Nhân hội thảo PHẠM QUỲNH qua tập TIỂU LUẬN VIẾT BẰNG TIẾNG
PHÁP 1922 - 1932 được tổ chức vào 14 g ngày thứ Sáu, 22 tháng Mười năm 2010 (Hội
trường tầng 3, Tòa nhà VUSTA, 53 Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) chúng
tôi xin giới thiệu lại một bài viết của ông.
Một cuộc bàn cãi sôi nổi đang diễn ra ít lâu nay trong một số
anh em đồng nghiệp báo chí nước Nam chúng tôi. Đó là về việc nước Nam có một nền
văn hóa dân tộc không. Một dân tộc nổi danh hiếu học, tự hào về các bậc túc
nho, qua bao thế kỷ có sản sinh ra được một nền văn hóa dân tộc mang bản sắc
riêng không? Hay rốt cuộc nó chỉ là một cậu học trò, dù đôi khi là một học trò
xuất sắc, nhưng vẫn là một học trò của nước Trung Hoa, người mẹ của toàn bộ văn
hóa và văn minh, cô giáo duy nhất của tất cả các dân tộc Viễn Đông?
Một số người cho rằng nước chúng tôi đã có nền văn hóa riêng
và họ dẫn ra tên tuổi của những vị tiến sĩ nổi danh trong quá khứ làm điểm tựa
cho lập luận của mình. Một số khác thì vặn lại rằng tất thảy các vị tiến sĩ đó
chẳng để lại được cái gì độc đáo mà chỉ nhai nhải lặp lại những kinh điển Nho
giáo xưa cũ ai cũng biết, và thực tế là nước Nam chưa bao giờ có một nền văn
hóa dân tộc khác biệt với của Trung Hoa.
Xét một cách tuyệt đối, ý kiến của những người sau có lý. Nước
Nam bao giờ cũng chỉ là một học trò của Trung Hoa. Trong nghệ thuật, văn học,
tôn giáo, triết học, nó luôn sống dựa vào kho tàng quan niệm chính truyền từ
Trung Hoa. Khác với Nhật Bản đứng riêng như một quốc đảo chỉ tiếp nhận từ Trung
Hoa những gì cần cho sự phát triển những nét riêng biệt của họ, nước chúng tôi
toàn sao chép mọi thứ của nước láng giềng khổng lồ. Và nếu có thể nói rằng nghệ
thuật nước Nam chẳng hạn, dù có lấy cảm hứng từ Trung Hoa, nhưng vẫn mang dấu vết
riêng của nước Nam khiến cho nghệ thuật nước mình khác với nghệ thuật của Thiên
Quốc, thì ta khó mà có thể cũng nhận xét như vậy về văn học hay triết học, là
những môn không bao giờ vượt thoát được vết xe cũ của Trung Hoa, không bao giờ
tự giải phóng được khỏi những nguyên tắc kinh viện nặng nề và cổ hủ.
Rành rành là cái ách tinh thần của Trung Hoa đã đè nặng lên xứ
sở này tới mức ngăn cản đầu óc người Nam tấn tới và phát triển theo nguồn mạch
riêng của mình. Mặt khác, việc nằm sát nách một nước lớn luôn có cơ hội xâm lược
và cướp đi nền độc lập giành được sau gần mười thế kỷ gian khổ đấu tranh đang
duy trì chúng tôi trong mối lo thường xuyên khá bất lợi cho sự tự do nảy nở các
năng lực vô tư của tinh thần. Uy lực không gì so sánh nổi của nước láng giềng
đó với một lịch sử lâu dài và một nền văn minh đáng nể lại đủ sức uy hiếp một
dân tộc nhỏ đã táo gan muốn bảo vệ bằng mọi giá nền độc lập chính trị của mình
song lại không bao giờ tin rằng nước mình có thể chinh phục được nền độc lập
tinh thần và luân lý của mình.
Nhưng cái góp phần nhiều nhất vào việc cầm giữ nước Nam trong
cái có thể gọi không quá là sự nô lệ tinh thần đối với Trung Hoa, ấy là hệ thống
khoa cử mà ở nước chúng tôi, cũng như ở Trung Hoa - và đó chính là nguyên nhân
suy tàn của nó - đã thực sự trở thành một thiết chế nhà nước, thiết chế quan trọng
hơn cả, được trọng vọng hơn cả, trịnh trọng nhất hạng. Chính thể chuyên chế tìm
thấy ở thiết chế này một công cụ thống trị tuyệt vời nên đã bao phủ quanh nó những
điều hào nhoáng nghi thức thiêng liêng. Và thiết chế đó đã hoành hành trong suốt
một thời gian dài đến mức có thể nói là nó đã góp phần hun đúc trí não người
Nam vào cùng một cái khuôn cổ truyền và kinh viện.
Thời Trần, Phật giáo và Lão giáo còn được nghiên cứu cùng với
Nho giáo. Nhưng kể từ cuối Trần, Nho giáo đã trở thành quốc giáo độc tôn. Các kỳ
thi đánh giá công cuộc học tập và là cánh cửa duy nhất mở vào đường làm quan gồm
bài kinh sách và văn sách không có chút ích lợi gì cho trí tuệ. Suốt năm trăm
năm, những đầu óc ưu tú của đất nước đã bị khuất phục dưới chế độ suy tàn này,
một chế độ giết chết mọi tính độc đáo và hủy diệt mọi tư duy độc lập.
Làm thế nào một nền văn hóa dân tộc lại có thể ra đời và phát
triển trong hoàn cảnh như vậy được?
Mặt khác, muốn có một nền văn hóa dân tộc thì phải tồn tại một
ngôn ngữ dân tộc hoàn thiện xứng đáng là ngôn ngữ văn hóa. Thế nhưng các nhà
nho xưa của chúng tôi chỉ luôn viết bằng chữ Hán, một thứ chữ Latin của vùng Viễn
Đông. Ít ai nghĩ đến việc trau dồi tiếng mẹ đẻ mặc dù nó rất phong phú và đẹp đẽ.
Có một số người đã thử dùng nó để làm thơ và việc họ sáng tác được một số tác
phẩm hay bằng tiếng Nam cho thấy nếu người ta biết làm cho nó uyển chuyển hơn,
trong sáng hơn nữa thì nó có thể là một công cụ quý báu giải phóng tinh thần
cho dân tộc chúng tôi.
Nhưng điều mà cha ông chúng tôi không biết làm hay không thể
làm - vì họ chịu quá sâu ảnh hưởng Trung Hoa - thì bây giờ chúng tôi phải làm,
nhờ vào ánh sáng từ Tây phương dọi tới.
Đó là một sự nghiệp lớn lao đang chờ đợi tất cả những người
làm thành giới đặc tuyển tinh thần mới của xứ sở này, bất kể phẩm trật của họ
ra sao.
Tạo ra cho nước Nam một nền văn hóa dân tộc, và trước hết,
xây dựng một ngôn ngữ dân tộc có thể dùng làm ngôn ngữ văn hóa, theo tôi đó là
nhiệm vụ thiết yếu, là sự nghiệp cải biến và đồng thời là công cuộc xây dựng lớn
lao đặt ra cho trí tuệ và cho mọi nỗ lực của những nhà trí thức mới ở nước Nam.
Về phần tôi, đó luôn luôn là cái đích mà tôi không ngừng theo
đuổi suốt gần hai mươi năm nay.
Ngay khi đầu óc tôi bắt đầu biết nhận dạng một số thực tại nhất
định, tôi đã có một linh cảm nhanh chóng biến thành niềm tin rằng, để làm công
việc giải phóng chính trị cho dân tộc này thì trước hết cần phải làm công việc
để giải phóng cho nó về tinh thần và luân lý đã. Và như vậy chủ nghĩa quốc gia
của tôi trước khi đem ra thi thố trên trường chính trị đã được bắt đầu thực hiện
trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn hóa.
Một cộng tác viên của tờ Revue du Pacifique (Tạp
chí Thái Bình Dương) đã rất hiểu điều đó khi một năm trước đây ông cho công bố
hai bài viết quan trọng về “Chủ nghĩa quốc gia Đông Dương”. Đây là đoạn ông
đánh giá công việc tôi đang cố làm trong lĩnh vực này. (Tôi trích dẫn không phải
vì lời đánh giá của ông ta có thể làm vinh dự cho tôi, mà chỉ vì đó là một thí
dụ hiếm thấy của một tác giả Pháp đã bỏ công nghiên cứu và tìm hiểu cuộc tiến
hóa tinh thần ở xứ này):
“Trong số những người thuộc “Phái trẻ nước Nam” chỉ có một số
ít đáng mặt coi là quốc gia chủ nghĩa qua một số tư tưởng nền tảng của họ: đó
là phái của ông Phạm Quỳnh ở Bắc Kỳ. Ông đã dùng hết tài năng văn học và sự am
hiểu ngôn ngữ của mình vào việc phát triển tư tưởng dân tộc. Ông muốn có được một
thứ tiếng nước Nam hoàn thiện, được nâng cao lên, có thể vượt lên việc dùng tiếng
Pháp. Ông muốn duy trì triết học truyền thống được cập nhật và thích ứng với những
nhu cầu của đồng bào mình. Ông muốn cứu vớt nền văn minh nước Nam khỏi sự Âu
hóa vội vàng mà ông thấy đó là tác hại vì một khi công việc đó làm hủy hoại thần
thái giống nòi thì nó cũng hủy hoại luôn ngay cả tư tưởng về tổ quốc. Những tư
tưởng hoàn toàn đáng nể trọng và được bảo vệ một cách rất đáng chiêm ngưỡng
này, vả chăng lại không được nói ra dưới dạng một chủ nghĩa quốc gia hiếu chiến
đối với nước Pháp. Ông đủ khôn ngoan để vẫn coi uy quyền nước Pháp là cần thiết.
Ông chấp nhận nó, thậm chí ông còn thích nó hơn tất cả các uy quyền nào khác,
nhưng ông đòi hỏi ở nó một chủ nghĩa tự do và một thái độ vô tư để nó phải tôn
trọng nước Nam, cho phép nước Nam dưới sự che chở yên ổn của nó được phát triển
hết mức bản sắc độc đáo của mình”.
Tôi xin lỗi đã trích dẫn hơi dài những lời tóm tắt rất chính
xác điều mà tôi có thể gọi là chủ thuyết của mình. Tác giả bài viết đó ký tên bằng
những chữ cái viết tắt họ tên, nếu tôi không nhầm, là một trong những quan chức
nổi bật nhất của Sở Nội vụ. Về phần liên quan đến tôi, ông tỏ ra đã hoàn toàn
hiểu tôi và tôi chỉ có thể biết ơn một sự sáng suốt rất hiếm có ở các nhà lãnh
đạo chúng tôi, nghĩ rằng ta nên thừa nhận điều này.
Như vậy, theo chủ thuyết mà tôi đã xướng lên từ nhiều năm
qua, tôi đã gắng nghiên cứu một cách hệ thống việc làm giàu và hoàn thiện tiếng
nước Nam, và tôi tin mình đã có thành công nhất định trong việc đó.
Cách đây khoảng mười lăm năm tiếng nước tôi còn rất chật vật
trong việc diễn đạt những tư tưởng trừu tượng. Bây giờ thì nó đã làm được việc
đó dễ dàng hơn nhiều. Tôi không phải tự phụ mà tin rằng đó là sự nghiệp duy nhất
của tôi; nhưng tôi đã góp một phần khá lớn vào đó và trong việc này tôi đã được
hỗ trợ nhiều từ sự hiểu biết của mình về ngôn ngữ và văn chương Pháp. Người ta
sẽ không bao giờ nói hết được việc tiếng nước Nam hiện đại chịu ơn tiếng Pháp
đã cấp cho nó sự trong sáng, sự minh bạch, sự chân xác hoàn toàn mới.
Công việc hoàn thiện ngôn ngữ này còn cần phải được tiếp tục
một cách kỹ lưỡng hơn, nhưng bước đi đầu tiên đã đi rồi, và nó chứng tỏ ngôn ngữ
của chúng tôi một khi được đổi mới, được làm giàu thì nó hoàn toàn có khả năng
dùng làm ngôn ngữ văn hóa.
Công cụ đã sẵn sàng. Vấn đề bây giờ là phải bắt tay xây dựng
một nền văn hóa dân tộc mà chúng tôi đang thiếu. Nó sẽ là kết quả của sự kết hợp
hài hòa Đông Tây, giống như ngôn ngữ làm phương tiện chuyển tải cho nó.
Như tôi đã nói ở bên trên, tiếng Nam mới đã thành công trong
việc vay mượn ở tiếng Pháp một số phẩm chất: sáng sủa, chính xác, logic. Cái nền,
tức là vốn từ vựng và những cách biểu đạt chính của cú pháp thì là của tiếng
Nam, nhưng hình hài thì đang chuyển theo dáng dấp Pháp rồi: dù sao đi nữa thì
tiếng Pháp cũng đã bắt đầu in dấu vào tiếng Nam. Và đấy là công thức đúng.
Công thức này cũng sẽ áp dụng cho nền văn hóa dân tộc mới của
nước Nam. Cái nền ở đây sẽ bắt nguồn từ chính lối tư duy Viễn Đông, là Nho, Phật,
Lão; nền văn hóa đó phải được tạo nên từ các “cổ học Hán Nôm” này mà việc giảng
dạy chúng phải được tổ chức sao cho nó có phương pháp. Nhưng hình hài thì phải
là kiểu khoa học Tây phương trong cả nội dung lẫn phương pháp, với kỹ thuật chắc
chắn, khách quan rõ ràng, chính xác hoàn hảo và những nguyên lý chặt chẽ, mà vẫn
không loại trừ phần trực giác vốn có của tri thức Đông phương, một thứ tri thức
vừa khoa học vừa minh triết.
Tóm lại, “áp dụng hình thức khoa học Tây phương vào nội dung
tri thức Đông phương”- như một nhà phê bình xuất sắc đã nói – đó là con đường
phải theo để xây dựng một nền văn hóa dân tộc của nước Nam.
Ít ra thì tôi cũng hiểu như vậy về sự nghiệp cải cách trí tuệ
và luân lý mà chúng tôi phải tiến hành ngay cùng với cuộc cái cách chính trị mà
tôi đã có dịp trình bày nhiều lần liên tiếp.
(1931)
Phạm Quỳnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét