Nguyễn Công Hoan - Tuyển tập 2
Cậu ấy may lắm đấy
Lần đầu tiên mà tôi
giơ khẩu súng lên, sắp bóp cò để bắn con chim gáy đậu trên ngọn tre, trong lòng
tôi xốn xang vô hạn.
Thì các bạn hãy thử
nghĩ xem. Ngón tay này mà tôi co lại ấy là kết liễu một sinh mệnh. Mà cũng viên
đạn nhỏ xíu, cũng cò máy xinh xắn ấy, trỏ nó vào bụng người ta, mà làm một phát
tức khắc mình trở nên đồ sát nhân, bị toà án xử cho mình mất chỗ đội mũ. Thế mà
lại mang nó đi doạ dẫm nước khác để xâm chiếm đất đai, thì mình còn trở nên đồ
phát xít bị báo Đông Pháp chửi bới nữa, mới “giết đệ” chứ!
Con chim gáy chẳng biết
đang ở giây phút nghiêm trọng. Nó vẫn cúc cu gáy đều. Thế giá nó có chết cũng
không thể cãi được rằng không phải số. Tôi bỏ hết những điều nghĩ ngợi vô ích,
cố ngắm cho đúng để bóp cò. Phải, nếu tôi có bắn tài đi nữa, cũng không đời nào
tôi có thể thành đồ sát nhân hoặc đồ phát xít được. Cớ ấy rất dễ hiểu, là tôi
không có súng. Hơn nữa tôi là dân An Nam, lẽ tất nhiên không được phép tự do có
khí giới để muốn doạ lấy nước nào làm thuộc địa cũng được.
Súng ấy nguyên là của
ông bạn với chú toi. Vì hai ông đương ăn cơm trong buồng, nên tôi táy máy mang
ra nghịch. Và nhân thấy có tiếng chim gáy ở đầu nhà, tôi bèn nếm mùi săn bắn
xem nó ngon lành đến bực nào.
Con chim vẫn hót những tiếng véo von.
Đứng nấp ở cạnh đống rơm tôi hết sức láy gân, gò lưng ra đằng
trước, tỳ mạnh đầu báng súng vào xương vai, áp thật ghịt vào má và nhắm kỹ một
mắt lại trống ngực tôi nổi mạnh. Bụng tôi sôi lên ùng ục.
Đoành!
Lá rụng lạt sạt. Con chim tốt số vỗ cánh bay đi.
Nhưng bộp! bộp! Và đồng thời với hai tiếng rơi ấy, tôi thấy
tiếng trẻ con reo ầm.
- A, hai con?
Tôi chửa kịp ngạc nhiên, thì nỗi mừng đã đến. Một đứa trẻ chạy
vào cổng, đưa trả tôi một đôi chim xám vừa béo vừa to.
Trên nhà, mọi người nghe tiếng nổ, tất cả chạy ra sân Nhưng
khi ai nấy thấy sự tinh nghịch của tôi đã đem về một kết quả phi thường, thì
không những không ai mắng, còn khen tôi là khác. Một phát, tôi đã trúng hai con
gầm ghì.
Ông khách lấy làm bái phục tôi, nói:
- Phát đầu tiên, Quốc nó đã tỏ ra là bắn giỏi. Rồi sau này,
nó sẽ ăn đứt chúng ta.
Tôi cười lạt một cách nhũn nhặn, để ngoa ngoắt mà chịu tiếng
khen. Tôi cảm ơn hai con chim khốn nạn đã hy sinh cho tôi được danh dự. Tôi lặng
ngắm cây đa rậm lá mọc sau bụi tre, và nghĩ mãi không hiểu sao đôi gầm ghì này
đỗ ở đâu, để tôi bắn lầm phải, đến nỗi chết một cách oan uổng.
Song than ôi, ở đời này, có biết bao nhiêu kẻ vô tài trở nên
danh tiếng lẫy lừng do những sự tinh cờ tức cười hoặc biết bao nhiêu đứa xây
danh dự mình lên trên đống thây đồng loại. Thì tôi mới giết oan có hai con
chim, cái sĩ diện bắn giỏi của tôi nó có to gì mà phải nghĩ ngợi với ân hận?
***
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Mà cố nhiên tiếng bắn giỏi
là tiếng đồn lành. Nó đồn di xa lắm, vào tận Ninh Bình, lọt đến tai ông chủ đồn
điền Quýnh.
Ông Quýnh có hơn tám trăm mẫu ruộng, mà chỉ có mỗi một con
gái, mặc dầu ông bắn rất giỏi. Trong hai mươi năm trời, ông hạ được ba mươi con
cọp bằng bốn mươi phát đạn. Người ta cứ bảo vì ông tàn sát nhiều thiên tướng,
nên trời bắt tội ông không được có con trai. Chứ bắn giỏi, khoẻ lại hay bắn như
ông, lẽ nào chỉ đẻ có mỗi một cô con gái? Nhưng cái đó thuộc về dị đoan.
Song, không hề gì. Miễn là ông Quýnh biết có tôi đây là nhà
thiện xạ, để ông bằng lòng gả cô Mai cho tôi.
Ông Quýnh giàu hơn tám trăm mẫu ruộng. Cái mỏ ấy thực tốt cho
những kẻ muốn khai. Trời sinh ra tôi tên là Quốc, lại sinh con gái ông tên là
Mai. Hai chữ tên này thực hợp và cần cho sự đào mỏ bằng cuốc, bằng mai không
nói. Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông còn cạn nữa là.
Ông Quýnh yêu cô Mai lắm. Lẽ đó cố nhiên. Ông muốn có con rể
cũng như ông, nghĩa là bắn giỏi, để giúp ông giữ vững lấy đồn điền, sợ khi điền
tốt “nổi loạn”.
Điều đó không phải ông đã quá lo xa, vì ngoài sự ông đáng thờ
vì có con gái đẹp và giàu, ông phải cái xấu là có tâm hồn Hít le, nghĩa là cứ
thích chiếm ruộng đất của bọn dân nghèo khố ở sát cạnh khu vực của ông.
Khi chú tôi nghe tin ông Quýnh hâm mộ tiếng tôi rồi, thì ông
nghiêm nghị bảo tôi rằng:
- Mày không xem chỗ nào có súng mà mượn để tập bắn, rồi về
nhà người ta thì làm thế nào?
Chú tôi coi tôi như đi làm dâu vậy. Vì ông Quýnh vẫn tuyên bố,
ai lấy con ông, tất phải ở gởi rể. Rồi một khi tôi đã được vác áo thụng xanh đến
nhà ông, tôi lại không biết loay hoay khẩu súng thế nào, thì người ta bảo ở nhà
có người lớn mà không biết dạy.
Trong việc hỏi Mai, bạn chú tôi làm mối. Sau lời quảng cáo
phóng đại, lấy sự bắn đầu tiên mà chết cập rập những đôi gầm ghì làm chứng cớ,
ông Quýnh đã hơi xiêu lòng.
Rồi sau hết, ông nói:
- Cháu nó cũng đã có nhiều người hỏi, song tôi xét ra toàn hạng
văn dốt vu dát, tôi sợ không coi nổi cơ nghiệp này. Hiện nay cũng còn hai đám nữa,
nhưng tôi chưa nhận lời. Vì tôi còn phải dò la lâu.
Thế rồi muốn cho cuộc nhân duyên mau mau có kết quả mối tìm dịp
cho tôi làm quen với Mai. Chúng tôi vụng trộm thư từ cùng nhau. Và sau hai
tháng trời tấn công ái tình bằng lối du kích, tôi bàn với Mai nên để cuộc yêu
nhau này thành công khai, nghĩa là Mai cứ thú thực cùng cha để đòi lấy tôi cho
kỳ được.
Ông Quýnh chiều ý con, nhưng nói:
- Tao cũng vẫn bằng lòng gả mày cho nó, nhưng tao muốn chờ
khi nào người ta nói lại thì nhắn nó về đây, bảo nó đi bắn thử, xem tài nó thực
hư thế nào.
Điều kiện ấy, tôi rất lấy làm lo ngại. Mà tôi ác cảm cái lối
tuyển người trong thời buổi cạnh tranh này làm sao! Thì ra ai muốn chiếm được
cái gì, cũng phải qua một kỳ thi. Chỉ trừ làm vua là không phải sát hạch gì hết,
nên bất cứ thế nào cũng có thể chễm chệ trên ngai vàng, còn thì tuốt tuột là phải
thi cả.
Ác hại quá, bây giờ tôi lại phải thi làm rể? Kỳ viết - viết
thư tình cho Mai - đã trót lọt, nay đến kỳ khấu vấn. Mà kỳ khẩu vấn này, lại chẳng
như những kỳ khẩu vấn thường dùng đến miệng người ứng thí, mà phải mượn đến miệng
súng? Thật là lối nói chuyện của các bố phát-xít bên Âu châu. Song, ở phía trời
Tây, mấy xừ ấy họ phát-xít vì họ muốn độc tài. Chứ nhút nhát như tôi, thì độc
gì. Chửa nghe thấy tiếng súng đã són ra ấy. Có họa là độc dạ, vì mình quen theo
chủ nghĩa phát xia?
Song, đã liều ba bảy cũng liều.
Về đến đồn điền, tôi được ông Quýnh tiếp rất chu đáo. Nên tôi
phải gãi vào chỗ ngứa của ông:
- Thưa ông, quanh đây có rất nhiều chim. Nhất là mạn gần
sông, lắm giang quá. Có lẽ ít lâu nay ông thưa săn bắn.
Ông Quýnh cười, gật:
- Phải, vì đến bốn tháng nay, tôi bận hết việc nọ đến việc
kia, chứ trưa, ngày nào tôi cũng vác súng đi, thì chim chóc dạt đâu mất cả.
Rồi ông tiếp:
- Mai cậu cứ lấy súng của tôi mà bắn.
Tôi làm bộ ngại, để tỏ ra mình thạo:
- Nhưng lỡ có ai hỏi...
Ông Quýnh cười:
- Làm gì có ai dám hỏi. Trong đồn điền, toàn người nhà cả.
Tôi vui mùng:
- Thế thì thích quá.
Kỳ tình, đêm hôm ấy, tôi lo mê.
Hôm sau, không thể lấy cớ nhức đầu sổ mũi để trốn thi. Tôi định
vác súng ra đi. Thấy tôi nai nịt gọn gàng, Mai mỉm cười, nhìn tôi rất tình tứ.
Trời nắng. Cái nắng tháng ba làm cho người ta dễ ốm, nếu người
đi nắng không có một hy vọng tốt đẹp là lấy được vợ giàu.
Những đàn giang xoè cánh bay lượn trên không, làm rợp cá thửa
ruộng. Nhiều con lò dò trên bùn lầy, ngỏng cổ lên bờ đường để nhìn.
Hay là bắn giang?
Đó là một ý hay. Giang to, dễ trúng. Tội gì tôi không nắm cổ
những dịp may mắn tình cờ. Tôi lấy làm lạ cho những thằng đã hỏi Mai trước. Ý hẳn
chúng nó cầu kỳ, cố tìm cho được những thứ chim hiếm có và bắn khó để khoe tài.
Chúng nó ngu thì chúng nó chết. Ngày xưa, người ta mới kén rể bằng cách bắn sẻ,
chứ ông Quýnh có thách như thế đâu? Âu là tôi cứ bắn những con giang to bằng
cái mẹt này. Hễ ông chê giang không quý vì thịt không ngon, thì tôi sẽ chống chế
là định tâm bắn thứ chim này để nhân tiện thử tài nội trợ của Mai một thể. Phải,
với thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì thuyền quyên ấy mới sánh được
vai anh hùng này. Hẳn là ông Quýnh không thể “truy” tôi vào đâu được nữa.
Tôi đứng nấp sau gốc cây, chờ dịp thuận tiện để đưa ra những
phát đạn hùng dũng. Tôi dương súng ngắm kỹ, rồi bóp cò. Nhưng lần nào cũng vậy,
những con nhát thì vỗ cánh bay đi. Nhưng con bạo còn quay cổ, lơ láo nhìn, rồi
rắc lại ít phân làm kỷ niệm, mới bay theo các bạn.
Tôi xấu hổ.
Và nực nữa. Mồ hôi ra, vừa vì xấu hổ, vừa vì nực.
Tôi lại đi.
Lại một đàn giang nữa đậu ở bờ sông. Tôi phải báo thù cho hai
phát ban nãy.
Đoành?
Cũng một lượt, chúng nó bay mất.
Ba viên đạn làm tôi nhục nhã.
Mà viên đạn cuối cùng trong túi, nó cũng chẳng tử tế gì đâu
Tôi ngồi nghỉ ở cạnh đường, đặt súng vào lòng, thở dài. Hỏng, không khéo phen
này thì mất vợ!
Tôi đã tính đến nước chuồn thẳng. Song không trôi.
Còn cái nó cạnh tôi, tôi không đem nó đi theo được.
Người An Nam không có tự do mang khí giới, thật là hết sức
tai hại. Đã chẳng chiếm nổi một tý thuộc địa nào thì chớ, lại còn những lúc
này, không thể mang súng của người khác mà đi bài tẩu mã được.
Thôi thì tôi đành vác mặt mo về đồn điền để hàng ông Quýnh và
từ biệt Mai. Số phận của nhân duyên tôi phó mặc trời, chứ biết nói thế nào cho
xuôi được? Đạn mang đi bốn, nay còn có một. Chẳng lẽ nói mình đau bụng, nên thấy
trong có thuốc, đã trót nuốt chửng mất ba viên.
Khốn nỗi, thuốc ấy lại là thuốc súng.
Bỗng một ý kiến nảy ra trong óc tôi. Người thông minh nhanh
nhẹn, láu lỉnh trong lúc cùng, thường bật ra được những mưu kế phi thường, các
bạn ạ. Tôi chợt nhớ ban nãy, qua chợ, có thấy bán rất nhiều giang sống. Âu là
tôi chịu hy sinh mấy đồng bạc để bảo toàn lấy danh dự vậy.
Tôi hăm hở đi.
Đến chợ, tôi mặc cả giang và chọn bốn con to béo nhất. Được lắm.
Bốn phát đạn mang đi thì đây, tôi đem về bốn con giang nặng trĩu. Thiện xạ, thế
chứ còn thế nào! Tôi xách giang đến một gốc cây, treo ghì cẳng cả bốn con vào
cành, thiết rõ chặt, rồi dí miệng súng vào tận nơi, ngắm cho phát đạn xuyên qua
cả bốn bụng, rồi mới mắm môi mắm lợi, bóp cò. Bay nữa đi?
Phát súng nổ, bốn con giang trước không thể cựa quậy được,
nay thêm nữa là chết ngoẻo.
Tôi cởi trói, xách riêng từng con, đi về, sĩ diện như ông tướng.
Thấy tôi đến cổng, ông Quýnh chạy ra đón như đón một chàng rể
hiền. Mai cũng mừng rỡ khen tôi rối rít.
Tôi làm bộ mệt nhọc, vứt giang ra hè, và thở, ông Quýnh nhìn
bốn con chim ủ rũ, gật gù nói:
- Thế thì cậu bắn lần này may lắm đấy.
Tôi sung sướng, trỏ một con:
- Thưa con này, con phải đuổi theo nó đến mười thửa ruộng. Nó
động thấy con là bay mất.
Ông Quýnh cười:
- Giống giang tinh mắt lắm. Cho nên bắn nó rất khó.
Thật là cậu rất may. Tôi càng đắc chí, trỏ con khác và nói
khoác đẫy.
- Con này khoẻ quá, bị đạn rồi mà còn cố bay. Một suýt nữa nó
sang bên kia sông thì mất. May quá, mới đến chỗ cây đề thì nó kiệt lực, đụng
vào cành, rơi xuống.
- Phải, tôi đã bảo cậu may lắm mà?
Mai nhìn cha, nói:
- Cũng phải biết bắn, chứ cứ may thế nào được.
Thấy người yêu bênh, tôi càng như cởi tấm lòng.
Theo đà nói khoác, tôi trỏ con thứ ba.
- Con này thì mải ăn, con dò đến tận sau mà không biết.
Cả mấy người cùng cười. Ông Quýnh nói:
- Tham ăn cho chết. Tôi không mấy khi được những dịp ấy. Vì
giống giang rất tinh mắt cho nên tôi bảo cậu may là đúng lắm.
Thấy tiếng may, tôi liếc Mai. Mai cũng nhìn cha, có ý không bằng
lòng. Như thế đủ cho tôi rồi. Được Mai đồng ý, tôi hả hê lắm. Cho nên còn con
thứ tư, tôi nói kháy ông Quýnh:
- Con này thì thật không tinh mắt tí nào, vì con đứng ngay đằng
trước mà bắn, lúc nó đang nuốt dở con cá.
Ông Quýnh gật gù:
- Tôi bảo cậu may là đúng lắm, vì mọi khi giống giang rất
tinh mắt.
Mai thấy cha cố dìm nhân tài, bèn lườm và nũng nịu:
- Thầy lại cứ bảo thế!
Ông Quýnh ngọt ngào cười, nhìn con gái, nhìn tôi rồi ngồi xổm
cạnh bốn con giang, ông cầm cả bốn cái cố giơ lên như để phân vua, và giảng:
- Thầy bảo cậu Quốc bắn được lũ giang này là may lắm, thầy
nói chẳng ngoa, vì xưa nay giang rất tinh mắt. Đây con xem nếu cậu ấy không
may, sao tình cờ lại gặp cả bốn con bị khâu mắt sẵn thế này mà bắn bao giờ.
Thôi chết rồi! Tôi giật mình đánh thót, cố dương to mắt để
nhìn kỹ. Bỗng cá trong người tôi như bị cái gì nó bò khắp mạch máu. Thì ra bấy
giờ tôi mới trông thấy mắt giang bị khâu bằng chì thâm thật!
Trời ơi! Túi tôi hết đạn, tôi tự tử bằng cái gì bây giờ.
Sau nhà ông Lũng có cái vườn rộng ngót nửa sào.
Giữa vườn có một cây mít to, lá rườm rà, bóng rợp cả khu. Từ
gốc lên, bám vào thân cây, đến cành, chi chít nhưng quả lớn. Khách qua đường,
ai không biết, nhìn cái cây sai quả, thì tấm tắc khen:
- Quí hoá chưa! Thật là hái ra bạc.
Nhưng sự thực, cây mít này đã gây bao tai hoạ cho gia đình
ông Lững, và chứng kiến bao đau khổ của bố con ông.
Ngày xưa - nghĩa là sáu mươi năm về trước, còn đời ông nội
ông Lũng, thì ông cụ vẫn trồng trọt hoa màu ở cái vườn này. Tuy đất hẹp, nhưng
mùa nào thức ấy, thu hoạch quanh năm cũng có đồng ra đồng vào.
Một năm - năm ấy ông Lũng lên chín - ông cụ xin được của người
họ ở làng Vòng một cây mít mật con.
Ông cụ gánh về, trồng ở giữa vườn, rào xung quanh cẩn thận,
và bảo con cháu:
- Giống này sai và ngon. Tao chưa được ăn bao giờ.
Nghe nói quí lắm. Nhưng chắc gì tao đã sống đến ngày có quả
Tao chỉ ước chết vào vụ hè, để chúng mày chúng tao toàn bằng mít.
Cây mít lớn dần.
Ông nội ông Lũng qua đời.
Bố ông đẻ thêm nhiều con.
Gia đình trở nên túng quẫn, thường ngày ba tháng tám, vẫn phải
đi vay gạo hàng bữa.
Xóm ông có thằng địa chủ tên là Tồn. Hiện nay nó vẫn còn sống.
Nó thích ăn mít. Nhà nó cũng có một cây, nhưng cây nhà nó quá không sai và chứng
ngon. Nó đã lấy giống mít Vòng, nhưng trồng cây nào, chết cây ấy.
Nó chỉ ước ao có cây mít Vòng để ăn và lễ quan. Nhưng muốn
có, thì phải mua. Mua thì phải mất tiền. Giống địa chủ có quen mua mất tiền cái
gì bao giờ đâu. Giống ấy chỉ quen nhận đồ biếu. Nếu không ai biếu thì ăn hiếp
hoặc ăn lừa. Nhưng khốn nỗi, ở Vòng không ai là tá điền của nó, mà cũng không
ai nợ nần gì nó để nó kể ơn lấy không mít của người ta.
Một lần mẹ ông Lũng ốm. Bà thèm của ngọt. Trong nhà lại hết
tiền. Bố ông nghe nói nhà thằng lý Tồn có mật, nên đến mượn tạm. Nó đưa hẳn một
bát, lại cho vay thêm hai đấu gạo nếp. Nó bảo:
- Người ốm thèm ăn gì, cứ cho ăn cái ấy, tự khắc khỏi.
Sau khi mẹ ông khỏi bệnh, thằng Tồn đến đòi mật và gạo. Bố
ông không có để trả. Nó không nói gì, ra vườn ngắm cây mít, mới cao độ một thước,
nói:
- Có đúng giống mít Vòng không?
Bố ông đáp:
- Thưa đúng.
Nó đứng một lát rồi về.
Nửa tháng sau, nó lại đến đòi nợ. Bố ông lại không có để trả.
Nó nói:
- Thế thì vợ chồng mày gán cho tao cây mít con này.
Mẹ ông thấy không thiệt thòi gì, lại được sạch nợ, thì cho là
một sự may mắn, nên bảo chồng:
- Phải đấy, cứ gán cho ông lý. Đến kỳ cúng ông thì xin ông ấy
một quả. Chứ nhà ta ai thiết ăn.
Thằng Tồn bắt bố ông làm giấy nhường đứt cho nó cây mít.
Vườn nhà. Nhưng cây của người.
Cái năm cây mít bói quả đầu tiên, bố ông đến nói với nó, xin
để cúng ông cụ. Nó ngọt ngào đáp:
- Thế là đúng. Người trồng cây phải được ăn quả trước người
thác. Được, mày cứ lấy. Nhưng đừng bổ. Cúng xong lại mang trả tao.
Đến mùa rau, mẹ ông nhìn cây cải cứ bé cằn đi, nghĩ mãi mới
tìm ra lý do:
- Tại cây mít che mất nắng, nên rau không lớn được. Phân gio
tưới tắm là thế chứ còn thế nào nữa.
Bố ông thở dài:
- Rồi cây mít còn to, bóng rợp còn rộng. Rễ nó lại ăn hết mầu
đất. Không biết rồi vườn này trồng gì.
Năm sau, theo lệ năm trước, bố ông không nói với thằng Tồn,
trảy một quả mít chín, định để cúng ông cụ.
Thằng Tồn - khi ấy đã làm phó tổng - giận cái thói nông dân tự
do chiếm đoạt tài sản của địa chủ, nên phải làm cho bố ông biết tay nó.
Tay nó cầm cái ba-toong, hầm hầm đến nhà. Nó không đánh bố
ông. Nhưng quật vào bài vị của ông nội ông, và chửi thằng ăn trộm mít. Nó hất cả
mâm cơm cúng xuống đất.
Thấy bố ông nói bướng, nó trói vào gốc mít, bắt quỳ hai đầu gối
vào hai nửa quả mít mới bổ đôi. Rồi nó đánh và giao hẹn:
- Từ nay, ông giao cho vợ chồng mày phải trông cây mít. Mất
quả nào, ông chẻ xác vợ chồng mày ra. Cho chừa thói ăn cắp?
Bố mẹ ông cực quá, nhưng không biết làm thế nào được. Cây lớn
dần. Cà vườn bị cớm nắng. Cỏ cũng không mọc được huống chi là hoa mầu.
Mẹ ông bàn:
- Hay là bán quách vườn đi.
Nhưng không ai mua. Vườn ấy không thể trồng trọt. Và không ai
dại mà làm người canh mít công không cho địa chủ gian ác, mất quả nào, chết với
nó quả ấy.
Mẹ ông kiếm ăn mỗi năm một vất vả thêm. Thiếu đất để trồng
hoa mầu, gia đình bớt hẳn một mối lợi.
Rồi sực nghĩ ra, bà bàn:
- Hay là ta bán vườn cho cụ chánh? (thằng Tồn đã làm chánh tổng).
Bố ông đến nói với nó:
- Ngày xưa cái năm u cháu ốm, cụ có giúp một bát mật với hai
đấu gạo. Con gán hầu cụ cây mít. Ngày ấy cây còn nhỏ, không nói làm gì. Nhưng
hai mươi năm nay, cây ấy sai quả, mùa nào cụ cũng hưởng. Đó là quyền của cụ.
Con không dám nói đi nói lại. Nhưng có một điều con phải nghĩ ngợi nhiều, là
cây của cụ, nhưng nó lại mọc trên vườn nhà con. Cho nên, con muốn nhường đứt hầu
cụ cái vườn. Kẻo con vẫn mang tiếng là có cây mà không được ăn quả.
Thằng Tồn bỏ dọc tảu xuống, ngồi nhỏm dậy, đáp:
- Anh nói cũng có lý, nhưng anh có để phần có lý cho tôi nữa
hay không. Anh làm như ở đời này chỉ có mỗi một mình anh là khôn thôi ấy!
Rồi nói thêm:
- Anh xem, gần tất cả cây ăn quả ở xóm này là của tôi mua hết.
Cũng như cây mít của anh. Nhưng có ai kêu ca phàn nàn gì đâu? Có ai đến nói nhường
vườn cho tôi không? Ai cũng trông nom cho tôi rất cẩn thận, không cây nào suy
suyển quả nào. Hơn hai mươi năm nay, tôi ăn mít Vòng đã quen rồi. Thôi anh về
đi, nói lắm, rác tai tôi.
Nói đoạn, nó sai người đuối bố ông Lũng ra cổng.
Năm năm sau, bố mẹ ông qua đời.
Ông Lũng cũng đẻ nhiều con. Gia đình càng đâm ra túng thiếu.
Ông đã phải bán đến thửa ruộng cuối cùng cho thằng Tồn. Nhưng cái vườn sau nhà
thì cho cũng không ai muốn lấy.
Bà Lũng bực mình lắm. Mỗr năm mùa mít đến, bà nhìn những quả
xanh nhu nhú như cái nắm tay ở thân cây bà tính lấy gậy nhọn chọc cho thối mẹ tất
cả đi cho đỡ ngứa mắt. Nhưng bà không dám. Tuy thằng Tồn đã từ chánh tổng nhưng
con cả nó làm lý trưởng uy quyền không kém bố ngày trước. Thằng này cũng có cái
thói cho vay để chiếm cây ăn quả của vườn người ta.
Ông Lũng thì coi cây mít như một vật thù. Chính nó làm cho
hai đời trong gia đình ông, vì túng bấn, là vợ chồng, bố con lục đục, cãi cọ
nhau luôn. Mùi quả chín thơm ngào ngạt luôn luôn nhắc ông đến những nỗi uất ức.
Nhất là khi thấy đứa con nhỏ tập nói “cây mít của nhà ta”, thì ông càng căm hờn.
Ông nội ông, bố mẹ ông, nay đến vợ chồng ông, có cây mít ở vườn đấy, nhưng đã
ai được biết mùi mẽo nó như thế nào đâu.
Một hôm, nghe con ông khóc, đòi ăn mít, ông không thể nhịn được.
Ông cầm con dao dựa, chém vào thân cây hai nhát thật mạnh.
Việc đến tai thằng Tồn. Lập tức, nó phăm phăm đến.
Nó chửi ông là làm phản. Nó sai đầy tớ đóng bốn cái cọc ở cạnh
gốc mít, buộc bốn chân tay ông vào, rồi cắm cây chuối vào lỗ đít, và đánh. Ông
như con ếch bị căng, giẫy giụa. Một lát, máu đít vọt ra.
Bà Lũng ở đồng về, tay xách giỏ ốc. Thấy chồng bị đòn, bà vội
vàng chạy đến. Thằng Tồn giật lấy, quăng ra ngoài hàng rào, rồi đá bà một cái
ngã sóng soài. ốc rơi tung toé.
Thằng bé con bò lổm ngổm theo cái giỏ, vừa nhìn qua kẽ rào, vừa
khóc. Nó đói, mong mẹ về để có ốc ăn. Sau trận đòn, mình mẩy ông Lũng sưng vù,
bốn năm hôm mới khỏi.
Dạo tháng năm năm ngoái, một đêm, mưa to gió lớn.
Cái cành mít to nhất bị gậy, rơi thẳng xuống nóc nhà.
Nhà vốn yếu, nên đổ. Cái cột đè lên đùi bà Lũng. Bà chữa mãi
không khỏi. Hiện nay, đi đâu bà cũng phải chống nạng.
Cho tới năm nay, vừa đúng bốn mươi mốt năm, thì đội phát động
về. Ông Lũng lấy lại được cây mít. Các cây trong làng cũng được giải phóng
thoát tay địa chủ về với gia đinh nông dân.
Lại đúng vào vụ mít chín. Ông Lũng bổ một quả to nhất làm tư,
bóc ra múi, đặt lên bàn thờ, rơm rớm nước mắt, khấn ông bà cha mẹ. Rồi vợ chồng
con cái xúm lại ăn. Không ai nói với ai câu nào. Hmh như họ sướng quá. Không phải
sướng vì được hưởng cái vị thơm ngọt của giống mít Vòng, nhưng sướng vì đã
giành được cái quyền ăn quả của cây nhà trồng đã ba đời nay.
Nhưng ông Lũng ăn có ba miếng. Ông đứng phắt dậy, lấy cái
đĩa, xếp vào đó độ hai chục mùi to nhất, và nói:
- Để đến tối, họp xong, tao đánh lừa anh cán bộ về nhà, để mời
anh ấy ăn vói tao, thì tao mới thật thấy ngon, thấy sướng.
1955
Lần sau, có việc lên tỉnh, ông huyện Văn Giang vẫn vào trọ
nhà Giốc như thường. Thế là bác thông phiên đã đoán sải. Bác tưởng hôm nọ xảy
ra, nó động tới chỗ liêm sỉ của ông huyện, bác sẽ mất đứt mồi.
Mà rồi biết đâu, ông ta lại chẳng cổ động các quan khách đến
trọ cả nhà khác, thì thật là hoạ vô đơn chí.
Nhưng mà không. Ông huyện vẫn vui vẻ sai bảo bác, như quên khuấy
chuyên hôm nọ, đến nỗi bác nghĩ rằng hay là đêm ấy bác đã chiêm bao mê hoảng mà
thôi.
Song, quyết là sự thực. Ngay hôm sau, khi ông huyện đã về,
bác Giốc nhiếc móc cô Khuê, đến nỗi cô ứa nước mắt nức nở nói:
- Thầy mà cứ đổ cho con phải lòng cái nhà ông dê già ấy rồi
con tự tử cho mà xem! Con ngờ đâu ông ấy phải gió thế.
Bác Giốc quắc mắt, hỏi:
- Sao thấy ông ấy vào, mày không hô hoán lên?
- Thì con có trông rõ đâu. Mãi đến lúc thầy đánh diêm soi,
con thấy sáng, bừng mắt ra nhìn, con hoảng, mới kêu rú lên.
Nghĩ ngợi một lát, bác Giốc nói:
- Lần sau, tao chắc ông ta không còn mặt mũi nào vào trọ đây
nữa. Nhưng hễ mày đi phố có gặp, mày nên tránh xa ra.
- Ngộ ông ấy cứ đến đây thì làm thế nào?
Bác Giốc hút xong điếu sái ba, ngồi nhổm dậy, tu một hụm nước
rất nóng, đáp:
- Thì mày về nhà cô Lý mà ở. Ông ấy có hỏi, tao bảo mày đi
đòi nợ.
Khuê trầm ngâm, thở dài, nói:
- Thật tự nhiên tốn tiền hành lý đi tránh nạn. Ít ra cũng mất
ngót đồng bạc. Sao thầy không đề con ở nhờ nhà ai trên tỉnh này có được không?
- Ai người ta nuôi báo cô mày. Vả lại rồi người ta hỏi, tao sợ
tai tiếng. Được, mày cứ nghe tao, về Rồng chơi với cô Lý mày dăm ba hôm.
Khuê nguây nguẩy:
- Về Rồng đi xa ốm lên ấy. Từ ga Gia Lâm kéo bộ theo đường đê
thì nắng chết người! Mà làng Rồng cũng về huyện Văn Giang của ông ấy.
Bác thông phiên cau mặt.
- Nhưng trong khi ông ấy lên đây, mày đi Văn Giang mày còn sợ
gì. Vả lại ông ấy là phụ mẫu dân Văn Giang đời nào ông thèm trêu ghẹo mày ở hạt
ông cai trị.
Bàn bạc với con như thế, bác Giốc yên trí giấu được Khuê vào
chỗ kín đáo xa xôi.
Ngờ đâu ông huyện Văn Giang thấy Khuê cắp nón và gói áo, lại
biết rằng cô ra ga, thì ông vờ vịt hỏi bác Giốc:
- Con bé nó ra ga vào giờ này à?
Tưởng có nói thực cũng không hại gì, bác thông phiên đáp:
- Bẩm quan lớn, cháu nó về Rồng, chơi với cô Lý cháu.
Ông huyện mừng thầm, hỏi:
- Rồng nào? Rồng Văn Giang ấy à?
- Bẩm phải ạ.
- À thế ra nhà mày cũng có họ với người ở Rồng đấy?
- Bẩm cô cháu lấy chồng ở Rồng. Chú cháu trước kia làm lý trưởng.
Ông huyện nghĩ một lát, rồi hỏi:
- Lý trưởng nào thế nhỉ?
- Bẩm Lý Trung ấy ạ.
Ông huyện vừa gật gù vừa há to mồm ra mà:
- À, Lý Trung là em rể mày đó. Bây giờ tao mới biết. Ừ thằng ấy
tao coi bộ cũng thực thà.
Nói đoạn, ông uống vội vàng chén nước rồi đi, sai lính xếp cả
bàn đèn vào va-ly. Anh lính ngơ ngác không hiểu ý quan ra làm sao. Vì theo lệ
thường, ngài rất lề mề. Trước khi vào hầu cụ thượng, dù súng lục kề mang tai,
ngài cũng hãy làm một hai chục điếu cái đã.
Lần này thì chẳng có súng lục kề mang tai, mà ông huyện cũng
hết sức lật đật! Ông vào dinh, thu xếp công việc cho chóng xong, định về Văn
Giang nội nhật hôm nay, để đến tối, vào làng Rồng. Chỉ có sắc đẹp mới khiến nổi
ông nhịn cơm trắng, cơm đen, đầy đoạ cái thân già như thế.
Chiều hôm ấy, về tới nhà, một mặt ông huyện bảo Cai việc cho
người đến Rồng thăm xem nhà Lý Trung có phải mới có cháu gái đến thực hay
không, một mặt ông sai làm mâm cơm, và tiêm chong chóng hút cho đủ bữa thuốc.
Ông gắt gỏng với ông Đề và ông Bộ-ba vào trình việc án mạng lúc trưa ở làng Phụng
Công. Ông bực mình những việc quan trọng ấy đến làm rối beng cả óc, không cho
ông được thong thả để nghĩ ngợi đến cuộc gặp gỡ dịu dàng sắp sửa này.
Rồi xẩm tối, anh lính phụ khoẻ nhất đã đội khăn, mặc áo the
dài chỉnh tề, kéo xe ông về làng Rồng.
Chiếc xe nhà lăn đôi bánh gỗ trên con đường gập ghềnh, ông
huyện tuy đau đớn mệt nhọc, nhưng vẫn bắt chạy hết sức. Tay ông cầm chiếc đèn bấm
năm pin, thỉnh thoảng lại bật sáng lên, để soi lối cho xe đỡ sa xuống ruộng.
Hôm ấy là cuối tháng, trăng sao không có cả một cánh đồng như nhuộm mực.
Về đến Rồng, tuy ông ê ẩm cả lưng lẫn hai vế đùi, song ông thấy
nhẹ nhõm ngay. Ông đi rõ nhanh, gọi cổng vào nhà lý trưởng đương thứ.
Ông nói thực với thuộc hạ mục đích của ông, và hỏi:
- Vậy thầy có kế gì giúp tôi không?
Lý trưởng gãi tai đáp:
- Lạy quan lớn, quan lớn thương đến, chắc cô ấy phải bằng
lòng ngay. Vả lại cô ấy về đâu, chứ lại về hạt này, thì lọt làm sao được tay
quan lớn. Mà con tưởng cô ấy định hầu hạ quan lớn, nên mới lập tâm đến chơi bà
Lý Trung.
Ông huyện vui vẻ, vỗ vai lý trưởng, vừa cười, và nói:
- Ừ phải, thầy nghĩ đúng đấy. Thế bây giờ ta nên làm thế nào?
- Bẩm để lát nữa, con bảo nhà con chạy đến nhà Lý Trung, bảo
cô ấy sang chơi.
Ông huyện lắc đầu, xua tay:
- Nó không đi đâu.
- Bẩm có, nhà con ghé vào tai cô ta, bảo thực rằng sang quan
lớn đòi.
Ông huyện gật đầu, nhấp chén nước chè tầu, rồi giục:
- Thầy bảo cô ấy nhà thầy đi ngay cho tôi.
Cái tin quan về làng, tự nhiên đồn ầm từ nhà nọ sang nhà kia.
Người ta biết rằng quan, vì nhận được cái xe nhà gỗ sơn đen để ngay ở ngõ ông
Lý.
Cả làng lo lắng chẳng hay có việc gì chẳng lành, mà đang đêm
hôm, quan về một cách bất thình lình như thế.
Duy cô Khuê hiểu. Cô kể sự tình với bà Lý Trung, và hỏi xem
nên trốn tránh chỗ nào cho thoát.
Bà Lý Trung bàn bạc với chồng, rồi nhất định dắt cô sang nhà
người anh rể họ ở làng bên cạnh.
May sao, hai cô cháu vừa bước chân ra khỏi nhà độ mươi phút,
thì ở ngoài cổng có tiếng bà lý đương nheo nhéo gọi.
Song bà thấy thất vọng ngay, vì thấy nói hai cô cháu mới ra
Hà Nội lúc chập tối.
Ông huyện được tin, như bị sét đánh. Ông há mồm mãi mới dấp
dính nói được:
- Thế cô có vào trong nhà xem xét kỹ càng hay không?
- Bẩm không?
Ông huyện giơ cả hai tay lên trời, mắng:
- Đồ ngu? Thầy lý đưa tôi đi vậy. Tôi đã biết rằng vợ thầy
không được việc gì đâu mà.
Lý trưởng sợ tái mét mặt, vội vàng thắp chiếc đèn bão và cắp
tráp điếu, theo quan đi.
Đến nhà Lý Trung, ông huyện gọi người mở cổng.
Ông không nói rõ là khám xét gì, cứ xồng xộc sấn vào, bấm đèn
lên nhà trên, xuống dưới bếp, ra cả chuồng trâu, chuồng lợn. Sau khi sục sạo một
hồi vô ích, ông đứng giữa sân ngẩn ngơ thở dài. Lý Trung mời khan mời vã, sao
ông cũng không ngồi nghỉ. Rồi chẳng nói chẳng rằng, một mình lại xăm xăm đi
sang hai bên hàng xóm. Không biết nghĩ thế nào, ông không cho ai đi theo hầu,
ông chắc Khuê đã nhanh chân, chui sang ẩn nấp ở đó.
Nhưng sự tìm tòi cố nhiên không có kết quả, gia dĩ ông lại bị
thiệt hại: ông vấp vào cái chốt cổng suýt ngã, cái đèn bấm rơi bắn ra xa, tìm hết
hơi cũng không thấy.
Ông phát cáu, gọi váng lý trưởng bảo đi về, và cùng đường,
ông hết lẩm bẩm đến gắt gỏng:
- Thầy không được việc gì cả.
Lý trưởng sợ hãi, gãi tai nói:
- Lạy quan lớn, tha tội cho con. Bẩm bây giờ xin quan lớn cứ
nghỉ ở nhà, con sai tuần đi tróc, thế nào cũng thấy cô ta.
Một người thất vọng đến đâu cũng không bao giờ dám tuyệt vọng,
cho nên ông huyện bấu ngay vào cái chút hy vọng ấy, tuy biết nó chẳng vững vàng
gì.
Ông nằm khan trên sập nhà lý trưởng, tay vắt lên trán, thỉnh
thoảng lại thở dài. Ông tiếc cả cái đèn pin nữa. Thực là thiệt đơn thiệt kép.
Mỗi tên tuần vác gậy về không lại làm ông chán nản một tý. Rồi
đến người cuối cùng thì sự tuyệt vọng của ông đến chỗ hoàn toàn.
Lúc ấy đã đầu trống ba. Ông bỗng vùng ngồi dậy, bới lại tóc,
cắp khăn vào nách, xỏ chân vào giầy, gọi lý trưởng.
- Bảo nó kéo xe cho tôi về huyện.
Lý trưởng sợ sệt nói:
- Bẩm đêm đã khuya, mời quan lớn nghỉ lại, nhà chúng con cung
sạch sẽ.
- Thôi, thầy cắt hai tên tuần lực lưỡng cho chúng nó đi hầu
tôi.
Nói đoạn, ông huyện như người điên, đùng đùng đi một mình ra
cổng chẳng chờ ai cả. Lý trưởng hộc tốc chạy gọi tuần, và sai người sắp sửa đèn
đuốc. Chăng mấy chốc, giữa hai ngọn lửa sáng, chiếc xe đen đã ì ạch nghiến bánh
lên trên con đường đất gồ ghề.
Sáng hôm nay, lý trưởng làng Rồng đang ngủ ngon giấc, thì có
người đánh thức dậy, ký nhận tờ sức của quan huyện.
Văn Giang, ngày 25 tháng 2 năm 192...
Le Tri huyện sức Lý trưởng xã... tuân cứ.
Tối hôm qua, bản chức đi tuần lại xã thầy và có mang theo chiếc
đèn bấm năm pin, mọi nhẽ.
Vậy không biết tên nào cầm đèn ấy, chưa nộp lại bản chức, nay
sức thầy phải tìm cho ra và đệ tại bản nha trước ngày 2 tháng 3. Nhược bằng đứa
gian giảo có ý chiếm đoạt, thì sẽ phải tội nặng.
Nay sức
Le Tri huyện
(ký tên và đóng kiềm)
Đánh vần xong, lý trưởng cậy cục dử mắt, bôi vào cột, thừ người
ra nghĩ, mặt tái dần.
(Mars -1938)
Vừa bước chân tới cổng sở, tôi đã thấy chiếc xe Pho ấy đứng
trước thềm nhà, và tiếng chủ tôi nói oang oang trên gác.
Bốn năm nay, làm ở đây, tôi chưa hề thấy có việc khác thường
như lần này. Tôi bình tĩnh sao được. Chủ tôi vốn là dân làng bẹp, dân làng bẹp
hạng nặng, nên ngày thường sớm lắm là tám giờ ông mời tỉnh giấc. Mà sau khi rửa
mặt, mặc quần áo, điểm tâm (bằng nước cà phê sữa) và điểm phổi (bằng khói thuốc
phiện) thì ít ra đến chín giờ ông mới xuống làm việc được. Vậy mà chẳng hay hôm
nay đã xảy ra việc gì phi thường, đến nỗi ông bỏ cả lệ.
Tôi vội vàng rảo bước vào buồng giấy để chờ sẵn. Vì chắc rằng
trước khi đi vắng, ông chủ cần dặn dò tôi điều nọ điều kia, hoặc giao công việc
cho tôi.
Nhưng chờ mãi, tôi vẫn không thấy gì. Tôi đến bàn chủ xem có
dây thép hoặc thư từ gì khẩn cấp không.
Cũng chẳng có gì đáng chú ý. Tôi ngạc nhiên hết sức.
Ngoài sân, vẫn vọng ra tiếng chủ nói và tiếng chân người chạy
ở tầng trên.
Tôi mở cửa gọi loong-toong. Nhưng không ai trả lời.
Bỗng người bồi chạy vụt qua. Tôi vội vàng hỏi:
- Việc gì thế?
Người ấy không dừng lại, chỉ cau mặt để đáp bằng hai tiếng
vùng vằng, cộc lốc:
- Ô! Thôi!
Tôi nhận thấy trên má anh có hằn năm vết đỏ, nên tôi chột dạ,
càng cố tìm cho hiểu việc gì.
Mà tiếng gót chân dồn dập nện ở cầu thang mới làm tôi kinh
hãi làm sao.
Thì may quá, thấy người sốp-phơ léo nhéo ở ngoài hiên, tôi vội
vàng mở cửa sổ ra:
- Việc gì thế, bác?
- Đi nhà thương. Đương gắt như mắm đấy!
Trả lời một cách oán hờn, anh ta lại vội chạy ngay xuống bếp.
Đi nhà thương? Trong nhà đã xảy ra tai biến gì?
Hay thằng Jean, thằng con trai yêu quí của chủ tôi đã làm
sao? Có thể thế lắm. Thằng bé này, chắc vì vú nó lơ đễnh, đã để nó ngã gác. Hay
nó bị cảm phong?
Nhưng sao chủ tôi không gọi dây nói mời bác-sĩ đến cấp cứu?
Tôi thương hại thằng bé, nếu nó đã gặp nạn. Nó là một đứa ngoan ngoãn, lễ phép.
Vừa mới chiều qua, khi thấy tôi hết công việc, nó sán đến cạnh tôi, đặt hai
cánh tay mũm mĩm lên bàn và kiễng chân, há miệng, để ngó lên chỗ tôi làm việc.
Ai mà không yêu nó được.
Tôi bế nó, đặt trên đùi. Nó hỏi tôi bằng những câu rất ngây
thơ, khiến chủ tôi phải cười đau bụng.
Tôi vừa tính lên gác để thăm nó, nhân tiện xem có thể giúp
ích cho chủ việc gì chăng. Thì bất đồ, tôi thấy chính thằng Jean đương níu tay,
co vú nó ra sân sau.
Nó vẫn hồng hào, ngoan ngoãn, và nhất là vẫn lành lặn như thường.
Tôi vẫy tay, gọi vú:
- Chị Hai!
Và hất hàm, tôi trỏ tay lên gác để làm hiệu hỏi.
Chị Hai mỉm cười, gật đầu, đáp lại tôi bằng một tiếng:
- Đẻ!
Tôi cau mặt để nghĩ. Quái! Ai đẻ? Tôi lại hỏi:
- Ai?
Nhưng chị Hai muốn chừng không nghe rõ, nên đáp:
- Đi nhà thương.
Rồi chị bị thằng Jean co đi xa, khiến tôi nghĩ vấn nghĩ vơ một
mình, mà càng không hiểu việc gì cả.
Đẻ? Ai đẻ? Hay bà chủ? Không có lý. Bà ấy mới có mang được bốn
tháng. Chủ tôi nói chuyện với tôi thế.
Vậy lẽ nào bà ấy đã đẻ sớm thế được. Hay là đẻ non?
Nếu vậy, thật là một tai biến cho chủ tôi. Chủ tôi đã tát anh
bồi. Phải chăng vì lo cho vợ mà ông đã loạn trí?
Tôi làm ở đây bốn năm. Chủ yêu tôi. Tôi mến chú. Sao tôi thấy
cái tin dữ dội này mà thờ ơ cho được? Vả bà chủ là một người phúc hậu, thực
thà. Tuy bà là vợ một người Pháp sống ở bên thuộc địa, người Pháp ấy lại là nhà
doanh nghiệp khá to, vậy mà bà vẫn làm những công việc như vợ một người thường.
Chính mắt tôi hàng ngày đã thấy bà vào bếp làm đồ ăn. Và khi rồi, bày vò cả quần
áo giúp bồi. Bà đối với kẻ ăn người làm rất ngọt ngào, rộng rãi, đến nỗi chưa
bao giờ tôi thấy ai oán thán một câu nàn.
Tiếng chủ tôi vẫn một giong gắt gỏng ở trên gác.
Tôi đứng đắn đo, xem rằng lên hỏi thăm bây giờ có phải phép
hay không. Vả cũng nên biết đích sự thực đã. Thì may thay, người loong-toong đã
ở đâu về. Anh ta xuống xe ở cổng trả tiền vội vã và tay ôm cái chai và gói gì
to, tất tả rảo cẳng vào nhà.
Nghe tôi hỏi, anh ta chí đủ thì giờ trả lời bằng ba tiếng, đã
vội biến mất:
- Bông, băng, cồn.
Đích là những thứ cần cho sự đẻ. Tôi phải đi đi lại lại trong
phòng, châm thuốc hút để nghĩ xem nên xử trí thế nào Từ lúc ấy, tiếng chân chạy
trên gác càng vội vàng tấp nập.
Nhưng bỗng tôi ngạc nhiên hết sức. Và do đó, tôi lại yên tâm.
Là vì tôi vừa nghe tiếng dịu dàng của bà chủ tôi gọi thằng Jean:
- Jean! Lên hôn Ba! Ba sắp đi đấy.
Ô hay! Ba thằng Jean sắp đi? Chủ tôi sắp đi? Đi đâu? Không có
lẽ ông lại đi nhà thương để đẻ.
Tôi mong loong-toong xuống để hỏi.
Tôi nhẩm lại xem trong nhà nay còn ai có thể đẻ được nữa
không? Không. Trăm câu hỏi vẩn vơ quấy lộn trong óc tôi. Và sau hết, tôi quyết
rằng bọn bồi, bếp, sốp phơ, vú em, loong-toong không hiểu việc gì hết. Họ nói
liều cả.
Nhưng bỗng không, sao từ nãy, trong nhà như có biến động? Hay
chính chủ tôi đã gặp hoạn nạn gì chăng? Xưa nay ông điềm đạm, sao bây giờ ông
to tiếng, cáu kỉnh làm vậy?
- Bác Năm đâu. - ông ấy hỏi - Có phải mua thêm xăng không đấy?
- Đủ cả rồi.
Thấy tiếng xôn xao ở chân thang, tôi vội ngó cố ra, thì những
người ấy đã đâu cả.
- Gớm, đi tránh ra, người ta đã vội mê thần đồng lên, lại còn
án hướng. Ông ấy lại bạt tai cho cái nữa bây giờ.
- Gắt cái con khỉ, ai không vội?
Tôi lại mở cửa, thì cũng chẳng thấy còn ai.
Trên đệm ô-tô, người ta đã đặt những gói nho nhỏ
Tôi bèn chờ ở cửa sổ, để đợi người mà hỏi.
Anh bồi ôm lễ mễ cái chai còn gắn xi nguyên, một cái hộp nhỏ
từ trên gác xuống, rồi để trong xe. Tôi vẫy tay, toan hỏi. Bỗng bị chủ gọi giật,
anh ta phải thưa:
- Me-xừ!
Một lát, anh sốp-phơ hất tấp vặn kính cửa xe cho kín, rồi lấy
tay trỏ để đếm đồ đạc. Anh ngồi sẵn, cầm tay lái để chờ. Lúc ấy, người
loong-toong cũng đứng ở bậc thềm. Tôi hỏi:
- Bác đi đâu về thế?
- Tôi mua bông, băng, cồn. Nhà có sắm đủ cả, nhưng ông chủ bảo
bông cũ, xấu, phải mua thứ mới. Ông ấy có hiếu quá?
Nói đoạn, anh lắc đầu, mỉm cười với sốp-phơ, rồi tránh rạp
sang một bên, khiến tôi muốn hỏi, lại không dám hỏi nữa. Tôi biết là có cái gì
đáng kính trọng sẽ qua trước mặt anh.
Cái đáng kính trọng ấy, hẳn là ông chú, hoặc bà chủ tôi.
Tôi đoán không sai: Bà chủ tôi tất tả ra xe, ngó vào trong,
soát lại các đồ đạc, rồi nhìn lên gác, gọi chồng.
Bà đứng đợi, một tay giữ lấy cửa xe mở rộng.
Tôi tính ra sân hỏi. Nhưng khi thấy trên mặt bà có vẻ băn
khoăn, nên tôi lại trù trừ.
Rồi tiếng giày chậm rãi xuống thang gác và ở sân, mọi người
quay cả lại phía cửa.
Tiếng giày ấy là tiếng giày ông chủ tôi, tôi nghe đã quen
tai. Hắn là không cần hỏi han ai, nửa phút nữa, tôi có thể biết cái việc quan
trọng đã xảy ra trong gia đình này.
Chủ tôi tóc chưa chải, cavát buộc dối dá, ở trong nhà, xuống
thềm. Ông đi thong thả, nhìn từng bước.
Mặt ông rất buồn bã, đau thương. Vừa đi, ông vừa nói những tiếng
dỗ dành. Hai cánh tay ông khoanh lại trước ngực, vì ông phải nưng niu một vật nặng.
Ông gượng nhẹ, ngồi vào đệm xe, mặc cho bà vội đóng cửa lại.
Xe từ từ chạy. Mọi người nhìn theo, và bởi vì đã làm xong việc
quan trọng, nên cùng nở một nụ cười.
Tôi cũng thấy được nhẹ bỗng, vì vừa tìm ra câu trả lời rất giản
dị của bài tính đố tưởng rất khó tin.
Thì ra sở dĩ từ sáng đến giờ chủ tôi phải trăm đường vất vả,
sinh ra ác nghiệt, cả nhà chạy loạn xạ, bối rối như có cuộc lở đất long trời,
là vì con mèo Mi-mi sắp đẻ, nên chủ tôi phải sửa soạn để đem nó vào sở Thú y.
8-1939
- Này xe, cái con mẹ thắt lưng tím đang đi trước hiệu Phúc An
kia, có phải là vợ nhà Chánh tổng Đồng Quân không nhỉ?
- Bẩm cụ lớn phải ạ.
Cụ lớn - bởi vì người đàn bà này được diễm phúc hơn người
khác ở chỗ có chồng làm quan đến chức tuần phủ. Cụ lớn nghĩ một lát, rồi hỏi:
- Tên con mẹ là Chánh gì hở?
Anh xe vừa bấm chuông, vừa đáp:
- Bẩm, chánh Tiền ạ.
Cụ lớn mỉm cười:
- Tên nó thế không trách nó giầu. Nhưng nó ăn mặc thế kia, đố
ai biết nó có hàng vạn. Đến gần nó, mày đỗ cho tao xuống nhé.
- Dạ.
Lúc ấy bà chánh Tiền đương đi vội vàng trên hè. Bà không để ý
đến đường phố, bởi vì ở nhà quê ra tỉnh, bà định sắm ít xẻng cuốc, cùng vài thứ
lặt vặt, nên đi đi lại lại ở phố Khách đến mười lượt, để khảo giá các hiệu bán
đồ sắt.
Bà mặc áo vải nâu dài không gài khuy, và quần sồi thâm ngắn
cũn cỡn. Cánh tay bà khoác cái nón đã tầu tầu Tất cả bộ cánh của bà chỉ hơn người
nhà quê thường có cái thắt lưng tím.
Bà đương nhìn vào hiệu Phúc An, bỗng tiếng cười khanh khách
giòn tan ngay bên cạnh tai, làm bà giật nẩy mình:
- Hé? Hé! Hé! Bà chị lên tỉnh từ bao giờ thế?
Cụ lớn Tuần nắm lấy cổ tay bà Chánh, và vồn vã hỏi thế. Thì
không ngờ bà này, được hân hạnh bất thần, sung sướng quá, đến nỗi rú lên một tiếng
“ối”, và cảm động suýt rơi nước mắt. Bà ta vội vàng chắp hai tay để vái lùi lại
một bước, cung kính chào:
- Lạy cụ lớn ạ.
Cụ lớn nhăn mặt, xua tay:
- Không, không cụ lớn cụ bé gì, chị em mình bạn gái, ai hơn
tuổi là chị, ai kém tuổi là em. Có các ông ấy làm việc với nhau thì muốn gọi
nhau là gì thì gọi.
- Dạ, lạy cụ lớn.
- Ồ đừng cụ lớn cụ bé gì mà? Hé? Hé? Hé!
- Lạy cụ lớn cho phép con gọi thế ạ.
- Gớm, các bà chị đến khó bảo. Thế nào, bà chị lên tỉnh từ
bao giờ, sao không vào trong dinh chơi?
- Lạy cụ lớn tha tội cho, chúng con ăn mặc sồ sề, sợ vào thì
làm bận mắt cụ lớn.
Cụ lớn cười xoà:
- Ồ bà chị cứ dạy thế. Tôi trách đấy!
- Lạy cụ lớn, cụ lớn là chỗ cha mẹ, cụ lớn tha tội cho con
cháu.
- Thế thì bây giờ vào chơi vậy.
- Lạy cụ lớn, dạ.
- Vào ăn cơm với tôi cho vui nhé.
- Lạy cụ lớn, chúng con đã vô phép cụ lớn rồi ạ. Nhà quê
chúng con hay ăn cơm sớm.
- Thì vào chơi nói chuyện vậy. Ông Tuần tôi đổi về đây, tôi đến
thăm các bà chị một lượt, thế mà các bà chị lên tỉnh, không bà nào vào chơi với
tôi. Tôi giận lắm đấy.
- Lạy cụ lớn, chỗ chúng con là con cháu, chỉ sợ ăn nói thất
thố, nên không dám vào đó mà thôi.
Thì tôi đã bảo chỗ chỉ em mình là bạn gái với nhau, ta cần
gì. Các bà chị đong bán, tôi cũng đong bán. Các bà chị làm ruộng, tôi cũng làm
ruộng. Thật đấy, ở nhà, tôi cũng vần giặt giũ, quét tước, chứ có xềm xệp ngồi
không như các bà quan khác đâu. Hé! Hé? Hé!
- Dạ.
- Vào chơi trong dinh nhé.
- Dạ, chúng con xin theo hầu cụ lớn.
- Ừ lên xe tôi mà đi.
Nói đoạn, cụ lớn gọi chiếc xe hàng, để nhường bà Chánh Tiền
ngồi xe nhà.
Cử chỉ không ngờ này lại khiến bà Chánh cảm động.
Lần này, bà ứa nước mắt thật. Bà ngượng nghịu, run sợ thế nào
ấy. Nhìn chiếc xe sơn giả đồi mồi, gọng kền sáng loáng, vải đệm trắng tinh, bỗng
bà ghê cả người.
Bà tưởng như mình không xứng đáng được dùng những thứ sang trọng
quá quắt như vậy. Và khi đặt tấm thân cục mịch lên trên chiếc đệm êm ái do cụ lớn
nhường cho, bà khoan khoái nghĩ bụng không biết mấy mươi kiếp trước tu đã dầy dặn
thế nào, nên kiếp này mới được đền bù bằng một phút hạnh phúc này vậy.
Bà ngồi mớm trên xe, bà vẫn còn rùng mình. Bà ngẫm đến lời ngọt
ngào, tử tế của cụ lớn mà nở nang cả mày mặt. Sao lại có bà quan dễ dãi, phúc hậu
như bà Phật này. Một đời người, dù khổ sở thế nào, mà được cụ lớn ban chuyện
cho một lát, một lát thôi, thì còn ai muốn chết nữa. Vợ một quan Tuần phủ, vợ một
cụ lớn đầu tỉnh, mà đối đãi với vợ một tên Chánh tổng quèn, ăn nói thân mật như
chị em, nào nắm tay vồn vã, nào bà chị, nào hơn tuổi, nào vào chơi, nào trách
móc, trời ơi ai được thế mà chả thọ thêm đến mười năm! Nghĩ đến đó, bà Chánh
dào dạt cả tâm hồn.
Bỗng xe bấm chuông và chạy quành vào dinh. Bà Chánh vội vàng
tụt xuống đất, và nói:
- Anh đỗ cho tôi xuống đi bộ, kẻo cụ lớn trông thấy lại quở!
Nhưng cụ lớn bà nghe tiếng. Cụ lớn quay lại xua tay cười:
- Không can gì. Đàn ông họ không hay chấp nê như bọn mình
đâu.
Đến thềm nhà tư, bà Chánh chùi chân vào chiếc thảm rất kỹ lưỡng,
rồi mới dám bước lên gạch hoa. Và cụ lớn phải kéo mãi, bà mới dám ngồi trên chiếc
ghế bành đánh bóng. Bà thít người lên.
Cụ lớn gọi lính quạt nước, và lấy lọ chè cất trong tủ mà cụ lớn
khoe là thượng hảo hạng. Chính cụ lớn tự pha ra chén, và đưa tận tay mời bà
Chánh Tiền.
Mỗi lần bà Chánh được cụ lớn ban cho những câu tử tế dễ dãi,
ngọt ngào, thì bà lại rơm rớm nước mắt.
Cụ lớn hỏi thăm về mùa màng, đong bán. Cụ lớn bàn lẽ thiệt
hơn về lối làm ăn. Bà Chánh cảm sự nhã nhặn bao nhiêu, lại phục sự đảm đang của
cụ lớn bấy nhiêu. Và cụ lớn nói cả chuyện buôn bán của cụ lớn khi gọi họ, khi
đong thóc, khi cân sơn, khi buôn tơ, khi đặt đay, vân vân, bất cứ dịp nào có
lãi, cụ lớn cũng không để tiền nằm yên bao giờ.
- Phi thương bất phú, bà chị ạ ông nhà tôi tiếng rằng làm
quan, nhưng lương lậu có được là bao. Hé? Hé! Hé!
- Dạ, lạy cụ lớn, cụ lớn ông thực là nhân quan:
- Phải, cho nên tôi vẫn phải giữ nghiệp nhà, là lấy sự buôn
bán làm căn bán. Làm bà quan, chẳng qua như được hưởng cái hoa thơm, chứ sung
sướng sao bằng các bà chị có ruộng nhiều. Thế năm nay bà chị chỉ cấy có năm
mươi mẫu thôi à?
- Dạ, lạy cụ lớn, năm nào chúng con cung chỉ cấy có ngần ấy,
còn cho người ta làm rẽ. Vì nhà neo người, sức một mình con không kham nổi ạ.
- Phải, tội gì vất vả lắm. Vả lại chỗ cho người ta cấy rẽ,
cũng thừa ăn tiêu rồi còn gì.
- Dạ.
- Chỗ năm mươi mẫu ấy, bà chị bảo trữ lại để bán là phải lắm.
Thóc được giá mà không bán, chỉ tổ để chuột cắn.
- Bẩm cụ lớn; mấy lị nhà con chật, không có chỗ chứa thêm
thóc nữa ạ.
- Ồ quý hoá quá, trong nhà bà chị có những hai lẫm thóc to tướng,
thế mà không đủ để chứa thóc kia à?
- Dạ, lạy cụ lớn, thầy chánh nhà con vẫn cứ định xong mùa này
thì xây thêm mấy gian nữa. Thầy cháu cứ không muốn bán, bảo trữ lại, chờ năm vỡ
đường hãy hay. Nhưng con tưởng để thóc nằm chờ đấy, thà bán đi để đong cái khác
còn hơn.
- Phải, bà chị nghĩ chí phải. Việc tiền nong phi ở tay bọn
mình không cô lợi. Các ông ấy đàn ông đàn ang gặp đâu nói đấy, chứ sao bằng bọn
mình. Hé! Hé! Hé!
- Dạ.
- Thế bà chị còn được bao nhiêu thóc ở trong nhà?
- Lạy cụ lớn, cũng còn độ hơn nghìn bạc, chứ chả mấy ạ.
- Ồ, quế hoá quá! Bà chị không bán à?
- Bẩm ý con muốn bán, nhưng thầy cháu cứ muốn giữ lại.
- Ồ, này, bà chị để tôi đong cho, cho ông tức một mẻ!
Bà Chánh sung sướng, đáp:
- Dạ, cụ lớn dạy thế còn gì bằng.
Thật đấy, cho tôi đong một nghìn nhé...
- Dạ, cụ lớn đã dạy, thế nào con chả xin tuân.
- Nhưng mà này, chỗ chị em, chả nên giấu giếm nhau. Tôi vừa có
dăm nghìn, lại tậu cái đất trên Hà Nội để làm nhà cho khách chạy loạn thuê mất
rồi. Bây giờ chỉ còn dăm chục để ăn từ nay đến cuối tháng. Bà chị có cho đong
chịu hãy nhận lời.
- Lạy cụ lớn, bao giờ cụ lớn ấn cũng được, miễn là cụ lời nhận
mua là may cho con lắm rồi.
- Thế bà chị không sợ tôi quỵt à? Hé Hé! Hé!
Bà Chánh cười theo:
- Lạy cụ lớn, tôi con nào dám ngờ cha mẹ.
Cụ lớn bèn nghiêm trang nói.
Nhưng mà này, chị Chánh ạ, tôi nhận đong của ba chị một nghìn
đồng bạc thóc, nhưng tôi hãy cứ gửi ba chị ở nha đấy. Như vậy, bà chị hẳn khỏi
nghi nhé! Hé Hé! Hé!
- Lạy cụ lớn, chúng con nào dám thế, xin cụ lớn cứ cho xe về.
- Không, tôi cứ gửi ở nhà bà chị. Bởi vì trong dinh chật chội,
có chỗ nào chứa đâu!
- Dạ.
- Rồi bao giờ tôi thuê được nhà ngoài phố, sẽ cho nó về lĩnh
thóc sau.
- Dạ.
Bà Chánh nói chuyện một lúc lâu nưa, mới hả hê cáo từ ra về.
Và cố nhiên đến nhà bà nhắc lại nguyên văn cho cả làng, cả tổng
nghe những câu nói tử tế, nhã nhặn, dễ dãi, phúc hậu của cụ lớn Tuần.
Ba tháng sau, trời làm lụt lội và đói kém. Thóc lúa cứ cao
lên vòn vọt. Việc vào dinh hầu cụ lớn đã thành ra một thời sự cu cũ. Cho nên bà
Chánh Tiền chỉ còn trông thấy chỗ cây thóc bán chịu cho cụ lớn mà thôi. Bà thở
vắn, thở dài. Thà cụ lớn cho người đem đi cho khuất mắt, hoặc cụ lớn bán cho ít
nhiều để làm vốn thì bà cũng cam lòng. Từ nọ đến nay, bao nhiêu người xin đong
mà bà không dám bán. Bà tiếc quá. Song nghĩ đi thì thế, mà nghĩ lại, bà cho là
chẳng thiệt nào. Một đời dễ mà gặp được một bà quan đầu tỉnh đối với vợ một thầy
chánh tổng vồn vã, dễ dãi, phúc hậu, như thế.
Người ta có tiền nghìn bạc vạn hẳn hoi, cũng không thể mua được
lời nói tử tế của ngươi trên. Cho nên, nghĩ tới đó, bà lại thấy hả hê, sung sướng
nguyên vẹn.
Một hôm, có người lính tuần về Đồng Quân, đưa bà Chánh phong
thư. Bà bảo chồng mở ra để đọc:
“Bà chị.
Bây giờ thóc được giá, tôi nhờ bà chị làm ơn bán cho chỗ thóc
tôi gửi bà chị trước. Cứ thời giá, thì chỗ ấy thu được đến hơn nghìn rưởi,
nhưng tôi chỉ lấy trong nghìn tư mà thôi, còn bà chị có bán được hơn thì mặc ý.
Vậy chỗ một nghìn, tôi xin nộp lại bà chị, còn năm trăm lãi thì đến 25 này, mời
bà chị lên chơi và đưa cho tôi. Thực là tôi quấy rầy bà chị quá, xin bà chị miễn
trách.
Lâu nay không thấy bà chị lên tỉnh, tôi nhớ lắm. Vậy thế nào
26 này, bà chị cũng lên, nhân tiện chúng ta nói chuyện với nhau cho vui.
BÀ TUẦN”
Nghe xong thư, bà Chánh Tiền nhăn nhó, rồi thở dài mãi.
Thóc này bán cho ai được, để kịp 26 có năm trăm đem lên nộp cụ
lớn đây? Thì té ra bây giờ xoay ngược lại bà là con nợ của cụ lớn.
Suốt mấy ngày, bà lo lắm. Bà phải chạy khắp các nơi để mời
người đến đong, nhưng không xong. Chả ai có vốn nữa. Mà ngày 26 cứ gần dần.
Lắm lúc định liều, bà tính cứ lên tỉnh, rồi bẩm với cụ lớn là
thóc ế. Như vậy bà có thể không thiệt hại gì.
Song, thế không tiện. Cụ lớn đã tin cậy mà giao cho một việc.
Mới có mỗi một việc. Chả lẽ chưa chi đã phụ bụng tốt của cụ lớn? Vả lại cụ lớn
vồn vã, ngọt ngào, dễ dãi, phúc hậu, ai nỡ xử lại thế được?
Kết cục, là ngày 26, bà Chánh Tiền lên tỉnh có mang đủ số năm
trăm lãi thóc của cụ lớn.
Món năm trăm ấy, bà phải viết văn tự để vay. Bà hậm hực, tức
bực và oán thán cụ lớn lắm.
Nhưng mà:
- Ấy kìa! Hé! Hé? Hé? Bà chị! Tôi mong mãi!
Cụ lớn nắm lấy cánh tay và vồ vập nói thế. Bà chánh Tiền bỗng
quên hết mọi sự. Bà lại cảm động, rơm rớm nước mắt, và hởi lòng hởi dạ như
thương.
1937
Kìa! Con...
Nguyễn Công Hoan
Bây giờ lắm lúc ngồi buồn mà nghĩ đến chuyện ấy, tôi lại vừa
buồn cười, vừa xấu hổ...
Ngày tôi còn đi học ở Hà Nội, tôi vẫn nghe anh em bạn kháo
nhau rằng hiệu thợ may Đại Ích, mới dọn đến phố Hàng Bông, có một cô con gái đẹp
lắm mà ai đã trông thấy một lần cũng phải chịu là một vị tiểu thư tân thời, một
giai nhân tuyệt thế, và công nhận cái tên tặng cho cô là “Ngôi sao Hà Thành” là
không sai. Ừ không biết các cô gái non, đến tuổi mà chưa được bổ làm vợ, thường
ngày bị các công tử nhắc nhỏm luôn thì các cô có hay hắt sơi không? Có khi các
cậu lại gọi chằng cả là “mợ nó” mới đáng phục chứ! Ấy, cô này cũng bị chúng
tôi, đứa nào đứa ấy, khép án vắng mặt một cách vô lý thế. Duy có tôi, tuy chẳng
đạo đức gì nhưng không nhận vơ, vì tôi mới chỉ được nghe tiếng chứ chưa được biết
người, cho nên mấy bận đi gần, tôi cố ý liếc mắt nhìn trộm qua tủ hàng, nhưng tức
quá không bận nào rõ, chỉ thỉnh thoảng mới thấy cô ấy ngồi thon lỏn bên quầy, mặt
méo xệch sau hai lần kính tủ?
Cụ Đại Ích - tôi xin phép các ngài gọi thế - mà nói câu này,
các ngài cũng bỏ ngoài tai, vị nào có con gái đẹp, thì tự nhiên trông ra phúc hậu,
oai vệ ngay, mà đường đường một đấng bố vợ, dù râu ria chưa có, dù vẫn trẻ
măng, nhưng tôn lên chức cụ cũng đáng, mà cô em càng nõn nà, thì ông cụ càng có
giá trị. Cụ Đại Ích nhà tôi cũng có giá trị lắm, tuy mặt cụ cũng non nớt, chỉ độ
băm nhăm bốn mươi tuổi là cùng. Cứ xét mặt cụ thì cũng là tay đáo để, thâm trâm
lắm, nhưng đáo để thâm trầm ở đâu chứ đối với khách mua hàng, cụ rất dịu dàng,
ngọt ngào, vui vẻ, nhất là rất lễ phép. Cái lê phép ăn người của nhà buôn, vì
thỉnh thoảng nể lời ăn nói, cách cử chỉ của cụ nhiều người phải vui lòng, miễn
cưỡng mua một thứ hàng không vừa lòng.
Tôi lập tâm xem mặt cô con gái cụ mãi mà không ăn thua. Một lần
xin được tiền nhà may bộ quần áo tây, tôi quyết vào hàng cụ dù đắt rẻ thế nào
cũng được một dịp làm quen, lần này còn lần khác. Tôi yên chí tài nào cũng gặp
mặt cô con gái cụ, nhưng ngờ đâu số tôi đen, đã cố chọn vải, đo người, dằng dai
cho đến hàng giờ đồng hồ mà không gặp, tôi đành ngậm bồ hòn ra không. Giá luật
cho phép khách mua hàng được nằm ăn vạ lỳ tù tì ở nhà chủ cho đến khí thấy mặt
cô con gái thì tôi cũng chẳng về!
Cụ Đại Ích tiếp tôi rất lễ phép. Cứ những lời cụ rót vào tai
tôi thì tôi tưởng dẫu cụ đã tính bộ quần áo ấy đắt hơn hiệu khác ba đồng bạc,
nhưng tôi cũng không dám ân hận chút nào. Mà giá cụ làm ơn thả ngay tiểu thư
nhà cụ ra cửa hàng cho tôi được ngắm, thì dù cụ cưa nặng mấy, tôi cũng phải cố
nhắm mắt, nhắm mũi mà thọc tiết ví.
Đây những câu sau này, tôi nhắc lại các ngài nghe xem có ngọt
ngào không:
- Bẩm ông từ đầu mùa rét năm nay, chúng tôi được nhiều ngài
chiếu cố may cái hàng này lắm.
- Nào, bác cai đâu ra đo hầu ông.
- Xin phép ông để cái này bên này.
Cách tiếp khách của cụ Đại Ích làm cho tôi ngượng nghịu quá
chừng, bởi vì tôi mới ba tuổi toẹt, chỉ bằng con rể cụ là cùng, mà cụ lại gọi
là ông. Bởi vậy, tôi phải gọi cụ là cụ.
Vài hôm sau, tôi đến thử quần áo. Lần này cũng như lần trước,
bông hồng chẳng thấy ở trước mặt, mà tiếng lễ phép suông cứ làm ngượng hai tai.
Rồi đến hôm lấy quần áo về tôi chẳng thấy được tia sáng của ngôi sao.
Hà Thành! Chán quá, thà vứt mấy chục đồng bạc xuống sông, xuống
biển còn được xem tăm.
Tôi định cố tìm chỗ nào may hàng để bẻ hoẹ chữa đi chữa lại
cho có cớ mà ra vào cửa hàng vài lần nữa, nhưng số đen đủi, họ lại may khéo quá
mất rồi.
Nhưng từ đó tôi lấy lại được cái lãi con con, là được đứng
vào hạng người quen của cụ Đại Ích. Vì một lần gặp cụ ở phố, tôi chào cụ, cụ
còn nhớ mà khen bộ quần áo may sát người.
Một lần nữa, tôi cần sắm cái mũ, tôi cũng lại đâm đầu vào đó.
Thôi thì đắt rẻ thế nào cũng bấm bụng mà mua, tuy cũng lại không gặp cô con,
nhưng được nghe cụ mắng người nhà câu sau này, tôi cũng hả dạ:
- Xà! Láo nào! Bán cho người ta thì mới được tính giá ấy, chứ
bán hầu ông đây kia mà! Xin bớt ông năm hào.
Như thế thì tôi đối với cụ Đại Ích chẳng phái là người xa nữa,
nghĩa là người quen, người thân, người nhà, con rể rồi vậy! Cho nên chẳng lần
nào tôi gặp cụ ngoài phố, tôi không cố làm cho cụ trông thấy, để chào trước,
cùng bắt tay chuyện trò.
Nhưng tôi vẫn tấm tức một điều, là cô con gái yêu quí của cụ,
tôi vẫn thấy anh em ca tụng, mà chính tôi thì chẳng rõ mặt ngang mũi dọc ra
sao. Vì bận nào liếc mắt vào mà có gặp cô ngồi bên quầy, thì tôi cũng chỉ thấy
mặt cô méo xệch sau hai lần kính tủ!
Một hôm, vào ngày Hội Chợ. Cũng như thói nhiều hạng công tử bột,
tôi thắng bộ để đi diện gái. Tôi lướt hết dãy hàng nọ sang dãy hàng kia trong Hội
Chợ, mà chẳng thấy một ma nào lọt vào mắt xanh. Đi đã bại hai cẳng, thì may
sao, khi ngoặt ra cổng thấy đằng trước tôi, thướt tha một cái bóng hống đi một
mình cũng ra phía cổng.
Cái bóng đó là một cái ô khum khum màu sữa, dưới cái khung ô,
là một cái áo satanh hồng sáu khuy đang bay phấp phới, dưới cái vạt áo là hai
cái ống quần rộng nhỏ bé như ống sậy; dưới hai gấu quần, là gót cao mun mút của
đôi giầy mang cá da trăn. Thấy cái mồi ngon, tôi quyết săn cho được. Tôi rảo cẳng
đuổi theo. Lúc đến gần độ mười thước, thì một luồng hơi thơm thoang thoảng đã
làm nở nang mũi tôi.
Tôi cố trông suốt qua tầng vải ô, thấy vẽ rõ bóng một cái đầu
xinh xắn, cái áo sa-tanh trơn nhẳn bóng như căng khít lấy cái lưng ong hum húp,
tròn tròn, thỉnh thoảng làn gió tạt tung cái tà áo ngoài thì lại lộ cái áo cộc
lụa mỡ gà viền đăng-ten, ôm chặt lấy cái đũng quẩn cẩm-châu phình ra, mà hai
ông nếp là phẳng tắp!
Khi đang chòng chọc ngắm từ đầu đến chân con bò lạc ấy, thì
thình lình tôi đi sát ngay trước mặt cụ Đại Ích mà tôi không biết. Cụ Đại Ích
trông thấy tôi, tay cất mũ, tay giơ ra và nói:
- Kìa, thưa ông, ông cũng đi chơi Hội Chợ, có vui không?
Tôi thi lễ và trả lời:
- Vâng, thưa cụ, Hội Chợ năm nay cũng như mọi năm. Tôi định
vào sắm cái hộp bằng tre chạm, nhưng không được cái nào vừa ý.
- Vâng, tôi cũng chẳng mua được cái gì.
Tôi không muốn nói chuyện lâu, nên chỉ cười lạt không trả lời
thì cụ Đại Ích khéo mồm miệng mà nói tiếp:
- Xin phép ngài để tôi giới thiệu ngài một chỗ bán hộp tre chạm
của người anh em. Tôi xin đi hầu ngài tới đó, ngài thử chọn xem rồi chiếu cố
cho...
- Cảm ơn cụ, xin để bận khác, vì tôi có người nhà chờ.
Người nhà tôi tức là cô gì đây kia ấy mà, các ngài có hiểu
không? Nếu cụ Đại Ích cùng đi với tiểu thư nhà cụ thì tôi xin cam lòng thả cô
kia ra mà bám chặt lấy cụ. Vậy ai bảo cụ găm con gái ở nhà, để cụ chẳng được đi
“hầu” tôi đến cái hàng của người anh em để tôi “chiếu cố”!
Thoát được nạn cụ Đại Ích, tôi lại phải đi rảo cẳng đuổi theo
mồi. Lúc đến sau lưng, tôi càng ngắm cái dáng đi của cô ta, càng thấy yểu điệu,
cái tay vung vẩy sao mà khéo và mềm thêm. Mà không biết nước hoa cô ấy mua bao
nhiêu tiền một lọ mà thơm được làm vậy. Tôi tiến lên trước, để quay lại nhìn mặt!
Ôi mẹ ơi? Ông bà nào ăn gì mà đẻ được con đẹp đến thế! Cái mái tóc tơ rẽ đường
ngôi lệch, chải kỹ càng quá, nhưng nó kỹ càng ở chỗ cố ý làm cho người ta tưởng
lầm là chải dối dá, nó loà xoà xuống trán, xuống má, nó toả ra che gần lấp gáy;
lấp tai. Cái dây chuyền quàng qua cổ, giấu trong lần áo trước ngực, tuy kín mà
kín hở, vì nó vẫn lóng lánh, nhấp nháy qua khe sợi tơ. Hai cái má bánh đúc,
phinh phính dưới làn da mịn, đã xoa qua ít phấn lạt, lại được cái ánh phơn phót
của mầu ô hắt xuống, mầu áo hắt lên, thành ra hây hây như cánh hoa phù dung.
Đôi môi đo đỏ cũng khéo tăng thêm vẻ tươi của cái miệng bầu bậu, lúc nào cũng sắp
sẵn một nụ đổ nhà đổ cửa.
Đến hai con mắt thi đẹp không có chữ tả nữa. Có lẽ tạo hoá
cũng mất lắm công, kén chọn mãi mới được cái mặt này xứng đáng để giao cho hai
con mắt ấy.
Nói tóm lại, trông cô tiểu thư này, nhu nhú như bông hồng mới
nở, bầu bĩnh như cái gối mới nhồi bông vậy.
Tôi ngắm cô ấy, ngắm chòng chọc mãi khiến cô ấy ngượng, và phải
che ô lấp mặt đi. Tôi đành giở thói trắng trợn, âu là bên phải cô đã che ô lấp
thì tôi xoay sang bên trái vậy.
Trong bụng tôi bối rối. Tôi nhìn trước nhìn sau không thấy có
ai, bèn thảo vội ngay một bức chiến thư.
Tôi tủm tỉm, nói bâng quơ rằng:
- May quá, hôm nay đi Hội Chợ tưởng là phí công?
Nói đoạn, liếc vào cô ấy mà xoà cườỉ. Cô tiểu thư biết tôi có
ý trêu ghẹo, bèn xoay cái ô sang bên trái.
Lập tức tôi lại đi sang bên phải.
- Gớm làm bộ quá! Cô đi Hội Chợ có mua được gì không?
Cái ô lại ngả sang bên phải, mà tôi thì lại đổi sang bên
trái.
- Thưa cô, cô làm ơn cho tôi biết bây giờ là mấy giờ rồi?
- Cô ở phố nào? Sao tôi trông cô quen quá!
Cái ô lại nghiêng về bên trái, mà tôi lại luồn sang bên phải.
Trời còn nắng đâu mà che ô! Cái đồng hồ đeo tay của cô xinh lắm nhỉ! Nó bé thế
sao nó cũng chạy được?
Chà? Ước gì tôi được làm cái đồng hồ kia. Cứ môi câu tôi nói
ra, thì cái ô và tôi lại chuyển đổi chỗ. Mà sao cô bé gan lì, nói thế nào cũng
không hề nhếch mép!
Tôi thấy bao nhiêu mồi thả ra, mà cá chẳng cắn câu tôi bèn
trâng tráo, miệng cười, mắt liếc, tay dúi cái ô và nói:
Bỗng tiếng giầy lộp cộp đằng sau đập vào màng tai tôi làm cho
tôi quay lại. Thì ra cụ Đại Ích đi tới. Cụ Đại Ích không nhìn tôi, nhưng khi đến
ngang mặt cô tiểu thư, cụ đập vào ô cô, ngọt ngào như nhắc cô rằng:
- À! Con, ông hỏi, sao còn không trả lời ông đi!
25 Novembre 1932
Từ chánh phó tổng đến thư ký, thủ quỹ trong hạt X.X. ai ai
cũng lấy làm nghi kỵ tờ thông sức số 57, ngày 2 tháng giêng, của quan huyện Lê
Thăng. Người ta bàn tán mãi, song, không ai rõ ý quan ra làm sao.
Người ta hỏi dò ông thừa, cậu nho, nhưng bọn này cũng trả lời
một cách rất mập mờ:
- Thế là chính sách thân dân của ngài chứ gì! Mặt trận Bình
dân mà lị.
Giấy sức ấy như thế này:
X.X. ngày 29 tháng giêng 193...
Quan Tri huyện huyện X.X., thông sức
các chánh phó tổng cùng hương lý các xã tuân cứ.
Từ ngày bản chức về trị nhậm hạt X.X., thấy các thầy hết lòng
cùng bản chức trông nom sự trị an, đê điều thuế má, v. v. bản chức lấy làm cảm
động lắm. Vậy bản chức thành thực có lời khen ngợi và mong rằng từ nay các thầy
cứ tận tâm về nghĩa vụ thế mãi.
Nhưng muốn cho tình quan dân được khăng khít thêm nhiều, và
muốn thi hành chính sách thân dân mà bản chức vẫn theo đuổi từ ngày xuất chính,
bản chức không những phải quý nể người sống, mà nên thương tiếc đến cả người chẳng
may quá cố, trong khi đang làm việc cho dân.
Vậy từ nay trong hạt các thầy, mỗi khi có ai bất hạnh qua đời,
trên từ hàng chánh phó tổng, dưới đến thư ký, thủ quỹ không cứ là tạ thế vì bổn
phận hay vì bệnh già, các thầy đều phải cáo phó cho bản chức biết để bản chức
được dự đưa người thuộc hạ đến chỗ ở cuối cùng.
Bản chức thiên nghĩ khi sinh thời, mỗi người gánh vác một việc
dân, việc nước, thì mỗi người có một nhiệm vụ khác nhau. Người nhiệm vụ to, người
nhiệm vụ nhỏ. Cho nên bản chức là người trên mà các thầy là phần dưới.
Nhưng một khi đã không ở cõi đời nữa, thì bổn phận người sống
là phải kính trọng linh hồn người chết, cho nên bản chức cần phải chào biệt một
người giúp việc đã qua đời, đó là bổn phận riêng của bản chức.
Vậy các thầy nên đọc kỹ tờ sức này để hiểu ý bản chức và từ
nay cứ thế mà thi hành.
Nay sức
LÊ THĂNG
Vậy có gì là khó hiểu? Bao nhiêu ý kiến thân dân sống, trọng
dân chết, nó rõ nét cả ra trên từng ấy dòng, việc chi phải ngờ mà bàn với tán?
Nhưng khốn thay, dân chẳng tin như thế cho. Đối với lời ngọt
ngào của quan phụ mẫu này, người ta sợ như gà phải cáo. Trước kia, người ta bị
nhiều vố cay đắng vì những lời ngọt ngào như thế rồi. Cho nên bây giờ người ta
phải chờ cơ hội xảy ra, một cơ hội chẳng ai mong có, vì nó là sự chết, để xem
việc làm, mới có thể chứng thực cho lời nói được.
***
Dịp tốt để thí nghiệm chẳng phải chờ lâu.
Và dân chẳng phải nghĩ ngợi nữa.
Ông thủ quỹ làng An Đạo đã thở hơi cuối cùng.
Lập tức, không những chức dịch ấy đi trình quan, mà đến chánh
phó tổng cũng lên tận huyện đề cáo phó.
Và quan hẹn sẽ về An Đạo từ chiều hôm trước để sáng hôm sau,
kịp đưa người thiệt phận ra đồng. Ngài ngại dậy sớm. Đường đất từ huyện về An Đạo
thì xa. Vả tang gia đã ấn định đúng bẩy giờ thì chuyển cữu.
Lúc ấy, trong nhà ông thủ quỹ, tiếng khóc cạnh linh sàng
đương xen lẫn với tiếng cãi lý nhau quanh mâm rượu, thì bỗng có người báo quan
đến.
Chà chà! Một tin quan trọng làm sao.
Hiếu chủ vội vàng mũ gậy ra đón tận đầu ngõ, cúi rạp xuống để
chào. Và trong nhà, khách ăn chạy tản mát, đứng ngấp ngó ở sau tấm giại. Những
mâm cỗ ăn dở bị khênh đi, tẩu thoát xuống dưới bếp. Người nhà quét tước và thu
xếp vội vàng các chỗ cho sạch mắt.
Quan xuống xe, thong thả tiến vào. Ngài đứng ở sân, ôn tồn
nói vài câu chia buồn. Hiếu chủ cảm tạ, mời ngài đến nghỉ ở nhà ông lý cho tĩnh
mịch. Tang gia đã điều đình trước với ông lý dọn dẹp sẵn căn buồng và bầy biện
cho lịch sự. Ông lý vừa được cảm tình với hiếu chủ, vừa được hân hạnh đón quan
mà không phi tốn gì, nên bằng lòng ngay.
Đến chỗ nghỉ chân, quan rửa mặt, uống nước xong, thì vừa vào
lúc lên đèn.
Một mâm cỗ chững chạc đã từ nhà đám khênh đến, đặt ở phản giữa.
Hiếu chủ cung kính rước quan chứng giám tấm lòng thành. Quan gật, tụt giày ban
ra, lên giường, ngồi xếp bằng tròn chính giữa.
Những ai có diễm phúc ngồi hầu cơm quan, đã được xếp đặt trước
cả rồi. Quan rất vừa lòng, trò chuyện rất vui vẻ thân mật.
Ăn xong, theo thường lệ, phải có cuộc mua vui.
Chẳng lẽ quan ngồi chuyện suông với chức dịch cho đến khi
ngài buồn ngủ? Cho nên, ông chánh tống đứng dậy, gãi tai nói:
- Bẩm quan lớn, xin phép quan lớn cho chúng con được hầu canh
tổ tôm.
Quan cười, đáp dở đùa dở thực:
- Tôi không mang tiền đi.
- Bẩm xin có ạ.
- Ừ thế thì đánh một lát cho đỡ buồn, chứ bây giờ thì ai ngủ
được.
Canh bài ấy đánh ba hội. Quan ít ù lắm. Bởi vậy, ông chánh tống
phải giữ lời hứa. Vả nếu ông không biết điều mà góp cho quan, thì quan cũng đã
hất hàm để giao hẹn rồi:
- Thật nhé, thầy góp cho tôi nhé.
***
Sáng hôm sau, quan dậy sớm, khăn áo chỉnh tề, đi bộ đến nhà
tang. Ngài trịnh trọng theo cữu. Cạnh ngài, có người che ô hầu. Và xung quanh
ngài, tuần làng nghiêm chỉnh cầm roi dẹp đường. Bất cứ ai, dù trẻ con đi xem,
hay người quen kẻ thuộc, hay cả đến họ hàng bà con người chết, mà vô ý sán lại
gần, là bị vụt liền.
Nhờ có quan đám ma thêm vẻ long trọng. Các chức địch hàng tổng
và những làng gần An Đạo, không thiếu một mặt nào. Mà người ta đến đây để quan
trông thấy hơn là để đưa người bạn đến chỗ ngủ ngàn năm.
Cả vùng, ai thấy quan đi đám một người thuộc hạ quèn, cũng lấy
làm cảm động. Người ta khen ông thủ quỹ tốt số. Mà thực, giá ông này có khôn
thiêng mà nhìn thấy sau linh cữu mình, một vị đeo thẻ bài ngà lững thững đi một
cách nghiêm trang, thì có lẽ sung sướng quá đến nỗi sống lại mất.
Đám ma đến huyệt. Tiếng khóc nổi lên như ri, cầm lòng cho đậu,
trong những phút đau đớn này. Đàn bà lăn xả vào quan tài, vật mình mấy. Đàn ông
mếu máo, còng lưng xuống mà khóc. Nhưng trước khi giòng áo quan xuống hố, quan
bảo thầy chánh tống bắt mọi người phải im.
Lệnh trên đưa ra, mấy anh tuần giơ roi vào vợ con người chết,
quát:
- Im, không được khóc, quan truyền thế.
Mọi người không dám thút thít.
Quan bước đến trước huyệt, ngài móc túi lấy mảnh giấy giơ lên
và đọc.
Nhưng buồn quá, ngài đọc tiếng Pháp. Cho nên, cố nhiên cả người
chết lẫn người sống, không ai hiểu ngài nói gì.
Người thông minh, bảo đó là ngài đọc đít-cua. Người mê tín, bảo
đó là ngài tụng kinh. Những người dốt đặc, còn phải nghe con cháu khấn bằng chữ
nho, thì biết đâu, ông thủ quỹ chẳng nghe hiểu điếu văn tiếng Pháp?
Đọc xong, ngài lăm đăm đứng lặng, rồi cúi đầu một cái đoạn
lui ra. Cả nhà tang chủ đổ xô lại, lễ tạ. Rồi ngài lên xe để về huyện. Ngài vẫy
thầy chánh tổng lại gần, dặn nhỏ:
Rồi tặc lưỡi, ngài nói thêm:
- Mà tiền góp tồ tôm cho tôi hôm qua, thầy cũng nên bảo họ biết,
tội gì mình chịu?
Chuyện này chỉ nhạt có thế. Nhưng hình như nó là chuyện thực.
Bởi nó là chuyện thực, nên ông huyện Lê Thăng phải chịu trách nhiệm về phương
diện nghệ thuật của văn chương.
Song, ta cũng nên phục ông Lê đã khéo nghĩ được những hành vi
cho có vẻ tiểu thuyết. Ông là nhà tiểu thuyết rất tự nhiên và rất có tài.
Bây giờ, ở vùng ông cai trị, người ta còn đợi mua vui bằng
nhiều tác phẩm sống của ông. Nhưng có một điều buồn cho thuộc hạ ông, là không
những họ sợ sống, mà họ cũng sợ cả chết nữa. Họ sợ để khổ cho con cháu, vì quan
lại cứ về đưa ma!
1938
Anh xe nhấc càng lên, nặng nề rạp người xuống, bước Vài bước
thực dài để lấy đà, rồi mới đưa ngược khuỷu tay, cúi đầu mà chạy.
Trên nệm lò xo rung rinh, thấy đặt một thứ cây quý giá tuy
hơi cổ thụ, nhưng chưa có vẻ gì cằn cỗi.
Ngọn cây còn xanh tốt, lại có điểm mộtbông hoa đỏ thắm. Vỏ
cây đã có chỗ nhăn nheo, song người ta khôn khéo, lấy một lần bột gạo thơm che
lấp đi. Toàn thân phủ nhiễu trắng, thứ nhiễu tây mềm nhũn và má trợi.
Cây đó là một cây thịt.
Cây thịt đó là bà Phán Tuyên.
Trên đùi bà đặt một gói hàng mới mua ở hiệu Tây về cho cô con
gái yêu. Cái díp xe, mỗi khi gặp đoạn đường xấu lại rập rình làm cho những nạm
thịt ở má, ở ngực bà Phán theo dịp, núng na, núng nính.
Bà nhìn sang hai bên hàng phố bằng con mắt của người rất tự
kính trọng, và bằng lòng cái số phận tốt tươi Trời, Phật đã dành cho mình.
Thỉnh thoảng, muốn tỏ sự khinh bỉ đối với khách bộ hành nghèo
kiết và hủ bại, bà móc trong túi ra một cái gương con và chiếc bông đẫm phấn,
ngang nhiên hết sức làm trẻ lại cái tuổi sắp già.
Đến một chiếc nhà lộng lẫy, có hàng rào sắt, có chuông điện bấm,
anh xe ngửa người ghì đà xe lại để đỗ. Rồi anh kính cẩn nâng lấy bọc hàng bà chủ
trao cho.
Phía trong cổng, một con chó Tây, to như con bê gầm lên cắn,
song lại thôi ngay, ve vẩy đuôi mừng rỡ.
- Cô An đâu mày?
Con sen đứng dẹp sang một bện, chắp hai tay thưa:
- Cô con trong buồng, có lẽ đang sửa soạn đợi bà.
Bà Phán oai vệ bước vào, cất tiếng lanh lảnh, thứ tiếng riêng
của hạng giầu sang:
- Xong chưa con?
Cô An, tay còn gài dở chiếc cúc áo vai, vội vã chạy ra.
- Gớm, sao me về muộn thế! Hành lý và ô-tô xong đã từ bao giờ
rồi ấy. Nếu không mau lên, thì đến nơi tối quá mất. Đâu. Me có mua được cho con
không.
Bà không trả lời, điềm nhiên cởi gói giấy, giơ ra trước mắt
long lanh của cô con gái chiếc áo khoác trắng tinh và chiếc “may-ô” sặc sỡ.
Vì bà muốn cho cô An, lần đầu được ra bãi bể, khoe cùng mặt
trời, sự trẻ và sự đẹp của cô, nhân thể để cô có dịp phơi ra ngoài ánh sáng, bộ
xương mông, xương quai xanh và xương sườn cụt.
Buổi trưa, Đồ Sơn chỉ còn là một con đường nhựa nát nhẽo, bên
cạnh một làn nước phẳng lặng.
Cô An mặc nguyên bộ quần áo tắm, nằm trên chiếc ghế vải ngoài
hiên, lim dim mong chóng ngủ để nằm mộng thấy một tấm chồng Tiến sĩ mai sau.
Cô sung sướng, thỉnh thoảng hé mắt ngắm lại cặp chân dài và
thon bắt tréo lên nhau, với cái ngực nở nang, hai bên nhô lên hai đầu vú nhọn
hoắt.
Trong nhà bà Phán ngồi dưới quạt trần, đương loay hoay với nước
bài tổ tôm khó đánh.
Một xã hội phong lưu.
Những con ve rỉ rả kéo dài tiếng không lúc nào ngìmg làm nặng
thêm bầu không khí oi ả mùa hè.
- Thưa bà, ông Phán nhà vẫn có tin ra được như thường ạ?
Bà Phán ngẩng đầu lên, ngập ngừng trong vẻ khó chịu; nhìn ông
Hàn xem câu hỏi đó có ý châm chọc không.
Rồi bà chăm chú xoay lại phu bài, cố tình làm như không nghe
tiếng.
Ngoài hiên, cô An cũng mở mắt, nhìn vào phía ông Hàn, rồi cựa
mình, xoay đi nơi khác.
Trên nét mặt đang hớn hở của hai mẹ con, thấy lộ vẻ khó chịu
dường như một hình ảnh xấu xa hiện ra trong óc họ, mà họ hết sức xoá nhoè đi
không được.
Từ lúc đó, bà Phán ít nói chuyện bông đùa, mà cô An thỉnh thoảng
lại cọ quậy không yên trên ghế vải.
Một năm về trước, một hôm ông Phán Tuyên đi làm không thấy về
nữa. Bà Phán lo sợ, vào toà hỏi tin tức thì hay rằng hồi mười giờ sáng, ông đã
nhận được cái trát bắt vì tội ăn hối lộ.
Dạo đó, bà chẳng làm gì có hai má và chiếc ngực quý phái ngày
nay, và cô An còn là cái Chắt vô giá trị.
Sau ba tháng nằm ở trại “Ký giám”, ông Phán ra toà lĩnh mười
tám tháng tù.
Khi lại bị xích tay giải về Hoả Lò, ông nom thấy vợ con đứng
dưới bóng cây bên Toà án sụt sịt khóc thảm thiết, thì ông cũng không sao ngăn nổi
được nước mắt.
Ông thấy cảnh tan hoang của gia đình mất chủ mà lo vì ngoài
ông ra, còn ai có thể che chở cho hai tấm thân yếu đuối kia nữa?
Ngoài giờ ăn cơm và lúc điểm danh, ông chỉ nằm trên sàn, hai
chân ghếch lên cái cùm gỗ, vắt tay ngang mắt nghĩ cách làm tiền nuôi bọn người
vất vưởng ở ngoài.
Tuy cảnh trái ngược thực, song ông nghĩ đã là một người đàn
ông, bao giờ cũng phải lo cho tròn bổn phận làm cha và làm chồng.
Lắm khi đêm khuya trằn trọc, trí ông đương bối rối thì đằng đầu
trại, một bác tù cao hứng lại rống to:
Ai đưa tối đến chốn này
Bên kia Toà án, bên này Đề lao
Từ khi mắc nạn đề lao
Tin ra thì có, tin vào thì không.
Giọng hát khô khan, song ông nghe ra muôn phần não nuột. Ông
toan nối điệu vài câu cho hả tấm lòng uất ức, nhưng bác Cai đã đập chiếc roi
mây xuống sàn mà quát:
- Im mồm!
Trong trại, lại chỉ còn tiếng ngáy, với tiếng muỗi. Trời
không nỡ phụ kẻ có lòng tốt. Hết hạn chống án ông nhận được một tin mừng: trong
nhà pha, thiếu người làm bàn giấy, ông Sếp đã nghĩ đến ông.
Bắt đầu hôm sau, ông lại nghiễm nhiên ngồi biên chác, làm cái
nghề cũ của mình.
Sự may mắn còn đưa ông xa hơn nữa: ông được giữ phận sự sắp đặt
những chuyến tù phát vãng.
Đến đây, tôi hãy xin chua nghĩa hai điều:
- Một là: Khi người ta có tí quyền pháp trong tay, thì người
ta có thể làm cái sức mạnh vô hình đó, biến thành một sức mạnh hữu hình thí dụ
như những đồng bạc vừa xính, vừa trắng, vừa kêu. Hai là: ngục thất âm u không
khi nào lại là chỗ để cho tội nhân ngồi đọc kinh Sám hối cả vì nếu tiếng “sợ”
có hai chữ, thì tiếng “Liều” có bốn chữ, nhiều hơn.
Ông Phán đã sinh ra làm người, lĩnh chức “ông Phán”, th tránh
sao ra ngoài hai điều ấy?
Vậy nên, ít lâu sau khi lêp bực “tù anh chị”, người ta thường
bắt gặp những cuộc thì thầm dấm giúi giữa ông và bọn tù nhân đã thảnh án, sợ cảnh
Vạn Bú, Sơn La
Người năm đồng, kẻ một chục, ông thu nhặt ngấm ngầm, chẳng
may ngày không.
Số tiền bổng tự nhiên, đã là một liều thuốc cho ông ăn ngon
ngủ kỹ trong ngục, đợi phiên gác thầy Đội Bốn để gửi về cung đốn vợ con.
Những khi giờ nghỉ buổi chiều, ông chải chiếu nằm xuống gầm
sàn cho đỡ rệp, ngó mắt ra lỗ “tu mai” khoét dưới chân tường, thì trên môi chua
chùa những râu, ông để nở một nụ cười bằng lòng của người đã lo tròn bổn phận.
Chẳng bao lâu, loạn tù hết, ông mang áo, chiếu trả lại ông Sếp,
thuê xe về nhà.
Nhưng trên mặt phấn và môi đỏ nẫu của hai người ông thường
thoáng thấy một vẻ bằn khoăn khó chịu.
Cho đến một buổi tối, bà Phán buột miệng, nghĩ to lên rằng:
- Giá ông được đi tù mười năm. có phải cả nhà sung sướng
không nhỉ?
Cô An vội vàng nói theo:
- Vâng, thầy cứ ở trong Hoả Lò mà lại vui vẻ hơn đấy.
Ông Phán như tỉnh giấc mê, sửng sốt đáp:
- Ừ nhỉ!
Rồi ba người lùn nhau thẫn thờ, tiếc rẻ một dịp may hiếm có.
Viết 1934, in trong Ông chủ báo - Phổ thông bán nguyệt san số
61 (1940)
Chuyện chó chết cái thâm ý của anh
chàng sợ vợ:
Trích trong bức thư mừng một người bạn gái có tính hung hãn sắp về nhà chồng
Chị sắp xuất giá tôi chắc chị chả thiếu chi đồ mừng quý hóa về
vật chất; vậy muốn tặng chị một thứ lạ mắt, lạ tai về tinh thần, nên theo tính
riêng của chị xưa nay, tôi xin chép câu chuyện chó chết này cho hợp thời, gọi
là cây nhà lá vườn, chắc chị cũng chẳng từ chối tấm lòng thành thực của tôi vậy.
Tuy việc xảy ra đã mười năm nay, nhưng bây giờ tôi nghĩ lại,
vẫn còn thấy bật buồn cười và rợn tóc gáy!
Chỉ e lời chẳng thấu ý, tôi viết ra không được rõ ràng khéo
léo, vậy xin chỉ đọc xong, hãy thử gập cái thư này mà để địa vị vào tôi lúc bấy
giờ, sẽ biết tôi vẫn còn là mạnh bạo, và thử ngẫm nghĩ kỹ, rồi ra chị có nên để
cho anh khiếp oai không?
Ngày ấy vì nhà có súng, nên tôi cũng đã hiểu luật săn bắn, là
mình không có giấy phép mang khí giới, thì dù có vác súng hầu người khác, cũng
chỉ được đi cách người ấy năm thước thôi. Nhưng nếu người nào cũng biết trọng
pháp luật cả, thì toà án còn lập ra để bắt tội ai? Chỉ vì nỗi dù có biết tội mười
mươi, nhưng tặc lưỡi một cái, là cứ làm văng mạng? Mà nhất là tôi đây nếu chẳng
cậy mình một chút, thì chi đã phải một phen lo mất mật vì câu chuyện chó chết của
anh chàng sợ vợ này?
Khẩu súng ấy của cha tôi mua để bắn chim, nhưng vì cha tôi bận
việc luôn, ít có khi rảnh để đi săn, mà tôi thì thèm quá.
Khẩu súng ấy vẫn treo ở tường, nhưng đạn thì cha tôi cất cấn
thận trong tủ kính đứng có khoá ngay cạnh bàn giấy
Xung quanh nhà, mà nhất là trong các đồi bên cạnh huyện, lúc
nào thấy gầm ghì chim gáy lạch đạch bay hàng đàn ở các bụi cây, mà anh lính cơ
Ca-rán-tiêng còn mách tôi rằng ở các đồi ấy thường đêm đêm anh vẫn nghe thấy tiếng
nai kêu hươu gọi. Anh lại giục tôi nên vác súng mà đi săn.
Cần gì, súng của Quan mà cậu mang đi bắn ở huyện nhà, thì bố
đứa nào dám hỏi!
Anh Cá-rán-tiêng quê ở một làng gần rừng có nhiều cọp cho nên
thỉnh thoảngg kể cho tôi nghe về cách săn cọp ở vùng ấy. Tôi thích nghe lắm, mà
phục nhất là cái lối chòng lọng cổ cọp rất giản tiện mà thần tình; chí cần một
cái dây chẳng to lắm nhưng biết cách giật thì con cọp dù khoẻ đến đâu cũng mất
cựa! Anh chòng lọng thử cho tôi xem vào cổ con mèo rồi dạy tôi cái lối xếp dây
và buộc nút.
Từ khi học được cách làm chòng lọng cọp, tuy tôi cũng chẳng
hy vọng một ngày kia bắt được ông Ba mươi, nhân những lúc buồn, tôi hay lấy dây
ra giật chơi mấy củ khoai lang lăn lóc dưới gầm phản, rồi khi đã thạo, tôi nghĩ
ngay đến sự ăn cắp đạn.
Hôm ấy cha tôi có việc phải đi vắng hai ngày. Tôi mừng lắm.
Cơm sáng xong, tôi lấy dây, tết cái chòng lọng cọp trèo lên mặt tủ, nhấc một tấm
ván long đanh ra dòng xuống, giật cổ được sáu viên đạn. Khi sắp sẵn các đồ đi bắn
xong, tôi xuống trại cơ, gọi anh Cá-rán-tiêng, rủ cùng đi cho vui, vì anh ấy bắn
thạo lắm. Anh ấy thích đi, nhưng ngần ngừ đáp:
- Để đến bận khác. Quan đi vắng, tôi phải ở nhà coi huyện.
- Anh đi độ hai giờ đồng hồ thôi mà, thầy Quán đồn cũng chẳng
biết đâu, vả anh đi bắn với tôi chứ với ai mà sợ?
Nghĩ phân vân một lúc, anh đáp:
- Vâng, cậu cứ đi một mình trước, chờ tôi ở đầu phố tôi sẽ đến
sau.
Tôi qua trại cơ. Thầy Quản đồn thấy tôi ăn mặc gọn gàng và
dáng đi hùng dũng, bèn ngắm và khen mãi, rồi thầy chúc:
- Cậu đi săn cho may mắn nhé!
Câu này rất kiêng kỵ. Trong làng săn, ai gặp người chúc thế,
y như hôm ấy vác súng về không có khi lại bị rủi ro nữa.
Tôi cũng bị cái mê tín ấy nó bám vào óc, từ ngày được ngửi
mùi thuốc đạn, cho nên tôi thất vọng ngay từ đầu.
Chúng tôi chui, rúc, trèo, leo, vào rừng, hết sức đi kiếm
chim muông, nhưng chẳng gặp con nào. Rồi loanh quanh chúng tôi qua cái làng
cách huyện ly ước ba cây số.
Hôm ấy là ngày phiên chợ, nên người lớn, trẻ con kẻo xem
chúng tôi đông lắm, mà mình thì ngượng về một nỗi không được con nào. Chợ ấy hẹp,
nhưng có một điều làm cho tôi chú ý nhất, là ở dọc đường đi tôi nhận thấy bốn
năm hàng bán thịt chó, mà hàng nào cũng đông người đến mua, có người ngả ngay
nón ra đấy đánh chén.
Tôi đi đến đầu làng, thì gặp một người chòng chọc con mắt
nhìn tôi, lại tủm tỉm cười ra ý chế nháo. Hai tay thọc vào túi áo cánh, anh ta
ưỡn ngực, vểnh râu ngắm mãi vào cái chùm dây xách chim rỗng tuếch, và nói bâng
quơ rằng:
- Nhục chửa?
Đang vào cái tuổi hung hăng, tôi nào chịu nối những câu nói xỏ
xiên cua những quân ngứa miệng, tôi liền quắc mắt lên nhìn, rồi đứng dừng lại,
định chất vấn anh chàng láo xược, thì anh Cá-rán-tiêng, biết ý, lôi áo tôi đi
và nói nhỏ:
- Thôi xin cậu, nó không biết.
- Nó là đứa nào thế?
- Lý trưởng cựu làng này đấy.
Thấy nói Lý trưởng cựu, tôi càng tức, vì lẽ gì nó chẳng biết
tôi là con quan mà dám nói láo? Ấy phần nhiều các cậu con quan thường có cái thỏi
hách hơn bố xin chị tha lỗi cho tôi.
Tôi cáu tiết, quay cổ lại nhìn, thì thấy nó vẫn nhìn theo
tôi, mà lại bĩu môi ra cách khinh bỉ. Tôi giận quay gót trở lại, định cho nó một
bài học hay về cách xử thế thì anh Cá-rán-tiêng lại kéo áo tôi mà rằng:
- Thôi, khẽ chứ cậu, con gì kia kìa...
Anh trỏ cho tôi ở cái đồi bên cạnh, một con vật gì lông vàng
và có vằn đốm đen, đương lẩn trong bụi cây.
Tôi ngắm kỹ một lúc, rồi giật mình nói:
- Hổ! Hổ? Anh ạ.
Anh Cá-rán-tiêng tái mét mặt lại, cũng trố mắt lên rồi nói:
- Không phải, con gì đấy.
- Đích là hổ, con hổ con, trông lông nó thì biết.
Lúc ấy con vật nhích đi một tí, thì tôi quả quyết rằng:
- Không còn sai nữa. Anh để tôi bắn.
Anh chàng láo xược ban nãy cũng rảo bước sau tôi thấy tôi nói
hổ, thì anh cũng chõ mõm vào rằng:
- Phải đấy, ở đây vần có mấy con hổ con. Bắn đi. Con gì cũng
bắn phăng đi!
Tôi se sẽ lui lúi nấp sau gốc cây, quay lại thấy anh Cá-rán-tiêng
có ý sợ mà lánh xa, còn anh Lý cựu kia lại dáng vui vẻ mà nhìn chòng chọc vào
con hổ.
Tôi lắp đạn, giương súng, ngắm. Tôi hồi hộp, vì không biết
phát này có rửa nhục cho tôi trước mặt cái anh vô lễ kia không, hay là nó lại
làm thêm cho tôi mọt phen rát mặt nữa? Tôi ngắm rất kỹ, trúng lắm. Tôi bóp cò:
Đoành!
Tiếng vang inh trời, một vùng khói toả tròn lan ra trước mắt,
che lấp cả con vật. Bỗng anh Cá-rán-tiêng kêu ầm lên rằng:
- A! Chết rồi!
Anh Lý cựu cũng vừa vỗ tay, vừa nhảy như thằng cuồng:
- A ha! híp! híp lơ! Con ma quay lơ! Hồ chết rồi!
Chúng tôi mừng rú, thi nhau chạy lại bắt, thì trời ơi chị có
cho tôi mượn mau cái rổ đề che mặt không, cái con vật nằm sóng soài ra giữa
vũng máu còn đang trợn ngược đôi mắt và hầm hè nhe bộ răng nhọn hoắt ra ấy lại
chẳng phải là hổ, mà chỉ là con chó vện! Khổ quá thì ra trông gà hoá cuốc, tôi
bắn phải con chó vện nhà người ta? Lúc chúng tôi đến nơi mới được vài giây đồng
hồ, đương nhìn cái thảm trạng ấy, thì con vật khốn nạn kia đã lìm lịm dần mà hồn
về chín suối.
Tôi hối hận vô cùng. Cái cuộc đi săn hôm nay thực là dại dột
quá! Tôi mang súng đã không có giấy, đạn lại đi ăn cắp thế mà lại bắn chết con
chó vô tội? Rồi đối với chủ con chó ấy hẳn tôi còn lôi thôi to. Chẳng biết tôi
giơ cái con quan của tôi ra thì sự lôi thôi ấy có giảm đi phần nào chăng, vậy
mà chẳng may cho tôi nữa, người có con chó chết. lại chính là cái nhà anh Lý cựu
đáng ghét ấy.
Chúng tôi đang tỏ ý lo riêng với nhau thì người ấy cũng chạy
tới rồi nói:
Biết mình có lỗi, tói vứt ngay bộ mặt thù địch ban nãy mà dịu
ngay cái nét hoà bình lại, mà tự giữ chủ nghĩa “bất đề kháng”.
- Phải, tôi bắn lầm.
- Ông bắn lầm? Phải! Rồi một ngày kia ông tương cả đạn vào bụng
người ta nữa!
- Nhưng hình như tôi còn nhớ chính ông cũng bảo rằng hổ, và
xui tôi bắn?
- Tôi nói đùa, mặc kệ ông chứ, ai bảo ông nghe? Chó hay hổ
ông không biết à?
- Thôi thì nếu có phải chó của ông thật, thì ông bằng lòng,
tôi đền tiền ông vậy.
. Ông là ai?
- Tôi là con Quan Huyện, ông này là ông Quyền Cá-rán-tiêng
trong huyện.
Tôi tưởng tôi loè nó bằng chức tước to như thế, mà tôi gọi
anh lính cơ là ông, lại lên giọng tây có uốn lưỡi thì nó đủ sợ, ai ngờ mặt nó cứ
điềm nhiên. Tôi nói:
- Tôi đền tiền ông.
- Tôi không lấy đền.
Tôi hung hăng, trợn mắt, cầm ngang khẩu súng, hất hàm hỏi:
- Vậy anh muốn gì hơn nữa?
Lối bắt nạt ấy rất công hiệu. Trên cái mặt điền nhiên kia, quả
lờ mờ có vẽ ra hai nét nhăn cười:
- Tôi chẳng muốn gì hơn, mời hai ông về nhà xơi nước.
Xơi nước? Tôi cần gì đến nước của nó? Tôi nói:
- Tôi không vào, tôi không khát.
- Thì mời hai ông vào chơi nói chuyện vậy!
Nói chuyện? Chỉ có báng súng của tôi muốn nói chuyện với ngực
nó thôi? Nó tưởng tôi ngu ngốc như nó đấy ai chẳng biết nó dử tôi vào nhà để sửa
một mẻ cho tôi đỡ tính ngông ngược? Tôi nói:
- Câu chuyện chỉ có thế, ông có muốn nói thêm gì thì nói ở
đây.
- Thì hãy mời hai ông vào chơi thư thả đã.
Đến câu này thì thằng cha có ý nằn nì. Tôi hiểu cái thâm ý của
nó, nhưng hai chúng tôi lực lưỡng dường này, lẽ nào lại bó tay cho nó thịt?
Lòng tự ái làm tôi hăng tiết, tôi liền đi trước và bảo:
- Nào ta đi!
Ấy hùng dũng thế, mà vừa đi, tôi vừa phân vân trong bụng đấy.
Tay lễ mễ xách con chó mềm như sợi bún, anh ta sấn lên đi trước.
Đến nhà, anh ta mời chúng tôi lên buồng khách, rồi treo ngược con chó lủng lẳng
ở đầu bếp và không biết đi đâu mất.
Ở vào cái địa vị tù giam lỏng, mấy lần chúng tôi bàn nhau
đánh tháo, nhưng đã trót xưng danh thật ra rồi thì có trốn đằng trời cho thoát?
Tôi nóng cả ruột, buồn cá người. Cái kim ngắn đồng hồ trên tường đã trỏ chếch
sang chữ một.
Một lúc tôi thấy con bé con ở dưới bếp mang nước sôi lên rồi
bưng bộ ấm chén chè tầu ra nói:
- Thầy cháu mời các ông xơi nước.
Tôi chẳng dại gì mà uống nước của kẻ thù, biết rằng chè thực
hay bùa mê, thuốc độc? Tôi đang xem xét ấm chén, ngửi chè, thì thấy một người lạ
mặt đến, khăn áo chỉnh tề. Anh Cá-rán-tiêng nhận biết ngay là lý trưởng đương
thứ. Người lý trưởng này lễ phép hơn người lý trưởng cựu, mà có ý thạo khoa
giao thiệp lắm.
Anh ta cứ gợi chuyện ra hỏi, nhưng trong bụng tôi lo lắm,
không biết ý tứ họ định làm những gì, nên tôi chỉ đóng vai trả lời bằng những
tiếng đắn đo, đủ diễn ý tưởng, chứ không rậm lời như lúc thường. Rồi độ nửa giờ
sau, người Chánh hội, Phó hội, Thư ký, Thủ quỹ lục tục đến dần.
Ơ hay, cả hội đồng hương hội họ kéo nhau đến làm gì đông làm
vậy? Làm biên bản án mạng con chó chăng? Tôi càng sợ, mà không thể đoán được ra
sao, vì xem ra bọn họ, anh nào bề ngoài cũng ôn tồn nhã nhặn như anh lý trưởng
đương thứ cả. Lạ một nỗi anh chủ nhà không ra mặt, để mặc một lũ trên này ngồi
nói chuyện với nhau. Họ hỏi thì tôi đáp, mà lúc thấy nguy tôi lại khôn khéo
hơn, thỉnh thoáng tôi trả lời: Không biết. Tôi không thể dò được ý họ. Giá họ
cùng hàng tuổi cùng tư tưởng, cùng kiến thức, cùng nghề nghiệp thì tôi xét tính
tình dễ hơn. Cho nên trong bụng tôi bực dọc lo sợ, nhất là chưa thấy họ đả động
đến chuyện chó chết. Mặt anh Cá-rán-tiêng cũng chẳng kém vẻ rầu rầu; nên hai ba
lần, tôi nháy anh đứng dậy và ngỏ ý đòi về thì họ cố mời cho được. Lắm lúc tôi
nằng nặc đòi đi ra, thì họ phải gọi lão lý cựu lên giữ lại, rồi mấy người ra
đóng cổng.
Đến hai giờ chiều, tôi thấy tiếng đàn bà nói léo nhéo ở ngoài
sân, về việc con chó. Tôi biết rằng vợ anh chàng láo xược đã về, mà mình sắp bí
beng to đến nơi. Tôi đang sửa soạn một cuộc xung đột kịch liệt để đối phó trong
lúc khó khăn, thì tôi thấy người chồng ở bếp chạy ra, lúc trợn mắt, lúc chỉ trỏ
lên buồng khách, rồi người đàn bà có ý láo xược hơn chồng ấy hầm hầm chẳng khác
gì con sư tử cái, chạy lên chào mọi người rồi hỏi tôi:
- Thưa cậu, tôi xin hỏi thực cậu, ai bắn chết con chó nhà
tôi?
Tôi đứng dậy, trả lời một cách cứng cỏi:
- Tôi, chính tôi bắn vì tôi ngỡ là con hổ tôi đã xin đền,
nhưng ông ấy không nghe.
- Được rồi!
Hai tiếng cụt thun lủn ấy chẳng phải để trả lời tôi mà chính
là để phê vào câu chuyện chó chết, lại ngụ ý đe doạ. Tôi tức quá, toan bảo cho
con mẹ hung hãn ấy mấy câu, nhưng nó đã nhanh chân ra sân, rồi mở cổng cắp rổ
đi đâu, tôi không biết. Lúc đó hai người trai trẻ lực lưỡng ở ngoài đi vào, mà
bọn hội đồng hương hội lại nói với nhau rằng:
- À, hai anh tuần này được việc đấy!
Rồi con bé con lên nói:
- Thầy cháu mời các ông xuống dưới nhà nói chuyện.
- Bọn họ đứng cả dậy, tôi và anh Cá-rán-tiêng cũng theo ra,
nhưng người Chánh hội xua tay nói:
- Mời các ông cứ ngồi chơi.
Nó rồi ra cả, đóng chặt cửa lại, làm cho tôi chăng còn trông
thấy gì ở ngoài.
Tôi lắng tai nghe, nhưng họ thì thào với nhau khẽ quá nên chỉ
rõ có mấy tiếng sau, làm cho tôi rợn tóc gáy mà thương hại cho tôi mới hai mươi
cái xuân xanh.
- Cho chết Chẳng phải trói? Mất cựa!... Con dao này chửa được
sắc...
Lo quá, thân cô, thế cô, tôi biết tính làm sao? Súng để cạnh
mình, tôi nằm, một tay vắt lên trán để nghi kế một tay thọc vào túi chỉ rình
móc đạn ra. Tôi bàn mưu với anh Cá-rán-tiêng, xem nên chống cự bằng cách gì thì
anh ta lại cuống quít quá tôi, thêm một mối lo nữa là anh đã bỏ trại không xin
phép.
Rồi nghĩ luẩn quấn rối beng trong óc, tôi ngủ bẵng lúc nào
không biết. Trong khi ngủ, tôi chiêm bao thấy bao nhiêu phen kinh hồn, và giữa
lúc đương nằm mê thấy họ đem mình ra bỏ rọ, thì có người lay vai tôi đánh thức.
Tôi choàng mắt dậy: lũ người ban nãy đứng cả trước mặt. Tôi
giật mình, nghĩ:
- Có lẽ giờ này là giờ quyết định cái số phận mình chăng?
Tôi bèn ngồi nhổm dậy, tay vớ vội lấy khẩu súng. Họ đồng
thanh nói:
- Nào, mời cậu, chả mấy khi, ta hãy đánh chén đã?
Trời ơi, câu nào họ nói cũng y nhị sâu xa. Hay, nghĩa là họ
còn để cho tôi vài phút mà ăn uống no nê chăng?
Tôi thấy lù lù trên bàn một mâm rượu đầy tú ụ, la liệt những
đĩa, ngùn ngụt khói bốc lên thơm phưng phức nào dựa mận, nào thịt luộc, nào muối
gừng, nào chả nướng. Tôi nhìn đồng hồ đã hơn năm giờ chiều rồi nóng ruột toan
không ăn, thì họ mời và dắt ngồi vào ghế. Tôi cứ phải để ý dò từng tí, xem họ
đưa mình đến cái hố nào. Họ mời tôi nâng cốc, cầm đũa, uống, ăn. Tôi ăn dè, uống
ít, và chẳng nói câu nào, vì luôn luôn nghĩ đến tính mệnh, nên phải nghe ngóng,
nhai mãi mới dám nuốt. Hễ họ gắp tiếp là không bao giờ tôi dám bỏ mồm, lại gắp
trả vào đĩa. Một việc họ trả thù tôi, mà cần gom nhiều trí khôn lịch duyệt hơn
tôi để bàn soạn và lại xếp đặt bằng một cái chương trình lâu thì giờ, bí hiểm
thế, thì tài nào tôi chẳng phải giữ mình cẩn thận.
Họ ăn uống cũng ung dung, ì ộp như đám đánh chén trong đình,
khen lẫn nhau nấu khéo. Mà họ nấu khéo thực, tiếc rằng tôi không dám bạo ăn,
khéo đến nỗi từ ngày ấy đến bây giờ, tôi chưa được thấy bữa thịt chó nào ngon
như thế nữa. Trong đám đánh chén, tôi để ý nhất vào anh chàng láo xược. Tôi thấy
anh ấy ăn tục uống nhiều nhất, mà động anh ta nói câu gì ra, tôi cũng thấy
ngang tai muốn bẻ. Không hiểu vì ác cảm mà tự nhiên tôi cảm tưởng thế hay sao,
chứ mà tôi thấy anh ta làm gì, nói gì, tôi cũng chỉ muốn tặng anh một phát đạn
vào ngực cho đỡ ngứa tay ngứa mắt!
Tôi ăn xong trước nhất, rồi đến anh Cá-rán-tiêng.
Vậy mà họ mới uống cạn có một chai rượu. Bao giờ cho hết hai
chai nữa đương đứng chực ở giữa bàn?
Rửa mặt xong, tôi có thể đi đi lại lại để xỉa răng.
Lão lý cựu thấy tôi như vậy, bèn nói:
- Mới chửa sáu rưỡi, đã tối đâu, mời cậu hãy ngồi chơi. Thong
thá chán!
Ờ, quái đến sáu rưỡi họ định làm gì tôi? Lo quá, sợ quá.
Hẳn chả còn nghi ngờ gì nữa, gần bẩy giờ, lão Chánh hội nhìn
ra ngoài sân, thấy tối, nói:
- Thôi tối rồi, ông Cựu gọi hai chú tuần dưới bếp mang hai
thanh giáo lên đây!
Nghe câu nói ghê cả người, tôi vớ lấy cái súng và liếc mắt gọi
anh Cá-rán-tiêng, đứng lại gần tôi, trước bức tường để thủ thế cho dễ, vì tôi mới
học được miếng võ ấy. Có lẽ sống chết phen này đây?
Đứng trước cái phút tôi đoán hẳn là phút cuối cùng lòng tôi
nao nao không sao tả cho xiết nổi được. Bao nhiêu phiến ảnh trong hai mươi năm
trời của đời tôi đều phưn phứt diễn nhanh như chớp ở trước mắt. Việc hay làm
cho tôi tiếc đời, việc dở làm cho tôi hối hận mà bao nhiêu người thân thích với
tôi, cũng lần lượt hiện ra trong trí nhớ, khiến tôi nghĩ tới tình cảnh ấy, nông
nỗi này mà thổn thức, xuýt chẩy nước mắt. Chị ơi! Đọc đến đây, chị có thấy động
lòng không? Nhưng đố chị đoán được cái thâm ý của anh chàng Lý cựu ấy thế nào
mà gọi tuần mang giáo mác đến làm tình làm tội gì tôi và cái kết cục câu chuyện
chó chết này thế nào đây?
Thưa, kết cục chỉ có thế thôi ăn xong, chúng tôi đi về tuy trời
tối, rừng rậm, nhưng trong bụng vững như thành, vì đã có hai người tuần giáo
mác dẫn lối cẩn thận! Vậy anh Lý láo kia làm thế là nghĩa làm sao?
Thế nghĩa là, người tuần đưa đương giảng cho tôi nghe thế, thế
nghĩa là anh Lý này có tính sợ vợ mà lại thích ăn thịt chó, lâu nay vẫn khao
khát thèm thuồng nhưng không dám xin tiền mua. Nay nhân thấy tôi vác súng qua,
lại trông gà hoá cuốc, cho nên anh Lý “áp triện” nhận thực chẳng ngay con chó vện
của anh ấy là con hổ, để tôi đưa phát đạn vào giữa đầu? Anh rất thoả lòng,
nhưng còn sợ vợ bắt đem ra chợ bán mất, thì hụt bữa chén ngon, anh bèn cố mời
cho được những tay tai mắt trong làng đến sẵn cho vợ mất nói, mà anh cố níu rịt
lấy tôi, vừa để làm chứng, vừa để đền ơn, vừa để lấy thêm thế lực loè mẹ đĩ!
Vậy mà, than ôi! Sao anh chả cho tôi sớm hiểu thâm ý để tôi
nói dăm ba câu cảm tình?
10 Avril 1932
Nên giấu tên cô ấy. Và cũng chẳng cần biết để làm gì.
Miễn là ta biết chuyện của cô ấy.
Cô ấy xinh, thích ăn diện. Đã đỗ tú tài. Không học tiếp đại học,
vì lấy chồng. Vợ chồng rất yêu nhau.
Chồng cô ấy là công chức, tháng tháng lãnh một số lương đủ ăn
xài. Nhưng ăn xài mới đủ thôi thì chưa ổn. Nếu chỉ đủ thì bao nhiêu thứ hàng
tràn ngập trong các chợ, trên vỉa hè Sài Gòn, Gia Định, vừa đẹp vừa rẻ, vừa tiện
lợi cho đời sống vật chất, ai tiêu thụ cho? Cho nên cô ấy cũng xin đi làm để có
dư tiền.
Và cô được vào làm ở một sở của Mỹ.
Sở nào của Mỹ cũng có khối người Việt. Việc ít nhưng lương
nhiều. Cảm ơn người bạn đồng minh tốt.
Cô ấy ở đó được chừng ba tháng, thì một buổi sáng, vào sở thấy
trên bàn làm việc có một phong thư ngoài bì đề tên mình.
Mở bì ra, cô thấy một tập giấy đủ một trăm đô-la, và một bức
thư:
“Thưa cô, tôi rất lấy làm vinh dự nếu được cô nhận lời đi
chơi mát trong thành phố bằng xe hơi với tôi độ nửa giờ, sau buổi làm việc chiều
mai 19-4. Nếu cô đồng ý tôi xin cô nhận chút quà của tôi đính theo đây.
Ký tên (một người Mỹ cùng làm trong sở, mà cô có biết mặt)”
Đọc xong, cô không suy nghĩ lâu, gấp thư và giấy bạc bỏ vào
phong bì để nguyên chỗ cũ.
Buổi chiều đến sở, cô không thấy phong thư ấy. Hẳn là người Mỹ
này biết cô không đồng ý, nên đã lấy đi.
Nhưng sáng hôm sau, là ngày 19 tháng 4, cô lại thấy chiếc
phong bì trên bàn làm việc. Trong cũng có một trăm đô-la, và bức thư vài dòng
như hôm trước. Chỉ có ngày hẹn khác, ngày 20 tháng 4. Vẫn tên ký của người Mỹ ấy.
Cũng như hôm trước, cô lại gấp tiền với thư vào phong bì, để
lại ở bàn giấy. Nghĩa là cô không đồng ý cho cái anh chàng đó được vinh dự đi
chơi phố với cô trong nửa giờ đồng hồ.
Lại cũng như hôm trước, buổi chiều cô không trông thấy chiếc
phong bì ở trên bàn.
Nhưng rồi đến sáng ngày 21, cô lại thấy chiếc phong bì đặt ở
trước mặt. Cũng đô-la và bức thư, nhưng đổi ngày hẹn là ngày 22.
Cô lại không nhận lời. Và cứ như vậy suốt một tuần, buổi
sáng, bức thư để lại, buổi chiều, bức thư lấy đi và buổi sáng hôm sau, thư lại
tới, chỉ đổi ngày hẹn thôi.
Việc này, cô chẳng cho các bạn đồng sự biết. Và cũng chẳng
nói chuyện với chồng.
Ở Sài Gòn thường cô nghe thấy nhiều người khen Mỹ là lịch sự,
là hào phóng. Dễ người Mỹ này lịch sự và hào phóng đây. Cô lại nghe nói Mỹ là bạn
của Việt Nam, họ thường đi chơi với mình. Đối vẫn người Việt, họ lễ độ, nhã nhặn
và đứng đắn. Nhất là đối với phụ nữ. Cho nên, buổi sáng thứ bảy, nhận được thư,
cô có suy nghĩ. Suy nghĩ về cái con người quá xá là kiên tâm này đối với cô.
Hàng ngày, đi làm, cô đạp xe đạp mất chừng mười lăm phút. Cô
mong dành tiền sắm chiếc Hon đa, đi cho khỏi mất sức và mất thì giờ.
Nay một người Mỹ chỉ mời mình đi chơi có nửa giờ mà biếu mình
một trăm đô la. Hay là nhận lời quách.
Có làm sao? Nếu sáng thứ hai, cô vẫn thấy người ấy mời đi
chơi, thì cô đừng nên từ chối nữa. Cô nghĩ thế.
Thì quả nhiên, trên bàn làm việc, cô lại thấy chiếc phong bì.
Cô đọc thư, nhận tiền, bỏ vào túi.
Chiều ngày thứ ba, biết là được hẹn, người Mỹ đợi cô ở cửa sở.
Thấy cô ra, hắn lễ phép cúi chào. Cô giơ tay ra bắt. Hắn mở cửa xe, mời cô vào.
Rồi nhanh nhẹn, hắn mở máy.
Trong khi đi các đường, hắn nói chuyện. Hắn hỏi thăm gia đình
cô, hỏi tất cả những cảnh, những việc nhìn thấy trước mắt mà hắn chưa hiểu. Hắn
nói về gia đình hắn, và hắn rất kính phục người Việt Nam, vì người Việt Nam có
nhiều đức tính và rất thân thiện với người Mỹ. Giọng nói của hắn cho thấy hắn
quả là lịch sự lễ độ và nhã nhặn. Hắn đưa cô đến đầu hẻm (vì nhà cô ở trong hẻm)
thì vừa đúng nửa giờ. Từ giã hắn, cô giơ tay ra bắt. Hắn đứng thẳng, cúi đầu
chào, như chào một người trên.
Việc này bẵng đi, đến mười hôm sau, cô ấy lại được tên Mỹ ấy
mời đi chơi trong nửa giờ. Hắn hẹn ngày giờ đón cô, và cũng biếu cô một trăm
đô la.
Nửa giờ đồng hồ nói chuyện với một người dân nước văn minh mà
còn được tiếng tội gì mà không nhận?
Thế là cô lại đi chơi với hắn. Và cũng vẫn nhưng thái độ cử
chỉ đúng đắn như lần trước.
Vậy là cô có dư tiền để sắm chiếc Hon-đa. Chồng cô hỏi tiền
nào, cô chỉ mỉm cười, nói là đi vay.
Năm hôm sau, cô lại nhận thư và tiền của người bạn Mỹ mời cô
đi chơi. Giờ thì phải dùng tiếng “bạn” mới đúng.
Rồi đến nửa tháng, cô không thấy hắn mời. Cô đã có ý mong.
Thì một hôm, cô nhận được phong thư. Đập ngay vào mắt cô, là
tập dày những hai trăm đô-la. Hắn mời cô dùng bữa cơm thân mật với hắn ở khách
sạn X. Cô có nghĩ đến cái ý “tầm gửi lấn ngành”. Cô từ chối bằng cách để lại
phong bì ở bàn giấy. Nhưng rồi buổi chiều, chiếc phong bì thư mời ăn biến đi để
rồi sáng hôm sau lại xuất hiện ở trước mặt cô.
Ba lần như vậy. Đến lần thứ tư, cô cho phong bì vào túi.
Nghĩa là cô nhận lời.
Bữa tiệc chiêu đãi thật trang trọng. Và vẫn những cử chỉ lời
nói lễ độ và thân mật như mấy lần trước.
Bốn hôm sau, cô lại được mời, và cô không chối từ.
Và lại một lần nữa: Chả sao có bạn là người nước văn minh,
mình học thêm được sự văn minh. Lại có lợi nữa. Đời cô thật may mắn hơn các chị
em khác. Cô sắm ti-vi tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, may mặc cho mình, cho chồng.
Cô còn muốn có chiếc xe hơi, để chủ nhật; vợ chồng đi chơi với nhau. Giá mà đủ
tiền tậu được biệt thự thì hoàn toàn sung sướng.
Mười hôm sau nữa, cô ấy nhận được thư của người bạn mời ăn,
nhưng lần này ăn ở nhà hắn. Có lẽ hắn cho là yêu cầu khó khăn đối với một người
phụ nữ, nên hắn biếu cô những ba trăm đô la.
Vì muốn có tiền để thoả mãn đời sống vật chất với chồng, nên
cô không từ chối người Mỹ.
Bữa cơm hôm ấy cũng sang trọng không kém bữa cơm ở khách sạn.
Chuyện trò còn có vẻ thân mật hơn.
Ăn xong, hắn tiễn xe cho cô về nhà.
Rồi một lần nữa, hắn lại biếu cô ba trăm đôla để mời cô về
nhà ăn cơm với hắn.
Trong độ hơn một giờ đồng hồ, xe đón, xe đưa, chẳng mất công
khó nhọc, còn được ăn ngon, được tiền nhiều, buôn gì lời bằng?
Hắn thuộc tính cô thích ăn gì, và không quen uống rượu mạnh,
nên biết chiều ý cô và cũng chỉ dùng rượu bia. Hắn tỏ vẻ hân hoan và cảm ơn cô
là tấm gương cho hắn bắt chước, nay hắn bớt được mấy thứ rượu có hại cho sức
khoẻ.
Lần thứ ba, hắn mời cô đến nhà để ăn cơm. Lần này, hắn khoe rằng
mẹ hắn vừa gửi cho hắn một thứ nước ở bên Mỹ mới chế ra. Chỉ cần một giọt tí
xíu nhỏ vào rượu bia, thì thấy có mùi thơm lạ lùng, thơm đến mấy giờ đồng hồ ở
cổ họng, và chất men lại dịu hẳn đi.
Cô uống bia với thứ nước ấy, thì quả nhiên thấy thế thật.
Nhưng cơm ăn xong, lạ quá, cô không muốn về nhà vội. Rõ ràng
là một dục vọng của thú vật nó làm cô cồn cào không yên. Hẳn là tại giọt nước
nhỏ vào rượu: Bởi vậy người bạn quý của cô đòi hỏi, cô chẳng từ chối tý nào: Cô
vào buồng ngủ của nó. Và cửa đóng kín lại.
Đêm hôm ấy, khi về nằm cạnh chồng, cô ân hận, cô xấu hổ, cô
nhục nhã. Cô muốn khóc, nhưng phải cố nhịn. Sợ chồng biết, cô càng không dám
thú tội với người bạn trăm năm.
Lần sau tên Mỹ lại mời cô đến nhà chơi, nhưng không phải để
ăn. Nó vẫn kèm theo ba trăm đô la như trước. Cô hiểu là từ nay, cô biến thành đồ
chơi của nó.
Nó thuê bằng tiền. Nghĩ vậy, nhưng cô cứ đi. Không phải đi
cho nó thoả dục vọng, mà là để mắng nó là đồ xỏ lá, đồ khốn nạn, miệng nói kính
phục người Việt Nam, nhưng chính là khinh miệt người Việt Nam, dùng tiền, dùng
thủ đoạn để cám dỗ cô, lừa đảo cô, làm hại đời cô. Cô sẽ ném trả tiền vào mặt
nó.
Cô mắng nó thế thật, mà còn dùng nhiều lời đáo để hơn nữa để
chửi rủa nó, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục ấy.
Thằng Mỹ chỉ cười. Nó không cãi. Nó còn mời cô xem chiếu cuốn
phim nó mới quay được.
Ối trời đất ôi! Thì ra cuốn phim nó đã quay lúc cô vào buồng
với nó, từ lúc cô lên giường nằm đến lúc cô mặc xong quần áo.
Cô la hét như điên như cuồng. Cô đòi nó phải đưa cô cuốn phim
để cô huỷ đi. Nó không thể từ chối. Cô châm lửa đốt ngay trước mặt nó. Rồi cô về.
Yên tâm.
Một tháng sau, cô nhận được thư của nó. Không kèm theo tiền.
Cô hiểu là nó không dám bắt cô làm thú vật.
Thư nhiều chữ hơn những thư trước.
“Thưa cô,
Tôi sắp được về nước, nên cần bán những đồ đạc để lấy tiền.
Tôi biết rằng cô cần mua lại một thứ, nên tôi viết thư này. Ấy là cuốn phim hôm
nọ cô đã đốt. Cuốn cô đốt chỉ là bản in lại. Còn bản chính, tôi vẫn giữ để đợi
đến ngày tôi rời Việt Nam sẽ bán lại cho cô. Vì là cuốn duy nhất và quý giá vô
cùng, nhưng lại vì đối với cô là người mà tôi mang ơn, nên tôi chỉ bán tính bằng
giá rẻ, là hai ngàn đô-la thôi.
Tôi đợi cô một tuần lễ để được nghe sự đồng ý của cô. Xin
giao hẹn trước, là tôi không thể biếu không cho cô thứ quý giá này. Quá một tuần,
nếu tôi không nhận được trả lời của người mà tôi dành quyền ưu tiên, tức là cô
thì xin cô cho phép tôi để lại cho người khác.
Cùng lắm, nếu không ai có đủ tiền để lấy lại cuốn phim mà tôi
bắt buộc phải cho không, thì người được tôi biếu phải là chồng cô.
Kính xin cô trả lời, và xin cô nhận những lời cảm ơn trước của
tôi.
Ký tên”
Đọc xong thư, ấy bàng hoàng, tái mét mặt, suýt ngã. Các bạn đồng
sự tưởng cô bị cảm, vội vàng cứu chữa cho cô. Cô nghiến răng, đập chân tay nguyền
rủa hết lời thằng khốn nạn. Cô đã nhận của nó bao nhiêu tiền, thì lần này nó
đòi lại tất cả. Và thằng ở cái nước có óc con buôn, còn buôn sự đểu cáng để lấy
thêm hai trăm đô-la làm lãi nữa. Mà biết đâu lại không phải là thằng khốn nạn
đã buôn sự hào phóng đối với cô bằng tiền của cục tình báo Mỹ CIA thuê nó khai
thác một loại tài liệu cần thiết.
Cô nghĩ nhiều. Cô lo nhiều. Cô phát ốm.
Cô thú tội với chồng, mong chồng trả thù cho cô.
Không thể đội trời chung với chúng nó. Chồng cô tha thứ cho
cô. Cô chỉ đáng thương, vì mắc mưu của nó.
Nhưng cô không thể chịu nổi nhục.
Cô đã tự sát.
Sài Gòn, 20 tháng 10 năm 1975
Nhưng cô có nhận cái tên ấy nữa đâu!
Kếu là nghĩa thế nào? Nghĩ bao nhiêu, cô lại oán cha trách mẹ,
không đặt cho cô cái tên mỹ miều. Mà chữ nho, nào thiếu gì tiếng hay, sao cô chịu
mang cái tên nôm na xấu xí ấy mãi? Nhất là đi ngoài phố, bay là ở chỗ đông người,
mà mẹ cô gọi: Kếu ơi! Thì cô đỏ mặt tía tai, hậm hực, lấy làm ngượng quá! Lại
còn những chị em bạn cô? Cứ những lúc ở Bờ Hồ, hay thấy cô gặp một công tử quen
nào, là nhè ngay cái tên cúng cơm của cô ra mà réo quang quác, rồi cười rúc
rích.
Nhiều lần cô đã van lạy, xin rằng giữ sĩ diện cho cô mà gọi
cái biệt hiệu cô mới nhờ người ta đặt hộ là Bạch Nhạn ấy, nhưng các mẹ ranh tai
ngược, cứ vờ quên, để bêu cô, mới tức chứ?
Cô Bạch Nhạn - phải đấy, bởi vì cô đã thề độc đứa nào còn bêu
cái tên cúng cơm của cô - cô Bạch Nhạn buồn lắm. Vì cổ hủ hết cách. Cái tên đã
là “Ca êu sắc” mà lại ăn mặc lối cổ? Ấy thế cũng mang tiếng là con gái Hàng
Đào! Các bạn cô, cô Bích Ngọc thì đã được mặc quần trắng và áo sáu khuy. Cô
Song Khê đã được cạo răng. Đến ngay như cô Mộng Lê, mà bà cụ cũng chịu để chị
đánh phấn và mặc áo mầu nữa là! Ấy là chẳng dám so kè với cô Minh Nguyệt, được
mẹ chiều chuộng quá mà cho phép đi học cả nhẩy đầm ở nhà bạn trai đấy!
Thế mà cô Bạch Nhạn ta, úi chào, động có chải cái tóc xoè xoè
ra một tí, là bị chửi liền.
Ức nhất là quanh năm cô chỉ được mặc đồ thâm như người có trở,
trông tối sầm như bà cụ.
Ấy, giá cô không mua cái khăn nhung và nhờ bà mợ vờ đem lên
cho, thì có lẽ bây giờ cô còn phải chít cái khăn xa-tanh trông như con Sen con
Nụ.
Cô bực mình quá! Sao lại có bà cụ nghiệt như mẹ cô bao giờ. Bà
cụ tưởng cứ đánh phấn với mặc áo mầu là đĩ cả đấy!
Bà cụ biết đâu rằng các cô gái non bây giờ, mỗi năm mỗi mốt,
thay đổi xoành xoạch, thi nhau mà quần nọ áo kia.
Mà có phải nhà cô nghèo kiết gì cho cam! Tiền của nhà cô, tưởng
có sắm ăn, sắm mặc bằng mấy người ta, cũng còn thừa nữa là. Nhưng bà cụ cứ bắt
na bắt nét, bắt tập những nết ăn, ý ở, bắt học những câu nói, việc làm.
Một hôm, cô rình lúc bà mẹ ngủ, mới khẽ lấy hộp phấn Cô-ty mà
cô nhờ người mua hộ, vẫn cất kỹ ở trong hòm. Cô đánh mặt cho rõ trắng, bôi cả nốt
ruồi giả bên cạnh má. Cô ngồi soi gương, ngắm đi ngắm lại một mình độ nửa giờ.
Rồi lại phải đi rửa mặt cho thật kỹ mới dám đi ngủ.
Năm nọ, cô có giấu mẹ, may ngầm một cái áo lam.
Nhưng cô chẳng mặc lần nào. Đến bây giờ mầu ấy lại là mầu cổ
nhất rồi. Những lúc cô có việc đi cùng chỉ em bạn, thì tự cô thấy ê chệ nhất
đám, vì cách ăn mặc của mình. Cô than thở, thì cô Song Khê xui rằng:
- Tội gì! Có tiền, cậu cứ sắm văng đi! Mẹ cậu có giết được cậu
đâu mà sợ!
Nhưng cô không dám liều thế. Vì lỡ bị mẹ chửi thì cũng khổ.
Cô Bích Ngọc cũng phàn nàn hộ cô:
- Ở đời này mà cử ăn mặc theo lối cổ, thì bất quá lấy được
anh giáo học là cùng! Những thằng Cao đẳng nó chỉ ưa tân thời thôi.
Thấy bạn vẽ cái tương lai, cô lại thở dài, oán cái nền nếp
nhà cô. Sao trời đã sinh ra cô là con gái; con gái phố Hàng Đào; con gái phố
Hàng Đào có nhan sắc; con gái phố Hàng Đào có nhan sắc của một nhà giàu; đương
thì đào tơ mơn mởn, mà không được sinh trưởng vào một cái gia đình được ăn mặc
tự do, để được xứng đáng với từng ấy cái mà cô được hơn người.
Cô bực. Cô bực quá!
Thỉnh thoảng, cô ngồi trông hàng, ló mắt ngắm các tiểu thư đi
ngang qua nhà mà đâm ghen.
Nhiều cô thực là xấu, cái môi cong tớn, cái mắt ốc nhồi, thế
nhưng hễ ăn mặc đúng mốt tân thời thì trông không thấy xấu nữa. Thế thì cô, tuy
trẻ và đẹp, nhưng vì ăn mặc đen thì cớ lẽ cái nhan sắc cũng bị tiêu đi mất rồi
chứ còn gì? Gớm! Thế thì chán thật. Cô thèm! Cô thèm quá!
Năm nào cô cũng lên Hàng Ngang vài chục lần, để xem hàng mặc
mới. Nhiều thứ đẹp và rẻ lắm! Cô ước ao.
Cô giơ tung cả cuộn của người ta ra mà ướm vào mình, đứng trước
cái gương, ngắm nghía thật kỹ. Cô lấy làm thích lắm. Rồi cô lại nhà bạn, mượn
áo mới may để mặc thử, rồi đi lấy dáng tha thướt, thì ai cũng phải khen:
- Bạch Nhạn nó mặc tân thời ăn lắm nhỉ! Thử cởi cái quần thâm
ra xem nào.
Rồi họ lại nói:
- Ừ ra cứ mặt trái xoan và người thon thon, thì ai mặc quần
trắng áo mầu cũng nổi.
Mỗi bận cô được khen như thế, thì về nhà, cô lại đâm nghĩ. Cô
mơ màng đến ngày cưới cô, quyết thế nào cô cũng xin mặc quần trắng và áo
sa-tanh hồng, thêu hoa to bằng cái bát. Rồi cô tưởng tượng đến người bạn trăm
năm của cô, trẻ, đẹp, đẫy đà cứ chiều chiều dắt cô ra Bờ Hồ hóng mát. Những người
ấy phải mặc quần Tây phẳng nếp, đầu chải thật bóng. Mà cô thì cầm cái mũ cho chồng,
mặc lối tân thời từ đỉnh đầu đến dưới gót!
Cô mơ màng cho nên cô thèm quá rồi? Cô không chịu nổi nữa. Cô
đánh liều. Cô giấu bà cụ, sắm một mẻ toàn nhưng thứ tân thời.
Cô mua đôi giầy cao gót, mũi vá; may một cái quần lụa Nhật Bản
có bốn nếp gấp ở lườn, lại khâu trái một đường ở ống, mà ống thì hẹp, và vén gấu;
một cái áo sơ mi viên đăng-ten và thêu hai bông hoa ở hai bên ngực; một cái áo
cánh kín tà dài đến hông, cũng viền đăng-ten xung quanh; và một cái áo dài sặc
sỡ, chi chít những hoa là hoa vẽ rắc rối như thời cục nước Tàu; một cái ví đầm
bằng da hung hung, trong có sẵn những đồ để trang sức.
Cô sắm những thứ ấy, nhưng không dám để ở nhà. Cô gửi đằng chị
Bích Ngọc, ở phố Hàng Trống.
Rồi từ đó, mỗi buổi chiều, cô thu thu hộp phấn vào bọc, cô đến
chơi nhà cô Bích Ngọc.
Đến nơi, cô xổ khăn, lấy lược ra chải lại mái tóc. Rồi rẽ lệch
đường ngôi.
Rồi uốn lại mái tóc cho cong xuống và thò ra mang tai. Rồi cô
bôi phấn khắp mặt, tai và gáy. Rồi cô vươn cổ ra để xoa cho đều. Rồi cô rề dài
môi ra để tô son. Nhưng cô bạn dạy rằng đừng nên bôi cả vào bề dầy của môi mà xấu,
phải làm cho cái miệng chúm lại, nghĩa là phải theo chiều cái môi mà vẽ đỏ một
cái môi giả, mỏng và hẹp hơn làn môi thật, gọi là môi quả tim. Rồi cô mặc quần
trắng, xếp cho thẳng nếp, đứng ống. Rồi cô vận cái áo sơ-mi, cái áo cánh và áo
dài sặc sỡ, vuốt cho phẳng phiu. Xong đâu đấy, cô lận đôi giày mang cá, ôm cái
ví đầm, đến trước tú gương mà đứng. Cô quay đằng trước. Cô quay đằng sau. Cô đi
đi. Cô lại lại. Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô ngắm. Cô bàn. Cô
bình phẩm. Cô khoái lắm!
Rồi trong độ nửa giờ, ngắm chán, cô trút hết bộ cánh ra, xin
thau nước, lau kỹ cái mặt rồi mặc quần áo thâm, đi về.
Ấy chẳng ngày nào là cô Bạch Nhạn không diễn tân thời một
mình, một lúc như vậy. Có thế cô mới đỡ thèm, đỡ hậm hực Nhưng những hôm mưa lướt
sướt cả ngày, thì cô nóng ruột quá. Mà cứ đến cái giờ ấy, quái lạ, cô nằm bẹp
gí, chẳng thiết làm cái phải gió gì cả.
30-5-1933
Sau năm năm chuyên môn khao cứu các thớ thịt đàn ông, cái Bống
đã biết đặt cái sắc đẹp của mình vào những công cuộc khai mỏ.
Quả tim nó chẳng phải là cái bắp thịt đỏ hỏn, thoi thóp, cảm
động nữa. Quả tim nó đã biến thành một gian buồng nhỏ, bọc sắt, có ống thu lôi
trong đó chứa chất biết bao nhiêu hy vọng của nhùng anh chàng dại dột, nhìn đời
qua cứa số nhà trường, tay cắp sách miệng lầm nhấm, nhắc lại câu: Đàn bà là giống
yếu.
Một hôm, trong rạp hát, giữa chốn tối tăm, nó đã mỉm cười,
đem quả tim quý hoá đó, nùng nịu đặt vào lòng một quan phu goá vợ, mà một bước
lên chức bà lớn nghênh ngang.
Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người
làm bà lớn. Nên chăng mấy chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu, chỉ riêng bộ mặt
cũng đã long trọng. Người ta tương chiếc bánh dầy đám cưới, ở giữa đặt một quả
chuối ngự, và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà
chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát-bàn, thì
ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm sâu như bụng dạ một người đàn bà.
Song, quan ông lại có cái hình thể kháng hẳn. Vì ở người ngài cái gì cũng cong,
từ cái sống mũi đên cái lương tâm, từ cái lưng đến cách sử kiện. Tuổi đã già mà
ái tình còn trẻ. Ngài mua được người ngọc ở chốn thành thị về để hầu hạ sớm
khuya, thì thoả chí lắm. Ngài quyêt từ nay không chê bai những món lê nhỏ quá,
để làm sao có đủ tiền cho người yêu tiêu xài vung phí.
Thường, những buổi chiều tà, khi bức màn đen lóng lánh kim
cương rủ xuồng để che kín vũ trụ, trong vườn hoa, trước tư thất quan ông quan
bà nhỏ to trò chuyện như một cặp nhân tình.
- Thế nào? Mai là rằm rồi, bà đã sửa soạn ra đền chưa?
- Đã đem đầu vào làm tôi con Thánh thì tôi quên làm sao được.
A, ông này, tháng hai Chính, tôi tống cố nó đi rồi. Ai lại cung văn mà toét mắt,
bẩn như ma. Lắm khi nửa giá chầu, chán quá, tôi phải thăng ngay lập tức.
- Đuối nó đi, đến mai, lấy ai hát cho bà?
- Đã hơn nửa tháng nay, vợ lý trưởng sở tại đã cho gọi nhà
phó Bái thay rồi. Thế mới gọi là cung văn chứ. Đàn ngọt, hát hay, lại nhanh nhầu,
sáng sủa. Thằng này khoẻ mạnh, vạm vở, ăn nói có duyên, chứ chẳng hom hem như
thằng chết giẫm trước đâu.
- Dễ thường tôi hom hem thế này, cũng là tuồng chết giẫm nhỉ?
- Chết nỗi! Ví mình với thằng cung văn! Sao ông dại dột thế!
Thật từ ngày hầu hạ ông, tôi như người đi xa về được đến nhà. Chẳng cần phải lầu
son, gác tía, tôi mới được mãn nguyện. Đời tôi chỉ mong có hai điều: Một quả
tim và một túp lều tranh.
- Còn thiêu một cuộn giấy bạc nữa là ba mới đủ?
Quan ông vừa nói tiếp, vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan
bà: Một con nhái bén bám vào một quả dưa chuột?
- Bà đừng giận nhé. Thế bà có yêu tôi không?
- Gớm nữa? Lẩn thẩn lắm? Đàn ông chỉ hay bịa ra những câu hỏi
để đàn bà chúng tôi phải bịa ra những câu trả lời! Có! Rồi sao nữa?
Quan ông đứng dậy, cầm tay quan bà, dắt vào nhà, đóng cửa lại,
qua bậc cửa buồng, gài then kỹ lưỡng. Rồi, dưới bộ ria mép như một cái mũ nồi
úp chụp lấy cái miệng chúm chím, quan để nở ra một nụ cười móm.
- Rồi thì... Bà còn đợi gì nữa.
Quan bà õng ẹo, đưa cặp mắt lườm yêu chồng thỏ thẻ:
- Nhưng mà thế thì rét lắm.
Năm phút sau, dưới ánh đền treo trong phòng, hiện nguyên hình
bộ phận một người như hồi sơ sinh của các bà mụ nặn.
Cứ thế, những cảnh nồng nàn yêu dấu của hai linh hồn sắp nguội,
mỗi buổi chiều lại diễn ra, đến nỗi mấy con thạch sùng cũng phải đánh ghen mà tặc
lưỡi.
Cứ thế, ngày giờ trôi qua đi, quan phủ say tít, không còn
nghĩ lại quãng đời dĩ vãng vấy bùn của vợ nữa. Thời gian cùng một tay vẽ những
vết nhăn trên trán người đời, lại đem khăn lau xoá hết những sự xấu xa ô uế
trên mặt họ, để cho ai, tới lúc chết, cũng được anh em đọc điếu văn kể công trạng
và đức tính lúc còn sống.
Mưa đổ. Gió gào. Trời lạnh buốt. Quan lớn đi bắt xóc đĩa, mãi
khuya bì bõm mới về tới dinh. Bước chân vào hiên nhà tư, quan sung sướng nghĩ tới
cái giường đệm bông, cái lồng ấp thịt, thì lại quên hết nỗi khó nhọc xông pha.
Mưa vẫn đổ. Gió vẫn gào.
Cơn dông mỗi lúc một dữ.
Bỗng một luồng gió đánh bật cánh cửa, tung ra ngoài một cái
bóng đen, xô cái bóng nhanh tít ra phía vườn, bắn nó lần vào quãng tối tăm mờ mịt.
Hồn vía chưa đến nỗi lên mây, nên quan lên còn có can đảm chạy
ngay vào trong nhà.
Buồng bà lớn còn hé mở, có ánh sáng chiếu ra. Quan vội vã đẩy
cửa vào thì chao ôi! Cơn gió bên ngoài không ngờ mạnh đến thế. Nó chui khe cửa,
làm tung cả chăn đệm trên giường, làm xổ cả tóc bà lớn, làm tốc cả áo quần bà lớn,
để lại trên tấm thân ngà ngực có một chiếc áo sơ mi.
Bên ngoài, mưa vẫn đổ. Gió vần gào.
Dầu người đần độn đến đâu cũng đoán được tấn kịch vừa xảy ra
trong buồng ấm cúng này, nữa là quan lớn “đèn trời soi xét”.
Quan chẳng còn nghĩ nỗi quần áo ướt, khuỳnh hai tay vào háng,
trừng mắt nhìn vợ.
Khác hẳn những kẻ có tội, bà điềm nhiên, lên giường quấn chăn
nằm ngủ.
Quan không sao ghìm được cơn thịnh nộ, áp lại gần chỉ ngón
tay dăn deo, rít lên:
- A, ra con này giỏi thực. Mày không coi ông ra gì. Vắng mặt
ông một tý, mày đã rước trai vào!
Bà đưa mắt nhìn ông một cách ngạo ngược, ngắt lời.
- Tiếc thay, ông biết chậm quá rồi, ông ạ. Bây giờ ông mới bắt
được thì ông ngu quá. Đã hơn nửa tháng rồi kia mà!
- Mày trêu gan ông! Ông thì cho mày vào tù?
Bà ngồi nhổm dây, nhìn chính giữa mặt ông, cười rũ rượi:
- Úi chà! Dễ nhỉ! Xin quan lớn đừng lôi đình. Khỉ lắm!
- Ông thì bắt cả nhà mày cho mà xem. Nuôi ăn cho béo để giở
quẻ.
- Ông nuôi tôi béo? Thế tôi có trả công ông không? Bên mua, bên
bán, ông có quyền gì mà hạch? Ông nên biết, cái quyền tự do của tôi, ông đã cướp
mất...
- Quyền tự do của mày? To nhỉ, ông có nhôt mày không cho mày
ra ngoài đâu mà mày báo mất tự do?
- Phải, ông chẳng đóng cửa cấm tôi đi lại, song cái thân tôi,
ông đã nhét nó vào trong bốn bức tường trát bằng giấy bạc trộn với cơm, ông có
biết không?
- Ai bảo mày đâm đầu vào?
- Thế ra ông không cám ơn tôi đã cho ông biết những khoái lạc
mãn kiếp ông cũng không biết à? Tôi đã mở đường mở lối cho ông đi, ông không biết
còn toan giở mặt. Đồ vô ơn!
- Con bé này thực không coi ai ra gì nữa!
- Tôi đã bảo ông rằng, tôi cho ông lợi dụng tôi để chóng được
thăng, ông không hiểu, thế thì tôi cũng phải lợi dụng ông. Ở đời này, ai không
thừa cơ lợi dụng là khờ.
- Gớm thật! Mày dạy ông luân lý thế phải không?
- Tôi còn dạy ông hơn nữa. Ông đừng có lôi thôi vào tôi. Này,
ngay bây giờ, tôi chạy ra trại cơ, trại lệ, ngoài phố, gõ cứa nhà từng đứa mà bảo:
Dậy mà xem, bà phủ ngủ với trai ngay bên cạnh mũi quan phủ.
- Ông cấm mày nói!
- Cấm thế nào được? Tôi chỉ bán cho ông cái phiến thịt của
tôi, chứ có bán đâu cái tự do?
Câu nói bướng bỉnh làm tắc cơn thịnh llộ của quan ông. Cái
búi tóc bí mật sau gáy, giá biết cử động, chắc cũng phải xổ ra mà ngỏng lên trời,
làm thành một cái dấu ngạc nhiên.
Bà lớn được thể nói tiếp:
- Cái sung sướng của tôi chi là cái vỏ, cũng như chiếc áo lụa
mầu này, ai biết đâu gói chặt một tấm thân nát bét. Chữ “tử tế” của ông nêu lên
cho mọi người, giá viết nó là “bắt bí”, mà đọc là “bóp nặn” thì đúng hơn. Tôi
có nói. Rồi tôi đi khắp chỗ quen thuộc, bạn bè với ông, báo với họ rằng: Mười mấy
lần, bà phủ ngủ với trai, ngay trong buồng quan phủ.
Câu sau cùng, bà thong thả dằn từng tiếng nghe chừng đã có
công hiệu. Ông thì như bị từng ấy nhát búa nện vào chỗ yếu, vội vã sấn lại, lấy
tay bịt miệng bà:
- Có khẽ chứ không?
- Việc gì phải nói khẽ? Người ta chỉ nói khẽ những điều nói dối,
những câu ân ái thôi. Chứ những lời nói thực, phũ phàng, thì việc gì phải nói
khẽ.
- Những bọn người nhà nó biết thì sao?
- Thì nó sẽ bảo ông là thằng mù, thằng ngốc.
- Nỡ nào bà để chúng nó chửi tôi?
- Tại ai? Ai giở mặt trước?
Quan ông đấu dịu:
- Trong lúc nóng nẩy, nghĩ càn, bà chấp làm gì!
- Ông đã biết lỗi rồi chứ?
- Vâng, thì biết lỗi.
- Chưa xong: ông phải chuộc lỗi mới được. Lấp mồm tôi ông phải
kiếm cái nút.
- Bằng gì nào! Bằng giấy “đỉnh” nhé?
- Không thèm?
- Bằng kim cương nhé?
- Tôi thừa rồi.
- Bằng ngọc thạch nhé?
- Tôi chẳng thiếu!
- Thế biết bằng gì bây gìờ?
- Ông không đoán ra à? Ông không nhớ chủ nhật trước, đi chơi
Hà Nội, tôi trỏ cho ông cái ô-tô “Fo” mà chê: “Vợ chồng lão phủ xoàng lắm” đấy
à? Ấy, nút mồm đấy!
- Chết chửa? Bà điên rồi sao? Mong những cái ấy đào đâu ra?
- Đào trong ruột những thằng dân của ông, chứ còn ở đâu nữa?
Ông quên rằng ô-tô của bọn các ông chẳng phải chạy bằng ét-xăng, mà chạy bằng mồ
hôi nước mắt của dân đen à. Ông ngu lắm, hèn lắm?
- Chả hèn lại thua?
Nói xong, ông toan ôm lấy bà, nhưng lại bị hất ra:
- Gớm chết? Ướt như chuột thế này. Ông có ừ không đã?
- Thì ừ chứ sao!
- Được rồi. Nhưng hôm nay tôi hãy phạt ông đã. Ông để tôi một
mình đêm nay. Thằng ranh ban nãy làm mình mệt lử ra... Chứ như ông ấy...
Nói xong, bà cầm tay quan ông dắt ra ngoài, đóng sập cửa lại.
Bà còn văng vẳng nghe quan ông hỏi câu sau cùng:
- Gượm đã. Ban nãy bà bảo mười mấy lần?
- Mười bẩy lần.
Bà trả lời liều vậy. Chứ bà còn đương tưởng tượng đến cái xe
hòm nó nhe bộ răng kền sáng nhoáng ở đằng mũi, để cười, cười ông sẽ đưa bà đến
chỗ phú quý vinh hoa hơn...
2-1934
Pha nằm trên phản nhà ngoài, một tay vắt ngang trán, một tay
cầm cái quạt mo, thỉnh thoảng đập phành phạch xuống chiếu. Anh không nực nhưng phải
phẩy luôn như thế, để đánh tiếng rằng mình vẫn còn thức.
Làm lụng quần quật suốt ngày ở ngòai đồng, Pha mệt lắm. Mọi tối, vào lúc này, anh đương đánh một giấc ngon, nhưng hôm nay vì bận rộn, nên anh có
sức để nghe ngóng và chờ đợi. Và để lo lắng nửa, vợ anh đương dở dạ đẻ.
Phải, anh không lo sao được. Ngày năm kia cái hôm vợ ở cữ, con
bé dại, Pha đã một phen chí khổ. Vì đẻ con so, nên chị đau đớn quần, quằn quại hàng mấy
giờ đồng hồ. Rồi đến khi cuốn queo,chị không chịu nổi, cứ réo mãi tên chồng lên mà
chửi, những là mày làm khổ bà. Bà trùm Sủng, một bà tắm, trong ba mươi năm nay, đã đỡ cho gần khắp người hàng tổng, hôm ấy cũng sợ mê, giục anh phải lập tức
trèo qua nóc nhà, rồi lại lội ao, từ bờ nọ sang bờ kia, tuy trời rét như cắt ruột.
Bây giờ Pha nghĩ lại việc ấy mà còn rùng mình, sợ như người
phải đi sứ.
Bởi vậy, từ lúc bà trùm đến, mỗi khi nghe tiếng bà giục vợ rặn, và chị ấy ì ặch thở như người sắp tắt hơi, anh lại thương vợ và lo cho
mình mãi vẫn vơ nghĩ bao nhiêu, Pha cảm cảnh trơ trọi bấy nhiêu.
Thực vậy, ba anh em ruột của Pha: Quấy thì chết, Quậy thì đi
làm ăn ở trên mỏ Thái Nguyên, Hòa thì cữ tháng chạp năm ngoái, sau hồi đói kém, đi bạt tận đâu đâu, chẳng nhắn tin về. Anh vẫn tưởng hắn ra ngoài tỉnh, nhờ ông
bát Hương là chú họ, vì ông này buôn bán giàu có. Nhưng không phải. Chị ruột anh, chị Sáo, nhờ trời được phong lưu, nhưng lại lấy chồng xa. Pha hơn anh em được
cái vợ có vốn đi chợ. Gánh hàng xén đang giá bộ ba chục đồng ấy, đã cung cấp cho
hai miệng đủ ăn, không phải chạy ngược chạy xuôi, và chỗ tám sào ruộng của cha
mẹ chia cho, không đến nỗi chết non chết yểu.
Nhà Pha ở vào đầu sớm Chũm, làng An Đạo, làm trong miếng đất
thiên thẹo, rộng độ mươi bước. Đất ấy của ông bà nhạc cho vợ chồng anh mới cười.Từ
khi ăn riêng, anh mới cố dúm lấy một cái nhà, thôi thì để che mưa, che nắng, đỡ
mang tiếng là có đất mà đi ở nhờ người khác.
Nhà ấy cũng như phần nhiều nhà trong làng chúng ta, nó là 2
cái mái lợp tranh, hờ hững úp trên những bức vách thấp lè tè và mỏng rinh
rính. Nó có hai gian ngoài và một gian buồng, mà đầu nhà và dưới có rãnh nước
đen đặc và nổi váng, dùng làm chỗ đun nấu. Ánh sáng đáng lẽ được đường hoàng lọt
vào trong bằng cả một khỏang rộng không gian. Song, từ sáng đến chiều thẳm, người
thì đi chợ người thì ra đồng, nên ngay từ lúc mặt trời còn lắp ló, sau bụi
tre,cái liếp dùng làm cửa phải hạ xuống. Cũng bởi lẽ ấy hai vợ chồng, chẳng ai
có lúc nào rỗi được ở nhà mà chăm non quét tước cả.
Nhà này tuy mới làm được có hai năm, nhưng thì giờ ấy cũng đủ
nhiều cho nó phải làm đúng bổn phận với chu quá lãnh đạm của nó. Cho nên đã lâu
nay, cái nhà ấy lấn cả ra ngoài cái giới hạn của công dụng.
Mái tranhđầy mạng nhện rủ lủng lẳng xuống hàng tràng, là một
chỗ hứng rất được nhiều nước mưa, và tiện thể cho chảy vào nhà tong tỏng. Từ dưới
cái mái ghẻ lỡ ấy đến mặt phản ồm yếu, là một kho to tát để giữ khư khư lấy một
thứ hơi vừa ẩm vừa hôi, một công trình trộn lẫn rất ít công phu của các thức ăn, để mặc, để dùng, để ở. Dưới gằm phản tối tăm là ací trại muỗi, chỉ chờ lúc có
người là thả đội quân du kích. Mắt nền là cái nền rât tốt, đầy xanh rêu, có điểm
từng đống mùn mọt hung hung. Dưới tầng đất là chổ ở rất bình tỉnh của những gia
đình đủ các thứ chuột to nhỏ, tha hồ mà sinh năm đẻ bảy. Và khắp cả, từ trên xuống
dưới, từ trong ra ngoài, từ phải sang trái, nhà ấy lại cà cái hủ, đặt quyền sự
nhốt vi trùng các chứng bệnh. Xung quanh hũ, ngay khi chủ hạ liếp xuống để đi vắng
đã hiện ra hàng trăm, nghìn khe và lỗ để ánh sáng vào, chẳng khác gì từng ấy
con mắt ghê gớm của các vị hung thần vay quanh tứ phía chòng chọc nhìn vào, để
canh cho một thứ giết người nào ở trong được lọt ra ngoài vậy.
Vậy mà vợ chồng Pha ở mấy năm nay, đã không tự biết là can đảm. Hơn
nửa lần nào đẻ, chị vẫn nằm trong buồng và mời bà trùm Sũng đến đở cho.
Bà trùm bước chân lên hè lúc nào, là bắt chị rặn lúc ấy. Bà vạch
cái khăn bằng the che đôi mắt đã về già để cố nhìn cho rõ, rồi bước chân vào buồng.
- Gớm, sao mà tối thế này, có cho xin cái đèn không? Nào cứ cố
lên. Trời phật đền cho thằng Cu thì tha hồ mà mừng.
Rồi cười ra ý bằng lòng, bà bảo:
- Được, buồng gái đẻ kín đáo thế này càng tốt.
Một lát ,sờ sọang chán bà lại cười hỏi:
- Ồ, thế kêu ở đâu đấy, tôi chẳng trong thấy gì cả. Có cái đèn
vào đây hay không?
Lúc ấy Pha đã châm xong cái đèn rồi. Anh cầm đèn đến cửa buồng, đặt ở ngưởng và gọi với vào trong:
- Đèn đấy, bà ơi.
Bà trùm gắt:
- Gớm, cậu hạng vừa vừa chớ, vợ đẻ chứ ai đẻ mà sợ bẩn không
dám vào.
Pha chưa kịp đáp thì vợ đã hì hạch thở, vừa gảii thích:
- Nhà tôi giữ vía lắm bà ạ.
Bà trùm dỗ dành:
- Cố lên, cố nhìêu lên, nó sắp ra rồi. Nín hơi lại mà rặn.
Ngọn đèn Hoa Kỳ khói um, theo tay răn reo của bà trùm đem
vào. Ánh lửa đỏ chiếu ra ngoài đi lệch về phía cửa.
Pha nằm lặng trên phản để nghe
Bên trong vợ anh nghiến răng lại vừa thở hổn hển vừa kêu tắng từng tiếng:
- Đau lắm bà ơi, bà có thể làm cách nào cho tôi không chết mất.
Bà tắm gắt tự nhiên:
- Lả vào mồm dại nào?
Bà pha trò:
- Sướng lắm thì khổ nhiều, ai bảo! Cố lên tí nữa thôi, nó đã
ra được cái đầu rồi.
Từ nãy, Pha trống ngực thình thình, bấy giờ thấy nhẹ bỗng ngừơi
hẳn, Anh thấy vợ thở rất mạnh, chắc là lấy hết hơi sức.
Nhưng chị bỗng quằn quại kêu:
- Khổ lắm, bà ơi, nó đã ra đâu! Tôi tắt hơi mất!
- Phải gió, lại cứ kêu. Cố lên, im mà rặn!
- Khốn nạn nào có im được đâu. Đau lắm! Mệt lắm!
Mỗi lần thấy vợ mếu máo kêu, Pha lại nhăn nhó mặt theo, tưởng
chừng như chính mìnhđau vậy. Giá có thể đau thay được, chắc anh chẳng từ. Nhưng biết
làm thế nào? Pha lắc đầu thở dài.
Bỗng bà đỡ đập tay đánh đét một cái và gắt:
-Ghê gớm muỗi! Bác Pha có cho tôi mượn cái quạt không?
Pha ngồi nhổm dậy, đứng ngoài cửa, thò tay vào liếc mắt nhìn
trộm và gọi:
- Qụat đây, bà ơi!
Chị Pha tưởng chồng xông xáo vội vàng nằm quay mặt vào vách, kéo chiếc quần che cái thân thể lõa lồ. Rồi vừa thở dốc, vừa nghiến răng, cố nói
ra tiếng, chị đuổi chồng ra quần quật:
- Đi ra, khỉ! Phỉ hổ đàn ông
Bà trùm đứng dậy càu nhàu:
- Bác ấy có vào đâu nào! Chồng chứ ai mà thẹn!
Pha sợ tái mét mặt, Anh yên trí vợ bắt đầu tức, thì chắc lại
nhớ đến việc chửi lần trước. Cho nên lúc đưa quạt cho bà Anh hỏi khẽ:
- Sao lâu thế hỡ bà?
Bà trùm ghé miệng vào tai anh nói thầm, Mùi quết trầu lại rõ
hơn tiếng nói. Song, Pha cũng hiểu là bà muốn dặn gì rồi.
Lập tức anh lẳng lặng ra sân, xuống cái chuồng nhỏ xíu trước
kia nuôi lợn. Anh víu vào cọc đóng ở cửa, cố hết sức lay, và dần dần nhổ lên đủ bốn
cái.
Làm xong anh vui vẻđi rất nhanh lên nhà,anh tin rằng như vậy
vợ anh sẽ đẻ dễ dàng, đẻ ngây bây giờ, và anh không lo nạn sang sứ nữa. Bà trùm đã
bảo anh từ hôm nọ làm phép như thế rất hiệu nghiệm.
Nhưng chị Pha cứ kêu, kêu mãi, và mỗi cơn đau nỗi lên mãnh liệt, mà chị quần quại thì bà đỡ lại mắng:
- Rặn đi, chứ cứ kêu thì bao giờ nó ra, gớm, sốt cả ruột!
Chồng thì giục cuống người ta đến, mà nào đã đẻ! Để yên ở nhà, người
ta đã ngủ được một giấc.
Mỗi lúc thấy vợ như kiệt lực, Pha lại thở dài và thất vọng, anh lo thế nào cũng phải chửi, nên vẫn phải cầm canh bằng chiếc quạt.
Nhưng một lát trong buồng im lặng. Anh lắng tai để nghe, Vợ anh
không kêu, mà bà trùm cũng không giục rặn nữa. Có lẽ hai người cũng mệt và cùng
ngủ thiếp đi.
Bỗng độ đầu trống canh ba, Pha thấy vợ rú lên gọi dồn:
- Bà ơi, bà trùm ơi! Khổ thân tôi,đau quá!
Không có tiếng trả lời, chị Pha gọi chồng:
- Nhà ơi! gọ ihộ bà trùm dậy đi, mau lên.
Pha cuống quýt nhỗm dậy gọi:
- Bà trùm, bà trùm, nhà tôi gọi bà!
Pha đón vợ sắp đẻ. Anh lo lắng hơn trước, bà trùm ú ớ thưa:
- Ơi, biết rồi! cố gắng một lúc nửa đi
Bà quạt phành phạch dăm cái rồi ngồi dậy.
- Nó đương ra bà ơi, bà đỡ nó cho tôi
- Ờ, tôi đây.
Chị Pha rặn, cố nhín hơi để rặn. Pha hồi hộp, một lát tiếng
nhoe nhoe đưa ra. Pha mừng rỡ lại hồn.
- Ồ, thằng Cu
Pha sung sướng quá. Sướng cuống cả lên. Thế là vợ anh qua cơn vượt
cạn. Mà trời cho đứa con trai. Thôi thế cũng bỏ cái công vợ chồng ăn ở hiền lành.
Đứa bé vẫn nhoe nhoe khóc. Bà trùm tắm cho nó. Tiếng nước dội
róc rách. Nó càng khóc. Bà trùm làm gì một lát, rồi bảo:
Một lát nửa bà bảo:
- Thôi tôi về.
Chị Pha ể oải nói: -
- Bà ngủ chơi đằng này, khuya rồi, về làm gi.
-Thôi chả ngủ đây, mai mất buổi chợ.
Bà nói đoạn ánh đỏ trong buồng chiếu ra nhà ngoài, bà trùm cầm đèn
buớc ra cửa buồng, chào:
- Bác gái nằm chơi.
Pha đứng dậy đưa gậy cho bà và đỡ lấy cây đèn. Anh dắt bà xuống
sân. Bà trùm vạch đôi con mắt chỉ còn lòng đen bạc phếch để nhìn Pha, rồi nói thầm:
- Cũng may đây, không có thì đến đêm. Thôi, thong thả, bác trai
chơi nhé.
- Để tôi đưa bà về.
- Giỡn bác, sáng trăng như ban ngày đây mà.
Pha dặn:
- Mai bác đến sớm tắm cho cháu
- Ừ, à này, nhớ mua nước giãi cho bu nó uống nhé. Chả thuốc
nào bằng, tôi nghiện đấy ngày nào đi chợ về cũng một bát.
Pha đặt đèn trên hè, dắt bà trùm Sủng đi. Tuy vậy bà vẫn sờ lối
bằng gậy, vì chẳng trông rõ gì. Đường trong làng bà chỉ thuộc lòng mà thôi.
Bà trùm qua vạt nước kê cạnh cây cau, thì dừng lại, bà múc một
gáo để uống và sung sướng kêu lên.
- Mát ruột!
Bà đổ chỗ nước còn thừa vào chum, rồi lại sờ soạng đi.
Pha nâng cổng lên để bà qua, rồi chào:
- Bà về.
- Phải, không dám, bác chơi.
Đàn chó bắt đầu làm náo động cả xóm Chũm.
Bừng mắt ra, Pha ngồi nhổm dậy, Tuy ít ngủ, nhưng anh tỉnh
táo lắm, Anh lắng tai nghe tiếng vợ thở đều đều, bèn khẽ ra nâng hé cái liếp để
đi lại nhà bếp.
Trời xanh ngắt, Vừng đồng đã đỏ ửng, nhưng ánh nắng chưa láng
đến tận sân. Gió hiu hiu làm xào xạc bụi tre, bỏ rơi những chiếc khô bay tơi tả.
Đứng một nơi râm mát và nghĩ đến vợ đẻ con trai. Pha sung sướng, khoan khoái lạ. Anh đã lẩn quẩn mãi đêm qua về nghĩ đặt tên con, và định hôm
nay trước khi ra đồng cấy nốt cho bà trưởng Bạt, anh rẽ vào nhà thơ ký, nhờ ông ấy
vào sổ sai sinh cho.
Bỗng một con gà mái đi kiếm mồi từ sau nhà ra sân trước, làm
anh chú ý. Tự nhiên anh nghĩ đến cách sinh nhai vất vả của vợ. Mấy hôm trước chị
vẫn tỏ ý tiếc mấy buổi chợ khi phải nằm một xó.
Con gà lò dò đến gốc cau, bớt đất rỉa sâu, rồi ngẩn cổ lên
nhìn, và nhún một cái, nó nhảy đứng bám vào thành vại.
Pha sợ bẩn nước giơ tay ra đuổi. Con vật hoảng dang rộng hai
cánh, nhảy xuống. Bất đồ con chó mực xồ ra theo đuổi. Con gà cuốn queo, vỗ cánh
bay đành đạch, và cục cục kêu. Chó vồ theo. Gà quang quác chạy. Và hai con đuổi
nhau sang vườn bên cạnh.
Pha chắc tiếng động này làm vợ thức giấc. Anh không thổi cơm vội, hãy đứng ở gốc nhà xem tình hình. Thì quả nhiên, chị đã ló cái mặt xanh nhợt
ra ngoài cánh liếp
- Gớm, gọi mãi mà chả thưa!
Người đàn bà ấy có dáng rất mệt nhọc, và vì mới đẻ, nên lại
như gầy thêm. Chị tùm hum cái khăn vuông, mặc áo nâu dài và lận đôi dép một. Người ta bảo phụ nữ thuộc về phái đẹp. Song sự thực, với chị Pha hiện giờ, cậu
ấy hòan tòan có nghĩa mĩa mai.
Pha nhìn bộ dạng ốm yếu, chán nản của vợ thì thương hại. Anh
nói:
- Tôi thổi cơm cho bu nó ăn, rồi đến đĩ Dự báo tin và xin
cành cau, mang lại nhà ông Ký Chỉnh nhờ khai sinh cho thằng cu mới được.
- Thôi, phiền lắm.
- Đĩ Dự với tôi thì hắn tiếc cái gì.
Pha chắc chắn như vậy, vì Dự là em vợ, và hai anh em vốn thân
với nhau. Nhưng vợ anh lại nói:
- Đi đâu mà vội. Trẻ con mà cứ chụp ảnh là một, khai sinh là
hai, là chúa đội đấy.
- Pha cười:
- Vẽ! Con bé dại trước thì ai khai sinh cho nó.
- Đọan anh vui vẻ mở rộng liếp ra và cùng vợ ngồi trên phản
bàn việc:
- Này, bu nó ạ. Tôi định đặt tên cho thằng cu là Trộn. Bu nó
bảo thế nào?
Chị nhăn mặt, lắc đầu:
- Không gọi thế, tên xấu lắm. Hôm nào đến nhờ ông làng Sáng đặt
tên cho nó.
- Ồ, chả, chữ nghĩa gì, giỏ nhà ai quai nhà ấy, không cần, Quấy, Quậy, Hòa, Sáo, Pha! Thì tên thằng cu là Trộn, thế phải.
- Nhưng các bác có đặt tên cho lũ cháu thế đâu!
- Thì con bác Quậy chả là Sỏi, là Sành là gì
Vợ chồng đương dỡ câu chuyện, bỗng bên hàng xóm, có tiếng the
thé của bác Trương Thi gái mắng con:
- Thằng Yển hư thật, mày có tìm xem nó đâu không, ban sáng nó
vừa lảng vảng đây mà.
Bác trương trai ồ ồ nói:
- Tao thấy nó chui qua hàng rào bác Pha đấy
Bác trương gái lại the thé:
- Thế thì sang mà tìm, thấy đứa nào ăn cắp, đem mà đào mả bố
nó lên!
Pha bị nói cạnh, bỗng nảy ra ý kiến:
- Bu nó ơi, phải rồi.
Rồi anh nói thầm, chị Pha cau mặt gắt:
- Cái gì nói to lên nào!
- Tôi nghĩ ra tên thằng cu rồi.
- Tên là gì?
- Để tôi bàn với cậu Dự rồi mai hãy khai sinh. Mai tôi bảo:
Chị Pha càu nhàu:
- Lại còn mai với chả kia. Thế nói bây giờ làm sao?
Pha vui vẻ, bảo vợ:
- Đặt tên nó là Bạch
- Sao là Bạch?
- Thì nhé, trương Thi nó đặt tên con nó là Yểng, tội gì
mình không gọi tên mình là Bạch.
Vợ Pha tươi tỉnh, thân mật nói khẽ:
- Thế tên bố nó là Bạch à?
Pha vênh váo đáp:
- Ừ!
- Ừ, chỗ hàng xóm với nhau, mà nó đi lấy tên bố mình đặt cho
con nó thì tội gì mình không báo thù? Không đặt thế làng nước lại bảo mình lép.
Hai vợ chồng đồng ý với nhau. Nhưng trong buồng thằng bé con
khóc, làm cho tắt câu chuyện đương nồng nàn.
- Ồ, gớm, khỏe chửa ,đã ra ngoài đấy à.
Pha nhìn ra ngỏ, thấy bà trùm Sủng đương chống gậy đi đến ,và
theo sau là bác San gái, con dâu bà. Bà trùm nói:
- Chứ ly người ta yếu như mày ấy. Mẹ Mới nó đẻ xong, nó lội
xuống ao ăn trộm liền, để sáng hôm sau đem ra chợ bán.
Pha chạy ra đón hai người. Bà trùm bảo:
- Hôm nay tôi nghĩ buổi chợ. Độ này cũng ế hàng.
Bác San dừng lại giơ roi đánh chó, và nói:
- Tôi thấy bà tôi nói bác gái ở cữ nên sang thăm đây.
- Tạ ơn bác.
- Thế bác gái ở cữ thằng cu hay cái đĩ?
Tuy Pha cho câu trả lời là thừa nhưng cũng đáp cho phải phép:
- Thằng cu bác ạ.
Bác San chẳng ngạc nhiên và cũng chẳng mừng hơn tí nào ,tuy vậy
bác cũng:
- Ồ, thế à! Thế bác gái nằm đâu?
Pha cho câu đáp mình là vô ích, vì bác San vừa thấy vợ mình
vào buồng:
- Bu cháu nằm trong kia bác ạ.
Bà trùm chồng gậy, cố dướn mình bước lên thềm nhà rồi quay bảo
con dâu:
- Chốc nửa về, mầy nhớ xin bác ấy nắm lá dành dành nhé. Tối
qua tao thức khuya, mắt lại kệnh lên rồi.
Bác San không đáp, vẫn thân mật với Pha:
Pha cảm động đáp;
- Bác lại cứ cho! Bà tắm cho cháu, tôi chửa có gì cho lại, thế mà…
Bà trùm quay lại nói
- Nhà nó biếu bác, bác cứ nhận đi cho nó được không. Ngày trước
nhà bác ở cữ thằng cu Chắt, bác gái cho những năm quả trứng gà kia mà!
Pha từ chối cho phải phép, tuy vẫn bíêt mình có quyền nhận đồ
biếu trả nợ. Anh chẳng ngần ngại lâu, giơ tay cầm lấy xâu trứng cáy và mời khách
ngồi chơi ở quán. Vợ anh bế con ra. Bác sau đỡ lấy thằng bé, nhìn mặt nó hôn
hít nó
Một lát Pha đứng dậy nói
- Mời mấy bác ngồi chơi, tôi đi đằng này có tí việc
Bà trùm, cơ chừng vì thông minh hay hoặc vì lịch duyệt, đoán ngay chủ nhân định đi làm cái gì, vội vàng gạt:
- Đi đâu? đừng làm cơm nước gì đấy, chúng tôi ăn cả rồi.
Chị Pha nhếch mép cười:
- Không phải chúng cháu định đến ngày đầy cữ,mới mổ con gà, trước là cúng mụ, sau là mới bà mời bác đến uống rượu.
Bà trùm chữa then cười, ha hả:
- Ừ, bây giờ có gà cứ nuôi cho béo đi.
Pha nói cho lạc câu chuyện:
- Tôi đi khai sinh cho thằng cu đây
Vốn quen sống giản dị, bà trùm trịnh trọng mắng một cách thân
mật:
- Thôi đừng vẽ. Lên năm, lên muời, nhờ trời chúng sống, lúc
nào khai chẳng được.
- Thưa bác Tân cháu phải phép nhà nước bây giờ như thế, không
có bố mẹ phải phạt.
- Thôi đi phép vua thua lẹ làng. Tục ở đây không có khai
sinh như thế. Lúc nào người ta phạt cứ bảo ông già bà cả ở làng này ngày xưa có
khai sinh bao giờ, sao vẫn sống lâu bảy, tám mươi cả.
Bác San hỏi:
- Thế hai bác đặt tên cháu chưa?
- Rồi.
- Vẫn giọng thân mật, bà trùm mắng:
- Gớm tên tuổi làm gì cho sớm. Cứ thằng cu mà gọi.
Chị Pha ngồi vững lại vì chị cần phải kể lể:
- Bà với bác tính thế thì ai nhịn được. Bên ấy hắn đặt tên cho
thằng bé trùng tên với ông cháu, thì tôi tội gì không lấy ngay tên bố hắn đặt
cho con tôi, để tôi réo cho sướng cái mồm.
Bà trùm làm như cũng giận lắm, hỏi dồn để thỏa chí tò mò:
- Ai?
Chị Pha trỏ sang bên nhà trương Thi:
- Lại còn ai!
- Thế bác định đặt thằng cu là Bạch à?
- Ừ.
Bác San can:
- Thôi người ta không bíết, bác sang bảo người ta một tiếng, để người ta đổi tên đi, chứ hàng sớm láng giền với nhau mà!
Chị Pha vạch xuống chiếu, tức tối nói:
- Tôi nói dối tôi chết, còn bao nhiêu cái uất ức, tôi chịu nhịn
bảy tám tháng nay, nó làm như bắt nạt tôi không bằng ấy.
Bác San vẫn can:
- Thôi máu non đừng nghĩ ngợi
Ba trùm hất tất cả cái mặt đanh đá vào con dâu, thưỡi môi ra
mắng:
- Câm mồn đi, chứ ly như vợ chồng nhà mày ấy.
Bác San lườm cãi:
- Bà bảo vợ chồng nhà tôi làm sao?
Bà trùm quai mồm ra
- Thôi, già này xin! Mẹ kiếp! Bà chả thấy chúng nó làm gì
cũng phải câm họng! Bà thì bà chửi cho ủng mồ ông tam đại tứ đại chứ bà lại chịu
à!
Bác San sừng sộ toan cãi nữa, nhưng chị Pha can:
- Thôi xin bà, xin bác, để đến bận khác. Bà tính tôi làm như
thế có phải không?
Bà trùm khen:
- Phải ăn miếng trả miếng, chứ cứ chịu nước lép thì có họa…
Chả có thì kiện nhau đếm tam phủ, tứ phủ chứ chắc đã làm gì
nhau tốt.
Nói đọan bà trùm lấy nước tắm cho thằng Bạch rồi vẫn tức con
dâu, bà mát mẻ “chào hai bác” rồi về trước. Bác San bế thằng bé, vạch vú cho
nó bú, rồi khi thấy mẹ chồng ra khỏi cổng, bác bảo:
- Tôi ghét cái lối bà ấy cứ đem chuyện nhà nọ đi nhà kia nói. Ấy rồi thế nào nội ngày hôm nay, bên bác trương cũng biết chuyện này cho mà
xem. Ở trong làng trong nước, nhất là hàng sớm láng giềng, ta nên chín bỏ làm mười, chứ không thì thù hận nhau đời đời.
Dứt câu nói, đôi bạn đã nghe tiếng bà trùm léo xéo bên nhà
trương Thi, và chỉ độ mươi phút sau, ngay bên hàng rào, cạnh vách, tiếng the
thé của vợ trương Thi, đã nổi lên để bình một bài văn bất hủ:
- Làng trên sớm dưới! Bên sau phía trước! Bên ngựoc bên xuôi! Tôi có con gà mái xám nó sắp ghẹ ổ, nó lạc ban sáng, mà thằng nào con nào ở gần
đây mà qua, đứa ở xa mà lại, nó day tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của
tôi, thì buông tha nó ra, không thì tôi chửi cho đới!
Chém cha đứa bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua bà cho nó ăn hãy
còn, sáng hôm nay, con bà gọi hãy còn, mà bây giờ mày đã bắt mất. Mày muốn sống
mà ở với chồng với con mày,thì mày buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào thằng tam đại tứ đại nhà mày lên, bà
khai quật san bằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà, nó về
nhà mày nó biến thành cú thành cáo, thành thần nanh đò mỏ, nó mổ chồng mổ con, mổ cái nhà mày cho mà xem. Ớ cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà
giết gà nhà bà, thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn
chết ba, mày xuống âm phủ mày bị quỷ sứ thần linh rút ruột ra, ớ cái thằng chết
đâm, cái con chết xỉa kia ạ!
Chị Pha câm tức như chính chị bị chửi. Chị run lên, nghiến
răng, xỉa xói bảo bác San:
- Đấy, bác xem, ai mà nhịn được?
Chị Pha bôi thêm tí nghệ vào mặt và chân tay, rồi sắp quang
gánh, hạ cửa liếp để đi chợ.
Nằm ở nhà mấy hôm, chỉ tiêu mà không kiếm ra đồng nào, chị sốt
cả ruột. Nhiều lúc vật tay xuống chiếu, chị thở mạnh ra những tiếng rên rất nảo
nùng thảm thiết.
Bởi vậy, để được yên tâm lo việc sinh nhai, chị đã nói với bà
trưởng Bạt cho cái Bống cháu bà nó bế hộ thằng Bạch, thì chị xóa công làm của
chồng chị cấy cho bà mấy hôm nay mà bà còn chịu.
Bà trưởng bằng lòng ngay, vì cái Bống năm nay đã lên tám, bố
mẹ chết cả rồi, nó ở nhà chơi cũng thế, phải tập làm đi thì vừa. Hễ thằng Bạch
nó khóc, đã có bác tư Dậu, con dâu bà, cho nó bú chực. Khi trừ xong nợ, chị
Pha hứa trả cho cái Bống mỗi ngày một xu.
Chồng chị chẳng nghỉ làm buổi nào cả. Cấy xong cho bà trưởng, anh định cấy đến ruộng nhà. Con nhà nông, trời cho sẵn bộ xương đồng da sắt để
chống nắng với mưa. Ngày hè thiêu đốt, cũng như ngày đông tê tái, quanh năm anh
phải lợi dụnh hai cánh tay nổi bắp, để đở mang tiếng con trai nhờ vợ, để được
ăn ở lương thiện, và để mong đóng góp với làng cho người ta khỏi khinh.
Bởi thế cũng như phần nhiều dân quê, sự biết của anh rất hẹp, sự nghĩ của anh rất gần. Nó hẹp, nó gần trong vòng lũy tre quây quanh làng. Xa
hơn nữa, là cánh đồng đời đời phẳng lặng. Cuộc sinh họat mộc mạc làm anh bằng
lòng sống hiền lành yên phận, không ước muốn cao xa phiền phức, sống như ông
cha anh đã sống từ trước, như phần đông người làng hiện đương sống bây giờ.
Mục đích cuộc đời chị Pha cũng không có gì khó hiểu. Nó theo
nếp những người khác, là lấy chồng để nương tựa, buôn bán để có việc và đẻ con
để nuôi.
Chị Pha đặt gánh lên vai. Thấy nặng, chị biết chị vẫn còn yếu. Nhưng mặt trời đã lên cao, rọi những tia chói lọi qua khe đám lá cây. Chị nghĩ
đến chồng lúc này ở ngoài ruộng. Chị được sung sướng nhàn hạ hơn, vì khi nắng
khi mưa, lúc nào cũng ngồi dưới mái lều. Chị bước rảo cẳng theo đà của hai chiếc
bồ rún lên rún xuống.
- Này, chị Pha tôi nói cho mà biết, có về bảo anh ấy đổi tên
cho thằng bé, không có chẳng ra gì với tôi đâu.
Chị Pha đứng dừng lại, đặt phịch gánh xuống đất. Chị hung
hăng nhìn vơ trương Thi, mặt nóng bừng bừng. Nhưng chưa nói chị đã thấy run lên, đầu chóang váng, và mệt rốc hẳn người. Định thần một lát, chị mới đáp:
Ừ đấy, cứ đặt thế đấy, nghĩ là sinh sự thì sinh sự, chứ bụt
trên tòa gà nào dám mổ mắt.
Trương Thi chạy ra, tay cầm thanh củi nói:
- Phải, muốn sinh sự sự sinh thì rồi xem
Chị Pha nghẹn hơi đến cổ, song biết thế không làm gì nổi. Nhưng không lẽ chịu nước lép, chị giở giọng chua ngoa:
- Nhà tôi không chứa nổi thổ đổ hồ, chồng tôi không ăn trộm
ăn cướp, tôi không theo trai đánh đĩ không buôn lậu bán vụng, mười đời nhà đứa
nào cũng không làm gì nổi tôi tốt!
Trương Thi bị chạm nọc, cười gằn trỏ vào mặt chị Pha, dọa:
- Ừ, mày xem tao có làm gì nổi mày không.
Chị Pha căm giận toan cũng mày tao, và chửi nhau một trận đáo
để, nhưng bên địch đã kéo nhau vào nhà
Sao hàng rào, bà trưởng Bạt, đứng lấp ló nhìn qua lớp lá dâm
bụt can:
- Thôi mà, chị Pha, một câu nhịn chín câu lành
Chị Pha uất lên, chùi nước mắt đáp:
- Đấy, bà tính xem ai sinh sự trước.
- Thôi, đi chợ đi, trưa rồi
Vẫn còn hậm hực, chị Pha cất gánh lên vai. Chị tiếc sao lúc
nãy không cứ xông vào xé con mẹ ấy một mẻ. Nhưng chị tự an ủi :ở đời bao giờ hiền
cũng gặp lành mà những kẻ gian ngoan tai quái như trương Thi, tự khắc đã có trời
biết mà trị tội. Hạng ấy dứt khoát không thể giữ của bền được. Trương Thi là một
tay chơi có tiếng ở làng An Đạo. Cứ một vết sẹo dài chéo trên tráng hắn cũng đủ
tố cáo hắn sinh nhai bằng nghề gì. Ở tù ra hắn không ăn trộm cướp nửa, những hắn
lại nấu rượu lậu. Việc ấy, cả làng biết đấy, nhưng chưa lần nào hắn bị bắt. Nhà
Đoan ở cách làng có 6 cây số, cả Tây lẫn Việt Nam về sục sạo nhà hắn luôn, nhưng lần nào hắn cũng tẩu thoát được hết tang vật. Mà một khi người ta đã
quay gót trở ra khỏi làng, hắn lại công nhiên nhóm bếp nấu một mẻ rượu lớn.
Cả làng ai cũng kiêng hắn, vì người ta không muốn day dưa với
con người ngông ngược. Hắn tưởng thế là giỏi, càng chẳng sợ, chẳng nể ai. Ông
lý trưởng, ông chánh hội, cho đến cả quan Nghị hách dịch là thế, mà hắn cũng chẳng
coi vào đâu.
Chị Pha càng nghẫm nghĩ càng căm hờn. Chị không hiểu sao những
người thù nhau với hắn, không nghe ngóng đích xác lúc nào hắn làm việc phi pháp, lập tức đi với Đoan về. Chỉ cách ấy mới làm con người nham hiểm phải tuyệt
nghiệp, tù tội. Mà vùng này mới được yên ổn làm ăn, thỉnh thoảng đở thấy bóng những
người mặc áo vàng, xồng xộc vào làng, để họ nhũng nhiễu, có khi không khám được
rượu lậu, họ đâm cả vào nàh người ta ghẹo gái.
Đến chợ chị Pha chui vào lều, lấy nón quạt một lát, rồi vởi
đôi bồ hàng ra bầy. Người quen kẻ thuộc ai thấy chị vắng mấy buổi, và nay bụng
chị bé đi cũng biết là chị ở cữ. Với những người hỏi thăm, chị kể rành rọt cả
cho nghe câu chuyện bực mình vừa rồi. Nói được như thế chị mới hả.
Chẳng mấy chốc, những hộp gỗ vuông có lòng kính trên mặt đã
bày la liệt trước chị, trên chiếc vỉ buồm rộng bằng cói trải xuống đất. Thực là
một cuộc triển lãm về công nghệ quốc tế: khuy, phấn, pin, gim, ví, xà phòng con
mèo, thuốc lá, lưu hòang, thuốc lậu Từ Ngọc Liên, cỗ bài, dầu cô ba, truyện, vân
vân. Trên xà rũ xuống những áo tích cô, khăn mặt bông, pít tất và giải rút.
Chị Pha ngồi trên chiếc ghế thấp thỉnh thoảng mỡ hộp trầu ra
lấy một miếng để nhai cho đỡ buồn, và luôn luôn mời chào người qua kẻ lại.
Nắng như quăng lửa. Càng về trưa chợ càng đông. Mùi người trộn
lẫn với mùi cá, mùi thịt, theo bụi bậm xông lên.
Chị Pha thấy đói bụng mỡ gói, lấy cơm nắm ra, chấm với trứng
cáy.
Bỗng vợ đĩ Dự hớt ha hớt hải chạy đến bảo:
- Chị về nàh xem anh ấy làm sao kia kìa!
- Chị Pha giật mình hỏi:
- Nhà Tôi làm sao hở mợ?
- Ai biết được, thấy người ta túm đông túm đỏ ở sân đình ây.
Chị Pha vội vàng bỏ cả ăn lẫn hàng, nhờ em dâu trông hộ, tức
tốc về. Chị cắm cổ chạy quên cả mệt. Chị cố đoán mà không sao biết được việc gì.
Đến đầu làng chị thấy đám đông đi về phía cổng đồng. Vì không
gặp ai để hỏi nên chị cứ chạy theo, nhịn thở, nhăn mặt, ôm bụng mà chạy cho kịp. Gần đến nơi chị mới gặp một người mách:
- Có ruộng chôn ở ruộng anh ấy.
Tin sét đánh làm chị rụng rời tay chân. Chị hiểu ngay. Chị thấy
chồng đầu không nón, mình không áo, mà mình nắng chang chang thì thương hại quá. Pha phải trói giật cánh khủyu, đầu dây chảo có người tuần cầm. Người tay đoan
mặt đỏ, vẫn như mọi bận, đội mũ vải vàng rộng bìa, mặc áo sơ mi nịt và quần cụt, chống
cái ba toong thật to... Đi với người tây có hai người lính áo vàng, nón vàng, giẫm
chân không, nhưng có vẻ oai vệ lắm. Sau bọn nhà Đoan thì Lý Trưởng, chánh hội, phó lý, khán thủ, hai người tuần và đến trăm người kéo nhau đi xem. Những người
này đều nhìn Pha bằng đôi mắt ghê tỡm, khinh bỉ. Tự nhiên họ ghét bỏ một người bất
lương ,hành động trái pháp luật như kẻ cướp,kẻ trộm vậy.
Nguyên nha thương chính trên huyện được báo tin có rượu lậu
chôn ở đông An Đạo, nên phái người về. Người nhà Đoan đến làng, gọi lý trưởng
ra ruộng để nhận thực, và tìm bắt chủ ruộng là Nguyễn Văn Pha. Lý trưởng tuân lệnh, phán khán thủ và một tên tuần đến ruộng bà trưởng Bạt.
Pha đương cấy, thấy tự nhiên có người vồ lấy mình và trói, anh
sợ hãi chẳng hiểu việc gì, ngơ ngác hỏi. Nhưng không ai trả lời cả. Họ thít rõ
chặt, giòng anh về nhà.
Trong khi ấy lính đoàn vào nhà Pha, lấy thuốn sắt nhọn chọc
chẳng còn thiếu chỗ nào, trong nhà, ngoài bếp đống tro, đống quần áo, chỉnh
tương, mặc kệ.
Lục lọi không thấy gì mọi người trở ra,thì vừa lúc tuần giải
Pha đến. Biết rằng bị khám rượu lậu và chắc nhà Đoan lầm. Anh nói:
- Thưa các quan tên con là Nguyễn Văn Pha đấy ạ
- Phải rồi ruộng mày có chôn rượu lậu
Pha tái mét mặt nhìn sang nhà truong Thi, thấy người đứng lố
nhố dòm sang rào. Anh hiểu ngay vì đâu rượu lại bò đến ruộng Anh. Anh biết tội
này là quan trọng và đành chịu chứ không thể cãi oan được.
Nhưng muốn anh phục nhà nước không bắt lầm ai bao giờ, người
ta gảii anh ra đồng để được nhìn bằng hai mắt chính ruộng anh có rượu và ký nhận
vào biên bản.
Chị Pha thấy chồng oan uổng, vội chay đến trước mặt người tây
đoan, chắp hai tay vái lấy vái để và khóc lóc, nói:
- Lạy quan lớn quan tha cho chồng con, chồng con không biết nấu
rượu bao giờ. Chẳng qua người ta thù.
- Người tây trợn mắt giơ ba toang lên dọa. Hàng trăm người chạy
ồ như vịt, ngã cả lên nhau. Nhưng không có gì cản nổi người đàn bà ngu xuẩn và liều lĩnh, tuy mặt người ấy nhợt nhạt vì mệt, vì sợ.
- Lạy quan lớn, chồng con vẫn lương thiện không dám làm những
chuyện phạm pháp. Đây, có mặt các cụ lý, cụ chánh, quan lớn hỏi ngay thì rõ.
- Lý trưởng quắc mắt.
- Ơ hay cái chị này, việc gì đến tôi chỗ ấy. Tôi không biết
đâu. Bước! Quan lớn đánh cho bây giờ.
- Người tây đoan thản nhiên đánh diêm hút thuốc lá và chữa
cái quai mũ. Chị Pha vẫn khóc lóc và nói lải nhải:
- Nó thù nó chôn rượu và ruộng nhà tôi
- Rồi cảm động quá chị nức to lên:
- Ai làm thế nào mà canh ruộng ở ngoài đồng được, hỡi trời! Khốn
nạn thân tôi quá trời ơi.
- Người tính đoan xua tay đuổi.
- Đi lên Hà Nội mà lý sự, đây không biết. Rồi tù mất nhà, mất
ruộng
- Thấy chị Pha khóc một cách lố bịch, người tây đoan nhăn răng
ra cười. Hình như hắn đã chai mắt chai tai về hàng nghìn hàng vạn tấn kịch có
tiếng khóc lóc thắm thiết như thế.
- Thấy tiếng kêu vang của mình vô công hiệu, chị Pha quay lại
nói với Lý trưởng bà chánh hội:
- Lạy các cụ, các cụ làm phúc nói với quan hộ cho thật là
oan nhà cháu quá. Có người đáng bắt thì các quan không bắt.
- Người lính đoan quắc mắt:
- Im mồm!
- Chị Pha tức quá không chịu được bèn nói liền:
- Các ông làm việc vô lý, chỉ bắt ức người ta thôi. Ruông ở
tận ngoài đồng, chả lẻ ra đấy mà ngồi canh suốt đời ờ?
- Mặc kệ. Lên Hà Nội mà kêu.
- Từ nảy Pha không van lạy gì. Anh cũng phản nhiên như người
tay đoan, vì anh coi việc phải trói và giải đi, rồi phải tù, mất nhà, mất ruộng
chăn nửa là một việc dĩ nhiên.
- Ở gần nhà đoan từ thưở nhỏ, làm gì anh chẳng thấy được mắt
thấy tai nghe biết bao nhiêu việc như việc này.
- Bởi vậy, tuy thương vợ còn yếu đuối, anh chỉ lẳng lặng mà
chịu tội, còn hơn là cữơng, là kêu, lỡ bị tát, đá đánh, thụi, lại thêm khổ vào
thân nữa chứ ích gì.
- Pha theo người ta dẫn đến cánh Mả Giơi có ruộng mình có người
lính đoan thứ ba nữa đang đứng đợi và ý chừng để canh tan vật.
- Bỗng chị Pha chạy vòng lên trước như có việc gì lạ vậy. Rồi
tự nhiên chị quay lại, mừng rỡ, cuống quýt, chấp tay lạy người tay đoan và nói:
- Lạy quan lớn, ruông này không phải của nhà con. Cả ngần ấy
mắt trố lên. Ai nấy ngạc nhiên hết sức. Pha cô nhìn, thì bỗng nhẹ hẵng người, như được sống lại
- Chị Pha cười khanh khách nói:
- Bẫm đấy là ruộng của quan nghị lại ạ.
- Mọi người tưng bừng ngơ ngác nhìn nhau, ra ý sợ hãi. Pha
tươi tỉnh trỏ ruộng bên cạnh, nói:
- Ruộng nhà con đây chứ không phải ruộng ấy
- Người ta đoan hất hàm, hỏi lý trưởng. Lý trưởng và chánh hội
đồng thời đáp:
- Bẩm ruộng này của tên phạm lại thật ạ
- Người ta nhúng vai, giơ ngang hai cánh tay:
- May quá! Pha lại lương thiện như thường
Dinh cơ Nghị Lại ở đúng giữa làng An Đạo. Song, sự thực, làng
An Đạo với dinh cơ ông là hai thế giới tách biệt hẳn nhau.
Đó là một khu đất rộng ước hai mẫu, bốn mặt tường cao ba thước
tây xây gần kín khắp, trừ nhà cụ Ánh ở oái oăm vào một góc. Những mảnh chai
sáng nhoáng, tua tủa cắm thẳng trên tường, như lưỡi lê của đội quân canh đứng đều
răm rắp. Giữa dãy tường theo đường cái, nổi lên cái cổng cực lớn, có chòi canh,
nhưng họa hoằn hai cánh mới có dịp mở. Thường thường, người ta vẫn ra vào bằng
cái cửa tò vò bên cạnh, rộng độ năm mươi phân tây, nhưng cả ngày đóng im ỉm.
Nghị Lại giàu có một cách hỗn láo. Tiền, thóc, ruộng, nhà của
người khác lọt vào tay ông dễ dàng như trở bàn tay.
Với ông, sự học vấn không làm gì. Thưở bé, ông coi sách vở là
kẻ thù số một. Bây giờ ông vẫn còn khoe một việc năm ông mới mười lăm tuổi. Hồi
ấy ông học ở lớp tư. Một hôm không thuộc bài, ông bị thầy giáo mắng nhiếc. Lập
tức, ông đứng phắt dậy, cắp sách ra khỏi nhà trường. Và từ đó, dù cha mẹ khuyên
dỗ, mắng chửi thế nào, ông cũng không trở lại cái ngục thất nó chiếm đoạt hết cả
tự do của tuổi sung sướng của ông nữa.
Rồi năm sau, khôn hơn, ông mới nhận ra rằng tự thuở nhỏ, ông
vẫn bị giam hãm trong cái ngục thất nghiệt ngã hơn nhà trường, là gia đình, mà
những người coi ngục còn nghiêm khắc bằng mấy mươi thầy giáo. Ông bèn tìm dịp
thoát ly. Một tối, ông lấy cắp năm trăm bạc, theo một người bạn hơn tuổi, lên
Hà Nội, hai anh em tập cách ờ xã hội.
Vì ở xã hội sớm thế, nên ông sớm học được đủ các ngón, mà
ngón nào cũng tinh. Ông lấy làm hãnh diện rằng mới mười sáu tuổi đã giỏi trống
cô đầu, mới mười bảy tuổi đã hút nổi hai mươi điếu thuốc phiện một lúc, và mới
mười tám tuổi, đã có vô số nhân tình Hà Thành.
Ông chỉ chửi lại cha mẹ có hai lượt vì ngày xưa, ông ở nhà rất
ít để phụng dưỡng song thân. Và nếu năm mười chín, không, đã mang điếu thuốc điếu
sái, lâm vào cảnh túng bẫn, thiếu ăn thiếu tiêu, ông đã chẳng trở về với gia
đình, và đã thực hành được câu thề không đời nào chịu gọi vợ chồng thằng chánh
Hòe là bố mẹ. Chỉ vì nghĩ ngợi rõ kỹ lưỡng một đêm đói thuốc, ông mới tỉnh ngộ
rằng ông đã dại mà không hưởng quyền làm con của một nhà giàu có hàng vạn.
Ông chánh Hòe thấy con về thì mừng, cho là đã biết hối, bèn dỗ
dành cho con nên tu chí làm ăn, và cưới cho con người vợ. Một cô vợ đẹp, một ả
phù dung, là hai cái dây chắc chắn nó ràng buộc ông với nơi chôn rau cắt rốn.
Hai cụ liền huấn luyện cho ông cái phương pháp làm giàu. Và từ khi đứng chủ cơ
nghiệp này, ông mới phục ông còn giỏi bằng mấy song thân ngày trước.
Nguyên khi ông bà chánh mất đi, thì dinh cơ mới rộng độ tám
sào, mà ruộng vườn tất cả ngót trăm mẫu. Thế mà thấm thoắt trong mười năm trời,
tường quanh nhà xây gần kín hết, mà ruộng nọ để ra ruộng kia, đến tháng này,
ông có vừa đúng bốn trăm mẫu.
Bây giờ ông chỉ nằm khểnh, hút cho sướng cái tuổi năm mươi,
thỉnh thoảng có dịp thì lại làm giàu chơi, chứ ông cũng lấy làm mãn nguyện lắm
rồi.
Bọn hương lý đưa người nhà Đoan đến cổng lớn nhà Nghị Lại. Lý
trưởng giơ tay giật dây chuông, thì đồng thời đàn chó cũng cắn dậy lên. Một
lát, trên chòi có người nhìn xuống:
- Ai hỏi gì?
- Vào bẩm với quan rằng có quan Đoan đến nhé.
Năm phút sau phía trong cổng có tiếng tháo gióng gỗ và mở
khóa. Hai cánh cửa theo hai bánh gỗ lộc cộc lăn trên gạch, mở toang, để hiện ra
một anh lực điền cởi trần đứng choãi hai chân, đương cố sức mở cho hết cánh lim
dầy dặn.
Người tây Đoan quen lối, đi thẳng vào sân, mặc dầu lũ chó xồ
ra, lăn xả vào mà cắn. Ông qua chuồng trâu bò, lẫm thóc, để lấy bóng rợp, rồi
bước chân lên thềm, vào buồng khách.
Buồng khách ấy khá gọi là tình tứ.
Đây là một cô gái Trung Hoa trắng hồng như trứng gà bóc, mũm
mĩm, nằm hớ hênh trật cả đùi lẫn vế. Ở góc, lại một cô nữa, chẳng mặc gì để che
tấm thân trắng phau béo phốp, nhưng lại thẹn thò chua ngoa, một tay bịt ngay chỗ
chẳng nên bịt, và một tay giơ lên trời, cầm một cái... Một cái đây, hiểu ngầm
là một ngọn đèn cụt đầu.
Những thức ấy, đáng lẽ khêu gợi lắm thì phải, song tiếc thay,
nó chỉ là những bức tranh màu và pho tượng trắng đầy bụi bặm. Gia dĩ, may cho
khách đa tình không đến nỗi ngây ngất, là trong buồng lại sẵn nhiều sức phản động,
khiến người ta phải cụt hứng ngay.
Đầu tiên là một mùi tanh tanh ở trong gầm xông ra. Nó là mùi
hanh đồng của những đỉnh, những đèn, những mâm, những nồi xếp la liệt dưới sập.
Những thức ấy khó lòng lấy ra được, vì khi cất vào đó, người ta phải rất đông
người cùng khênh bổng cái sập lên, mà khi hạ xuống, thành ra sập sát gần chấm đất.
Rồi đến những bàn ghế, tranh ảnh, cùng trăm thứ trang hoàng
trên tường, không ra lối lăng gì. Cái thì thực đẹp, cái thì thực xấu, cái thì
thực mới, cái thì thực cũ. Hình như những đồ ấy chủ nhân đã góp nhặt dần dần của
các nhà khác. Sự bày biện bảo cho ta biết chủ nhân là một tay bất chấp nghệ thuật,
nhưng là một người chịu khó tiếc của trời.
Nhưng cái phản động lực lớn lại là cái ảnh truyền thần Nghị Lại.
Ta nên nhớ rằng ông Lại mới làm nghị viện. Song người làng phải nghe ông ta mà
gọi ông là quan, nên ông không cần nể ai, chụp ngay cái hình mặc mũ áo đại triều
và thuê vẽ. Họa sĩ lại là tay đồng chí của chủ nhân càng không cần nể ai nữa. Y
đã tô màu tía lên trên áo rồng và vẽ thêm đôi giao long dưới đầu mũ có rắc kim
nhũ. Song, trời ạ, cả một bộ triều phục uy nghi ấy lại dùng để trang hoàng cho
một tấm thân có bộ mặt hom hem, nhăn nhúm, khủng bố người ta bằng hai nét nhăn
xoạc cong sang bên má, làm cho đôi mắt xếch càng xếch thêm. Họa sĩ muốn tôn người
có của, đã hòa màu hồng cho khéo để tô da mặt hồng hào như người Mỹ tráng kiện.
Song sự thực, Nghị Lại là dòng dõi một giống người thuộc chủng tộc thứ sáu trên
toàn cầu.
Thực vậy, nếu trắng, ông đã là người Âu, nếu vàng, ông đã là
người Á, nếu đỏ, ông đã là người Mỹ, nếu nâu, ông đã là người Úc, và nếu đen,
ông đã là người Phi. Đằng này ông lại xanh xanh, đích là da của chủng tộc người
nghiện.
Nghị Lại ngạc nhiên, đớ người nhìn khách:
- Cái gì vậy?
- Ruộng ông có rượu lậu.
Nghị Lại tròn mắt nhìn:
- Có rượu lậu?
- Phải, thầy lý trưởng nói rõ để ông Nghị biết là ruộng nào.
Lý trưởng nói:
- Bẩm quan, cái thửa bảy thước ở cánh Mả Giơi, của nhiêu Sinh
nhường quan tháng trước, mà quan cho nhà Lành cấy rạ ấy ạ.
Nghị Lại cau mặt, gõ mấy đầu ngón tay xuống bàn:
- Cái thửa ruộng ở cạnh thằng Pha ấy à?
- Dạ.
Ngẩn người một lúc, rồi Nghị Lại cười:
- Quái. Nhưng quan lớn bảo nhà tôi như thế này còn nấu rượu
làm gì?
- Đành vậy, nhưng ông là chủ ruộng, thì theo luật, ông có lỗi.
Hiện tang vật còn đó, ông ra đồng với tôi để xem và ký vào biên bản.
- Phát.
Một tiếng gọi trong lúc giận dữ, ai nấy giật mình.
- Dạ.
- Mày bẩm với cô Năm, đi theo lý trưởng ra xem có phải đứa
nào nó bỏ rượu vào ruộng nhà không nhé.
Rồi ông nói với ông Đoan:
- Thôi, ta bất tất phải đi. Mời quan lớn cứ ở đây. nắng lắm.
Ông quay vào trong gọi:
- Mau lên, sao chậm thế?
- Dạ.
Tức thì một tên đầy tớ bưng khay rượu ra. Hai cốc sâm banh
trong sáng lanh canh chạm vào nhau làm sóng sánh rượu vàng. Nghị Lại giơ tay mời:
- Rước quan lớn.
Khách chạm cốc rồi ngửa cổ uống một hơi. Nghị Lại rót thêm và
nói:
- Cái cốc này người ta làm nông quá. Giá quan lớn cho phép, tôi
lấy bộ cốc vang thì rót được nhiều hơn. Chắc quan lớn khát lắm.
Người tây đoan mỉm cười:
- Tùy ông.
- Thứ rượu này ngon lắm. Hồi sinh thời, cụ tôi không dùng,
đem cất vào xó lẫm thóc đến ba mươi chai ấy. Bây giờ tôi mới biết, suýt nữa
quên thì phí.
Rồi ông cười thực to để che lấp sự lo lắng và nghĩ ngợi.
- Về việc rượu này, chắc ông phải phạt nặng.
- Tôi không hiểu sao pháp luật lại quá bất công thế? Tôi đã
làm nghị viên, rất trung thành với hai chính phủ, không nhẽ tôi lại dám làm điều
phi pháp?
- Phải, điều đó tôi vẫn hiểu và không ngờ gì ông cả, nhưng
pháp luật là pháp luật.
- Ruộng của tôi rất nhiều, không những ở tỉnh này, mà còn ở tỉnh
khác nữa, chẳng lẽ thửa nào tôi cũng phải cho người đi canh hay sao? Mà nếu lệ
nhà Đoan nghiêm ngặt thế này, thì những đứa ghét tôi, chỉ một ngày có thể dễ
làm tôi khánh kiệt cả cơ nghiệp được.
Khách không đáp, chỉ mỉm cười. Nghị Lại nói tiếp:
- Làng tôi có một thằng xưa nay sinh nhai về nghề nấu rượu,
tên nó là thằg trương Thi, chắc nó bỏ rượu lậu vào ruộng nhà tôi.
Chánh hội mách:
- Bẩm nó định bỏ vào ruộng nhà thằng Pha kia đấy ạ, vì hai đứa
xưa nay vẫn thù hằn nhau.
- Phải, chính thằng Thi đi báo tôi.
- Đấy, việc rõ rệt như thế, mà quan lớn phạt tôi, thực là oan
tôi quá.
Người Tây nhún vai:
- Nhưng tôi biết làm thế nào? Ông với tôi vốn là chỗ bạn bè
thân.
Vừa lúc ấy cô Năm về, nhận đích là ruộng nhà. Nghị Lại nghĩ
lung lắm.
Rồi ông sực nhớ ra, mắng đầy tớ:
- Kìa, chúng mày sao không mời các thầy xuống nhà ngang xơi
nước?
Đợi khi trong buồng vắng, ông Nghị cười thân mật, nói:
- Đành tôi chịu cái vạ vịt, nhưng chỗ quan lớn với tôi, quan
lớn có thể cứu tôi không? Tôi thì không văn hoa lễ phép được như ta, nên mới hỏi
thẳng quan lớn như thế.
Người tây đoan lắc đầu:
- Thì tôi tưởng như quan lớn làm như khám không thấy gì.
- Không được, có hẳn hoi và có hương lý làm chứng.
- Ồ, làm gì. Hương lý ở đây là đầy tớ của tôi cả, tôi bảo gì
chúng nó không phải nghe? Quan lớn làm ơn cứ xé biên bản đi, thế nào tôi cũng
không dám quên ơn quan lớn.
- Không được, ông ạ.
- Tôi làm nghị viện, rất trung thành với hai chính phủ. Cho
nên tôi không muốn có dấu vết gì xấu trong lý lịch tôi với nhà nước. Tôi chỉ ngại
điều ấy, chứ sợ gì món tiền phạt. Nhà tôi như thế này, tôi thiếu gì? Chắc quan
lớn cũng biết, tôi hầu hạ các quan, có lúc tốn kém đến bạc ngìn, mà có tiếc gì.
Đấy, ngay như mấy lần tết nhất, tôi vẫn đi lại hầu quan lớn thì quan lớn biết.
Ông Đoan gật gù, đáp:
- Nhưng tôi không muốn làm việc phi pháp.
- Thôi, tuy vậy nó hợp với tình bạn bè. Tôi không quên ơn
quan lớn đâu mà. Trước kia tôi chưa nhờ vả gì quan lớn, mà còn đi lại hậu hĩ, nữa
là bây giờ tôi hàm ơn quan lớn.
Người tây đoan nghĩ ngợi một lúc, rồi hỏi nhỏ:
- Thửa ruộng ấy, ông cho đứa nào cấy?
- Tên Nguyễn Văn Lành.
- Nó ở đâu?
- Nó ở tổng Hà Tràng, cách đây chừng mười cây số.
Người tây đoan nghĩ ngợi rồi gật đầu. Nghị Lại vui vẻ xui:
- Tuy ở xa, nó có thể chịu trách nhiệm về việc rượu lậu này
vì tôi đã giao ruộng cho nó. Xin quan lớn cứ bắt và làm tội nó. Thế thì công
bình hơn là bắt tôi.
Người tây đoan đứng dậy cười, bắt tay ông nghị và lắc đầu
than thở:
- Tôi vất vả về ông.
Ông nghị khúm núm đáp:
- Không dám.
Rồi ông tiễn khách ra cổng, nhìn theo ân nhân với một nụ cười
Tất cả bao nhiêu bạn đầu gối tay ấp của Nghị Lại đều lên cả
nhà khách, uống nốt chỗ rượu sâm banh còn lại và chờ chồng về, xem kết quả cuộc
điều đình ra sao. Ai cũng tỏ ra mình tha thiết đến hoạn nạn của gia đình lắm.
Tiễn người nhà Đoan xong, Nghị Lại trở vào nhà, mặt hầm hầm,
đi vào buồng khách.
Ông vứt bịch khăn xuống sập, cởi áo sa, áo trắng, và áo cộc
ra. Bên bức truyền thần một ông quan mũ áo chỉnh tề, hiện ra một thằng người
trơ trơ bằng thịt bằng xương. Nói cho đúng, thịt thì Nghị Lại hiếm, nhưng xương
thì ông rất nhiều, vì ông cởi trần, nên để lộ ra một thân thể gầy còm rất đáng
thương, tưởng chừng như cả bộ xương xộc xệch ấy chỉ dính vào nhau một cách lỏng
lẻo, mà va vào đâu một tí, là cả cái khung người phải bẹp rúm ró, khó lòng nắn
lại cho nó nguyên hình.
Cô Tư quạt cho ông, hỏi:
- Thế bây giờ công việc ra sao ạ?
Nghị Lại phùng mồm thở phù một cái, rồi kể lại chuyện cho các
vợ nghe, cô Ba nói:
- Đấy, tôi đoán là không việc gì, chả đúng à, chắc quan nói
người ta nể.
Cô Năm ỏn ẻn nói:
- Tôi thì cứ lo lo là.
Bà Cả cau mặt bảo đầy tớ:
- Phát, tao cho phép mày gặp thằng trương Thi đâu thì cứ cắt
gân nó đi cho tao. Tội vạ đâu tao chịu.
Cô Ba xui ông Nghị:
- Cắt gân mà thôi à, quan làm cho nó ăn mày phen này ấy chứ lị.
Cô Hai nói:
- Mà cứ để ruộng ngoài lọt vào ruộng nhà thành ra rắc rối.
Cô Tư cãi:
- Thì quan dỗ dành nó mấy lượt, nó không bán đấy chứ.
Bà Cả chép miệng:
- Không thể để thế lâu được.
Trong khi từng ấy người bàn tán, Nghị Lại không thèm vào nửa
lời. Ông nằm trên sập, ngẩn ra, nhíu đôi lông mi lại.
Chợt ngoài sân có tiếng chuông rung, rồi một lát, Phát đưa một
người đàn bà vào.
Người đàn bà đặt gói chè vào cái khay, rồi ngồi thụp xuống đất,
vừa lạy vừa nói:
- Lạy quan, thầy cháu sợ phép quan lắm, không dám đến để lạy
quan, mà thầy cháu hiện từ trưa đến giờ không biết đi đâu mất. Thực quả tình thầy
cháu chịu tội với quan nhiều.
Nghị Lại ngồi nhỏm dậy, hỏi Phát:
- Đứa nào thế, mày?
- Bẩm, vợ nhà trương Thi.
Nghị Lại trợn mắt quát:
- À, mày phản tao.
Vợ trương Thi sợ khóc lóc:
- Thầy cháu lo quá, phát sốt phát rét lên, mà thực quả tình
nào có biết ấy là ruộng của quan. Lạy quan, quan làm tình làm tội gì thì thầy
cháu xin chịu, nhưng xin quan nghĩ lại cho nhà cháu hai vợ chồng dại với bảy đứa
con thơ.
- Chồng mày bỏ rượu lậu vào ruộng tao, rồi đi báo quan, mày
còn bảo tao thương thế nào?
- Lạy quan, thực oan cho thầy cháu quá. Thầy cháu cũng như
tôi con quan, vậy con nào lại phản bố bao giờ? Lạy quan, quan đánh cho hai chữ
đại xá, thì con mới dám cho người tìm thầy cháu về. Con chỉ sợ thầy cháu liều,
lại đi đâm đầu vào xe lửa hay xuống sông thì thực là khổ quá.
Nói đến đây, người đàn bà cảm động quá, lại nức lên khóc. Nghị
Lại nguôi cơn giận, hỏi:
- Tao có thể bỏ tù vợ chồng mày lúc nào cũng được. Song, vốn
tao nhân đức, tao không nỡ. Mày sinh nhai bằng nghề quốc cấm, lại đi làm hại
người ta.
- Bẩm quả nhà con lập tâm báo thù thằng Pha, chứ có biết đâu
ruộng ấy là của quan ạ.
- Tao cũng chiều tình cho nhà mày, nhưng sao trong làng trong
nước, chúng mày nỡ cư xử với nhau tận tình thế?
Vợ trương Thi che lỗi, vội nói:
- Lạy quan, quan mắng chửi thế nào chúng con xin chịu, nhưng
chính nó gây sự với con nhiều lần, con nhịn mãi đến nỗi uất lên không chịu được.
Bẩm ở làng này, nó chẳng nể sợ, ai nó cũng nói chẳng ra làm sao.
- Bẩm con nói câu này, quan lại bảo con ghét nó mà mách, chứ
cái ngày quan dạm mua ruộng nhà nó, nó đã không bán, lại còn nói xấu vô số.
Nghị Lại cười lạt, nói:
- Hừ. Cứ nói cả huyện này, tao lấy ruộng đứa nào mà không được?
Vợ trương Thi phỉnh:
- Dạ, lạy quan, quan thì hay thương người, quan chẳng nỡ làm
thế, quan để cho tôi con được nhờ.
Nghị Lại vênh váo như tưởng mình phúc đức thật, nhìn người
đàn bà ra ý vừa lòng, rồi nói:
- Thế nhà mày với nhà thằng Pha thù nhau, sao không đi kiện
trên huyện, lại bỏ rượu lậu như thế?
- Thưa quan, con có ngờ đâu lại bỏ nhầm ruộng, chứ nếu đúng
thì không những nó phải đi tù, lại còn mất nhà mất cửa nữa. Kiện ở huyện, bất
quá mình tốt lễ, quan trên mới xử cho được, và nó chỉ phải tù là cùng. Ngộ nó tốt
lễ, thì mình công toi.
Nghị Lại lắc đầu cười:
- Bởi vì mày lo chỗ không đáng lo. Lo những chỗ đáng lo thì
nó có thoát đằng nào được.
- Lạy quan, cũng tại nhà con không có tiền lễ quan huyện. Đằng
này bỏ rượu vào ruộng thì chẳng tốn kém gì cả.
- Không có tiền lễ quan mà mày lại không biết ở làng này ai
thân với quan để mà nói à?
Vợ trương Thi ngẫm nghĩ rồi đáp:
- À, lạy quan, tại con chưa nghĩ ra, bây giờ quan dạy con mới
biết quan thân với quan huyện, con cũng sợ, chả dám đến nói, nhỡ quan chửi cho
thì làm thế nào.
Nghị Lại mắng:
- Chúng bây làm như tao ác khẩu lắm ấy. Đứa nào cũng sợ tao
chửi. Tao đã chửi đứa nào bao giờ. Ở làng này, ai có việc gì nhờ tao, tao cũng
sẵn lòng giúp. Nào vay tiền ư, nào nói với quan hộ ư, tao đã từ chối ai chưa?
- Lạy quan, quan thương dân như thương con. Giá trước kia con
biết quan dễ dãi thế này thì con cứ trăm sự nhờ quan cho xong.
Nghị Lại gạn:
- Thế bây giờ mày có muốn kiện nó không?
- Bẩm bỗng không chả lẽ lại kiện?
- Con mẹ mới thật thà chứ. Thiếu gì cớ? Mày cứ qua cửa nhà
nó, nói trêu tức nó một câu, xem có thành chuyện to không nào?
Vợ trương Thi vui sướng:
- Dạ, lạy quan, rồi có thế nào thì trăm sự con nhờ quan.
- Mày về gọi chồng mày đến đây tao vẽ cách cho mà làm.
Vợ trương Thi sắp đáp, bỗng bên nhà Ánh chỗ hàng rào dâm bụt,
nổi lên một hồi chửi rủa, tiếng lanh lảnh réo sang bên nhà Nghị Lại:
- Bà mất nhà mất cửa, bà đi ăn mày, nhưng bà hãy chửi cho sướng
miệng hôm nay. Chứ nó lại độc ác tàn nhẫn thế à. Đất nhà nó rộng thế chứ còn muốn
rộng đến đâu nữa, nó lại muốn chiếm cả nhà cho vuông, cho đẹp dinh cơ kia. Nó để
chôn vợ chôn con nó à? Bà không bán, nó lập tâm thả chó sang nhà bà, để suýt nữa
con bà chết sòi ruột. Rồi bà đánh chó nó, nó đi kiện. Nó lại xui người đến mách
bà bán nhà để lấy tiền lễ quan, rồi nó mượn người đến mua rẻ.
Nghị Lại vờ không nghe tiếng, nhưng mặt cứ xám dần. Vợ trương
Thi sợ ông ngượng, bèn chào và ra, bụng khấp khởi mừng thầm vừa thoát được nạn
lớn, vừa được chỗ có thế lực để trả thù. Sung sướng bao nhiêu, chị phục quan
nghị nhà chị bấy nhiêu, và nguyền rủa mãi những người ghét ông, họ bịa ra những
chuyện chẳng đáng tí nào, để nói xấu ông là thằng giàu đểu giả, quanh năm hút
máu mủ những hạng cùng đinh.
Chiều nay Nghị Lại ra đường, chơi mát.
Đó là một điềm lạ, không biết hay hay gở, và cho ai.
Không bao giờ ông đi như thế lại không có mục đích. Bao nhiêu
công việc, ông đã định trong bụng cả rồi.
Đáp những cái vái dài của người nhờ vả ông, của người tự nhận
là đầy tớ, tôi con ông, ông nhìn họ, chứ đầu và môi không nhúc nhích.
Đứng xem lũ trẻ con đánh khăng và cãi nhau, ông nhoẻn mép ra
cười. Rồi tạt vào văn chỉ, ông lấy que móc đất chỗ chân cột, xem còn mối hay
chăng. Ông rỗi rãi quá.
Quá điếm canh, ông bước thong thả hơn.
Ông đến xóm Chũm. Chị Pha ngồi ở ngõ, đương bế con, miệng
lúng búng đầy cơm, tay cầm chiếc đũa, vội vàng đứng dậy, ngửa mặt lên trời
chào:
- Lạy quan.
Ông Nghị hơi gật, ôn tồn hỏi:
- Ừ, nhà mày đâu, ít lâu nay tôi không gặp?
Lại ngửa cổ lên, chị đáp:
- Lạy quan xá tội cho, nhà con đến ba bốn tháng nay, những việc
là việc.
- Mấy lần trên nhà có bận, tao có ý hỏi mà không thấy.
Thấy ông Nghị hỏi, Pha vội vã chạy ra, lễ phép vái chào. Sở
dĩ lâu nay anh lánh mặt, vì mỗi lần gặp Nghị Lại, là mỗi lần anh bị ông hỏi đã
nhất định chưa. Nhất định nghĩa là nhất định bán ruộng cho ông. Anh chỉ nhất định
từ chối, mà ông thì nhất định đòi mua. Bởi vậy, mấy tháng nay, hai ba lần Nghị
Lại cho gọi, mà anh đều nói dối là đi vắng. Hôm nay ông đến tận nhà, anh không
chạy đâu cho thoát chuyện ông gạ mua ruộng.
Nghị Lại hỏi:
- Thế nào, lúa má nhà mày có khá không?
- Bẩm quan con mới cấy.
- À, tao nghe nói mày mới đẻ con trai?
- Dạ, vâng.
Ông nghị cười vui vẻ, bảo chị Pha:
- Lúc nào thong thả, bế nó vào trong tao, tao thưởng cho đồng
bạc, nghe không? Đã cho nó ăn cơm rồi đấy à?
- Vâng, cho nó cứng cáp, mà con đi vắng luôn, cho cháu ăn cơm
cho quen.
Rồi ông đứng sát gần Pha, thân mật, hỏi thầm:
- Thế nào, việc nó kiện mày ra làm sao?
Pha ngơ ngác hỏi:
- Bẩm ai? Con không biết.
Ông nghị nháy một mắt, trỏ sang nhà trương Thi. Chị Pha thấy
câu chuyện đột nhiên, ghé lại gần, hai mắt trố lên để nghe. Pha lo lắng hỏi:
- Bẩm quan con không biết tí gì.
Ông nghị cau mặt mắng:
- Lạy quan không, nó chửi con, nhưng con có chửi lại đâu?
- Thế sao nó lại kiện?
Pha không đáp, xám mặt, nhìn vợ bằng đôi mắt đầy ý nghĩa. Tự
nhiên anh thương vợ dại con thơ và cảm nỗi nhà nghèo bị cơn hoạn nạn. Nghị Lại
để cho sự lo lắng đủ thì giờ thấm thía rồi mới nói:
- Mà hình như nó lo ông lục sự.
Rồi ông cười, nói đùa:
- Giá nó nói với tao một tiếng, tao cho nó cái danh thiếp lên
quan, có phải bằng mấy lục sự thừa phái có khi họ đơm đó không? Thế mày định
theo kiện hay chịu ngồi tù?
- Bẩm quan, con chả biết tính thế nào cả.
- Việc này thì mày tính lấy, chứ ai tính hộ cho mày?
Pha thở dài:
- Bẩm ngồi tù thì khổ vợ con, mà theo kiện thì con làm gì mà
có tiền?
Nghị Lại thầm thì:
- Tao đến đây hôm nay, định hỏi mày chỗ này đây, vì tao ghét
thằng trương Thi, nó vừa làm hại tao, chắc mày biết đấy chứ?
- Dạ, dạ.
Pha vừa đáp, vừa gật lia lịa, anh đã hiểu câu nói thật của
ông nghị.
Thằng bé con bị bế ngửa, chói mắt, và bị mẹ nhổ cơm vào mồm,
khóc xa xả. Chị Pha lấy chiếc đũa quyệt quanh mép nó và gõ vào cột cổng cành cạch.
- Mà bản tâm là nó định hại mày kia đấy, nhưng phúc bảy mươi
đời nhà mày, nó lại bỏ nhầm sang ruộng nhà tao.
Pha lại gật:
- Bẩm con hiểu.
- Cho nên tao tưởng mày theo kiện rồi kiện lại nó, chứ có đứa
hàng xóm như thế, thực là nguy hiểm. Hiện nay còn nhà mà ở, còn ruộng mà cấy,
nhưng biết đâu mai đây, vì một hũ rượu của nó mà mày không những khánh kiệt mà
còn bị tù tội. Cho nên tao định đến đây bàn với mày, là tao cho mày tiền để mày
kiện lại nó.
Tiếng “cho” là một tiếng chưa ai có hân hạnh được nghe phát
ra ở cửa miệng Nghị Lại, vì vậy khi nói đến nó, ông dằn rõ to, và cũng vì vậy,
cả bốn con mắt của vợ chồng Pha nhìn lại ông, như nhìn một cái kỳ quan vậy. Ông
Nghị Lại nhắc:
- Tao cho mày tiền mà kiện lại nó. Mày có dám không?
- Bẩm con sợ quan trên bênh anh ấy.
Ông nghị vênh váo nói:
- Khi nào tao bảo ai kiện, tức thì quan phải xử cho người ấy
thắng. Thế mày có điều gì ngại không?
Chị Pha bản tính tham lam và nông nỗi, mồm lúng búng cơm, bèn
xui chồng:
- Nếu quan thương, thì tội gì. Làm cho nó biết tay chứ.
Nhưng Pha trầm ngâm, cúi mặt xuống đất, suy tính. Vợ anh nói:
- Tiền quan bỏ ra, quan lại nói với quan huyện giúp. Thì đằng
nào thằng Thi không rũ tù phen này.
Nghị Lại nói khích:
- Thật đấy, mày không dám kiện nó thì mày cũng hèn, mà rồi nó
đè đầu đè cổ cho, con ạ.
Nghe những câu có lý thì bùi tai, Pha quả quyết:
- Lạy quan, thôi thì trăm sự nhờ quan.
- Được, thế thì mai mày vào trong tao, tao vẽ lối cho mà làm
rồi tao đưa tiền cho mà lo nghe chưa.
Nói đoạn, Nghị Lại quay đi. Hai vợ chồng Pha hể hả vái dài.
Nhưng mới độ vài bước, ông nghị quay lại, à một tiếng rất thiếu
tự nhiên:
- À, nhưng mà nó còn đang kiện mày kia mà? Mày phải theo xong
cái kiện này thì mới kiện lại nó được chứ.
Rồi không để Pha kịp suy nghĩ sâu xa đến những nỗi khó khăn,
ông đã nói ngay để gỡ cho anh mối tơ vò:
- Được, để tao viết lên quan mấy chữ, ngài sẽ dàn xếp bỏ việc
này đi, không xét nữa.
Pha hớn hở đáp:
- Dạ. Con tưởng con không chửi nhau với nó thì nó kiện thế
nào được con?
- Ồ có chứ, cho nên mày phải kiếm cái gì quà cáp lên quan, với
các ông thừa trên huyện, nghe chưa? Nghề thế, không thì ai làm việc không cho
mình?
Ngập ngừng, Pha không đáp. Nghị Lại phải dỗ luôn:
- Mày ngại không có tiền à? Cái đó không hề gì. Tao cho mày
vay. Mấy hột mà sợ?
Chị Pha khi ấy đã nhổ xong ngụm nước vào miệng cho con rồi,
nên chị được tự do, bèn nói với chồng:
- Quan đã thương thì thầy nó đừng ngại. Tiếc đám đồng bây giờ,
nhỡ tai hại về sau thì khốn.
Ông nghị híp mắt cười, khen:
- Ừ, con mẹ đàn bà mà giỏi.
Chị Pha sung sướng. Pha hỏi:
- Bẩm quan, tốn độ bao nhiêu?
- Độ dăm ba đồng chứ mấy vạn?
Không để chồng quyết định, chị Pha nói trước:
- Vâng, lạy quan, thế thì trăm sự nhờ quan.
Rồi nhìn chồng, chị đanh đá tiếp:
- Tôi tức lắm cơ, không kiện cho nó mất nghiệp thì không chịu.
Chốc nó thầy lên hầu quan, quan cho cái giấy cầm lên ông huyện và lĩnh món tiền
quan cho mà mua chè lá.
Nghị Lại khen chị Pha nhanh việc, rồi dặn Pha:
- Chốc nữa đến tao nhé. Nhưng tao tính cứ đem tiền vào cho đỡ
kềnh càng.
Nói đoạn, Nghị Lại ung dung đi như đi chơi, một lát nữa mới về
đến nhà.
Nghị Lại hãy cho Pha vay tiền, chứ chưa cho không, vì anh cần
gỡ xong cái kiện rồi mới nói chuyện kiện người được.
Vì vậy Pha chỉ nhờ có ba đồng. Anh rất tin cái sức mạnh của
phong thư ông nghị gởi cho quan. Việc theo kiện anh không tán thành lắm, nên thỉnh
thoảng lại tiếc tiền và phàn nàn với vợ:
- Để ba đồng này, vợ chồng con cái ăn no được một tháng.
Mấy hôm nay, cả vợ chồng anh cũng không đi làm để ở nhà chờ
trát quan. Vợ anh vì chạy quá sức hôm anh bị bắt rượu, nên cũng cần nghỉ ngơi
cho lại người. Nhưng đến bốn hôm, chẳng thấy gì, mà ăn tiêu tốn kém sốt cả ruột.
Mấy chỗ nợ công đều hứa đến mùa hè sẽ trả bằng thóc. Bởi vậy chị Pha phải giật
tạm vào món ba đồng mất vài hào để đong gạo.
Đồng bạc để nguyên thì nó còn lâu lâu nguyên giá trị đồng bạc,
nhưng khi nó tan thành hào, thì nó ngoảnh đi ngoảnh lại, nó mòn hết lúc nào
không biết. Bởi vậy dần dần, vì sự cần phải tiêu, lại sẵn tiền trong túi, chị cứ
phải mượn tạm mãi cho đến hết hào của đồng bạc ấy.
Rồi bác San đến chơi, mách cho chị có món vải trắng người ta
để rẻ có một đồng, chị tham bốn , năm hào lãi, lại vay món còn lại để mua. Rồi
thấy sự chờ đợi vô ích, chị bắt đầu lại gánh hàng đi chợ.
Một buổi sáng, Phát, đầy tớ Nghị Lại, dẫn một người lạ đến
nhà Pha.
Người lạ mặt có cái đặc biệt là mặc hai áo cộc. Áo trong bằng
vải, áo ngoài bằng đũi nhuộm vỏ sò, mà cũng dài đến đầu gối, cùng may lối năm
thân và cũng có cổ rất cao. Người ấy mặt khinh khỉnh, đội khăn lượt quấn có năm
vòng, nhưng đằng trước đếm được hơn mười nếp. Người ấy tay cầm chiếc roi mây quấn
tròn đầu, đi tuột vào trong nhà, leo lên phản ngồi, không chào ai cả.
Phát trỏ người lạ mặt, nói:
- Đây là cậu lệ trên huyện trên. Anh có trát đòi. Quan bảo
anh làm quen để vài hôm nữa để người dẫn lối.
Phát tươi cười, lấy cái điếu bát đặt vào giữa chiếu, Phát hỏi:
- Làm gì lôi thôi lại bị kiện tụng thế?
Pha cười không đáp.
Người lính hút xong điếu thuốc, há toang miệng cho làn khói đặc
ngùn ngụt tuôn dần ra, rồi vẫn chưa nói tiếng nào, thong thả móc túi lấy đưa
Pha một tờ giấy có đóng nhiều dấu đỏ.
Phát làm hết bổn phận giới thiệu, đứng dậy ra về, và máy Pha
ra cổng, rỉ tai dặn:
- Cậu lệ đi từ sáng đến giờ chưa ăn gì, liệu cơm rượu cho chu
tất nhé.
Pha bồn chồn cả người vì thấy phải tiêu bất ngờ. nhưng biết
làm thế nào? Anh phải chạy ra chợ bảo vợ về làm đồ chén. Trong khi ấy, cậu lệ
buồn, hút điếu thuốc lào nữa rồi lấy quạt phẩy mạnh chiếu, và ngả lưng,nằm một
cách khoan khoái lắm. Một lát, tiếng ngáy vang như xay lúa.
Vợ chồng Pha ở chợ về, với một con gà, nửa chai rượu trắng.
Hai người vừa đi đường vừa gắt gỏng nhau về nỗi hiện nay chỉ còn vỏn vẹn có sáu
hào chỉ. Mấy hôm nay hàng ế, tiển bán ở chợ chỉ đủ ăn từng ngày, không thể bù
trả món hai đồng bạc vay tạm được. nhưng vợ anh quả quyết nói:
- Thầy nó cứ về trước đi, tôi lại đằng ông nghị, lạy van ông ấy
cho mượn vài đồng nữa vậy.
- Bu mày nói cứ như của nhà không bằng. Nếu ông ấy là người dế
dãi về tiền nong, ông ấy đã chẳng giàu ùn ùn thế này được. Không biết chừng ba
đồng bạc hôm nọ ông ấy lấy bà nghị phân đấy.
- Thì thầy nó bảo làm thế nào bây giờ? Ông ấy cho ta tiền để
kiện còn được, há không cho vay để lo xong cái kiện này hay sao?
- Bu mày làm thế nào thì làm, hôm nọ ông ấy cứ bắt tôi vay
năm đồng, mà tôi nhất định chỉ cầm có ba. Tôi sợ vay lãi mà nhất là lãi của tiền
ông nghị.
- Được, thầy nó kệ tôi. Tôi là đàn bà, càng dễ nói.
Bàn nhau xong, vợ Pha đến nhà Nghị Lại, và anh về nhà mổ gà
làm cơm. Độ nửa giờ sau, chị Pha hớn hở về, vừa đến ngõ đã khoe:
- Thế mà đàn ông lắm cái đoảng hơn đàn bà. Giá thầy nó đến,
chưa chắc ông ấy cho vay đâu. Người ta cứ bảo ông ấy ác nghiệt. nhưng ít lâu
nay, ông ấy dễ dãi đấy chứ.
Vừa nói, chị vừa cởi giải yếm, xòe cho chồng xem năm tờ giấy
một đồng và cười nắc nẻ.
Pha chặt thịt và lòng gà xếp vào hai dĩa phố, rồi đặt lên chiếc
mâm gỗ. Đầu và hai chân, anh bày một đĩa riêng. Vợ anh nhanh nhẩu gắp dưa giá
và ra cây chanh, vặt dăm chiếc lá non, đặt ở góc mâm, bên cạnh chiếc chén muối
bọt to và đỏ. Rồi khi hai bát chiết yêu nước luộc gà đã múc, thì mâm cơm trông
đã tàm tạm tươm. Pha lấy khăn rửa mặt lau chiếc chén vẫn úp trên cũi trong buồng,
rồi cung kính bưng mâm lên.
Người lính ngồi nhổm dậy, duỗi khục hai cánh tay, đứng lên,
vươn vai, vặn lưng, bẻ đầu và vẩy cẳng, rồi lại ngồi xuống.
Pha rót rượu và mời:
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu.
Khách nhìn hai dĩa thịt gà trắng nõn, thì bằng lòng lắm, nói
lấy lệ:
- Bác bày vẽ quá, cơm dưa muối thế nào xong thì thôi, lại đem
mà mổ gà.
Đoạn hắn xoa hai bàn chân đầy đất vào nhau, ngồi xếp hàng
tròn lại, cầm chén mời chủ:
- Nào ta cùng ăn cho vui.
- Đã ạ, tôi có phép cậu từ sáng rồi.
- À, tôi tưởng chưa ăn thì cùng ngồi cả vào đây cho vui. Tôi
tiếng thế mà bình dân lắm kia,,, Vậy tôi có phép rượu bác nhé… À, bác bảo cho
quả chanh với tí ớt.
Pha thấy phiền hết sức, song cũng phải bảo vợ chạy đi mua những
thứ gia vị thiếu ấy. Khi chị Pha về, người lính trách:
- Tưởng nhà có sẵn, chứ nếu không thì mua làm gì?
Khách khề khà vừa uống vừa nhắm rất thô tục. trong khi ăn,
anh ta chẳng nói với chủ tiếng nào. Đánh loáng, hai đĩa thịt luộc đã gần hết.
Pha phát ngượng về sự thiếu đồ nhắm, phải làm lối lịch sự, xuống bếp chặt nốt
chỗ thịt để dành chiều vợ chồng ăn với nhau. Thấy được tiếp đồ ăn, khách càng
ăn càng uống già. Anh nốc từng hụm rượu và nuốt ừng ực.
Và thấy chủ nhân tử tế, anh ta mới cảm khái nói:
- Tôi lấy làm lạ, sao ông Nghị Lại lại cho người đưa tôi sang
đây, mà không cho tôi ăn cơm ở bên ấy. Quan sai tôi về đây về việc của ông ấy,
ông ấy phải mang ơn quan, phải mang ơn tôi, thế mà giàu có là thế, lại đùn cho
nhà bác phải làm cơm rượu.
Pha dò hỏi việc kiện tụng của mình, người lính làm ra vẻ bí mật
chứ không chịu thú rằng không biết.
- Việc quan, tôi nào dám tiết lộ ra ngoài.
Chẳng mấy chốc, nửa chai rượu hết bay, pha cầm lấy chai, nói
rằng đi mua thêm, để gọi lịch sự của ông khách bình dân vốn hay từ chối. nhưng
ông khách lại dặn:
- Này, bác xem ở đâu có bán cái số ngang thì mua, chứ thứ này
nhiều cồn, uống không tốt.
Pha bấm bụng lấy hào rưỡi, và nhờ bác tư Dậu, con dâu bà trưởng
Bạt, mua bên trương Thi hộ, chứ anh không dám ra mặt.
Ăn no say xong, người lính ngủ một giấc dài, rồi khi dậy, vòi
Pha hai hào, gọi nhã là tiền xe để về huyện.
Trời nắng đã bắt đầu dữ. Hai bên đường chắng có một bóng cây.
Chỉ có một cánh đồng phẳng lặng với làn nước loang loáng.
Anh đội khăn lượt, mặc áo vải tây đen và quần trắng vải to,
là những thức anh sắm đã lâu, nhưng ít khi có dịp dùng. Anh mượn cái ô trắng để
che, vì từ làng lên huyện xa những sáu cây số.
Anh vừa mừng lại vừa lo. Mừng vì trong lưng có phong thư của
ông nghị, anh chắc chắn thế nào cũng được quan thương mà ngơ đi cho. Lo vì bỡ
ngỡ, mới đến cửa quan lần này là một.
Anh giắt năm đồng hai hào tư. Chẳng phải anh biếu cả quan chỗ
tiền ấy. Ông nghị bảo tạ độ hai ba đồng là quá phải. Ông đã dặn lối vào công đường,
chỗ nào là trại lệ, chỗ nào là trại cơ, chỗ nào là buồng giấy ông thừa ông lục,
chỗ nào là chỗ quan ngồi. Ông lại chỉ bảo anh rành rọt lời ăn tiếng nói với
lính và quan nha. Ông bảo vì anh là dân, nên phải lên đúng ngày giờ hầu kiện
cho phải phép, chứ cứ như ông thì chẳng phải đến công đường, hoặc lúc nào lên
cũng được. Ông quả quyết anh chỉ phải giáp mặt quan độ một lát, rồi lại được về
nhà ngay. Cho nên vợ anh dặn nhân tiện lên huyện, thì chỗ tiền thừa, anh ra phố
đến hiệu chú Sỹ mua mười phong thuốc lá và vài chục diêm, nửa tá xà phòng, một
hợp lơ và hai cỗ tổ tôm.
Đến cổng huyện, anh đứng ngoài nhìn vào, thấy trong tấp nập
những người đi lại. Anh có ý tìm cậu lính hôm trước để gọi, nhờ cậu đưa đường
cho thì hơn, vì cậu dặn khẩn khoản thế nào lúc đến huyện anh cũng vào chơi uống
nước.
Nhưng anh không gặp người quen. Anh đành theo các người khác
vào trong sân. Qua mặt người lính khố xanh bồng súng gác ở cổng, anh lễ phép ngả
ô, rồi tiến đến gốc bàng có bóng mát, bẽn lẽn đứng chờ.
Tuy vậy, anh cũng sợ. Anh chẳng dám đường đột nhìn ai. Trong
lúc đắn đo, lại thấy những tiếng dạ, những lính lệ cắm cổ chạy, anh tính trở về,
nhờ ông nghị viết cho lá thư khác, đừng nói anh kiện tụng lôi thôi nữa.
Bỗng có người đến hỏi làm anh đứt mối nghĩ ngợi:
- Người kia, việc gì?
Pha khép nép thưa:
- Thưa cậu, tôi mang giấy của ông Nghị Lại lên hầu quan, nhờ
cậu bẩm hộ.
Người lính không đáp, khủng khỉnh đi thẳng đến một người dân
khác, đứng gần đó.
Một lát, một người lính nữa đến hỏi xẵng, và Pha cứ câu ban
nãy trả lời. Một lát nữa, lại người lính nữa đến xoắn xuýt, nhưng lại có câu trả
lời ấy thì lại có sự lãnh đạm ấy.
Pha nhớ cái quanh cảnh ở bến ô tô ngoài tỉnh, và sự mời chào
của những người bán vé. Anh biết rằng đã khờ vì không đáp thực thà. Việc đưa
thư cho ông nghị không khiến họ phải chú ý bằng việc mình có giấy quan đòi lên
hầu. Bởi vậy, người lính thứ tư có dáng tử tế hơn, anh đáp:
- Tôi lên hầu kiện.
Nhưng người lính cau mặt gắt:
- Hầu hạ gì bây giờ? Quan đang bận.
- Nhưng giấy sức khẩn kia mà?
Người lính lại gắt:
- Đợi đấy, mai.
Rồi anh ta càu nhàu:
- Sức quan thì tờ đếch nào là không khẩn?
Kinh ngạc, Pha đáp:
- Chết, nhà tôi ở xa lắm, cậu vào trình quan hộ cho tôi còn về.
Cậu lệ ngắm Pha từ đầu đến chân, rồi đứng gần lại, hất hàm
thân mật hỏi nhỏ:
- Có gì không?
Pha vui vẻ móc túi lấy phong thư, và mỉm cười đáp:
- Có, giấy của ông nghị tôi.
Bỗng huỵch một cái, Pha bị ngay một quả tống vào ngực đau điếng:
- Này nghị này. Cậy có nghị à? Nghị thì đến ngày kia.
Nói đoạn, lính lệ quăng phong thư xuống đất và bỏ đi chỗ
khác. Pha sợ run, cúi nhặt. Anh không hiểu tại làm sao cả. Anh phải chạy theo
nhũn nhặn hỏi:
- Sao lại ngày kia, cậu? Cậu làm phúc vào trình quan hộ.
Người lính đứng lại, nhíu lông mi, hất hàm về cửa công đường,
như có ý thách:
- Đấy, cậu có nghị thì cứ vào.
Pha tưởng thật, vừa bước đi, thì bị lôi ngay tà áo lại. Mảnh
vải cũ, rách toạc ngay một đường. Pha vừa tức, vừa sợ. Anh lính đỏ mặt, sừng sộ
hỏi:
- Đi đâu?
Pha không biết đáp câu hỏi vô lý ấy thế nào. Người lệ vừa bảo
anh cứ vào lại hỏi anh đi đâu. Thật là khó hiểu quá. Giữa lúc ấy, có tiếng gọi,
lính dạ rất to và thoăn thoăt chạy đi, nhưng còn quay lại giơ bàn tay ra đe:
- Đứng đấy, liệu hồn.
Thấy mình được tự do, Pha mon men tiến đến cửa công đường, thập
thò ngoài buồng giấy quan huyện.
Bên buồng cạnh, các ông thừa và nho đương làm việc rộn ràng.
Pha lách mắt, ngó qua lỗ thủng ở bức bình phong, nhìn vào
trong, thấy quan đương hút thuốc lá và lấy dao cạo một miếng xương trắng. Anh
toan mạnh bạo bước vào, thì thình lình: bốp. Một cái tát của tay chuyên môn làm
anh đinh tai, choáng óc.
- Ối.
Anh bật lên tiếng kêu. Lập tức, anh bị giật cổ ra bực hè,
suýt ngã bổ chửng xuống sân. Người lính nghiến răng, trỏ vào mặt:
- Mày định kêu cho cụ tổ mày nghe tiếng phải không? Bố mày
đánh thì phải câm kia mà?
- Lạy cậu...
- Bố mày bảo mày đứng chờ ở kia sao mày không nghe? Muốn tù
thì bảo.
Hết cơn bàng hoàng, Pha như cái máy theo người lính kéo áo
lôi đi. Đến đầu công đường, người lính trợn mắt, hạch:
- Mày muốn vượt quyền ông, thì mày bảo?
Dứt lời, anh bị một quả tống nữa vào giữa ngực. Lần này đã là
lịch duyệt, anh cố nhăn nhó chứ không dám kêu. Nhưng người lính cũng dọa:
- Kêu ông bỏ tù. Ông đánh cho mất thói tự do đi. Mày đừng tưởng
quan như ông nghị nhà mày ấy.
Pha còng lưng, ôm ngực nói:
- Bố mày bảo thế nghĩa là bố mày bảo liệu hồn. Quân ngu như lợn.
Mày không biết mày muốn vào quan thì phải nhờ đến bố mày đây à?
Bây giờ Pha mới hiểu cái uy quyền của cậu lệ, thì ra còn to
hơn cả ông nghị làng anh, anh vội vàng lạy:
- Lạy cậu, cậu tha cho. Có gì tôi không biết, xin cậu cứ bảo.
- Thế sao tao bảo có gì không, mày lại cậy có giấy của ông
nghị mày. Ông nghị mày oai lắm thế à?
- Vâng, quả thật tôi không biết.
- Quả cái thằng bố mày. Thế mày tưởng mày lờ bố mày mà mày lọt
quan à?
Pha hiểu, vội vàng nói:
- Cậu cử cho tôi vào, tôi xin hậu tạ.
Người lính lắc đầu:
- Không hậu tạ gì cả, có gì thì đưa ngay “tút xuỵt”, không có
quan gọi tao bây giờ, tao không có thì giờ lôi thôi.
Nói chưa dứt câu, người lính thò tay vào nắn hai túi, và thắt
lưng người dân khốn nạn. Khi thấy cục nút, hắn hiểu là tiền, vội vàng dịu ngay
mặt lại, đổi giọng nói:
- Các anh ngu lắm kia. Có việc vào quan lại cứ không muốn mất
tiền để người ta chỉ bảo công việc cho. Mau lên, đưa đây mấy hào, không thì...
- Lạy cậu, tôi quả thực nghèo túng.
Người lính trợn mắt:
- Đồ các anh ngu như lợn. Một đằng được vào hầu ngay, được xử
tử tế, một đằng phải cơm hàng, cháo chợ để chờ không biết đến bao giờ, anh chọn
đằng nào?
Pha nén lòng để cười nhạt. Anh không dám đắn đo, khẽ thở dài,
thong thả quay mặt đi, cởi nút thắt lưng, lấy ra một hào, mỉm cười đưa vào tay
người lính:
- Chỉ có thế này, cậu nhận cho.
Người lính cầm tiền bỏ túi xong mới nói:
- Bỏ ra hào nữa, không có thì thôi.
- Lạy cậu, làm gì còn?
- Thì thôi.
Người lính quay bước đi, anh Pha vội vàng gọi lại:
- Cậu.
Anh lắc đầu, lúi húi lấy ra hào nữa, và vừa buộc nút lại vừa
nói:
- Thật quả chỉ còn thế này. Tôi có biết đâu lệ ở đây phải thế.
Bất đồ mấy mươi xu rơi tung ra. Người lính vội vàng nhanh như
cắt, cướp lấy cướp để và cười sằng sặc đắc chí. Bỏ tiền vào túi xong, hắn đưa
Pha đến trước buồng giấy quan, cầm tờ sức vào. Một lát hắn quay ra, vẫy tay bảo:
- Sang bên ông lục sự.
Thấy không được vào quan để đưa thư ông nghị, cái thư nhờ
quan bênh vực mình, Pha trù trừ rồi đánh bạo nói khó với người lính:
- Nhờ cậu làm phúc trình quan cho tôi vào, để đưa ngài bức
thư của ông nghị tôi.
Anh lệ gắt thầm:
- Con khỉ. Ban nãy thì không nói. Để đến mai cũng được.
- Không, thư cần kia.
- Đấy thì mặc kệ, đây không biết.
Pha nghĩ đến cái bạt tai lúc nãy, tần ngần không dám tiến.
Nhưng người lính lại giục:
- Vào đi, quan đang rỗi, con khỉ.
Pha dựng cái ô vào tường rồi vào, khom lưng vái chào:
- Lạy quan lớn.
Quan vẫn cạo quân bài mà chược và hút thuốc lá như ban nãy.
Ngài không ngẩng đầu lên, mà cũng không đáp. Cho nên Pha đứng khoanh tay chờ.
Quan phụ mẫu là một người có nhiều cái đặc biệt. Đứng trước
ngài, ta có cảm tưởng hỗn xược như ta lại phải ăn một mâm cỗ đầy ắp những thịt
mỡ khi ta đã no nê. Nghĩa là ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt
xuống, cả tấm thịt trên quai hàm bị cổ áo cứng nó đùn lên, nó vẽ nên một nét
răn, chia má ra làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phính và nung núc những thịt.
Cái tấm má ấy đầy đặn đến nỗi giá chỉ một mũi ghim nhỏ lỡ đụng vào, là chỗ đó
có thể chảy ra hàng lít nước nhờn nhờn mà ta quen gọi là mỡ. Lông mi ngài rậm
mà vòng lên, đối với đôi mắt ngài hùm hụp cong xuống. Từ thái dương, đến má, đến
xương quanh miệng ngài, người ta tưởng mặt ngài làm bằng sắt, vì nó đen đen.
Nhưng không, màu ấy chỉ là di tích bộ râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo.
Ngài đặt lên đầu một vòng khăn không xứng đáng. Vì đối với
cái mặt vĩ đại ấy, nó phải nhiều nếp hơn. Cho nên quấn quanh đầu ngài, nó như
chiếc vành sắt đai quanh một thùng gỗ gánh nước. Mà khăn ấy, ngài đội một cách
rất chướng, đến nỗi một người nào trong mặt trận dân chủ, tất phải cáu mà vô phép
ngài ấn thật mạnh đằng sau xuống cho nó trùm nốt gáy.
Riêng ở người ngài, sự oai vệ cũng đã quá đầy đủ rồi, thế mà
đằng sau đằng trước, bên phải, bên trái, còn bày la liệt những thứ khiến người
yếu bóng vía phải rùng mình: thanh quất, súng lục, súng trường, gươm, giáo, bát
xà mâu, kích,... rặt những thứ chỉ quyệt vào thằng dân nào là thằng ấy đủ chết
mất ngáp.
Ngắm từng ấy thứ, tự nhiên mặt Pha xám dần.
Bỗng quan ngẩng lên nhìn: một luồng điện làm anh choáng vía,
anh run lên, không nói ra hơi nữa.
- Việc gì?
Nghe hai tiếng ồ ồ ở cuống họng quá rộng, Pha hoàn toàn líu tắc
lưỡi lại. Nhưng hỏi xong quan đưa mắt xuống quân bài ngay. Lúc ấy Pha mới hoàn
hồn dần và nhớ mang máng lại các việc.
Pha móc túi lấ bức thư, vuốt cho thẳng thắn, tiến đến cạnh
bàn giấy. Tự nhiên anh lại bắt đầu run và quên nỗi chỉ nói được rõ có mấy tiếng:
- Lạy... lớn... nghị...
Như cầy sấy, anh đặt thư lên bàn, và lùi lại góc phòng đứng
khoanh tay để lấy hồn vía.
Quan vẫn cắm mắt vào mảnh xương trắng, đưa tay vớ lấy thư, rồi
bóc phong bì ra. Đọc được vài dòng, ngài ngẩng đầu, nói:
- Quái, tao lạ cho ông nghị nhà mày ăn nói lắm giọng. Hôm nọ
vừa viết cho tao nhờ xử cho thằng Thi được kiện, hôm nay đã nhờ tao xử hòa cho
mày rồi.
Pha càng bối rối, không hiểu bụng dạ ông này thế nào mà đòn xóc
hai đầu làm vậy.
Quan đọc nốt bức thư, rồi, vẫn không ngẩng đầu lên, gật đầu
nói:
- Được, nể lời ông nghị, tao sẽ tha cho mày, nghe chưa? Sang
buồng thầy lục, tao bảo thầy ấy liệu lấy cung.
Pha dạ, và ngắm nghía quan như ngắm nghía vị ân nhân. Lúc ấy
quan vẫn vừa đọc thư, vừa với tay vào cái đĩa không, để ở góc bàn. Ngài vét mấy
lượt mà chẳng được gì. Bỗng ngài ngẩng lên nhìn thẳng vào Pha, ngạc nhiên hỏi:
- Đâu?
Pha ngạc nhiên chẳng kém gì quan, vì chẳng hiểu quan hỏi gì.
Song anh cũng trả lời:
- Dạ?
Quan cau mặt hỏi:
- Dạ cái gì? Đâu? Thế ông nghị nhà mày không dặn mày phải thế
nào à?
- Bẩm có, con phải đem đầu đến kêu quan lớn thương cho.
Quan gật:
- Biết rồi, nhưng vào quan không có lối nói bằng nước dãi.
Rồi ngài bắt đầu nói xẵng:
- Mày đừng láo. Ông nghị viết cả cho tao là mày trình tao năm
đồng và tạ tao hai chục, vì thế ban nãy tao mới bảo tha cho mày.
Pha dựng tóc gáy như nghe thấy tiếng sét. Thực là tự nhiên
anh chui vào hang hùm. Năm đồng thì có, chứ hai chục, anh lấy đâu ra. Anh oán
ông nghị bỗng dưng đưa anh vào chỗ chết. Anh run lên, nói như mếo máo:
- Lạy quan lớn, cảnh nhà con nghèo, quan lớn đèn trời soi xét
cho.
Quan quắc mắt:
- Nghèo thì bước. Làm mất thì giờ của ông.
Nói xong ông gọi:
- Lính đâu mày, tống cổ thằng này xuống trại.
- Lạy quan lớn...
Anh lính ban nãy lại hùng hổ hiện ra, giơ tay vả luôn vào mồm
Pha hai cái, rồi cầm cổ anh lôi ra ngoài.
Trong khi ấy, không biết quan đã cúi mặt xuống tự bao giờ,
bình tĩnh cạo nốt quân bài mạt chược.
Pha định với lấy cái ô, nhưng người lính cứ kéo bừa anh xuống
trại. Từ thuở bé, anh chưa hề gặp hoạn nạn to, nên lần này anh mê lên, như người
mất hồn. Anh không hiểu sẽ ra sao. Anh chỉ biết rằng tại anh bỡ ngỡ nên mới
thành nông nỗi.
Thầy đội lệ đang nằm bên phản, thoáng trông thấy tội nhân bèn
hốt hoảng chạy ra và hỏi lính:
- Quan bảo giam nó à? Có phải gì không đấy?
- Con không thấy quan truyền.
Thầy đội mở cửa buồng giam lúc ấy chưa có người nào, tống Pha
vào. Pha giẫm lên một lượt đất ẩm, ghê cả chân. Cái cùm lim nặng nề nằm lù lù
trước mặt làm anh giật mình. Thầy đội nhấc tấm gỗ lên, nói:
- Tao cứ cùm mày cho cẩn thận, ngồi xuống.
Pha không dám cưỡng, vì từ nãy đến giờ anh đã lịch duyệt chốn
quyền môn. Anh muốn khóc nhưng lại sợ trái phép, đành giấu sợ buồn bã và ngấm
ngầm thở dài. Anh ngồi trên lượt rơm đã nát cho khỏi bẩn quần, và duỗi hai chân
lên trên phiến lim có khoét hình bán nguyệt. Thầy đội đặt tấm gỗ trên xuống.
Anh đau đánh nhói. Cái cùm nặng nề nghiến vào xương như tiện cổ chân anh. Thầy
đội khóa đầu chốt lại. Pha đau quá, nhăn nhó nói:
- Lạy thầy nới rộng cho con, buốt lắm.
Thầy đội không đáp, đứng ghếch chân trên mặt phiến lim hỏi:
- Mày tội gì? Nói cho thật.
- Bẩm thầy, con chẳng tội gì.
- Mày ăn cướp hay ăn trộm, cứ nói cho thật, tao liệu cách gỡ
tội cho.
Pha tuy ngu dốt, nhưng đã biết nghi ngờ, vả anh nói có tội gì
mà cần giấu, nên nói:
- Chỉ tại con chưa kịp đưa tiền trình nên quan giam con, có
thế thôi.
Thầy đội không tin:
- Sao lại thế?
Muốn cho Thầy đội hiểu đầu đuôi việc của mình, mong thầy có
thương hại chăng, Pha bèn kể lể rõ ràng cho thầy nghe. Nghe xong, thầy nói:
- Phải, thằng già ấy nó hay dắt mồi cho quan để làm hại các
anh, mà anh phải biết nó cho cả thằng Thi vay ba chục để khấn quan đấy.
Pha sửng sốt cả người, song anh không tin. Anh nghi ngờ hết
thảy những người trong huyện. Anh nhận thấy họ có ý ghét ông nghị hay sao, nên
từ người lính cho đến Thầy đội, ai cũng nói xấu ông. Vả chăng qua cũng là cái
mưu mô họ lừa anh, chứ đời nào ông Nghị Lại xử tệ với anh được.
Ngắm anh một lát, Thầy đội lại hỏi:
- Mày láo, chứ mày bảo chưa kịp nộp tiền trình quan mà quan
giam. Hẳn mày đã hỗn láo gì hay có tội gì khác. Trăm thằng vào tù, thằng nào
cũng xoen xoét rằng không biết tội gì.
- Bẩm thật.
Thầy đội vờ gắt:
- Mày nói dối là mày dại, con ạ. Mày muốn tao gỡ cho, thì cứ
thú thực đi. Thú với tao chứ có phải thú với quan đâu. Nói với tao, tao bày kế
cho liệu, mà khi có tốn cũng tốn ít thôi, chứ mày lên quan, hở cơ ra, ông ấy
tóm được thì bỏ mẹ, con ạ. Mày phải biết một câu hớ hênh trước mắt quan là một
năm tù. Tao bảo trước cho mà biết.
Nghe lời hăm dọa, Pha trố mắt nhìn, nao nao cả ruột gan.
Nhưng xét tội mình chẳng qua chỉ chậm chạp nên anh quả quyết đáp:
- Bẩm quả chỉ vì con chậm đưa tiền trình.
Thầy đội nghĩ ra, bĩu môi nhạo:
- Bộ mày thế này mà dám nói có tiền. Mày là cậy có ông nghị
làm thầy, nên mày ”tăng phú” quan.
Pha cãi:
- Bẩm thực con có mang tiền đi.
Thấy Pha bị trúng kế, Thầy đội nói khích để thách:
- Ừ, thì tiền mày đâu? Mày nói gian lòi đuôi ra rồi.
Muốn chứng sự thực thà, Pha cởi nút thắt lưng lấy ra năm tờ
giấy một đồng, xòe ra trước mặt Thầy đội.
- Bẩm đây, chứ con có dám nói dối đâu.
Bất đồ Thầy đội chộp ngay, bóc lấy một tờ, bỏ nghiến vào túi,
vui sướng nói:
- Ừ, tóm được cậu rồi, có chạy đường trời, đang thiếu tiền
góp tổ tôm tối nay đây.
Rồi không lý sự gì thêm nữa, thầy chạy ra như thằng ăn cắp giật
và khóa tách cửa lại, rồi quay vào cười ha hả. Hẳn thầy đắc chí về cách lấy tiền
có nghệ thuật.
Bị mất tiền Pha quờ tay theo để vớ lại và đứng phắt dậy,
nhưng đánh nhói, anh tưởng gãy chân về cái cùm. Anh ôm cẳng xuýt xoa, vừa đau,
vừa tức, bất giác anh hu hu khóc. Anh không ngờ chốn công môn lại nhũng nhiễu
hơn chợ. Mất một đồng bạc, anh có còn bốn. Anh lấy gì lễ quan, theo trong giấy
ông nghị được? Như vậy anh không thể kêu oan nữa. Anh nói dối quan thật, vì anh
có đủ đâu năm đồng? Thế này thì chiều nay hay mai anh cũng không mong gì được
tha về. Mà tội lừa quan trên phải biết rằng không nhẹ. Lại nghĩ đến từ hôm qua
đến nay, anh mất vào những chỗ không đáng mất gần hai đồng rồi. Anh tiếc món tiền
mồ hôi nước mắt, có thể cứu sống gia đình anh ngót một tháng trời.
Pha ngồi trong buồng giam nhìn ra ngoài sáng. Bụng anh lo lắng
không lúc nào ngơi. Anh thương vợ phải mong mỏi anh về, mà ngày về của anh,
chưa biết chừng một tháng, hai tháng, hay đôi ba năm… Chẳng hay vợ anh có biết
nông nỗi này mà tìm anh, cố lo cho anh khỏi tai nạn hay không.
Thỉnh thoảng những con muỗi to và những con kiến lửa kềnh lại
đốt anh đánh nhói. Mà cả hai đùi tê liệt, máu đọng lại, bấm không thấy đau. Anh
mỏi, nhưng càng cựa càng đau. Anh thấy ở đời không có cái dại nào giống cái dại
nào, tự nhiên vô cớ đưa đầu vào tròng để nên tù nên tội. Anh chỉ mong trời phật
run rủi, cho ông nghị có thể giải thoát cho anh được.
Bóng nắng ngoài hè càng rợp sân, anh càng nóng ruột. Rồi thấy
bụng đói và thèm thuốc lào nữa. Nhất là khi lũ lính ăn cơm ở gian ngoài, anh
càng cồn cào. Chắc là anh phải nhịn bữa chiều hôm nay.
Rồi đến sẩm tối, trong trại vắng tanh, anh nghĩ đến vợ anh ở
nhà, bụng dạ lại cồn cào hơn đói. Một đêm nay nữa, một đêm lo sợ, không ngủ được,
anh sẽ thấy nó dài là ngần nào. Nghĩ đến từ sáng hôm nay về trước anh được tự
do mà thèm. Biết bao giờ anh lại được hưởng sự sung sướng như thế nữa. Nhìn cái
tương lai mù mịt, anh chỉ thở dài.
Anh ngả lưng xuống nhắm mắt lại, cố ngủ cho quên đói, quên
mong, quên khổ. Nhưng đất ẩm, anh xê dịch ra chỗ nào cũng không thoát. Muỗi vo
ve như đàn ong.
Anh thấy gian ngoài người ta thắp đèn ba dây, Thầy đội lệ và
bốn người nữa châu đầu vào ánh sáng đánh tổ tôm với nhau. Mỗi tiếng cười ròn rã
cũa Thầy đội là một nhát dao nhọn nó đâm vào ngực anh.
Anh cố ngủ, song không tài nào ngủ được. Lúc về sáng, anh có
chợp mắt hai ba dạo, nhưng lần nào cũng chiêm bao. Khi thấy như đang ở nhà với
vợ con. Khi thấy phải đày ra một nơi rừng rú nước độc. Cho nên lúc tỉnh dậy,
mình mỏi, hai chân đau liệt, anh bàng hoàng nghĩ đến ngày mai.
Cả đêm hôm ấy, chị Pha cũng không ngủ. Chị nóng cả ruột, hết
đứng lại ngồi, hết thở dài lại bế con ra cổng ngóng. Chị chắng hiểu duyên cớ vì
đâu mà chồng lên huyện, chỉ đưa một bức thư mà không thấy về. Hay quan đi vắng
anh phải ở lại đợi. Hay quan yêu anh vì nỗi gì mà bắt ở huyện cho làm lính lệ
tháng tháng được ăn lương chăng. Rồi đến chiều, tự nhiên chị thấy máy mắt thì
đâm lo, thành ra ruột nóng như cào. Nghĩ khôn chẳng nghĩ, chị lại cứ nghĩ dại.
chồng chị có đi đâu thì sớm tối thế nào cũng về, chứ chưa hề ngủ đêm lại bao giờ.
Cho nên lần này, chị thấy nhà quạnh vắng quá. Mà chị lo đêm hôm có trộm. Nhà
tuy chẳng có gì, nhưng gánh hàng đấy, nó vơ vét cũng được vài chục đồng bạc. Chị
đứng bên hàng rào gọi bà trưởng Bạt cho cái Bống sang ngủ với chị cho vui,
nhưng con bé nhát, sợ tối, không dám đi. Bởi vậy, vừa chập tối, chị đã đóng cổng,
chốt cửa giả cẩn thận rồi bế con đi nằm. Tuy vậy, chị có ngủ được đâu. Chị có
thể đếm được những tiếng kẽo kẹt của bụi tre gần đó nghiến vào nhau bao nhiêu lần,
cùng lúc canh tư chó nhà ai ở xóm đồng rít lên mấy hồi rùng rợn. Mỗi bận ở
ngoài đường có tiếng gót chân nện xuống đất, chị lại mừng hụt rồi lại lo. Đầu
trồng canh ba, chị vùng trở dậy, mở cửa ra đầu nhà, lấy nồi nước, bẻ bồ kếp và
đun. Chị gội đầu xong, ngồi quạt cho tóc khô, rồi mới đi nằm. Một tiếng chim
kêu khuya, một tiếng sột soạt, chị đều cho là cái điềm, mà không đoán được là
hay, hay gở.
Cho đến tận rạng đông, tuy ít ngủ, song chị ngồi nhổm dậy, tỉnh
táo lắm. Thằng bé còn nằm im thin thít, thỉng thoảng theo thói quen, móm mém miệng
như để bú. Chị mở bồ lấy đinh vàng, thẻ hương vội vàng ra miếu đầu làng để lễ,
suỵt soạt cầu bình yên cho chồng.
Chị đến bếp, nhóm lửa, thổi niêu cơm và gọi cái Bống sang
giúp đỡ. Bữa cơm vắng chồng, chị chắc chán ngắt, nên còn tí muối vừng chiều hôm
trước, chị đem ăn nốt, để dành dừa cho phần chồng. Ăn xong, chị đánh thức con,
mớm cho nó, rổi vét trong nhà có đồng hai tiền hàng, chị giắt thắt lưng, gánh
đôi bồ đi. Nhưng không hiểu sao, chị không ra chợ, chị tạt sang nhà bà trưởng Bạt:
- Bà cho tôi gửi gánh hàng, thầy cháu đi vắng, tôi không đi
chợ. Tôi lên huyện cắt một vài thức.
- Thế anh ấy đêm qua chưa về à?
Chị thở dài:
- Chưa, chả hiểu làm sao.
- Khoảng đầu trống ba, tôi thấy chó cắn, lại có tiếng người gọi,
tôi ngỡ anh ấy về. Phải, chị nghỉ buổi chợ, nhân tiện lên huyện xem sao.
Chị Pha quẩy gánh vào buồng, bà trưởng hỏi:
- Hôm nay phiên chợ huyện đấy nhỉ.
- Vâng.
- Thế chị chịu khó xem lợn có rẻ thì mua cho tôi một đôi, độ
đồng rưỡi hai đồng nhé, chị có ứng hộ, rồi tôi trả sau.
Chị Pha cười, thoái thác:
- Tôi chỉ có vài đồng để mua hàng, ứng sao được cho bà?
Bà trưởng vào buồng rồi ra, tay cầm cái túi bằng vải. Bà cởi
miệng túi, lấy ra một đồng bạc giấy, và đếm mười hào cho chị Pha. Chị Pha đùa:
- Chà, bà này rít nhỉ, cấp vốn cho tôi một đồng, mai tôi bán
được hàng, tôi trả nào.
- Còn đâu, đấy là tiền bán lợn của nhà Dậu hôm kia ấy.
Rồi bà chép miệng:
- Không bán thì thằng bố Dậu nó cũng khênh đi mất, tội quá,
thuốc với sái, đa mang vào chỉ khổ.
Chị Pha tán:
- Thì bà không cho tôi vay, chú Dậu chú ấy cũng ăn cắp mất hết
cho mà xem.
Bà trưởng thở dài, nghĩ ngợi một lát, rồi nói:
- Ờ thì tôi cho chị vay, cũng như gửi chị giữ hộ. Nhưng bao
giờ trả, phải lãi năm xu cơ.
Chị Pha nhận liều. Bà trưởng mở túi tiền ra đếm cả hào lẫn xu
năm và xu lẻ lấy một đồng. Chị Pha hớn hở:
- Thôi chào bà nhé.
- Hãy gượm, đi đâu mà vội, để tôi bảo nó ra giàn hái mấy là
trầu không, ăn một miếng đã.
Nhưng chị Pha nóng ruột nói:
- Để đến chiều. Thôi tôi đi đây.
Chị Pha tất tả lên huyện. Qua cánh đồng lúa má xanh tốt, chị
mừng thầm năm nay được mùa. Chị tạt qua ruộng nhà xem có hũ rượu lậu nào không,
trời trưa nắng, gió mát rười rượi làm chị càng hăm hở đi cho chóng đến nơi.
Đến phố huyện, qua các hàng cơm nào chị cũng hỏi thăm, nhưng
chẳng ai biết chồng chị là ai cả.
Chị càng bối rối. Giữa lúc ấy chị nghe có hồi trống rắn rỏi
trong huyện, chị biết rằng chỉ vào đó, hỏi thăm lính mới rõ.
Chị tiến vào cổng huyện, thấy người lính canh, xà cạp, thắt
lưng da, ngồi trên chiếc ghế đẩu, chống súng xuống đất thì ngập ngừng. Chị ngả
nón, đánh bạo đến gần hỏi:
- Thưa thầy quyền, thầy làm phúc bảo cháu, nhà cháu có trong
nhà này không?
Thấy câu hỏi vẩn vơ, người lính nhìn rất oai vệ. Nhưng khi đã
trông rõ rằng người đàn bà ngớ ngẩn này tuy xấu, nhưng còn đôi vú vớt vát được,
nên anh ta dịu ngay mặt, nhăn nhở trỏ vào cái nhà gạch cao ở cạnh, cười đáp:
- Có, chị muốn hỏi thăm nhà chị, thì vô khối trong kia.
Nói đoạn, hắn túm ngay lấy nón chị Pha. Chị hãi giật lùi lại,
nhưng không kịp.
- Lạy thầy, thầy cho cháu xin, cháu đi tìm nhà cháu đây mà.
Người lính nhìn chị Pha rất tình tứ, đáp:
- Biết rồi, có nói tử tế thì đằng này trả, không thầy thầy
cháu cháu gì cả. Lại đây bảo: người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên
gì hay không.
Chị Pha vốn chẳng phải nữ sĩ, nên câu văn chương kia, chị chẳng
hiểu gì. Song cũng đoán biết là thầy quyền ghẹo mình nên trống ngực chị nổi
lên, chị van lạy:
- Lạy thầy, cho cháu xin, cháu có chồng con rồi.
Người lính đứng phắt dậy, nắm lấy tay chị Pha, nhưng hụt. Chị
giằng được ra. Chị tức đầy ruột, nhưng phải nén không dám giở chua ngoa. Bỗng
có tiếng cười khanh khách:
- Này, hai anh chị để đến tối, ai lại ban ngày ban mặt mà xấu
chơi ngay ở ngoài đường thế.
Người lính híp đôi mắt lẳng lơ để cố cười cho có duyên. Thấy
người đội khăn, mặc áo dài thâm, ở tai có gài cái bút, có vẻ nho nhã, đương
nhìn người lính và mình giằng co nhau, chị Pha ngượng ngịu quá nói:
- Nhờ ông xin hộ thầy quyền cho cháu cái nón, cháu đi tìm nhà
cháu lên hầu quan từ chiều hôm qua chưa về.
Trong khi chị vô ý, thì đáp độp một cái ở ngực, chị Pha giật
nẩy mình. Trẻ phố xúm lại xem từ ban nãy cười dậy lên. Thì ra anh lính đã bóp
được vú chị. Chị xấu hổ, run lên, xám người lại, toan quen mồm cất tiếng chửi.
Nhưng người lính quẳng chiếc nón vào chị, nghiêng đầu cho rõ tình tứ và nhăn nhở
nói:
- Đây, anh cho nhà, nhà đi nhé.
Chị Pha hầm hầm cầm nón, đi thẳng vào sân công đường, kệ những
tiếng cười đằng sau vẫn giòn tan. Người lính hôm nọ thấy chị Pha quen mặt thì
chạy lại. Nỗi mừng làm chị quên ngay việc nhục nhã vừa rồi. chị hỏi:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét