự nhiên anh chui vào hang hùm. Năm đồng thì có, chứ hai chục, anh lấy đâu ra. Anh oán ông nghị bỗng dưng đưa anh vào chỗ chết. Anh run lên, nói như mếo máo:
- Lạy quan lớn, cảnh nhà con nghèo, quan lớn đèn trời soi xét cho.
Quan quắc mắt:
- Nghèo thì bước. Làm mất thì giờ của ông.
Nói xong ông gọi:
- Lính đâu mày, tống cổ thằng này xuống trại.
- Lạy quan lớn...
Anh lính ban nãy lại hùng hổ hiện ra, giơ tay vả luôn vào mồm Pha hai cái, rồi cầm cổ anh lôi ra ngoài.
Trong khi ấy, không biết quan đã cúi mặt xuống tự bao giờ, bình tĩnh cạo nốt quân bài mạt chược.
Pha định với lấy cái ô, nhưng người lính cứ kéo bừa anh xuống trại. Từ thuở bé, anh chưa hề gặp hoạn nạn to, nên lần này anh mê lên, như người mất hồn. Anh không hiểu sẽ ra sao. Anh chỉ biết rằng tại anh bỡ ngỡ nên mới thành nông nỗi.
Thầy đội lệ đang nằm bên phản, thoáng trông thấy tội nhân bèn hốt hoảng chạy ra và hỏi lính:
- Quan bảo giam nó à? Có phải gì không đấy?
- Con không thấy quan truyền.
Thầy đội mở cửa buồng giam lúc ấy chưa có người nào, tống Pha vào. Pha giẫm lên một lượt đất ẩm, ghê cả chân. Cái cùm lim nặng nề nằm lù lù trước mặt làm anh giật mình. Thầy đội nhấc tấm gỗ lên, nói:
- Tao cứ cùm mày cho cẩn thận, ngồi xuống.
Pha không dám cưỡng, vì từ nãy đến giờ anh đã lịch duyệt chốn quyền môn. Anh muốn khóc nhưng lại sợ trái phép, đành giấu sợ buồn bã và ngấm ngầm thở dài. Anh ngồi trên lượt rơm đã nát cho khỏi bẩn quần, và duỗi hai chân lên trên phiến lim có khoét hình bán nguyệt. Thầy đội đặt tấm gỗ trên xuống. Anh đau đánh nhói. Cái cùm nặng nề nghiến vào xương như tiện cổ chân anh. Thầy đội khóa đầu chốt lại. Pha đau quá, nhăn nhó nói:
- Lạy thầy nới rộng cho con, buốt lắm.
Thầy đội không đáp, đứng ghếch chân trên mặt phiến lim hỏi:
- Mày tội gì? Nói cho thật.
- Bẩm thầy, con chẳng tội gì.
- Mày ăn cướp hay ăn trộm, cứ nói cho thật, tao liệu cách gỡ tội cho.
Pha tuy ngu dốt, nhưng đã biết nghi ngờ, vả anh nói có tội gì mà cần giấu, nên nói:
- Chỉ tại con chưa kịp đưa tiền trình nên quan giam con, có thế thôi.
Thầy đội không tin:
- Sao lại thế?
Muốn cho Thầy đội hiểu đầu đuôi việc của mình, mong thầy có thương hại chăng, Pha bèn kể lể rõ ràng cho thầy nghe. Nghe xong, thầy nói:
- Phải, thằng già ấy nó hay dắt mồi cho quan để làm hại các anh, mà anh phải biết nó cho cả thằng Thi vay ba chục để khấn quan đấy.
Pha sửng sốt cả người, song anh không tin. Anh nghi ngờ hết thảy những người trong huyện. Anh nhận thấy họ có ý ghét ông nghị hay sao, nên từ người lính cho đến Thầy đội, ai cũng nói xấu ông. Vả chăng qua cũng là cái mưu mô họ lừa anh, chứ đời nào ông Nghị Lại xử tệ với anh được.
Ngắm anh một lát, Thầy đội lại hỏi:
- Mày láo, chứ mày bảo chưa kịp nộp tiền trình quan mà quan giam. Hẳn mày đã hỗn láo gì hay có tội gì khác. Trăm thằng vào tù, thằng nào cũng xoen xoét rằng không biết tội gì.
- Bẩm thật.
Thầy đội vờ gắt:
- Mày nói dối là mày dại, con ạ. Mày muốn tao gỡ cho, thì cứ thú thực đi. Thú với tao chứ có phải thú với quan đâu. Nói với tao, tao bày kế cho liệu, mà khi có tốn cũng tốn ít thôi, chứ mày lên quan, hở cơ ra, ông ấy tóm được thì bỏ mẹ, con ạ. Mày phải biết một câu hớ hênh trước mắt quan là một năm tù. Tao bảo trước cho mà biết.
Nghe lời hăm dọa, Pha trố mắt nhìn, nao nao cả ruột gan. Nhưng xét tội mình chẳng qua chỉ chậm chạp nên anh quả quyết đáp:
- Bẩm quả chỉ vì con chậm đưa tiền trình.
Thầy đội nghĩ ra, bĩu môi nhạo:
- Bộ mày thế này mà dám nói có tiền. Mày là cậy có ông nghị làm thầy, nên mày ”tăng phú” quan.
Pha cãi:
- Bẩm thực con có mang tiền đi.
Thấy Pha bị trúng kế, Thầy đội nói khích để thách:
- Ừ, thì tiền mày đâu? Mày nói gian lòi đuôi ra rồi.
Muốn chứng sự thực thà, Pha cởi nút thắt lưng lấy ra năm tờ giấy một đồng, xòe ra trước mặt Thầy đội.
- Bẩm đây, chứ con có dám nói dối đâu.
Bất đồ Thầy đội chộp ngay, bóc lấy một tờ, bỏ nghiến vào túi, vui sướng nói:
- Ừ, tóm được cậu rồi, có chạy đường trời, đang thiếu tiền góp tổ tôm tối nay đây.
Rồi không lý sự gì thêm nữa, thầy chạy ra như thằng ăn cắp giật và khóa tách cửa lại, rồi quay vào cười ha hả. Hẳn thầy đắc chí về cách lấy tiền có nghệ thuật.
Bị mất tiền Pha quờ tay theo để vớ lại và đứng phắt dậy, nhưng đánh nhói, anh tưởng gãy chân về cái cùm. Anh ôm cẳng xuýt xoa, vừa đau, vừa tức, bất giác anh hu hu khóc. Anh không ngờ chốn công môn lại nhũng nhiễu hơn chợ. Mất một đồng bạc, anh có còn bốn. Anh lấy gì lễ quan, theo trong giấy ông nghị được? Như vậy anh không thể kêu oan nữa. Anh nói dối quan thật, vì anh có đủ đâu năm đồng? Thế này thì chiều nay hay mai anh cũng không mong gì được tha về. Mà tội lừa quan trên phải biết rằng không nhẹ. Lại nghĩ đến từ hôm qua đến nay, anh mất vào những chỗ không đáng mất gần hai đồng rồi. Anh tiếc món tiền mồ hôi nước mắt, có thể cứu sống gia đình anh ngót một tháng trời.
Pha ngồi trong buồng giam nhìn ra ngoài sáng. Bụng anh lo lắng không lúc nào ngơi. Anh thương vợ phải mong mỏi anh về, mà ngày về của anh, chưa biết chừng một tháng, hai tháng, hay đôi ba năm… Chẳng hay vợ anh có biết nông nỗi này mà tìm anh, cố lo cho anh khỏi tai nạn hay không.
Thỉnh thoảng những con muỗi to và những con kiến lửa kềnh lại đốt anh đánh nhói. Mà cả hai đùi tê liệt, máu đọng lại, bấm không thấy đau. Anh mỏi, nhưng càng cựa càng đau. Anh thấy ở đời không có cái dại nào giống cái dại nào, tự nhiên vô cớ đưa đầu vào tròng để nên tù nên tội. Anh chỉ mong trời phật run rủi, cho ông nghị có thể giải thoát cho anh được.
Bóng nắng ngoài hè càng rợp sân, anh càng nóng ruột. Rồi thấy bụng đói và thèm thuốc lào nữa. Nhất là khi lũ lính ăn cơm ở gian ngoài, anh càng cồn cào. Chắc là anh phải nhịn bữa chiều hôm nay.
Rồi đến sẩm tối, trong trại vắng tanh, anh nghĩ đến vợ anh ở nhà, bụng dạ lại cồn cào hơn đói. Một đêm nay nữa, một đêm lo sợ, không ngủ được, anh sẽ thấy nó dài là ngần nào. Nghĩ đến từ sáng hôm nay về trước anh được tự do mà thèm. Biết bao giờ anh lại được hưởng sự sung sướng như thế nữa. Nhìn cái tương lai mù mịt, anh chỉ thở dài.
Anh ngả lưng xuống nhắm mắt lại, cố ngủ cho quên đói, quên mong, quên khổ. Nhưng đất ẩm, anh xê dịch ra chỗ nào cũng không thoát. Muỗi vo ve như đàn ong.
Anh thấy gian ngoài người ta thắp đèn ba dây, Thầy đội lệ và bốn người nữa châu đầu vào ánh sáng đánh tổ tôm với nhau. Mỗi tiếng cười ròn rã cũa Thầy đội là một nhát dao nhọn nó đâm vào ngực anh.
Anh cố ngủ, song không tài nào ngủ được. Lúc về sáng, anh có chợp mắt hai ba dạo, nhưng lần nào cũng chiêm bao. Khi thấy như đang ở nhà với vợ con. Khi thấy phải đày ra một nơi rừng rú nước độc. Cho nên lúc tỉnh dậy, mình mỏi, hai chân đau liệt, anh bàng hoàng nghĩ đến ngày mai.
Cả đêm hôm ấy, chị Pha cũng không ngủ. Chị nóng cả ruột, hết đứng lại ngồi, hết thở dài lại bế con ra cổng ngóng. Chị chắng hiểu duyên cớ vì đâu mà chồng lên huyện, chỉ đưa một bức thư mà không thấy về. Hay quan đi vắng anh phải ở lại đợi. Hay quan yêu anh vì nỗi gì mà bắt ở huyện cho làm lính lệ tháng tháng được ăn lương chăng. Rồi đến chiều, tự nhiên chị thấy máy mắt thì đâm lo, thành ra ruột nóng như cào. Nghĩ khôn chẳng nghĩ, chị lại cứ nghĩ dại. chồng chị có đi đâu thì sớm tối thế nào cũng về, chứ chưa hề ngủ đêm lại bao giờ. Cho nên lần này, chị thấy nhà quạnh vắng quá. Mà chị lo đêm hôm có trộm. Nhà tuy chẳng có gì, nhưng gánh hàng đấy, nó vơ vét cũng được vài chục đồng bạc. Chị đứng bên hàng rào gọi bà trưởng Bạt cho cái Bống sang ngủ với chị cho vui, nhưng con bé nhát, sợ tối, không dám đi. Bởi vậy, vừa chập tối, chị đã đóng cổng, chốt cửa giả cẩn thận rồi bế con đi nằm. Tuy vậy, chị có ngủ được đâu. Chị có thể đếm được những tiếng kẽo kẹt của bụi tre gần đó nghiến vào nhau bao nhiêu lần, cùng lúc canh tư chó nhà ai ở xóm đồng rít lên mấy hồi rùng rợn. Mỗi bận ở ngoài đường có tiếng gót chân nện xuống đất, chị lại mừng hụt rồi lại lo. Đầu trồng canh ba, chị vùng trở dậy, mở cửa ra đầu nhà, lấy nồi nước, bẻ bồ kếp và đun. Chị gội đầu xong, ngồi quạt cho tóc khô, rồi mới đi nằm. Một tiếng chim kêu khuya, một tiếng sột soạt, chị đều cho là cái điềm, mà không đoán được là hay, hay gở.
Cho đến tận rạng đông, tuy ít ngủ, song chị ngồi nhổm dậy, tỉnh táo lắm. Thằng bé còn nằm im thin thít, thỉng thoảng theo thói quen, móm mém miệng như để bú. Chị mở bồ lấy đinh vàng, thẻ hương vội vàng ra miếu đầu làng để lễ, suỵt soạt cầu bình yên cho chồng.
Chị đến bếp, nhóm lửa, thổi niêu cơm và gọi cái Bống sang giúp đỡ. Bữa cơm vắng chồng, chị chắc chán ngắt, nên còn tí muối vừng chiều hôm trước, chị đem ăn nốt, để dành dừa cho phần chồng. Ăn xong, chị đánh thức con, mớm cho nó, rổi vét trong nhà có đồng hai tiền hàng, chị giắt thắt lưng, gánh đôi bồ đi. Nhưng không hiểu sao, chị không ra chợ, chị tạt sang nhà bà trưởng Bạt:
- Bà cho tôi gửi gánh hàng, thầy cháu đi vắng, tôi không đi chợ. Tôi lên huyện cắt một vài thức.
- Thế anh ấy đêm qua chưa về à?
Chị thở dài:
- Chưa, chả hiểu làm sao.
- Khoảng đầu trống ba, tôi thấy chó cắn, lại có tiếng người gọi, tôi ngỡ anh ấy về. Phải, chị nghỉ buổi chợ, nhân tiện lên huyện xem sao.
Chị Pha quẩy gánh vào buồng, bà trưởng hỏi:
- Hôm nay phiên chợ huyện đấy nhỉ.
- Vâng.
- Thế chị chịu khó xem lợn có rẻ thì mua cho tôi một đôi, độ đồng rưỡi hai đồng nhé, chị có ứng hộ, rồi tôi trả sau.
Chị Pha cười, thoái thác:
- Tôi chỉ có vài đồng để mua hàng, ứng sao được cho bà?
Bà trưởng vào buồng rồi ra, tay cầm cái túi bằng vải. Bà cởi miệng túi, lấy ra một đồng bạc giấy, và đếm mười hào cho chị Pha. Chị Pha đùa:
- Chà, bà này rít nhỉ, cấp vốn cho tôi một đồng, mai tôi bán được hàng, tôi trả nào.
- Còn đâu, đấy là tiền bán lợn của nhà Dậu hôm kia ấy.
Rồi bà chép miệng:
- Không bán thì thằng bố Dậu nó cũng khênh đi mất, tội quá, thuốc với sái, đa mang vào chỉ khổ.
Chị Pha tán:
- Thì bà không cho tôi vay, chú Dậu chú ấy cũng ăn cắp mất hết cho mà xem.
Bà trưởng thở dài, nghĩ ngợi một lát, rồi nói:
- Ờ thì tôi cho chị vay, cũng như gửi chị giữ hộ. Nhưng bao giờ trả, phải lãi năm xu cơ.
Chị Pha nhận liều. Bà trưởng mở túi tiền ra đếm cả hào lẫn xu năm và xu lẻ lấy một đồng. Chị Pha hớn hở:
- Thôi chào bà nhé.
- Hãy gượm, đi đâu mà vội, để tôi bảo nó ra giàn hái mấy là trầu không, ăn một miếng đã.
Nhưng chị Pha nóng ruột nói:
- Để đến chiều. Thôi tôi đi đây.
Chị Pha tất tả lên huyện. Qua cánh đồng lúa má xanh tốt, chị mừng thầm năm nay được mùa. Chị tạt qua ruộng nhà xem có hũ rượu lậu nào không, trời trưa nắng, gió mát rười rượi làm chị càng hăm hở đi cho chóng đến nơi.
Đến phố huyện, qua các hàng cơm nào chị cũng hỏi thăm, nhưng chẳng ai biết chồng chị là ai cả.
Chị càng bối rối. Giữa lúc ấy chị nghe có hồi trống rắn rỏi trong huyện, chị biết rằng chỉ vào đó, hỏi thăm lính mới rõ.
Chị tiến vào cổng huyện, thấy người lính canh, xà cạp, thắt lưng da, ngồi trên chiếc ghế đẩu, chống súng xuống đất thì ngập ngừng. Chị ngả nón, đánh bạo đến gần hỏi:
- Thưa thầy quyền, thầy làm phúc bảo cháu, nhà cháu có trong nhà này không?
Thấy câu hỏi vẩn vơ, người lính nhìn rất oai vệ. Nhưng khi đã trông rõ rằng người đàn bà ngớ ngẩn này tuy xấu, nhưng còn đôi vú vớt vát được, nên anh ta dịu ngay mặt, nhăn nhở trỏ vào cái nhà gạch cao ở cạnh, cười đáp:
- Có, chị muốn hỏi thăm nhà chị, thì vô khối trong kia.
Nói đoạn, hắn túm ngay lấy nón chị Pha. Chị hãi giật lùi lại, nhưng không kịp.
- Lạy thầy, thầy cho cháu xin, cháu đi tìm nhà cháu đây mà.
Người lính nhìn chị Pha rất tình tứ, đáp:
- Biết rồi, có nói tử tế thì đằng này trả, không thầy thầy cháu cháu gì cả. Lại đây bảo: người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không.
Chị Pha vốn chẳng phải nữ sĩ, nên câu văn chương kia, chị chẳng hiểu gì. Song cũng đoán biết là thầy quyền ghẹo mình nên trống ngực chị nổi lên, chị van lạy:
- Lạy thầy, cho cháu xin, cháu có chồng con rồi.
Người lính đứng phắt dậy, nắm lấy tay chị Pha, nhưng hụt. Chị giằng được ra. Chị tức đầy ruột, nhưng phải nén không dám giở chua ngoa. Bỗng có tiếng cười khanh khách:
- Này, hai anh chị để đến tối, ai lại ban ngày ban mặt mà xấu chơi ngay ở ngoài đường thế.
Người lính híp đôi mắt lẳng lơ để cố cười cho có duyên. Thấy người đội khăn, mặc áo dài thâm, ở tai có gài cái bút, có vẻ nho nhã, đương nhìn người lính và mình giằng co nhau, chị Pha ngượng ngịu quá nói:
- Nhờ ông xin hộ thầy quyền cho cháu cái nón, cháu đi tìm nhà cháu lên hầu quan từ chiều hôm qua chưa về.
Trong khi chị vô ý, thì đáp độp một cái ở ngực, chị Pha giật nẩy mình. Trẻ phố xúm lại xem từ ban nãy cười dậy lên. Thì ra anh lính đã bóp được vú chị. Chị xấu hổ, run lên, xám người lại, toan quen mồm cất tiếng chửi. Nhưng người lính quẳng chiếc nón vào chị, nghiêng đầu cho rõ tình tứ và nhăn nhở nói:
- Đây, anh cho nhà, nhà đi nhé.
Chị Pha hầm hầm cầm nón, đi thẳng vào sân công đường, kệ những tiếng cười đằng sau vẫn giòn tan. Người lính hôm nọ thấy chị Pha quen mặt thì chạy lại. Nỗi mừng làm chị quên ngay việc nhục nhã vừa rồi. chị hỏi:
- Thưa cậu, nhà tôi lên quan hôm qua, sao mãi chưa về?.
Nguyễn Công Hoan
Theo http://butsen.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chút tâm tình về nhà văn Võ Hồng, tác giả của "Hoài cố nhân"

Một chút tâm tình về nhà văn Võ Hồng, tác giả của "Hoài cố nhân" “Ngày 24/04/2022 Trường đại học Phú Yên đã tổ chức buổi hội thả...