Thứ Tư, 10 tháng 6, 2020

Thế giới ngủ trong đường viền và giấc mơ con chữ

Thế giới ngủ trong đường viền 
và giấc mơ con chữ
(Đọc “Thế giới ngủ trong đường viền”
Tập thơ NXB Hội Nhà văn 2020)
Trần Thị Huê là hội viên Hội Văn học nghệ thuật Quảng Bình, giáo viên Trường Mầm non Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh. Năm 27 tuổi bắt đầu làm thơ và sau ba mươi tuổi chị có thơ in: Sóng vọng - NXB Thuận Hóa 2001 là tập thơ đầu tay của chị. Tiếp đó, Giấc mơ nhật thực - NXB Thuận Hóa 2012, Giữa tro và cõi sống - NXBThuận Hóa 2014 và Mặt trời đến lớp - NXB Hội Nhà văn 2018. Như tự khao mình bước vào “ngũ thập”, tháng 3 năm 2020 chị vừa xuất bản tập thơ thứ 5: “Thế giới ngủ trong đường viền”. Tập thơ do Nhà phê bình văn học Hoàng Thụy Anh viết lời tựa, quy tụ 52 bài thơ đề cập nhiều mối quan hệ siêu nhiên lẫn tự nhiên, hiện tượng, sự vật trong đời sống.
Những dấu chấm than dài trên trang giấy/ những câu chuyện dành riêng cho anh phía ấy đơn côi…/ những chùm hoa không còn biết nở/ Những bài thơ không còn biết hát…/ Những cầu thang ai chia lối khác”. Đêm của người thơ ngổn ngang tâm trạng, suy tưởng nhưng người thơ không hề cô đơn: Con đường đến với đêm trong mơ… Rừng lên men/ Ngọt nắng (trong bài Đêm). Gửi em bé trong tranh nhưng người thơ đang tả thực với chúng ta, từ bìa rừng, con đường già, cuộc sống của em, màu trắng xanh cùng làn da, khác biệt ở chỗ tất cả lên hai. Chị đang nghe bức tranh này nói với tôi có lửa, cả những đồ ăn của em có lửa. Măt tôi chợt cay: Từ lâu mẹ không dạy em cầm bát… hạnh phúc của em chỉ được sống trong món ăn như thế… Thì ra, em là đứa con của rừng là thần mặt trời trên cao hiện thân của sức mạnh sáng tạo mà người thơ luôn vươn tới. Khi trở về với hiện thực, tác giả như nói với chính mình: Thế giới lớn vô cùng nhưng em là đứa trẻ/ Đứa trẻ biết mọi thứ nghèo nhất/ Đứa trẻ biết khổ là gì khi mới sinh ra (trong bài Đứa trẻ biết khổ là gì khi mới sinh ra).
Biển luôn là niềm tin vô tận của con người, biển là nơi nhận hết mọi giông bão, chia sớt sự cuồng nộ trước khi di chuyển gần bờ. Lòng biển chấp nhận phũ phàng nhưng sau lại xanh biếc, tươi trong, sáng niềm hy vọng như cảm nhận của Trần Thị Huê: Em vẽ lên trang giấy những mảng màu khác lạ…/ Màu nguyên gốc tựa như ánh bình minh lớn lên từ biển/ Nhẫn nại trước phong ba/ Và biết cõng cánh chuồn trong nắng… (trong bài Ngày mới không tên). Khi thế giới ngủ trong đường viền của chiếc túi xách/ Nó chưa hề ăn và chưa hề va chạm/ Chưa hề yêu nhưng chị đã chiêm nghiệm Chừng ấy năm đi dưới bàn chân/ Nghe xát và êm khoảng khuyết/ Chân viết hẳn một nét huyền chảy dài mi mắt/ Tóc khâu hoài niệm/ Trăng ngọt nằm nghiêng (trong bài Thế giới ngủ trong đường viền). Thời gian trôi đi thật nhanh và không thể nào thu giữ được nhưng thời gian cũng là phương tiện chuyên chở cho ta mọi thứ:
Niềm vui, nỗi buồn, dại khờ, khổ đau, hạnh phúc… ví không có thời gian tất cả đều đông cứng. Với Huê, mỗi ký tự của chị đều cho thấy giọng điệu của ý nghĩ, ý nghĩ bung nở hết mình trước thời gian: Níu dại khờ năm trước biết mọi thứ để dành không thuộc về mình nhưng ấm lòng con sông hẹp/…Thương tấm áo nâu sờn vai/ Thương chuyến tàu đi muộn trong đêm có một cụ già nhớ về cảnh nghèo năm trước/ Phía ấy lên đèn đã nói với chính em/ Xuân đã về/ Sưỡi ấm con đường chỉ đỏ/ Mẹ gánh cả niềm vui theo triền cát đi về/ Nụ hồng khoe sắc dày thêm sau tấm áo/ Mưa phùn rơi thắp ngọn lửa ngày đông/ Xuân lại về ta nắm bàn tay (trong bài Ý nghĩ nhiều hơn thời gian đã nghĩ).
Đọc bài Người đàn ông của chị, tự nhiên tôi muốn làm điều gì đó có thể, giúp người đàn bà ấy san vợi tâm tư trầm lặng, trĩu nặng u buồn: Người đàn ông của chị/ Họ là ai? Dài sau mái tóc/ Đường đi trong chiếc guốc/ Đường đi chìm vào khoảng lặng im/ Trời chiều nghe mọi thứ chờ đợi mọi thứ/ Cánh cửa mở ra lặng ngắt/ Chị ngồi chong mắt/ Khêu lên/ Mặt trời quay về hướng núi/ Chị cuốn mái tóc dài che khuôn mặt/ Che số phận của mình và người đàn ông giấu mặt/ Chị đã cưới sau mưa. Chỉ có vậy nhưng là bài thơ tôi đọc nhiều lần, chỉ với khổ thơ thứ hai Trời chiều nghe mọi thứ chờ đợi mọi thứ/ Cánh cửa mở ra lặng ngắt/ Chị ngồi chong mắt/ Khêu lên đủ làm tôi dứt day khó tả. Chiều về, là lúc người ta đợi mong sum họp, nghe mọi thứ chờ đợi mọi thứ, dù không biết đợi ai, mọi ánh mắt đều dồn ra ngõ. Và với chị, chị đã biết người mình đợi là ai, khi Cánh cửa mở ra lặng ngắt/ Chị ngồi chong mắt/ Khêu lên. Cánh cửa này không chỉ mới lặnh lẽo hôm nay, nó đã lặng ngắt từ lâu rồi! Chị khêu thêm ngọn đèn như khêu thêm ánh mắt kiên nhẫn đợi chờ, hay khêu lên cả niềm hy vọng. Để rồi khi hoàng hôn phủ xuống chị cuộn mái tóc dài che khuôn mặt. Thương tuổi xuân còn mãi bên chị, mái tóc dài thay vì buộc/bối, chị phải cuộn lại để phủ che khuôn mặt, khác nào che luôn số phận mình và người đàn ông giấu mặt. Chị đã cưới sau mưa, đám cưới của riêng chị, chỉ có mỗi mình chị và cơn mưa của ngày cách xa, cơn mưa của tháng năm nhớ nhung, chờ đợi và cơn mưa của những buổi chiều chong mắt/ khêu lên.
Vẫn chủ đề “Mẹ”, đề tài muôn thuở của thi ca, chị chỉ có dịp gần và nhìn kỹ mẹ hơn trong những ngày mẹ ốm: Mới hôm qua mẹ ngồi nhìn chùm khế…/ Lưng còng sát chân ôm trọn một đời eo/ Mẹ nhìn lên tiếng gáy ban trưa/ Con gà kiến tật nguyền tìm mồi trong luống cải. Từng câu thơ được kết ghép tài tình, đan xen giữa tả, gợi và kể khiến người đọc rưng rức tình mẫu tử: Lưng còng sát chân ôm trọn một đời eo/ Vạt áo cũ một thời mẹ không làm dơ bẩn…/ Con chữ trời cho nguệch ngoạc nhưng nghĩa đủ để làm thơ/ Nghèo đói bao nhiêu cũng đừng bán đi con nhé. Ai từng bên mẹ những ngày cuối đời, ắt sẽ khó kìm giọt lệ ứa ra: Giờ mẹ nằm im đau lắm với cơn đau/ Nếp nhà nghiêng về đâu mẹ không còn nhớ. Và đây, cơn đau dập dồn, bám riết lấy cái lưng còng sát chân của mẹ, mỗi ngày như thế câu ngọt ngào thưa dần trộn đều vào lưng cháo, đâu khác hoa khế hôm nào lặng vào trong tiếng gà trưa (trong bài Hoa khế).
Liên tiếp những ngữ cảnh được nhà thơ dọn bày đã xua đi những ám ảnh buồn, gieo niềm tin vào đời mẹ, đời ta: Thuở bé mẹ nói với tôi bằng nỗi buồn/ Nỗi buồn cỏ xước đồng khô/ Mẹ đã đi suốt chiều dài bằng đường cong tuổi tác/ Mẹ lau nỗi buồn bằng chiếc lá màu xanh…/ Mẹ chưa bao giờ nghe một lời khác tình yêu/ Dẫu có lệch hướng mặt trời dẫu dòng sông ngược nước/ Và tôi vẽ lên tường giúp mẹ những lòng tin (bài Một lời khác của tình yêu).
Tâm sự cùng mẹ và cứ thế ta đi, đi sâu vào sự quăng quật của đời người. Một lúc nào đó, nỗi nhớ người cha thân yêu lại đưa ta trở về tắm mình trong ký ức, hình ảnh đầu tiên ta gặp ngay trên cánh đồng quê chỉ có thể là bố: Bố nhọc nhằn ngồi bên bó rạ nhìn mưa. Bố cày ruộng trong ngày mưa và điệp khúc của đường cày chẳng khác nào khuông nhạc quấn lấy tâm hồn con: Dẫu phố thị có cuốn con vào cuộc sống/ Nhưng đường cày vẫn hiện hữu/ Thành điệp khúc mùa đông/ Màu lấp lánh của rơm lại nở trên đồng (bài Điệp khúc đường cày). Là đứa con miền Trung nắng nung cháy đất, lũ ngập trắng đồng, người thơ đã bao lần chứng kiến cảnh ngập ngụa, trôi dạt, mất mát xót xa… Đêm nhủ em nhặt hết những giọt nước mắt không còn thấm ướt/ Xóa hết hàng chữ nghiêng giấu mặt/ Mười một giờ đồng hồ treo ngược nước lũ tràn qua/ Côn trùng đi nhầm vào ổ kính chui qua lan can bay lên khoảng trống…/ Miền Trung những tháng thương nghiệt ngã. Trong cảnh tiêu điều, Hạnh phúc trên tay đọng lại những giọt buồn, người ta vẫn hy vọng vươn tới Thế giới mon men theo chùm hoa đang nở. Là biểu tượng của sức sống mãnh liệt, là loài hoa bất chấp khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng trong lúc này Cây xương rồng úp mặt/ Kiến bò ngang hồn nhiên. Ta thử hỏi có nơi nào tốt hơn cho lũ kiến trong hành trình “chạy lũ”, mà chúng không len lỏi trong gai góc của nhánh xương rồng? Và đây, một sự liên tưởng độc đáo về biển sau bão tố của Trần Thị Huê: Phía ấy ngọn nắng thẳng tắp trôi theo dòng xoáy/ Phía ấy sóng trào bến vắng xóa hết mầm cây. Biển muôn đời vẫn thế, gồng mình gánh hết phũ phàng của thiên nhiên, những giọt nắng hiếm hoi như đường kẽ xuyên qua phiến mây dày, loang loáng dát bạc lên mặt biển, sóng ào ạt trào lên bến vắng, vắng cả những mầm cây. Song người thơ chẳng hề bi lụy, nhẫn nại khâu lại con thuyền cầu trời bình yên…/ Và, Đêm nghe nắng thở gấp…/ Cây xương rồng nở hoa trong mưa ướt nỗi lòng (bài Cây xương rồng).
Dạy trẻ, tác giả rất khéo khi vận dụng hình tượng người chèo thuyền, thay vì lâu nay ta vẫn nói “người đưa đò”: Người chèo thuyền bằng sông/ Vào đêm trở gió/ Ngọn gió trái với khuôn mặt phủ đầy lọn tóc…/ Người chèo thuyền bằng mái chèo/ Một đêm trở gió…/ Phả xuống đáy sông những dại khờ. 
Con thuyền của chị Người chèo thuyền bằng tâm, chỉ muốn gạt phăng sóng gió, đưa lại những ban mai tươi đẹp, cắm vào đó những cánh hoa cho bình minh càng thơm mát: Chở lớp sóng xô qua bên kia núi/ Chỉ ước cắm vào bình minh những cánh hoa thơm (trong bài Ước). Thơ chị thường gieo cho người đọc những bất ngờ thú vị, một chút nhíu mày để rồi sau đó ta sẽ nở nụ cười với từng con chữ: Văn bản không dòng chữ không cảm xúc/ Em định mang về cùng nẻo có đôi…/ Văn bản không màu nhưng lại có tên anh/ Người em biết một ngày đi qua mưa bão/ Một ngày sau tiếng vỡ của hoàng hôn”. Phải chăng, nẻo ấy mắt không buồn trắng đêm, nẻo đưa ta về ấm êm hạnh phúc, như đường về nắng mới (bài Nẻo có đôi).
Bạn đọc quý mến chị, một người viết không dễ dãi, chị luôn tìm tòi đổi mới thơ, mạnh dạn bứt phá những gò bó từ tiềm thức để đến với dòng thơ đương đại, góp phần mang sự tươi mới cho văn học tỉnh nhà. Nói như Nhà phê bình văn học Hoàng Thụy Anh: “Trần Thị Huê xuất hiện không ồn ào, phô trương. Thơ chị gánh vác những đằm lặng của người “đàn bà đã cũ”. Chị viết như để giải thoát khỏi ràng buộc của cuộc sống, để được là chính mình…”. Điều làm chúng ta yêu quý chị hơn, sau khi tìm hiểu đời sống đồng bào Ma Coong ở Bản Troi xã Thượng Trạch, một xã biên giới thuộc huyện Bố Trạch. Chị đã quyết định, nhờ một số đồng nghiệp như thầy giáo Nguyễn Xuân Hoàng - Hiệu phó Trường THCS phường Quảng Long - thị xã Ba Đồn phối hợp phát hành tập thơ Thế giới ngủ trong đường viền để gây qũy “Giấc mơ con chữ”, giúp trẻ em vùng dân tộc Bru-Vân Kiều có cơ hội được đến trường. Dự kiến, cuộc hành trình lên với Bản Troi sẽ không chỉ bằng tiền bán sách mà còn có nhiều phần quà như áo quần, đồ dùng học tập tặng các em.
Qua 5 tập thơ, nhất là với Thế giới ngủ trong đường viền, chắc chắn người đọc không khỏi khâm phục chị. Ngoài ước mơ giản dị nhất của các giáo viên Mầm non là được “đứng lớp ổn định”, chị còn ấp ủ niềm đam mê đến với thi ca bằng những khát khao cháy bỏng, đã tiếp sức giúp chị vượt qua những khó khăn hiện thời của cuộc sống để dạy trẻ, làm thơ, in thơ và dùng thơ để giúp học trò nghèo…         
Nguyễn Tiến Nên
Theo https://vanchuongviet.org/




1 nhận xét:

Xuống phố

Xuống phố Sáng nay trước khi đi làm con trai nói với mẹ: - Chiều đi làm về, con chở mẹ với em đi dạo phố noel ha? - Thiệt nghen. - Dạ mẹ. ...