Ca dao Việt Nam là thể loại thơ dân gian đầy chất
trữ tình. Phần lớn những bài ca dao Việt Nam có cách diễn đạt mộc mạc
và giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Tuy nhiên, muốn
hiểu chính xác từng từ trong ca dao không phải là chuyện đơn giản đối với mọi
người. Có những câu ca dao chúng ta nhận thấy rất quen thuộc, nhưng lắm cách giải
thích và cách hiểu khác nhau. Chúng ta thử điểm qua vài quan điểm lý giải câu
ca dao sau đây:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Trong câu lục, ta dễ nhận thấy từ “chiều chiều” nghĩa là mỗi
buổi chiều. Nhiều câu ca dao khác cũng mở đầu bằng công thức như thế.
Chiều chiều ra đứng Ải Vân
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân thêm buồn.
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Kẻ kéo ngửa ngực người không động mình.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người áo gấm khăn điều vắt vai
v.v...
Nhưng trong câu bát, cụm từ “chín chiều” (có nơi đọc là
chín chìu) đã tạo nên bốn quan điểm giải thích khác nhau. Chúng ta không xét
trường hợp xem từ “chiều” trong câu bát là động từ. Từ “chiều” ở đây không có
nghĩa là theo ý muốn của người khác như từ “chiều” trong hai câu:
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
(Nguyễn Du)
Lối đi về hoa chẳng chiều ong
(Ôn Như Hầu)
Quan điểm thứ nhất cho rằng, từ “chiều” dùng để chỉ khoảng thời
gian từ quá trưa đến gần tối (buổi chiều) như “chiều” trong hai câu thơ của cụ
Nguyễn Du:
Buồn trông cửa bể chiều hôm.
... Bóng chiều đã ngả dặm hoè còn xa.
Còn từ “chín” trong cụm từ “chín chiều” là số từ (chỉ số lượng
xác định) biểu thị cho “rất nhiều” (chỉ số lượng không xác định). Quan điểm này
giải thích: Một buổi chiều, hai buổi chiều, ba buổi chiều cho tới chín buổi chiều
là rất nhiều buổi chiều, tác giả câu ca dao đã trông về quê mẹ và cảm thấy đau
lòng, nhớ thương chồng chất.
Quan điểm thứ hai lại phủ nhận từ “chiều” ở phạm trù thời
gian. Họ nhấn mạnh đến phạm trù không gian của tình cảm, không gian của tâm lý
con người. “Chiều” chính là “bề”, nhưng không đơn thuần như chiều cao, chiều
dài, chiều ngang.
“Ruột đau chín chiều” là nỗi đau chín bề trong ruột. Ý
nói bề thì thương cha thương mẹ, bề thì nhớ người yêu, bề thì buồn khi xa quê
nhà…
Quan điểm thứ ba lại khác hẳn, “chiều” được hiểu là “dáng, vẻ”
như trong truyện Kiều hay Cung Oán ngâm khúc:
Thoắt đâu thấy một tiểu Kiều
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân
(truyện Kiều)
Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ
“Ruột đau chín chiều” là chín vẻ đau khác nhau, là chín tầng
độ, chín cung bậc buồn thương xuất phát từ trái tim của tác giả.
Thật ra, theo tôi, quan điểm giải thích chính xác nhất thì
“chín chiều” là chín nấc ruột (Les neuf replis des entrailles). “Chín chiều” ở
đây giống như “chín khúc” trong câu:
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày
(Nguyễn Du).
Hoặc như “chín hồi” trong câu:
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ
(Nguyễn Du).
Nếu giải thích nghĩa của từ theo quan điểm ngôn ngữ và lời
nói thì cụm từ “chín chiều” được hiểu theo nghĩa đen (Sens Propre) là “chín nấc
ruột”, nghĩa bóng (Sens Figuré) là lòng người, tâm hồn con người.
Nói một cách rõ ràng hơn, ruột là cái cụ thể biểu thị cho tâm
hồn (cái trừu tượng). Ruột và tâm hồn của tác giả câu ca dao có sự tương đồng về
trạng thái (nỗi đau), cho nên, “ruột đau chín chiều” là một ẩn dụ (métaphore).
Như vậy, câu ca dao “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Ngó về quê
mẹ ruột đau chín chiều” nhằm diễn tả tâm trạng của tác giả khi ngó về quê mẹ mỗi
buổi chiều.
Tâm trạng đó chính là nỗi nhớ thương ray rứt đến quặn đau cả
tâm hồn.
Nhìn chung, bốn quan điểm nêu trên đều thống nhất ở chỗ công
nhận “nỗi đau thể xác” (ruột đau) của tác giả biểu thị cho “nỗi đau tinh thần”
(tâm hồn đau), nhưng do cách hiểu cụm từ “chín chiều” không đồng nhất với nhau
nên đã tạo ra nhiều cách giải thích khác nhau. Mục đích của bài viết này nhằm
xác định lại quan điểm nào được xem là chính xác nhất hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét