A. PHẦN MỞ ĐẦU
Thơ là sản phẩm sáng tạo của tâm hồn và trí tuệ con người, là
nhu cầu trong đời sống tâm linh của mỗi con người. Ở Việt Nam khi mà thi ca giữ
vị trí hàng đầu, một mặt nó tạo cho người đọc tâm thế thơ khi tiếp nhận, mặt
khác nó thôi thúc các nhà thơ, thế hệ những người cầm bút phải không ngừng đổi
mới, sáng tạo, theo đuổi không biết mệt mỏi những tham vọng cách tân hình thức
triệt để để duy trì ngọn lửa sinh lộ của thơ ca.
Hành trình của thơ Việt từ phong trào thơ Mới (1930-1945) qua
thơ ca Cách mạng (1945-1975) đến thơ Việt từ sau 1975 đến hết thế kỷ XX có thể
coi là một chặng đường thơ với nhiều biến đổi, có những giai đoạn xứng đáng giữ
vai trò như những cuộc “lột xác”, “thay máu”, “tái sinh” cho cả nền thơ ca dân
tộc. Hành trình đó vừa là cuộc thoát xác khỏi cái bóng khổng lồ của thi pháp
thơ trung đại đã ngự trị thành quán tính trong tâm thức của cả đội ngũ sáng tác
và những người tiếp nhận thơ, đồng thời là sự khẳng định khát vọng vươn tới một
nền thơ ca hiện đại theo đúng nghĩa của một hành trình dấn thân để quyết liệt đổi
mới. Từ điểm nhìn thơ ca đương đại ngày nay, có thể nhiều giá trị đã bị phá dỡ
khi chúng đã trở thành truyền thống, thành những quy phạm, những chuẩn mực đang
ràng buộc thi pháp thơ, nhưng các nhà thơ cũng như các thế hệ độc giả vẫn không
thể phủ nhận được vai trò mở đường của một mạch chảy đặc biệt trong thơ Việt
Nam hiện đại.
Những năm 30 của thế kỷ XX, phong trào thơ Mới xuất hiện trên
thi đàn Việt Nam mang lại một luồng gió mới. Sự mới lạ của phong trào thơ này
được ghi nhận trước hết ở sắc diện của cái tôi cá nhân cùng hình thức thơ điệu
nói. Nó mở ra một thế giới sâu thẳm của con người với khả năng nội cảm phong
phú, tinh vi. Cùng với nhiều hứng thú thẩm mĩ mà ý thức cá nhân mang lại, người
ta hồ hởi tiếp nhận những bài thơ đầy chất nhạc, thăng hoa trong một thế giới
tâm linh được đánh thức. Những thế giới nghệ thuật trú ẩn trong âm điệu, làm sạch
những tạp âm, kéo con người từ thế giới hiện thực xô bồ về thế giới chủ quan nhằm
thay thế những vần điệu và thi luật của thi pháp cổ điển. Bằng trực giác, bằng
âm nhạc, trữ tình, nhiều thi phẩm của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu làm độc
giả say mê vì nhà thơ đã lấy tâm trạng làm nội dung, lấy cái nhìn cá thể
làm nền tảng tạo hình, lấy tiếng nói cá thể làm giọng điệu và âm nhạc (Trần
Đình Sử). Thơ Mới đã thực sự mở ra “một thời đại trong thi ca” (Hoài
Thanh).
Cách mạng tháng Tám là một biến cố trọng đại trong lịch sử của
dân tộc đồng thời mở ra một thời kỳ mới cho nền văn học Việt Nam. Cách mạng, rồi
tiếp đó là cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã khơi nguồn cho những cảm
hứng rất mới trong thơ, làm thay đổi cả diện mạo và đặc điểm của nền thơ Việt.
Thơ ca thời kỳ này xuất hiện với đúng tư cách là một vũ khí trên mặt trận văn
hóa tư tưởng. Thơ ca đánh dấu sự trở lại của ý thức cộng đồng, diễn đạt cảm hứng
sử thi với giọng thơ hào sảng âm vang như tiếng kèn đồng. Thơ Việt lúc này như
một tấm gương lớn để phản chiếu tâm hồn của cả dân tộc trong những năm tháng
chiến tranh ác liệt, in đậm những hình ảnh chân thực và cao đẹp về cuộc sống chiến
đấu, lao động sinh hoạt của nhân dân, vẻ đẹp gần gũi của quê hương đất nước. Có
thể thấy, đây là giai đoạn thơ ca chịu sự chi phối mạnh nhất của lịch sử, của
nhiệm vụ chính trị.
Từ sau 1975, dù không có vị trí nổi trội và không có vai trò
tiên phong trong đời sống văn học như các thể loại văn xuôi, nhưng thơ vẫn rất
phong phú, đa dạng có nhiều những tìm tòi, cách tân mạnh mẽ đem đến một giai đoạn
mới trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Việt giai đoạn này vẫn tiếp tục
mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm cá
nhân, thơ hướng vào đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân, thơ khai
thác những vùng mờ của tâm linh, vô thức và trở về với hướng của tượng
trưng, siêu thực... Những đổi mới thơ từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX theo hướng
hiện đại, chủ yếu là tượng trưng, siêu thực đã tạo nên những biến đổi quan trọng
trong tư duy nghệ thuật, trong quan niệm thơ và ngôn ngữ thơ, đã có ảnh hưởng
ngày càng mạnh mẽ và rộng rãi đến giới sáng tác và công chúng thơ hiện nay.
Đi tìm những biến đổi của thơ Việt nhìn từ phong trào Thơ Mới
(1930-1945), thơ ca Cách mạng (1945-1975), thơ ca từ sau 1975 đến hết thế kỷ XX
cũng chính là đi tìm mạch nguồn sáng tạo của thi ca, để từ đó có những đánh giá
chân xác về những đóng góp của từng giai đoạn thơ ca trong hành trình hiện đại
hóa thơ Việt. Cũng từ đó, giúp độc giả xác lập được cách đọc thơ Việt, để có thể
khám phá và chiếm lĩnh trọn vẹn thế giới nghệ thuật của các nhà thơ.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Những chuyển biến của thơ Việt nhìn từ phong trào thơ Mới,
thơ ca cách mạng (1945-1975), thơ Việt sau 1975 đến hết thế kỷ XX trên bình diện
nội dung tư tưởng
1. Những chuyển biến của cảm hứng thơ
Cảm hứng nghệ thuật là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm
xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh
giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Cảm
hứng nghệ thuật thuộc phương diện nội dung tình cảm chủ đạo của tác phẩm văn học.
Những trạng thái tâm hồn, những cảm xúc được thể hiện đậm đà, nhuần nhuyễn
trong văn bản sẽ truyền cảm và hấp dẫn người đọc. Xuất phát từ đặc trưng thể loại
trữ tình, cảm hứng nghệ thuật của một thi phẩm có vai trò vô cùng quan trọng.
Nó định hình nội dung tình cảm, cảm xúc chủ đạo của một bài thơ, hình thành
thái độ, tình cảm của nhà thơ đối với nội dung được lựa chọn đó. Thơ Việt từ
phong trào thơ Mới qua thơ ca Cách mạng đến thơ Việt sau 1975 đã hình thành nên
những dòng cảm hứng đặc trưng cho từng giai đoạn thơ.
1.1. Cảm hứng lãng mạn của thơ Mới (1932-1945)
Phong trào thơ Mới ra đời đã đem đến một nguồn cảm hứng mới
cho thơ Việt: cảm hứng lãng mạn cá nhân. Cảm hứng lãng mạn là vượt lên trên thực
tế, thoát ly hiện thực, xây dựng một thế giới mộng tưởng. Cảm hứng lãng mạn cá
nhân của thơ Mới rất phong phú và đa dạng. Không giống như thời đại cách mạng,
khi lịch sử, chính trị có sức mạnh chi phối tới những nguồn cảm hứng của văn học,
khi văn học chịu một áp lực không nhỏ của chính trị, thời đại thơ Mới, mỗi nhà
thơ đều mang thân phận của kiếp con chim lìa đàn, những dòng cảm hứng nghệ thuật
nảy sinh từ những tình cảm, cảm xúc cá nhân của mỗi nhà thơ. Cùng một hiện thực
cuộc sống nhưng cách nhìn, cách cảm khác nhau dẫn đến những hướng khác nhau của
cảm hứng nghệ thuật. Đó là cảm hứng thoát ly hiện tại, mơ tưởng trong một thế
giới khác như trong thơ Lưu Trọng Lư. Đó là cảm hứng hướng về cuộc sống hiện tại
với cái nhìn lý tưởng, lạc quan trong thơ Xuân Diệu, với cảm hứng lãng mạn mang
đậm hồn quê trong thơ Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ. Đó là cảm hứng về tình yêu với muôn
vàn những cung bậc cảm xúc trong thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính. Đó là cảm hứng hướng
tới cái đau thương, hướng tới phần vô thức trong tâm linh con người như trong
thơ Hàn Mặc Tử. Đó là cảm hứng nghệ thuật dành cho nỗi sầu buồn chất chứa trong
vũ trụ, trong con người và cả trong cõi nhân sinh huyền bí trong thơ Huy Cận...
Cảm hứng lãng mạn của thơ Mới xuất phát từ sự xung đột của ý thức cá nhân với
hoàn cảnh thực tại. Khi cá nhân không tìm được tiếng nói ở thực tại, khi cá
nhân va đập với hiện thực cuộc sống sẽ nhanh chóng rơi vào bế tắc, chán nản, vỡ
mộng. Các dòng cảm hứng đó đều hướng tới một thế giới mộng tưởng, lý tưởng để ở
đó cái tôi cá nhân có thể trú ngụ, giãi bày.
Không khó lý giải vì sao thơ Mới hay xuất hiện những thế giới
thơ xa lạ với hiện thực cuộc sống. Thế Lữ lưu luyến cảnh tiên trong tưởng tượng,
phảng phất nghe tiếng sáo tiên, mải mê ngắm những nàng tiên. Người đã “thoát
lên tiên” mang theo giấc mộng của chàng Từ Thức thủa nào:
“Trời cao! Xanh ngắt ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai”
(Tiếng sáo thiên thai)
Tiếng reo ngỡ ngàng ngạc nhiên của chủ thể trữ tình trong cái
buổi đầu thơ Mới chào đời ấy như tiếng gọi thiết tha con người hãy từ bỏ cuộc sống
trần ai để đến với những giấc mộng thoát ly. Một thế giới thanh khiết, vô trùng
hiện lên trong thơ Thế Lữ. Thế giới ấy là cõi trời, cõi tiên. Một ảo mộng tinh
thần xuất phát từ cảm hứng lãng mạn thoát ly.
Sau tiếng gọi của kiếp con chim lìa đàn ấy, người ta ngày
càng nghe thấy nhiều hơn tiếng đồng vọng với Thế Lữ. Vũ Đình Liên cũng đi về
trên lối cỏ xưa của Thế Lữ. Xuất hiện trên thi đàn của thơ Mới, Vũ Đình Liên
như vẫn không quên mang theo khăn xếp, áo the, vẫn mang theo cây bút lông thủa
nào với những nét chữ “như phượng múa rồng bay”. Một trong những nguồn cảm
hứng của thơ Vũ Đình Liên chính là “tình hoài cổ” (Hoài Thanh). Vũ
Đình Liên là một nhà thơ có tư tưởng hoài cổ, có quan điểm mỹ học mang tính thủ
cựu - coi trọng quá khứ, xa lạ và lạc lõng với hiện tại, sống khuôn phép, mực
thước, từ tốn, khoan thai. Trong thế giới nghệ thuật của Vũ Đình Liên, “ông
đồ chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Hoài
Thanh). Nhà thơ cứ chới với, cố nắm tay người đồ già đi giữa muôn dòng những
thay đổi của xã hội và lòng người. Ông đồ vẫn ngồi đấy - một hình ảnh của thời
hiện tại, nhưng con người ấy cứ mờ nhòe đi trong cái lạnh lùng, vô cảm của xã hội.
Nét vẽ cứ phai dần khi những làn mưa bụi đang giăng trắng xóa cả không gian. Vũ
Đình Liên đang thầm khóc cho những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc đang
chết dần trong buổi Tây Tàu bành trướng.
Chế Lan Viên cũng nhất định khước từ hiện tại để trở về với một
nước Chiêm Thành phảng phất trong quá khứ. Những bi hùng của một dân tộc đã được
dựng dậy trong thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Thế giới đầy sọ dừa, xương
máu cùng yêu ma. Cái thế giới mà nhiều lúc nhà thơ tưởng mình đang ân ái với
các vì sao, có lúc lại đứng suốt đêm với một bóng ma hay nhìn một chiếc quan
tài nào đó đang đi mà tưởng thi thể mình đang trong đó... Thoát ly hiện tại,
nhưng không như Thế Lữ xây dựng một cõi tiên, cõi trời thanh khiết đến vô ngần,
lung linh đến diệu vợi, cảm hứng nghệ thuật của Chế Lan Viên hướng tới một thế
giới kỳ dị đến kinh dị, một thế giới của đổ nát, của chết chóc của máu và nước
mắt. Nhà thơ ngụp lặn trong thế giới ấy, độc tấu âm điệu bi ai đến não nề:
“Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn”
(Xuân)
Cảm hứng
lãng mạn của thơ Mới còn là cảm hứng hướng về cuộc sống trần thế của con người.
Xuân Diệu đã tìm thấy một thế giới khác hẳn thế giới trong thơ Thế Lữ, Chế Lan
Viên. Ông xây lầu thơ của mình trên chính mảnh đất của trần gian và hiện tại. Mở
đầu Vội vàng - thi phẩm tiêu biểu nhất cho hồn thơ Xuân Diệu trước
Cách mạng tháng Tám, là bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp được vẽ lên bằng một trái
tim yêu say đắm trước cuộc đời. Mùa xuân hiện lên ở đó là một thế giới xuân sắc,
xuân tình. Ta thấy được cái sống động, nhộn nhịp của những chuyển động trong thế
giới: ong bướm đang nhộn nhịp bay đi tìm hoa tạo mật cho đời, hoa đang mải mê
khoe sắc, lá đang miên man ca hát trong gió xuân, yến anh đang thăng hoa trong
khúc nhạc vui, thần Vui đang hồ hởi đến gõ cửa chào ngày mới mọi nhà... Ta thấy
cái mới mẻ, tươi tắn của một ngày, của một mùa với những màu sắc, trạng thái
viên mãn của tạo vật: đồng nội xanh rì, ngàn hoa khoe sắc, ánh sáng sớm mai
chan hòa, lung linh, thanh khiết, khúc hát mùa xuân say đắm, rạo rực lòng người.
Ta còn thấy trong bức tranh đó xuân tình lang láng. Vườn xuân trở thành vườn
tình, thành người tình đầy khêu gợi khi mọi vật đều đang trong trạng thái cặp
đôi luyến ái, giao hòa tình tứ. Một bức tranh hoàn hảo về vẻ đẹp của cuộc sống
được cảm nhận bằng một trái tim trẻ trung, ngập tràn sức sống và tình yêu, bằng
cặp mắt xanh non biếc rờn của người trẻ tuổi, trẻ lòng. Thế giới hiện ra là
thiên đường trên mặt đất, là bữa tiệc của trần gian với thực đơn vô cùng quyến
rũ. Nhưng càng khám phá, nhất là đối với một cái tôi khao khát đến khôn cùng
như Xuân Diệu thì cuộc đời trần thế đó không đủ để chứa đựng một con người khổng
lồ trong tư tưởng, trong cảm xúc.
Có thể nói, Xuân Diệu đã nhiều lẫn vỡ mộng khi thế giới mà ông xây dựng, tưởng như rất thật, rất gần trong tầm tay của mọi người, mở mắt đã thấy ngay phía trước, đưa tay đã có thể cầm giữ cho mình. Nhưng thế giới ấy đặt trong hoàn cảnh hiện thời của đất nước lúc bấy giờ lại trở nên xa vời, hư ảo. Bên cạnh mảnh vườn tình ái là hoang mạc cô liêu. Bên cạnh thời tươi là thời phai. Sa mạc cô liêu là thế giới đơn côi, bất hạnh, vạn vật chia lìa, ly tán, tất cả nhạt nhòa u uất, con người buồn sầu trơ trọi với cô đơn: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”, “Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối/ Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành/ Mây theo chim về dãy núi xa xa/ Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ”...
Có thể nói, Xuân Diệu đã nhiều lẫn vỡ mộng khi thế giới mà ông xây dựng, tưởng như rất thật, rất gần trong tầm tay của mọi người, mở mắt đã thấy ngay phía trước, đưa tay đã có thể cầm giữ cho mình. Nhưng thế giới ấy đặt trong hoàn cảnh hiện thời của đất nước lúc bấy giờ lại trở nên xa vời, hư ảo. Bên cạnh mảnh vườn tình ái là hoang mạc cô liêu. Bên cạnh thời tươi là thời phai. Sa mạc cô liêu là thế giới đơn côi, bất hạnh, vạn vật chia lìa, ly tán, tất cả nhạt nhòa u uất, con người buồn sầu trơ trọi với cô đơn: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”, “Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối/ Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành/ Mây theo chim về dãy núi xa xa/ Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ”...
Cảm hứng
thơ của thơ Mới đã đem đến cho người đọc một thế giới nhiều khi huyền bí, siêu
nhiên. Nhưng đó cũng là thế giới tràn đầy cảm xúc của chủ thể trữ tình. Cảm hứng
lãng mạn của thơ Mới đã thổi một luồng gió mới vào thơ, đem đến sự tươi trẻ hồi
sinh cho thơ.
1.2. Cảm hứng lãng mạn cách mạng trong thơ Cách mạng
(1945-1975)
Nếu
thơ Mới đem đến cảm hứng lãng mạn thoát ly thì thơ ca cách mạng hướng đến cảm hứng
lãng mạn cách mạng. Xuất phát từ đặc điểm tâm hồn của người Việt: luôn lạc
quan, tin tưởng đã được phản ánh ngay từ thời của văn học dân gian (Bài ca Mười
cái trứng, truyện cổ tích), cùng với một tâm hồn thơ mộng, giàu cảm xúc “Lưng
đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc/ Nguyễn Du
viết Kiều đất nước hóa thành văn” đã tạo nên một sự lãng mạn, thơ mộng
ngay trong đời sống tâm hồn của người Việt. Giai đoạn lịch sử 1945-1975 có thể
coi là giai đoạn khốc liệt, đau thương nhất của lịch sử Việt Nam. Càng trong
hoàn cảnh đó, người Việt Nam cần phải lạc quan hơn, phải có một tâm hồn lãng mạn
để tạo động lực to lớn có thể giúp họ chiến thắng hoàn cảnh. Con người trong
giai đoạn lịch sử này tuy đứng ở hiện tại đầy gian khổ, mất mát, đau thương
nhưng tâm hồn luôn hướng về lý tưởng, về tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin
tưởng và niềm say mê với con đường cách mạng, ngợi ca nghĩa tình cách mạng và
con người cách mạng. Đặc điểm nổi bật của cảm hứng lãng mạn cách mạng là từ hiện
thực mà lý tưởng hóa hiện thực, hướng tới các khác thường, cái phi thường, cái
lý tưởng. Cảm hứng lãng mạn cách mạng được biểu hiện rất phong phú: là tinh thần
lạc quan, tin tưởng trong những cuộc chia tay, niềm tin tưởng vào một cuộc sống
mới trên đất nước “Xuân ơi xuân em mới đến dăm năm/ Mà cuộc sống đã tưng bừng
ngày hội”, niềm tin vào thắng lợi của cách mạng, tin tưởng vào ngày giải phóng
và thống nhất đất nước, hướng tới những người anh hùng bình dị với cảm hứng ngợi
ca, lý tưởng hóa, hướng tới những chủ đề lớn lao, kỳ vĩ như Tổ quốc, chủ nghĩa
xã hội...
Trên cái nền hiện thực đến nghiệt ngã của cuộc chiến đấu
trong Đồng chí, người đọc vẫn thấy vút lên chất thơ bay bổng, lãng mạn qua
hình ảnh kết thúc bài thơ:
“Đầu súng trăng treo”
Câu
thơ ngắn gọn với hai hình ảnh gợi đến hai thế giới hoàn toàn đối lập: đầu súng
- trăng treo, chiến tranh - hòa bình, hiện tại - tương lai, hiện thực - lãng mạn,
thực tại - mơ ước. Không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lại đặt hình ảnh “trăng” xuống
cuối cùng, chốt lại bài thơ. Đâu chỉ đơn giản để tạo nhạc điệu cho thơ, kết
thúc bằng thanh bằng mở ra cái miên man, trầm lắng trong suy cảm của con người
mà còn bởi hình ảnh trăng treo đầu súng ấy vừa thi vị, vừa lãng mạn, đẫm chất
thơ mở ra thế giới tâm hồn nhiều cảm xúc, lãng mạn của các chiến sĩ. Đó là hiện
thực mơ ước, là khát vọng cháy bỏng về cuộc sống hòa bình. Một tâm hồn thanh thản
ngay giữa cái bộn bề, khó khăn của cuộc chiến đấu. Phút xuất thần ấy, chiến sĩ
đã hóa thi nhân trong một cảm hứng bay bổng.
Cảm hứng
lãng mạn cách mạng trong Tây Tiến là cảm hứng về một thiên nhiên thơ
mộng, thi vị, cảm hứng về vẻ đẹp tâm hồn tinh tế, thấm đẫm cảm xúc, giàu mộng
và mơ của các chiến sĩ binh đoàn Tây Tiến. Đẹp biết bao một thiên nhiên Tây Bắc: “Mường
Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Người đi Châu Mộc
chiều sương ấy”, “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”... Mềm mại biết bao những xúc
cảm nên thơ của con người: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm”. Bên cạnh những nét vẽ gân guốc, khỏe khoắn lại là những nét vẽ
mềm mại, trữ tình khiến cho Tây Tiến lấp lánh trong sự giao thoa của
những nguồn cảm hứng hiện thực và lãng mạn, lãng mạn và bi tráng. Phải chăng vì
vậy, bài thơ vẫn gieo vào lòng người cái tin tưởng cần thiết dù trong một hoàn
cảnh nghiệt ngã của sự hy sinh, chết chóc:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Các
nhà thơ tìm đến với cuộc sống mới, tràn đầy sức sống. Cuộc sống như trong mơ
nhưng lại đang diễn ra trên những vùng đất tự do của Tổ quốc. Đó là con người
vùng biển trong những chuyến ra khơi với bài ca lao động say mê:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi...
Thuyền ta lái gió với buồn trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Hiện
thực đã được lãng mạn hóa. Đọc những câu thơ này, ta như thấy được tầm vóc lớn
lao, kỳ vĩ của con người trong tương quan đối diện với biển cả. Họ không còn là
tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ bao la mà họ đã thiết lập nên mối quan hệ bình đẳng,
gần gũi với lòng mẹ biển khơi. Câu hát ra khơi như bài ca say mê về cuộc sống,
về biển cả, được cất lên từ những tâm hồn bình dị, yêu đời, yêu lao động. Con
thuyền đưa họ ra khơi không phải đi trên mặt nước bình thường mà như đang đi
trong thế giới của mộng, của mơ, của những gió, trăng, của biển xanh thẳm mênh
mông. Thế giới ấy hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Đâu chỉ là cuộc đánh
bắt cá bình thường của ngư dân trong cảm nhận của Huy Cận mà đó là cuộc vượt
trùng dương để chinh phục thiên nhiên, để được bay bổng trong cái mênh mông,
bát ngát của biển khơi. Chính cảm hứng lãng mạn cách mạng đã đem đến những dư vị
say mê cho Đoàn thuyền đánh cá.
Cảm hứng
lãng mạn cách mạng trong thơ Tố Hữu biểu hiện ở khuynh hướng thơ hướng vào
tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con đường cách
mạng, ca ngợi nghĩa tình cách mạng và con người cách mạng. Nếu Nguyễn Mỹ nói về “Cuộc
chia ly chói ngời sắc đỏ/ Tươi như cánh nhạn lai hồng” thì Tố Hữu đã khắc
họa cuộc chia ly tập thể giữa cán bộ cách mạng và người dân Việt Bắc tràn đầy cảm
hứng lạc quan, tin tưởng vào ngày gặp lại, vào sự gắn bó giữa miền ngược với miền
xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của dân tộc.
Thơ ca
Cách mạng đã xây đắp niềm tin, niềm lạc quan tin tưởng cho con người Việt Nam
chính bằng cảm hứng lãng mạn cách mạng. Đó là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn
khiến người Việt Nam có thể vượt qua mọi thử thách, tạo nên những sự tích diệu
kỳ như chỉ có ở trong mơ: “Đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng”, “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Chiến tranh đã qua đi, sau niềm vui ngây ngất của chiến thắng,
hòa bình, con người trở về với đời thường, phải đối diện ngay với bao khó khăn,
phức tạp bộn bề với cả những ngang trái, bất công ngày càng nặng nề. Mặt trận mới
không có tiếng súng nhưng không kém phần gay gắt, dữ dội là một thử thách không
hề dễ dàng với mỗi nhân cách và bản lĩnh của mỗi người. Sau 1975, thơ ca
giã từ tháp ngà để trở về với cuộc sống dung dị, đời thường. Từ chỗ thiên về
các phạm trù cao cả, phi thường, kỳ vĩ, về đất nước, dân tộc, con người (thơ
cách mạng), cảm hứng nghệ thuật đã ngả về phía đời thường, bình dị, con người
cá nhân thân phận. Điểm tựa cho cảm hứng nghệ thuật của thơ giai đoạn này không
phải là những biến cố lịch sử mà là những chuyện hàng ngày, những quan hệ nhân
sinh muôn thủa. Nhiều bài thơ từ năm 1980 trở đi, đã không ngần ngại đối diện
và phơi bày tình trạng xã hội và trạng thái nhân thế với nhiều mặt trái vốn trước
đây bị che khuất. Trước một cuộc sống có nhiều biến chuyển, với những tốt-xấu,
rắn rết-rồng phượng, thiên thần-ác quỷ ẩn chứa trong nhau nên mạch cảm hứng của
thơ sau 1975 cũng rất phong phú. Đó là cảm hứng nhận thức lại hiện thực, mở ra
cuộc đối chứng với chính cái tôi của nhà thơ. Cảm hứng này rất đậm đặc trong
thơ Chế Lan Viên, Nguyễn Duy, Lưu Quang Vũ. Cảm hứng hướng tới thế giới vô thức,
tâm linh của con người mà trước đây thơ Mới ở giai đoạn sau đã mở đường tiêu biểu
trong thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm... Cuộc sống không còn quá cao xa, quá lý tưởng mà
trong thơ sau 1975, cuộc sống trở về với những dung dị đời thường. Xuân Quỳnh
là nhà thơ đã mang đến một gương mặt thuần hậu của cuộc sống, bình dị của tình
yêu. Nhất là sau 1975, thơ Xuân Quỳnh là lời tự bạch của một tâm hồn khát khao
hạnh phúc đời thường. Xuân Quỳnh cứ phơi trải những đam mê, những lo âu, niềm
vui là nỗi buồn trong cuộc sống thường nhật của người phụ nữ lên những trang
thơ. Chính vì vậy mà thơ chị nhận được rất nhiều sự đồng cảm, chia sẻ của bạn đọc,
nhất là bạn đọc cùng giới. Khát khao tình yêu, hạnh phúc nhưng cũng đủ tỉnh táo
để hiểu điều đó đâu là vĩnh viễn: “Hôm nay yêu mai có thể xa rồi”.
Đó là cái bình dị đến bình yên trong thơ Xuân Quỳnh nhưng
cũng có cái bình dị của đời nhiều khi lại chất chứa những nghịch lý nghiệt ngã.
Nguyễn Duy khi Nhìn từ xa... Tổ quốc, đau đớn và thẳng thắn chỉ ra những
nghịch cảnh của đất nước trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng:
“Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày...
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
Ma quái ma cô ma tà ma mãnh
Quỷ nhập tràng siêu vẹo những hình hài...
Xứ sở thông minh
Sao thật lắm trẻ con thất học
Lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
Tuổi thơ lưng còng xuống chiếc bơm xe đạp
Tuổi thơ bay như lá tư giữa đường”
Đó còn
là sự thay đổi của lòng người, sự lãng quên với quá khứ đã một thời mình gắn
bó. Ánh trăng trong sáng, đẹp đẽ trong tuổi thơ của biết bao con người, đem đến
những năm tháng hồn nhiên, trong trẻo. Nhưng khi cuộc sống thay đổi, con người
lại vô tình lãng quên đi quá khứ. Những tiện nghi hiện đại đã ru ngủ con người,
họ quay lưng, thờ ơ, lãnh đạm với quá khứ, đánh mất những giá trị tốt đẹp vốn
có của mình. Con người đã đổi thay. Nguyễn Duy không hề né tránh mà đã nói được
cái hiện thực nghiệt ngã của lòng người.
Cảm hứng
nghệ thuật của thơ sau 1975 khi hướng vào thế giới của tiềm thức, vô thức là một
hành trình thăm dò, khai quá không ngừng bản thể của con người. Hoàng Hưng viết: “Thơ
trước nhất là khả năng ghi nhận chính mình, nhưng cái khó là ghi nhận một cách
chân thành, trung thực, không dự kiến, không thiên kiến”. Nhiều thi phẩm có kết
cấu vận động theo dòng của ký ức. Ký ức không đưa nhà thơ trở về với một thời
điểm cụ thể nào, nó hút nhà thơ vào một vùng hư ảo nào đó trong tiềm thức. Ở
trên tiềm thức, tất cả mọi sự vật như trở nên hư huyền.
Nhìn
chung, chúng xu hướng trở về với đời sống thế sự và đời tư của thơ sau 1975 đã
khẳng định được vị trí của nó trong đời sống tinh thần của xã hội và có được những
gương mặt thơ, những bài thơ lưu giữ được trong tâm trí của công chúng. Một số
nhà thơ kiên trì và thủy chung với định hướng thơ đã chọn, đưa thơ về với cuộc
đời giữa muôn vàn cái xô bồ, hỗn tạp, bụi bặm mà vẫn không đánh mất mình.
Từ cảm hứng lãng mạn cá nhân đến cảm hứng lãng mạn cách mạng
đến cảm hứng thế sự đời tư, đã đem đến sự phong phú cho thơ Việt. Mỗi một dòng
cảm hứng thể hiện bộ mặt tinh thần của các giai đoạn thơ, góp phần làm nên sắc
diện độc đáo của thơ ca.
2.
Những chuyển biến của cái tôi trữ tình trong thơ
Cái tôi là đơn vị tồn tại của cái chủ quan, là hình thức tự ý
thức của cái chủ quan. Trong thơ, cái tôi trữ tình là hình thức tự ý thức của
tác phẩm trữ tình. Khái niệm cái tôi trữ tình do đó có khả năng khái quát được
mối quan hệ giữa thơ và đời sống, bao quát được toàn bộ thế giới tinh thần của
chủ thể. Theo nghĩa hẹp, cái tôi trữ tình là hình tượng cái tôi - cá nhân cụ thể,
cái tôi - tác giả - tiểu sử với những nét rất riêng tư, là một loại nhân vật trữ
tình đặc biệt khi tác giả miêu tả, kể chuyện, biểu hiện về chính mình. Theo
nghĩa rộng, cái tôi trữ tình là nội dung, đối tượng, phẩm chất của trữ tình.
Quan điểm này hiểu cái tôi trữ tình như một khái niệm phổ quát của trữ tình,
phân biệt trữ tình với các thể loại khác. Cái tôi trữ tình là chủ thể của hành
trình sáng tạo thi ca, có vai trò quan trọng trong thơ với tư cách là trung tâm
để bộc lộ lại tất cả suy nghĩ, tình cảm, thái độ được thể hiện bằng một giọng
điệu riêng. Một cái tôi trữ tình phong phú tựa như viên nam châm luôn luôn có sức
hút về phía mình sự giàu có của cuộc đời. Đặc điểm của cái tôi trữ tình phụ thuộc
vào phong cách của mỗi nhà thơ, của các trào lưu, khuynh hướng. Chính vì vậy,
mỗi thời đại có một kiểu cái tôi trữ tình đóng vai trò chủ đạo.
2.1. Cái tôi cá nhân cá thể trong thơ Mới (1932-1945)
Một
trong những thành tựu quan trọng nhất của thơ Mới 1932-1945 là việc sáng tạo
hình tượng cái tôi trữ tình cá nhân, đại diện và người phát ngôn đầy đủ ý thức
cá nhân và con người cá nhân, cá thể của thời đại. “Ngày thứ nhất, ai biết
đích ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như
lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa tưng thấy ở xứ sở
này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh). Các nhà thơ cổ điển luôn vươn tới sự
hài hòa giữa con người với thiên nhiên, con người với xã hội. Họ chưa có nhu cầu
bức bách phải bộc lộ mình như một cá thể tách khỏi xã hội. Ở các nhà thơ Mới
lãng mạn, cái bình yên thời trước, cái cốt cách hiên ngang xây dựng trên sự cân
bằng, hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng không còn nữa. Thi nhân dường như đã mất
hết cái cốt cách hiên ngang của cha ông ta thủa trước. Chữ ta với họ rộng quá.
Tâm hồn họ chỉ vừa thu nhỏ trong khuôn khổ của chữ tôi. Cái tôi thơ Mới tự ý thức
về mình như một thế giới phức tạp và đầy phong phú, đánh dấu giai đoạn phát triển
của ý thức xã hội và ý thức nghệ thuật. Nó thức tỉnh sau hàng nghìn năm bị bức
tử. Nó không chấp nhận cuộc sống mờ nhạt mà đòi hỏi được khẳng định mình trong
thế giới, muốn cái tôi của mình phải được khẳng định chói lọi: “Thà một
phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Nó đề cao trạng
thái và địa vị cái tôi của mình. Nó tự tin, chủ động, dõng dạc tuyên bố: “Ta là
Một là Riêng là Thứ nhất/ Không có chi bạn bè nổi cùng ta”. Khi ý thức cá
nhân phát triển sẽ đồng thời là cá nhân tự khẳng định. Nó không bằng lòng với
cuộc sống buồn tẻ, mờ nhạt, vô danh, vô nghĩa trong cái ao đời phẳng lặng. Nó
khát khao được xưng danh và biểu hiện mình một cách trực tiếp: “Ta là con chim
đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi”, “Ta như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi”, “Lòng ta
những hàng thành quách cũ”.
Cá tính được đề cao, giải phóng sẽ giúp con người giải phóng cảm giác, trí tưởng tượng để hướng tới trình bày một đời sống tâm hồn như một đối tượng phức tạp nhưng hết sức chân thực. Sự chân thực của cảm xúc bao giờ cũng nhận được những đồng vọng lớn lao, (nó không cần khói sóng trên sông gợi nỗi nhớ nhà, không cần bóng chiều thắm hay vàng, vẫn có thể diễn tả thành thực cảm xúc, rung động trong cõi riêng tư). Và từ đó, cái tôi cá thể là trung tâm của cảm hứng giãi bày, thổ lộ, tự biểu hiện mình một cách trực tiếp bằng trạng thái thể chất, giao hòa nhuần nhụy giữa con người với ngoại vật. Cái tôi cá nhân thơ Mới thành thực bộc lộ tất cả các trạng thái cung bậc cảm xúc trong tâm hồn của mình: thiết tha, say đắm, mộng mơ, não nùng, tuyệt vọng, réo rắt, xót xa, tuyệt vọng, mơ hồ, ảo não... Nội dung tâm lý trở thành đối tượng thẩm mỹ của thơ Mới, cung bậc cảm xúc trở thành nhạc thơ. Cá tôi mang đến khát vọng được phô bày nhịp điệu bên trong của đời sống tâm hồn.
Cá tính được đề cao, giải phóng sẽ giúp con người giải phóng cảm giác, trí tưởng tượng để hướng tới trình bày một đời sống tâm hồn như một đối tượng phức tạp nhưng hết sức chân thực. Sự chân thực của cảm xúc bao giờ cũng nhận được những đồng vọng lớn lao, (nó không cần khói sóng trên sông gợi nỗi nhớ nhà, không cần bóng chiều thắm hay vàng, vẫn có thể diễn tả thành thực cảm xúc, rung động trong cõi riêng tư). Và từ đó, cái tôi cá thể là trung tâm của cảm hứng giãi bày, thổ lộ, tự biểu hiện mình một cách trực tiếp bằng trạng thái thể chất, giao hòa nhuần nhụy giữa con người với ngoại vật. Cái tôi cá nhân thơ Mới thành thực bộc lộ tất cả các trạng thái cung bậc cảm xúc trong tâm hồn của mình: thiết tha, say đắm, mộng mơ, não nùng, tuyệt vọng, réo rắt, xót xa, tuyệt vọng, mơ hồ, ảo não... Nội dung tâm lý trở thành đối tượng thẩm mỹ của thơ Mới, cung bậc cảm xúc trở thành nhạc thơ. Cá tôi mang đến khát vọng được phô bày nhịp điệu bên trong của đời sống tâm hồn.
Cái
tôi thơ Mới giai đoạn đầu xuất hiện, say sưa, mê đắm với chân trời mới lạ. Cuộc
sống như một chiếc áo mới với sắc màu rực rỡ, tươi trẻ, tinh khôi. Các nhà thơ
Mới mở lòng ra đón nhận mọi hương sắc của cuộc đời. Nó thấy ý nghĩa tồn tại của
mình trong những cảm giác về thế giới. Vì vậy, nó cảm nhận ánh sáng, màu sắc,
âm thanh, hương vị, trạng thái, cảm xúc nhiều khi chính xác và tinh tế đến mức
hoàn mỹ. “Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”,
“Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay”, “Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”...
Thế giới
của cái tôi có hai mặt. Nếu khẳng định cá tính sẽ đem đến những giá trị thẩm mỹ mới, những góc độ nhận thức mới. Nhưng khi cá tính bị đẩy lên đến mức tuyệt đối,
ngay lập tức cái tôi sẽ lâm vào trạng thái cô đơn. Không tìm thấy điểm tựa, không
có lối thoát, cái tôi đó ngày càng cô đơn, tuyệt vọng, bế tắc. “Đời chúng
ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng
lạnh” (Hoài Thanh). Ngay từ thời kỳ đầu, thơ Thế Lữ đã buồn cái buồn mênh
mông, xa vắng... Đến Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu cái buồn đã trở nên thấm thía. Thấp
thoáng trong thơ một buổi nắng hè vắng lặng, nghe vọng lại một tiếng gà trưa rượi
buồn:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên sông
Xao xác gà trưa gáy não nùng”
“Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa
Chết không gian khô héo cả hồn cao”
Có nỗi
buồn ảo não, da diết, viên miễn trong Lửa thiêng của Huy Cận. “Huy Cận đi
lượn lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não...









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét