Đêm giã từ Hà Nội
THAY LỜI VÀO SÁCH
Thư gửi người bên kia vĩ tuyến
Tập truyện ngắn đầu tiên của tôi vừa được xuất bản ở miền
Nam, tôi muốn những trang đầu sách là của anh, anh ở bên kia vĩ tuyến. Hai thế
giới. Những tầng ảnh hưởng của chính thể, của chế độ. Bên dưới, bên trong, con
người chỉ còn Niềm Tin.
Tồi tin rằng ở bên kia Bến Hải, bên trong năm cửa ô Hà Nội có
những con người, những tập thể hôm nay vẫn còn vươn lên khỏi cơn Hồng Thủy như
những vì sao sáng chói trên một đại dương gió bão.
Trong số đó có anh. Có cái cá nhân bé nhỏ của anh mà con người
anh vẫn giữ gìn được nguyên vẹn trong trận lửa hủy diệt của chính thể cộng sản
đang bùng cháy. Hướng về anh, niềm tin của tôi còn thấy cái bồng bềnh thoải mái
của một con người còn nhìn thấy những miền trời đất bao la. Khi nào hướng đến
anh để chỉ thấy một mái tóc sõa thấp, một hình người sa đọa, là lúc niềm tin đã
tắt trong tôi.
Nhưng mà tôi vẫn tin. Tin tưởng hết lòng. Tin tưởng vĩnh viển.
Tin anh còn là anh, nghĩa là còn là con người. Như tôi đã tin ở sự sống, tin ở
tự do tin ở hôm nay. Tin ở trái đất, ở thế hệ này sẽ nhìn thấy những vĩ tuyến
những biên thùy gục đổ, và con người chống giữ nổi cơn Hồng Thủy, sẻ hái được
những nhánh lúa vàng của thế hệ ngày mai.
Trên muôn nghìn hình thái, khía cạnh, đường lối của cuộc đấu
tranh bảo vệ Tự Do và Con Người tôi thấy sáng chói cái hướng đi rộng lớn bắt
nguồn từ một điểm tin tưởng.
Ở bên này, cuộc sống của chúng tôi đã có thể điển hình trên
những hướng đi ấy. Hôm nay, tôi gửi những ngả đường, những hướng đi, những nếp
sống của tự do về anh, anh đang ở giữa Ngập Lụt, giữa Hỗn Loạn, giữa Thiêu Hủy
với niềm tin tưởng sắt đá rằng anh, anh cũng đã có một ngả đường. Anh cũng sẽ
lên đường. Anh cũng sẽ là một bạn đường. Anh sẽ đến với chúng tôi. Chúng mình sẽ
gặp nhau. Vì ở bên này hay ở bên kia, chúng mình vẫn có chung cái bản sắc thực
của một sự kiện : Chúng ta vẫn còn là những con người.
Kẻ thù của chúng ta viết sách, phát triển chủ nghĩa, chiếm đất
đai, dựng biên giới, đã che dấu dưới những hình thái giai đoạn, những vàng son
của giáo điều cùng là những cao dẹp của danh từ cái mục đích duy nhất của chúng
là hủy diệt những con người tự do ở một thế hệ tưng bừng ánh sáng tự do nhưng
đang gặp quá nhiều bất hạnh. Nếu chúng "được" con người sẽ không còn
là con người nữa. Anh không còn là anh. Tôi không còn là tôi. Chúng ta chỉ còn
là những bộ máy đeo thêm một cái số tù vĩnh viễn. Trái đất của hàng triệu tên tữ
tù, và năm lục địa sẽ là năm nhà tù vĩ đại.
Nhưng "chúng" có được không ?
Những cơ cấu của một Tổ chức kinh khủng vĩ đại nhất trong âm
mưu tiêu diệt con người của Cộng Sản cùng với cái kho kinh nghiệm kẻ thù đã
nuôi dưỡng trong hờn oán có làm cho trái đất này biến thành một nhà tù được
không ? Câu hỏi này từng phút từng giờ vẫn nằm giải trên tấm bản đồ thế giời rộng
lớn, trong lòng một thế hệ trùng điệp những biên thùy và ngột ngạt dưới những tầng
lớp ảnh hưởng của những mầu sắc chống đối. Người ta choáng váng trước những hiện
tượng rối rắm của thế kỷ.
Thực ra, vấn đề vẫn nằm bên dưới bên trong như một chất hóa học
lắng đọng dần dưới đáy cốc thí nghiệm. Sự thực chói lòa hiện dần lên. Mặt trận
tư tưởng phân định rõ rệt ; Bên này. Bên kia Một cửa tủ. Một cây súng. Một lên
lính hung dữ Tự do. Những hướng đi lên. Một khung trời xanh.
Ở giữa là những hàng rào giây thép gai giăng mắc trùng điệp
qua những miền hoang dậm của chiến địa. Ở giữa là một vĩ tuyến. Trên vĩ tuyến sự
va chạm quyết liệt, sống còn của tư tưởng.
Cả hai thế giới đều bắt nguồn và đều chấm dứt ở đó.
Hôm nay, con người bắt đầu một cuộc chiến đấu mới để san phẳng
cái hình thái thiếu đồng nhất này. Cuộc chiến đấu mới đã bắt đầu. Trên khắp thế
giời. Trên từng cục bộ. Trong mỗi chúng la.
Tôi nghĩ đến một người. Tôi nghĩ đến nhiều người. Những con
người đã sáng tạo lịch sử anh dũng bây giờ đang xây dựng thế hệ tự do. Tôi nghĩ
đền lời di chúc của một Gide tin tưởng :
"Thế giới sẽ được cứu vãn bởi một vài người"
Tôi thì tôi tin rằng thế giới sẽ được cứu vãn bởi con người tự
do.
Tôi nghĩ đến mặt trận tư tưởng. Đến những chính khách, những
nhà chỉ huy. Cái cặp da đen dầy cộm tài liệu của những hội nghị quốc tế. Những
chuyến đi vượt đại dương của những người đi tìm đường tối cho hòa bình cho tự
do. Những tấm thảm xanh của một phiên đại hội. Ly rượu Mác-ten ngà ngà của một
buổi tiếp tân. Đến những vì sao gài trên đỉnh mũ người tướng cúi mình trên bản
đồ chiến lược. Thế hệ hình như đọng lại giữa những hậu tuyến những tiền tuyến.
Tất cã đều là những hình thái của cuộc đấu tranh vừa khởi đầu.
Nhưng cuộc chiến đấu cho tự do thực ra không còn nằm trong
bàn tay quyết định của những nhà lãnh tụ nữa. Nó nằm trong mỗi chúng ta. Những
chiến trường những công sự phòng ngự những trái bom khinh khí không còn là những
yếu tố quyết định. Tự do không đánh mất hoặc lấy lại trên tấm bản đồ chiến lược
hoặc ở đầu đằng kia hướng đi sáng chói của một băng đạn tiểu liên. Cuộc chiến đấu
thoát bỏ những vùng nhỏ hẹp, bàng bạc khắp nơi. Cả hai bên vĩ tuyến. Chỗ nào có
con người có tự do, cuộc chiến đấu bắt nguồn ngay ở đó. Dưới mọi hình thái, mọi
màu sắc. Trên từng tấc đất, từng cuộc đời.
Cuộc chiến đấu cho tư tưởng đã là một cuộc chiến đấu thường
xuyên. Thường xuyên cho đến một ngày...
Tôi nhớ đến mấy câu thơ này của anh :
Biết ngày nào tàn đổ
Biết ngày nào ngừng tay
Cho tôi xin một ngày
Những vần thơ 46. Gần 10 năm rồi. Hai cái chương trình 5 năm
của Cộng sản, vẫn chưa phân định rứt khoát cái hướng đi của anh. Anh khao khát
tự do. Anh xin một ngày có tự do. Mà không hề ý thức được rằng Tự Do vẫn nằm
trong anh.
Cho tôi xin một ngày.
Qua câu thơ chứa đựng một ý nghĩa tiềm ẩn tôi nhìn thấy những
nét chữ u uất, một thái độ tiêu cực. Những nét chữ buồn rầu không tưởng nằm
nghiêng bóng tối. Mỗi lần đọc lại, tôi lại muốn đi xâu vào nội tâm anh, hiểu
anh hơn nữa. Nhưng trong anh ý thức tự do chưa cháy lên. Tôi nghĩ đến những con
người, những dân tộc bất hạnh đã mang những nếp sống không có những tầng xâu của
súc cảm tư tưởng. Những con người sắc lạnh như kim khí, cằn cỗi như đất đá, nằm
sa đọa trong vực thẳm cộng sản như những bông hoa héo chết trong nắng lửa.
Cái ngày mà anh xin đã đến chưa ?
Có thể chưa. Nó còn nằm trong viễn tượng. Nó còn thuộc về
lĩnh vực của những cái gì chưa tới. Ở anh hôm nay, trong hoàn cảnh hiện tại của
anh, tôi chỉ muốn nó là ngày của Niềm Tin. Ở con người trí thức như anh, lửa
tin khi đã cháy lên sẽ còn sáng tỏ rực rỡ hơn nữa, ngọn lửa của một niềm tin có
ý thức.
Hôm nay, anh còn đi một mình. Nội giới anh còn là một thế giới
hoang mang. Chúng tôi đã sống tự do. Anh còn nhận đường.Tôi chỉ gữi đến anh một
niềm tâm thành : Anh cố gắng đi. Và đừng thôi tin tưởng. Chúng ta là tập thể.
Nhưng chúng ta đừng nô lệ cho tập thể. Con người là Một của Muôn Vàn nhưng con
người cũng làm nền Muôn Vàn. Trong hằng hà sa số đơn vị. Con người là yếu tố
quyết định là vạn năng.
Quan niệm được vậy thì phải sống sứng đáng với thiên chúc.
Nghĩa là phải sống tự do.
Tôi tin sức mạnh của bàn tay. Tôi còn tin ở sức mạnh của tư
tưởng. Anh cố gắng nhé ! Đứng thật thẳng. Sống thật mãnh liệt. Sống còn với Tự
Do. Đi ngược lại triều Hồng Thủy. Biết bao nhiêu con người đã ngã xuống, vì bị
huyền hoặc dưới triều thác lũ. Những buổi khai hội. Khai đêm, khai ngày. Những
cuộc biểu tình. Những rừng biểu ngữ. Những đợt huấn luyện. Và con người mê thiếp
ngã xuống.
Thế là hết, hết hẳn.
Tất cả vấn đề tồn tại là ở cho trong giai đoạn làm phép của
ma quỷ, anh có vững vàng tin tưởng không. Sau đó bùa phép Cộng sản không còn
tác động nữa. Ở khắp các miền trên trái đất hôm nay Cộng sản đang cướp của
chúng ta những con người. Chúng mệnh danh là tranh thủ nhân dân. Tôi tin ở tự do
tôi chỉ thấy một cuộc bắt cóc rộng lớn. Trong số những con người bị bịt mắt đưa
đi có cả những người trí thức.
Đó là một hiện tượng mới lạ của chế dộ. Đem mổ sẻ sự kiện,
nhìn vào chiều xâu hiện tượng, tôi thấy điều này : Họ đều là nạn nhân của sự
sùng thượng những cái cao đẹp giả tạo. Họ khám phả Cộng sản qua một cuốn sách,
một bức họa. Mà qua một cuốn sách, một bức họa thì chủ nghĩa Cộng sản thường được
phô diển bằng những khía cạnh rất cao đẹp rực rỡ. Ngoài một cuốn sách một bức họa
thế giới Cộng sản chói lòa những viễn tượng. Một số những nhà trí thức của thế
giới hôm nay đã nghiêng ngã trước những viễn tượng ma túy ấy. Họ chạy bổ đến
cái chân trời Cộng sản đầy ngập những ảo ảnh của tiến bộ. Với họ con đường Cộng
sản là con đường đẹp nhất.
Quá trình tư tưởng và hành động của những người trí thức đang
ngã dần vào lưới Cộng sãn đã có những hình thái ấy.
Nhưng sự thực có như thế không ?
Con đường anh vừa lựa chọn để ở lại bên kia vĩ tuyến đã đưa
anh đến đâu ?
Tôi không trả lời anh. Anh đã trả lời được cho anh rồi. Hà nội
hôm nay sẽ trả lời cho anh, cho Hà nội. Giai đoạn đón nhận chấm dứt cho một
giai đoạn thực nghiệm bắt đầu. Chân lý sáng tỏ sau giai đoạn thực nghiệm này.
Mà những người trí thức như anh thì chỉ công nhận chân lý qua thực nghiệm thôi.
Đó cũng là cái thái độ khoa học khách quan nhất của con người trước sự kiện.
Hà Nội hôm nay là một bàn mỗ sẻ chói chang.
Ở bên này chiến lũy, tôi đợi chờ sự quyết định của anh.
Anh sẽ là thù ? Anh sẽ là bạn ?
Tự nhiên lòng tôi lắng đọng hẳn xuống. Anh sẽ là thù, anh sẽ
là bạn ? Tất cả ở hai bờ vĩ tuyến nhòa đi : Chính thế, bóng tối nhà tù, những
tư tưởng chống đối. Mà chỉ còn là cái hình ảnh muôn thuở đôn hậu của một người
bạn, của anh.
Lòng tôi chói lên niềm đau chia cách dài hạn.
Cho tôi xin một ngày
Sông biển được gần nhau.
Từ mười năm nay, cuộc chiến tranh đau khổ lâu dài đã làm
chúng ta mất mát nhiều. Một giọt nắng. Một bài thơ. Những mùa hoa bướm cũ. Lửa
đạn đã thiêu hủy cã trên cái lĩnh vực thắm tươi của tình hạn. Tôi nhớ đến những
bạn chúng ta đã bỏ mình. Người chết không đi trên đường oán thù. Sự mất mát sẩy
đến trong những trường hợp nào cũng vẫn là những niềm chua sót. Người chết nào
thì cũng vẫn là những người đã chết của chúng ta. Thì cũng vẫn là những người
đã chết của thế hệ. Những cái chết đó nhất định làm chúng ta phải suy nghĩ nhiều,
và rút tỉa ra được một cái gì.
Từ những tầng đáy niệm ấy tôi đã tìm đền anh.
Kỷ niệm.
Tôi nhớ lại những ngày cuối cùng. Buổi tối xuống thăm anh trước
khi sang phi trường Gia Lâm Hà Nội đã vào thu. Tôi đạp xe thong thả xuống mạn
Thiền Khuông. Bánh xe lăn đi trên những đoạn đường vắng lặng. Bóng lá đổ xuống,
Hà Nội thấp thoáng từng điểm lửa yếu đuối. Những ngày trước Tiếp Thu Hà Nội đã
sống những giờ phút ngừ vực. Lòng thành phố khép đóng, sầu muộn. Tôi đã là người
của một chuyến đi. Nhưng lòng tôi còn là của Hà Nội. Ngũ quan tôi căng thẳng
trước chuyển đổi chính thể lớn lao. Tôi sống những giờ phút đón nhận cuối cùng.
Ngày mai, anh sẽ nhận phần chịu đựng của Hà Nội. Và những ai nữa ?
Buổi tối hôm ấy, tôi cảm thấy tôi mất mát nhiều hơn bao giờ.
Nhưng cũng gắn bó vớt Tự do nhiều hơn bao giờ. Cái cao đẹp của Tự do tôi chưa cầm
thấy rõ rệt. Chỉ có những đau đớn của con người phải rời bỏ một góc phố thân
yêu.
Tôi giám nói thẳng ra điều đau buồn này, vì đó chính là sự thực.
Tôi nghĩ rằng tác phong của con người tự do là nói thẳng, nói thật về những đau
đớn những mất mát ấy. Còn được nói thực sống thực là còn được tự do.
Tôi đến anh. Một con đường đất nhỏ. Một cái cổng thấp. Những
bờ tường có hoa leo. Tôi đó, anh đã giữ tay tôi trong tay anh lâu hơn mọi lần.
Anh biết tôi đi. Tôi biết anh ở lại. Như lệ thường, chúng mình uống cà phê bên
cạnh bàn viết. Trên bàn, một vài cuốn sách mới. Tôi nhìn xuống bìa sách mang
tên những tác giả Đông Âu. Hồi đó, để đón nhận chính thể mới, anh đọc nhiều.
Văn phẩm quốc tế sắp hàng trong tủ sách của anh phần nhiều là của những cây viết
Đông Âu. Anh bảo tôi :
- Đó là một nền văn nghệ thật tiến bộ. Lành mạnh ghê lắm !
Tôi đã định mở ngay với anh một cuộc thảo luận tay đôi về những
cái lành mạnh giả tạo ấy. Chúng là những viễn tượng. Những ảo ảnh. Nghĩ thế
nào, tôi lại thôi. Để cho anh sống đã. Sống với chúng nó. Tôi hút một điếu thuốc.
Nhìn lên tường, một bức họa Picasso tổng hợp hình ảnh nhà máy, người thợ và con
chim hòa bình. Viễn tượng. Những viễn tượng đẹp nõn nà. Hãy để cho anh sống đã.
Sống với chúng nó. Quá trình tư tưởng của con người ý thức được thế nào là tự
do, phải đi qua giai đoạn tiếp nhận thẳng với đời sống Cộng sản. Phải để anh sống
hết giai đoạn ấy. Rồi anh mới đến được với tự do.
Nghĩ thế, đêm hôm đó tôi đã không khuyên anh rời bỏ Hà Nội.
Khuyên anh chưa chắc anh đã tin tôi. Anh sống với chế độ mới rồi, không khuyên,
anh cũng vẫn di.
Cộng sản đem lại cho các anh những viễn tượng rực rỡ. Chúng
tôi đã tiếp xúc với thật tế Cộng sản rồi, chúng tôi bỏ đi. Ở anh, là những tác
phẩm văn nghệ Đông Âu, là những nét họa bay múa của Picasso, là viễn tượng. Ở
chúng tôi là những nhà tù rộng lớn, những trại tập trung, là sự hủy diệt con
người. Anh chưa nhìn thấy con người sau trận lửa hủy diệt. Anh chưa nhìn thấy
cuộc sống sau trận Hồng Thủy.
Anh đã ở lại.
Hà Nội hôm nay sẽ là cái công trường thực nghiệm cho các anh.
Và Tự do sẽ đến sau đêm nhận đường, từ những kinh nghiệm đau đớn.
Đêm khuya rôi... Tôi nghĩ đến một chuyến máy bay sắp sửa cất
cánh. Tôi đứng giậy. Anh hỏi tôi :
- Thế là anh nhất định đi đấy !
- Nhất định.
- Buồn ?
Tôi gật đầu - Buồn.
Buồn, nhưng tự do.
Anh đưa tôi ra đầu phố. Và tôi bỏ anh, anh đã ở lại Hà Nội, để
đón nhận sau những viễn tượng ảo ảnh, sự thực của chế độ, của đời sống Cộng sản.
X
Tôi ngừng bút, nhìn lên. Một năm đã qua. Ở bên này chúng tôi
cũng đã sống một năm thực nghiệm đầy đủ. Để mà nhận thấy điều này : cái cao đẹp
của đời sống không còn nằm trong những viễn tượng
Không chỉ là một sáng tác văn nghệ Đông Âu, một bức họa
Picasso, những giòng giáo điều, mà chính ở trong nội tại từng cuộc sống bé mọn
của từng con người. Một nhà chính khách. Một người lính tại ngũ. Một tín đồ
giáo phái. Một nhà tư bản. Đến một người dân thợ, một người di cư.
Người nào cũng phải nhận được cái phần tự do. Người nào cũng
phải có chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tập thể không đông nhất là sự tập hợp chưa
từng thấy của những giai cấp những sự kiện những con người có thể có những
khuynh hướng cách biệt nhưng vì Tự do, đã nhập vào cuộc chiến đấu chung. Chiến
đấu cho tự do trước đã. Xã hội này có thể còn đầy rẫy những bất công, nhưng để
cải tạo lại xã hội, chúng tôi quyết không dùng đến những phương tiện bạo lực. Tự
do con người bị đe dọa rồi. Chúng tôi bảo vệ cho con người, cho tự do trước đã.
Anh tới miền Nam đất nước hôm nay, anh sẽ nhìn thấy một tập
thể người sống thật hổn độn : Nước mắt chảy trong tiếng cười. Hướng đi lên bắt
nguồn trong sa đọa. Ánh sáng lẫn lộn với bóng tối. Cuộc sống khởi đầu chưa phân
định rỏ rệt.
Nhưng trên tất cả, đã chói lòa một hướng đi.
Chỗ yếu của đời sống tự do là ở đó. Nhưng sức mạnh của tự do
cũng ở đó.
Tất cả sẽ được đặt định lại.
Tất cả sẽ được giao phó cho con người.
Tôi tin ở sức sáng tạo vĩ đại của con người tự do. Chỉ có thể
sáng tạo được trong tự do. Phần đất nước miền Nam hôm nay, anh có thể xem như một
đống gạch ngói đổ nát nhưng trên đổ nát này, kiến thiết xây dựng đã được bắt đầu.
Con người tự do có đây đủ điều kiện đầy đủ khả năng để sáng tạo lại tất cả.
Tôi ngừng lại ở đây. Bây giờ thì anh đã hiểu tại sao chúng
tôi đã rời bỏ Hà Nội rời bỏ miền Bắc. Anh đã hiểu tại sao tôi viết cho anh. Anh
cũng hiểu tại sao chính anh rồi anh cũng tìm vào tự do.
Bởi vì chúng ta còn muốn được làm người.
Bởi vì chúng ta không muốn là những con số không.
Bởi vì chúng ta còn muốn sống cuộc sống thực là cuộc sống của
người.
Bởi vì chúng ta không muốn là những bầy nô lệ.
Cho nên kẻ trước người sau chúng ta đã rời bỏ thiên đường Cộng
sản, bỏ cái thế giới giả tạo tù đầy, chúng ta đã vượt vĩ tuyến đi sang miền tự
do. Để con người vẫn được làm người, và trái đất vẫn còn là trái đất, chúng ta
cần phải tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do. Tự do là máu huyết cua chúng ta. Tự
do là không khí là hơi thở. Con người không thể mất được máu huyết không khí và
hơi thở.
Cho tôi xin một ngày.
Ngày ấy đã nằm trong tầm tay của anh. Trên đường tự do. Hà Nội
của Cộng sản có thừa những hiện tượng chua sót để anh vùng lên trên cái thế giới
đen tối ấy. Bên trên những mái nhà tù, đêm Hà Nội vẫn có những vì sao. Vẫn có
những vì sao của chúng ta. Vẫn có những miền trời xanh của chúng ta.
Ngày mới sẽ dựng. Ngày của anh. Ngày của tự do
Ngày anh sẽ vượt vĩ tuyến sang miền Tự Do, để góp phần chiến
đấu vào cuộc chiến đấu chung của những con người tự do.
Đêm giã từ Hà Nội
Phượng nhìn xuống vực thẳm.
Hà Nội ở dưới ấy.
Từ chỗ anh đứng, Phượng nhìn sang bờ đường bên kia. Những tảng
bóng tối đã đặc lại thành khối hình. Từng chiếc một, những hàng mái Hà Nội nhoà
dần. Phượng nhìn lên những hàng mái cũ kỹ, đau yếu ấy, giữa một phút giây nhoè
nhạt, anh cảm thấy chúng chứa đựng rất nhiều tâm sự, rất nhiều nỗi niềm. Những
tâm sự câm lặng. Những nỗi niềm nghẹn uất. Của Hà Nội. Của anh nữa.
Dưới những hàng mái cong trũng, ngập đầy lá mùa kia, đang xảy
ra những tâm trạng, những biến đổi gì mà ở bên này đường Phượng không đoán hiểu
được. Hà Nội đang đổi màu. Đứng bên này bờ đường nhìn sang, Phượng bắt đầu tiếp
nhận với một thứ cảm giác ớn lạnh, cách biệt, anh đã đứng trên một bờ vĩ tuyến
mà nhìn về một vĩ tuyến bên kia. Bên ấy, có những hình ảnh chia cắt, đứt đoạn.
Bên ấy, có những hình chiến luỹ, những hàng rào dây thép gai, những đoạn đường
cấm, những vùng không người.
Phượng cũng không hiểu tại sao nữa. Giờ này anh còn là người
của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình
như đã ở bên kia.
Phượng nhìn xuống lòng đường. Trong bóng tối, mặt nhựa lầm lì
không nói gì. Những hình cây đổ nghiêng trên những tấc đất đá câm nín. Bí mật
dàn ra những bề phẳng, những đường dài như một dòng sông ngăn chia hai bờ, và
Phượng đã đứng ở bên này mà nhìn sang một bờ bến bên kia. Bên kia có Hà Nội.
Bên này có anh. Có tập thể. Có những bạn đường. Có một chuyến đi về Hà Nội.
Chung quanh chỗ Phượng đứng, những tảng bóng tối đã đọng lại
trên bờ đường như những bờ hầm hố. Nhìn xuống, Phượng có cảm giác chơi vơi như
đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm. Hà Nội ở dưới ấy.
Anh nhớ đến Thu. Thu cũng còn ở dưới ấy, trong Hà Nội. Cái
mái nhà cũ kỹ bên kia, chính là mái nhà Thu, lại cũng chính là ở bên ấy, Thu sẽ
đến với anh, ở bên này. Từ một mái nhà của Hà Nội đêm nay, đến bờ đường anh đứng,
chỉ có một đoạn ngắn, nhưng Phượng biết rằng đêm nay, nó chứa đựng tất cả ý
nghĩa của một đoạn đời. Và Thu, Thu phải đặt cả đời Thu vào một chuyến đi, thì
Thu mới vượt được đoạn đường ngắn ngủi ấy, và Thu mới sang được với anh. Như
anh, như hàng nghìn hàng vạn con người Hà Nội đêm nay, Thu sẽ ở lại hay sẽ vượt
lòng biên giới cũ. Giữa những phút giây Hà Nội đang rắn lạnh lại trong chuyển đổi
chính thể đã bắt nguồn, đứng bên này đường, Phượng mới cảm thấy rằng ở bên kia
Hà Nội, Thu đã ở thật xa anh. Cái cảm giác ớn lạnh mỗi khi anh đứng trước một
dòng sông lại nổi lên. Con sông biên giới đêm nay lại hình như con sông Hồng chảy
qua một bờ Hà Nội. Trong Phượng, sóng lòng của chuyển dịch chưa kịp nổi lên mà
những ngọn sóng của dòng sông cũ đã nổi dậy. Âm thanh oà oà. Lòng đêm Hà Nội chứa
đựng những tiếng đổ vỡ đang xô chen trong bóng tối đặc quánh.
Qua bóng tối, Phượng nhìn thấy những hình khối của Hà Nội bên
kia: một cửa ô đoạ đầy. Một hàng mái cũ. Những lớp phố phường sa đoạ. Những ánh
đèn nhạt tái trên những bờ tường câm đen. Bóng tối chính thể đổ xuống làm
nghiêng ngả những sự kiện này.
Bên kia, Hà Nội vẫn đang lặng lẽ đổi màu. Người Hà Nội dựng cửa
tắt đèn để mà đổi thay trong bóng tối. Phượng thấy thương Hà Nội. Thương những
người Hà Nội. Những người còn ở lại dưới những hàng mái cũ kỹ kia vì những vướng
bận đau khổ.
Đêm khuya dần. Từ một cửa ô, Hà Nội bắt đầu ngây ngất dấy lên
những ngọn gió núi rừng thổi về. Gió rừng hoang về qua cửa ô, đi thẳng vào tâm
can của người Hà Nội. Ngọn gió tiền phong này đến trước chính thể, đang lọt dần
qua cửa ô Yên Phụ, Kim Liên như một điển hình của hoang lạnh rộng lớn. Cả Hà Nội
run lên, tê đi. Trước phút bỏ đi mà Phượng cũng như giá buốt cả cơ thể. Hà Nội
đã bắt đầu đón nhận ấn tượng. Ngày mai, Phượng ở miền Nam rồi, Hà Nội sẽ phải
còn đón nhận những sự kiện, những con người bên ngoài. Sau ấn tượng hoang vắng
đêm nay, sẽ là sự thật tàn nhẫn ngày mai. Nhưng chỉ đón nhận ấn tượng, Phượng
cũng đủ thấy Hà Nội không còn gì. Hà Nội chỉ còn là một thứ thuộc về bên kia.
Hà Nội chỉ còn là một thứ thuộc về bên kia. Bên kia như Đêm. Như Bóng tối. Như
Sa đoạ. Như Tù đày.
Trên đầu Phượng, những ngọn lửa nhìn xuống. Ấy là những con mắt
đau yếu của một Hà Nội không ngủ. Những ánh lửa tròn, nhợt nhạt, bé nhỏ, bị
giam chặt giữa bóng tối. Phượng nghĩ đến những vì sao xa xôi đứng chết ở một
góc trời cũ. Hệ thống ánh sáng Hà Nội đã hết bay múa. Bóng tối dềnh lên những
đường lung linh. Từng điểm lửa gục đổ. Đêm nay, Phượng chỉ còn mong chúng có đủ
ánh sáng để soi đường cho Thu đến được với anh. Phượng chỉ còn mong có thế
thôi. Vì anh biết ngày mai những điểm lửa ấy sẽ không sáng nữa. Hà Nội sẽ không
sáng nữa.
Buổi chiều, hồi năm giờ, gặp Thu ở cuối nhà Thuỷ Tạ, anh đã
nhắc Thu đến một ngả đường. Đúng hơn đến một chuyến đi. Anh lại nhắc cả Thu đến
một hạn định: Hôm nay là ngày cuối cùng người ta được tự do rời khởi Hà Nội.
Phượng bảo người yêu: “Hôm nay đã là ngày chót rồi, Thu ạ! Mười
hai giờ đêm nay, chuyến xe cuối cùng sẽ đi qua cầu Long Biên. Anh sẽ đi chuyến ấy.
Việc lớn việc nhỏ, anh đã thu xếp tạm yên cả rồi. Chưa yên hẳn, nhưng cũng đành
vất bỏ hết. Việc đi khỏi Hà Nội trước hạn định cần hơn. Anh sẽ đến đợi em ở đầu
phố tối hôm nay. Chúng mình sẽ cùng vào trong Nam”.
Phượng nói vắn gọn có thế. Bao nhiêu lần gặp trước, kể từ
ngày có hiệp định chia đôi, anh và Thu đã bàn với nhau nhiều. Bàn đi bàn lại,
nhưng vẫn chưa ngã ngũ ra sao cả. Vấn đề chỉ mới giải quyết xong về phần anh
thôi. Trước sự lựa chọn một thái độ và trước những mưu toan xây dựng một cuộc sống
tay đôi ở bên kia vĩ tuyến của hai con người cùng gắn bó đến những cái cao đẹp
của đời sống, những gió bão của chiến thời ở đây lại có thêm những thảm trạng của
đất nước bị chia rẽ. Sự ngăn chia đến cả từng cuộc đời. Đất nước ngăn cách làm
hai miền, thì những cuộc đời cũng chia về hai phía. Như đêm và ngày. Bên này,
bên kia. Biên giới oán thù dựng lên ở giữa.
Cho đến nay, Thu vẫn chưa quyết định. Thời hạn được ấn định
cho di chuyển trong khu vực Hà Nội cứ vợi mãi trong phân vân lưỡng lự của người
thiếu nữ. Phượng cũng hiểu cho người yêu. Anh khác, Thu khác. Cuộc sống mấy năm
gần đây của anh trong Hà Nội cứ an định một chỗ, chỉ một ngụm gió nổi lên là
cũng đủ đưa anh ra ngoài cửa ô. Di chuyển là một cần thiết cho đời sống của Phượng
trong ngày cũ, bây giờ lại là một hành động của tự do. Cứu cánh của người Hà Nội
hôm nay nằm trong sự thoát khỏi phố phường cũ.
Nhưng Thu, Thu chỉ là một người đàn bà. Vây quanh lấy đời
Thu, Phượng cũng đoán thấy không biết cơ man nào là những sợi dây nối kết cuộc
đời của Thu với Hà Nội. Như lúa với đất. Đi khỏi được, ít ra Thu cũng phải cắt
đứt được bằng hết những sợi dây ấy. Chúng là những rễ lớn rễ con đã bám chặt lấy
đời Thu từ tuổi thơ. Trên mái tóc suối chảy của người thiếu nữ, bóng dáng một
mái nhà cổ kính đổ xuống. Những nếp nhăn trên trán người mẹ. Những sợi tóc bạc
trắng của người cha. Đi thoát được mái nhà cũ, hành động của Thu sẽ là một hành
động quyết liệt. Nó đòi hỏi nhiều đau khổ, nhiều mất mát. Lòng người vẫn phải
rách nát vì những đau khổ, những mất mát ấy.
Phượng biết thế, nên người anh hùng cũng không giục giã người
yêu. Mặt khác, anh muốn rằng trước thử thách này, Thu sẽ hành động, sẽ quyết định
một mình. Như một con người tự do hành động và quyết định. Phượng vẫn thường có
quan niệm rằng chính kiến của con người như một thứ hướng đi, tuỳ theo sự lựa
chọn chân trời riêng. Đối với Phượng trái đất này có hàng triệu ngả đường thì
con người cũng có hàng triệu hướng đi, trên đó đua nở những hoa cỏ cùng là rung
động những tình cảm của người trước cuộc sống. Thảy đều mênh mộng, không bến bờ.
Nhẹ thoáng như không khí. Bay múa như nắng.
Nếu không, thì trái đất không còn là trái đất nữa. Con người
không còn là con người nữa.
Mấy ngày gần đây, Hà Nội của Phượng đã hết nắng. Hà Nội đã
thiếu không khí, thiếu hơi thở. Bên kia tả ngạn Hồng Hà, bên này năm cửa ô,
ngay trong nội tâm Hà Nội, những sự kiện mới mai đây sẽ về ngự trị trên Hà Nội
đã như những tảng bóng tối mịt mùng dâng lên. Bóng núi bóng rừng chấp chới. Tim
phổi người choáng váng, rức buốt. Những mạch đời ngừng nghỉ. Những màu sắc lộng
lẫy nhất cũng nhạt tái lần lần.
Trên những sân ga, bến tàu, từ những trạm hẹn, những con người
có sẵn thái độ như Phượng đã hướng vào chuyến đi. Những cuộc đời như đời Thu,
rách nát vì mâu thuẫn, giờ phút này đang trải qua một cuộc tranh đấu quyết liệt
với bản thân. Chúng là những miền còn tranh tối tranh sáng. Sau hết, là những
người ở lại. Ở lại với Hà Nội. Vì hoàn cảnh vướng bận.
Chưa bao giờ Phượng lại cảm thấy Hà Nội chứa đựng nhiều khía
cạnh, nhiều thời gian tính đến thế. Đứng trước cuộc đổi đời, Phượng va chạm với
những con người đang lựa chọn để nắm lại trong dĩ vãng hay đi vào tương lai. Từ
một bản hiệp định chia đôi, chói lên những phút giấy thử lửa. Thái độ của từng
người phân định dần mãi. Như thế cũng hay. Lại hơn. Đằng nào cũng một lần.
Từ ngày Hà Nội thay đổi sắc thái, Phượng thấy cái việc giã từ
Hà Nội của anh không đến nỗi sầu thảm như anh tưởng. Nhìn sang một lớp sự kiện
còn nằm lại bên kia, đêm nay, Phượng, trong một cảm thông cụ thể, như đã sờ mó
thấy trên đầu ngón tay cái lành khoẻ rộng lớn của một khối đời anh sẽ dựng lên
sau chuyến đi. Dựng lên bằng niềm tin. Trong tập thể. Niềm tin này, riêng đêm
nay, đã đốt cháy được hộ Phượng những sợi dây gắn bó với đời cũ. Với bên kia. Với
Hà Nội. Theo anh, Hà Nội cũng không còn gì. Những người như anh lên đường đã
mang theo Hà Nội vào chuyến đi.
Thanh toán cho xong được những chua xót lúc đầu, lòng người
đi vậy là đã ổn định.
Duy có một vấn đề là Thu. Đối với Phượng, Thu đi hay Thu ở lại,
việc ấy đã ra ngoài cái lãnh vực thường rất bé mọn của tình cảm. Anh yêu Thu,
qua những rung cảm của tình yêu, còn có những nỗi niềm hết sức bao la, hết sức
sâu nặng của con người anh gửi đến một người bạn cùng đường. Thêm Thu tập thể
thêm đông, và đời Phượng cũng vui thêm trong xây dựng.
Chiều xuống dần. Hai người yên lặng bước đi. Buổi chiều cuối
cùng ở lại Hà Nội, Phượng chỉ còn tìm thấy ở Thu một sự kiện lành mạnh gần gụi,
khi mà tất cả những sự kiện khác đã sa đoạ, đã đổi màu.
Anh nhìn Thu: Mái tóc dài chảy xuống một bờ vai gầy. Hàng mi
nghiêng nghiêng. Và con mắt sâu đen của Thu thì nhíu lại trong suy nghĩ. Phượng
nhìn lâu lâu vào đôi mắt ấy, tận trong, đôi mắt u uẩn hình như đang thăm dò một
ngả đường, trong đêm tối. Anh không biết Thu đang nghĩ ngợi gì. Nhưng anh đoán
Thu đang đau khổ nhiều. Trong nội tâm người thiếu nữ cũng đang có những sự kiện
vừa nằm xuống, vừa chìm lặn, cùng một lúc với những sự kiện đang đi lên, đang
sinh thành. Bóng tối và ánh sáng chấp chới trên những mâu thuẫn chưa ổn định.
Trong Thu đã có một ngả đường? Cháy một niềm tin? Đường mũi dài, đôi môi trang
nghiêm của Thu in lên một nền nhờ xanh của sương mù, của buổi chiều. Bên kia,
thấp thoáng những hàng cây, những mái nhà Hà Nội.
Một lát yên lặng. Phượng châm một điếu thuốc.
Thu nói với anh: “Em thì em cũng định đi rồi. Một phần vì Hà
Nội. Cơ sự đã xảy ra thế này, cũng chẳng ở được nữa. Một phần vì em không muốn
xa anh. Xa nhau, biết đến bao giờ mới gặp lại? Em sợ thay đổi lắm. Nhưng anh
cũng biết, còn gia đình em đấy! Thầy me em già rồi. Me em đang đau nặng. Thầy
em thì chỉ biết có lũ chậu hoa cây cảnh. Hồi này ông cụ chán đời cứ thở dài suốt
ngày”.
Phượng hỏi Thu:
“Thầy me không bằng lòng cho Thu đi ư?”
“Không, thầy me em bằng lòng. Chính vì thế mà em phân vân.
Anh hiểu cho em chứ?”
Phượng cúi đầu không nói gì. Hai người lại yên lặng bước đi.
Phượng nhìn đồng hồ. 7 giờ 35. Anh bảo bạn:
“Thôi, anh đưa Thu về. Đêm nay, trên đường tới trạm di chuyển,
anh sẽ đi qua nhà em. Em về nhà nghĩ lại đi. Cố thu xếp xem có được không?”
Thu đáp, tiếng nói bé nhỏ:
“Vâng, em sẽ cố gắng thu xếp. Dù sao, anh cũng đến, anh nhé!”
Hai người chia tay. Và Phượng, đúng 11 giờ đêm, đã xách va ly
đến đợi Thu ở đây, bên này đường. Bên kia là Hà Nội.
Đêm Hà Nội càng về khuya càng lạnh buốt. Mặt nhựa loáng ướt.
Những ánh đèn lu xanh một màu xanh hoang vắng trong sương. Trước mắt Phượng con
đường Trần Nhật Duật chạy dài, một đầu phố nhạt nhoà mất hút về phía chân cầu Long
Biên. Vắt qua lòng sông Hồng, những ánh lửa nơi chân cầu đổ về một hướng Gia
Lâm. Gia Lâm, Phượng nghĩ đến những vùng cỏ tối bên ấy, nơi phi trường. Lát nữa
anh sẽ vượt Hồng Hà, tới phi trường và ở đó, anh sẽ giã từ Hà Nội.
Lòng Phượng lắng đọng lại trong suy tưởng, trong đợi chờ. Những
ý nghĩ nhẹ thoáng nhất cũng đều có những sắc thái rất mênh mông. Nhãn giới Phượng
bắt gặp những hình khối của Hà Nội đang ngược đường về trong dĩ vãng, và lòng
Phượng thì đã thơm rồi, những nhành hoa của xây dựng trên luống đất tương lai.
Ngày mai, anh đi khỏi, tập thể xa rồi, Hà Nội sẽ ra sao? Những con người ở lại
Hà Nội sẽ ra sao? Trong đêm giã từ, ba mươi sáu phố phường đi dần vào những tầng
lớp của ký ức. Nhìn Hà Nội, Phượng bỗng liên tưởng tới những thành phố khác của
thế giới, của thời đại. Hán Thành, Bá Linh. Những thủ đô đổ nát vì chiến tranh,
bây giờ lại chứa đựng những ấn tượng buồn thảm của chia cách, hờn oán. Bên này,
bên kia. Giã từ Hà Nội. Những con người cúi đầu. Một khung cửa đen câm. Những
ngả đường ngoại thành hoang vắng. Những hàng mái đau yếu. Thu, Thu của anh.
Đứng một mình trong đêm dài, trước một Hà Nội ngủ thiếp, Phượng
nghĩ đến những người bạn đường đã vượt Hồng Hà, đã bỏ Hà Nội, bỏ đất Bắc trước
anh, vượt vĩ tuyến về tiếp tục cuộc đấu tranh cho tự do, cho con người, trên phần
đất nước còn lại. Anh biết rằng thời đại, trong ngày tới sẽ nối kết con người bằng
một ý niệm một hệ thống tự do. Tâm trạng của Phượng đêm nay cũng là tâm trạng của
một người thợ máy Đức, một người dân cầy Triều Tiên, đang ngày đêm vượt khỏi những
vĩ tuyến tù đày để tìm một hướng đi, một chân trời có không khí và ánh sáng.
Năng lực đấu tranh của con người nằm trong những cạnh khía bay múa ấy.
Cái ý nghĩ cuối cùng của Phượng, gửi đến Thu. Anh nhìn sang
bên kia đường. Vẫn không thấy gì. Có lẽ Thu đã ở lại. Phượng nhìn đồng hồ: Chiếc
kim dạ quang chỉ đúng mười hai giờ đêm. Phượng cúi xuống nhấc va ly, bước đi.
Sau lưng anh, bống có tiếng gọi nhỏ: “Anh!”.
Phượng quay lại. Đôi mắt anh sáng lên trong tối. Từ bên kia bờ
đường, từ bên kia Hà Nội, một bóng người bé nhỏ đang vượt lòng đường đi sang
anh. Thu. Bóng Thu xiêu xiêu vội vã. Một thoáng, Thu đã đứng bên cạnh anh. Đôi
mắt Thu còn ngấn lệ. Phượng đỡ lấy va ly Thu.
Tiếng thu vang lên trong đêm Hà Nội:
“Em được đi rồi. Cả thầy me cũng đi nhưng đi sau.
Và kéo tay Phượng.
“Chúng mình đi đi thôi anh ạ!
Phượng mỉm cười nhìn Thu. Giọt nước mắt của người lên đường
nhập vào hàng ngũ của tập thể, của di chuyển, Phượng biết là một giọt nước mắt
của tin tưởng. Sự đấu tranh cho tự do khởi thuỷ ngay cả ở chỗ ấy, nơi con người
phải đấu tranh quyết liệt với chính mình, chịu đựng những mất mát, lìa bỏ ruộng
đất, phố phường, để đến những miền tự do. Sau Thu, rồi còn hàng ngàn người như
Thu, cũng chiến thắng được hoàn cảnh, cũng sẽ lên đường. Để bảo vệ một niềm
tin. Để bảo vệ con người. Tất cả, họ sẽ trở về.
Phượng đưa Thu đi. Những ánh đèn xanh biếc của Hà Nội nghiêng
theo những bước chân bắt đầu dời khỏi Hà Nội.
Bóng Phượng, bóng Thu nhoà dần. Rồi mất hẳn. Họ đã đi vào
Tương Lai.
Hà Nội – 100 ngày, sau Hiệp định Genève
Đồn phòng ngự số 21
ĐỒN tiếp viện này vừa được thiết lập trên cây số 21. Ba mặt
núi đá, cây cỏ hoang đậm. Phía trước đồn, con đường trải nhựa băng qua, lúc nào
cũng vắng bóng người đi. Thường thường mãi đến tận chiều mới có một vài chiếc
xe hàng cũ chở gỗ, lá, từ vùng cao nguyên đổ xuống Saigòn. Bên kia đường một lối
đi nhỏ khuất khúc chạy thẳng vào một cánh rừng già. Đầu con dường, một tấm biên
gỗ, chữ viết đẫm nét : "Coupe Lê văn Viễn". Chiều hôm qua, Vững đã chặt
đổ gục tấm biên đó.
Tiểu đội Vững được di chuyển xuống đóng ở đồn tiếp viện, đến
buổi sáng bắt đầu xây đựng công sự Vững tính đã đến ngày thứ ba. Hôm đầu tiên,
tiểu đội từ trên cao nguyên xuống tới nơi vào giữ trưa. Cả một vùng chung quanh
cây số 21 nóng như thiêu đốt. Người nào cũng mệt lả. Rừng cỏ lau chạy đến sát cổng
đồn, tịnh không có một bóng cây nào. Những ngọn cỏ vàng cháy nghiêng ngã trên sỏi
đá.
Đất cằn rắn lại như đá. Mùi cỏ chết nắng ngột ngạt trong một
vùng lòng chảo choáng váng mầu núi xanh, mầu lá chết, mầu đất cằn từ ba bốn mặt
đổ xuống. Nắng thấp thoáng trên những đỉnh núi. Nắng đọng lại trong vùng lòng
chảo.
Đi khỏi đồn một quảng, mặt đất đã ngổn ngang những tang đá nhẵn
bóng. Mầu đá bạc phếch như mầu đất, mầu cỏ. Mấy anh em Vững đi thăm thú chung
quanh đồn, vào cái buổi trưa đầu tiên, lúc sờ mó vào những tảng đá rời, thấy bỏng
cháy cả đầu ngón tay. Trong ký ức đóng đồn của Vững, anh nhớ lại hồi còn ở
ngoài Bắc, lúc chiến dịch tảo thanh Lạc Đà đi vào thời kỳ ác liệt nhất ở vùng
Hưng Yên, Vững đóng ở một đồn phòng ngự dọc đường cái số 39. Cũng nóng như thế
này hồi đó vào giữa tháng sáu. Đăng cữ nắng lớn. Nhưng được cái đồn dựng ở gần
sông Hồng. Bọn Vững chiều nào cũng kéo nhau ra vùng vẫy ngoài sông lớn. Cũng đỡ
hơn ở đây.
Ở đây, tịnh không có một con suối nhỏ. Khe lạch chung quanh đồn
đều cạn khô. Lòng khe nứt nẻ phơi ra dưới nắng, hỏi thăm một vài người phu công
chính đang làm đoạn đường hư ở dưới cây số 18 về qua thì trong vùng lòng chảo,
phải đợi đến mùa mưa khe lạch mới có nước chảy. Năm ngoái, năm kia còn đang
đánh nhau dữ, đồn này vì bé nhỏ và cô lập đã bị tràn ngập sau một đêm tấn công.
Công sự bị phá hủy cả. Sau đó đồn cũng không xây dựng lại nữa. Những đoàn xe vận
tải được hộ tống đi một mạch qua đồn để nghỉ lại ở đồn trên cách đấy gần 80 cây
số. Rừng cỏ hoang dại tràn
xuống mau lẹ trên cứ điểm thiêu hủy. Mấy dẫy nhà mái tường rụng
đổ trở nên chỗ trú nắng cho những người thô dân địa phương lúc vượt núi xuống
kiếm củi trong rừng già. Thỉnh thoảng, một chiếc xe hồ lô của sở lục lộ đỗ lại
trong sân đồn một lát rồi lại bỏ đi ngay. Chả thể ở lâu được trong vùng chảo
nghi ngút mùi cỏ hơi lá và lúc nào cùng ngột ngạt nồng cháy. Nắng chảy những suối
lửa trên những hàng rào giây thép gai khô quăn. Những cột sắt lệch vẹo mang những
hình dáng cỏ rừng. Vạch cỏ chung quanh những tháp canh cũ, thì thấy hai rãnh
chiến hào song song hiện ra. Chông gai nằm cong queo dưới lòng rãnh cạn. Cảnh
hoang đổ còn ghi nhưng vết tích của một cuộc dạ chiến ác liệt. Đối phương phá hủy.
Nắng đốt cháy. Hoang bỏ nhiều ngày. Cả một khu đồn trại không còn gì. Ngoài những
ụ đất từng quãng một còn nổi lên. Tấm biển đánh dấu cách rừng độc quyền Lê văn
Viễn dựng lên từ đó.
Anh binh nhì Vững nhìn xuống tấm biển nằm dưới đất. Sự gẫy đổ
này đánh dấu cho một thời oanh liệt đã tàn lụi. Tiểu đội Vững đến đóng ở cải đồn
lẻ loi này chính là để chấm dứt cho cái sự kiện phai tàn này. Vững đá mạnh vào
tấm biển một cách thích thú. Anh nghĩ đến Bảy Viễn. Khét tiếng anh chị mà bây
giở cũng chìm lặn, cũng gẫy đổ nhục nhã như tấm biển dưới chân anh.
Chả là vì cánh rừng đốn gỗ của Viễn mà trước kia đã có một
trung đội lính mũ xanh của y tới đóng ở đây. Suốt một thời kỳ, vùng lòng chảo
chói nắng này làm chỗ tụ họp của bọn thảo khấu. Chúng canh gác rừng gỗ đánh đập
những người thổ dân miền núi vào kiếm củi trong rừng già. Lâu dần rồi tốp thổ
dân cũng không dám xuống núi vượt đường sang kiếm củi nữa. Chẳng ai dám qua lại.
Những chuyến xe dò, xe vận tải, đi về vùng cao nguyên bị đánh chặn luôn luôn
trong vùng lòng chảo. Cứ điểm bỏ hoang khoác thêm cái không khí man dại của Tội
Ác. Sân đồn ngổn ngang những vỏ chai rượu mạnh. Bọn lính mũ xanh sau những buổi
cướp chia hàng đêm họp ngay trong sân đồn đốt lửa uống rượu rồi đập luôn những
sác chai tại chỗ. Ban đêm chúng căng lều ngủ, ban ngày đi lang thang hoặc đổ
nhau vào các bản xóm chung quanh vùng lòng chảo cướp bóc, sách nhiểu dân chúng.
Thỉnh thoảng bọn chủ tướng lên thăm rừng, săn voi săn hổ, đoàn xe hộ tống lại rầm
rộ tới đậu chật trong sân đồn không người. Một hai ngày, bọn "Anh Bảy"
trở về, cỏ hoang lại bồng lên những vệt bánh xe, và bọn thảo khấu lại cướp bóc
dữ hơn.
Mãi đến khi có tin từ thủ đô truyền lên là bọn phiến loạn đã
chạy đạt về Rừng Sát, bọn lính mũ xanh canh giữ khu rừng độc quyền này mới chịu
kéo nhau ra đầu thú. Chúng dắt nhau đi bộ dưới nắng, lúc đi tới đồn chỉ huy
trên cây số 52, thằng nào thằng nấy trông gớm ghiếc như những con cọp dữ sa lưới.
Chúng nộp súng ống, xin quy thuận.
Ban chỉ huy phân khu cao nguyên liền quyết định cho chiếm
đóng lại đồn 21.
X
Trưa hôm theo tiểu đội xuống lập lại cứ điểm trong vùng lòng
chảo cháy nắng, Vững cũng đã được thượng sĩ chỉ huy cho biết sơ sơ công tác phải
làm dưới ấy. Đất Bình Xuyên ở, quân đội Quốc Gia về chiếm đóng lại, anh binh
nhì phải làm việc nhiều. Công tác kiến thiết xây dựng nặng nhọc. Nhưng đến nơi,
Vững không ngờ là nặng đến thế.
Vững đập tay vào một người bạn :
- Này, đằng ấy này, thế này thì ở thế nào được nhỉ ?
- Chả ở thì cũng phải ở. Nhà lính mà lại !
Vững ngẩn người : Ờ nhỉ !
Trong công cuộc tái lập an ninh trật tự khắp vùng cao nguyên,
ở những miền trước kia bọn Bình Xuyên chiếm giữ, một hệ thống những đồn nhỏ ở rải
rác trên những trục giao thông chính sẽ được thiết lập để tiếp viện cho những cứ
điểm trọng yếu. Đồn 21 của bọn Vững là một. Vững biết thế. Có lẽ phải đóng ở
đây lâu. Công việc trước tiên của các anh là phải làm cho vùng lòng chảo này
thành một chỗ ở được.
Căng lều nghĩ ngơi, phân chia công tác hai ngày. Đến ngày thứ
ba, cả trung đội bắt tay vào việc. Tiểu đội Vững đào giếng. Một tiểu đội thu dọn
cỏ hoang san phẳng gạch đá làm chỗ dựng đồn. Tiểu đội thứ ba đi đốn gỗ trong rừng
độc quyền.
Vững làm việc trong nắng, cả vùng lòng chảo chói lòa sống lại
như một con người thức giậy sau giấc ngủ ma quỷ. Từ đỉnh núi ngút nắng đến những
bờ khe khô cạn, đều vang vọng tiếng cuốc tiếng sẻng phá vỡ đất cứng. Những tiếng
động mở mai vào lòng đất. Bọn Vững cởi trần. Mồ hôi chảy đi trên những bắp thịt
hồng lửa. Vững dạng chân nghiêng người, phơi hẳn một bờ lưng rộng phẳng dưới
ánh mặt trời. Bóng Vững đổ xuống những nhát cuốc. Nhát nào cũng nặng chình chịch.
Lưỡi cuốc đi phang phang gắn bén vào lòng đất rừng, vậy mà cũng làm Vừng hăng
hăng, say say. Anh bổ xuống mau hơn, có cảm giác như khi anh dấn mình băng đuổi
đối phương trên đồng lầy trong thời kỳ tiếp diển chiến dịch Lạc Đà. Hôm nay, Vững
mở một chiến dịch mới trong vùng lòng chảo cháy nắng, cũng giống như những chiến
dịch mà những bạn anh đang mở ra ở các vùng mới tiếp thu: Bình Định, Cà Mâu.
Nhưng chiến dịch Hòa Bình mở ra ở khắp các vùng giải phóng trong nhịp điệu kiến
thiết xây dựng.
Một người bạn dừng tay cuốc, bảo Vững:
- Này cậu, khá rồi đấy nhỉ ?
- Khá cái gi ?
- Cậu không thấy nhát cuốc chúng mình đi xâu hơn ban nẫy à ?
Đất ở dưới mềm nhiều rồi. Chắc có nước.
Vững cười : Có mê đi chứ ! Chả nhẽ lại phải xin nước tiếp tế
à !
Cả tiểu đội lại hì hục cuốc. Đất đào lên, vật sang hai bờ, nằm
phơi dưới nắng. Màu đất ở những tầng lớp bên dưới không bạc phếch như đất mặt
mà tươi mịn một mầu nâu đỏ vàng đậm. Mùi đất ngai ngái từ lòng giếng bốc lên,
khác hẳn với mùi cỏ úa chết nắng. Vững ngửi thấy quen thuộc như mùi đất đồng.
Anh cảm thấy vui vui trong người. Niềm vui của người lính trong công tác xây dựng
công sự, thiết lập đồn trại còn là niềm vui của người dân cày lúc rời bỏ cây
súng cầm lấy cán cuốc bổ những nhát chắc nịch vào thịt đất.
Đến trưa, anh thượng sỉ hô nghỉ. Cả tiểu đội kéo ùa vào lều vải.
Vững còn ở lại sau. Anh vất cuốc nhẩy đại xuống lòng hố. Chiều xâu đã ngập tới
vai. Vững cọ lưng vào bờ đất. Hơi mát toát ra thấm vào anh.
Vững cất tiếng nói thật to về phía lều :
- Các đằng ấy ơi, đến vai tớ rồi. Vài ngày nữa là tha hồ mà tắm.
Tiếng cười tiếng nói từ chỗ Vững, từ trong lều ở khắp cứ điểm
đang được xây dựng lại bát ngát vang lên khắp vùng lòng chảo. Vững vịn tay vào
bờ đất đu mình ra khỏi lòng hố. Anh đội mũ vải lên đầu, lững thững đi lại chổ
tiểu đội bạn đang dọn cỏ. Vững nói đùa :
- Này, dọn cho kỷ. Mai này tớ đứng gác chỗ này đấy.
Nói đoạn, anh sà xuống, bốc một bốc những sác cỏ chết nắng :
- Chỗ này dễ đến một tiểu đoàn mũ xanh chứ chơi à, các cậu ?
Một người ngừng tay phạt cỏ : Chỗ ấy mà một tiểu đoàn thì
chúng tớ từ sáng dễ đã tiêu diệt hàng nghìn sư đoàn rồi.
Anh hô to : Nào cố lên, tiêu diệt cỏ mũ xanh.
Cả bọn cười phá. Mấy chục cánh tay vươn lên, lùa xuống đàn cỏ
mũ xanh đang bị tiêu diệt dần trong vùng lòng chảo cháy nắng. Bầy cỏ phản động
theo nắng ngày dâng lên, cứ đùn đùn chồng chất hết đống này đến đống nọ. Chúng
đang lũ lượt đi khỏi vùng lòng chảo. Mầu xanh của cỏ thảo khấu cứ dọn quang
trên từng thước đất một, theo một nhịp tuần tự đều hòa. Không ai nghĩ tới giờ
nghĩ.
Vững hướng về phía tiểu đội anh, hô to :
- Anh em ơi ! Ra đây dọn cỏ Bảy Viễn.
Có tiếng trong lều nói ra : cỏ Bẩy Viễn à, chúng tớ ra đấy !
Thế là hai tiểu đội họp thành làm một. Chỉ một thoáng lại có
hàng chục đống cỏ lớn. Nắng đổ xuống một lũ cỏ tử thi mất dần chất xanh tái cuối
cùng. Vững chấm lửa vào cỏ. Một vài nếp khói, rồi những đống cỏ đồng loạt cháy
bùng lên. Cả bọn ngừng tay một phút nhìn cảnh tượng cỏ cháy. Vững nhặt một cành
cây khô gẩy gẩy trong đám lửa thấp thoáng. Hình như nắng cũng cháy. Những vệt nắng
đọng kết bỗng nhiên tưng hừng bay múa theo sức tác động của lửa đốt cỏ. Cả một
vùng lòng chảo hoang vắng như bắt đầu một cuộc sống mới toát ra từ những ngọn lửa
này. Những ngọn lửa tạo lập. Của anh binh nhì Vững. Của người lính quốc gia tự
do. Hôm nay, lửa đã cháy lên như một đợt gió đầu mùa. Và đã thiêu hủy bằng hết
những đời cỏ phiến loạn của mùa cũ.
Đến xế chiều thì cả cái sân đồn rộng không còn bóng một ngọn
cỏ nào. Tiểu đội vào đốn gỗ trong rừng độc quyền từ buổi sớm cùng vừa trở về. Gỗ
rừng đốn tận gốc chặt tận ngọn, còn cả cành cả lá kéo lê thê từ rừng cấm về nằm
ngổn ngang trên sân đồn. Trung đội xúm lại. Anh chỉ huy chọn một thân cổ thụ
dài thẳng, bảo Vững :
- Cây này đẹp nhất, ta để riêng làm cột cờ.
Anh lầm nhầm tính toán trên đống gỗ: "Còn thiếu độ năm
cây nữa. Sáng sớm mai, tiểu đội sẽ đi lấy nốt cho đủ. Rồi chúng mình sẽ cất nhà
ngay. Vật liệu thiên nhiên của phiến loạn bỏ lại thừa thãi như thế này thì anh
em mình chỉ phải ngủ lều độ vài bữa nữa thôi.
Cả trung đội cùng cười.
Một giếng nước đang khơi, những thước cỏ hoang dọn sạch và mấy
chục cây gỗ chặt đốn trong rừng độc quyền của phiến loạn, cứ điểm 21 đã có một
bộ mặt khác hẳn. Từ một dĩ vãng man dợ, tấm áo dã thú rụng xuống. Tất cả vùng
lòng chảo bao la hình như cũng đang chăm chú ngó xuống hiện tượng mới lạ này.
Ngày ngả về chiều. Những đỉnh núi nhạt nắng. Chói chang nghi
ngút ngả sang một thứ vàng tươi dịu dàng trườn đi từng lớp mỏng nhẹ. Những bếp
lửa bắt đầu bốc khói. Bọn Vững ngừng tay thổi cơm ăn cho bữa chiều trên cứ điểm
tiếp viện đang nghiêng vào hoàng hôn. Khói xanh nhờ nhờ bốc lên những tảng núi
đã đổi mầu. Nền đá tím lại. Gió rừng thổi từ một hướng nào bên kia núi, đẩy tới
những tảng mây lớn trắng sốp. Vững ra đứng nhìn mây bay về phía rừng già, bắt gặp
một tốp thổ dân địa phương ở phía núi đi xuống. Họ ở trong những bản xóm rải
rác khắp vùng lòng chảo đã hàng tháng, chiều nay mới dám đánh bạo xuống đồn.
Nhìn thấy Vững những người thổ dân ngừng lại không dám tiến nữa. Vững ra hiệu
cho họ cứ đi. Bọn người miền núi cởi trần đóng khố, chậm chạp tiến lại. Người đầu
đoàn chào Vững, Anh liền đưa cả bọn vào chỗ thượng sĩ chỉ huy. Thì ra buổi trưa
ở trong nhà sàn, tốp thổ dân đã nhìn thấy những đám lửa đốt cỏ bốc lên. Rồi một
người chạy về báo tin cho cả bản rằng ở dưới đồn 21 vừa có một tốp lính mới đến,
nhưng lại không phải bọn thảo khấu vẫn canh gác rừng độc quyền. Ho liền kéo
nhau xuống tận nơi xem sao.
Anh chỉ huy cho bọ biết ngay là bọn lính mũ xanh độc ác vẫn
thường kéo vào cướp bóc các bản xóm đã ra đầu thú. Và từ nay họ lại có thể đi lại
tự do trong lòng chảo và lại được vào kiếm củi trong rừng già. Những nét mặt lầm
lỳ hiền lành vụt tươi lên. Họ cúi đầu chào anh chỉ huy quay trở ra. Vững theo
ra cửa đồn. Anh nhìn theo những bước chân người đang nối đuôi nhau trở về, anh
nghĩ thầm rằng cứ điểm hẻo lánh này với những người dân miền núi thuần hậu kia
cũng không đến nỗi hoang vu như anh tưởng. Ngày mai trung đội chia công tác mới,
các anh đào giếng, dựng nhà, lập đồn canh gác, thì cứ điểm 21 này sẽ lại là một
thứ quê hương tiền tuyến cho cuộc sống mãnh liệt của anh vẫn chưa ngừng đổi rời
trong chiến thời. Với anh, cứ điểm phòng ngự nào cũng là một thứ quê hương. Nó
đòi hỏi những sự cố gắng cùng là niềm tin yêu của người. Người lính quyết tâm bảo
vệ cứ điểm, chính là con người sống chết với quê hương. Sau mỗi lần chuyển dịch,
lại thêm một cứ điểm mới. Và cũng lại thêm một quê hương mới nữa. Vững lần lượt
nhớ lại từng cứ điểm cũ. Trên những ngã đường chiến lược miền Bắc. Đường số 5.
Đường 39. Tả ngạn, hữu ngạn sông Hồng Hà. Những buổi vác súng đứng gác trên mái
cứ điểm phòng ngự rét buốt sương đêm mưa phùn. Những đêm lòa sáng ánh lửa hỏa
pháo trên những hệ thống phòng ngự. Súng nổ vang rền bốn phía, rồi những đợt
xung kích của đối phương ào lên. Những xác chết vắt trên giây thép gai. Những
rãnh chiến hào ngập máu. Những tháp canh bị san phẳng. Rồi bọn Vững lại dọn dẹp,
lại xây dựng, lại chiến đấu.
Đời sống của cứ điểm là đời sống của bản thân anh. Cũng như ở
đây. Đồn 21 và vùng lòng chảo cháy nắng sẽ góp thêm cho những ngày tháng anh một
thứ quê hương thân yêu không ngừng đổi rời. Một miền đồng bằng ngô bắp nườm nượp.
Đến một miền núi rừng xanh lam. Đâu đâu cũng vẫn là anh. Là cây súng của anh.
Là đất nước. Là tình yêu xâu nặng của anh gửi xuống cứ điển. Lòng Vững chìm lắng
lại trong sáng tỏ chan hòa của một ý thức trách nhiệm.
Anh quay trở vào. Từ bao giờ, đêm rừng đã dấy lên. Dưới chân
anh, một tiếng sỏi đá lăn động trong bóng tối. Gió núi hiền hòa. Anh nhìn lên.
Sau rừng muôn vạn lấp lánh. Anh nghĩ đến những bản xóm, đến những người thổ dân
hiền lành. Anh nghĩ đến quê hương xóm làng. Đến bông lúa, hạt thóc. Đất nước sẽ
được bảo vệ. Cứ điểm sẽ được bảo vệ. Vì những con người mang nặng tình đất nước
tình cử điểm. Vì những con người sống chết với đất nước với cứ điểm. Sống chết
với quê hương.
Nhà mới
Những ngày đầu tiên vừa đặt chân xuống Sài Gòn, Hoá ở tạm một
gian “phố” gần khu Chợ Quán. Căn nhà là một tầng bé nhỏ, cuối một ngõ hẻm. Đằng
sau nhà là bãi hoang.
Căn nhà này là của người bạn Hoá vừa đi vắng vì công vụ. Anh
ta về Hà Nội. Hôm gặp Hoá, chân ướt chân ráo, giữa phi trường Tân Sơn Nhất, anh
bạn đã bắt tay Hoá rồi rút ở túi áo ra một cái chìa khoá. Anh chìa cho Hoá:
“Cho anh mượn tạm cái nhà. Chắc chưa có ai ở. Nhân tiện, coi
nhà hộ. Độ nửa tháng nửa, tôi sẽ vào. Chúng mình nói chuyện sau vậy”.
Thế là người bạn về Bắc, Hoá đã đến mở cửa cái gian nhà bé nhỏ
này. Buổi trưa hôm anh đến, mưa to. Anh xuống xe, đi bộ qua một ngõ đất, vừa hẹp,
vừa lầy lội. Dăm ba đứa trẻ con đầu trần mặc áo hoa, đứng dưới mưa nhìn anh.
Anh nhìn chúng, mỉm cười xã giao, khi anh nghĩ đến những giấc ngủ trưa của anh,
bọn chúng dễ đến phá phách loạn xạ lắm đấy.
Sau đó, Hoá đi nhanh về cuối ngõ. Căn nhà nhỏ bé cửa sơn xanh
khép đóng im ỉm sau một hàng rào gỗ lưa thưa. Dăm bụi cỏ dại mọc ngổn ngang
trên lối đi.
Nhà mới có hai tầng và một gian gác lửng bằng gỗ. Một cặp vợ
chồng và hai ba đứa con thì ăn ở rộng rãi. Ở cho đủ, có thể chứa được ba chục
con người. Hoá chợt nghĩ đến cái nơi ở thứ hai này. Trong một thoáng, Hoá nghĩ
đến cái gác trọ của anh ở Hà Nội. Một số lẻ giữa phố Cầu Gỗ. Anh tính nhẩm: Dễ
cũng đến ba chục người. Hoá mỉm cười, nhớ đến những ngày nắng tháng Năm, tháng
Sáu ở Hà Nội, gian gác xép Cầu Gỗ rung lên trong những tiếng quạt, tiếng thở,
và ngột ngạt một thứ không khí nồng cháy. Bọn Hoá ăn ở cái lối “hấp cách thuỷ”,
như thế trong suốt một vụ hè 54. Vậy mà chẳng ai kêu ca, chẳng ai ốm đau, và
cũng không một ai bỏ đi. Thì ra cái khu vực tối thiểu cho một đời sống, nhiều
khi đi xuống mức của những phân, những ly. Người ta nằm nghiêng mà ngủ, đi lên
đi xuống cũng phải có tổ chức để tránh va chạm. Gian gác biến thành những con
đường một chiều.
Mưa to hơn, Hoá mỉm cười một mình nhìn chung quanh gian buồng
bỏ không. Từ ngoài mặt đường, nước chảy vào buồng ngoài, vào buồng trong và đọng
lại trước cửa bếp. Vũng nước đục ngầu ngầu. Hoá nghĩ thầm: Không quét dọn sạch
sẽ chỗ này không ở được. Đoạn, anh lần xuống bếp. Người bạn vừa đi khỏi mà cái
bếp tro lạnh như không có ai thổi nấu đã nhiều ngày. Hoá nghĩ đến những nếp sống
phóng túng ở đây. Bữa ăn người ta kéo cả ra tiệm. Anh không ngạc nhiên nữa.
Anh đi lên gian gác xếp. Trên đó tối thẳm. Một mùi ẩm mốc bốc
lên từ những góc tối. Hoá đánh diêm soi thấy một gian gác trống trơ trọi. Trên
sàn ngổn ngang mấy tấm gỗ mộc. Anh đi xuống.
Mưa đã tạnh hẳn. Hoá mở cửa ra ngồi trên bực cửa nhìn ra đường.
Từ đầu ngõ, gió thổi tới, mát lạnh qua những vũng nước. Lá rụng xanh mặt đường.
Bọn trẻ con ban nãy, thấp thoáng từ những căn nhà bên cạnh, lại ùa đến. Chúng
cũng có vẻ nghịch ngợm như những lũ trẻ của phố sá Hà Nội, nhưng trông tươi tắn
và ngây ngô hơn. Chúng nắm tay nhau nhìn Hoá rồi nhìn nhau, cười ầm lên. Hoá
cũng cười. Anh hút một điếu thuốc lá. Bọn trẻ thấy Hoá yên lặng, càng cười dữ.
Đoạn một đứa sán đến hỏi anh:
“Thầy mới vô hả?”
Hoá bảo:
“Phải rồi mới vô”. Tiếng Bắc anh dùng, làm lũ trẻ con cười to
hơn.
Một lát sau, chúng đã biết tên anh, và anh đã mượn được lũ trẻ
vô số là đồ dùng. Búa, chổi sể và mấy cái gầu con để múc nước.
Chúng để cả trên thềm cửa rồi bỏ đi.
Đêm xuống. Một đêm Sài Gòn rộng thoáng sau một chiều nhạt nắng.
Hoá ngồi ngoài thềm cửa, nhìn từ đầu ngõ đến cuối ngõ. Anh nhìn vu vơ. Một nửa
ngày đặt chân thủ đô tự do, Hoá chưa kịp quen ai. Anh hút một điếu thuốc lá nữa.
Thuốc cháy, khói chảy xanh về cuối ngõ, như vào một lối đi quen thuộc cũ. Lòng
Hoá phân vân nhiều. Anh nghĩ đến Sài Gòn. Anh nghĩ đến Hà Nội. Nghĩ miên man. Một
số bạn hữu cũ, anh sẽ không gặp họ ở đây. Có lẽ không bao giờ nữa. Họ đã ở lại.
Giữa một buổi đêm Sài Gòn vừa lên đèn. Hoá nghĩ về Hà Nội qua
những ý nghĩ đầy mến thương. Anh nghĩ đến những gian nhà ngoài ấy, cửa ngõ khép
đóng trong một tâm sự đau khổ thầm kín, khi những người lên đường đã vội vã bỏ
đi. Một miếng đất. Một khoảng sân. Một chỗ ngồi xem một cuốn sách dưới mái
hiên. Rất nhiều tình người gắn bó gửi cho một mái nhà ấm.
Vậy mà Hoá đã lìa bỏ tất cả, để mà ngồi một mình trong cái
ngõ tối hẹp này. Ngày mai dành cho anh những gì? Trong thời gian và không gian
miền Nam, ngày tới, rồi Hoá còn mất nhiều ngày xây dựng một cơ sở mới, để cho một
đoạn đời lại có thể lên hương và một cuộc sống lại có thể bắt nguồn. Anh nhìn
lâu lâu xuống lòng đất ngõ trước mặt. Tối xuống hẳn. Hoá không nhìn thấy gì nữa.
Nhưng anh đoán thấy đất ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào cũng mát lắm, và cũng
chứa đầy những sự bất ngờ cho một bàn tay của người.
Ngày mai, ngày kia, anh sẽ gây lại như từ xưa, những ngọn lửa,
những sợi dây nối kết với chung quanh. Anh nghĩ đến bọn trẻ ban nãy. Những tấm
áo hoa sặc sỡ của chúng. Tiếng chúng cười vang vang. Những con mắt chúng đen
láy nhìn cái “ông ngoài Bắc” vừa đến ở cùng ngõ. Dăm ba ngày, rồi Hoá quen thuộc
với lũ trẻ hơn, chúng sẽ thay thế cho một lũ cháu Hoá ở ngoài Bắc với bố mẹ
chúng nó.
Trong phút giây suy nghĩ đến một cuộc chiến tranh đau khổ lâu
dài chỉ chấm dứt để nối kết những con người trên xứ sở xấu số này vào một niềm
đau chia sẻ thù oán, Hoá nghĩ nhiều đến những đứa nhỏ. Tương lai của những mái
đầu trẻ thơ ấy sẽ ra sao nếu hôm nay, những lứa tuổi măng non ấy đều lớn lên
trong một thế hệ chia cắt đứt đoạn? Những sợi dây nối kết đứt rồi, từng đoạn một,
ngày lại ngày. Trong Hoá ớn lạnh một cảm giác núi rừng. Hình ảnh một chân trời
mịt mùng. Cách sông. Cách núi. Hoá để lại tất cả ngoài ấy. Tất cả.
Chiều nay, ngồi một mình trong ngõ hẹp, Hoá nhìn xuống một ngọn
lửa lấp lánh đầu ngọn thuốc lá, và anh nghĩ đến những con người mới anh sẽ tiếp
xúc ở đây. Lũ trẻ nhỏ mặc áo hoa. Những gia đình chung ngõ. Cùng là đời sống
phường phố lớn rộng của Sài Gòn. Những sợi dây liên kết vừa rụng xuống thì những
đường tơ mới đã rung lên. Vĩ tuyến không ngăn chia được lòng người, cũng không
đánh nhoà mất được những khía cạnh của một sự sống đã được giác ngộ ý thức của
tập thể. Đâu đâu, cũng là gắn bó, cũng là bám hút, cũng là những sợi dây, những
bàn tay đan lấy nhau.
Một ý nghĩ. Một ý nghĩa khác nữa. Trong Hoá, những gánh nặng
tâm sự buồn thảm với lần lần. Chúng như những chuyến đi, ngược về bên kia một
vĩ tuyến oan khiên nào, và ở lại đó trong cái không khí tù đầy của một thế giới
thiếu tình người.
Hoá dụi tắt thuốc lá, đứng lên. Anh thong thả đi ra ngoài đầu
ngõ. Hai bên, những cửa sổ mở rộng, ánh đèn lọt ra ngoài. Con đường đất nhỏ
sáng lên từng quãng một. Nước đọng vui dưới chân anh. Nhìn vào bên trong anh thấy
những gia đình Sài Gòn đầu tiên dưới ánh đèn:
Người bố, người mẹ, mấy đứa con. Những đứa trẻ mặc áo hoa ban
nãy. Hoá mỉm cười đoán thầm, chúng đã kể chuyện cho bố mẹ về cái “ông ngoài Bắc”
vừa đến. Khắp ngõ, tiếng rađiô tưng bừng một bản nhạc lên đường. Nốt nhạc líu
ríu, đổ mạnh. Tiếng hát ngân dài, vươn lên, chứa đựng âm thanh đường trường. Buổi
tối Sài Gòn cũng là buổi chiều Hà Nội đang lắng tai trong một bản nhạc mỗi người
cùng nghe dưới mái nhà của mình.
Hoá đứng ngoài nhìn vào. Bóng anh đổ xuống mặt đường, xiêu đổ,
lênh đênh. Anh nghĩ rằng trong những ngày gần đây, cuộc sống của anh rồi cũng sẽ
có những tiếng nói, nụ cười của một lớp người sẽ đến, và sẽ nhận anh vào tập thể.
Từ một sự xây dựng rất cá nhân, cuộc sống khởi thuỳ rộng lớn thêm mãi, theo nhịp
đi của những mạch máu nối kết đằm thắm với chung quanh. Hình ảnh một bếp lửa bập
bùng hắt sáng lên một đêm đầu mùa trên mảnh đất mới, thổi mạnh một hương lửa
thơm ngát vào Hoá, vào tận chỗ sâu thẳm của nội tâm anh.
Những hình ảnh cũ nhoà dần: Một chuyến đi. Những nét mặt. Những
người bạn. Những bờ phố cũ. Một cuộc đời đã an định.
Trong ký ức gần gụi, Hoá nhớ đến một cuộc thử thách dữ dội nhất
mà thời đại đã đặt ra cho những con người như anh. Anh đã chọn lấy một con đường
trên đó thổi lùa một thứ gió lùa và chan hoà một thứ ánh sáng của miền tự do.
Và Hoá đã đến đây chiều nay trong cái ngõ hẹp, sau một trận mưa chiều đột ngột
của thành phố nhiệt đới.
Những tiếng động xa xôi vọng về. Nghe không rõ. Ầm ầm, ran
ran. Những tiếng vội vã, như những bước chân đuổi gấp, lại như những đoàn người
đang xô chen nhau trên những ngã ba nào. Đèn lấp lánh tứ phía. Cả một thành phố
rộng lớn đang sống cái nhịp sống đương hoa, không bến bờ. Một cuộc sống toàn diện.
Hoá nghĩ đến cái tự do của một ngọn triều đổ oà oà về cái nét xanh veo của trời
xa. Sài Gòn ở đây, Chợ Lớn bên kia. Những tiếng đổ gần như những bước chân xuống
núi. Thành phố chứa đầy những tiếng suối trong. Thành phố đựng đầy những ngả cỏ
non.
Hoá quay trở lại. Lòng ngõ đã tối hẳn. Một vài vũng nước óng
ánh. Hai bên, những cánh cửa đã đóng hẳn. Tiếng rađiô tắt lặng. Hoá đẩy cửa vào
trong nhà. Anh bật đèn. Ánh sáng bừng lên khắp hai gian buồng. Vẫn như cũ. Một
vài vũng nước đục ngầu chưa khô hẳn, làm thành những đường viền màu nâu tươi
trên nền đá hoa.
Lòng Hoá thấy ấm lắm. Anh vui vẻ lấy chổi quét sạch một góc
nhà, vừa đủ cho một chỗ đặt mình. Có tiếng muỗi vo ve nổi lên. Hoá chợt nhớ đến
lũ trẻ mặc áo hoa. Ngày mai chúng sẽ mang đến cho anh mượn một hộp thuốc trừ muỗi.
Đêm nay hãy tạm ngủ với mấy ông muỗi của đất mới. Hoá có cảm giác chúng sẽ đốt
đau lắm. Muỗi Sài Gòn mà. Nhưng cũng chẳng hề gì. Giấc ngủ của Hoá sẽ ngon
lành. Và ngày mai, một suối nắng sẽ chảy vào đây, và Hoá sẽ lại lên đường.
Ngày lớn sẽ dựng.
Hoá nghĩ về Hà Nội. Những hình ảnh mờ nhạt. Thấp thoáng sương
khói. Ngoài ấy đã vào dĩ vãng. Những chân trời núi rừng. Hà Nội.
Mưa núi
Hai chúng tôi nhìn nhau yên lặng, như thế rất lâu. Sau cùng,
Nam rút tay khỏi tay tôi, quay trở vào. Tôi đi theo anh. Lối đi nhỏ đổ xuống một
chân dốc, vòng về sau đồi. Mưa vừa ngớt. Cỏ núi ướt át. Đường vai Nam in lên
cái nền trắng nhờ nhờ của một thứ hơi núi trôi ngang phía thung lũng bên kia.
Trời từng quãng một, bắt đầu xanh. Xanh từ sau núi xanh lên.
Nam yên lặng dẫn đường cho tôi trong cái không khí thoáng mát
của núi rừng sau một trận mưa lớn, thung lũng đã nổi gió vẫn còn nghi ngút hơi
nước trắng đục. Có thể nắng. Cũng có thể mưa. Cái khoảng xanh ở phía đầu núi mở
rộng hơn. Tôi nhìn đường vai Nam in hẳn vào trong khoảng xanh này.
Bỗng Nam hỏi tôi:
“Thế nào, lạ lắm phải không?”
Từ một ngày nào biết anh và yêu mến cái con người cứng rắn
trong anh, tôi biết Nam vẫn có cái lối hỏi đột ngột như thế. Cái lối hỏi từ một
con đường tắt đi ra bắt người ta trả lời.
Chưa đoán được ý Nam, tôi trả lời vội:
“Không, không. Lạ cái gì?”
Đáng lẽ ra, tôi phải trả lời có. Tôi bỏ hẳn tảng trời xanh đầu
núi và đường vai gầy của anh, để chỉ nghĩ đến anh. Phải rồi, Nam đã làm cho tôi
lạ lùng thật. Khó hiểu nữa. Nhưng mà tôi đã định ở lại với anh đến sáng mai. Tất
cả những cái gì tôi định nói, chúng tôi sẽ nói với nhau trong suốt đêm nay.
Tôi nhìn lại tảng trời xanh vẫn đang đi lên, đang mở rộng.
Xanh trong gần thành vàng nắng. Bên kia núi, chắc có nắng. Ở khắp nơi, chắc vẫn
có nắng. Chỉ ở riêng miền này, nắng chưa dâng thôi. Hai chúng tôi lại im lặng
bước đi. Nhưng một cái gì nặng nề ban nãy hình như vừa được nhấc khỏi. Có lẽ bởi
một tiếng nói, một hòn sỏi lăn động dưới chân chúng tôi. Lại có lẽ vì một tảng
trời xanh đã nằm trong nhỡn giới của người. Trên một ý nghĩ u uất trong tôi,
hình như có ít nắng vừa dâng lên.
Tôi nhìn xuống một con đường cứ nhỏ dần, hỏi với lên:
“Này, đến chưa? Sao “nghìn dặm” thế hả?”
Nam quay lại, chỉ tay xuống một khoảng thấp phía dưới:
“Kia kìa.
Tôi nhìn theo ngón tay anh trỏ xuống một căn nhà bé nhỏ, tường
mái cũ kỹ, kiến trúc cái lối nhà để chứa đựng đồ đạc hơn là để ở. Màu ngói nâu
thẫm, rêu xanh chảy thành từng dòng từ những đầu mái long lở xuống những chân
tường. Chân tường lấp dưới cỏ núi. Cái cảm giác đầu tiên của tôi vẫn kính mến bởi
cái năng lực vô cùng phong phú của anh gửi vào cuộc sống, là Nam không ở được
nơi này. Con đường cỏ dại và những mái tường rêu phong kia không thể là những
khung đời đen tối của anh.
Tôi nhìn xuống căn nhà nhỏ bé. Bốn cửa sổ đóng cả bốn, khép
kín một vẻ bưng bít. Tôi nhìn Nam. Anh đứng bên tôi, cũng đang lặng lẽ nhìn xuống.
Sự yên lặng của anh là một tiếng nói. Tiếng nói này nói lên cho một thái độ: Sự
chịu đựng. Nam thua rồi. Nhìn chỗ ở của anh, tôi cũng biết là Nam thua rồi. Buồn
hơn, anh đã chịu thua. Không biết từ đâu, một rung động buồn rầu thấm thía từ từ
nổi dậy trong tôi. Nó buốt lạnh như hơi rừng. Tôi vừa thấy lạnh lẽo vừa thấy mệt
mỏi, như một người đi đường đặt hết niềm tin vào chỗ đến, và đến, chỉ thấy đổ vỡ,
chỉ thấy tàn hoang. Trong một thoáng, tôi muốn quay trở về. Tôi sẽ bỏ Nam đứng
lại một mình với núi rừng của anh. Tôi sẽ yên lặng đi trở lại con đường bé nhỏ,
ra ngoài đường cái, leo lên một chiếc xe đò cũ kỹ, dời bỏ cả một vùng cao
nguyên lúc nào cũng nằm ngủ bên cạnh những bờ vực chìm đắm, để đi xuống những
vùng phường phố chan hoà sự sống dưới kia, ở những vùng xây dựng đang mùa, kiến
thiết không ngừng nghỉ. Tôi muốn bỏ đi. Tôi muốn xuống núi. Để được sống. Được
cho đi, được nhận lại. Được vui và được tin yêu. Được đóng góp cái phần bé mọn
của mình cho tập thể.
Ở đây, tôi không thấy gì, thật không thấy gì. Nếu thật ra sự
sống rất mênh mông cũng có những biên thuỳ, thì nơi này đã ở ngoài biên thuỳ sự
sống. Nam đã đứng thật xa, ngoài biên thuỳ. Một con đường nhỏ. Những lớp núi rừng
trùng điệp. Những chiều mưa dầm dề. Cỏ hoang. Ở đâu cũng cỏ hoang. Tôi bắt đầu
phải công nhận một cách bực bội rằng ngoại cảnh nếu không tác động, cũng ảnh hưởng
mãnh liệt đến đời sống. Nó tô thêm sắc màu cho những tâm trạng, những sự kiện
chưa đẫm nét. Tôi nhìn những đường rêu chảy trên mái cũ, nghĩ rằng núi rừng
hoang vu nơi này cũng là những lớp rêu xanh. Chúng đang chảy xuống đời Nam. Một
cánh cửa đóng kín. Những lớp rêu tường. Sự cách biệt ghê gớm. Nam chỉ thiếu biến
thành một tượng đá. Nhưng chưa, thì cũng đã gần rồi.
Tôi nghĩ thế, và tôi đã muốn trở về. Tôi tưởng rằng núi rừng
hoang vắng cách biệt chưa phải là chỗ ở của Nam. Tự nhiên tôi nhớ đến những con
đường đi trong một bệnh viện thành phố. Những con đường lúc nào cũng như ngủ
thiếp dưới mái lá xanh. Bệnh viện nào cũng là một thứ thế giới cách biệt. Đời sống
đứng lại bên ngoài. Nó đứng lại dưới những hàng cây, vừa đọng lắng vừa sôi nổi,
và bên trong, chỉ là một thứ thời gian lâu dài yên lặng. Bóng nắng bóng lá mệt
mỏi. Tường vôi trắng toát. Những người bệnh xanh yếu. Ở đây, rừng núi cũng phảng
phất một thứ không khí bệnh viện. Căn nhà rêu phong dưới chân núi kia cũng là một
thứ an dưỡng đường cho một con người nhọc mỏi giữa lưng chừng cuộc sống.
Tôi không muốn đến những an dưỡng đường. Tôi muốn trở về.
Nhưng với niềm bất mãn vẫn ngấm ngầm trong tôi. Tôi muốn được hiểu Nam hơn. Sự
xoay chiều đột ngột của anh.
Cuối cùng, tôi nhất định ở lại.
Nam nhường tôi xuống trước. Qua những bực đất đào ngập vào sườn
đồi, đến một khoảng sân nhỏ, không trồng trọt gì. Rừng gần nhà đổ lá xuống ngập
ngụa. Tiếng nước rỏ xuống tí tách.
Nam gõ nhẹ tay vào cánh cửa đóng kín.
Có tiếng động ở bên trong. Những bước chân lại gần. Cửa hé mở.
Tôi nhìn thấy chị Nam qua màn mưa loáng thoáng. Dưới mái tóc loà xoà, khuôn mặt
chị hiền hậu nhìn tôi. Một thoáng ngạc nhiên ánh lên trong đôi mắt to đen.
Nam điềm đạm bảo vợ:
“Anh Thảo lên chơi với chúng mình. Em mở cửa cho sáng.
Cửa mở rồi mà gian phòng cũng không sáng được bao nhiêu. Chỉ
mới bớt tối đi thôi. Phảng phất trong cái nhờ nhờ một thứ không khí u uất. Cuộc
sống ở đây chứa đựng quá nhiều bóng tối rồi. Gian phòng không sáng nổi được nữa.
Tôi nhìn chung quanh. Bàn ghế, đồ đạc đứng lặng lẽ từng khối tĩnh vật chìm lặng.
Tôi nghĩ đến thứ ánh sáng của một niềm tin sáng chói, chưa được anh Nam đốt
cháy ở nơi này. Ánh sáng của một nụ cười. Của một đôi mắt. Phút giây này, tôi
đã thiết tha mong mỏi sự cháy đỏ của những dòng ánh sáng ấy, dù chỉ một chút ít
thôi. Thì ở đây sẽ đỡ tối hơn. Những sự vật bé mọn nhất ở nơi này hình như đều
phủ ngập dưới những tầng lớp băng tuyết, những trận mưa núi; những đợt sương rừng,
ánh sáng có bùng được lên không?
Tôi nhìn ra ngoài. Rừng núi ngớt mưa đang đi dần vào hoàng
hôn. Tối xám lan đi từng ngọn đồi. Hết ngọn này đến ngọn khác. Từng gốc cây. Hết
gốc này đến đến gốc khác. Cái tảng trời xanh phía đầu núi của tôi ban nãy cũng
đã nhoà đi rồi. Sao chưa kịp lên, đêm đã sâu thăm thẳm. Rồi tất cả những ngọn đồi,
những gốc cây đều không nhìn thấy nữa. Cửa mở thành một khung đen. Mắt tôi tối
lại. Nhìn Nam, bóng tối cũng ngập đầy trong mắt anh.
Sau bữa cơm, chị Nam pha cho chúng tôi hai tách cà phê.
Nhớ lại một hình ảnh đẹp cũ, tôi lên tiếng nhắc chị nhớ pha
cho thật đặc. Chị Nam quay lại mỉm cười:
“Tôi nhớ rồi, anh chẳng phải dặn. Lần nào gặp nhau mà các anh
không uống cà phê đặc, rồi thức suốt đêm. Cà phê của các anh không phải là cà
phê nữa. Thuốc bắc thì đúng hơn”.
Tôi mỉm cười nhìn Nam. Chúng tôi cùng sống lại những đêm cũ.
Kỷ niệm. Gương mặt Nam đã tươi hơn một chút.
Chị Nam đặt hai ly cà phê vào cái khay nhỏ, lấy hộp thuốc lá
thơm, bưng tất cả đặt trên cái bàn thấp gần cửa sổ, đoạn chị kín đáo bỏ xuống
nhà dưới. Tôi nhìn theo chị Nam, yêu mến cái vẻ kín đáo của chị lúc đó. Tôi vừa
bắt gặp lại những nếp sống đặc biệt, tế nhị của người đàn bà Hà Nội. Một dáng
đi. Một cách ăn nói. Cái lối pha một tách cà phê đặc sánh. Chị vẫn giữ gìn được
nguyên vẹn cái duyên dáng ngày cũ, lúc chị còn là một người thiếu nữ ở Hàng
Đào. Chị không đổi thay. Mà chỉ có Nam đổi thay thôi.
Chị Nam bỏ xuống nhà dưới vì chị biết Nam và tôi có những câu
chuyện cần phải nói với nhau đêm nay. Đó cũng là một thói quen đã có giữa Nam với
tôi từ rất lâu. Đêm nay, tôi đã muốn sống lại với Nam những đêm chí tình cũ. Một
tách cà phê đặc. Một hộp thuốc lá. Để mà bàn định với nhau về những dự định của
đời sống. Nhưng đêm nay tôi thức với Nam để làm gì? Anh còn có những dự định gì
về đời sống? Tôi nhìn sang anh. Bên kia bàn. Nam chống tay lên cằm, nhìn xuống.
Giây phút yên lặng vời vợi khắc khoải. Điếu thuốc lá cháy trên tay anh, dòng
khói vật vờ khuất khúc. Khói thuốc ngừng lại trên nếp tóc rồi bồng bềnh. Những
đường gân hai bên hàm nổi lên một thoáng cử động chìm lặn. U uất. Tôi nghĩ thầm:
“Chỉ thấy mưa phùn và mây xám thôi. Chưa thấy nắng. Cũng chưa thấy trời xanh”.
Một lát Nam ngẩng lên hỏi tôi:
“Bạn hữu ở dưới ấy ra sao?”
“Cũng lúng túng cả”.
Tôi ngẫm nghĩ rồi nói tiếp:
“Nhưng họ đang cố gắng. Rồi sẽ được tốt đẹp như cũ”.
Nam đáp thờ ơ:
“Nhất định rồi”.
Con mắt anh nhìn tôi rồi nhìn ra ngoài. Cái nhìn hết sức thờ
ơ gửi vào đêm rừng mênh mông. Tôi biết Nam nói mà không nghĩ gì. Những ý nghĩ mất
nhiệt thành mất tin tưởng không còn là ý nghĩ nữa. Tôi đã muốn hét lên với anh
rằng nhất định rồi, nhất định rồi cuộc sống sẽ được tốt đẹp, nhất định như thế
bởi vì những người bạn anh ở dưới kia đang lăn mình vào cuộc chiến đấu để xây dựng
cho một ngày trở về, với tất cả niềm tin tưởng sắt đá của họ, với tất cả cái
năng lực sáng tạo của họ. Và chỉ anh là anh đã mất niềm tin thôi.
Nghĩ thế nào tôi lại thôi. Tôi nghĩ rằng Nam đang là một người
bệnh. Cho dẫu rằng anh chưa có quyền được vào bất cứ một bệnh viện nào. Nhưng
im lặng, tôi lại bất mãn. Bất mãn nhiều nhất về cái thái độ của anh. Con người
anh hôm nay đem đối chiếu với dĩ vãng, sau mâu thuẫn lại đậm đà đến thế. Tôi nhớ
đến dĩ vãng. Một thứ dĩ vãng gần gụi của anh, của chúng tôi:
Từ đầu mùa thu 1950 đến những ngày trước hiệp định chia đôi đất
nước. Nam ở hậu phương về Hà Nội. Dời bỏ hàng ngũ của những con người đã kìm
hãm, đã huỷ diệt cái năng lực sáng tạo của anh, về tới Hà Nội anh bắt tay ngay
vào việc. Tôi đã sống gần Nam những ngày tháng sôi nổi mãnh liệt ấy, để mà đo
lường được thế nào là cái năng lực của con người sống vượt bực quyết tâm xây dựng
lại cơ sở. Từ hai bàn tay trắng Nam bắt đầu. Và cuộc sống của anh cứ thế chuyển
đi, như một hình ảnh mùa màng nườm nượp sinh thành trên tàn đổ. Anh sống không
ngừng không nghỉ. Dạo ấy, Nam vẫn luôn luôn bảo tôi:
“Thời gian gấp rút ghê lắm, Thảo ạ! Phải xây dựng được ngay một
cái gì cho chúng ta.”
Câu nói sôi nổi này, Nam đã đem gắn liền nó với hành động. Cứ
theo anh thôi, tôi cũng thấy mệt đến đứt hơi. Lối sống của anh thu thế kỷ vào một
năm, thu nghìn năm vào một phút. Anh làm bằng mười, bằng trăm người. Công cuộc
xây dựng cơ sở của anh ngày lại ngày thể hiện trong một nhịp điệu đều đặn. Trước
hết, Nam nhảy vào nghề thầu khoán. Đêm ngày anh lặn lội với lũ vật liệu, với
công nhân, với mưa nắng ngoài công trường. Chỉ trong một năm anh đã xây cất được
ba căn nhà mới nữa ở trung tâm thành phố. Ngân khoản gửi ngân hàng của anh lên
tới hàng triệu đồng.
Hết một năm anh vụt đổi nghề. Những đô thị tàn phá đã được
xây dựng lại gần hết trong thời gian này. Nghề thầu khoán không thích hợp nữa.
Đêm hôm ngồi uống cà phê với anh ở bàn giấy, kết toán lại
công việc để sửa soạn dự định mới, Nam cười bảo tôi:
“Thế là chúng mình đã kết thúc xong chương trình đầu tiên.
Bây giờ đến chương trình thứ hai. Tôi hẹn với anh ba năm. Sau đó, sẽ là cái
chương trình cuối cùng của tất cả chúng ta”.
Cái chương trình cuối cùng của chúng tôi là một sự tổ chức thật
đầy đủ, thật chu đáo cho đời sống vật chất và tinh thần của một số người gắn bó
với nhau qua một thứ duyên văn đậm đà nhất, cùng theo đuổi một lý tưởng trên
lãnh vực văn nghệ. Chúng tôi thật đông thật tin tưởng, nhưng chúng tôi sống lẻ
loi và thiếu thốn tất cả mọi phương tiện. Sống những ngày lênh đênh mưa nắng ở
hậu phương cộng sản, để chịu đựng đến ê chề sự chà đạp tin tưởng, sự kìm hãm
tinh thần, chúng tôi kẻ trước người sau đã dời bỏ thiên đường cộng sản trở về
Hà Nội.
Cuộc chiến tranh đau khổ lâu dài dạo đó đã là nguyên nhân
phát sinh một tâm trạng văn nghệ thật đen tối. Mặt trận văn nghệ mở ra từng
giai đoạn gay go. Kẻ thù mọc lên trùng điệp. Sa đoạ, đổ vỡ ghê gớm. Để xây dựng
lại tất cả, phải phá huỷ tất cả.
Hướng đi mới sáng chói trong nội tâm từng con người đã sống
nhiều thời gian đau đớn của thí nghiệm, của nhận đường. Lòng tin tưởng dư thừa.
Nhưng phương tiện ở đâu? Chúng tôi thiếu thốn tất cả. Một nhà xuất bản. Một nhà
in. Một nơi lui tới cho những buổi sinh hoạt tập thể. Cả đến những nhu cầu tối
thiểu hàng ngày. Một vài anh bạn đau tim đau phổi trầm trọng. Một vài người sốt
rét kinh niên, thứ rét rừng ghê gớm mang về từ những biên giới âm u miền ngoài.
Đôi khi lại một vài anh trút hơi thở cuối cùng trong một bệnh viện làm phúc.
Nam gặp lại tất cả chúng tôi vào thời kỳ đó.
Anh biết đến cảnh ngộ của chúng tôi. Nhiều đêm thức với anh,
tâm sự với anh về những cảnh huống đau buồn của bọn người cầm bút nghiêng ngả
điêu đứng vì những tác động vật chất, tôi đã cởi mở đến cái mực không giấu giếm
gì anh nữa.
Anh suy nghĩ, rồi anh bảo tôi:
“Chúng mình phải chấm dứt ngay cái tình trạng này. Các anh
không thể chết dần chết mòn trong những bệnh viện làm phúc được. Tôi sẽ thay
Chúa Giêsu làm một cái gì cho chúng ta”.
Sự quyết định của Nam, giữa một thời đại xa hoa ích kỷ, không
làm tôi ngạc nhiên. Một phần vì Nam là con người của những quyết định mau lẹ. Một
phần vì tôi biết Nam vẫn có lòng với văn nghệ từ lâu. Anh mến chúng tôi vì anh
biết chúng tôi đau khổ nhiều. Vì anh biết chúng tôi có niềm tin, nhưng không
bao giờ tạo nổi được những điều kiện vật chất cần yếu.
Nam bàn với chúng tôi như thế này:
“Tôi dự tính dựng một nhà in, một nhà xuất bản, có đủ hết máy
móc vật liệu để có thể ấn hành được tất cả những tác phẩm hữu ích. Sẽ có một
câu lạc bộ văn nghệ cho các anh nữa, với chỗ ăn chỗ ngủ chu đáo. Các anh phải
được nghỉ ngơi, được tĩnh dưỡng như tất cả mọi người. Các anh hãy giữ vững niềm
tin. Tôi sẽ thu xếp đầy đủ phương tiện cho các anh”.
Nam hành động sát thực tế. Anh biến dự định thành những con số.
Những con tính kỹ càng cho từng ngân khoản bé nhỏ một.
Anh kết toán:
“Phải có từ bốn đến năm triệu đồng”.
Anh cười nói đùa:
“Vì các anh đông lắm. Nhà văn lại sống dai nữa”.
Cuộc dự tính có tính chất vĩnh viễn được đặt trên một quy mô
rộng lớn chưa từng thấy. Dự định này thành được do sự nhiệt tâm của một người,
thì cả tập thể có thể vững lòng mà phục vụ bằng ngòi bút, bằng tư tưởng.
Nam bắt tay thực hiện chương trình này vào khoảng đầu mùa
xuân 1954. Anh bán phăng ba căn nhà, đem số tiền mua một biệt thự diện tích gần
ba mẫu ở ngoại ô thành phố. Sửa chữa lại, ba tháng sau thì xong. Còn hai căn nữa,
anh để một làm nhà in, một làm toà soạn. Tiền gửi ngân hàng, anh rút ra hết, gửi
tất cả sang Âu châu mua máy in.
Công cuộc tiến hành tuần tự tốt đẹp.
Nhưng có một điều mà Nam không tính đến: Sự biến chuyển của
thời cuộc. Cho đến bây giờ, những phút ngồi ôn lại đến cái dự định cao đẹp kia
đã đổ vỡ không phải vì chúng tôi, càng không phải vì Nam, tôi vẫn không hiểu tại
sao Nam không chịu lưu tâm đến những yếu tố ngoại cảnh. Vậy mà ngoại cảnh trong
không gian Bắc Việt và trong thời gian 1954 lại như đập thẳng vào mắt. Suy nghĩ
nhiều rồi, tôi mới cảm thấy quý mến anh, sự quý mến gửi đến một con người dám
xây dựng những sự kiện trường cửu ngay giữa mùa dông bão.
Được xây dựng là đủ, còn mặc kệ dông bão. Không tính đến
thành bại.
Dông bão đổ ập tới: Tháng sau, thất thủ Điện Biên Phủ. Tháng
Bảy, chúng nó ký kết với nhau hiệp định Genève. Miền Bắc rơi vào tay cộng sản.
Hà Nội sống những ngày vực thẳm. Cái chương trình của Nam, của chúng tôi đổ vỡ
theo. Hà Nội sống nốt 100 ngày tự do cuối cùng. Không may cho chúng tôi, lúc đó
Nam lại vắng mặt ở Hà Nội vì một chuyến đi xa. Ở Hương Cảng về tới nơi, Nam bỗng
dưng đau nặng. Những chiếc máy in lớn gửi về từ Âu châu nằm ngổn ngang dưới nhà
in không có người ở. Đến khi Nam ra khỏi nhà thương, thì cái thời hạn 100 ngày
cũng gần chấm dứt. Anh không kịp thu xếp gì cả. Mà hình như anh cũng chẳng muốn
thu xếp nữa. Con người của những dự định lớn lao, có tất cả ngày hôm trước, mất
tất cả ngày hôm sau. Nam đi khỏi Hà Nội với hai bàn tay trắng. Như chúng tôi,
như phần lớn những người Hà Nội.
Nam đưa vợ con xuống Hải Phòng. Từ Hải Phòng vào Nam, anh đi
thẳng lên vùng Cao nguyên, trốn lánh bạn hữu, trốn lánh cuộc sống, trốn lánh tất
cả.
Một năm rồi.
Tôi mới lại được gặp anh ở đây.
Cuộc chiến đấu cho tự do cũng bắt đầu vừa chẵn một năm.
Đêm núi rừng mịt mùng bên ngoài. Tách cà phê đã nguội lạnh từ lâu. Những giây
phút yên lặng, thăm thẳm. Nam đưa tay gạt một tàn thuốc lả tả rụng xuống. Tôi
nghĩ đến anh. Đến bọn chúng tôi. Đến Hà Nội. Đến bọn cộng sản. Đến một ngày trở
về chưa tới. Đến một cuộc sống mới đã khởi đầu. Chúng tôi đã định khởi đầu cả rồi.
Hàng triệu người đã khởi đầu ở dưới kia, trên những miền đất nước bàng bạc sắc
thái tự do. Cuộc chiến đấu mới sôi nổi, gấp rút, người ta không có quyền đòi hỏi
phương tiện, đợi chờ cơ hội. Ở khắp nơi, những con người tự do đã hát lên. Đã
đi thẳng vào xây dựng, đến thẳng với kẻ thù. Trên những địa hạt văn nghệ, những
cây bút tự do đã kết tụ lại từng nhóm phục vụ chiến đấu. Giai đoạn sống còn này
nằm trong cái gấp rút, sôi nổi của hiện tại. Dĩ vãng chết thật rồi. Chúng ta đã
bỏ lại dĩ vãng cho kẻ thù ở bên kia. Trước tương lai chói loà, người ta không
có quyền được thương tiếc quá khứ nữa.
Đêm hôm đó, tôi đã nói được với Nam về những sắc thái bay múa
của cơ man nào là cuộc sống đang khởi đầu ấy. Tôi muốn nhìn thấy sự cháy đỏ
trong anh một ngọn lửa tin. Nhưng mà những sự kiện bé nhỏ nhất ở nơi này cũng đều
chìm ngập dưới những tầng lớp băng tuyết, lửa có cháy lên được không?
Hãy nghe Nam thủ thỉ:
“Tôi không thiết tha gì nữa, Thảo à! Sống cho qua ngày thôi.
Nhiều lúc tôi muốn xoá bỏ hết, muốn xuống núi, để bắt tay vào một cái gì với
các anh. Nhưng cũng không nổi nữa đấy. Tôi đã mất mát nhiều quá, tôi thua rồi.
Hành động trong một thời gian nghiêng ngả, con người phải vững lắm mới được.
Tôi nghĩ đến sự cố gắng của tôi ở Hà Nội trong 5 năm trời đằng đẵng. Tôi sống 5
năm bằng cả một đời. Bây giờ trắng tay vẫn hoàn trắng tay. Anh bảo tôi không thất
vọng sao được”.
“Vậy mà hàng triệu người như chúng ta đã không thất vọng mà
còn tin tưởng ghê lắm”.
Nam cười buồn:
“Tôi chưa thấy điều gì làm tôi tin tưởng được. Mất mát nhiều
như tôi, tin tưởng lại khó lắm”.
Tôi không trả lời Nam. Tôi biết anh mất mát nhiều. Nhưng tôi
còn biết anh đã mất mát ở ngay đây một cái gì to lớn hơn tất cả những mất mát của
anh ngoài Hà Nội. Nam đã đánh mất niềm tin. Rừng núi hoang vu buồn thảm ảnh hưởng
sâu nặng thêm mãi vào cái tâm trạng tàn lụi này.
Tôi nghĩ thầm: Nếu anh xuống núi. Phải rồi. Nếu anh xuống núi
để đến những thành phố, những làng xóm, những trung tâm định cư, những vùng bị
cộng sản tàn phá, những miền mới tiếp thu, để có những ấn tượng rực rỡ nhất về
cuộc phục sinh của đất nước, để tai nghe mắt thấy tại chỗ những lớp người đã
đau khổ, đã mất mát như anh, đang đặt những nền tảng đầu tiên cho đời sống tự
do.
Nếu Nam xuống núi để tiếp nhận những dòng đời đang xuôi chảy,
đang dâng lên. Những con suối nhỏ đang sống những đời đại dương. Những người đã
bỏ hàng trăm nóc nhà đến vùng tự do, sống tin yêu dưới một mái lều tạm trú. Thì
anh sẽ khám phá được điều này: Chúng ta giầu có hơn bao giờ. Vì chúng ta tự do.
Và những vùng trời của chúng ta không chỉ là những cơn mưa núi, những buổi chiều
tối xám, u uất, mà còn là những miền bình minh, những ngày chói nắng, những buổi
đầu mùa.
Tôi liền đề nghị với Nam:
“Từ ngày vào đây, chắc anh cũng chưa đi đến đâu. Anh thử đi
thăm các nơi một chuyến xem sao. Anh cần phải đi. Nằm mãi ở miền cao này, rồi
anh biến thành trăng sao mất. Tôi tin rằng cuộc sống của dân tộc hôm nay ở miền
tự do sẽ làm anh thay đổi thái độ. Không ít thì nhiều, nhưng thế nào cũng thay
đổi”.
Nam yên lặng không nói gì.
Đêm hôm đó, chúng tôi thức với nhau đến sáng.
Tôi từ giã vợ chồng anh buổi sớm hôm sau. Mưa núi đã tạnh hẳn.
Trên lối đi nhỏ, sương trắng bốc lên nghi ngút. Có tiếng chim rừng hót ở đầu
nhà. Vợ chồng anh đưa tôi ra ngoài đường cái. Tôi bỏ anh lại với rừng núi của
anh. Niềm tin tưởng cuối cùng trong tôi là một ngày nào sẽ có một chuyến đi vào
sâu giữa lòng đất nước, sẽ gửi trả Nam cho chúng tôi…
Lần gặp Nam ở cao nguyên đến nay đã được một tháng.
Bỗng một hôm, tôi nhận được thư anh. Tôi mừng vô tả. Trong
thư, Nam báo tin cho tôi, ít ngày sau hôm tôi về, vợ chồng anh đã bắt đầu một
chuyến đi trên khắp các vùng bên này vĩ tuyến 17. Anh đã đến các vùng mới tiếp
thu. Anh đã đi thăm những vùng bị tàn phá nhất. Anh đã đến các trung tâm định
cư. Anh đã gặp những bạn hữu cũ. Và anh đã được biết thế nào là cái lực lượng
phục hồi vĩ đại của dân tộc, cùng là cái năng lực của người tự do trong cuộc sống.
Đây là một đoạn ở cuối thư:
“Cứ nằm mãi ở những miền rừng núi hẻo lánh, nằm mãi trong một
thứ thạch động cách biệt, người ta có thể quên cả cuộc sống, quên cả chính mình
nữa. Thảo ạ! Tôi đã sống một năm thương nhớ dĩ vãng, đau xót với những mất mát
cũ, tôi không sống được gì cả. Nguy quá. Tôi vừa đi thăm nhiều nơi về. Đâu đâu,
tôi cũng gặp những con người bừng bừng tin tưởng, và hăm hở xây dựng. Trong
tôi, ngọn lửa tin mà tôi tưởng nguội lạnh hẳn, những người bạn đường hôm nay đã
đốt nó cháy lên. Tôi muốn sống. Tôi muốn hành động. Tôi không thể tưởng tượng
được rằng những lớp người đã mất mát đã đau khổ như chúng ta, hơn chúng ta, lại
có thể sống mãnh liệt được như thế. Nhưng sự thật như thế. Tôi sẽ bỏ rừng núi.
Tôi sẽ xuống đồng bằng đây. Hẹn gặp tất cả các anh. Chưa có dự định gì, nhưng
hành động đã. Mà lần này thì chắc không thể nào tan vỡ được nữa…”.
Bức thư của Nam chưa nói hết được với tôi về sự chuyển hướng
lớn lao anh. Nhưng tôi biết chắc chắn được điều này, Nam đã trở lại đời sống.
Nam đã trở về với chúng tôi rồi. Nam đã ra khỏi bệnh viện, ra khỏi dĩ vãng rồi.
Nghĩ đến tập thể đông đảo sẽ có thêm anh, tôi vui đến cái độ có thể hò hét
toang oang lên. Bọn cộng sản có thể chiếm đất đai của chúng ta, nhưng chúng
không thể cướp được con người của chúng ta. Chúng có thể đánh ngã chúng ta
trong một phút, nhưng rồi chúng ta lại vùng dậy. Sự vùng dậy của Nam là một
trong muôn triệu.
Tôi còn biết chắc chắn được điều này nữa:
Cuộc sống của dân tộc hôm nay có một sức tác động mãnh liệt
mà kẻ thù đã nhầm và chính chúng cũng không ngờ tới. Như một con bệnh, một ngày
đến những miền đất nước tự do, cái không khí lành khoẻ của tập thể đã giúp Nam
sống lại. Nhiều người như Nam nữa. Đau khổ mất mát nhiều nhưng vẫn tin tưởng thắm
thiết. Vẫn đấu tranh mãnh liệt.
Tôi gập thư lại. Tôi nghĩ đến Nam, những người như Nam, thức
dậy trong những lớp chiếu chăn dĩ vãng ẩm mục, đang tấp nập xuống núi. Bỏ những
ngọn núi cô lẻ, những thạch động ớn lạnh, họ đang xuống những miền đồng bằng của
tự do. Họ sẽ sống lại trong lòng đất nước, trong lòng tự do. Họ sẽ chiến đấu để
bảo vệ đất nước, bảo vệ tự do.
Tôi nhớ đến đường vai gầy của Nam. Đến vùng trời của Nam.
Nơi ấy chắc đã có nắng. Như ở đây.
Đoản văn
Một chiều qua Cửu Long
Tôi thức giấc vì một tiếng động nhỏ nhẹ. Trong đêm tối.
Trước mặt tôi là Cửu Long. Tiếng động dâng lên từ phía ấy.
Thêm một tiếng động nữa. Rồi những âm thanh khởi đầu lẻ tẻ trở nên một sự xao động
rì rào.
Buổi chợ đêm đã bắt đầu dâng lên. Phải rồi, đang dâng lên.
Xanh biếc phảng phất. Chợ đi dần thành những bước thuỷ triều. Tôi chống tay ngồi
dậy đón nhận những tiếng sóng đi và những tiếng thuyền đi. Một lát, rồi những
âm thanh rõ rệt ấy cũng không thể phân định được nữa. Chỉ còn là Cửu Long đang
bát ngát dâng lên, Long Xuyên đổ về, Châu Đốc đổ về. Miền xa về họp chợ đi toàn
bằng những bước đi của Cửu Long.
Khúc này là ngã ba sông Sao. Mỹ Tho ở phía tay trái cho tôi một
hình ảnh nữa của phương hướng rộng thẳng. Đêm về sáng thoáng mát. Tôi tiếp nhận
thêm một cảm xúc thoải mái xuôi dòng giữa sự dồn đổ trùng điệp rộng lớn. Trên bờ,
cái bến Vàm Cống bé nhỏ cũng đã thức dậy như tôi.
Chợ họp rồi. Đèn lửa thấp thoáng. Ghe thuyền lũ lượt xuôi về.
Từ bên kia vượt sang. Từ phía dưới đổ lên. Từ trên trườn xuống.
Một người đi sát qua tôi, xuống bến. Tôi ngồi dậy.
Anh bảo tôi.
“Chợ họp rồi đấy. Chẳng ngủ được nữa đâu. Anh xuống bến đón
thuyền về cho vui”.
Tôi gập chăn đệm – Cửu Long lạnh – gấp lại ghế bố, đi theo
anh xuống sát mặt nước. Chỗ này, người ta đã đốt lửa thật sáng đón thuyền về.
Những chiếc đầu đoàn đã ghé bến. Có tiếng hỏi:
“Nhiều không?”
Dưới nước đáp lên:
“Nhiều”.
“Gì thế?”
“Toàn trê thôi”.
Tôi sán lại, nhìn xuống một lòng ghe nhỏ thấp thoáng dưới ánh
đuốc cháy. Cả lòng khoang đầy nước. Mặt nước sóng sánh ánh lửa. Nhiều sóng quá.
Nhiều sóng quá. Những ngọn sóng của ngã ba, của giữa dòng về tới lòng thuyền rồi
mà vẫn chảy lênh láng. Hình như nước vẫn còn sóng. Và những con sóng vẫn còn chảy.
Mỗi khoang vẫn còn là một đời Cửu Long.
Một người đứng cầm gầu đang tát nước ra khỏi ghe. Tiếng nước
đổ trả lại sông lớn, oà vỡ giữa hai bờ ghe đậu sát liền rồi tan đi. Nước lại trả
về cho Cửu Long rồi. Tôi có cảm tưởng như chúng vừa được trả về tự do.
Khối nước vợi đi, những con cá bắt đầu hiện ra. Chúng nhiều
vô kể và còn tươi nguyên. Tôi nghĩ rằng ở những đáy nước ngoài sông lớn, chúng
cũng chỉ tươi khoẻ được đến như thế. Tôi cúi xuống vớt lấy một con trê nhỏ. Con
cá nằm gọn trong lòng tay tôi, rồi tuột đi. Một tiếng quẫy mạnh. Tôi buông tay,
nhìn xuống khoang ghe lắc lư nhè nhẹ theo triều sóng đập bờ. Nước vời vợi ánh
sáng và bóng tối. Tôi nhìn xuống bầy cá. Chúng là một sự kiện đông đặc đang trườn
lên, đang lách đi, đang chìm chìm nổi nổi.
Bây giờ thì cả đoàn thuyền đã trở về.
Lửa bến cháy thành hàng nghi ngút. Chợ đêm không rõ người mà
chỉ đầy đặc những hình bóng. Tôi sống một cảm giác lẫn lộn. Sự lẫn lộn của một
buổi chợ, của đám đông, của đất liền kề sát nước biếc. Bước chân tôi nhoà lẫn
tiếng sóng đập. Cửu Long về trong tôi.
Tôi nhìn lên những vì sao. Chúng đổ xuống lòng nước thành những
mảnh lân tinh nhỏ. Một vì sao đổ, những con thuyền tròng trành, tiếng sóng tiếng
nước, những bầy cá tươi sống, tất cả âm thanh mầu sắc của buổi chợ đêm từ ngoài
sông lớn dâng lên, vây lấy tôi.
Tôi đang sống đời sống của Cửu Long.
Bây giờ thì tất cả đoàn thuyền đang nhất loạt đổ cá lên bờ.
Chợ vui lên đất thành hội. Từ lòng thuyền, cá đổ lên những thùng lớn. Nhiều vô
kể. Trê, rô, bống, lươn, chan hoà trên khắp bến nhỏ. Dưới thuyền, trong thùng,
trên những bàn tay, dưới đất, đâu đâu cũng chỉ là cá. Lớn, nhỏ, dài, ngắn đủ thứ.
Nhiều con bị bỏ quên. Nhiều con bị giẫm lên.
Tôi lại gần một người đàn bà. Chị đang dọn cá.
Tôi bắt chuyện:
“Nhiều cá quá chị nhỉ?”
Chị nhìn tôi cười nói:
“Chuyện, đang mùa mà! Thế này là ít đấy chứ. So với mọi năm,
đã thấm tháp gì đâu anh. Tháng sau, số cá về còn gấp đôi gấp ba nữa”.
Tôi ngẩn người. Mùa. Những bầy cá. Mùa. Tôi nghĩ đến những
bông lúa. Ở đâu, mùa cũng dâng lên, những con cá bông lúa đầy ắp nườm nượp. Tôi
nhìn ra dòng Cửu Long đen thẳm mênh mông. Trong tôi, dòng sông hiến dâng kia biến
thành một vệt sáng chói, trong suốt. Lòng tôi lắng đọng dần trong một ý niệm về
mùa. Thì ra con sông đàn anh này không chỉ là một vệt nước chảy, không chỉ là một
khoảng biếc, không chỉ là một dòng sông. Đời Cửu Long còn là đời đất liền nữa.
Hàng năm, chợ họp đêm trong ánh đuốc lửa và những con cá vớt khỏi lòng sông lớn
đã là những nhánh lúa Cửu Long của một mùa Nam Việt phong phú như chưa từng thấy.
Con sông là mùa cho những bến bờ là chợ. Cho những buổi chợ là hội.
Tôi đón nhận thêm một cảm giác tin tưởng nữa.
Người đàn bà còn đứng ở chỗ cũ. Tôi đến hỏi chuyện. Chị cho
tôi biết thêm là năm nào mùa cá cũng khởi đầu từ tháng sau, tháng Bảy. Mãi đến
tháng Tư, tháng Năm mới hết. Tháng Giêng tháng Hai là giữa mùa.
Chị cười:
“Giữa mùa thì chả có sức mà đánh lưới anh ạ? Đánh một phần cá
nở ra gấp hai gấp ba. Hôm trước về nửa thuyền thì hôm sau về đầy thuyền. Cứ là
mệt đưa đi các nơi”.
Tôi chỉ tay bảo chị:
“Chợ đêm đông ghê”.
Chị trề môi:
“Đông ma gì. Mới đầu mùa mà! Cá chưa đủ tháng. Chúng tôi đánh
lưới cầm chừng thôi. Đợi cho cá đủ tháng, vừa được nhiều, cá lại khoẻ mới đưa
đi xa được.
Tôi bỏ chị, đi xuống bờ sông. Chợ thưa vắng dần. Đoàn ghe nằm
im lìm. Từ mặt Cửu Long hắt tới những tiếng sàn sàn nhẹ nhẹ. Tôi nhìn xa xa. Cửu
Long chảy trước mặt tôi. Bên kia là Long Xuyên. Phía dưới là Châu Đốc. Tôi nhìn
về mạn Mỹ Tho. Tôi đứng giữa nhiều ngả đường đất nước. Dòng sông lớn đen đặc
bát ngát. Những vì sao lác đác đổ xuống. Bóng sao, bóng nước thấp thoáng. Tôi
nghe thấy những tiếng động thầm. Những tiếng động nhỏ của những đời sống mãnh
liệt. Tôi đang sống với xuôi băng với thao thao. Có những dòng suối. Có những đời
đại dương nữa. Có những buổi chợ đất nước.
Đêm hôm đó, chợ tàn rồi, tôi còn thao thức đến sáng. Dòng Cửu
Long hiện lên trước mắt tôi như một ngả đường. Tôi nghĩ đến một ngả đường cũ.
Chúng nó đã cướp được. Tôi nhớ đến Hồng Hà. Tôi nhìn Cửu Long. Chúng nó chưa cướp
được. Chúng nó sẽ không bao giờ cướp được. Từ Cửu Long, chúng tôi sẽ về đánh
chiếm lại Hồng Hà. Để những buổi chợ đất nước lại được mở thành hội ở hai bờ
sông.
Đêm Cửu Long tôi đã có được niềm tin của Hồng Hà.
Tôi nhìn lên. Trời sáng rồi. Chợ Cửu Long tàn dần trong bình
minh.
Vàm Cống, 12-1954
Người hàng xóm
Đã hơn một tuần nay, kể từ hôm cái gia đình người Hà Nội dọn
đến ở cùng ngõ, chị Sáu Nết không lúc nào là không hết bực mình. Cái gia đình
di cư này đông lắm. Nhớn, bé, già, trẻ cả thẩy hơn một chục đầu người. Đã thế,
lại lắm trẻ con.
Ngày đêm, tiếng lũ trẻ đùa nghịch, kêu khóc, cứ ầm ỷ vang vọng
suốt từ đầu ngỏ đến cuối ngõ. Nhà chị Sáu Nết lại ở sát vách, hai nhà cách nhau
vỏn vẹn có một lớp gỗ mỏng teo, thành ra bên này nói gì, làm gì bên kia cứ nghe
cứ thấy rõ mồn một. Ban dêm những đứa trẻ nhỏ không ngủ, thi nhau quấy khóc dữ
dội, chị Sáu chả tài nào chớp mắt được lấy một lát. Nhiều đêm, chị cứ đành nằm
trong bóng tối mà nghe đủ mọi thử tiếng con nít hờn quấy từ bên cạnh vọng sang.
Trong đêm dài êm lặng, tiếng lũ trẻ lải nhải khóc dai, tiếng người mẹ còn ngái
ngủ ru ạ ời, tiếng người thức giấc cằn nhằn, tiếng đồ đạc va chạm đổ vở, âm
thanh cứ đổ dồn cả xuống giấc ngủ của chị Sáu Nết và nỗi bực dọc của người đàn
bà Miền Nam cứ thế mà kéo dài cho đến ngày hôm sau.
Cả những buổi trưa, sự ầm ỹ của cái gia đình miền Bác ấy cũng
khổng chịu giảm sút. Đám con nít hình như không bao giờ chịu im tiếng hoặc ngồi
im một chỗ. Thằng nhớn thằng bé hò nhau đùa như quỷ sứ. Chúng đóng cửa, mở cứa
thình thình. Chúng đuổi nhau trên sàn gỗ, làm rung chuyển cả lũ bàn ghế đồ đạc
bên nhà chị Sáu.
Trẻ con thế, người lớn cũng không hơn gì. Mụ vợ đánh mắng con
cái, than phiền nhà cửa chật chột, kêu ca hết cái này đến cái khác, chả có lúc
nào ngơi miệng. Anh chồng so ra ít điều tiếng hơn, nhưng lại khách khứa nườm nượp
suốt ngày. Bọn này chưa đi đã thấy bọn khác kéo đến. Toàn là những dân Bắc mới
di cư vào Nam. Gặp nhau là họ chuyện ồn ào lên. Hỏi thăm nhau hết người sống đến
người chết, giây cà ra giây muống hết chuyện xa đến chuyện gần. Chị Sáu ngồi một
mình, lắm lúc đã phải tự hỏi không hiểu sao cái lớp người đã điêu đứng vì di
chuyển mà vào tới đây họ vẫn còn lắm chuyện đến thế. Người ngoài Bắc, theo chị
Sáu thật lắm điều lắm nhời. Động gặp nhau, là họ nói huyên thuyên. Thôi thì đủ
thứ chuyện. Chuyện bỏ làng xóm kéo nhau về Trạm Hẹn. Chuyện đi đương từ Hà Nội
vào Nam. Chuyện thuê mướn nhà cửa. Chuyện thức ăn thức uống. Chê bai, phê bình
điều này điều khác, cả đến những tiếng chị Sáu nói hàng ngày, họ cũng kháo
nhau, bắt chước rồi cười phá lên. Mụ vợ anh hàng xóm cười to nhất. Mỗi lần ả cười
sặc sụa là mỗi lần chi Sáu tức điên lên. Một buổi, chị Sáu Nết ngồi bên này đã
nghe lỏm được một mẩu chuyện của bọn người tản cư này.
Một người nói :
- Từ ngày vào trong này, tôi buồn quá hai bác ạ ! Lúc nào
cũng thấy nhớ Hà Nội. Nhớ ghê gớm.
Tiêng mụ đàn bà trả lời :
- Vâng, chúng tôi cũng thế đấy ! Bác tính đất nước rộng lớn,
nhưng có đâu được bằng Hà Nội. Trong này, tiếng thế nhưng sô bồ đông đúc ăn ở
có ra làm sao đâu. Bác xem vợ chồng chúng tôi với lũ các cháu phải chen chúc khốn
khổ thế này mà tiền sang nhà vừa hết cả vốn liếng. Chẵn sáu chục ngàn đấy. Nhà
mới chả cửa. Ngữ này mà ở ngoài Bắc thì chỉ một trận gió cũng thổi bay đi.
Câu chuyện chỉ có thế, nhưng cũng đủ làm chị Sáu Nết tức hộc
lên. Cái cá tính địa phương đã nỗi dậy trong lòng chị. Chị lẩm bẩm tức tối :
- Hừ ! đã biết chật thế, còn kéo nhau vào đây làm gì chứ ? Hà
Nội với chả Hà Nội. Sao cứ không ở Hà Nội nữa đi có được không ?
Nhiều lý do khác làm tăng mối ác cảm ngấm ngầm đã đột khởi
trong lòng chị Sáu Nết như một mớ lửa đổ thêm dầu. Mối ác cảm với lớp người
phương xa cứ tăng dần mãi, ngày lại ngày. Lâu dần, bất cứ cái gì của cái gia
đình hàng xóm này cũng làm chị Sáu tức giận. Lòng chị trở nên thiên tư khi đã
chứa đựng quá nhiều thành kiến. Chị không cần biết đến những biến chuyển ghê gớm
của thời cuộc. Chị cũng không cần biết đến nguyên nhân đã thúc đẩy hàng trăm
nghìn đồng bào miền Bắc vượt sông dài bể rộng tới đây. Chị Sáu chưa biết thế
nào là cái không khí tự do và thế nào là những vĩ tuyến tù đày. Những nhận sét
của chị là ở cuộc sống hàng ngày. Từ ngày dân Bắc lũ lượt kéo vào như nước chảy,
gạo nước củi đuốc lên giá đùng đùng. Bà con chị Sáu kêu ca rằng từ ngày dân Bắc
Việt đổ vào, mần ăn đâm ra khó khăn quá xá.
Riêng chị Sáu, chị còn phải chịu đựng cái gia đình hàng xóm
này nữa. Thành kiến bén rễ, khơi rộng thêm niềm ác cảm bền chặt.
Nhưng trên những nguyên nhân hiện tại của sự ác cảm này, còn
có một duyên cở đã sẵn có từ ngày xưa.
Ngày xưa, cách đây đã mười năm, chị Sáu Nết đã ra ở Hà Nội.
X
Chuyện cũ như thế này : Mười năm trước đây chị Sáu lấy một
người Hà Nội vào làm việc ở Sài Gòn. Sau ngày cưới ít lâu, chồng chị lại phải đổi
về Bắc. Chị theo chồng ra Hà Nội. Thuở xa xôi ấy, chi Sáu Nết là một người thiếu
nữ trẻ đẹp, và lòng chị cởi mở, yêu thương, còn chứa chan những tình cảm tốt đẹp
nhất gửi cho cuộc đời. Trên tình yêu bao la gửi vào cuộc sống đương hoa còn là
mối tình đầu tiên chị đem gửi gấm cho người chồng đất Bắc. Và qua tình yêu chồng,
có cả tình yêu miền Bắc xa lạ và thành phố Hà Nội mà chị Sáu đã chọn làm nơi
quê hương thứ hai của mình. Ông già bà già chị Sáu không ưng thuận về cuộc hôn
nhân đã có bởi một tình yêu mãnh liệt này. Lấy người công chức Hà Nội, chị Sáu
đã từ hôn trong những giờ phút cuối cùng với một người điền chủ triệu phú ở
vùng Bắc Liêu. Sự từ hôn, để đi theo tiếng gọi của trái tim từ đó đã là cái hố
sâu ngăn chia chị Sáu với gia đình chị, ngăn chia vĩnh viễn. Chị Sáu lìa bỏ quê
hương theo chồng ra Bắc đã không bao giờ được ông già bà già chị tha thứ.Gia
đình không nhìn nhận chị nữa,coi chị như một đứa con hoang đã hư hỏng đã lầm đường,
và căm đoan chị không được trở về.
Chị Sáu Nết bỏ nhà, theo chồng ra Hà Nội, cũng không được hưởng
những ngày hạnh phúc lâu dài. Tình yêu của người đàn ông dẫu sao cũng không làm
mất được nỗi nhớ thương của ngươi đàn bà miền Nam nơi quê người sớm chiều gửi
lòng về một xóm dừa, một trái sầu riêng, những suối nắng chan hòa của Tiền
Giang Lục Tỉnh. Chị Sáu lại không hợp vơi thủy thổ ngoài Bắc. Một năm sau, chồng
chị lại phải đổi từ Hà Nội lên mãi mạn ngược. Chị Sáu rời Hà Nội lên một vùng
núi rừng hoang vu, sương muối, gió bấc lạnh buốt. Không chịu được lạnh, chị Sáu
mắc bệnh ho.
Bây giờ và cho đến suốt đời, chị Sáu nhớ mãi những ngày tháng
lưu trú ở cái tỉnh lẻ miền thượng du Bắc Việt ấy. Nó buồn và dài vô cùng. Bây
giờ, đôi khi trời trở lạnh, chị Sáu thúng thắng ho, là chị lại nhớ đến những
ngày buồn thảm nơi quê chồng. Hình ảnh kỷ niệm cứ nhắc nhớ đến những bất hạnh
khác. Chồng chị lâm bệnh rồi bỏ mình luôn ở miền đó. Một thân một mình chị khóc
lóc thảm thiết. Chị trở về Hà Nội vói vành khăn tang trên đầu, và với sự tan vỡ
trong tâm hồn. Chồng chị mất đi, cái cầu bắc nối chị với họ hàng nhà chồng cũng
mất theo. Những gắn bó của người nàng dâu miền Nam với gia đình nhà chồng vốn
đã mong manh, đến đó đứt hẳn. Người đàn bà góa bụa bối rối trước những tập quán
phong tục cổ truyền miền Bắc. Đạo sống người nàng dâu trong một gia đình cổ
xưa, những ngày giỗ tết, những sự khắc nghiệt của cô chủ nhà chồng cũng là nổi
quạnh hiu của người đàn bà thiệt phận, bấy nhiêu thứ dồn đổ xuống cuộc đời xấu
số của chị Sáu, làm cho chị trở nên một người lúc nào cũng như hờn oán với tất
cả, với chung quanh.
Mùa thu đất Bắc không đẹp nữa.
Hồ Gươm, vườn Bách Thảo, danh lam thắng cảnh miền Bắc chỉ nhắc
cho chị những kỷ niệm đau đớn.
Chưa đoạn tang chồng, chị đã lên đường về Nam. Mười năm qua
đi. Nhưng ở đời người đàn bà cuộc tình duyên xấu số đã gây ra cái tình trạng đổ
vở không thể nào cứu vãn được nữa. Chị Sáu Nết trở về chân trời cũ nhưng con đường
cũ đã nhòa nhạt dấu vết từ lâu. Hoa cỏ ở đó đã tàn hương. Gia đình chị vẫn
không chịu tha thứ cho cái lỗi lầm thuở xưa. Người con mười năm trở về, như buổi
ra đi, vẫn không được đón nhận.
Còn một ít vốn liếng của chồng để lại, chị Sáu Nết thuê một
căn nhà nhỏ trong một ngỏ hẻm vùng ngoại ô Sài Gòn.
Những ngày tẻ nhạt bắt đầu. Tâm tính chị cũng đổi khác. Chị lầm
lỳ cả ngày. Trên gương mặt lặng lờ lúc nào cũng phảng phất một vẽ gì xa xôi u uất.
Người trong ngõ qua lại trước căn nhà cửa ngõ đóng kín, chứa đựng cái tâm sự buồn
thảm của người đàn bà từ lâu không biết vui cười nữa.
Ngày lại ngày, niềm ác cảm với một ký ức xa khuất cử xâu nặng
thêm mãi.
Nó cháy bùng lớn khi những người hàng xóm mới đến lại là một
gia đình miền Bắc di cư.
Bỗng một hôm, chị Sáu không hề chờ đợi tới, người đàn ông
sang chơi. Lúc ấy vào buổi trưa. Chị Sáu Nết đang nằm nghỉ trền giường, có tiếng
gõ cửa. Người đàn ông bước vào. Cứ trông y, chị Sáu cũng biết ngay y là người
Hà Nội. Chị nghĩ thầm thật nhanh : cũng cái dáng điệu khiêm tốn, cũng cái lối
đi đứng nhã nhặn... Trong một thoáng rất ngắn, chị Sáu chợt nhớ đến một người
Hà nội khác. Chị nhớ đến mười năm về cũ. Đến người chồng xấu số đã mất. Kỹ niệm
miền Bắc lũ lượt dồn về. Chị Sáu thấy nhoi lên trong tim.
Thấy chị đang nằm vội vã ngồi dậy búi lại tóc, người đàn ông
ngả mũ xin lỗi :
- Tôi không biết cô Hai đang nằm nghỉ. Tôi xin lỗi cô Hai.
Chị Sáu Nết chỉ ghế mời người hàng xóm của chị ngồi, chị đáp
ngắn :
- Dạ.
Chị không biết nói gì. Ác cảm vẫn còn. Câu chuyện bắt đầu khô
khan. Bóng tối của gian phòng phủ xuống sự yên lặng của hai người. Gã đàn ông
trong khi chờ đợi nối lại câu chuyện vừa bắt nguồn đã đứt quãng vì sự im lặng của
chị Sáu Nết cũng thừa hiểu rằng người đàn bà miền Nam này đã bực bội nhiều lắm
với cái gia đình đông con của anh. Ngay sau khi đến ở chung ngõ, anh hỏi thăm
những người gần nhà, cũng đã biết được một phần nào cái dĩ vãng đau buồn của chị
Sáu, cuộc tình duyên không may mắn của chị cũng là những tháng ngày ngoài Bắc
đau thương. Để lòng chị từ đó đã khép kín lại với mối ác cảm thầm kín.
- Cô Hai à ! Chúng tôi mới ở Bắc di cư vào Nam. Thành ra gia
đình tôi lại có may mắn được ở gần cô Hai.
- Dạ.
- Chúng tôi đến đây vì tự do, hãy còn lạ nước lạ cái, cũng
chưa được quen biết ai.
- Dạ.
- Các cháu còn nhỏ tuổi, lại đau yếu vì chuyến vượt biên sóng
gió, chưa hợp thủy thổ, thành ra hư quấy lắm. Các cháu làm ồn chắc phiền bận cô
Hai nhiều. Mong cô Hai cũng thể tình cho người mới đến mà thứ lỗi cho.
- Dạ.
Chị Sáu ngồi lặng lẻ, để che dấu bối rối, chỉ biết đáp dạ. Tiếng
dạ của chị vắn gọn vô nghĩa. Nhưng từ chỗ sâu kín nhất của thâm tâm, những tình
cảm tươi mát đã bắt đầu nhen lên, phơi mở dần dần. Trên khuôn mặt lạnh lùng,
thoảng lên một rung động tươi tắn. Trước sự lễ độ của người phương xa, chị lấy
lại dáng ngồi, chăm chú nghe.
Những rung cảm đầu tiên nở lên trên một cách biệt vừa gục đỗ.
Người đàn ông dần dần kể đến những chuyện vừa sẩy ra ngoài Bắc. Những câu
chuyên mang nặng sắc thái của chiến thời, chứa đựng những đau sót, những mất
mát, và đảo lộn từng cuộc đời tối xám của người dân Miền Ngoài. Anh nói đến
chuyện đi của anh. Của những người bạn đường. Những chuyến đi về những chân trời
tự do. Anh nói đến những trường hợp của lớp người còn phải ở lại bây giờ nằm dưới
bàn tay Cộng sản.
Để được sống tự do, hàng triệu con người như anh đã vất bỏ tất
cả ở bên kia để tìm về xây dựng lại tất cả ở bên này vĩ tuyến.
Chị Sáu Nết nghe chuyện mà lòng chị cứ lắng đọng mãi xuống.
Khuôn mặt trầm lặng của chị là một niềm tư lường ngậm ngùi. Lâu lắm, những ý
nghi gửi về đất Bắc mới lại chứa dựng ít nhiều yêu mến sót thương. Chị Sáu nhớ
lần lần về một đoạn đời hoa bướm cũ, đến những dặm dường lênh đênh nơi quê chồng,
ở đó dù sao chị cũng đã sống những ngày thần tiên nhất của một đời người. Ngày
xưa, chị lìa bỏ quê hương đi theo tiếng gọi của tình yêu, thì hôm nay, hàng vạn
con người đã lìa bỏ quê hương để đi tìm những chân trời của Tự Do. Chị Sáu Nết
bắt đầu nhìn thấy qua những hình ảnh phơi phới, bay múa, cái cao đẹp của những
chuyến đi thời đại này.
Chị ngó người đàn ông nghĩ thầm :
- Vậy mà họ vẫn vui vẫn tươi mới kỳ chứ !
Giá chị, chị đã khóc hết nước mắt. Chị nhìn vào những cuộc sống
anh dũng này, không thấy ánh lên một điềm hờn oán nào. Thật là những con người
của xây dựng của tin tưởng. Miền Nam đất nước hôm nay đang đón nhận hàng nghìn
hàng vạn con người như vậy. Họ lìa bỏ nhà cửa rộng rãi, ruộng vườn thênh thang
để đến đất mới, sống những ngày khởi đầu chật vật chen chúc dưới những mái lều
tạm trú, chịu đựng thiếu thốn, vậy mà hai bàn tay trắng của họ, cuộc đời họ lại
giàu có lành mạnh hơn đời chị Sáu nhiều. Trong gian khổ, cuộc di chuyển sáng
chói, hướng dẫn lối đi cho cái tập thể vĩ đại nhất là dân tộc. Có con đường nào
đẹp hơn ngã đường tự do ?
Thế mà chị Sáu đã tiếp nhận họ như thế nào ? Chị đã bực bội,
chị đã khó chịu về những điều hết sức là bé nhỏ là vụn vặt. Về một tiếng trẻ
khóc. Về một đêm không ngủ được. Về một sự đắt đỏ. Về một sự ồn ào. Chị chợt thấy
rằng những thành kiến củ đã làm cho sự phản đoán của chị sai lạc xuốt bấy lâu.
Về cái gia đình mới đến. Về những người tỵ nạn. Về toàn thể cuộc đời. Sự khép
đóng nào cũng là những thứ biên giới lẻ loi cách biệt. Biên giới đã đổ gục.
Tình yêu thương chan hòa dâng lên.
Từ tình thương yêu vừa được gây lại này, cái gia đình di cư
đã được chị Sáu đón nhận.
Đưa tiễn người hàng xóm mới ra khỏi cửa, chỉ Sáu quay trở
vào, mở rộng những cửa đóng kín. Ánh sáng lùa đầy vào gian buồng, chảy tới những
miền bóng tối vừa tan loãng. Ánh sáng đựng đầy mắt chị. Chị nghiêng đầu nghe từ
bên cạnh vọng sang tiếng con nít hờn quấy. Chị không thấy bực bội nữa. Nóng bức
thế này, chúng không hờn quấy sao được. Chi thấy vui vui. Từ hôm đó, trong cái
ngõ hẹp ở miền ngoại ô thành phố, người đàn bà miền Xam ngày ngày ra ngồi bực cửa
nhìn một lũ trẻ nhỏ đùa nghịch, đã nhận cái gia đình hàng xóm đông con kia vào
cuộc sống mới của mình.
Trên những ngả đường
không oán thù
Tại sao Hoàng dừng lại ?
Có một cái gì đột ngột vừa dâng lên trong anh ?
Hay cái ý định dừng lại đã có từng ban nẫy, từ đầu ngõ, từ
nhà anh, ngay từ ngày anh đặt chân xuống đất tự do này ?
Hoàng không hiểu nữa. Anh cau mặt, không muốn đi xâu vào cái
trạng thái mới mẻ vừa lên hình. Nhưng anh đã dừng chân rồi. Ở đây. Trong ngõ hẻm.
Hoàng cúi xuống nhận đường, nhất định cứ bước thêm một bước nữa. Theo kinh nghiệm
đi lại của những ngõ hẻm lầy lội ,Hoàng chọn một khoảng đất tối hơn. Nhưng cái
khoảng tối vẫn cứ nhòa nhòa đen đặc trước mắt. Chân người không đặt lên. Chân
Hoàng không hao giờ đi lên. Trong anh, một tâm trạng bình yên bắt đầu lan đi
như một vết dầu loang. Xuống tới những đầu ngón chân thì cái bước định đi đã tê
bại hẳn. Tự nhiên thế. Như một tòa máy đang chạy, hết lửa đứng lại. Rồi Hoàng
thấy mát lắm. Mát từ bên trong mát ra, mát từ đầu óc từ tim phổi mát đi. Phút đứng
lại một mình trong cái ngõ hẻm tối tăm của thành phố, nội tâm Hoàng đã có một
trận mưa nhỏ hiền hòa nổi lên. Đã có những phiến xanh. Trận mưa và những phiến
lá mát mẻ mở ra một ngả đường, Mắt Hoàng nhòa đi. Anh nhìn yên lặng con đường của
anh mở đi từ những phiến lá xanh.
Anh biết rằng từ đêm nay, anh sẽ đi mãi mãi trên con đường
này.
Hoàng đã đi trên ngả đường không oán thù.
Hoàng lạc đường ?
"Trên đường oán thù ta tìm thấy sự sống". Câu văn của
Malraux sáng chói như một giáo điều của đời anh, Hoàng nhớ lại một lần nữa. Giữa
ngõ hẹp. Trong bóng tối. Cũng là nhớ lại một lần cuối cùng. Nó đã chết cái chết
khô héo của giáo điều. Câu văn nhỏ lại, nhưng con đường oán thù, anh sẽ không,
đến nữa, giống như cái khoảng tối trước mắt, gần gụi, nhưng bàn chân Hoàng
không bao giờ đi lên. Oán thù. Hoàng nhìn lên. Giữa những hàng mái siêu đổ, những
vì sao lấp lánh nhìn xuống anh. Rừng sao hôm nay hiền lành, cũng không có lửa.
Dưới đất trên trời, ở trong con người, ở chung quanh không có ngả dường oán thù
nào hiện lên. Bước chân ngừng lại trên một thứ biên thủy. Hoàng thua rồi. Anh sẽ
không vượt biên thủy.
Con đường oán thù nghiêng đi, mất hút về phía bên kia.
Hoàng nhìn về phía bên kia, ở cuối ngõ hẻm. Con đường lầy lội
còn tối hơn, khuất khúc hơn ở đầu ngõ. Hoàng không nhìn thấy, nhưng đã đoán thấy
hẳn hoi. Nhưng mái nhà yên lặng. Một vài khung cửa sổ mở rộng. Đèn lửa tắt ngấm.
Những khung cửa là những hình tròn hình vuông tối đen. Màn đen của đêm khuya lắng
nói lên những giấc ngủ đang ngon của người. Những giấc ngủ không có oán thù.
Hoàng cử động. Anh đốt lửa, châm một điếu thuốc lá. Anh hút một
hơi dài, nhìn chung quanh. Những giẫy nhà bé nhỏ chen chúc không đều trên hai bờ.
Những mái hiên thấp nhô ra gần hết lối đi. Bóng nhờ nhờ của những vệt hoa leo.
Đêm ngõ hẻm chồng chất những hình bóng cạnh khía va chạm đủ mọi hướng mọi chiều
trên một bức họa lập thễ chìm chìm nổi nổi. Những bóng người nằm yên dưới những
mái hiên. Vẫn có những cửa sổ mở rộng một cách tin tưởng. Giấc ngủ lao động nồng
say trên những tấm ghế bố. Cuộc sống ban đêm ở đây khuấy động nhịp nhàng đều
hòa dưới ánh sáng những vì sao, trong nhịp gió nhẹ, dưới bóng hoa leo, bên cạnh
những khung cứa mở, trong hơi thở của người nằm ngủ. Hoàng nghe rõ một tiếng thở,
một tiếng cựa mình. Tấm ghế bố cọt kẹt kêu lên. Một tiếng nói mê sảng, vắn gọn
vô nghĩa. Hoàng mỉm cười. Anh nghĩ đến những hình ảnh đẹp nõn nà mà anh vẫn ưa
thích : Những ngón tay. Những con mắt. Những vì sao. Những con người ở trong cuộc
sống đương mùa xây dựng. Những suối nắng óng ánh chảy giữa lòng ngày. Những suối
nắng của nhiều ngày.
Những hình ảnh thoải mái, không oán thù này trở lại trong một
thoảng ngắn chính là những nguyên nhân đã làm cho những bước chân đi tìm kiếm
oán thù đã phải dừng lại trên một thứ biên thùy của một cuộc sống làm bằng yêu
thương. Hoàng nghĩ đến những thứ biên giới của thế hệ.
Thật là nhiều loại: Biên giới dựng lên bằng hầm hố, chiến
lũy, ruộng mìn, bằng những hàng rào giây thép gai, bằng những mũi súng nghiêng
nghiêng đe đọa. Cái mũ sắt ngụy trang lả lả những phiến lá khô úa. Những biên
giới của lửa máu, của tàn phá, của căm hờn.
Nhưng ở một mặt nào cũng lại có những biên giới dựng lên bằng
niềm tin, bằng những ngón tay. Bằng sự sống tươi mát. Bằng con người. Hoàng đã
dừng lại ở đây, trong tươi mát, trong đời sống trong con người. Chỉ đi thêm một
bước nhỏ là Hoàng sẽ vào trong cái thế giới chồng chất hờn oán kia.
Anh không tìm thấy sự sống mà anh chờ đợi trên những ngả đường
oán thù. Con đường này không bao giờ có nữa trong anh. Những lối đi tàn hủy thuộc
vào những hình ảnh của bên kia, của những nếp sống, những con người bên kia.
Vậy mà , chính là Hoàng đã định đến cái ngõ hẻm này để tìm một
người. Anh đi tìm kẻ thù. Anh ra khỏi nhà vào lúc thành phố vừa lớn đèn. Ánh
sáng nhạt loãng của ngày vào lúc hoàng hôn, từng tảng nhờ nhờ lẫn lộn với ánh
sáng điện vừa bật lên gây cho anh một cảm giác ám ảnh khó chịu. Phố anh ở ồn ào
đông người. Một bọn trẻ đùa nghịch ầm ỹ làm vướng bước chân anh đi. Hoàng cáu,
bạt tai một đứa vừa ngã vào người anh. Tiếng đứa trẻ khóc thét trong đám đông
đàng sau. Hoàng không nhìn trở lại. Những cảm giác vừa bồn chồn vừa bực bội hỗn
loạn trong anh. Hoàng cúi đầu bước thật nhanh trên hè phố, hai bên thái dương rức
buốt choáng váng, cổ họng anh nghẹn ngào. Căm thù. Anh muốn có một cảm giác
bình thản cũng không được nữa. Căm thù. Anh muốn nẽn xuống thì nó lại bùng lên,
chảy bừng bừng khắp người. Hai chữ căm thù sáng chói từng nét lửa nhẩy múa
trong anh, trên một mớ cảm giác hỗn độn không tên. Những nét chữ viết hoa to lớn
ngột ngạt. Mắt Hoàng nặng xuống, đục hẳn đi. Anh chớp chớp. Căm thù đọng lại những
giọt nước mắt bực tức trên mi.
Hoàng đi mau hơn. Hình ảnh hai bên đường thoang thoảng, anh
không nhìn thấy gì rõ ràng. Cuộc sống của thành phổ ở chung quanh anh đang nói
lên dần dần những tiếng động, những miền sáng chói. Anh đi qua nhiều ngã ba ngã
tư. Thỉnh thoảng anh lại bước bỗng xuống một rãnh nước. Có tiếng cười của một
người qua đường. Tiếng cười cùng làm Hoàng bực bội.
Từng hàng cây, từng mái nhà, từng dẫy biệt thự lần lượt lùi lại.
Hoàng đi bộ mà như đứng trên một toa tầu đang chạy. Những dẫy cột điện lùi mau về
phía sau làm Hoàng choáng váng. Anh đi qua nhiều đoạn đường nữa. Bàn tay anh
vung mạnh theo đà chân bỗng đụng phải một vật gồ gồ ở túi quần bên phải. Túi
Hoàng có một khẩu súng lục. Cỡ 7 ly 35. Đạn đầy ắp chargeur. Một viên đã nằm sẵn
sàng trong nòng súng. Hoàng bước nhanh hơn nữa. Tim anh chói lên. Anh vừa nghĩ
đến một viên đạn đồng sáng loáng, chữ nổi, lúc vụt đi dưới đầu ruồi đến nổ tung
trong những lớp da thịt rách nát. Một điễm lửa đỏ khé vừa lóe lên, vụt di. Căm
thù. Anh nghĩ đến những con người lác đác trên những chiến địa thế kỷ. Đến những
con người bấm tay vào cò súng định đoạt cái tích tắc lạ lùng của lúc đạn nổ. Và
kẻ nhận được viên đạn ấy. Hoàng buồn rầu nghĩ rằng những viên đạn đủ mọi cỡ đã
nổ nhiều, mà càng nổ thì căm thù càng chồng chất. Và thế kỷ càng nhiều mãi hờn
oán.
Anh đi qua một lớp phố nữa. Cây cối nhà cửa, những người đi
đường, vẫn lũ lượt lùi ngược trở lại anh. Sự sống của thành phố âm hưởng từ
phía sau suôi tạt về. Nghe ầm ầm ran tan như một ngọn triều đổ xa xa. Trước mắt
Hoàng, những hình khối, màu sắc hình như đặc hẳn lại. Nghiêm lặng cái nghiêm lặng
của một vùng trời thấp trước gió hão sáp nổi. Nghiêm lặng của một phút nghe
ngóng tiếng đạn nổ. Con đường đi nhập vào bờ súng ngắn cụt, vào đường lửa dài
thẳm. Căm thù.
Một đoàn xe vụt qua, ngăn Hoàng đứng lại dưới một gốc cây. Có
tiếng một người đàn bà hỏi giờ anh.
Hoàng nhìn mau xuống mặt dạ quang, đáp ngắn :
- Tám giờ.
Người đàn bà thản nhiên cám ơn Hoàng, đi sang bờ đường bên
kia. Tự nhiên Hoàng thấy sự nhanh gấp của mình trở nên vô nghĩa. Anh nhìn lại đồng
hồ một lần nữa đoạn anh tạt vào một tiệm rượu.
Cửa tiệm bé nhỏ. Ánh sáng né-ông xanh biếc tỏa xuống gian
phòng vắng người.
Một người thiếu nữ tiến lại phía anh.
- Cho tôi một ly Mác-Ten.
Người thiếu nữ nghiêng mình bỏ đi.
Một lát yên lặng.
Hoàng cố giữ bằng được cái cảm giác liên tục của trả thù. Một
phút yên lặng. Rồi Hoàng nghe thấy tiếng đĩa hát đặt vào máy. Nhạc nổi lớn.
Hoàng lắng nghe một giọng hát thanh, trầm trầm, xa vắng. Ly Mác-Ten vừa đặt xuống
mặt bàn, màu vàng trong suốt giữ lại một lời hát vừa hạ thấp, ngân dài, rôi lắng
đọng hẳn trong lòng cốc. Hoàng nhếch mép cười vô nghĩa. Bàn tay anh buông suôi
chạm vào khẩu súng. Chưa bao giờ anh uống rượu mạnh nhưng anh cũng nhấc ly rượu
lên tợp thẳng một hơi. Chất lỏng đốt cháy ở cuống họng, cháy đi bừng bừng khắp
người. Căm thù. Một khẩu súng lục. Một viên đạn đồng chữ nổi sáng loáng. Một ly
rượu mạnh. Hoàng gọi thêm một ly nữa.
Anh đứng giậy trả tiền bước vội ra khỏi tiệm. Bản nhạc buồn vẫn
chưa dứt. Từng tiếng nhỏ nhỏ, đứt quãng, đuổi theo anh ra ngoài. Hoàng nhìn đồng
hồ. Đúng 9 giờ 35 phút. Hoàng đi về phía đường 20. Anh thấy lạnh lạnh ở những đầu
ngón tay. Mắt anh mờ hẳn đi. Anh đi mãi về phía đường 20. Mỗi đoạn đường làm
anh gần thêm vời kẻ thù. Nó ở một ngã hẻm cuối con đường này. Phải rồi, chính
nó. Chính nó ở đây. Mắt anh hoa lên. Anh không thể nào bình tĩnh được nữa. Nó.
Những kỷ niệm căm thù đổ tràn về. Hoàng lọt hẳn vào dĩ vãng này. Anh đến đất
căm thù. Anh nhìn mặt nó. Hung dữ, tàn ác. Những con mắt nó nhìn anh trừng trừng.
Những bàn tay nó lông lá đầy máu. Phải rồi đúng nó. Đúng thằng Xuân.
Kẻ thù của anh ngồi trước một cái bàn phủ vải đó, kê ngay ngắn
giữa sân đình làng. Ánh đuốc hắt lên một khuôn mặt lạnh lẽo đến phát khiếp lên.
Sau y, cờ đỏ sao vàng. Y ngồi giữa mầu máu đỏ. Mầu của Bên Kia, của Căm hờn. Ba
cột đình treo ba bức ảnh thật lớn của bọn lãnh tụ. Những cặp mắt lãnh tụ trên
kia là những vì sao số mệnh cho cuộc sống nô lệ của tên cán bộ cuồng tín ngồi ở
dưới. Thằng Xuân ngồi nghiêm chỉnh dưới những khuôn mặt, những nền máu, những
ánh sao nghi ngút hờn oán ấy. Không khí nơi này nghi ngút hờn oán. Bên ngoài,
đêm đã đặc lại. Tiếng chó sủa râm ran. Cái thôn xóm bé nhỏ vắng ngắt. Đêm đã
khuya. Mọi người trong xóm đều phải có mặt ở đây trong một thứ liên hoan của
căm hờn này. Vắng mặt sẽ bị coi là phản động.
Cuộc đấu tố bắt đầu.
Xuân vừa gọi đến tên Hoàng. Thằng Hoàng. Thằng phản động
Hoàng. Y hét lên. Xuân là cán bộ phóng tay phát động quần chúng kể từ khi phong
trào đấu tố lan đi từng đợt khủng khiếp khắp các thôn xóm rải rác hai bờ sông
Đáy. Phong trào căm thù nỗi lớn, Xuân trở nên con người của những cuộc đấu tố.
Cả một sân đình rộng lớn đã chật ních những đoàn thể tới dự
buổi đấu tố đầu tiên trên hữu ngạn sông Đáy. Mọi người nín thở, hồi hộp chờ đợi.
Người làng người nước cả ai cũng thương ông cụ hiền lành nhân đức, nhưng không
ai dám hé răng. Đám đông đứng quây thành một thứ vòng tròn. Một khoảng trống ở
giữa chói chang dưới ánh đuốc cháy. Một hình người quỳ gục ở giữa khoảng trống
này. Một ông cụ già. Thằng bố thằng Hoàng. Thằng địa chủ gian ác ngoan cố. Thằng
bố thằng phản động Hoàng.
Xuân đập bàn hét lớn. Y sô ghế tiến lại trước mặt ông cụ :
- Tên địa chủ này còn là bố một thằng Việt gian phản động. Nó
đang làm quận trưởng ngụy quyền. Nhân dân đòi đền tội.
Ông cụ già cứ quỳ như thế mà nhận lấy trận đòn thù. Như thế
suốt đêm. Cũng là trận đòn cuối cùng. Ruối sáng hôm sau chúng kéo lê ông cụ về
đến đầu ngõ rồi bỏ đi.
Ông cụ bỏ mình ba hôm sau.
Hồi đó, Hoàng làm quận trưởng ở một quận gần Hà Nội. Người
thân tín bỏ làng ra báo tin cho anh biết, ai ai cũng nói chính Xuân đã tỗ chức
cuộc đấu tố. Chính y đã đứng chỉ huy một bọn đầu trâu mặt ngựa cho chúng nó đấm
đá bố anh. Y còn lớn tiếng tuyên bố một ngày sẽ đến lượt anh nữa.
Câu chuyện đấu tố người cha, đấu tố đến chết, Hoàng ghi nhớ từng
chi tiết bé nhỏ. Người làng nào ra quận, Hoàng cũng giữ lại, thết đãi cơm nước,
cấp giấy mả chu đáo. Người nào anh cũng buộc phải kể lại chuyện đấu tố. Anh ngồi
nghe yên lặng xa xôi, nhưng trong anh, căm thù đã nhen lửa. Ngọn, lửa ấy, đêm
ngày cháy đỏ trong nội giới người con, đêm ngày mong gặp được kẻ thù giết bố để
trả thù. Từ cái tang đau đớn kia, Hoàng nuôi dưởng niềm căm thù cho một ngày một
xâu nặng bền chặt. Anh chỉ sợ rằng thời gian lần lần sẽ làm nguôi vơi ngọn lửa
thù. Đến cái độ anh không thẳng tay đánh xuống kẻ thù được nữa. Hoàng sống từng
giờ từng phút cho cuộc gặp gở. Anh có linh cảm rồi một ngày anh sẽ gặp được
Xuân. Người chết phải được ngậm cười. Cuộc sống của Hoàng từ đó cũng thay đổi.
Ban đêm anh vác các bin ra khỏi quân đi lần vào những làng xóm ở rải rảc chung
quanh, đích thân chỉ huy những cuộc phục kích đón bắt cán bộ du kích cộng sản
trên những ngả đường độc đạo. Thằng cán bộ nào thằng du kích nào với anh cũng
chỉ là một thằng Xuân. Những thằng giết người đã đánh bố anh đến chết.
Một thời gian ngắn, Hoàng nổi tiếng khắp vùng quốc gia vì những
thành tích chiến đấu chống cộng của anh. Đùng một cái, hiệp định Genève được ký
kết.
Hoàng ra đi, vất bỏ lại cả, nhưng mối thù, anh mang theo lên
đường. Anh buồn rầu nghĩ rằng không bao giờ anh được gặp Xuân nữa. Cố nhiên là
nó ở lại ngoài ấy.
Bởi vậy mà anh hết sức ngạc nhiên khi có một người làng di cư
vào Nam, tình cờ nói chuyện đến Xuân ở trong này. Hoàng không chịu tin thì người
đó lại cho anh biết cả địa chỉ của Xuân nữa. Xuân vào Nam mới được vài tháng
nay, trong một chuyến tàu cho những người di cư cuối cùng. Y đã bị khai trừ ra
khỏi đoàn thể vì một lầm lỗi về công tác. Không được rõ rệt lắm, nhưng đích thực
Xuân đã kị khai trừ rồi. Sau ngày tiếp thu, có những tên cán hộ lạ mặt đến từ
những địa phương khác đã được thay thế Xuân. Bị đoàn thể bỏ rơi, Xuân đâm ra
chán nản. Y bắt đầu hiểu rõ những bộ mặt thực cộng sản. Đoàn thể chỉ dùng y một
thời kỳ, như một thứ đồ vật. Giai đoạn chuyển biến đường lối đổi khác, người ta
không cần dùng đến y nữa. Không phải chỉ riêng Xuân. Mà còn nhiều tên khác đã
phụng sự cộng sản đắc lực cũng phải chịu những số phận như Xuân. Tên chủ tịch
huyện, tên trưởng đoàn du kích xã bên cạnh chẳng hạn. Chúng lần lược bị khai trừ
ra khỏi đoàn thể hoặc bị hạ tầng công tác. Tên chủ tịch huyện đã bỏ trốn lên Hà
Nội. Nghe đâu cũng đã nhập vào đoàn người vào Nam. Tên cán bộ du kích thì bị bắt
sau đó ít lâu. Tên này đã tỏ vẻ uất ức bất mãn, đã cả gan công kích đường lối
đoàn thể sai lạc, đoàn thể bất công, trong một buổi họp. Hôm sau Y bị đưa đi mất
tích.
Trước những sự kiện này, Xuân càng lo hoảng cho số phận mình.
Y cảm thấy luôn luôn bị theo dõi dò xét. Những buổi họp, y cáo ốm nằm nhà. Lúc
nào cũng có vẻ buồn phiền hoảng hốt. Người làng, xóm căm thù vì những tội ác của
y ngày trước thấy y như thế cũng động lòng thương hại. Xem ra y đã tỉnh ngộ rồi.
Cuồng tín ở đoàn thể không còn nữa. Đôi khi gặp một vài người quen biết, y tỏ vẻ
hết sức hối hận. Đến khi có một số người làng tổ chức một chuyến đi tập thể xuống
Hải Phòng để vào Nam, y cũng khẩn khoản xin đi theo. Nhờ sự che dấu khéo léo của
mọi người y đã đi thoát, đem được theo cả vợ và mấy đứa con nhỏ.
Vào tới miền Nam, y đến ở nhờ nhà một người anh họ trong một
ngõ hẻm cuối đường 20. Ngày ngày y làm mướn kiếm ăn.
Đã hiểu thấu nội tại lung lay của cộng sản, Hoàng không ngạc
nhiên về trường hợp của những tên cán bộ chính cống, một ngày có thể từ bỏ hàng
ngũ chúng nó để trở về với Tự Do. Đó là những lúc cái con người bên trong những
cái vỏ cản bộ ấy, gặp được điều kiện thuận tiện để thức giậy, để vượt ngục. Nó
nói nhiều cho một khía cạnh sa đọa đổ vở của cộng sản.
Hàng ngày, trên báo chương có biết hao nhiêu tin tức về những
người đã từng hoạt động đắc lực cho cộng sản, vượt màn sắt vượt nhà tù, từ bỏ
đoàn thể trốn sang miền tự do. Sống với Cộng sản cho đến một lúc nào chợt hiểu
được một cách hết sức chua chát cái tính chất sâu kiến vô nghĩa của con người,
họ vượt biên giới. Họ đều được đón nhận. Chúng ta không trả thù những đứa con
hoang đã trở về với chúng ta sau khi đã chịu đựng những kinh nghiệm bản thân
đau đớn, đã hổi hận, đã giác ngộ thành thực. Sự đại lượng của chúng ta giúp cho
họ cơ hội trở lại làm người.
Hiểu thế, nhưng riêng ở Xuân, Hoàng vẫn ngờ vực, không tin. Một
thằng như thằng Xuân, tôi luyện già dặn trong địa ngục cộng sản mà cũng không sống
được với cộng sản thì còn ai ở được với chúng nó nữa ? Xuân không tính đến chuyện
sẽ gặp anh ở đây ư ? Xuân không sợ anh trả thù ? Không, anh nhất định phải trả
thù. Anh đã thề nguyền ròi. Xuân tự dẫn thân đến. Anh không thể nào tha thứ được.
Anh liền tìm đến chỗ Xuân ở, mang theo khẩu súng lục và những
viên đạn anh định dành cho y. Hình ảnh người chết hiện lên. Những ảnh đuốc lửa
bập bùng của đêm đấu tố. Căm thù.
Vậy mà đến giữa ngõ hẻm, Hoàng đã đứng lại.
Tại sao Hoàng đứng lại ? Có một cái gì đột ngột vừa dâng lên
trong anh ? Phải rồi, có một cái gì đột ngột vừa dâng lên. Đó chính là tình
thương yêu của tất cả những con người trên mọi thứ biên giới. Tình thương yêu rộng
lớn cao quý nhất vì nỏ gửi đến tất cả, gửi cả cho kẻ thù. Tình thương bừng lên
trên một ngọn lửa căm hờn leo lét yếu đuối. Anh biết rằng anh không trả thù
Xuân nữa. Không bao giờ nữa. Căm thù vừa tàn lụi vì vừa chạm tới những bờ yêu
thương. Anh có thể giết Xuân khi nó còn đội trên đầu óc nó cái lốt lông lá ma
quỷ. Anh không thể giết Xuân khi nó đã hồi tâm, đã rời bỏ địa ngục, đã trờ lại
làm người. Anh đã từ bỏ dĩ vãng của anh. Anh từ bỏ luôn những tội ác dĩ vãng
cho Xuân. Anh có cảm tưởng rằng những nền tảng của dân tộc, của thế hệ đang được
xây dựng trên tình thương yêu và lòng tha thứ ấy. Lại chính vì lòng yêu thương,
giữa người với người vẫn có, đang mở rộng, mà thế hệ và dân tộc đang dánh ngã
những công trình địa ngục của Cộng sản.
Hoàng nghĩ rằng hôm nay và ngày tới, còn biết cơ man nào là
những tên cán bộ Cộng sản như Xuân đang tìm về tự do trên con đường rộng lớn của
tình yêu thương đằm thắm trong lòng từng con ngưòi ở bên này.
Hãy làm những chiếc phao cho những người đang chết đuối trong
bão biển.
Hãy làm những ngọn hải đăng cho những đời kiếp quằn quại
trong đêm tối.
Xuân đổi khác rồi. Hủy bỏ hộ y dĩ vãng đen tối của y. Cho y một
chỗ đứng dưới mặt trời. Sự khoan dung của bên này rồi sẽ làm cho hàng nghìn
hàng vạn người từ bỏ Cộng Sản để đến với bên này.
Anh nghĩ đến người đã chết. Bên những người đã chết. Không phải
chỉ riêng có bố anh mà còn biết bao nhiêu người khác nữa. Những cái chết chồng
chất hợp thành những bản cáo trạng tội ác Cộng sản. Nhưng con người đã nằm xuống,
trong vực thẳm của một chế độ xây dựng, trên căm thù và cũng đang đổ vở trên
căm thù.
Dân tộc, thế hệ từng con người sống tự do như anh đang mở một
mặt trận rộng lớn cuối cùng để đánh ngã hẵn từ gốc rễ cái toàn thể của một chế
độ tàn bạo đang nghiêng ngả tàn lụi.
Người chết sẽ được ngậm cười. Nhưng con người đã đi vào một
thứ lịch sử bất diệt kia, anh tưởng như họ đang từ một thế giởi nào nhìn xuống
cuộc chiến đấu của những người như anh. Trong số đó có cả bố anh nữa. Hoàng có
cảm tưởng như anh đang nhìn thấy một khuôn mặt hiền hòa hiện lên dần dần. Một
đôi mắt chứa chan tình thương yêu.
Một cái nhìn của con ngưới. Và một tiếng nói dịu nhẹ :
- Cha ngậm cười được rồi. Vì con đã chiến đấu. Vì kẻ thù đã gục
ngã. Kẽ thù của cha, cũng là kẻ thù chung của cả thể hệ này. Nó không phải chỉ
là những con quỷ khát máu, là thằng Xuân. Mà nó còn là cả cái chính thể, cái chủ
nghĩa khát máu đã đẻ ra những thằng Xuân. Con người không xa ngã vào căm thù,
mà còn giữ vững được tình yêu thương nhau, thì kẻ thù sẽ gục ngã tối tăm hơn nữa.
Thằng Xuân cũng chỉ là một nạn nhân của chế độ. Nó đã sống đời sống sâu kiến của
kẻ thừa hành. Trước nó mất nhân tính, từ bỏ chỗ đứng của người, nay vì chúng ta
nó đã được trở lại làm người. Còn biết bao nhiêu thằng Xuân nữa đang được trở lại
làm người. Kẻ thù của chúng ta đang mất ăn mất ngủ vì những con người chúng tưởng
đã khuất phục được đang đứng dậy. Chúng là những cánh dơi sờ soạng trong bóng
đêm. Tình yêu thương của con người đang đốt cháy những cánh dơi ấy.
Hoàng lặng người đi. Anh đứng yên giữa ngõ tối, chìm dắm
trong một viễn tưởng rực rở chưa từng thấy. Như thể đã nhìn thấy khối hình nhân
loại ngày mai. Khi Cộng sản đã mất hẳn rồi. Khi mở đầu kỷ nguyên của Thương
Yêu. Tình thương yêu, lòng tha thứ, anh cảm thấy không phải chỉ là những
nỗi niềm xuông nhạt, trừu tượng, mà còn là những lực lượng
tinh thần có một sức tác động ghê gớm mãnh liệt.
Hoàng quay trở ra. Anh bỏ căm thù, bỏ ngỏ tối lại sau lưng.
Con đường 20 chạy dài một giòng lửa làm bằng những ánh điện nối
đuôi nhau. Đêm đã khuya lắm. Hai bên đường lác đác những bóng người bình thản
đi lại. Từng tốp một, những đoàn người ngồi hóng mát dưởi những gốc cây. Có những
đứa trẻ ngủ trên gối những người mẹ. Tiếng nói chuyện nhỏ to, thì thầm. Những
đám người vây chung quanh những cột máy nước. Tiếng nước chảy ồ ồ chen lẫn với
tiếng cười đùa. Bấy nhiêu hình ảnh thoải mái, binh dị, gây cho Hoàng một thứ cảm
giác tin tưởng, dịu ngọt.
Hoàng nghĩ đến những miền còn ngập ngụa bóng tối. Những giẫy
phố buồn thảm u uất. Ở đó, con người đang sống những giờ phút hãi hùng vì ngờ vực,
vì căm thù, vì không tin tưởng, không thương yêu. Anh nghĩ đến Xuân. Đến cuộc sống
mới Xuân tìm thấy được ở bên này. Giúp cho những người như Xuân được trở lại
làm người, anh đã đánh thêm một đòn chí tử vào thành lũy Cộng sản. Mở cho những
người như Xuân một lối thoát là gấp rút thêm sự đổ vở của Cộng sản, là gây được
niềm tin tưởng ở Tự Do cho những người còn ở lại bên kia.
Hoàng bước đi đều đặn. Bóng anh đổ nghiêng về phía trước.
Trên con đường không oán thù, Hoàng đi dần về nhà anh.
Chiếc xe hàng cũ
Ấy là chiếc xe chở hàng đã cũ. Cũ từ ngoài Bắc Việt. Con số
T.N. 405 thuộc vào loại những chiếc xe đã biết quá nhiều ngày mưa nắng trên các
ngả đường sỏi đá và đất lầy ngoài đồng bằng Bắc Việt. Biển chỉ số dừng lại trên
con số 75659, cách đây ba năm. Con số dài đằng đẵng những dặm trường này nhắc
nhở cho anh Sáu đến một tai nạn cũ. Chiếc xe trúng mìn trên con đường Phát Diệm
trong một chuyến chở toàn chiếu cói từ vùng bể lên những miền trên. Anh Sáu
suýt bỏ mình trong chuyến đi không may đó. Nhưng anh chỉ bị thương nhẹ. Mấy
ngày sau, anh nhờ xe nhà binh kéo 405 về một xưởng chữa máy vùng ngoại ô Hà Nội.
405 được tháo ra từng mảnh, nung, thổi hàn, nấu toàn bằng điện, và ít lâu sau
405 lại lên đường. Trong chiến thời, 405 là lẽ sống của gia đình anh Sáu. Những
ngày hỏng máy, nổ bánh, hay gặp tai nạn ngang đường, 405 là cái tang lớn nhất
cho gia đình anh. Chiếc xe cũ xê dịch trên những ngả đường, lại đi luôn vào đời
kiếp anh Sáu, chị Sáu, những đứa con anh Sáu ở lại đó làm một thứ cột trụ bằng
sắt thép cho cái gia đình cần lao này.
Chị Sáu yếu quanh năm, không làm gì để có thể thêm thắt vào
những chi dùng hàng ngày. Những đứa con anh Sáu còn bé, đứa nọ cõng đứa kia, cứ
líu ra líu ríu suốt ngày bên cạnh người mẹ. 405 sống giữa cái gia đình cùng khổ,
đau yếu ấy lâu dần đã chiếm được tình thương yêu của mọi người như một người bạn
đường có chung một cảnh ngộ. Hồi còn chạy đi chạy về trên con đường Phủ Lạng
Thương, anh Sáu vì chuyến đi xa vẫn thường phải nghỉ đỗ lại dọc đường, không về
kịp nhà. Những buổi chiều chờ đợi người bố còn ở lại dọc đường, để ban đêm lại
leo vào trong xe mà ngủ, những đứa con anh Sáu lại tìm mẹ chúng để hỏi:
“405 không về, hả mẹ?”
Thiếu vắng người cha, chúng còn thấy thiếu vắng luôn cả cái
bóng lênh đênh kềnh càng của 405. Khoảng sân hẹp trước ngõ, chỗ 405 về ngủ trên
rêu cỏ sau một ngày đốt cháy mã lực trên ngả đường, trống vắng hẳn ra. Những đứa
con anh Sáu ngồi nhìn ra một khoảng sân vắng, mấy vệt bánh xe in hằn lên như một
niềm nhớ thương.
Hồi ấy gần đây, trước ngày ngưng bắn, gia đình anh Sáu cứ
lúng túng thiếu thốn luôn, cũng chỉ vì 405 gặp bất hạnh liền liền ở dọc đường.
Hết vỡ bánh, “pan” xăng, lại tiếp luôn hai lần nổ mìn. Mà lần nào cũng nặng cả.
Nếu là người thì sau những lần ngộ nạn ấy, 405 đã có thừa những vết thương thập
tử nhất sinh, để nếu có qua khỏi cũng chỉ còn là một tên thương binh có quyền
được nghỉ ngơi cho đến mãn đời. Nhưng cái an dưỡng đường cho lũ cơ khí già yếu
chưa có. Như đứa con đầu lòng của một gia đình đông con, 405 vẫn còn phải sớm
chiều bước đi những bước tập tễnh trên ngả đường để cho cả một gia đình đáng
thương không đến nổi phải ôm bụng đói ngồi nhìn nhau.
Xê dịch trên những ngả đường đất đã rách nát về mìn điện, hầm
hố, mưa nắng, chiếc xe cũ từ lâu đã mang nặng những dấu vết của một đời kiếp
hai sương một nắng, đã tàn lụi và đã xế chiều. Đầu mũi xiêu vẹo long lở. Mình
xe đổ gục về phía trước vì mang chất quá sức. Mui bạt xanh bạc màu. Từ những
thành gỗ đã rỗng mục, bụi lả tả đổ xuống những chiếc lốp già yếu.
405 đã là một sự kiện điển hình của chiến thời. Nó chứa đựng
nhiều vết tích tàn phá. Nó là hình ảnh của một bờ vai gầy mang nhiều tháng
ngày. Vậy mà nó vẫn cứ lăn đi trên những ngả đường: Sơn Tây, Trung Hà, qua Hà Nội,
về bốn tỉnh miền nam Bắc Việt. Leo dốc xuống đèo. Con ngựa già cơ khí này, dưới
tay cương anh Sáu, vẫn sáng đi chiều về, vẫn chở nặng, vẫn chạy đều, vẫn mang lại
cho gia đình anh Sáu đủ hai bữa ăn. Nhiều buổi ở nhà, chị Sáu bế con ngồi bên
chồng, nhìn ra 405 nằm nghỉ ngoài khoảng sân hẹp, vẫn bảo anh Sáu:
“Không có nó thì thật chết, mình ạ!”
Anh Sáu coi 405 như một người bạn đường trung thành. Đời anh
Sáu gặp nhiều bất hạnh, nghèo khổ, cũng không còn lấy một người bạn nào khác.
Tình người gửi xuống sự chung thuỷ của cơ khí, hương thơm ngát lên trong chiến
thời chứa đựng quá nhiều vận hạn và trong cuộc sống chứa đựng quá nhiều phản bội.
Cũng là một sự lạ lùng. Những bạn đồng nghiệp của anh Sáu, lúc nhàn rỗi, ngồi
chuyện vãn với nhau ngoài bến xe, dưới chân một cây xăng, hoặc trong một xưởng
chữa máy nào đó, lúc chê khen đến những đời kiếp của lũ cơ khí vận tải, vẫn
kháo nhau rằng 405 quả là bậc bô lão của vận chuyển trên các ngả đường Bắc Việt.
Giữa những gắn bó của xe cộ với người, 405 là điển hình của chung thuỷ bền chặt.
Họ cũng không hiểu tại sao 405 lại có thể ở dưới mái nhà của anh chị Sáu được
lâu đến thế.
“Cây tiền cây bạc nhà thằng Sáu đấy! Mình nó bằng đồng, da nó
bằng sắt, ruột nó lại bằng thép già. Hai lần đụng mìn tổ bố mà không vần gì, có
khiếp không chúng mày?”
Tuy vậy, những tai nạn của chiến thời và những sớm mưa chiều
nắng dọc đường cũng đã làm cho 405 càng ngày càng thêm đau yếu, nhọc mỏi. Qua bản
chất năng lực nhất định của cơ khí, sự chịu đựng đã ra ngoài mức bình thường.
Những buổi anh Sáu mang xe lên đường kiếm gạo cho vợ con anh,
anh cũng không quên rằng con ngựa già của anh đáng lẽ đã được nằm nghỉ một nơi
nào, hoặc là có chuyển vận thì cũng chỉ là những đoạn đường ngăn ngắn trong
lòng thành phố. Bất đắc dĩ lắm, anh mới cho xe đi những đoạn đường xa. Biết mã
lực 405 yếu mỏi, anh Sáu cho xe đi vừa tầm. Chạy tàng tàng thôi. Để còn đi. Để
còn về. Vì phải đi phải về nhiều. Những buổi chạy tập đoàn hàng bốn năm chục
chiếc trên những ngả đường liên tỉnh dài dằng dặc và ngổn ngang hầm hố, anh Sáu
nhả chân ga, ghìm 405 lui dần về cuối đoàn, 405 chậm chạp nối đuôi một lũ đàn
em còn chan hoà sức mạnh non trẻ. Tiếng máy nổ ậm ạch. Nhịp chuyển động ầm ỳ.
Tiếng thở của cơ khí xế chiều này lúc nhanh lúc chậm, cứ hồng hộc như một người
đi đường yếu tim, thiếu hơi.
Còn đâu là mùa oanh liệt cũ? Xe và người cùng hồi tưởng lại
những chuyến đi dài hạn trên những ngả đường miền núi, anh Sáu vừa dậm chân ga
là 405 đã vượt lên khỏi đoàn và cứ thế mà dẫn đầu mà bứt đi, mang vào chuyến đi
cái nhanh thoáng của máy móc còn đang tuổi lành mạnh.
Những chiến thắng cũ trở nên những vang bóng, đến nay còn là
những giai thoại của nghề nghiệp vận chuyển. Sỏi đá, đất lầy. Dốc đò, dốc phà.
Hầm hố chữ chi. Địa lôi. Đường xuyên sơn, độc đạo. Cùng là những cạm bẫy dọc đường
dựng lên trên những ngã ba, trong đêm tối di chuyển, 405 đều đã biết qua hết
trong đoạn đời chứa đựng nhiều gió bão.
Kỷ niệm đường dài chìm vào những chiếc bánh mòn, 405 cứ già yếu
thêm mãi.
Chuyến đi cuối cùng của 405 trên những ngả đường Bắc Việt là
một chuyến đi thời đại. Anh chị Sáu theo tập thể di cư. Anh Sáu mang theo 405
vào chuyến đi, đã lựa chọn hộ cho cả cơ khí cái thái độ của người đi tới một
ngày mai không tù đày.
Sau một bữa nằm nghỉ trên khoảng sân hẹp, máy cũ lại nổ lên.
Tiếng động cơ ầm ầm vang dội cả một vùng ngoại ô. Lũ con anh Sáu bị bố mẹ chúng
dựng dậy sớm hơn ngày thường, chạy ùa cả ra ngoài sân. Chúng vây quanh 405, đứa
nào đứa nấy ngái ngủ, mắt còn gấp gay trong sương sớm. Tới lúc anh chị Sáu sắp
sửa bồng con lên xe thì hàng xóm đổ sang. Toàn là những gia đình cùng khổ. Làm
công, làm thợ, bán quà rong, thất nghiệp. Sự nghèo khó bắt buộc họ ở lại trên mảnh
đất cũ như những cánh bèo không bao giờ đi thoát được bờ ao tù đày. Người nọ
người kia chúc anh chị Sáu vào trong ấy làm ăn khấm khá hơn ngoài này.
Chị Sáu vâng dạ, tay vẫn không thôi gạt nước mắt.
Một người hỏi anh Sáu:
“Anh đưa cả 405 đi à?”
Anh bản vỗ vỗ tay vào đầu chiếc xe cũ:
“Mày vào trong ấy đường sá nhẵn đẹp, tha hồ mà chạy nhé!
Trước những chia tiễn của một lớp người tưởng như đã đứng
trên những bờ vĩ tuyến cách biệt, 405 nổ máy chờ đợi như đã thấy trước đầu mũi
xe bốc khói, những ngả đường miền Nam rộng ngút ngàn cùng là đất đá, sỏi cát,
đèo dốc, mưa nắng nhiệt đới. Dậm xa hiện lên từng nét biếc, mê man xuôi chảy
trên một ngả đường không bến bờ. Đó là ngả đường của một niềm tin vĩ đại. Của một
lối đi thênh thang về tự do. Cuộc đời lên hương đã gửi đi cái cao đẹp của chuyển
đi xuống bờ xe cũ.
Hôm nay, theo vợ chồng anh Sáu, 405 đã đặt chân lên một ngả
đường miền Nam.
Sau mấy ngày vượt bể nằm trên mui tàu nghe sóng đại dương,
405 đã đổ bộ. 405 đã vào đất liền. Đường miền Nam từ những quốc lộ thông xứ đến
những ngả đường liên tỉnh, thước đất nào cũng nhẵn phẳng, cũng óng ánh nhựa
xám, chảy đi giữa hai bờ lúa xanh miền Đồng Nai. Chưa bao giờ 405 lại được xê dịch
trên những ngả đường tốt đẹp như thế. Anh Sáu nhìn đoạn đường. Anh nhìn chân trời.
Anh nhìn 405. Anh đưa đi đưa lại bàn tay trên một lớp kim khí nhọc mỏi đã ọp ẹp,
mềm yếu. Dưới lớp sơn nhạt màu, có một cái gì của 405 đã rung lên, đầm ấm như
tiếng đập của tim phổi thoát ra từ nội tâm người. Sự sống của cơ khí bắt nguồn,
truyền cảm. Anh Sáu thử máy. 405 chuyển mình, cả thân xe rung chuyển. Tiếng máy
nổ, náo nức, choáng váng không đều nhịp. Những chiếc bánh cũ ngả nghiêng trên
lòng đường.
Từ trạm tiếp đón đồng bào miền Bắc di cư, những ngả đường
xanh ngắt bóng cây và chan hoà nắng ngày mở đi bốn hướng. Ngày lớn vừa dựng. Những
con đường dài thênh thang cho mã lực chuyển vận này đã nối tiếp nhau mà đi sâu
mãi vào lòng đất của người tự do. Chào Mừng. Như một con người của chuyển dịch
sau nhiều tháng ngày ngừng nghỉ lại chống gậy lên đường, 405 chuyển động theo
nhịp thở của cơ khí bốc lửa đã bắt đầu tác động sức mạnh xuống lòng bánh cũ. Vệt
xe in xuống thước đất đầu tiên miền Nam, ngả đường hướng dẫn luôn chuyến đi về
những vùng mênh mông không bến bờ.
Ngồi trên xe mà anh Sáu cũng như cảm thấy cuộc sống ở dưới ấy,
từ lòng đường dâng lên. Một vệt khói xanh thoát về phía sau cắt ngang mình một
giọt nắng sớm, chảy chan hoà vào tấm biển số. Con số 405 nổi lên, đậm đà cá
tính của cơ khí hoà mình vào đời sống người, cùng chịu đựng những thử thách,
cùng có chung một niềm tin.
Dời bỏ những ngả đường rừng núi ngoài Bắc Việt, những chiếc
bánh mòn cũ kia vậy là đã chấm dứt cho một mùa vận chuyển, bây giờ đã nằm lại
bên kia, trong tù đày. Để con người vẫn còn là con người và để cho cơ khí vẫn
còn những sự kiện của sửa chữa và xây dựng tự do, anh Sáu đã chọn những ngày
tháng miền Nam và 405 thì đã chọn những ngả đường bên này vĩ tuyến 17. Hôm nay
ngày mai, mưa nắng vẫn đương mùa trên những ngã ba, và cái thái độ của người giữa
cái rối rắm của mưa nắng, của những vùng tranh tối tranh sáng, là chọn lựa một
ngả đường, đến một sân ga, về một trạm hẹn của thời đại. Anh Sáu không hề
thương nhớ những con đường, những vết xe cũ. Chúng đã đi dần vào một ảo tưởng
tàn lụi, chấp chới hình ảnh bóng tối và cạnh khía ngục tù. Đường quốc lộ số 1.
Đường số 5. Đường Hoà Bình - Lai Châu, và những ngả đường của tre xanh lúa vàng
miền ngoài bây giờ đã nằm bên ngoài những ước định chuyển dịch của vợ chồng anh
Sáu, của 405.
Chân trời miền Nam mở ra hôm nay: Tây Ninh, Long Xuyên, Vũng
Tàu. Những ngả đường chữ chi, bàn cờ đan miền Tiền Giang, Hậu Giang. Những ngả
đường mải miết xuôi chảy về Lục tỉnh bát ngát nắng. Những đô thị, những làng
xóm, những rừng dừa. 405 vào làm bạn với lũ cơ khí vận tải ở trong này, rồi những
chiếc bánh mòn cũ lại cứ việc mà chạy tàng tàng ở cuối đoàn, trong những chuyến
đi tập thể. Sau 405, còn có biết bao nhiêu là sự kiện của cơ khí vận tải cũng
đang lũ lượt xuống tàu vượt đại dương, sống những ngày lênh đênh của đổi dời, để
về với những con đường miền Nam xa xôi, cùng đốt cháy một lúc với người ngọn lửa
tin tưởng cũ. Sau ít ngày tạm nghỉ, 405 đã lại đập lên những tiếng đập cũng
chan hoà cũng vui ấm như tiếng đập của máu huyết luân chuyển.
Anh Sáu dận chân ga, tỳ mạnh tay xuống thành vô lăng. Bên kia
mặt kính, con đường mở ra, như một vết nắng, như một ngọn suối. Hai bờ bồng bềnh
nổi lên giữa cái xanh mát của cỏ đường và của biển lúa đòng đòng. Gió thổi ngược
vào những ngọn cỏ lả lả. Lúa nườm nượp chuyển đi. Anh Sáu giữ thẳng vô lăng đưa
vợ con, đưa 405 vào cái thênh thang rộng phẳng đang dàn ra. Chuyến đi của chào
mừng này, 405 chạy ngoan như một con ngựa thuần đã quen đường.
Từ phía trái, những bạn đường của 405 đã vượt lên. Trên tay
lái của đoàn xe bạn, nhiều anh tài xế thôi nhìn đường trong một phút giây, đã
quay lại làm hiệu chào anh Sáu. Anh mỉm cười làm hiệu đáp lại.
Trên đường, nhịp di chuyển thoang thoáng vui ấm. 405 khoan
thai di chuyển đi, những chiếc bánh mòn cũ lăn nghiến trên sỏi đá, cứ đi sâu
mãi vào những bến bờ tự do.
Câu chuyện
của chị Ngự
Hàng triệu người đã vượt biển.
Hàng triệu người đã bỏ đi.
Miền Nam đất nước sáng chói những chân trời tự do. Đây, Hố
Nai, đây Dốc Mơ, đây Gia Kiệm. Và đây nữa, những trung tâm định cư Tiền Giang Lục
Tỉnh. Những đại hội của đời sống tự do bát ngát hiện lên trong cái hình ảnh tin
tưởng nhất của đất mới.
Câu chuvện dưới đây là câu chuyện của một Tin tưởng.
Hàng triệu người như chị Ngự.
Hàng triệu tâm tình như chị Ngự.
Tập thể rộng lớn điển hình từ những nếp sống rất cá nhân này.
Chiều tối hôm qua, có người bạn chị Ngự xuống thăm đường đất
đặt cửa hàng thực phẩm dưới Ô Cấp, về làm quà cho Chị Ngự ba con cua gạch. Chị
cảm ơn rối rít vì từ ngày vào Nam đến hôm nay, chị mới có được thứ quà miền bể
này.
Chị Ngự ra sau lều, hái cỏ rừng buộc những con cua chắc mẩy
thả xuống vũng cỏ, đoạn chị tắt đèn đi ngủ.
Đêm hôm ấy, chị Ngự không tài nào nhắm mắt được. Phần thao thức
vì lạ giường lạ chiếu, phần vì sự khuấy động của một mớ kỷ niệm xa khuất vừa nổi
dậy. Mấy con cua của người bạn và cái cửa hàng thực phẩm dưới Ô Cấp làm chị Ngự
động lòng nhớ đến một vùng biển hiền lành nơi quê cũ. Quê chị Ngự ở gần Phát Diệm,
chỗ con sông Hồng suôi chảy qua một vùng đất bồi bát ngát rồi đổ thẳng vào đại
dương.
Chị Ngự nằm nghiêng, đầu gối lên cánh tay. Luyến nhớ bắt nguồn
gửi về một miền đồng bể bây giờ đã nằm dưới bóng tối bàn tay Cộng Sản. Lòng người
đàn bà lắng đọng xuống. Đêm rừng hoang phất phơ những hình bóng sông biển của một
miền bỏ lại cho địch, nhưng kỷ niệm còn đi theo người vào chuyến đi, và đã nói
nhiều với chị Ngự đêm nay, dưới mái lều tạm trú.
Đêm miền Nam rộng thoáng, những vì sao sáng lấp lánh qua những
phiến lá đẫm tối. Cửa lều nhỏ hẹp, một hướng gió đằm lạnh qua lại. Mái lều
nghiêng đi như thấp hẳn xuống. Chị Ngự cảm thấy mình bé nhỏ lạ. Người ta vẫn thế,
vẫn cứ trẻ thơ, cứ bé nhỏ, khi ở thật xa một đêm bỗng nhớ đến quê hương xóm
làng. Làng xóm cũ trong nội giới người ly hương là những hình ảnh tuổi nhỏ. Là
những bông lúa mới. Là những ngã đường cỏ non. Những bụi tre la đà hình lá bay
múa như những ngón tay thon dài. Con người lạc về khung cảnh ấu thơ cũ, bé nhỏ
và hiền hành hẳn lại. Kỷ niệm sâu nặng còn đưa người xa hơn hình ảnh. Xa hơn
thì đến tình yêu. Yêu bông lúa hạt thóc, yêu mảnh vườn, những buổi nắng, những
ngày mưa, những người hành xóm láng giềng và trên tất cả, cuộc sống phẳng lặng
chung quanh những sự kiện thân yêu dài hạn.
Tình yêu của người gửi về mảnh đất cũ, chị Ngự trở mình, cảm
thấy nó thắm thiết bừng cháy trong người chị như một ngọn lửa . Sự trạng mới lạ
này làm cho người đàn bà đơn giản thao thức rất lâu trong đêm đồng rừng. Từ hàng
ngàn cây số, cái thôn xóm bé nhỏ gần hẳn lại. Hình ảnh mầu sắc của một miền quê
bên kia vĩ tuyến tác động xuống một giấc ngủ càng thêm sâu sắc trong tĩnh mịch.
Chị Ngự không biết đấy ! Đó chính là sức mạnh. Đó chính là niềm
tin. Đó chính là lẽ sống của người đi. Những người như chị Ngự, gần một triệu
người như chị Ngự, những đêm miền Nam đầu tiên, cũng có những đêm như thế,
không ngủ để mà đối chiếu thái độ mình với đất cũ bỏ lại cho Cộng Sản ở bên
kia.
Con người đấu tranh cho tự do phải có những đêm không ngủ như
thế. Để mà nhớ lại. Để mà định đoạt thái độ cho ngày tới, cho hướng đi, cho mục
tiêu cuộc chiến đấu khởi dựng ở bên này. Nhớ cho một ngày trở về. Lực lượng của
người tự do nằm rất nhiều trong cái lĩnh vực không thể lay chuyển được của một
niềm tin. Cả đến những tâm trạng thao thức, luyến nhớ đau buồn ở đây cũng là một
khía cạnh của niềm tin.
Đã ba hôm nay, chị Ngự cùng gia đình dọn đến ở khu định cư
này. Một khoảng đất đồi gần rừng. Chẳng có đêm nào là chị Ngự ngủ được. Lòng
đêm ở người đàn bà cũng ngập đầy nhớ thương.
Chị Ngự nhớ biển.
Câu chuyện của người bạn sắp lập nghiệp ngoài mé biển, càng
làm cho chị Ngự ngậm ngùi khi lòng chị vượt đường về nghe một tiếng sóng đập
vào bờ bãi của vùng biển cũ. Tiếng chuông giáo đường trả lại tiếng sóng ngân của
thủy triều vừa dâng lên. Đêm hôm nay, tiếng chuông tiếng sóng đã nổi lên giữa
đêm đồng rừng, trong những âm thanh sao động gần gũi.
Chị Ngự nghiêng mãi đầu đi mà nghe theo một tiếng vọng ảo tưởng
dồn đổ vào một đêm đồng rừng. Đời chị Ngự gắn bó với biển từ thuở nhỏ. Như con
người gắn bó với tự do. Tự do và đại dương ở nơi này là bạn của người, là sự sống
là máu huyết, là tất cả. Câu chuyện của chị Ngự là câu chuyện của người đi theo
đường biển để ra ngoài xa khơi của vùng tự do biếc xanh. Nó đơn giản như thế.
Nhưng nó cũng vĩ đại đến thế là cùng. Trái đất này là của con người chính là vì
trên cái địa đồ bát ngát của cuộc sống vẫn còn có những hướng đi về đại dương
như thế. vẫn có những con người như thế. Và vẫn có những hướng đi như thế.
Đêm khuya dần. Đã lâu lắm mới lại có một đêm mà bóng tối và
yên lặng không làm chị Ngự kinh hoảng. Chị thở dài nhẹ :
- Không biết đêm nay ở ngoài ấy ra sao ?
Ý chị Ngự muốn hỏi thầm một mình đến làng cũ. Cái mé biển xa
khuất một vùng đồng bể Bắc Việt. Chị đoán thấy biển tối mênh mông ngập chìm bãi
cát câm nín. Tiếng sóng ầm ầm ỳ ỳ. Làng xóm không lửa. Những chiếc bè mảng vợt
vờ đong đưa. Những tấm lưới chài phơi trên những mải tranh khô sác. Gió thổi mịt
mùng trong bóng tối bao la.
Nhớ về đất cũ, sao những đêm dĩ vãng lại tối tăm đến thế !
Cũng tối tăm như đêm chị lên đường. Phải rồi, đúng như đêm vợ chồng chị bế con
bồng khăn gói, cùng một số hàng xóm láng giềng vượt bể ra khơi. Thế kỷ làm cho
một đêm ra khơi đánh cá của những người miền bể Bắc Việt thành một đêm đi tìm tự
do trên mặt sóng biếc. Nhớ lại, chị Ngự còn thấy hồi hộp choáng váng. Đêm thoát
vây Cộng Sản đã đánh một cái dấu kinh khủng đẫm nét vào ký ức người bỏ đi.
Chị Ngự nhớ y nguyên những phút giây đằng đẵng chị ngồi ôm
con trên bãi cát. Thủy triều lên từ từ. Đứa trẻ ngủ thiếp trong tay người mẹ.
Anh Ngự đã dặn chị phải ngồi thật yên một chỗ đừng nói năng ồn ào. Đoạn anh bỏ
đi với mấy người bạn hàng xóm. Họ đi kéo mảng ra bãi. Mấy chục con người vượt
biển, lúc đợi chờ trên bãi cát phút được rời bỏ đất liền, cúi đầu nín thở trong
đêm tối. Tự do của cả một đời người nằm trong giây phút yên lặng đợi chờ. Chị
Ngự ôm chặt con vào lòng, nghe tiếng sóng đập vào bãi tối. Đêm hôm đó, chị nhìn
lên rừng sao trên đầu và chị đã cầu nguyện thầm.
Phía sau lưng, trong cái thôn xóm yên lặng, đã có những ánh
đuốc lửa của Cộng Sản chập chờn trên những đầu ngõ. Bọn chúng ngăn giữ người vượt
biên. Từ ngày ký hiệp định, đêm nào chúng cũng đốt lửa rồi kéo nhau ra bãi đón
bắt người như thế ! Một số người đi không thoát bị chúng bắt được rồi mang đi
biệt tích. Trong số, có em ruột anh Ngự.
Nhưng rồi những chiếc mảng cũng được kéo ra bãi. Chị Ngự ẵm
con lên ngồi thu mình một góc mảng. Vừa lo hoảng, vừa ướt sũng nước biển dâng
lên, chị Ngự run rẩy cả người. Tiếng sóng chao chao bồng bềnh. Bọn anh Ngự rời
đất liền.
Đi khỏi bờ được một quãng thì bãi cát đã rực lên những ánh đuốc
và tiếng hò hét của bọn Cộng Sản.
Anh Ngự hét bảo bạn hữu chèo thật mau tay.
Cả bọn cúi rạp xuống những mái chèo.
Chị Ngự ôm chặt lấy con. Chiếc mảng tự do băng đi. Thoát rồi.
Bốn phía chỉ có là biển tối mênh mông, lẫn lộn sao biển với sao trời. Bình minh
hôm sau, cả bọn được một chiếc tầu nhà binh kéo lên. Cã bọn đã mệt lả.
Bốn hôm sau, gia đình chị Ngự đã ở Miền Nam.
Nhưng mà ở cái thôn xóm chài lưới ngoài kia, máu huyết của một
số người xấu số ngã gục trên đường tự do đã thấm xuống đất cát. Một vài người.
Dăm bảy người. Hàng trăm hàng ngàn người. Trong chuyến đi vượt ngục Cộng Sản, họ
đã nằm xuống trên đất quê hương. Cái chết anh dũng này cũng là một khía cạnh của
tự do. Sau người nằm xuống, lại có những nguời khác đi tới.
Nằm mãi không ngủ được, Chị Ngự trở dậy. Chiếc giường ken tre
tươi gỗ rừng rung lên trong tối. Một mùi đất ẩm ngai ngái bốc lên. Đi ra khỏi lều,
đêm rừng lạnh hẳn đi như một đêm tháng mười ngoài Bắc. Trước mặt chị Ngự chạy
dài những dẫy lều vải.Trời sao lưa thưa trên đầu. Một mùi tro than tàn lụi
vương vất dấy lên bãi đất vừa dẫy cỏ. Rừng vây chung quanh. Rừng. Chị Ngự vấn lại
tóc, vịn tay vào cửa lều mà nhìn vào rừng đêm. Sự sống rì rào gửi tới chị Ngự
những âm thanh của hoa cỏ không ngủ. Từ những tiếng sóng hoàng hôn của vũng biển
cũ đến tiếng cỏ lá sao động trong đêm rừng, vẫn chỉ là một hình thái của thiên
nhiên bên cạnh những tâm tình rộng lớn của người tự do. Bên kia vĩ tuyến, đất Cộng
Sản không có tiếng động. Biển Cộng Sản không có tiếng sóng. Rừng Cộng Sản không
có tiếng lá. Đời sống Cộng Sản không có tiếng người. Chỉ có những hình người.
Không có những con người. Đất bên ấy ngập ngụa những đồng chí, những cán bộ, những
anh hùng. Nhưng con người thì không có nữa.
Chị Ngự thong thả đi về phía dẫy lều. Chị nhìn vào : Bóng tối
nhờ nhờ. Hình dáng những người nằm ngủ ngang dọc hỗn độn. Chị Ngự quen biết tất
cả. Toàn là những người cùng một thôn xóm vượt bể đến đây trước hoặc sau chị Ngự
độ dăm ba ngày. Một thời gian ngắn, rồi một thôn xóm tự do sẽ được lập ở đây.
Xóm tự do dựng lên trên rừng cỏ hoang rồi cũng sẽ có chợ búa, có trường học, có
nhà thờ. Cũng sẽ có những con đường cỏ non, những vệ khói cơm lên xanh rừng
hoàng hôn. Rồi sẽ có tất cả : có con người, có sự sống, có tình yêu.
Lòng chị Ngự thấy ấm lại. Tâm trạng của người thoát lưới Cộng
Sản, lúc mưu toan bắt tay làm lại từ đầu, thường vẫn đi từ những lẻ loi trống vắng
đến cái tin tưởng ngày lại ngày, thêm sâu nặng đằm thắm gửi đến cái tập thể có
chung cảnh ngộ với mình.
Đứng một lúc nữa, chị Ngự thong thả trở về lều. Nằm xuống chỗ
cũ, trong bóng tối, chị Ngự chạm phải đứa con nằm bên cạnh. Thang bé ngủ say,
nhịp thở đều hòa. Chị vòng tay ôm chặt lấy con. Lát sau ngươi mẹ cũng ngủ theo.
°
Buổi sáng hôm sau, chị Ngự đem ba con cua gạch xuống suối rửa.
Lúc trở về lửa bếp đã cháy đỏ một góc lều. Mấy người bạn chị ùa sang làm bữa
giúp chị. Một thoáng, họ đã dọn dẹp giường chiếu, tay nải lại một góc, lấy chỗ
cho bốn năm người ngồi. Bóng lửa bóng khói thấp thoáng. Họ ngồi vây lấy nhau. Cả
một cái lều rộng tiu tít tiếng cười tiếng nói. Chỉ có đàn bà trẻ con, đàn ông
đã ra khỏi lều từ sáng sớm.
Anh Ngự đi vắng từ chiều hôm qua. Anh lên thăm đường đất trên
vùng cao nguyên, tính chuyện làm ăn cho gia đình anh và dăm bảy gia đình bạn hữu
khác nữa.
Từ ngày bí mật quyết định rời bỏ khu vực Cộng Sản, đến cuộc sửa
soạn vượt biển,cho tới khi kéo nhau lên miền định cư này, mấy chục gia đình đều
đồng lòng bầu anh Ngự lên làm trưởng đoàn. Anh Ngự vẫn được tiếng là tháo vát,
lại có sức, có chữ nghĩa, công việc sốc vác không hề biết mỏi mệt. Cuộc vượt biển
thành tựu một phần lớn do sự tổ chức chu đáo của anh Ngự. Anh được tin cậy,
giao phó hết thảy. Vào đến đồng đất nước người, việc lớn việc nhỏ, làng xóm lại
nhờ vả vào anh.Thành ra anh cứ phải đi luôn. Đôi khi về khu định cư thăm vợ
thăm con một vài bữa rồi anh lại đi. Chuyến này anh lên mãi trên cao nguyên. Nghe
đồn trên ấy có những xưởng cưa, những đồn điền mới mở, người ta cần nhiều nhân
công lắm. Anh Ngự lên tận nơi thăm hỏi đích sác. Có gì anh sẽ đưa tất cả đoàn
thể lên trên ấy làm ăn.
Được cái anh Ngự có đi vắng, ở nhà đã có bà con săn sóc đến mẹ
con chị Ngự. Cuộc sống của lớp người vượt biển vậy là đã đặt định được những nền
tảng đầu tiên. Những nền tảng này bắt nguồn từ một niềm tin, từ những tình
thương yêu. Niềm tin và tình yêu thương này chính là những tính chất căn bản của
đời sống mới dựng. Chính là những bản sác vĩnh viển của những con người những
cuộc sống ở bên này vĩ tuyến. Bên kia, là ngở vực là căm thù.
Một người, bạn chị Ngự ngừng tay nhặt rau, ngẩng lên hỏi :
- Này chị Ngự, bao giờ anh ấy về đấy ?
- Nhà tôi hẹn đến chiều nay, nhưng đường đất xa lạ chẳng biết
thế nào được.
- Thôi thì hôm nào anh ấy về thi về, miễn là được việc cho bọn
mình. Đi đâu có nhau cả, bửa no bữa đói cũng không ngại.
Chị Ngự nghĩ đến chồng. Chồng chị lên rừng. Những người khác,
người xuống thủ đô, người xuống biển. Lên rừng, xuống bể, những con người đi
xây dựng cuộc sống cho tập thể đang ngày đêm chuyển dịch tự do trên những ngả
đường đất nước tự do. Cuộc sống chứa đựng, phong phú, bao la. Cuộc sống thật là
cuộc sống của người. Nó không phản bội cải ý nghĩa cao đẹp của danh từ. Nó
không toàn bích, không kết thành những giáo điều mà còn nguyên vẹn chất tươi
xanh của máu huyết của hoa cỏ đang vươn lên. Ngày tháng tự do chói lóa ánh sáng
một niềm tin và con người thì phát huy bằng hết được cái bản sắc cá nhân cùng
là nhưng năng lực sáng tạo của mình, chỗ suy yếu của thế giới tự do là ở đó,
nhưng sức mạnh cũng là ở đó.
Những chiếc chả nem đã vớt khỏi lòng chảo, vàng một mầu vàng
mở màng óng ánh. Trông ngon lạ. Những lá rau sếp thành đống. Chị Ngự lau mồ hôi
trán, vấn lại tóc, cao giọng mời mọi người. Da chị hồng hào ảnh lửa. Mấy tấm gỗ
thùng được ghép lại làm những chiếc mâm cho bữa ăn đoàn kết. Năm bảy người xúm
sít. Trẻ con cũng ngồi len vào. Vui lạ. Người ta mời nhau ồn lên.
Chị Ngự buông đủa nhìn mọi người ăn ngon Iành. Những miếng chả
nem đỏ tươi gạch cua bể, vẫn còn làm chị Ngự nhớ thật nhiều đến một góc biển
cũ. Từ một hạt muối kết tinh trong nắng đến những buổi chiều muộn, xóm trên xóm
dưới kéo nhau ra bãi đón đoàn bè mảng ghé bến. Năm được mùa, những thùng cá đầy
ắp lấp lánh vẩy bạc, những con cua bể chắc mẩy đổ đầy ngoài bãi. Buổi tối, lân
tinh sáng ngời trên những lối đi.Tiếng trẻ cười nói, âm thanh hòa vào tiếng bể
động. Những hình ảnh. Những hình ảnh. Những kỷ niệm. Làng xóm bị chiếm đóng đến
với chị Ngự qua một cái gì thật buồn thảm của xa khuất, lại qua một cái gì thật
vui ấm gây nên bởi niềm tin. Trong đêm tương lai mênh mông vẫn lấp lánh sáng
lên những, vì sao của ngày trở về.
Trở về cũng đông đảo như ngày bỏ đi. Hàng triệu người bỏ đi.
Hàng triệu người trở về. Hai lần đi qua vĩ tuyến, họ sẽ kết thúc vinh quang cho
cuộc phấn đấu anh dũng và cho một chuyến đi vĩ đại nhất của thế kỷ này.
°
Tâm tình chị Ngự ngừng lại ở đây,
Tâm tình của người đi nhớ về một vũng biển cũ. Vậy mà còn
hàng nghìn hàng vạn tâm tình như thế nữa. Chúng ta đang sống tự do và đang tưởng
nhớ lại nhiều điều ở những vĩ tuyến bên kia. Những biển lúa chói lòa. Những buổi
đầu mùa hương đồng thơm ngát. Những làng xóm. Những phố phường. Bên kia. Bên
kia của chúng ta. Gần một triệu con người ra đi, những phút dồn đổ bằng hết
năng lực vào cái đương mùa Kiến Thiết Xây Dựng ở bên này, chỉ cần một bông lúa
để nhớ về làng xóm cũ, một ánh lửa để nhớ lại những phố phường, một mầu xanh trời
để nhớ những đại dương. Chỉ cần có những sự kiện bé nhỏ ấy để nhớ đến một ngày
trở lại. Vi chúng ta đã thề nguyền rằng chúng ta sẽ trở lụi. Hẹn với những vĩ
tuyến miền ngoài, người bỏ đi sẽ trở về. Trở về trên những lối đại dương của
người tự do. Chị Ngự ở câu chuyện trên đây cũng sẽ trở về vùng biển cũ của chị
trên những lối đi này.
Những chị Ngự khác nữa.
Những người tự do khác nữa.
Những Chị Ngự và những con người của thế giới tự do.
Góc đường Tự do
Gửi N. N. T.
Người thiếu nữ vừa nghiêng nón bưóc xuống lề đường. Chiếc
bóng dài thon đổ về phía trước người đang đi tới. Những tảng nắng nhòa nhòa
trên những nếp áo. Nhị nghĩ đến người thiếu nữ 46 trong một họa phẫm của Tô Ngọc
Vân.
Bỗng anh kêu lên :
- Hương !
Người thiếu nữ đứng sững lại giữa lòng phố. Ít nhiều tảng nắng
dạt khỏi tà ào. Mới đầu, chỉ là hai con mắt rất to và rất đen nhìn về phía anh.
Thăm thẳm ánh lên một thoáng ngạc nhiên bỡ ngỡ. Huơng ngập ngừng trên đường tiến.
Những chiếc xe hơi nhiều mầu vùn vụt băng qua. Những đợt ầm rú của máy nổ. Rồi
mặt đường rộng trở lại quang đãng. Hương đã đến dưới gốc cây, chỗ Nhị đứng. Người
thiếu nữ bỏ nón. Nắng gội chan hòa trên mái tóc Hương. Sự hiển hiện này chấp chới
bóng nắng.
Thời gian của Nhị và của Hương bây giờ là 8 giờ sáng. Không
gian của hai người là một góc đường tự do. Dăm ba người đi đường dừng lại vì tiếng
gọi của hai người. Họ mỉm cười, nhìn thân mật, rồi bỏ đi.
- Hương vào đây từ bao giờ ?
- Em vào từ tháng chín năm ngoái.
- Em ở đâu ?
- Phan Thiết anh ạ !
- Bây giờ cơ mà ?
- Vẫn Phan Thiết anh ạ !
Hai người yên lặng nhìn nhau.Thêm một phút trao gửi đằm thắm.
Đủ rồi. Họ cùng mỉm cười. Nhị đưa Hương vào một tiệm nước ở góc đường. Những giẫy
bàn ghế kê thành hàng dài chờ đón những người thủy thủ, những người thường dân
phần nhiều là Mỹ và Phi Luật Tân đến uống rưọu, khai vị dưới mái hiên nhìn ra
những đoàn pháo thuyền đậu đã hàng tháng ở ngoài bến. Nhưng chỉ từ năm sáu giờ
chiều trở đi. Buổi sáng, căn phòng rộng rãi vắng vẻ chỉ có Nhị và Hương. Họ ngồi
trước mặt nhau. Những ngón tay dài thon của người thiếu nữ đặt thoải mái trên mặt
bàn. Đã lâu lắm, Nhị mới lại sống một cảm giác thư thái sung sướng. Từ những
khoảng nắng ngoài kia, bóng tối nơi này phủ xuống từng đợt mát lạnh. Nhị nhìn
Hương nghĩ thầm :
"Hương vẫn thế."
Anh nghĩ đến một mé biển Phan Thiết. Đến tháng chín năm
ngoái, ngày Hương rời bỏ Hà Nội. Hương đã sống nhiều ngày tháng nắng lớn. Da
Hương nâu hẳn đi.
Đến lượt Hương đưa mắt nhìn anh. Nhị đoán được câu hỏi. Anh
trả lời :
- Anh vào đây được mười ba tháng rồi. Trong đợt di cư đầu
tiên. Anh vẫn ở Sài Gòn. Sống bình thường. Có một số bạn hửu cũng ở đây. Nam,
Thư, Ngự. Hương còn nhớ các anh ấy chứ ? Họ vẫn hỏi thăm đến Hương luôn. Anh bảo
Hương đã ở lại Hà Nội. Nhưng chẳng ai chịu tin cả.
Nhị ngừng lại, không nói nữa. Hương chợt bắt gặp trong mắt
anh một thoảng tối buồn rầu. Từ lâu rồi, mắt Nhị vẫn có những tảng bóng tối thoảng
vụt đến như thế. Nhị hút một điếu thuốc lá. Anh cố làm ra vẻ thản nhiên. Hương
nhìn Nhị chờ đợi ở anh một cái gì sáng tỏ, rõ rệt.
"Anh Nhị bảo mình đã ở lại Hà Nội rồi. Thế là thế nào ?
Không tin ở mình đã đành. Nhưng có còn tin tưởng ở chính anh ấy nữa không
?"
Lòng Hương chợt nhói lên một súc cảm chua sót. Từ lúc gặp lại
Nhị hết sức đột ngột ngoài đường, cho đến lúc đi theo anh vào ngồi trong tiệm
nước, Hương đã nghĩ rằng từ một ngày rời bỏ vĩ tuyến, cuộc phiêu lưu đã chấm dứt
sáng hôm nay, và ngày tháng tới rồi sẽ vững vàng nhiều. Người thiếu nữ đến một
mình trên đất nước tự do bát ngát xa lạ, bắt đầu hưởng tới một sự che chở bằng
những ý nghĩ thương mến nhất của gửi gấm. Nhưng cùng một lúc, Hương cũng nhận
thấy Nhị đã thay đổi nhiều.
Điều mà Hương không hiểu được là Nhị đã thay đổi thế nào. Cuộc
sống của Hà Nội, của hậu phương, của cuộc di chuyển rộng lớn, cuộc sống lửa đạn
của thời đại mấy năm nay hình như không thuộc về những người đàn bà như Hương nữa.
Nhị xa cách khuất vắng luôn luôn. Anh đổi khác thật nhiều. Lắm lúc anh như mất
hẳn. Bây giờ Hương lại có anh, nhưng Hương chưa giám tin rằng anh còn là con
người đã đến với Hương trong ngày cũ. Những người trạc tuổi Nhị, những người bạn
của Nhị, từ ngày bùng nổ những tiếng trọng pháo mười năm, Hương gặp nhiều trên
những ngả đường. Nhưng họ đều bước đi những bước mải miết, mắt nhìn thẳng, rắn
lạnh như những đoàn người đi về những phía chiến trường. Cuộc sống nào cũng
mang nặng những hình ảnh trận tuyến. Hương rơi vào cái mịt mùng của trận tuyến.
Hương chìm vào lãng quên của những lớp người hậu phương. Đôi mắt của lớp người
trẻ tuổi sống giữa chiến thời, Hương nhìn thấy ánh lên trên cái nền trời hoang
tàn đổ vỡ, rất nhiều thảm thê hải hùng và rất nhiều bóng tối.
Bây giờ ngồi trước mặt Nhị, Hương có cảm tưởng như vừa gặp lại
những đôi mắt ấy. Một niềm sợ hải không đâu tràn tới. Hương ngồi yên lặng,
không hiểu nên bắt đầu bằng gì ? Quá khứ, hiện tại, hay tương lai ? Người thiếu
nữ rung động mãnh liệt với phút gặp lại của hiện tại, đã sống cả cái tâm tình
phơi phới của tương lai. Nhưng còn dĩ vãng ? Còn sự xa cách mười năm ? Còn chiến
thời đã đi qua và chưa dứt hẳn. Còn đôi mắt Nhị ở bên kia bàn mà Hương vẫn chưa
tìm thấy cái vùng trời tươi sáng quen thuộc của ngày xưa. Cuộc sống riêng lẻ của
Nhị đổi thay nhiều đến nỗi Hương không giám đoán nổi cái thực trạng sau những lớp
đổi thay nữa. Quá khứ đè nặng xuống, chìm chìm phảng phất chung quanh chỗ ngồi.
Nó đọng lại trong những bờ mắt thành từng lớp kỷ niệm trùng điệp. Những ngọn
sóng đang trùng điệp dâng lên. Nhị đang nhớ trở về. Như thế nào cũng có một lần
anh phải nhớ trở về. Thái độ của con người hôm nay ở Nhị là sự kết tinh, sự chắt
gạn, sự rút tỉa của những nỗi niềm xa thẳm đã về cũ đang kết thành hộ thống. Ngồi
đây với Hương, nhưng anh về với dĩ vãng rồi. Trở về lần cuối cùng. Ở một nơi
nào trong tâm hồn người, một cánh cửa vừa đóng sập xuống. Tiếng sập khô gọn. Dĩ
vãng về đầy trong hồn Nhị.
Anh nhớ lại.
Tất cả, và từ đầu.
°
Thời gian ngược đường về dĩ vãng, qua từng chặng từng đoạn một.
Mỗi chặng mỗi đoạn, một mớ hình ảnh. Từng vùng từng miền riêng lẻ. Chỉ có một
thời gian cho rất nhiều không gian. Những mảnh năm tháng đã tan vở khít liền lại
bởi một giòng tình cảm không đứt đoạn, không ngắt quãng. Nhi nhớ lại thẳng tắp
một hơi, về tận những hình ảnh khởi đầu. Những tầng đáy cũ, những nếp sống cũ,
những kỷ niệm xa xôi, thăm thẳm. Qua biết bao nhiêu giông bão, bốn năm lần chuyển
đổi chính thể, mà giòng tình cảm vẫn chạy đi, như một đời suối nhỏ chảy ngầm
trong lòng đất. Thầm lặng nhưng liệt.
Nhị trở về từng vùng trời cũ. Mỗi vùng một mớ hình ảnh.
1945.
Phố Hiến. Sự gục đổ của đế quốc Nhật Bản. Hình ảnh cũ đứng lại
dưới một chân đê. Bờ đê bên kia, sông Hồng suối băng, tiếng lũ tháng bảy thao
thiết đổ về mạn Nam Định. Nam Định là quê Nhị. Ý nghĩ đứng tại dưới chân con đê
này, rồi đi dần vào một vùng chói nắng. Nắng lắm. Như một vòng sáng điện từ
chao đèn tỏa xuống đường phố, nhưng thiên nhiên hơn. Ánh nắng chói chang rực rở.
Nhưng chùm hoa gạo bừng bừng trên đầu Nhị. Từng cành rụng xuống vai Nhị, trên
mái tóc cua Hương. Hoa dỏ rơi xuống Hương, trên một thứ suối tóc mun óng của 17
tuổi. Nhị nhìn lên : Khối hoa nhòa nhòa trên một đường chu vi. Nắng bám chặt lấy
rối tan vở ngay ở đó gây cho Nhị một cảm giác choáng váng đầy đặc. Nhị 20 tuổi.
Đế quốc Nhật Bản đang gục đổ trên những chiến trường Đông Nam Á Châu. Hoa gạo nở,
viết một thứ phấn đỏ trên cái bảng đen của tình cảm. Nhị vừa ra khỏi trường. Vụ
nghỉ hè bắt đầu.
Anh đứng với Hương dưới chân con đê chạy vòng quanh tỉnh Hưng
Yên. Buổi trưa tình lẻ yên tĩnh thoải mái. Hai người chia tay nhau. Hôm sau Nhị
về Hà nội. Nhị yêu Hương qua tình yêu bén nhậy, mãnh liệt của tuổi hai mươi của
lần thứ nhất. Mặc dầu những vết giầy đinh, những lưỡi lê sáng loáng, những ruộng
đay, những tiếng hò hét của bọn lính Nhật Bản, anh yêu và sống tự do.
1945 với những đêm tắt đèn phòng thủ,những toán lính Nhật, những
chiếc pháo đài bay Mỹ vụt qua không phận đất nước chỉ mới rung động đến cái
toàn thể của đời sống thôi. Ở một mặt khác, tình yêu của anh với Hương vẫn được
nguyên vẹn và Hương, Hương vẫn nguyên là Hương của anh.
Vẫn 1945.
Hà Nội. Một tháng sau. Nhị bỏ học đi theo Cách mạng. Không
khí Hà Nội ngột ngạt, náo nức. Những sự kiện bay múa nhất của Cách Mạng mở cho
Nhị những ngày tháng hăng hái tin tưởng nhất của chiến đấu. Những cửa lớp Việt
Nam Học Xá đón nhận những tuổi 20 vác súng đến tranh đấu chính trị trên những
hàng ghế. Cuối lớp Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đầu lớp, Việt Minh. Người giáo sư
già bỏ dở một bài giảng văn, nhìn bọn học trò tranh luận kịch liệt về những đường
lối của 1945, của bấy giờ. Nhị quên dứt Hương, Hương ở Ngọc Hà. Đến khi anh nhớ
đến Hương thì Hương đã từ Hưng Yên về Ngọc Hà rồi. Người thiếu nữ hiền hậu bé
nhỏ đã bị anh bỏ quên trong cái cuồng nhiệt của cuộc sống hàng ngày của anh từng
phút từng giây, đến bị Cách Mạng lôi cuốn trước đoạt mất. Cuộc sống không thuộc
về Nhị nữa, càng không thuộc về Hương. Cách Mạng với những cạnh khía máu lửa đỏ
khé, chưa hủy diệt tình cảm Nhị nhưng đã khoác lên đó cái mầu sắc của giai đoạn,
của chiến thời. Đôi khi vào một buổi tối. anh đạp xe lên vùng Ngọc Hà tìm
Hương. Nhưng hai người không mấy lúc được gặp nhau lâu.
1945 tổng kết một sự gục đổ Nhật Bản.
1945 mở đầu cho những giai đoạn cách mạng.
Xây dựng ở đâu chưa biết chứ đổ vỡ ở tình yêu. Nhị vẫn còn
Hương nhưng nếp sống mới đã làm hai người xa nhau. Những rung động cũng bắt đầu
nhạt loãng trong xa cách. Đôi khi anh nghĩ đến tình yêu của hai người, anh thấy
mình tội lỗi, yếu đuối.
Sang 1946.
Đợt súng đầu tiên bùng nổ. Chiến tranh trường kỳ khởi đầu bằng
tiêu thổ kháng chiến đã san phẳng cái tỉnh lỵ thân yêu của hai người. Cây gạo bị
chặt đổ nằm chết gục dưới chân đê cũ. Chiến tranh lan đi. Nhị rời bỏ mặt đất,
xuống những đường hầm. Một tin tức về Hương vụt đến rồi tan nhoè giữa hai đợt
súng nổ. Tình yêu của một tên lính trong trung đoàn đóng giữ thành phố đã chạy
theo những đường cống lãnh đen đặc trôi ra ngoài hậu phương. Nhị xa hẳn Hương,
xa hẳn. Chiến thời mịt mùng gió bão. Không một cánh thư. Không một địa chỉ.
Không một hình ảnh. Tình yêu rời bỏ cái địa hạt cụ thể của sự sống đi sang cái
địa hạt trừu tượng của những bóng hình. Những bóng hình thấp thoáng ấy đi theo
Nhị trên những ngả đường đào chữ chi, những xóm làng, những đô thị tàn phá, rồi
về nằm dưới đáy bạc đà kháng chiến.
Nhị không sống thêm được gì nữa.
Như thế, từ 1946 đến tận 1948.
Những hình ảnh của đoạn đường này : một thôn xóm hẻo lánh, cuối
đáy Thanh Hóa. Trung tâm tản cư chợ Đại Cống Thần, với những giòng sông hốt hoảng
hỗn loạn nhất của con người và thời đại.
Chuyển dịch không ngừng không nghỉ, nhưng Nhị không sống với
sự chuyển dịch này. Anh buông thả anh để bị cuốn hút đi. Thế thôi. Một tháng ở
rừng núi. Một tháng ở đồng bằng. Giữa cuộc sống ồ ạt bề mặt, thiếu bề sâu, lòng
Nhị khép kín lại. Anh bắt đầu cảm thấy thấm thía một sự trống vắng tâm hồn rộng
lớn. Tình yêu của ngày nào đã thành những kỷ niệm những thương nhớ chua xót hôm
nay. Trên những ngả đường tàn phá anh đi tìm Hương.1945 với bọn lính Nhật Bản,
Hà Nội hủy phá, với những đêm tắt đèn phòng thủ với những rãnh chiến hào, những
hàng cây gục đổ trên nhưng đầu ô, nhưng toàn thể còn chứa đựng một cái gì tươi
mát của đầu mùa cách mạng. Hồi đó, Nhị vẫn còn yêu tha thiết, sống tin tưởng.
Không gặp Hương, nhưng anh vẫn có Hương trong cuộc sống tình cảm của anh. Bây
giờ thì anh đã mất hẳn Hương. Tình yêu gần biến thành một thứ sự kiện khách
quan. Cái chủ quan, cái con người yêu thương trong anh đã đổi khác ghê gớm.
Tình yêu tách rời với cuộc sống đứng giữa những biên giới ớn lạnh. Chính thể chứa
tới giai đoạn cấm đoán anh yêu thương, nhưng những sự kiện ngoại cảnh đã tác động
dữ dội đến nội giới. Nhị yếu đuối quá bé mọn quá trước ngoại cảnh sô đẩy mãnh
liệt. Xa cách dài hạn, đến chính anh cũng thay đổi. Nhị đau khổ, ngờ vực. Hương
ở đâu ? Hương làm gì ? Hương có thay đổi ? Hương còn nhớ hay Hương đã quên anh
? Nhưng câu hỏi, những sao suyến thắc mắc, Nhị không giải quyết được gì. Anh đã
đến một giai đoạn mà con người không có quyền được giải quyết bất cứ điều gì,
dù là một vấn đề tình cảm riêng lẻ. Con người anh khô cằn. Những lớp mưa nắng cứ
dãi xuống, cứ thấm xuống, đã làm loãng nhạt tình cảm còn làm loãng nhạt những kỷ
niệm.
1949.
Cuối mùa thu. Anh được tin Hương ở miền Ba Đông Hưng Yên. Rời
bỏ Hà Nội, Hương theo gia đình về quê, ở một miền đồng nội xa cách hẳn với
thành phố tàn phá. Anh tìm đường đến chỗ Hương ở. Nhưng một trận sốt rét rừng kịch
liệt đã giữ anh lại cơ quan. Nhị viết cho Hương một lá thư dài. Lá thư duy nhất
trong bốn năm trời. Lá thư gửi đi, nhưng không nhận được trả lời. Chiến thời
không gửi trả những hồi âm của tình cảm mà chỉ gửi trả lại những đợt trọng pháo
cho những đợt trọng pháo. Nhiều đêm không ngủ được, anh thức giấc làm lại với
anh một thứ kiểm thảo tình cảm để khảm phá một cách chua sót rằng anh vẫn yêu
Hương. Như một tên tù nằm trong nhà tù khám phá rằng mình vẫn tự do. Chua sót
là không được tự do. Anh cố gắng nhớ đưọc một khuôn mặt hiền hòa, một đôi mắt
tham thẳm vì chỉ thấy mầu đen đen thăm thẳm, một hình nón đội nghiêng trên một
mái tóc. Và mầu đỏ của hoa gạo. Những hình ảnh lành khỏe cao đẹp của Hương lại
là những hình ảnh lành khỏe tươi đẹp của cuôc sống. Mất tình yêu, anh đã mất
luôn cuộc sống. Vậy mà anh đang ở giữa chết chóc, thiêu hủy. Một đô thị tàn phá
trơ trụi. Những rãnh chiến hào xâu tối. Ba giai đoạn của chiến tranh trường kỳ.
Những ngả đường đất nước hoang vắng. Anh bám víu lấy những hình ảnh cũ, sống với
những hình ảnh này.
1950. Nhị ở ngoài hậu phương. Hương đã trở về Hà Nội.
1951. Một năm. Thế là Hương đã trở về bên kia. Nhị ở lại giữa
lòng biên giới cũ, giữa 1951, với những hình ảnh đen tối khủng khiếp. Một căn
nhà sàn heo hút ở Khu Tư. Bóng cây bóng lá dầy dặc. Con đường nhỏ chìm khuất chạy
đưới lớp cỏ hoang ngút ngàn. Một giòng suối độc. Những cơn sốt rét rừng vật vã.
Màu vàng bệch của da mặt người ốm. Những viên ký ninh. Cuộc sống không còn là
cuộc sống, chỉ còn là những viên thuốc ký ninh. Đôi mắt Hương thăm thẳm giữa
hai viên thuốc đắng chát. Tình yêu nghiêng ngã tan vỡ thành những mảnh vụn. Nhị
có còn Hương không ? Anh không giám biết nữa. Anh sợ cả đến tình cảm mình. Vì
đã đến thời kỳ mà người ta không cho phép anh còn được có tình cảm nữa. Ở thế
giới cộng sản, tình cảm đã là một sự trạng kỳ quái. Một đôi mắt đẹp, một suối
tóc óng mượt, cũng giống như kẻ thù phong kiến tư bản. Những cánh thư cũ bị lôi
khỏi đáy bạc đà và bị đốt cháy. Dĩ vãng, kỷ niệm, tình cảm bị khai quật lên.
Không còn đôi mắt Hương nhìn xuống những trang sách học tập đường lối của đoàn
thể. Chỉ còn những đôi mắt căm thù. Phải cười thế này. Khóc thế này. Cấm buồn.
Cấm cả vui. Những tình cảm cuối cùng bi xếp hàng bên cạnh những nếp sống những
tư tương phản động. Anh không được nhớ đôi mắt đẹp, mà chỉ được nhớ đến một giai
cấp phản động. Một buổi kiểm thảo, người ta bắt anh nói đến Hương. Anh kể lại hết
: Từ 1945 đến 1950, đến bây giờ. Những ngày Hưng Yên của anh. Những ngày Ngọc
Hà. Cả đến nội dung những bức thư của hai người. Qua một tình yêu bị kiểm thảo,
người ta sác định cho Nhị một lập trường tình cảm mới. Một nhà lảnh tụ ngoại
bang đến đứng trên chỗ đứng của Hương. Hương, người thiếu nữ của giai cấp địa
chủ. Đôi mắt thăm thẳm hiền hậu ấy là của thành phần phản động bóc lột. Phải cắt
đứt.
Hết 1950.
Nội giới anh, có chỗ đứng của Hương từ 1945 trống vắng cái trống
vắng của con người 51.
1952.
Nhị bỏ hậu phương về Hà Nội. Rã rời, mỏi mệt, không một chút
tin tưởng. Nhị gặp lại Hương một vài lần. Rồi thôi, anh không tìm gặp Hương nữa.
Tình yêu cũng như cuộc sống, đều là một thứ mùa màng, không chắp nối lại được
trên những mảnh đất đã rách nát, tan vỡ. Tình cảm Nhị tê dại hẳn đi. Những mặc
cảm kéo đến chồng chất : mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm thất bại. Mặc cảm thiên đường
đổ vỡ. Ngày tháng nghiêng đi. Cuộc sống, tình yêu trở về những bước chậm chạp
trên một địa hạt đã cằn cỗi.
1952. 1953. Rồi 1954.
Tình yêu khởi đầu từ 1945 trên sự gục đổ của đế quốc Nhật Bản, chưa trở về anh bằng thất thủ Điện Biên. Tiếng súng nổ chung quanh Hà Nội. Những ngày tháng không tin tưởng. Người ta chờ đợi một cái gì rõ rệt. Có thể đau đớn hơn, nhưng phải rõ rệt hơn. Tháng bảy 1951. Hiệp định Genève nổ tung như một tiếng chuông báo nguy. Những phút sống còn bừng lên ngọn triều quật khởi, nối liền vào những chuyến đi. Nhị vào Nam. Anh đi một mình. Cũng không biết Hương có đi hay Hương đã ở lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét