1. Cái trong lặng của nguồn…
Có một Trường thơ Loạn ra đời, những năm 30 của thế
kỷ trước, trên vùng đất “khúc ruột miền Trung” này, với ba chàng
trai trẻ.
Họ là ai? Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê. Lịch sử văn
chương Việt Nam có lúc sững lên vì họ. Và rồi Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử đường
hoàng đi vào sách giáo khoa, được công chúng trẻ hôm nay đọc và học mỗi ngày
trong giảng đường.
Duy chỉ có Bích Khê lặng lẽ.
Nhà thơ biết và muốn mình mãi là con suối
biếc. Suối biếc thì luôn náu mình giữa đại ngàn. Giòng rất hẹp mà lòng rất sâu.
Nước trong đến rợn người, xiết vào lòng đá tảng.
Tinh huyết và Tinh hoa từ khi ra đời vẫn luôn
tỏa ra một mùi hương lạ. Nó làm ta liên tưởng đến tiếng chuông kỳ ảo trong các
huyền truyện của H.C.Andersen. Những người lớn ngập mình trong thế giới được thua sẽ không bao giờ bắt được mùi hương tiếng chuông ấy. Chỉ có những
trẻ thơ thoáng nghe và mải mốt đi tìm. Và, họ bắt gặp một chân trời bát ngát.
Những chân trời mời gọi. Thơ Bích Khê mời gọi chúng ta. Bước
tới và khám phá đi, thơ ca của giòng suối biếc.
2. Khát vọng chạm môi vào tinh chất…
Tuổi đôi mươi, nhà thơ đã chọn những âm trầm. Phương
Đông uy nghiêm (Đường luật) hay Việt Nam lả lướt (Hát nói) đều nằng nặng một u
hoài.
Này sầu hoa, sầu cỏ, sầu núi, sầu non
Sầu tất cả bà con say tỉnh dở
Chưa nói đến tớ sầu vì tớ
Bôn ba mà vỡ lỡ nét tang thương
Ma dắt lối quỉ đưa đường
Sầu đây đó sầu vương chằng chịt mãi
(Bán
sầu)
Cái u hoài này không trang trọng cổ kính Huyện Thanh Quan mà
phóng túng tài hoa Nguyễn Khắc Hiếu.
Rồi cái âm trầm ấy đã trở thành chủ âm của thơ ca
Bích Khê, khi chàng dấn bước vào hành trình khơi mở. Cúi xuống và cúi sâu xuống
hồn mình, trái tim thơ trẻ đã giao hòa cùng đất đai quê xứ:
Nơi đây: làng cũ buồn thu quạnh
Anh có khi nào trở lại chưa?
Ngày đi chậm lắm. Giòng sông biếc
Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa
(Làng
em)
Làng thì cũ. Ngày thì chậm. Và mưa. Nhưng giòng sông biếc lại
hừng sáng, bất chấp khung cảnh vây quanh. Bởi giòng sông ấy đã thu
vào lòng mình cái hồn thời đại. Bởi nhà thơ đã tìm thấy thanh gươm bổn mệnh của
đời mình:
Người cho ta một thanh gươm rất sắc…
(Mộng
cầm ca)
Từ ngôi làng quạnh hiu ơ thờ ngày tháng, làm thế nào chàng
trai thơ bắt được thanh gươm? Không, gươm đã tìm đến chủ, như thuở xưa sứ thần
tìm đến Gióng. Và rồi bình minh đến. Một bình minh của thơ ca và sáng tạo.
Một thanh gươm rất sắc, có ai nói như thế không về ngôn từ
thơ ca? Và rồi ngay tức thì, từ khoảnh khắc chạm tay, Bích Khê hiểu ra mình đã
cầm nắm được một điều kỳ diệu: một luồng sinh khí khác thường khai mở sức thanh
xuân. Những cụm từ chỉ hành động mạnh mẽ ngông cuồng: Vung lên cắt… mạch
nguyệt vàng xanh, Xẻ mạch trời mây xô sao, răng rắc, Phăng mạch đêm, hương
vỡ, ứa ngầm tinh, Điên rồ múa… có khác thường không với một bài thơ mang cái tên
êm đềm Mộng cầm ca?
Có mối liên hệ nào giữa chiếc đàn mộng tưởng và thanh
gươm rất sắc? Bích Khê nói gì với ta ở ba từ mạch liên tiếp (mạch
nguyệt, mạch trời mây, mạch đêm) nằm trong ba câu thơ liền nhau trên? Như
thói thường, thi nhân nương mình vào vũ trụ để tìm hòa âm giai ngẫu, Bích Khê lại
muốn lay động, phá vỡ, xáo trộn. Vì sao?
Một mình chiêm nghiệm trong bóng tối mịt mùng của không gian
vật lý, không gian xã hội, không gian tâm lý và không gian chữ
nghĩa, nhiều lúc nhà thơ đã như nắm được sợi sinh mạch nguồn cơn của thế giới
này. Đắm say và khát khao, người muốn đi đến cùng trong cảm giác chạm môi
vào tinh chất (essence). Trịnh Công Sơn rất gần với Bích Khê trong tâm thế thường
trực này, chỉ có điều người thì khẽ khàng, kẻ lại mạnh mẽ, nhưng cuối cùng cả
hai đều đến đích, bởi họ đã sử dụng tài tình cái chìa khoá đầy quyền năng của
ngôn từ và giai điệu.
3. Những bước lượn bất ngờ làm nên nghịch lý…
Trong giòng chảy 14 năm của mình, Bích Khê luôn có những bước
lượn ngoạn mục đầy bất ngờ, bởi vì nói như Thanh Thảo, chàng luôn luôn “bước
tới [①]. Có thể thấy
những bước vận động lớn qua ba chặng đời nghệ thuật: 1931-1936, 1936-1939,
1939-1945, tương ứng với ba tập thơ: Mấy giòng thơ cũ (chưa xuất bản), Tinh
huyết (1939) và Tinh hoa (1997). Cũng có thể nhận ra sự tự vượt
thoát của Bích Khê trong từng tập thơ một. Rồi đây hẳn chúng ta còn phải nghiên
cứu kỹ về hai vấn đề trên, với công tác văn bản học tỉ mỉ, khoa học. Ở đây, đi
từng bước nhỏ, tôi muốn dõi theo những cú lượn trong từng bài thơ của
Bích Khê. Những cú lượn cực nhanh và ngày càng tinh diệu, lắm khi làm chúng ta
hoa mắt.
Với Mộng cầm ca, bốn khổ thơ đầu phả ra cảm giác dạt dào
của ngũ quan về thiên nhiên và con người; bỗng ngoặt một cái, đường bay sững lại
ở sự kiện đầy kịch tính, là biểu tượng chuyên chở tuyên ngôn:
Người cho ta một thanh gươm rất sắc
Ồ vung lên…cắt mạch nguyệt vàng xanh
Xẻ mạch trời-mây xô sao, răng rắc
Phăng mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh!
Người cho ta một thanh gươm rất sắc
Ta điên rồ… múa giữa áng bình minh
Trong Đồ Mi hoa, sau khi ngợi ca một nhan sắc vừa lồ lộ đài
nộn nhụy, vừa tinh khiết chứa mùa xuân phẩm tiết, Bích Khê uốn
lượn ở khổ thơ áp chót:
Ta những muốn sầu thương thôi biểu lộ
- Sắc trong màu, màu trong sắc: hân hoan..
Ta những muốn mùa đông nhường lại chỗ
- Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc: lan man…
Ta những muốn màn đen về cõi mộ
- Cả không gian là bể sáng tràn lan
Đến Duy tân, bằng thể thơ tám chữ, Bích Khê uốn lượn
trong từng câu:
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới,
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong (…)
Trong vòm xanh. Màu cưới màu bình lặng,
Gây phương phi: chiếu sáng ngả sang mờ
Vì hình dung những sắc mát, non, tơ
Như mặt trời lọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn - Ôi đàn môi, chim báu tớt:
- mở ngoặc:
Múa song song: khiêu vũ dưới đêm hồng
(Những con cừu tim trẻ mướt như lông…
- xuống giòng bậc thang, hỏi và trả lời:
Mộng?
Thiên tài?
- Trên
hỗn độn khoả thân
- chú dẫn ý nghĩa bằng hai gạch nối:
Vàng… khi cách biệt - giữa hồn xây mộ -
Nhưng kinh ngạc hơn là Xuân tượng trưng và Ngũ Hành Sơn
(tiền và hậu), những bài thơ mà theo tôi là đỉnh điểm của thiên tài.
Nơi đây, trong một thể thơ năm chữ, Bích Khê đã lượn trong từng từ, từng âm, từng
hình ảnh, từng nhịp điệu, từng ý nghĩa...
Văn bản cho thấy, từ mở cho đến kết, Xuân tượng trưng và
Ngũ Hành Sơn (tiền và hậu) hoàn toàn không có dấu ngắt. Đó quả
thực là con suối vô thủy vô chung, lưu vực hẹp và sâu, lưu lượng mạnh và luân
chuyển khôn lường thành nhiều con sóng nhỏ: lời/ nhạc/ hình/ nét/ cảm giác/ tư
tưởng… (Xuân tượng trưng); vật/ người/ tình/ cảnh/ nhạc/ tiên/ yêu tinh/ ngai
báu/ thiên đường.. (Ngũ Hành Sơn (tiền) người/ cảnh/ vũ trụ/ triết học/ Phật/
văn chương/ thế gian… (Ngũ Hành Sơn (hậu).
Ở Ngũ Hành Sơn (tiền):
Hai ta là mảnh vỡ
Của ngai báu thiên đường
Hai ta là chất bổ
Cắn ở trái đau thương
vì họ có đôi, nên ước vọng cao nhất là đến đỉnh
non Bồng:
Ôm nhau chết bên đường
Mơ màng trăng hạc rước
Ở Ngũ Hành Sơn (hậu), chàng đi một mình, nên được
cái niềm vui hào sảng sóng mình cùng triết lý, Phật pháp và “chính phẩm văn
chương”:
Đứng trên Đài Vọng Hải
Ngỡ tới Hoàng Hạc Lâu
Tuyệt thay hòn Non Nước
Hồn Thôi Hiệu ở đâu
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, lạy
Trên, dưới, đất, trời, chầu
Vàng sao ngời mắt rạng
Sương châu nhỏ giọt sa
Những bài thơ trên, khi đọc lên, gợi nhớ những thần chú xa
xưa, do âm điệu cực kỳ biến ảo và ngôn ngữ thơ ca giàu sức nén.
Và như vậy có thể nói, bước lượn lớn nhất, bao trùm nhất
của giòng chảy thơ Bích Khê là đường lượn chéo, uyển chuyển, đã nối liền Đông
và Tây, xưa và nay, thi ca và triết học, cảm giác và trí
tuệ….
Những bước lượn đã làm nên các nghịch lý trong văn bản và ngược
lại. Phân tích các nghịch lý này, dường như ta hiểu được phần nào
cái lạ lùng khó hiểu của thế giới thơ Bích Khê.
4. Con người kép trong thơ, sự chưng cất tuyệt đẹp từ
đâu…
Không theo lẽ thường, Bích Khê xuất hiện và tồn tại trong
không gian thơ của mình một con người kép: con người cảm xúc và con người
suy tưởng.
Cuộc gặp gỡ giữa ba thi nhân thuở ấy, thoáng chốc thôi, mà
như định mệnh. Lần lựa hơn trong khởi nghiệp, Bích Khê bừng nở muộn và thơ ông
là tinh chất được chưng cất từ hai dung dịch thơ ca đậm sắc Hàn Mặc Tử - Chế
Lan Viên.
Dù chứa chan cảm xúc, Bích Khê không chuồi đi trong dẫn
dắt của ngũ quan như Hàn Mặc Tử. Dù tràn đầy ý thức cách tân, Bích
Khê không xiêu theo hấp lực của suy tưởng như Chế Lan Viên. Không
chỉ đam mê Bích Khê còn tỉnh thức. Vừa sống với thơ, Bích Khê
còn nghĩ về thơ. Từng bài thơ Bích Khê dung chứa con người kép này của
ông, mà phương diện nào cũng sục sôi, cũng “bôn bức” [②].
Sẽ cắt nghĩa thế nào, hiện tượng này?
Đồng bệnh tương lân, có lẽ trong những người bạn thơ, Bích
Khê gần Hàn Mặc Tử nhất. Chia sẻ, xót xa, tâm hồn thơ Bích Khê có lúc giao hòa
cùng Hàn Mặc Tử: Hiện hình, Làng em, Nghê thường…Chất cảm xúc
trong thơ ấy là cảm xúc quyện chặt giữa hồn và xác: chiêm ngưỡng và rạo rực,
hân hoan và thảng thốt. Cái âm điệu trong thơ ấy vừa dào dạt vừa kìm nén. Cái
hình ảnh trong thơ ấy vừa bảng lảng vừa suồng sã. Nhưng cả trong khi giống Hàn
Mặc Tử như vậy, Bích Khê đã đi xa hơn, đã ướm mình vào thế giới siêu thực, như
nhiều người nói, và vẫn là Bích Khê với âm chất Quảng Ngãi của riêng
mình: Gió thiệt đa tình…Thơm tho mùi thịt bắt say ngà… (Hiện
hình); Lên men nồng khướt, xoay tròn lên không (Cuối thu); Nhung
mây ê ngời sao kim cương, Dạ lan ê ngời say men hương, Này!
Muôn ngọc nữ ngớp y thường(Nghê thường); Gió tâm tư say
chúi nửa lừng mơ (Đồ mi hoa); Như nắng thơm hớp đặc cả
nguồn hương.. Hỡi trần gian! Hãy chết ngột trong sao (Nàng bước
tới); Tôi sú tình trong đôi mắt ướt, Mơ màng phối hiệp ở
chiêm bao (Tôi chết rồi tiếng nói như châu); Màu thi sắc lá đọ
dung nghi (Hồ Xuân Hương); Của lời thơ lóng đẹp. Ôi đàn môi,
chim báu tớt (Duy tân); Miệng nào rục điệu ca, Làm ứa
mảnh trăng lòn (Ngũ Hành Sơn).
Cũng từ phong khí đất đai và nhịp hồn thời đại mà thơ Bích
Khê gặp gỡ thơ Chế Lan Viên, trong cảm hứng, trong motif nghệ thuật và trong sự
tỉnh thức. Nhưng nếu Chế Lan Viên ngả về cái huy hoàng của tư duy, Bích
Khê nương theo cái tráng lệ của ngôn từ. Suy tưởng với Bích Khê
là suy tưởng trên ngôn từ. Vì vậy Bích Khê cách tân rõ hơn Chế Lan Viên về thủ
pháp.
Chất nhựa thơm nồng kỳ lạ đã ứa ra, trên đôi tay của những
người tinh luyện ngôn từ, Tây và Đông: Baudelaire, Rimbaud, Valéry, Bích Khê …
Có cả trong thơ Bích Khê, cái hồn của Đông và Tây, cổ kính và
hiện đại, nghiêm trang và sỗ sàng, vì thế Quách Tấn nói “Bích Khê nhảy từ thái
cực này sang thái cực khác” (…) lúc “khăn đen áo dài tề chỉnh”, khi “trần thân
đứng trước chỗ đông người mà không chút ngượng ngùng” [③].
Đọc thơ Bích Khê sẽ nhận ra cái cảm giác dạt dào của ngũ
quan, cái táo bạo và bề bộn của hình ảnh, luôn bị gò trong cái khuôn cân đối chặt
chẽ của câu thơ và nhịp điệu. Đừng hòng tìm ở đây cái lửng lơ xộc xệch của câu
thơ tự do. Điều gì làm nên cái nghịch lý thứ hai này trong thế giới thơ ca Bích
Khê? Ta biết rằng cả cũ và mới, Bích Khê đều muốn vắt ra cái chất nước trong ứa
từ nguồn cội. Và là nước thì tất phải chảy, con suối ấy chưa bao giờ dừng đọng,
chưa bao giờ chịu cam lòng quẩn quanh, dù nhà thơ thì đang phải giam mình trong
một xác thân bệnh tật và một không gian tỉnh lẻ. Vận động, mải miết chảy, đó là
hình ảnh mà thơ ca Bích Khê lưu lại. Bước vận động của thơ Bích Khê cũng khác
người. Nói theo ngôn ngữ truyện chưởng, Bích Khê luôn đi những chiêu hết sức bất
ngờ. Sách vở và kiến thức đông tây cổ kim tất nhiên là có, nhưng đến một lúc
nào đó đã nép mình nhường cho một linh giác lạ thường, làm nở xoè ra những bông
ánh sáng.
5. Tinh huyết, Tinh hoa, xác tín và trao gửi…
Nghệ sĩ nhất trong số những nghệ sĩ Việt Nam hiện đại, Bích
Khê lại là con người luôn xác quyết trong đời và trong thơ. Những giòng hồi ức
của Quách Tấn và Ngọc Sương hé mở nhiều với ta về một cá tính. Và tôi tự hỏi:
làm sao ở độ tuổi đôi mươi, người ta có thể tự chủ và tự biết đến
vậy! Tự chủ và tự biết trong học tập, trong lập thân, trong văn chương, trong
tình cảm và cả trong cái chết, khi thân xác thì ốm yếu, đời sống thì gian nan.
Lời tuyệt mệnh Bích Khê tự đề cho mộ chí mình:
Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sông lạnh ánh sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi
là một một dự báo đầy tự tin, hoàn toàn ung dung, của một thi
nhân hiện đại đứng vững trên khu vườn thơ ca dân tộc.
Tinh huyết làm chúng ta nghĩ về cái essence của
vùng miền và đất nước kết lại, làm thành cốt cách, khí chất nơi người. Tinh
hoa lại gợi đến cái essence của xã hội và thời đại hội tụ, bộc lộ
thành tài năng, dáng vẻ.
Bích Khê đã trao tặng chúng ta cái món quà vô giá mà từ lúc
hình thành ý tưởng, đếnlúc gói ghém, cột nơ, thảy đều cẩn trọng và chu tất.
6. Dáng viết Bích Khê…
Lịch sử thơ ca để lại cho ta những dáng viết và những dáng
người. Có thời ta gặp những dáng viết tỏ ra vững chãi hân hoan trong những dáng
người dựa dẫm. Thật hạnh phúc khi gặp những dáng viết liêu xiêu lảo đảo trong
dáng người thung dung tự tại. Bích Khê- đời, từng chịu đựng những cơn đau,
lặng lẽ thu xếp trước cho mình cái chết, nồng nàn cả tin mà cũng quyết liệt đến
bất ngờ. Bích Khê- thơ, chọn cho mình một lối đi cheo leo, và cái
dáng thơ chênh vênh nghiêng ngả trên sợi dây rất mảnh vắt ngang núi cao và vực
sâu ấy luôn làm ta chóng mặt.
Ba mươi mốt năm trần thế, một thể chất mong manh, một trái
tim nhạy cảm. Tình yêu hay thời cuộc, tiếng dội nào cũng đều làm ran ngực trẻ.
Bích Khê đã chọn nhận và khước từ. Chỉ có cuộc hôn phối với thơ ca là vĩnh viễn.
Với thơ ca, chàng đã giữ được thế cân bằng để đi đến đích. Cả trong thơ và
trong đời, Bích Khê như một người đạt đạo ở tuổi ba mươi.
Chú thích:
①] Thanh Thảo - Chàng bước tới, trong Bảy mươi năm đọc thơ Bích
Khê, Nxb. Thanh Niên, H, 2003, tr.142
[②] Lời của Bích Khê: “Tôi biết thơ tôi chưa theo kịp thơ Tử. Thơ Tử đã
lên đến độ “xuất thần nhập hóa”. Tôi phải tu luyện lâu ngày mới vói tới vai Tử
được. Sánh Tử là Gia Cát Lượng, tôi là Bàng Thống đúng lắm. Phải
công nhận Bàng Thống thua Gia Cát Lượng xa. Một bên ung dung… một bên bôn bức… Tánh
tôi thật giống tánh Phụng Sồ..” (Quách Tấn, Đời Bích Khê, Lửa Thiêng,
S, 1971, tr.159)
Sài
Gòn, 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét