Lịch sử phát triền
của nền âm nhạc cổ điển
Lịch sử của nền âm nhạc cổ điển được chia thành 6 thời kỳ lớn:
Thời kỳ Trung cổ, Thời kỳ Phục Hưng, Thời kỳ Baroque, Thời kỳ Tiền cổ Điển và Cổ
điển, Thời kỳ Lãng mạn và Thời kỳ Hiện đại.
THỜI KỲ TRUNG CỔ (TRƯỚC THẾ KỶ 15)
Âm nhạc đầu thời kỳ Trung cổ
Ở thời Trung cổ, hầu hết các nhạc sĩ chuyên nghiệp đều được
nhà thờ Cơ đốc giáo tuyển dụng. Vì nhà thờ đối lập với ngoại giáo liên quan đến
Hy Lạp và La Mã cổ đại nên nó không khuyến khích việc biểu diễn âm nhạc Hy Lạp
và La Mã. Hậu quả là loại âm nhạc này bị tàn lụi.
Người ta biết rất ít về thể loại thánh ca không nhạc đệm được
sử dụng trong những nghi lễ nhà thờ thời kỳ đầu. Tuy nhiên thể loại thánh ca Cơ
đốc giáo xuất hiện được bắt nguồn từ âm nhạc lễ nghi của đạo Do Thái và những
giai điệu thế tục thời đó. Những giai điệu thánh ca phát triển ở Roma được sáng
tác và ấn định cho những trình tự cụ thể trong những nghi lễ nhà thờ trong thời
kỳ từ thế kỷ thứ 5 đến thứ 7. Thánh ca La Mã được biết tới như thánh ca
Gregorian theo tên của Giáo hoàng Gregory, giáo hoàng Vĩ đại, người có thể đã
sáng tác một số giai điệu và là người tích cực khuyến khích các nhà thờ sử dụng
âm nhạc được lễ nghi hóa một cách có thứ tự. Vì Gregory và các giáo hoàng về
sau ưa thích thánh ca Gregorian hơn những thể loại khác đã phát triển ở châu
Âu, thánh ca Gregorian cuối cùng đã thế chỗ cho hầu hết những thể loại khác.
Phong cách thánh ca Gregorian và các thể loại thánh ca khác được gìn giữ trong
nhiều bản thảo viết tay. Các ký hiệu âm nhạc được sử dụng trong những bản thảo
viết tay này thuộc hệ thống ký hiệu neumes, cội rễ sớm nhất của hệ thống ký hiệu
âm nhạc hiện đại.
Ít nhất cũng phải đến thế kỉ thứ 9 nhiều nhạc sĩ mới cảm thấy
sự cần thiết phải có một thứ âm nhạc phức tạp hơn kiểu giai điệu không nhạc đệm.
Họ bắt đầu thêm vào bè giọng hát được hát đồng thời với những đoạn của thánh
ca. Kết quả là sự ra đời của phong cách âm nhạc gọi là organium (một hình thức
âm nhạc phức điệu sớm nhất). Trong phong cách organium thời kỳ đầu, bè giọng
hát được thêm vào chạy song song một cách đơn giản với giai điệu thánh ca nhưng
được hát trên đó một quãng tư hay quãng năm. Về sau bè thêm vào trở thành một
giai điệu đối âm độc lập. Organium có vị trí quan trọng trong lịch sử âm nhạc
vì đó là bước đầu tiên hướng tới sự phát triển của kết cấu âm nhạc được biết đến
là phức điệu (polyphony), việc sử dụng nó ở phạm vi rộng là đặc trưng nổi bật
nhất của âm nhạc phương Tây.
Vào khoảng cuối thế kỷ 12, organium được viết theo ba hoặc bốn
bè giọng hát, hình thành những tác phẩm dài có thể choán đầy không gian mênh
mông của những nhà thờ Gothic bằng âm lượng lớn. Những trung tâm phát triển
chính của organium là ở Pháp, tại Tu viện Saint Martial ở Limoges và tại Nhà thờ
Đức Bà Paris. Kỹ thuật organium kiểu Anh, gọi là gymel, đến giai đoạn này cũng
đã phát triển.
Để các nhạc sĩ có thể đọc và biểu diễn một số bè giọng hát
khác nhau một cách đồng thời, một hệ thống ký hiệu âm nhạc tỉ mỉ đã được phát
triển. Ký hiệu cao độ được giải quyết bằng việc sử dụng một khuông nhạc gồm 4,
5 dòng kẻ hoặc hơn thế, với mỗi dòng hay khoảng trống giữa chúng đại diện cho một
cao độ cụ thể, như là ký hiệu âm nhạc ngày nay. Sự hoàn hảo của hệ thống này là
nhờ ở tu sĩ Ý dòng Benedictine Guido d’Arezzo thế kỷ 11. Ký hiệu về nhịp thời
gian tỏ ra khó hơn. Giải pháp được rút ra trong thế kỷ 11 và 12 là dựa vào một
nhóm những mẫu hình nhịp điệu ngắn gọi là những kiểu nhịp. Mẫu hình hay kiểu nhịp
tương tự được lặp đi lặp lại cho đến khi nhà soạn nhạc chỉ ra bằng một ký hiệu
theo đó một kiểu nhịp khác thế chỗ nó. Nhờ việc sử dụng “ký hiệu cách thức” này
trong âm nhạc, một sự đa dạng các chương nhịp đạt được bằng cách sử dụng những
kiểu khác nhau một cách đồng thời trong các bè giọng khác nhau và bằng cách
thay đổi các kiểu trong tiến trình một tác phẩm. Đến cuối thế kỷ 13 người ta đã
bỏ kiểu ký hiệu cách thức và những ký hiệu đầu tiên của hệ thống những giá trị
nốt dài và ngắn hiện đại đã được đưa vào sử dụng.
Organium là một bước phát triển âm nhạc phức tạp ban đầu được
những giáo sĩ có trình độ trong nhà thờ Cơ đốc giáo khuyến khích và đánh giá
cao. Một truyền thống âm nhạc thế tục, đơn giản hơn trong cấu trúc, đã tồn tại
bên ngoài nhà thờ. Đây là thứ nhạc đơn âm của các nhạc sĩ lưu động, những người
hát rong và con cháu họ, những người hát rong Pháp và Đức.
Cả âm nhạc tôn giáo và thế tục đều sử dụng nhiều loại nhạc cụ,
gồm các đàn dây như lyre, psaltery và fiddle thời trung cổ, hoặc đàn viele. Các
nhạc cụ phím gồm cả organ. Các nhạc cụ gõ gồm cả trống nhỏ và chuông nhỏ.
Một sự thay đổi lớn về phong cách xảy ra trong âm nhạc suốt đầu
thế kỷ 14. Phong cách mới được giáo sĩ cấp cao người Pháp Philippe de Vitry, một
trong những nhà soạn nhạc hàng đầu của thời kỳ này, gọi là ars nova (tiếng
Latin nghĩa là “nghệ thuật mới”). Kết quả là âm nhạc thời kỳ này phức tạp hơn mọi
tác phẩm được viết trước đó, phản ánh một tinh thần mới ở châu Âu làm nổi bật sự
tài tình và khéo léo của con người. De Vitry cũng tìm ra một hệ thống gồm cả những
ký hiệu về thời gian. Điều này cho phép các nhạc sĩ thế kỷ 14 đạt được một sự tự
do về nhịp điệu mới trong sáng tác của họ.
Những phức tạp mới mang một số hình thức. Nới rộng nguyên tắc
của những thể thức nhịp ngắn, các nhà soạn nhạc ars nova đã sử dụng những mẫu
hình nhịp gồm 12 nốt hoặc nhiều hơn mà chúng lặp đi lặp lại trong một hoặc nhiều
bè giọng của tác phẩm. Nguyên tắc mới được gọi là nhịp tương tự (isorhythm,
trong tiếng Hy Lạp iso nghĩa là “tương tự”). Các nhà soạn nhạc đã sử dụng một
bè giọng được sắp xếp tương tự về nhịp như nền tảng của các tác phẩm lớn và đan
kết những giai điệu lên đó để trình bày những ý đồ đa thanh phức tạp. Giọng nền
thường được tiếp quản từ một phần của thánh ca Gregorian. Giai điệu vay mượn
này được biết đến là cantus firmus (tiếng Latin nghĩa là “giai điệu cố định”. Thể
loại âm nhạc trong đó các nhà soạn nhạc sử dụng nguyên tắc nhịp tương tự với mức
độ lớn nhất là motet (tạm dịch là thánh ca ngắn). Một số motet, thêm vào sự phức
tạp về cấu trúc còn có một số lời ca được hát một cách đồng thời.
Điều phức tạp thứ hai của ars nova liên quan đến cấu trúc tổng
thể của âm nhạc được viết cho thể loại mass (thánh ca). Trước năm 1300, những
tác phẩm phức điệu đôi khi đã được viết thành những phần riêng rẽ của mass. Vào
thế kỷ 14, lần đầu tiên, cả năm phần cấu tạo nên một mass như thông lệ được xem
như một tổng thể hòa nhập. Người đầu tiên làm điều này là giáo sĩ, nhà thơ và
nhà soạn nhạc Pháp Guillaume de Machaut. Tuy nhiên tiền lệ của ông không được
đi theo cho đến tận thế kỷ tiếp đó.
Một đặc trưng nổi bật của ars nova là sự quan tâm hơn đến âm
nhạc thế tục. Lần đầu tiên những nhà soạn nhạc lớn đã viết cả nhạc thế tục và
nhạc tôn giáo. Những giai điệu không được phối hòa âm mà những người hát rong
thế kỷ 13 hát đã được các nhà soạn nhạc thế kỷ 14 phát triển thành những tác phẩm
ba giọng gọi là chanson (tiếng Pháp nghĩa là “bài ca”). Những mẫu hình lặp lại
dòng trong lời ca áp dụng cho những chanson này quyết định hình thức tổng thể của
âm nhạc. Các hình thức phối hợp thường được sử dụng nhất ở Pháp là rondeau,
virelai và ballade. Ở nước Ý madrigal, caccia và ballata là những kiểu được ưa
thích hơn. Nhà soạn nhạc Ý nổi bật nhất thời kỳ này là Francesco Landini.
THỜI KỲ PHỤC HƯNG (1400-1600)
Chống lại những phức tạp của ars nova, hầu hết các nhà soạn
nhạc đầu thế kỷ 15 ưa thích phong cách âm nhạc đơn giản hơn với những giai điệu
chảy trôi êm ả, những hòa âm nghe êm tai hơn và ít nhấn mạnh vào đối âm hơn.
Nhà soạn nhạc Anh John Dunstable là người đầu tiên đẩy mạnh việc hướng tới một
phong cách đơn giản hơn. Những nét thanh nhã trong phong cách của ông sớm được
các nhà soạn nhạc khác ở lục địa châu Âu tiếp thu, đặc biệt là những người phục
vụ các công tước Bourgogne miền bắc nước Pháp. Những nhà soạn nhạc Bourgogne
này nổi tiếng bởi những chanson trong đó một bè giọng thể hiện giai điệu chính
và một hoặc hai bè khác đảm nhiệm vai trò phần đệm. Những người Bourgogne, đầu
tiên là Machaut, cũng phát triển thông lệ sáng tác mass với các phần như một tổng
thể hòa nhập. Kết quả là mass trở thành một thể loại bất hủ, về tầm vóc có thể
sánh với các giao hưởng thế kỷ 19. Các mass sử dụng một cantus firmus (bè
chính, bè cao nhất) thường được dựa trên những chanson hay những giai điệu thế
tục khác. Thực tế này phản ánh ảnh hưởng gia tăng của mối quan tâm đến mảng thế
tục trong thời Phục hưng.
Trong viết nhạc đối âm, những nhà soạn nhạc thời Phục hưng dựa
nhiều vào việc mô phỏng, sự trình bày liên tiếp, gần gụi về khoảng cách trong một
hay nhiều bè giọng có cùng ý đồ giai điệu. Kỹ thuật mô phỏng đã được sử dụng từ
cuối thế kỷ 14 nhưng trong thời Phục hưng nó đã trở thành một yếu tố cấu trúc
chính trong âm nhạc. Nếu một bè giọng bắt chước một bè giọng khác một cách nhất
quán trong một khoảng cách thời gian dài vừa phải, hai bè giọng sẽ hình thành
nên một canon (tạm dịch là “luân khúc”). Trong âm nhạc thời Phục hưng, những cặp
bè giọng chuyển dịch trong một canon suốt cả tác phẩm hay một phần tác phẩm
trong khi những mô phỏng ngắn hơn diễn ra trong những bè giọng khác.
Nhà soạn nhạc nhiều tài nhất đầu thời Phục hưng là Guillaume
Dufay. Ông đã viết các motet có sự phức tạp gần với phong cách của ars nova
cũng như các chanson theo một kiểu mới hơn và nhẹ nhàng hơn. Nhà soạn nhạc nổi
bật về thể loại chanson là Gilles Binchois.
Ảnh hưởng của những nhà soạn nhạc Bourgogne đến giữa thế kỷ 15 đã suy giảm. Từ khoảng năm 1450 đến khoảng 1550 hầu hết các chức vụ về âm nhạc
quan trọng ở châu Âu do những nhà soạn nhạc sinh vào thời đó ở Hà Lan, Bỉ và những
vùng của nước Pháp kề cận đó nắm giữ. Những nhà soạn nhạc này thường được gọi
là Người Hà Lan theo tên vùng đất quê hương họ.
Nói chung những Người Hà Lan ưa thích kiểu âm thanh đồng nhất
hơn, chẳng hạn như do một hợp xướng không nhạc đệm tạo ra. Kết cấu âm nhạc chiếm
ưu thế của họ là đối âm với mọi bè giọng có tầm quan trọng ngang bằng. Các đặc
trưng âm nhạc này tương phản với kiểu âm thanh Bourgogne điển hình, trong đó mỗi
bè giọng có mầu sắc riêng (chẳng hạn như một giọng solo được hai nhạc cụ solo
khác đệm cho) và trong đó một giọng sẽ trội hơn các giọng khác.
Những Người Hà Lan tiếp tục truyền thống Bourgogne về sáng
tác chanson, motet và mass. Mặc dù nhiều tác phẩm mass xuất sắc được sáng tác
vào cuối thế kỷ 15 và thế kỷ 16 nhưng thể loại mass khi đó không tạo ra một sự
thách thức như nó đã từng làm đối với những nhà soạn nhạc Bourgogne. Các kỹ thuật
cơ bản để thống nhất một bản mass toàn vẹn đã trở thành đặc tính chung của mọi
nhà soạn nhạc, lời ca của mass, vẫn luôn giữ nguyên, khơi gợi ít kiểu phổ nhạc
hơn. Phần lớn vì những lý do này, thể loại motet trở thành phương tiện biểu lộ
để thử nghiệm. Lời ca, rút ra từ mọi phần của Kinh Thánh cũng như từ các nguồn
khác, gợi ra cho các nhà soạn nhạc nhiều ý tưởng âm nhạc mang tính minh họa.
Chanson của thế kỷ 16 đã xa rời hẳn vẻ hấp dẫn đơn giản của các bài tình ca
Bourgogne. Chúng có xu hướng được đối âm tỉ mỉ hoặc là được rót đầy bằng các ngụ
ý âm nhạc dí dỏm ám chỉ tiếng gọi chim, tiếng rao của những người bán dạo ngoài
phố và tương tự thế. Những chanson của các nhà soạn nhạc người Paris Claudin de
Sermisy và Clément Janequin minh họa cho phong cách thứ hai.
Những Người Hà Lan hàng đầu là Johannes Okeghem, Jacob
Obrecht, Josquin Desprez và Orlando di Lasso. Trong số những nhạc sĩ Ý nổi bật
nhất cuối thời Phục hưng có Giovanni da Palestrina. Âm nhạc của ông điển hình
cho dòng phức điệu hợp xướng ngang bằng, điều là tiêu chuẩn chính của phong
cách âm nhạc Phục hưng. Những nhạc sĩ danh tiếng khác của thời kỳ này gồm cả
nghệ sĩ organ, nhà soạn nhạc người Anh William Byrd và nhà soạn nhạc người Tây
Ban Nha Tomás Luis de Victoria. Điều quan trọng đối với sự phát triển của âm nhạc
là sự phát triển của các kỹ thuật in ấn tác phẩm âm nhạc. Được một thợ in
Venice tên là Ottaviano dei Petrucci sáng chế ra lần đầu tiên, các kỹ thuật như
vậy mau chóng được đưa vào sử dụng ở Antwerp, Nürnberg, Paris và Rome.
THỜI KỲ BAROQUE (1600-1700)
Vào cuối thế kỷ 16, khi tính phức điệu thời Phục hưng vẫn còn
đang thịnh hành, những tiến triển mới ở Ý đã bắt đầu làm thay đổi âm giọng và cấu
trúc của âm nhạc. Rất nhiều nhạc sĩ Ý không thích phong cách đối âm của những
Người Hà Lan. Mong ước được tranh đua với nền âm nhạc cổ điển điển hình của người
Hy Lạp, họ thích những cấu trúc ít phức tạp hơn, được biểu lộ bằng những sự
tương phản thường gây xúc động, chủ đề dễ hiểu và sự tác động lẫn nhau của các
giọng hát và nhạc cụ. Những yếu tố như thế trở nên đặc biệt nổi bật trong thể
loại opera, một thể loại lần đầu tiên được trình diễn ở Florence vào cuối thế kỷ
16 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 17 bởi nhà soạn nhạc người Ý Claudio
Monteverdi. Những thể loại mới khác của thanh nhạc (vocal music) gồm có cantata
và oratorio.
Khí nhạc cũng ngày càng trở nên nổi bật trong suốt thế kỷ 17
này, thường ở hình thức một tác phẩm đối âm liên tục với sự phân chia không rõ
ràng giữa các đoạn hoặc các chương, nó đã sinh ra những cái tên như ricercare,
fantasia và fancy.
Một phong cách sáng tác thứ hai được tạo bởi những bộ phận tương phản, thường ở những kết cấu cũng một chủ điệu và đối âm, hình thức này được biết đến là canzona hoặc sonata. Rất nhiều bản khí nhạc được dựa trên những giai điệu hoặc bè trầm đã có sẵn; chúng gồm có chủ đề và các biến tấu, passacaglia, chaconne và chorale prelude. Các tác phẩm theo nhịp vũ khúc thường được gộp chung thành các suite (tổ khúc). Cuối cùng các nhà soạn nhạc đã phát triển các bản nhạc theo các phong cách ứng tác (ngẫu hứng) cho các nhạc cụ đàn phím, những bản nhạc loại này được gọi là prelude, toccata và fantasia.
Một phong cách sáng tác thứ hai được tạo bởi những bộ phận tương phản, thường ở những kết cấu cũng một chủ điệu và đối âm, hình thức này được biết đến là canzona hoặc sonata. Rất nhiều bản khí nhạc được dựa trên những giai điệu hoặc bè trầm đã có sẵn; chúng gồm có chủ đề và các biến tấu, passacaglia, chaconne và chorale prelude. Các tác phẩm theo nhịp vũ khúc thường được gộp chung thành các suite (tổ khúc). Cuối cùng các nhà soạn nhạc đã phát triển các bản nhạc theo các phong cách ứng tác (ngẫu hứng) cho các nhạc cụ đàn phím, những bản nhạc loại này được gọi là prelude, toccata và fantasia.
Với sự gia tăng của các thể loại mới ở thế kỷ 17, một vài
khái niệm cơ bản về cấu trúc âm nhạc đã bị biến đổi, đặc biệt là ở Ý. Thay vì
viết những bản nhạc mà trong đó tất cả các giọng từ soprano tới bass tham gia một
cách bình đẳng vào hoạt động âm nhạc, các nhà soạn nhạc chỉ tập trung vào các
phần của soprano hay bass và đơn thuần lấp đầy những khoảng trống còn lại bằng
những hợp âm. Sự cách quãng chính xác của những hợp âm không quan trọng và các
nhà soạn nhạc thường cho phép người chơi đàn phím ứng biến chúng. Các thuật ngữ
như basso continuo và figured bass liên quan đến bè trầm và việc lấp đầy âm,
cái làm thành một bố cục được sử dụng tất cả các thể loại âm nhạc, đặc biệt là
các bài hát solo.
Một sự cách tân quan trọng khác của thế kỷ 17 đã biến phong
cách hay thay đổi của âm nhạc gần cuối thời phục hưng sang một phong cách đặc
trưng bởi các yếu tố nhiều tương phản, người ta biết đến nhiều cái tên khác
nhau như concertato, concertate và concerto, từ concertare (tiếng Latin nghĩa
là “sát cánh chiến đấu”). Những tương phản xuất hiện ở nhiều cấp độ âm nhạc, chẳng
hạn như các nhạc cụ tương phản hoặc mật độ tương phản của âm thanh, ví dụ như với
một nhạc cụ solo đối đáp cùng một nhóm nhạc cụ, những tỉ lệ tương phản của tốc
độ và những mức độ tương phản của âm lượng. Những đặc trưng tương phản này được
tạo nên để ganh đua hay luân phiên bằng một nhạc cụ khác nhằm tạo ra một phong
cách âm nhạc năng nổ và kích động, được áp dụng vào âm nhạc viết cho mọi loại
nhạc cụ cũng như cho giọng hát và được dùng cho mọi hình thức và thể loại.
Các nhà soạn nhạc nổi tiếng của thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18
này bao gồm: các nhạc sĩ người Ý Arcangelo Corelli, Alessandro Scarlatti,
Domenico Scarlatti và Antonio Vivaldi, các nhạc sĩ người Đức Dietrich Buxtehude
và Heinrich Schutz, nhạc sĩ người Anh Henry Purcell, nhạc sĩ người Pháp gốc Ý
Jean Baptiste Lully, và nhạc sĩ người Pháp Jean Philippe Rameau.
Về cuối thế kỷ 17, một hệ thống những mối liên hệ hòa âm gọi
là “khóa nhạc” bắt đầu thống trị âm nhạc. Sự phát triển này tạo cho nền âm nhạc
một trào lưu ngầm những mối liên hệ hệ tầm xa giúp gọt giũa đi một vài chỗ còn
thô của những đối âm trong phong cách thời đầu Baroque. Đến đầu thế kỷ 18 các
nhạc sĩ đã đạt tới một sự kiểm soát chắn chắn đối với những bắt buộc phức tạp của
khóa nhạc. Cũng đến thời kỳ này, họ đã từ bỏ trên quy mô lớn quan niệm về sự
thay đổi thường xuyên trong “Điệu” (mood) và đã bắt đầu ưa thích một phương
pháp có mức độ hơn và đồng nhất hơn. Thường một bản nhạc hay chương nhạc hoàn
chỉnh là một soạn thảo công phu của một năng lực cảm xúc được gọi là “làm xúc động”.
Sự kiểm soát đối với khóa nhạc và sự nhấn mạnh vào các điệu đơn trên quy mô lớn
đã dẫn đến cảm xúc bảo đảm và chắc chắn trong âm nhạc thời kỳ này, kể cả âm nhạc
của hai nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức cuối thời Baroque là Johann Sebastian
Bach và George Frideric Handel.
THỜI KỲ TIỀN CỔ ĐIỂN VÀ CỔ ĐIỂN (1730-1820)
Từ khoảng năm 1720 những tiến triển mới một lần nữa lại bắt đầu
làm suy yếu phong cách âm nhạc đang thịnh hành. Các nhạc sĩ trẻ thấy rằng sự đối
âm thời kỳ Baroque quá cứng nhắc và lý trí, họ ưa thích một sự biểu lộ âm nhạc
tự nhiên, ít gò bó hơn. Thêm vào đó, tư tưởng cuối thời Baroque về việc hình
thành một đặc tính cảm xúc độc đáo và duy trì nó trong suốt một tác phẩm dường
như đang thui chột đi đối với các nhạc sĩ trẻ này.
Sự phản ứng lại phong cách Baroque này có những hình thức
khác nhau ở Pháp, Đức và Ý. Ở Pháp một trào lưu mới thường được gọi là rococo
hay style galant (tiếng Pháp có nghĩa là “phong cách nhã nhặn”), có đại diện là
nhà soạn nhạc người Pháp François Couperin. Phong cách này nhấn mạnh kết cấu
cùng một chủ điệu, nghĩa là giai điệu cùng với phần đệm có sự hài hòa âm thanh.
Giai điệu được điểm tô bằng những nét hoa mỹ chẳng hạn như những tiếng rung (trill) ngắn. Thay cho một dòng nhạc không đứt quãng như ở thể loại Fugue thời Baroque, những nhà soạn nhạc người Pháp đã viết ra những bản nhạc kết hợp những đoản khúc riêng biệt, giống như trong nhạc khiêu vũ. Sáng tác đặc trưng ở đây ngắn và mang tính chương trình, có nghĩa là nó miêu tả sinh động những hình ảnh phi tính nhạc chẳng hạn như những con chim hay những chiếc cối xay gió. Đàn Harpsichord (clavico) là loại nhạc cụ phổ biến nhất giai đoạn này và rất nhiều suite (tổ khúc) được viết cho cây đàn này.
Giai điệu được điểm tô bằng những nét hoa mỹ chẳng hạn như những tiếng rung (trill) ngắn. Thay cho một dòng nhạc không đứt quãng như ở thể loại Fugue thời Baroque, những nhà soạn nhạc người Pháp đã viết ra những bản nhạc kết hợp những đoản khúc riêng biệt, giống như trong nhạc khiêu vũ. Sáng tác đặc trưng ở đây ngắn và mang tính chương trình, có nghĩa là nó miêu tả sinh động những hình ảnh phi tính nhạc chẳng hạn như những con chim hay những chiếc cối xay gió. Đàn Harpsichord (clavico) là loại nhạc cụ phổ biến nhất giai đoạn này và rất nhiều suite (tổ khúc) được viết cho cây đàn này.
Ở miền Bắc nước Đức, phong cách tiền cổ điển được gọi là
“Empfindsamer Stil” (tiếng Đức-nghĩa là “phong cách nhạy cảm”). Nó chứa đựng một
phạm vi những cảm xúc trái ngược rộng hơn hơn phong cách Galant-thường có xu hướng
tao nhã và vui vẻ một cách đơn thuần. Các nhà soạn người Đức luôn viết các tác
phẩm dài hơn so với các tác phẩm của người Pháp và sử dụng nhiều kỹ thuật âm nhạc
thuần túy để thống nhất các tác phẩm của mình. Họ không dựa vào các hình tượng phi
âm nhạc như người Pháp đã làm. Người Đức, do vậy, đã đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển của các hình thức trừu tượng, như hình thức sonata, và
trong sự phát triển của thể loại lớn như concerto, sonata và symphony.
Ở Italy, phong cách tiền cổ điển không có một cái tên dành
riêng cho nó, có lẽ bởi vì nó không cắt đứt một cách đột ngột với âm nhạc thời
ngay trước đó. Tuy nhiên các nhà soạn nhạc Italy cũng đã góp phần rất lớn cho sự
phát triển của các thể loại mới, đặc biệt là symphony. Opera overture của người
Ý thường được gọi là sinfonia, thường không có sự kết nối về âm nhạc hay tính kịch
với chính vở opera mà nó giới thiệu. Thỉnh thoảng các nhạc công Italy chơi các
Opera overture trong các buổi hòa nhạc và các nhà soạn nhạc rốt cuộc đã bắt đầu
viết các bản khí nhạc độc lập theo quy mô Overture. Quy mô này gồm 3 chương,
chương đầu và cuối với tốc độ nhanh và chương giữa với tốc độ chậm. Trong mỗi
chương sự phát triển của các ý tưởng âm nhạc thường theo một khuôn mẫu mà cuối
cùng phát triển thành hình thức sonata.
Các nhà soạn nhạc người Ý đã từng hình thành ý tưởng viết một
sinfonia khí nhạc độc lập, thế rồi Người Đức đã tiếp tục ý tưởng và áp dụng
tính khéo léo nhiều trí tuệ vào đó. Các trung tâm hoạt động chính của người Đức
là ở Berlin, Mannheim và Vienna. Như là kết quả của các hoạt động trên quy mô lớn,
các hình thức, thể loại và cách thức truyền đạt âm nhạc khác nhau đã được sinh
ra. Sự khác biệt phát sinh giữa phương tiện truyền đạt của âm nhạc thính phòng
(chamber music), trong đó mỗi nhạc cụ sẽ chơi phần của mình, và phương tiện
truyền đạt của âm nhạc giao hưởng (symphonic music), trong đó nhiều nhạc cụ
cùng chơi một phần. Trong phạm trù âm nhạc thính phòng các nhà soạn nhạc bắt đầu
phân biệt một số phương tiện truyền đạt như string quartet (tứ tấu đàn dây),
string trio (tam tấu đàn dây) và keyboard sonata (sonata đàn phím) với phần đệm
của violin. Với các thể loại cho dàn nhạc, các nhà soạn nhạc không chỉ viết các
symphony mà còn cả các concerto cho nhạc cụ solo cùng dàn nhạc.
Symphony, sonata, concerto và string quartet đều theo những đề
cương có hình thức tương tự. Chúng đều có ba hoặc bốn chương, một hoặc nhiều
hơn trong số các chương đó ở hình thức sonata. Được việc sử dụng khóa nhạc phức
tạp, đã phát triển đến cuối thời Baroque, tạo cho khả năng, hình thức sonata đã
hồi sinh vào giữa quãng thế kỷ 18 và khai thác được mạng lưới phức tạp các quan
hệ hoà âm giữa các âm và hợp âm riêng biệt trong cùng một điệu hay giữa các điệu
khác nhau. Hình thức sonata được dựa trên một chương rời bỏ rồi lại quay lại điệu
chính. Thêm vào đó là sự trình bày những chủ đề đối lập tại đầu mỗi chương và
phát triển một hay tất cả các chủ đề một cách công phu hay riêng rẽ về sau.
Giai đoạn phát triển đỉnh điểm của âm nhạc thế kỷ 18 là vào
cuối thế kỷ này khi một nhóm các nhà soạn nhạc được biết đến như “Trường phái cổ
điển Vienna”, mà nổi bật nhất có Joseph Haydn, Wolfgang Amadues Mozart, Ludwig
van Beethoven.
Opera thế kỷ 18 cũng đã trải qua rất nhiều thay đổi. Ngay tại
quê hương của opera là Italy, nó cũng đã mất đi rất nhiều đặc tính nguyên thủy như là một vở kịch với âm nhạc. Thay vào đó nó đã trở thành một loạt các aria
được viết cho các giọng ca tài năng thể hiện. Một số nhà soạn nhạc châu Âu lại
đưa vào các bản interlude và accompaniment khí nhạc như một yếu tố quan trọng.
Họ tiến hành sử dụng các hợp xướng lớn hơn và đưa ra nhiều phong cách và hình
thức aria hơn trước. Họ cũng cố gắng để phối hợp các nhóm recitative, aria,
duet, chorus và các phần khí nhạc vào các lớp lang thống nhất. Cải cách quan trọng
nhất là nhà soạn nhạc sinh ra ở Bavarian, Christoph Willibald Gluck, người mà
các opera có ảnh hưởng nhất được viết ở Vienna và Paris từ năm 1764 đến 1779.
Opera thời kỳ Cổ điển đạt tới đỉnh cao nhất trong các tác phẩm sân khấu của
Mozart, trong đó đó mọi khía cạnh của thanh nhạc lẫn khí nhạc đều góp phần vào
sự phát triển của cốt truyện và sự mô tả tính cách nhân vật.
THỜI KỲ LÃNG MẠN (1800-1910)
Đầu thế kỉ 19, các tác phẩm âm nhạc của trường phái cổ điển
Vienna với những tên tuổi như Haydn, Mozart, Beethoven chiếm lĩnh toàn bộ châu
Âu. Các nhà soạn nhạc đã thường viết các bản biến tấu theo phong cách này, một
phong cách có thể mang lại nhiều ấn tượng. Phong cách này có khuynh hướng trở
thành công thức ở trong bàn tay của những nhà soạn nhạc kém tài năng. Một phần
vì lý do này mà các cuộc thí nghiệm của những nhà soạn nhạc thời kỳ 1810 - 1820
dần dần bắt đầu tìm đến những phong cách mới.
Cuộc phiêu lưu của những nhạc sĩ cũng không kéo dài lâu, có cảm
giác rằng việc thiết yếu là kết hợp tất cả các yếu tố trong âm nhạc của họ cũng
là việc bảo vệ sự trọn vẹn của những nguyên tắc chung. Họ bắt đầu đề cao những
giá trị âm nhạc khác hơn là những giá trị truyền thống. Thay vì kiểm soát
chúng, họ lại bắt đầu đề cao những phẩm chất như sự bốc đồng và khác lạ. Sức mạnh
của họ, lấy ví dụ, họ phát triển những hợp âm ít thông dụng thậm chí những hợp
âm này không nằm trong cấu trúc hòa âm tổng thể của tác phẩm. Cũng như vậy, nếu
âm thanh của những nhạc cụ đặc thù dường như thu hút một cách đặc biệt theo suốt
quá trình diễn biến của bản giao hưởng, họ đã viết những đoạn độc tấu hoa mỹ dài cho nhạc cụ này, cho dù những đoạn solo này làm hình thù tác phẩm thêm căng
cứng. Bằng cách này hay cách khác, những nhạc sĩ thế kỷ 19 bắt đầu phô ra sự
lãng mạn, đối nghịch lại phong cách cổ điển, đó là quan điểm nghệ thuật của họ.
Thẩm mỹ về trường phái Lãng mạn đặc biệt lên cao ở Đức và Trung Âu. Các tác phẩm
khí nhạc của nhạc sĩ người Áo, Franz Schubert và các tác phẩm piano và opera của
nhạc sĩ người Đức Carl Maria von Weber là những biểu hiện sớm sủa của sự phát
triển âm nhạc.
Những nhà soạn nhạc thời kỳ Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ
văn học, hội họa hay từ những nguồn không âm nhạc khác. Vì vậy, âm nhạc chương
trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng.
Nhạc sĩ người Pháp Hector Berlioz và nhạc sĩ người Hungary Franz Liszt trở nên
đặc biệt nổi bật trong thể loại này. Các bài thơ trong thế kỷ 18 và 19 là cơ sở
đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm
nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Những bài hát nghệ thuật của
Đức thường được biết đến dưới cái tên Đức là lied (số nhiều là lieder). Hàng
trăm lieder được viết trong thế kỷ 19, những nhà soạn nhạc đặc biệt thành công
trong thể loại này là Franz Schubert, Robert Schumann, Johannes Brahms, Hugo
Wolff và cuối thế kỉ là Richard Strauss.
Một trong những thể loại lý tưởng của thế kỷ 19 là opera. Tại
đây, tất cả những loại hình nghệ thuật hòa cùng nhau mở ra những quang cảnh
hùng vĩ, những cao trào của xúc cảm và là cơ hội tốt cho những giọng ca tuyệt vời
khoe giọng. Tại Pháp, Gasparo Spontini và Giacomo Mayerbeer sáng tạo ra thể loại
grand opera. Jacques Offenbach - một người Pháp khác đã phát triến thể loại
comic-opera (gọi theo tiếng Pháp là opéra bouffe). Những tác giả viết opera
quan trọng nhất của Pháp còn phải kể đến Charles Gounod và Georges Bizet. Ở Ý,
Gioacchino Rossini, Gaetano Donizetti và Vincenzo Bellini tiếp tục phong cách
opera truyền thống của Ý từ thế kỷ 18 bel canto (tiếng Ý có nghĩa là hát đẹp).
Tại Ý vào nửa cuối thế kỷ 19, Giuseppe Verdi đã làm giảm đi sự ảnh hưởng của lối
hát bel canto bằng cách nhấn mạnh đến sự kịch tính trong những mối quan hệ giữa
con người với con người. Giacomo Puccini thì quan tâm đến những mối tình ủy mị
và những cảm xúc mãnh liệt. Tại Đức, Richard Wagner sáng tạo ra một phong cách
opera mới mà chính ông tự gọi là nhạc kịch (drama music).
Tại đây tất cả những khía cạnh của tác phẩm đều hướng đến trung tâm kịch tính hoặc ý đồ triết học. Không như Verdi luôn hướng đến đề tài con người, Wagner luôn quan tâm hơn đến những yếu tố mang tính truyền thuyết, thần thoại và coi đó là khái niệm của sự chuộc lỗi trước Chúa. Wagner thường phát triển những đoạn nhạc ngắn của giai điệu và hòa thanh, gọi là leitmotifs (tiếng Đức motif chủ đạo) nhằm đại diện cho con người, đồ vật, khái niệm và những thứ khác nữa. Những đoạn nhạc này được lặp lại bằng giọng hát hoặc dàn nhạc bất kỳ lúc nào khi những chúng xuất hiện trong suy nghĩ hoặc hành động của nhân vật.
Tại đây tất cả những khía cạnh của tác phẩm đều hướng đến trung tâm kịch tính hoặc ý đồ triết học. Không như Verdi luôn hướng đến đề tài con người, Wagner luôn quan tâm hơn đến những yếu tố mang tính truyền thuyết, thần thoại và coi đó là khái niệm của sự chuộc lỗi trước Chúa. Wagner thường phát triển những đoạn nhạc ngắn của giai điệu và hòa thanh, gọi là leitmotifs (tiếng Đức motif chủ đạo) nhằm đại diện cho con người, đồ vật, khái niệm và những thứ khác nữa. Những đoạn nhạc này được lặp lại bằng giọng hát hoặc dàn nhạc bất kỳ lúc nào khi những chúng xuất hiện trong suy nghĩ hoặc hành động của nhân vật.
Âm nhạc xuyên suốt thế kỷ 19 vẫn mang truyền thống trừu tượng,
âm nhạc tuyệt đối vẫn được duy trì thông qua các bản giao hưởng và âm nhạc
thính phòng. Schubert, Schumann, Brahms, nhạc sĩ người Đức Felix Mendelssohn,
nhạc sĩ người Áo Anton Bruckner để lại những dấu ấn đặc biệt quan trọng. Nhạc
sĩ người Nga Peter Ilyich Tchaikovsky sáng tác giao hưởng và các tác phẩm thính
phòng cũng tuyệt vời như các vở opera hay âm nhạc có tiêu đề. Nhạc sĩ Ba Lan
Frederic Chopin thì sáng tác ra những thể loại âm nhạc không tiêu đề, mang phong
cách rất tự do, phóng khoáng.
Trong tất cả những thể loại âm nhạc, giá trị cao nhất vẫn được
đánh giá thông qua sự khác thường độc đáo của những biểu hiện nghệ thuật. Điều
này càng được tăng thêm không chỉ do sự mở rộng của những phong cách sáng tác khác
người mà còn do sự sùng bái những nhạc trưởng và những nghệ sĩ biểu diễn bậc thầy.
Hai người tiêu biểu nhất là Franz Liszt và nghệ sĩ violin người Ý Nicolo
Paganini. Nhạc trưởng và nhạc sĩ người Áo Gustav Mahler viết những bản giao hưởng
đều liên quan đến cuộc sống riêng tư của mình.
Phong cách âm nhạc của thời kỳ Lãng mạn đã thay đổi chút ít
theo những cách khác nhau vào cuối thế kỷ 19. Sự phát triển của những hợp âm ít
được sử dụng đã phá vỡ cơ cấu giọng. Nhiều nhạc sĩ, đặc biệt là Wagner thường
xuyên sử dụng những hợp âm nửa cung (Chromatic). Cách diễn đạt âm nhạc dân gian
ngày càng được mở rộng, trở thành một phần quan trọng trong những sáng tác của
những nhạc sĩ Nga, Tiệp Khắc, Na Uy, Tây Ban Nha. Ta có thể kể đến nhạc sĩ người
Nga Mikhail Glinka, Modest Mussorgsky và Nicolai Rimsky-Korsakov; nhạc sĩ Tiệp
Khắc Antonin Dvorak và Bedrich Smetana; nhạc sĩ người Na Uy Edvard Grieg. Sau
này còn nhiều nhạc sĩ sử dụng những yếu tố dân gian vào trong những tác phẩm của
mình như nhạc sĩ người Mĩ Louis Moreau Gottaschalk, nhạc sĩ người Đan Mạch Carl
Nielsen; nhạc sĩ Phần Lan Jean Sibelius và nhạc sĩ người Tây Ban Nha Manuel de
Falla.
Theo mạch dân gian này tiến lên phía trước cùng với những yếu
tố khác đã hình thành nên âm nhạc cổ điển thế kỷ 20, giới thiệu lại với nghệ
thuật âm nhạc những khái niệm cũ về hòa thanh và nhịp điệu. Sự nghiên cứu lịch
sử âm nhạc có hệ thống đã đem đến những kết quả giống nhau, trở lại thời kỳ đầu
thế kỷ 19. Với sự tan rã của giọng, sự liên kết yếu kém giữa các bộ phận trong
âm nhạc, sự phụ thuộc vào sự chuyển động của những hòa âm, cũng như sự lên xuống
của cường độ và mật độ của âm thanh. Cách sử dụng âm thanh như là một yếu tố
trong âm nhạc là một đặc điểm rất riêng của thời kỳ cuối lãng mạn theo phong
cách Pháp, được gọi là Ấn tượng, do nhạc sĩ Claude Debussy và Maurice Ravel khởi
xướng và phát triển. Những nhạc sĩ Pháp thậm chí còn viết theo phong cách châm
biếm hơn như Francis Poulenc và Erik Satie.
THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (1890-1975)
Âm nhạc thời kỳ hiện đại - chỉ riêng những từ này có thể cũng
đủ làm bạn chạy xa cả dặm. Đúng, để nghe được âm nhạc thời kỳ hiện đại có thể cần
nhiều nỗ lực hơn một chút so với âm nhạc ở những thời kỳ trước đó. Có nhiều chất
liệu thú vị để khám phá. Đầu thế kỷ 20 là mốc thời gian đánh dấu sự thay đổi
nhanh chóng. Công nghệ đang thay đổi thế giới. Những nghệ sĩ, những nhà văn, những
nhạc sĩ và những người biểu diễn bắt đầu phản ánh những thay đổi thông qua tác
phẩm họ đưa ra. Và ngay lúc xã hội đang loại bỏ những quy tắc lâu đời đã thống
trị trong nhiều thế kỷ, những nhà soạn nhạc đã đảo lộn những quy tắc âm nhạc và
tìm ra những đề tài mới, táo bạo và những cách thức mới để thể hiện chúng.
Ở Vienna, một nhóm đứng đầu là Arnold Schoenberg cho rằng điệu
tính đang trên đường được khai thác hết và quyết định từ bỏ nó. Điệu tính là một
thứ tự logic trong đó những hợp âm và hòa âm trong âm nhạc ăn khớp với nhau. Từ
bỏ nó có nghĩa là từ bỏ quan niệm rằng âm nhạc cần phải đẹp. Nhiều nhà soạn nhạc
theo lối cũ nghi ngờ chủ nghĩa hiện đại nếu nó hàm ý những quan niệm cấp tiến
như thế. Rachmaninov tiếp tục soạn nhạc theo phong cách lãng mạn, giàu đặc
trưng của riêng mình cho tới tận những năm 1940. Những người khác, Sibelius chẳng
hạn, cảm thấy bị bỏ lại phía sau và đơn giản là ngừng sáng tác.
Những nhà soạn nhạc thành công nhất là những người tìm được một
nền tảng ở giữa - đi theo sự thay đổi trong khi vẫn phù hợp với cái nhìn của
chính mình và giữ được tình cảm với thính giả. Richard Strauss bước vào những
năm 1890 với một phong cách lãng mạn. Ông đã trở thành một trong những nhà soạn
nhạc lớn nhưng vẫn chuyển sang chủ nghĩa hiện đại. Ông thu nhận một phiên bản mờ
nhạt những ý tưởng của Schoenberg và tạo ra một sự dàn xếp có thể là thử thách
để nghe nhưng cũng dễ dàng để có thể hiểu được.
Igor Stravinsky đã gây sốc và làm cho những thính giả vui
thích trong suốt 70 năm sự nghiệp của ông. Những tác phẩm nối tiếng đầu tiên của
ông là một loạt 3 vở ballet viết tại Paris cho đoàn Ballets Russes - The
Firebird (Chim lửa), Petrushka và Rite of Spring (Lễ bái Xuân). Những âm thanh
này hiện đại bởi việc sử dụng sự truyền động, nhịp điệu “máy móc” của chúng, phần
nhiều trong số chúng chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc dân gian Nga. Stravinsky cũng sử
dụng một phong cách hòa âm mới mẻ, đặt những hợp âm khác lên trên một hợp âm
khác nữa. Âm thanh tươi mới nhưng chưa bao giờ xa lánh người nghe. Stravinsky
tiếp tục là một trong những nhà soạn nhạc thành công nhất của thế kỷ 20.
Âm nhạc dân gian cũng là một nguồn cảm hứng lớn cho nhiều nhà
soạn nhạc khác. Tại nước Anh, Vaughan Williams trộn lẫn những âm thanh của những
bài hát truyền thống và âm nhạc nhà thờ với những tàn dư của thời kỳ lãng mạn.
Nhà soạn nhạc người Hungary Béla Bartók, giống như Stravinsky, đã viết thứ âm
nhạc độc đáo dựa trên những nhịp điệu dân ca tiết tấu nhanh của đất nước quê
hương. Cả Vaughan Williams và Bartók đều tích cực tập hợp những bài ca dân
gian, viết chúng ra hoặc ghi âm chúng lại. Một nhà soạn nhạc khác là Messiaen lại
sưu tầm những tiếng chim hót mà sau này ông sử dụng trong âm nhạc của mình.
Chắc chắn là âm nhạc chịu ảnh hưởng lớn bởi những sự kiện
chính trị quan trọng làm rung chuyển châu Âu vào giữa thế ký 20. Nhiều nhà soạn
nhạc và nghệ sĩ biểu diễn bị chuyển tới những trại tập trung Quốc xã vì những
lý do lòng tin, tôn giáo hay chủng tộc. Và ở Liên bang Soviet, gọng kìm thép của
Stalin lên xã hội có nghĩa rằng những nhà soạn nhạc như Prokofiev, Shostakovich
và Khachaturian bị nhiều hạn chế trong những gì họ có thể làm.
Shostakovich nói riêng, đã từng bị chế độ Soviet ngược đãi
khi âm nhạc của ông bị cho là quá “hiện đại” hay “élitist” (tin vào thuyết giáo
dục phát triển tinh hoa). Kết quả là ông phải gượng gạo viết theo hai lối - những
tác phẩm giao hưởng lớn và nhạc phim của ông có lẽ để làm hài lòng cơ quan thẩm
quyền, trong khi đó những tác phẩm quy mô nhỏ hơn như những tứ tấu đàn dây xuất
sắc của ông có lẽ phản ánh đúng hơn tiếng nói của riêng mình. Chúng ta chỉ có
thể suy đoán điều này bởi vì Shostakovich qua đời trước khi thời đại Soviet kết
thúc, mà có thể sau đó ông sẽ tự do để giải thích âm nhạc của mình một cách đầy
đủ.
Đời sống chính trị và chiến tranh ở châu Âu đã khiến nhiều
nhà soạn nhạc như như Stravinsky, Bartók, Schoenberg và Rachmaninov chuyển đến
Mỹ. Điều này tạo ra một nơi tụ họp lạ thường những đầu óc tài năng, và những
nhà soạn nhạc lớn người Mỹ đầu tiên như Aaron Copland và Samuel Barber xuất hiện,
sáng tác với một phong cách mới, kết hợp những yếu tố văn hóa từ châu Âu và
châu Mỹ. Theo cách giống như các đồng nghiệp châu Âu sử dụng âm nhạc dân gian,
những nhà soạn nhạc Mỹ bắt đầu sử dụng chất liệu nhạc jazz bản xứ của mình.
George Gershwin và sau đó là Duke Ellington bắt đầu viết ra thứ âm nhạc “nghiêm
túc” để biểu diễn trong phòng hòa nhạc. Những người châu Âu như Stravinsky và
Ravel đáp lại bằng thứ âm nhạc cũng bao hàm cả những phong cách jazz như Ebony
Concerto của Stravinsky và Piano Concerto của Ravel.
Sự khủng khiếp của nạn tàn sát người Do Thái, Hiroshima và
chiến tranh thế giới thứ II đã thuyết phục nhiều nhà soạn nhạc thời hậu chiến rằng
hơn bao giờ hết, họ cần đặt quá khứ đằng sau và tìm những phương pháp tiên tiến
hơn. Chẳng hạn, Structures (1951) của Pierre Boulez có mọi yếu tố của âm nhạc -
giai điệu, nhịp điệu, thậm chí cả yếu tố êm ả-inh ỏi (loud-and-soft) theo điều
khiển của toán học. Một nhà soạn nhạc khác là John Cage lại đòi hỏi thính giả của
mình cân nhắc lại những quan niệm của họ về vẻ đẹp của những âm thanh tự nhiên.
Ông đã viết tác phẩm nổi tiếng mang tên 4’33’’ (4 phút 33 giây) với thời lượng
chính xác như vậy nhưng chỉ là sự yên lặng hay là những âm thanh bao quanh một
phòng hòa nhạc, nếu bạn muốn nhìn nhận theo cách đó.
Một số tác phẩm tiêu biểu thời kỳ hiện đại:
Stravinsky: The Rite of Spring, The Firebird
Bartók: Concerto for Orchestra
Strauss: Four Last Songs
Gershwin: Piano Concerto, Porgy and Bess
Bernstein: Candide
Copland: Appalachian Spring, Fanfare for the Common Man
Shostakovich: Symphony No. 5; Piano Concerto No. 2
Prokofiev: Romeo and Juliet.
Bartók: Concerto for Orchestra
Strauss: Four Last Songs
Gershwin: Piano Concerto, Porgy and Bess
Bernstein: Candide
Copland: Appalachian Spring, Fanfare for the Common Man
Shostakovich: Symphony No. 5; Piano Concerto No. 2
Prokofiev: Romeo and Juliet.
Biên dịch: Lê Thanh Huyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét