Định dạng sản phẩm chủ lực
1. Khái niệm định dạng sản phẩm chủ lực
Sản phẩm chủ lực trong văn hóa nghệ thuật là những sản phẩm
theo phân khúc thị trường, mang lại doanh thu cao nhất cho đơn vị nghệ thuật. Mỗi
đơn vị nghệ thuật cần phân khúc sản phẩm tiềm năng chiếm thị phần cao trong
doanh thu, mang lại lợi nhuận chính của đơn vị.
Sản phẩm nghệ thuật là một khái niệm rộng, xin gói gọn
trong các đơn vị hoạt động nghệ thuật biểu diễn sản phẩm chủ lực là gì? Sản phẩm
biểu diễn có nhiểu loại phân khúc thị trường như: Tác phẩm băng đĩa, video,
clip nghệ thuật, ca nhạc, kịch nói, nhảy múa, xiếc, tuồng, chèo, cải lương, múa
rối... nhiều loại hình nghệ thuật. Chỉ nói riêng sản phẩm múa rối có cácloạiphân
khúc thị trường, loại sản phẩm múa rối cạn, múa rối nước, rối nước cổ truyền, vở
rối, trò rối đương đại, tác phẩm băng đĩa, video, clip nghệ thuật, sân khấu
truyền hình, phát trên mạng Yotube, sân khấu biểu diễn di động, tại chỗ, sản phẩm
biểu diễn ở nước ngoài, tuar du lịch... sự phân khúc đa thành phần, đa dạng sản
phẩm như đã nêu trên, cần lựa chọn sản phẩm chủ lực.
Sản phẩm chủ lực của ngành múa rối cần xác định mục tiêu phân
khúc thị trường, sản phẩm nào mang lại hiệu quả kinh tế lợi nhuận cao nhất cho
nhà hát, hoặc đoàn múa rối. Khi trao đổi đến đây chắc mỗi nhà hát, mỗi đoàn nghệ
thuật biểu diễn đã nhận diện ra sản phẩm chủ lực của đơn vị mình, loại nào
trong từng phân khúc thị trường, cụ thể của mỗi loại sản phẩm nghệ thuật biểu
diễn đạt doanh thu bao nhiêu? Sản phẩm nào mang lại lợi nhuận cao thì đấy là sản
phẩm chủ lực của đơn vị kinh doanh nghệ thuật biểu diễn trong công chúng.
Khi đã xác định được sản phẩm chủ lực là nghệ thuật biểu diễn
trên sân khấu trực tiếp với khán giả, thì nhà quản lý phải phân khúc mục tiêu sản
phẩm theo quy trình sau:
Môi trường biểu diễn.
Các nhóm khách hàng.
Nhu cầu thị hiếu công chúng với sản phẩm.
Từ những phân khúc quy trình trên, chọn nhóm công chúng phù hợp
với mục tiêu cạnh tranh thị phần nghệ thuật biểu diễn. Qua nghệ thuật thông tin
truyền thông, kỹ thuật marketing sản phẩm, phân khúc mục tiêu khách hàng, đó là
đối tượng khán giả. Sản phẩm sản xuất ra đáp ứng nhu cầu thị hiếu công chúng: độ
tuổi, giới tính, trình độ học thức thẩm mỹ nghệ thuật, thu nhập, lối sống... Từ
đó mới có tác phẩm đoạt doanh thu cao, thường xuyên trong nghệ thuật biểu diễn.
Mỗi đơn vị quản lý nghệ thuật biểu diễn thiết lập hệ thống phân phối là bản chất
của môi trường tiếp thị, mở đầu và kết thúc là người tiêu dùng sản phẩm nghệ
thuật biểu diễn.
Quản lý nghệ thuật biểu diễn múa rối, sản phẩm chủ lực của
các đoàn, nhà hát là: Múa rối nước. Múa rối nước là sẩn phẩm chủ lực biểu diễn
doanh thu thường xuyên, nhưng phải phân khúc đối tượng khán giả người nước
ngoài, khán giả trong nước, sân khấu địa điểm biểu diễn tại chỗ, xây dựng
thương hiệu, địa chỉ quen thuộc thường xuyên biểu diễn nhiều show. Ngoài ra còn
mở rộng thị phần biểu diễn theo tuar du lịch, các dịp hội xuân, hội làng, khai
trường, nhập trường, lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại... Phân khúc chủ
lực của môi trường thị trường chiếm lĩnh thị phần nghệ thuật biểu diễn
là: Xây dựng thương hiệu nghệ thuật bằng tác phẩm hấp dẫn công chúng. Cần
nhiều tác phẩm vì khán giả, đáp ứng nhu cầu mọi đối tượng công chúng.
Múa rối nước có hai phân khúc thị trường: Tác phẩm trò rối
truyền thống, trò rối, vở rối đương đại. Mỗi hình thức, thể loại tác phẩm đáp ứng
một số đối tượng khách hàng, là công chúng nghệ thuật thường xuyên và không thường
xuyên.
Những nhà quản lý các nhà hát, các đoàn múa rối, hoặc những
đơn vị nghệ thuật biểu diễn cần phân khúc thị trường khán giả, đâu là khách
hàng tiểm năng, khi nào phục vụ doanh thu không thường xuyên để các sản phẩm đạt
hiệu quả lợi nhuận cao nhất cho mỗi đơn vị nghệ thuật biểu diễn.
2. Định dạng các sản phẩm nghiên cứu khoa học và đầu tư thường
xuyên.
Mỗi đơn vị nghệ thuật biểu diễn có nhiều phân khúc nghệ thuật,
các loại sản phẩm văn hóa cần đầu tư, nghiên cứu khoa học, phát triển vì lợi
ích nghệ thuật dân tộc. Những sản phẩm cần đầu tư nghiên cứu khoa học, và những
sản phẩm phải chi phí thường xuyên để phát triển nghệ thuật biểu diễn vì lợi
nhuận doanh thu và phục vụ công chúng.
Mỗi loại sản phẩm lại phân khúc thị trường theo nhu cầu thực
tiễn phát triển văn hóa nghệ thuật, thực tiễn công tác nghiên cứu khoa học và
nghệ thuật. Những loại sản phẩm cần đầu tư nghiên cứu khoa học, không phải là của
riêng ngành múa rối mà của chung các đơn vị kinh doanh nghệ thuật trong đó có
nghệ thuật biểu diễn như sân khấu: Tuồng, chèo, cải lương, kịch nói, xiếc, nhảy
múa...
Phân khúc thứ nhất, những sản phẩm truyền thống cần phục hồi
để lưu gữ tư liệu nghệ thuật nghiên cứu, bảo tồn vốn nghệ thuật nghệ nhân dân
gian là những di sản văn hóa phi vật thể.
Tương tự như nghệ thuật múa rối thì phân khúc thứ hai, các sản
phẩm cần chi thường xuyên để phát triển nghệ thuật biểu diễn, không ngừng nâng
cao lợi nhuận doanh thu và phục vụ nhu cầu công chúng trong thời kỳ hội nhập,
quốc tế hóa. Đó là những sản phẩm văn hóa nghệ thuật đương đại phát triển nghệ
thuật biểu diễn bằng những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao, mỗi tác phẩm có giá trị
hấp dẫn công chúng để doanh thu phát triển thị phần nghệ thuật và lợi nhuận
kinh tế.
Nhu cầu nghiên cứu khoa học cần sự đầu tư của Bộ Văn hóa và
đơn vị cơ sở, nhưng lâu nay chỉ có phần đầu tư cho nghiên cứu khoa học bằng nguồn
kinh phí của Bộ Văn hóa. Kinh phí nghiên cứu khoa học của đơn vị chủ quản gần
như bằng không, vì sự sống còn của nghệ thuật kinh doanh, nên các đơn vị chỉ đầu
tư vào tác phẩm thử nghiệm, tác phẩm biểu diễn doanh thu trực tiếp, những phần
khác chưa được coi trọng.
3. Định dạng sản phẩm nghiên cứu khoa học trong nghệ thuật biểu
diễn
Những sản phẩm cần đầu tư nghiên cứu khoa học theo phương
pháp định dạng sản phẩm có điều kiện, dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển nghệ
thuật của mỗi đơn vị nghệ thuật biểu diễn. Những tác phẩm được công chúng yêu
thích, doanh thu cao bắt nguồn từ cơ sở chất liệu nghệ thuật nào? Dựa vào các
giá trị nghệ thuật đề nghiên cứu bảo tồn, phát huy, phát triển và bảo tồn vốn
nghệ thuật trong truyền thống của đơn vị.
Các sản phẩm văn hóa nghệ thuật biểu diễn có hai phân khúc,
thứ nhất, các giá trị vốn cổ nghệ thuật dân gian, thứ hai, tác phẩm nghệ thuật
đương đại, đây là những sản phẩm cần đầu tư nghiên cứu khoa học có điều kiện.
Những đơn vị nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc, định dạng sản phẩm nghiên cứu gồm:
Nghiên cứu các giá trị nghệ thuật ca nhạc dân gian, gồm
nhạc có lời và nhạc không lời.
Sáng kiến cải tiến nhạc cụ, sưu tầm dân ca, nhạc cụ cổ truyền
các dân tộc.
Sưu tầm múa dân gian, các dân tộc, các công trình nghiên cứu
lý luận nghệ thuật đóng góp vào sự kinh doanh cho đơn vị.
Nhà hát múa rối, đoàn rối, định dạng sản phẩm nghiên cứu được
Bộ Văn hóa, hoặc Nhà nước cấp tài chính, gồm các loại sản phẩm:
Công trình nghiên cứu nghệ thuật múa rối cổ truyến, công
trình sưu tầm tư liệu múa rối cổ truyền, tư liệu về phường múa rối, nghệ nhân,
con rối cổ truyền.
Nghiên cứu kỹ thuật chế tác con rối, bộ máy điều kiến, kỹ
năng biểu diễn múa rối cổ truyền của nghệ nhân.
Với sân khấu kịch hát dân tộc: Tuồng, chèo, cải lương, kịch
dân ca, những sản phẩm nghiên cứu khoa học gồm:
Sưu tầm những vở kịch hát cổ, kịch bản nghệ nhân, nghệ
thuật kỹ thuật biểu diễn của nghệ nhân, mặt nạ cổ truyền.
Các công trình nghiên cứu lý luận về: Nghệ thuật biểu diến, lịch
sử bộ môn, phương pháp chế tác đạo cụ, hóa trang, phục trang, mỹ thuật sân khấu...
về sân khấu, nghệ thuật cổ truyền.
Những sản phẩm nghiên cứu tùy theo nội dung khoa học của đề
tài do đơn vị cấp kinh phí, hoặc Bộ Văn hóa đầu tư, tài trợ nghiên cứu khoa học
và sưu tầm tư liệu. Định dạng rõ các sản phẩm nghiên cứu khoa học là việc làm bức
thiết hiện nay, nhằm hai mục đích. Thứ nhất, bảo tồn vốn quý văn hóa nghệ
thuật cổ truyền, là phát triển linh hồn dân tộc, đất nước trường tồn cùng lịch
sử dựng nước và giữ nước của nhân dân trong thời đại mới. Thứ hai, phát
triển văn hóa nghệ thuật dân tộc vào đời sống văn hóa tinh thần con người trong
xã hội đương đại, đáp ứng nhu càu giao lưu, hội nhập nghệ thuật đa sắc màu văn
hóa dân tộc và quốc tế.
4. Định dạng sản phẩm nghệ thuật chi thường xuyên
Những sản phẩm định dạng chi thường xuyên trong các đơn vị
nghệ thuật biểu diễn, gồm nhiều sản phẩm của đơn vị chủ quản. Những sản ấy lâu
nay các đơn vị nghệ thuật biểu diễn từng chi phí cho sự sáng tạo nghệ thuật, mặt
khác đã được Bộ Văn hóa đầu tư giải quyết nguồn kinh phí để hoạt động biểu diễn
doanh thu cho từng đơn vị.
Mỗi đơn vị nghệ thuật biểu diễn đã xác định sản phẩm chủ
lục kinh doanh như ca múa nhạc thì tác phẩm ca nhạc gồm: Nhạc dân ca, nhạc
không lời, nhát hát, nhạc không lời của sáng tác tác phẩm mới, cải tiến nhạc
khí, những điệu múa, kịch múa, dàn dựng, chỉnh biên tác phẩm múa dân gian... nằm
trong kinh phí chi thường xuyên để phát triển sân khấu nghệ thuật biểu diễn.
Đây là huyết mạch của nghệ thuật, kỹ thuật doanh thu lợi nhuận từ những tác phẩm
nghệ thuật mang tầm thời đại, đáp ứng đúng thị hiếu người xem. Các đơn vị sân
khấu dân tộc: Tuồng, chèo, cải lương, múa rối đã chi thường xuyên những kịch bản,
tác phẩm khai thác đề tài dân gian đương đại. Nói chung những tác phẩm sáng tác
mới, kể cả phục chế con rối, mặt nạ, mỹ thuật phục trang, thiết kế sân khấu... những
tác phẩm sưu tầm trò diễn cổ, tích truyện dân gian, dựng lại mang ra biểu diễn
đã nằm trong kinh phí chi thường xuyên của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn.
Định dạng sản phẩm chi thường xuyên của các đơn vị nghệ thuật
biểu diễn gồm hai dòng sản phẩm cơ bản:
Những sáng tác theo đơn đặt hàng, sáng tác mới giá trị biểu diễn ngay.
Những sản phẩm mang tính chiến lược phát triển văn hóa nghệ thuât.
Mỗi dòng sản phẩm nằm trong nguồn kinh phí thực chi thường
xuyên, vì đã đóng góp giá trị nghệ thuật vào sự nghiệp phát triển văn hóa nghệ
thuật của đoàn, nhà hát và ngành văn hóa để xây dựng sự nghiệp nghệ thuật dân tộc
của đất nươc. Những sản phẩm mang giá trị kinh doanh lợi nhuận cao, lại có ý
nghĩa giáo dục đạo đức, lối sống, tinh thần xây dựng bảo vệ tổ quốc là những sản
phẩm ưu tiên hàng đầu trong nguồn chi thường xuyên của mỗi đơn vị nghệ thuật biểu
diễn. Việc định dạng các loại sản phẩm văn hóa nghệ thuật là ước muốn của các
nhà quản lý và người sáng tạo nghệ thuật.
5. Kết luận
Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn là sản phẩm văn hóa tinh thần
trí tuệ, sáng tạo của cá thể trong mối quan hệ tổng hợp: Tác giả, nghệ sĩ, kỹ
thuật công nghiệp văn hóa. Mỗi sản phẩm có nhiều hình thức tồn tại, phát triển
trong kỷ nguyên cách mạng 4.0, các nghệ sĩ đã thu lợi nhuận cao, nhiều đơn vị
thành công trong sự nghiệp phát triển nghệ thuật biểu diễn.
Sự ứng dụng công nghiệp văn hóa thế kỷ XXI, ở những nước
phát triển: Mỹ, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Austrailia... trong các công ty nghệ thuật
biểu diễn đã trở thành quy luật tự nhiên, chuyên nghiệp sản xuất định dạng các
sản phẩm nghệ thuật. Nhưng trong ngành nghệ thuật biểu diễn cũng như các nghệ sĩ ở nước ta còn là khoảng cách, mỗi đơn vị, mỗi cá nhân phải áp dụng ngay phương
thứchoạt động nghệ thuật, sản xuất sản phẩm văn hóa theo công nghiệp văn hóa. Cụ
thể các đơn vị, cá nhân ứng dụng ngay các giải pháp tiếp thị, marketing, quảng
cáo thương hiệu, xây dựng thương hiệu sản phẩm, phân khúc thị trường, định dạng
sản phẩm chủ lực, bán sản phẩm, tiếp thị trên các trang trên mạng xã hội... đây
là những nhu cầu thiết yếu bán hàng nhanh nhất, doanh thu lợi nhuận cao nhất.
Thực trạng ứng dụng công nghiệp văn hóa vào sản xuật, định dạng
các sản phẩm văn hóa nghệ thuật hiện nay, nhiều đơn vị còn lúng túng chưa ứng dụng
hiệu quả. Nhiều nhà sản xuất, quản lý, kinh doanh, nhà sáng tạo sản phẩm,
nghệ sĩ biểu diễn... ứng dụng chưa thực hiệu quả các phương thức sản xuất sản phẩm,
kinh doanh bán hàng độc chiếm thị phẩn văn hóa nghệ thuật. Công việc định dạng
sản phẩm, sản xuất sản phẩm là khâu quyết định phát triển các công ty, các
đoàn, nhà hát nghệ thuật biểu diễn, cần tăng cường phát triển sức mạnh mềm trong
công tác tiếp thị, xây dựng thương hiệu, phân khúc thị phẩn chủ lực, khán giả
chủ lực, sản phẩm chủ lực, nhằm phát triển các đoàn, nhà hát thu lợi nhuận cao
nhất, ảnh hưởng lớn nhất đến công chúngđể phát triển bền vững các đơn vị nghệ
thuật biểu diễn văn hóa nghệ thuật trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa.
Tư liệu tham khảo:
1/ Các biểu tượng trong văn học nghệ thuật - Đinh Hồng Hải - NXB
Văn hóa - 2011.
2/ Nâng cao năng lực sáng tạo nghệ thuật... Luận án tiến sĩ triết
học của Nguyễn Mai Phương-Mã 62220302 - Đại học Quốc gia Hà Nọi
3/ Một đề dẫn về lý thuyết nghệ thuật của Cynthia Freeland -
nxb - Văn học
4/ Tác phẩm nghệ thuật học của Đỗ Văn Khang - Hà Nội năm
2008
5/ Trang vàng Việt Nam - năm 2017 - 2018.
6/ Thấu hiểu tiếp thị từ A đến Z - Hà Nội - năm 2016.
7/ Khác biệt hay là chết - Nxb trẻ - năm 2008
8/ Để ngôn từ thành sức mạnh của Takahashi - Nxb Trẻ - 2016.
đặt vé máy bay eva air
khuyến mãi vé máy bay đi mỹ
đặt vé máy bay korean air
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
Vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch