Mưa Nhã Nam 2
TRƯƠNG CHI
"Ngày xưa có anh Trương Chi
người thì thậm xấu hát thì thậm hay"
(Truyện cổ)
Trương Chi đứng ở đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống dòng sông. Phía
xa kia là chân trời rực hồng ráng đỏ. Nhà nàng ở phía ấy. Sương xuống lạnh. Một
nỗi buồn da diết choán ngợp lòng chàng. Chàng gác chèo và mặc kệ dòng sông cuốn
con thuyền đi.
Chàng hát:
"Nỗi buồn của ta ơi
Như cục đá đè nặng tim ta
Nào ai thấu
Phía xa kia là quê nhà
Tuổi trẻ mờ sương
Những ký ức mờ sương
Những ước mơ đâu cả rồi?
Những mơ ước của ta
Ta đã mơ rất say đắm
Mơ hoa lá, những bài ca,
Những tiếng đàn,
Những nụ cười, những đồng lúa chín,
Những lâu đài rực rỡ,
Ta đã mơ thấy nàng
Trong suốt và đỏ chói
Những mơ ước đâu cả rồi?
Những mơ ước của ta
Có ai về đó không?
Về quê nhà ta
Chào giúp một câu
Cho bớt nỗi đau
Chào giúp một câu
Cho bớt nỗi sầu
Những mơ ước đâu cả rồi?
Những ước mơ say đắm khôn nguôi
Nỗi buồn của ta ơi
Như cục đá đè trĩu tim ta
Ai thấu chăng tình ta?”.
Tiếng hát vút cao. Đêm xuống. Bóng tối mù mịt Trương Chi rùng mình vì sự vắng lặng
xung quanh. Không ai đáp lại chàng. Sự vắng lặng kinh hoàng. Chỉ có tiếng giun
dế, tiếng ễnh ương, tiếng chó sủa. Trương Chi úp mặt vào hai lòng bàn tay chai
sạn. Chàng khóc. Không có nước mắt. Chàng cắn vào ngón tay. Một đốt ngón tay đứt
trong miệng chàng. Chàng nhổ mẩu ngón tay xuống Bông. Trời tối, không thấy máu.
Chàng thò ngón tay xuống dòng nước xiết. Dòng nước mơn man khiến chàng dễ chịu.
Chàng duỗi thân, ngả người vào lòng thuyền. Chàng nói:
- Cứt!
Nói xong chàng nhắm mắt lại. Bốn nghìn năm trước chàng đã mất
ngủ thế này. Bốn nghìn năm trước chàng đã đau đớn thế này, chàng đã căm giận thế
này.
Việc gặp Mỵ Nương xốc lại toàn bộ suy nghĩ của chàng. Trước kia, Trương Chi chỉ
hình dung mơ hồ có những cuộc sống khác, lối sống khác. Chàng chỉ ngờ ngợ rằng
cuộc đời chàng tẻ nhạt, nhàm chán. Rằng thân phận chàng chẳng ra gì. Rằng con
thuyền này, những vật dụng này chẳng ra gì. Rằng thân xác chàng xấu xí, chẳng
ra gì. Cả ngay tiếng hát của chàng cũng thế, vô nghĩa, chẳng ra gì. Tuy nhiên,
việc tự khép kín, thói lười nhác an phận, thêm một chút kinh bạc nữa và những cố
gắng không mỏi để kiếm miếng ăn khiến chàng giữ được bên ngoài vẻ thường. Không
ai ngờ vực chàng. Không ai sợ hãi chàng. Chàng sống giữa bầy. Chàng cười nói.
Chàng chịu đựng. Chàng mua bán. Chàng chấp nhận. Mọi ước lệ của thói đời lướt
qua chàng không dấu vết. Chàng cũng lướt qua nó, những ước lệ của thói đời ấy
không dấu vết. Giờ đây, gặp Mỵ Nương rồi, chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của
chàng thật là cứt, là cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng, mà cả
bầy. Tất cả đều thối hoắc.
- Cứt!
Trương Chi gầm lên khe khẽ. Những bức bối cồn cào lòng chàng.
Chàng hát:
"Đêm nay là đêm nao
Này người tình ơi
Rồi nàng cũng thành một bà lão
lụ khụ, đáng kính và có đơn thôi!
Bây giờ nàng cứ cười đi
Ta đâu mếch lòng
Nàng còn trẻ tuổi.
Nàng hiểu làm sao
Những khao khát nực cười của ta
Ta vốc một nắm gió
Ném vào khoảng không kia
Nheo một bên mắt
Tay đút túi
Ta không khiến nàng bận tâm
Gió đi đâu
Dạt đến chân trời nào
Nàng biết quái gì?
Gió đi đâu?
Đến bao giờ thành bão?
Trên con thuyền này
Ta bắt quyết
Luyện phép một mình
Ai thấu lòng ta?
Nàng cứ cười đi
Và chớ có tin
Nàng có tin ai đâu
Thói của nàng là thế
Nàng được giáo dục như thế từ bé tí
Nàng chỉ tin ở bạo lực
Ta biết thừa
Ai thấu lòng ta
Những khát khao của ta
Những cuồng vọng của ta
Những tín ngưỡng của ta
Với con thuyền này
Ta chèo qua số phận
Ta chèo qua thời gian
Ta chèo một mình...”
Trương Chi không hát nữa. Chàng lại nói:
- Cứt!
Nói xong chàng nhỏm dậy. Chàng thấy đói.
Chàng phải kiếm ăn đã. Chàng lái thuyền vào bờ. ở hai ven bờ,
suốt từ thượng nguồn đến tận hạ nguồn, chàng đã đặt mỗi bên một nghìn cái đó.
Nhấc đó lên là có cái ăn. Đây là cá, là cua, là ếch nhái. Trương chi bắt cá ném
vào lòng thuyền. Chàng dùng hai hòn đá nhen lửa nướng cá. Chàng ăn cá nhưng được
vài miếng chàng lại nhổ đi.
Chàng lại nói:
- Cứt!
Hình ảnh Mỵ Nương hiện ra. Trương Chi thở dài. Nàng ngả người
trên nệm. Nàng lấy những ngón tay thon thả gỡ tóc. Nàng bảo chàng:
- Hát đi!
Viên quan trưởng bảo chàng:
- Hát ca ngợi công danh đi!
Trương Chi tức nghẹn họng. Chàng biết, hát về điều ấy thật là
trò cứt. Mỵ Nương mỉm cười khuyến khích chàng. Chàng đã mềm lòng trước nụ cười ấy.
Chàng khò khè trong cổ. Chưa bao giờ chàng hát một bài hát thô bỉ thế này. Bài
hát chỉ oàn “ấy a” với lại “huầy dô”. Bài hát đông người.
Mỵ Nương bảo:
- Hay lắm!
Bọn hoạn quan đứng quanh cười ré lên:
- Hát như cứt!
Mỵ Nương tỏ vẻ thương xót:
- Hát về tình yêu đi!
Viên quan trưởng ngăn lại:
- Đừng! Nên hát về sự nhẫn nhục!
Mỵ Nương làm một cử chỉ khuyến khích. Trong cuộc đời bạc bẽo
của chàng, Trương Chi chưa được ai khuyến khích bao giờ.
Chàng hát, mắt hướng về viên quan trưởng:
“Sự nhẫn nhục bắt đầu từ đâu?
Ngày xưa, ta tưởng nó bắt đầu từ bản tính ta
Từ đầu ngón chân, ngón tay ta,
Hóa ra không phải
Sự nhẫn nhục bắt đầu từ mày!”
Viên quan trưởng ngăn lại:
- Đừng hát!
Trương Chi luống cuống. Chàng thấy khổ quá. Giữa sông nước có
ai chỉ bảo chàng đâu? Sự nhẫn nhục, thói hãnh tiến, lòng tham, tính thiện...Tất
cả như nhau hết, vụn vặt và vô nghĩa lý. Chàng chỉ có một mình. Ngày cũng một
mình. Đêm cũng một mình. Mưa nắng như nhau hết.
Bọn hoạn quan cười ré lên:
- Hát như cứt!
Mỵ Nương cười, Trương Chi rất thích giọng nàng cười. Tiếng cười
rung trong ngực chàng.
Viên quan trưởng bảo:
- Hát ca ngợi tiền bạc đi!
Bọn hoạn quan reo lên.
Mỵ Nương làm một cử chỉ mơn trớn. Chẳng có ai nhận ra cử chỉ ấy.
Chỉ có riêng chàng biết. Trương Chi luống cuống, lại một bài hát toàn “ấy a” với
lại “huầy dô”. Có chỗ chàng lại bắt chước tiếng chó sủa, tiếng gà cục tác và tiếng
dê kêu nữa. Bài hát đông người...
Bọn hoạn quan cười ré lên:
- Hát như cứt!
Mị Nương cười rũ rượi. Chàng biết, sau tiếng cười độ lượng
kia nàng sẽ mím môi lại. Nàng có tật thế.
Trương Chi rùng mình. Chàng thấy lo sợ cho chàng. Chàng biết
rõ mình. Chàng có thể chịu được đói khổ, nhọc nhằn, thói nhẫn tâm, sự đểu cáng.
Thậm chí cả sự hạ nhục của bọn người nông nổi và thiển cận nữa, không sao.
Chàng chỉ sợ khi chính bản thân chàng lâm vào tinh thế phải tự hạ nhục bản tính
mình, thế là mất hết, không còn tiếng hát, không còn Trương Chi. Trương Chi ngó
quanh. Bọn hoạn quan, những gã đồng cô, những tên hề lùn, bọn bói toán, tướng số,
lang băm...xúm xít, ép chặt lấy chàng. Trương Chi sợ hãi. Chàng mong nhìn thấy
một người đánh cá, chỉ đánh cá mương thôi cũng được, chẳng cần đến loại người
đánh cá kình. Chàng sẽ vững tâm.
Mỵ Nương giúp chàng. Nàng bảo:
- Hát về tình yêu đi!
Trương Chi nhắm mắt lại. Chàng thấy bồng bềnh như đứng trên
thuyền. Đến lúc này, chàng biết chàng phải cất giọng tự hát cho mình, bởi không
chàng sẽ mất hết, mất cả cuộc đời. Chỉ bằng tình yêu của chàng, tình yêu chân
thực và nồng cháy của chàng mới hòng cứu vớt được. Không phải Mỵ Nương, không
chỉ là Mỵ Nương. Dù cho Mỵ Nương có là một con phượng hoàng kiêu hãnh hoặc một con
nhện xấu xí cũng vậy. Với chàng lúc này tất cả đều như nhau. Tình yêu của chàng
hướng về tuyệt đối Nàng là cái bẫy của số phận chàng.
Chàng hát:
“Tình yêu, bài ca mà Trương Chi hát
Cất lên từ trái tim bị thương tổn
Ngọn cờ nàng phất trên ta là tình yêu
Và tiếng trống trận là nhịp tim ta
Kẻ thù của ta
Chúng sẽ bôi nhọ tên ta
Còn ta
Ta sẽ vung ra trước chúng
Lưỡi mác của tình yêu
Xuyên qua tim ta
Và qua tim nàng
Này người tình ơi
Thực ra, nàng còn rỗng tuếch và tẻ nhạt
Tâm hồn nàng có những con rắn hoài nghi
trơn tuột nằm phục
Nàng gian lận trong bài bạc
Nàng đánh giá điều thiện như cách nàng
đánh giá đồ trang sức và tài sản
Nàng ngờ vực ngọn gió
Và gieo gặt nhờ kích thích thói xấu
Mồi thính của nàng
Là quyền lợi và danh dự hão huyền
Ta đâu cần một bữa cơm
Đâu cần một manh áo
Cơm ta thiếu gì?
áo ta cần chi?
Ta ở trên đất đai của tổ tiên ta
Và quăng lưới trên dòng sông của tổ tiên ta
Những khao khát của ta
Hướng về tuyệt đối...
Ta là Trương Chi
Ta ca ngợi tình yêu
Nở từ hạt thiện
Và bông hoa của tự nhiên
Là sự chân thực lạnh buốt...”
Tiếng hát Trương Chi cao vút. Xung quanh im bặt. Nhừng giọt nước mắt long lanh
trên mắt Mỵ Nương. Nàng chưa từng được nghe ai hát thế này. bọn hoạn quan, những
gã đồng cô, những tên hề lùn, bọn bói toán, tướng số, lang băm...đứng dạt cả
ra. Trương Chi vẫn hát, đôi chân của chàng như bốc khỏi đất, chàng đang bay
lên.
Chàng hát:
“Hãy ca hát tình yêu
Hỡi những trái tim lãnh cảm
Những trái tim sắt đá
Bạo lực chỉ gây oán thù
Nòi giống phải trả giá
Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Vẻ đẹp tự nhiên
Sự chân thực lạnh buốt...”
Chàng hát:
“Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Đây là thanh danh ta
Và thanh danh nàng...”
Chàng hát:
“Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Tình yêu không xúc phạm được
Bởi nó kiêu hãnh và tinh tế...”
Chàng hát:
“Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Tình yêu cần hy sinh
Bởi nó không khoan nhượng...”
Chàng hát:
“Sự ngu ngốc hay khôn ngoan với tình yêu đều như nhau
Sự ràng buộc hay không ràng buộc cũng thế...”
Chàng hát:
"Tình yêu không mất đi và không sinh ra
Tình yêu tuyệt đối...”
Chàng hát:
“Ta là Trương Chi
Bài ca ta cât lên từ trái tim bị thương tôn
Này người tình ơi
Xin đừng vì sự thương tổn trái tim ta mà
tổn thương trái tim nàng
Chúng ta đi qua cuộc đời bạc bẽo này, giả dối này
Nàng cứ sống đi rồi sẽ hiểu
Những chân trời nào nàng sẽ qua...
Và những gì làm trái tim ta đau
Ghi dấu trên thanh danh ta...
Và trên cả thanh danh nàng...
Có một thứ tình yêu bất tử...”
Trương Chi im bặt. Chàng cũng không biết chàng dã bay tới bến sông từ khi nào nữa.
Hình ảnh Mỵ Nương biến mất đâu rồi, trước mặt chàng là sông nước trắng xóa một
màu, trời mây trắng xóa một màu.
Trương Chi chèo thuyền ra giữa tim sông.
Chàng lại nói:
- Cứt!
Chàng từ trên thuyền bước xuống xoáy nước giữa sông. ở trên
trời, trên mặt đất, trên biển cả và các dòng sông đều có những hốc đen bí mật.
Những xoáy nước trên sông là những hốc đen như thế.
° ° °
Trong truyện cổ, người ta kể rằng khi hát xong câu hát cuối
cùng:
“Kiếp này đã dở dang nhau
Thì xin kiếp khác duyên sau lại lành “.
Trương Chi đã nhảy xuống sông tự trầm. Hồn chàng nhập vào
thân cây bạch đàn. Người ta lấy gỗ bạch đàn tiện thành bộ chén tiến vua. Mỵ
Nương rót nước, nhìn thấy hình ảnh Trương Chi trong chén. Giọt nước mắt nàng
lăn xuống, cái chén bạch đàn vỡ tan.
Tôi - người viết truyện ngắn này - căm ghét sâu sắc cái kết
thúc truyền thống ấy. Quả thực, cái kết thúc ấy là tuyệt diệu và cảm động, trí
tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết sức mình. Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác.
Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời Trương Chi cũng sẽ văng
tục. Nhưng đấy không phải là lỗi ở chàng.
Mỵ Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc.
Điều ấy vừa tàn nhẫn, vừa phi lý.
Lẽ đời là thế.
KIẾM SẮC
"Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
(Nguyễn Du)
Trong số người gần gũi với Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm mưu phục lại cơ đồ
nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến. Người đó là Ðặng Phú
Lân.
Lân quê ở Hưng Hóa, cha là Ðặng Phú Bình, trước là thuộc tướng
của Trịnh Bồng. Bình tính ngang tàng, võ công thâm hậu, thấy chúa Trịnh hèn mà
cách xử thế keo kiệt, không xứng đáng với bậc vương giả nên bỏ Trịnh Bồng vào
Ðàng Trong. Khi Tây Sơn nổi lên, Bình theo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc không tin
Bình, cho Bình là dân Bắc Hà trí xảo, không trung tín. Nhạc chỉ cho Bình làm một
chức quan võ nhỏ ở vùng sơn cước mãi tây Bình Thuận. Bình bất đắc chí, suốt
ngày uống rượu, nhiều khi say quá, cứ trông về phía trời Bắc mà khóc hu hu. Lân
can thế nào cũng không được. Về sau Bình ngã nước, râu tóc rụng hết, gầy tọp
đi, da vàng như nghệ, chỉ nằm chờ chết. Bình có một thanh kiếm gia truyền, sắc
như nước, sống kiếm đổ chì, sức chém khủng khiếp. Trước khi chết, Bình trao
thanh kiếm lại cho Lân, bảo rằng: "Con ơi, nước đang có loạn. Tây Sơn bây
giờ đang lên như thế chẻ tre. Nhưng ta thấy sức chơi của bọn người này bất quá
chỉ như trọc phú nhà giàu, gÁnh vác giang sơn sao được ? Ta đồ rằng mệnh Tây
Sơn có hạn. Hiện Gia Ðịnh có Nguyễn Phúc Ánh là nòi vương giả, con gắng vào đấy
tìm xem". Lân khóc, mắt chảy có máu. Bình giãy mấy cái, mồ hôi toát đầm
đìa, người cứ lạnh dần rồi chết. Lân lấy kiếm đào huyệt chôn cha; tìm đường vào
Gia Ðịnh theo Nguyễn Phúc Ánh. Lúc bấy giờ Lân mới hai mươi tám tuổi.
Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Ðịnh tìm cách lật đổ Tây Sơn, khi này
thế đã mạnh. Ánh là người đa mưu túc kế, tính kiên trì, không tin ai, dùng người
lấy chữ "hiệp", chữ "lễ" làm trọng, không coi
"nhân", "nghĩa", "trí", "tín" ra gì. Thỉnh
thoảng, Ánh vào trong đất Thuận Quảng, xuất quỷ nhập thần. Người Ðàng Trong sợ Ánh
hơn là thích Ánh. Ánh đi đến đâu nghe nói cũng có mây đen cuồn cuộn bay đằng
trước, dân cư thấy có mưa là biết Ánh vừa đi qua.
Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khôi ngô, ăn nói khoan hòa mà thủ
đoạn táo bạo thì thích lắm, cho ở luôn bên mình. Một lần thuyền Ánh qua cửa Tiền
Giang, có bốn người đi theo, trong đó có Lân. Bấy giờ có con cá sấu rất to cứ
bơi theo, đuổi thế nào cũng không được. Mọi người lo sợ, thấy phải có người nhảy
xuống làm mồi cho cá sấu thì mới thoát.
Ánh hỏi: "Ai vì nước Việt mà chết ?"
Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có Lân ngồi im. Ánh trừng
mắt hỏi Lân:
"Trượng phu quý mạng sống thế à ?"
Lân chắp tay: "Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không
ai hại được. Còn thoát hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người !"
Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn thuyền ném con vịt giời bay qua. Vịt
giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ thuyền lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười
ha hả bảo rằng: "Thế này thì nghiệp ta thế nào Trời cũng cho thành".
Ánh đi đâu cũng cho Lân đi theo, cũng nhiều khi Ánh xem ý Lân
để liệu xử thế với người, lần nào cũng trúng. Có lần, lúc này thế Ánh như diều
gặp gió, trước Tết Nguyên đán, các tướng lĩnh, các nhà hào phú quanh vùng, cả
dân chúng Gia Ðịnh nữa cũng mang lễ vật đến mừng, Ánh cho Lân ra nhận lễ vật.
Lân ra nhận, cho ráo vào cả một kho. Khách đến chúc mừng Ánh, chỉ đi chân tay
không mà vào. Bọn Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Võ TÁnh thấy lễ vật của mình
cũng bị xếp cùng với lễ vật những người khác thì căm tức. Bọn này phàn nàn với
Ánh, ý trách Ánh để tả hữu coi thường mình. Ánh cười bảo rằng: "Lân là người
có văn, có võ, lại cương trực, trung thành với chủ, cứ để hắn khu xử. Hắn có
cách khu xử của hắn. Những người gần ta không phải kẻ tầm thường đâu".
Sáng mồng một, lập đàn tế thần, Ánh cho Lân đứng ra chia lộc
thÁnh. Lân chia phần đều ai cũng như ai, mọi người rất hớn hở. Sau việc này,
Ánh hỏi Lân, Lân đáp: "Nghiệp chúa công chưa thành, thế mà đã có kẻ dâng lễ
vật nhiều, dâng lễ vật ít. Biết lễ vật của từng người, chúa công sau này dùng họ
khó." Ánh bảo: "Phải !" Lân lại nói: "Việc chia phần đều
nhau là để ai cũng thấy mình phải cố gắng". Ánh bảo: "Cũng phải".
Ngồi một lúc Ánh nói: "Chỉ e ngươi căn cơ quá chăng ?" Lân đáp:
"Ðầy tớ không căn cơ có hại cho chủ". Ánh bảo: "Ngươi là dân Bắc
Hà; Ngươi không hiểu dân Ðàng Trong như ta được. Ngươi tưởng làm thế là chu
toàn, nhưng bậc vương giả thích sự tiện lợi hơn cả". Lân bảo: "Chúa
công nói phải, căn cơ chỉ hợp với bần tiện, nhưng đất của Chúa công bây giờ nhiều
hơn đất của Tây Sơn hay của Tây Sơn nhiều hơn ?" Ánh cau mày đáp: "Ta
chỉ vỏn vẹn có ba thước đất chôn thây thôi". Lân bảo: "Không phải thế.
Chúa công được lòng trời đất, chỉ cần Chúa công thành tâm". Ánh ngồi im,
lát sau lại hỏi: "Nhạc không nói làm gì. Lữ không nói làm gì. Huệ có cách
gì mà giỏi giang thế ?" Lân đáp: "Huệ giỏi dùng người tài nhưng không
giỏi dùng người thường. Chúa công khác Huệ". Ánh ngồi im không nói năng
gì.
Khi Nguyễn Huệ chết, con trai là Nguyễn Quang Toản lên ngôi,
Tây Sơn năm bè bảy mối. Ánh mừng lắm sai mở tiệc mừng. Lân đứng ra can:
"Chúa công đừng làm thế, dân chúng nhìn vào không cho ta là người đại lượng".
Ánh bảo: "Huệ coi ta là quốc thù, hịch truyền khắp nơi, lời lẽ bẩn thỉu lắm.
Ta với Huệ không đội trời chung. Nó chết ta cười cũng không được ư ?" Lân
đáp: "Huệ không có tội gì, chỉ là một người tài, bị trời hành, cũng như
Chúa công vậy. Nhưng lực lượng của Huệ không được hưởng phúc lâu dài, thế là Huệ
dăm bảy đường thiệt. Ta lấy lộc của kẻ được hưởng phúc trời mà cư xử, trời thấy
ta phải, người cũng thấy ta phải". Ánh nghe Lân nhưng nghiến răng nói:
"Khi nào ta thành nghiệp lớn, ta phanh thây nó, ta chôn ba họ nó".
Lân bảo: "Chẳng lâu đâu, Chúa công cứ nhịn cười, lúc ấy cười một thể".
Quả nhiên sau này khi Ánh chiếm Thăng Long, thống nhất giang sơn, Ánh trả thù
Tây Sơn rất thảm khốc.
Khi Ánh chiếm Phú Xuân, cướp được một ca nữ xinh đẹp lạ lùng,
tên là Ngô Thị Vinh Hoa, vừa tròn mười tám tuổi. Vinh Hoa hát hay, đàn giỏi, điệu
bộ rất duyên dáng. Một đêm, Ánh hứng khởi, sai Lân đưa Vinh Hoa vào bày tiệc,
ngồi nghe hát. Lân bảo: "Hát bài Triều Thiên Tử". Vinh Hoa ôm đàn
hát:
Kìa xanh xanh
Mấy nụ non
Mấy lá non
Nhờ mưa xuân mang sữa cho
Nhờ gió xuân mang khí thổ cho
Nhờ đất mang lương thực cho
Chẳng chịu cho ai hái
Càng lớn, nhan sắc càng mỹ miều
Càng lớn, phẩm hạnh càng thanh sạch
Càng lớn, càng cả thẹn
Thơ nào tả được vẻ đẹp này
Bút nào vẽ được ý tứ này
Ai tương tư mà chau mày
Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ
ấy là trời cho
Vẻ đẹp hoàn hảo
Vẻ đẹp thiên kim.
Ánh vỗ tay reo: "Hát hay quá". Lân lại bảo:"
Hát bài Tình Sông Núi". Vinh Hoa ôm đàn hát:
Kìa núi cao cao
Kìa sông xanh xanh
Núi do đâu mà ra
Sông do đâu mà ra
Tráng sĩ xa nhà
Lặn lội trên đường
Nơi cố hương
Mẹ già bạc đầu
Gái quý đêm nằm trằn trọc
Lấy gì trả nghĩa tình
Uống chén rượu sầu
Mời núi cao một chén
Lạy thiên tử ba lạy
Chẳng quên tình sông núi
Chỉ thương tình mẹ già với người đẹp phương xa.
Ánh cau mày: "Hát hay nhưng buồn quá". Vinh Hoa quì
xuống lạy: "Tiện thiếp làm rầu lòng người trời". Lân đỡ dậy, bảo rằng:
"Người chớ lo, Chúa công lòng rộng, những thứ tình cảm sướt mướt của bọn
người thường không hợp với Chúa công đâu". Nói xong, Lân sụp xuống lạy
Ánh: "Ngày mai Chúa công ra trận vui thú ít thôi, cần nghỉ ngơi". Ánh
thở dài đứng lên: "Cũng phải ngươi ép ta, đến nay là chín năm rồi, ta còn
nhớ. Từ khi ngươi cắp gươm hầu ta, ăn ngủ cũng phải tính giờ. Xưa kia ta đâu phải
vậy ?" Lân đáp: "Chúa công chịu mệnh trời, gÁnh nặng hơn người".
Ánh bảo: "Ta chỉ thích như người thường thôi !" Tuy nói thế nhưng
cũng rũ áo vào trướng. Vinh Hoa ôm đàn lui ra. Hôm sau, Ánh bảo Lân: "Ta
đi mà cứ văng vẳng tiếng hát ca nữ bên tai, tiếng gió thổi, tiếng gươm dao
không át được". Lân bảo: "Chúa công còn nhiều cơ hội nghe hát, nhưng
cơ hội diệt Tây Sơn chỉ có một".
Ánh họp các tướng, bàn kế hoạch đánh ra Thăng Long. Lê Văn
Duyệt tâu: "Bắc Hà có nhiều danh sĩ tài giỏi. Sao cho cờ của ta đến đâu, bọn
khốn nạn này mà theo thì dân chúng cũng phải theo thôi". Ánh bảo:
"Không được. Ta ủy mệnh trời, cần gì mua chuộc ai ? Ta đến đâu, đào hố đến
đấy, chôn chúng nó xuống, dân chúng không theo không được". Quan tướng ai
cũng thấy phải, ngồi yên lặng cả.
Ðêm ấy Ánh thao thức không ngủ được, gọi Lân đến bảo múa kiếm
cho xem. Lân cầm thanh kiếm gia truyền, múa loang loáng, nghe như có gió thổi bốn
bề. Ánh nhìn toát cả mồ hôi, đoạn bảo đưa kiếm cho xem. Ánh cầm thanh kiếm hai
tay, phát đứt một cây hoa dại vòng gốc như cột nhà mà chỉ bằng một nhát. Nhựa
cây phun ra như máu trắng. Ánh hỏi: "Kiếm của ngươi sao sắc bén vậy
?" Lân bảo: "Ðây là kiếm thần, không rõ xuất xứ, tổ phụ truyền lại".
Ánh hỏi: "Sao bây giờ ta mới thấy nó ?" Lân bảo: "Trước Chúa
công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm. Thế là sắp thanh
bình thịnh trị rồi đó". Ánh cầm thanh kiếm không muốn rời tay.
Ánh hỏi: "Trưa nay khi nói việc ta muốn chôn danh sĩ Bắc
Hà, sao ngươi tái mặt ?" Lân tâu: "Lân là người Bắc Hà nên tủi phận
mình sợ cho mình". Ánh bảo: "Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn
ngươi là con nhà võ thì sợ gì. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, ngụy biện xảo trá
tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả".
Lân bảo: "Ða số như thế, chôn cũng đáng. Chỉ có đôi người khá, chúa công
được họ thì thêm sang cho chúa công". Ánh bảo: "Ta không tin bọn nó
theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có
tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm". Lân bảo: "Thế là chúa công vẫn
quen dùng người thường, ở bậc cao nhân còn gì còn chuyện vô đạo, hữu đạo ? Tâm ở
sự thành, đâu phải ở lòng ? Chúng không chịu hiểu là lỗi ở chúng. Ðã ai hiểu việc
chúa công dùng Bá Ða Lộc, dùng người ngoại quốc ? Chúc công còn phải mang tiếng
ba trăm năm". Ánh lo sợ nói: "Phải làm sao ?" Lân bảo: "Chẳng
làm sao được, nhưng bên cạnh chúa công có vài người như Ngô Thì Nhậm thì không
sao cả".
Ánh bảo: "Ta muốn cho ngươi đi trước, chiêu mộ đôi ba
người, thế là công to lắm". Lân sụp lạy: "Ðược thế còn gì bằng, Lân
cũng không thẹn mặt với nơi sinh ra mình". Ánh bảo: "Ta giữ thanh kiếm
này để khi ngươi quay về, có tin hay, ta có cớ mà khen thêm. Còn không được việc,
ta có linh khí mà trừng phạt". Lân tái mặt nhưng đành phải chịu.
ít bữa sau, Lân cãi trang, giắt theo ít vàng bạc, tìm đường
ra Bắc Hà. Lúc này Bắc Hà nhốn nháo lắm, triều đình Tây Sơn như trứng để đầu đẳng.
Bọn tướng của Tây Sơn tranh giành nhau, chẳng còn biết giữ gìn tiếng tăm nữa.
Lân thân cô, thế cô, lang thang đây đó, đi khắp nơi tìm người tài giỏi nhưng
không thấy ai ưng ý.
Một hôm, Lân vào nghỉ ở một quán trọ ven đường, thấy có một
người cốt cách hiền lành, dáng điệu bồn chồn đang ngồi uống nước chè suông. Hai
người nói chuyện. Lân ngạc nhiên thấy người này trong trẻo lạ thường, tâm hồn sạch
như nước ở suối ra. Lân cố mời rượu, người này chỉ uống một tí đã đỏ mặt. Con
gái chủ quán rất xinh đứng ra hầu rượu. Người trẻ tuổi bảo: "Khách ở nơi
xa đến, mệt mỏi vì công danh không đâu, chưa biết thế nào là đường đi lối lại,
cô Cầm hát một bài cho nghe đi". Lân thoáng ngạc nhiên, rồi bình tâm lại,
vật nài mãi, cô con gái chủ quán bèn ôm đàn ra đưa cho người trẻ tuổi. Người trẻ
tuổi gảy đàn, cốt cách rất ư thanh lịch. Cô con gái chủ quán hát:
Kìa trăm năm
Tài mệnh là gì
Chỉ thấy đớn đau
Nhờ mưa mang sữa cho
Nhờ đất mang lương thực cho
Chẳng chịu cho ai hái
Ai hái cũng phí
Nhan sắc mỹ miều cũng qua thôi
Phẩm hạnh thanh sạch cũng nhạt thôi
Càng lớn càng cả thẹn
Cố tả được vẻ đẹp này
Gắng vẽ được ý tứ này
Ai tương tư cho rầu lòng
Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ
ấy là trời buộc
Cô quạnh vì nàng
Ta đi săn, đi câu
Vẻ đẹp hoàn hảo
Vẻ đẹp thiên kim
Bao giờ bốc mộ
Nhỏ cho một giọt nước mắt
Kìa trăm năm
Tài mệnh là gì
Chỉ thấy đớn đau
Lân nghe xong, thở dài trào máu ra từ ngũ khiếu. Lân kêu to:
"Trời hỡi trời, sao giống bài Triều Thiên Tử vậy ?" Cô con gái chủ
quán cười cười chỉ tay vào người trẻ tuổi: "Bài này không có tên, do người
này làm ra, chỉ để riêng cho Cầm hát". Lân thở dài nói: "Bài hát hay
quá, thật Lân này chưa biết thế nào là đường đi lối lại". Nói rồi Lân cáo
từ vào trong nằm nghỉ. Hôm sau Lân dậy sớm, bỏ đi không chào chủ quán, cũng
không hỏi người khách trẻ tuổi với cô Cầm, con gái chủ quán.
Khi Lân đến được Thăng Long thì Nguyễn Ánh đã vào thành rồi.
Quân Ánh đi như nước lụt, Lân như cÁnh bèo bị sóng cuốn trôi. Thâm tâm Lân cũng
chẳng biết nên vui hay buồn, chỉ thấy trong lòng cảm động.
Lân gặp Ánh xin chịu tội vì không làm được việc. Ánh ngồi
trên ngai vàng, tả hữu gươm giáo sáng quắc hai bên. Lân tự trói mình, quì xuống
sân rồng. Ánh bảo: "Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín
năm không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là
trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết". Lân không nói năng gì,
vươn cổ ra chịu chém. Nghe nói Nguyễn Ánh đã sai đao phủ dùng thanh kiếm gia
truyền của Lân để chém đầu Lân. Khi chém đầu, máu phun ra không đỏ mà trắng như
nhựa cây, một lúc sau thì bết lại.
ĐOẠN KẾT
Viết truyện ngắn này, tôi muốn để tặng gia đình ông Quách Ngọc
Minh để cám ơn thịnh tình của gia đình ông đối với riêng tôi. Tôi cũng xin cảm
ơn một số nhà nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm chỉnh
lý những tư liệu cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn, phức tạp,
lại buồn tẻ nữa của tôi...
VÀNG LỬA
Rầu lòng vậy... Cầm lòng vậy..."
(Dân ca)
Ông Quách Ngọc Minh, ngụ ở Tu Lý, huyện Đà Bắc viết thư cho tôi: “Tôi đã đọc
truyện ngắn Kiếm sắc của ông kể về tổ phụ tôi là Đặng Phú Lân. Riêng chi tiết gặp
Nguyễn Du không thích. Nhân vật Người trẻ tuổi trong quán trong trẻo lạ lùng,
tâm hồn sạch như nước ở núi ra” không ra gì Bài hát “Tài mệnh tương đô” có ý
gán cho Nguyễn Du là khéo mà không khéo vậy. Ông gắng thu xếp lên chơi, tôi sẽ
cho ông xem vài tư liệu, biết đâu giúp ông có cách nhìn khác. Con gái tôi là
Quách Thị Trình sẽ mời ông món canh cá nấu khế ông thích...”
Nhận được thư tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh.
Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo. Về Hà Nội, tôi viết
truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi tiết phụ và sắp xếp,
chỉnh lý lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện.
° ° °
Năm 1802, Nguyễn Phúc ánh chiếm Thăng Long, lên ngôi vua, đặt
tên hiệu là Gia Long. Bên cạnh nhà vua có vài người châu âu giúp việc. Trong số
ấy có một người Pháp tên là Phrăngxoa Pơriê do chính giám mục Pi nhô đờ Bê hen
(Bá Đa Lộc) tiến cử. Nhà vua thường gọi y là Phăng.
Phăng từ nhỏ đã thích phiêu lưu. Y từng tham gia cách mạng
1789, bạn với Xanh Giuýt. Năm 1794, cách mạng thất bại, Phăng trốn ra nước
ngoài. Năm 1797, Phăng theo chân một tàu buôn trôi dạt dến Hội An. Người ta
không rõ cuộc gặp gỡ của y với Bá Đa Lộc, chỉ biết Bá Đa Lộc có viết thư giới
thiệu Phăng với vua Gia Long. Trong tập bút ký của mình sau này, Phăng viết:
“Nhà vua là một khôí cô đơn khổng lồ. Ông đóng trò rất giỏi
trong triều đình. Ông đi, đứng, ra, vào, ra các mệnh lệnh, chấp nhận sự tung hô
của bọn quần thần. Ông là người cha nghiêm khắc của lũ con ích kỷ, đần độn. Là
người chồng đáng kính của các bà vợ tầm thường... Ông biết ông đã già, với bọn
cung tần mỹ nữ trẻ đẹp ông bất lực. Ông biết rõ cái triều đình thiển cận do ông
dựng lên, biết rõ quốc gia mình nghèo đói. Ông luôn lo sợ bởi quyền lực nắm
trong tay, nó lớn ngoài sức chứa một con người...”
Trong một chuyến đi săn ở phía Bắc kinh thành Huế, Phăng đi
theo vua Gia Long. Phăng kể: Nhà vua cưỡi ngựa, lưng rất thẳng. ở giữa thiên
nhiên, trông ông rạng rỡ mất đi vẻ đăm chiêu cau có hàng ngày. Ông vui vẻ vào
cuộc săn hào hứng. Buổi tối, nói với tôi, ông bảo: “Khanh biết không, cái lũ
chó chết ấy, chúng nó chuẩn bị cả rồi, chỗ nào trẫm đi qua thì chúng thả thú
ra”. Tôi ngạc nhiên hỏi vì sao nhà vua (vốn xuất thân là một võ tướng) lại chịu
được sự nhục mạ ấy. Ông cười: “Khanh chẳng hiểu gì. Vinh quang nào chẳng xây
trên điếm nhục”. Tôi ngồi nghe nhà vua, nhận thấy ông trải đời ghê gớm. Ông hiểu
bản chất đời sống cộng sinh. Số phận ngẫu nhiên giao cho ông đứng trên đỉnh cao
nhất, ông không dám phá vỡ bất cứ quan hệ nào làm hại đời sống cộng sinh đó, bởi
phá vỡ nó, nghĩa là ngai vàng không còn đứng vững. Tôi có hỏi nhà vua về các
nhà lư tưởng phương Đông. Tôi nhận thấy ông không quan tâm đến họ. Ông bảo: “Tất
cả do cay cú đời sống. Họ là quá khứ. Thời khắc đang sống, là đáng kể”. Nhà vua
chăm chú ăn món gân hổ, hơn là tiếp chuyện tôi...”.
Phăng được vua Gia Long cho phép đi lại nhiều nơi, Phăng từng
gặp Nguyễn Du, bấy giờ đang giữ chức tri huyện. Phăng kể:
“Trước mặt tôi là một người bé nhỏ, mặt nhàu nát vì đau khổ.
Ông nổi tiếng là một nhà thơ có tài. Tôi thấy ông hoàn toàn không hiểu gì về
chính trị. Trước sau, ông là một viên quan tận tụy. Ông hơn những người khác ở
nhân cách nhưng nhân cách ấy có giá trị gì khi cuộc đời thực của ông xúi xó,
túng kiết. Ông hoàn toàn thiếu tiện nghi. Ông không phù phiếm nhưng sự hào hoa
cũng không có nốt. Đời sống tinh thần bóp nghẹt ông. Ông nói chuyện giản dị và
hóm hỉnh. Trực giác tuyệt vời. Cũng như vua Gia Long, ông là một khối nguyên liệu
to lớn nhưng nhẹ đồng cân hơn, hợp chất tạo thành ít hơn, độ bám của bụi bặm
cũng ít hơn. Cả hai đều là những khối nguyên liệu vô giá, những vật quốc bảo”.
Phăng được Nguyễn Du dẫn đi thăm một vài nơi trong địa hạt của
mình. Phăng viết:
“Ông ta (tức Nguyễn Du) có sự thông cảm sâu sắc với nhân dân.
Ông yêu nhân dân mình. Ông đại diện cho nhân dân ở phần u uất nhất, trữ tình nhất
nhưng cũng đáng thương nhất. Vua Gia Long không đại diện cho ai, ông chỉ chịu
trách nhiệm với mình. Đấy là điều vĩ đại nhưng cũng đê tiện khủng khiếp. Nhà
vua có cách nhìn thực tiễn với chính từng khắc tồn tại của bản thân mình. Nhà
vua biết xót thân. Nguyễn Du thì khác, Nguyễn Du không biết xót thân. Nguyễn Du
thông cảm với những đau khổ của các số phận đơn lẻ mà không hiểu nổi nỗi đau khổ
lớn của dân tộc. Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô
gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa
nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn
nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn Du thì khác, ông không hiểu
điều ấy. Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển
tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du ngập trong mớ
bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hẳn ngoài đời sống ấy. Người
mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đuơng thời) giấu giếm con mình sự ê chề và
chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau nguời ta mới thấy
điều này vô nghĩa. Nguyễn Du sống dân dã, ông hồn nhiên chịu đựng sự nghèo tùng
cùng nhân dân. Ông không đứng cao hơn họ, không hưởng thụ cao hơn họ, và như thế,
ông hoàn toàn không biết làm chính trị. Tất cả đời sống vật chất của ông do những
hoạt động cù lần mang lại, năng suất thấp, chỉ thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu.
Lòng tốt của ông là thứ lòng tốt nhỏ, không cứu được ai. Vua Gia Long thì khác.
Ông khủng khiếp ở khả năng dám bỡn cợt với Tạo hóa, dám mang cả dân tộc mình ra
lường gạt phục vụ cho chính bản thân mình. Ông làm cho lịch sử sinh động hẳn
lên. Đấy là lòng tốt lớn của nhà chính trị. Lòng tốt lớn của nhà chính trị không
chỉ là làm việc thiện với một số phận đơn lẻ mà còn là sức đẩy của ông ta với
khối cộng đồng. Từng phần tử trong cộng đồng do luật tự nhiên chi phối sẽ tự tồn
tại, định hướng và phát triển. Không có một sức đẩy mạnh, cả cộng đồng sẽ mọc
rêu, mủn nát. Cộng đồng Việt là một cộng đồng mặc cảm. Nó nhỏ bé xiết bao bên cạnh
nền văn minh Trung Hoa, một nền văn minh vừa vĩ đại, vừa bỉ ổi lại vừa tàn nhẫn...
Phăng có kể lại cho vua Gia Long ấn tượng khi gặp Nguyễn Du.
Phăng viết:
“Nhà vua nghe tôi một cách lơ đãng. Tôi có cảm giác ông bị nặng
tai nhưng không phải. Ông không coi Nguyễn Du ra gì, hoặc có thể ông coi Nguyễn
Du là con ngựa giống tốt trong cả đàn ngựa, lợn, bò, gà mà ông chăn dắt. Ông bảo:
“Trẫm có biết người ấy. Cha nó là Nguyễn Nghiễm. Anh nó là Nguyễn Khản”. Tôi thấy
nhà vua hiểu sự bất lực của ông đối với đời sống nghèo khó và những trì trệ của
dân tộc ông. Ông không tin học vấn có thể cải tạo giống nòi. Điều ấy có lý. Trước
hết là vật chất. Những hoạt động kinh tế cù lần chỉ đủ sức cho một dân tộc sống
khắc khoải. Vấn đề ở chỗ phải đứng lên vươn mình thành một cường quốc. Làm điều
đó, phải có gan chịu đụng sự va xiết trong quan hệ với cộng đông nhân loại.
Thói hủ nho và thủ dâm chính trị sẽ không bao giờ tạo được những quan hệ trong
sáng, lành mạnh. Sẽ đến lúc nền chính trị thế giới giống như món nộm suồng sã,
khái niệm thanh khiết ở đấy vô nghĩa “.
Năm 1814, người ta phát hiện ra một nơi có vàng, Phăng xin
vua Gia Long cho một số người châu âu cùng mình đi tìm kiếm. Vua Gia Long đồng
ý. Phăng không để lại tư liệu nào kể về chuyến đi tìm vàng này. Tuy nhiên có một
người Bồ Đào Nha tham gia đoàn tìm vàng đã viết hồi ký. Người Bồ Đào Nha này kể
lại: Đoàn chúng tôi có mười một người gồm bốn người Bồ Đào Nha, một người Hà
Lan, năm người Pháp và một người Việt dẫn đường. Chỉ huy chúng tôi là
Phơrăngxoa Pơriê. Y là một người tàn bạo được vua Gia Long tin cậy... Chúng tôi
đi ngựa, mang theo vũ khí và những dụng cụ đãi vàng như dân tìm vàng hồi thế kỷ
trước ở Bắc Mỹ. Ngay Phơrăngxoa Pơriê cũng không lường trước sự việc diễn ra.
Điều ấy khiến cho chúng tôi sau này phải trả giá đắt. Đa số chúng tôi tham gia
chuyến đi vì sự hiếu kỳ. Chúng tôi chuẩn bị lương thực đủ trong một tháng.
Chúng tôi luồn rừng và đến nơi sau một tuần đi đường. Nơi đây là thượng nguồn một
con sông lớn nằm kẹp trong thung lũng hoang vắng. Không hề thấy một bóng người
qua lại. Quạ bay hàng đàn. Trong bản đồ, Phrăngxoa Pơriê gọi đây là thung lũng
Quạ. Chúng tôi cắm lều ngay trên bờ sông. Ngay ngày đầu tiên, người Hà Lan
trong đoàn đã lên cơn sốt. Ông ta lên những cơn co giật khủng khiếp, người nóng
như than, mặt xám lại Chúng tôi đề nghị để lại một người chăm sóc ông ta nhưng
Phơrăngxoa Pơriê không nghe. Y dồn tất cả chúng tôi vào núi đào vàng và lọc quặng.
Buổi tôí, khi chúng tôi trở về thì người Hà Lan đã chết. Phơrăngxoa Pơriê sai
ném xác người Hà Lan xuống sông. Quạ lập tức bu đen trên thây người chết...
Mỏ vàng gần như lộ thiên. Sụ hào hứng khiến chúng tôi quên mệt
nhọc. Đến ngày thứ ba, chúng tôi bị thổ dân tấn công. Chúng tôi co cụm lại. Những
người thổ dân cầm dao, gậy đứng từ xa chửi rủa và dùng đá ném chúng tôi. Họ có
ý muốn đuổi chúng tôi chứ không có ý gì khác. Người Việt dẫn đường đi theo
chúng tôi đã biến mất ngay từ khi những người thổ dân xuát hiện. Phơrăngxoa
Pơriê nói tiếng Việt rất tồi. Y giơ cao tấm thẻ tín bài của vua Gia Long nhưng
vô hiệu. Đáng lẽ chúng tôi phải rút ngay nhưng Phơrăngxoa Pơriê không kìm chế
được. Y nổ súng. Một người thổ dân trúng đạn. Số còn lại chạy tán loạn. Chúng
tôi đòi Phơrăngxoa Pơriê quay về nhưng y không nghe, y bắt chúng tôi tiếp tục
làm việc. Vàng đã làm cho y lóa mắt và mụ mị đi. Buổi chiều khi chúng tôi quay
về lều thì thấy đầu lâu của người Việt dẫn đường cắm trên cọc nhọn ngay bên cạnh
đấy. Trời nóng như thiêu, chúng tôi thấy rất nhiều quạ bay từ rừng trên, vừa
bay vừa kêu những tiếng man rợ. Khoảng nửa đêm, lửa bốc cháy dữ dội xung quanh
lều. Những mũi tên lẩm thuốc độc ở đâu bắn đến như mưa. Năm người trong đoàn
chúng tôi chết ngay. Phơrăngxoa Pơriê mang theo số vàng đãi được mở con đường
máu thoát ra. Lửa nóng quá. Trước mặt, sau lưng, trên trời, dưới đất, đâu đâu
cũng thấy lửa cháy rùng rực...”
Hồi ký của người Bồ Đào Nha vô danh không viết gì thêm. Tôi,
người viết chuyện này đã cất công đi tìm các thư tịch cổ và hỏí han nhiều bậc
bô lão. Không có tài liệu gì và cũng không ai biết gì về thung lũng Quạ hoặc
chuyện của những người châu âu thời vua Gia Long. Mọi cố gắng của tôi trong nhiều
năm nay vô hiệu. Tõi hiến bạn đọc ba đoạn kết cho câu chuyện này để bạn đoc tùy
ý lựa chọn.
ĐOẠN KẾT I
Đoàn tìm vàng còn sót lại ba người. Phăng bảo toàn nguyên vẹn
số vàng đào được mang về. Vua Gia Long vui mừng vì đã tìm được mỏ vàng. Nhà vua
cho khoanh vùng thung lũng Quạ và cho tiến hành khai thác mỏ. Phăng được cử
trông coi việc này. Hai người châu âu sót lại trong đoàn tìm vàng cũng được mời
tham gia nhưng họ từ chối. Phăng trông coi việc khai thác mỏ vàng trong hai
năm. Vua Gia Long rất tin cẩn y và thường ban cho y những bổng lộc hậu hĩnh. Một
hôm, người ta đưa đến cho y món ăn quý do nhà vua ban: món chim hầm bát bảo nấu
rất công phu. Phăng an xong thì thấy bụng đau cồn cào dữ dội, mắt trợn ngược,
máu ộc ra đầy mồm miệng. Y chết ngay trên bàn ăn. Trong một quyển sổ ghi chép
còn sót lại của y, người ta đọc thấy những dòng chữ sau:
“Tất cả những cố gắng của con người hướng về điều thiện đều
là nhũng cô gắng đau đớn, nhọc lòng. Điều thiện hiếm như vàng và sau đó phải được
vàng bảo đảm nữa mới có giá trị thực.
Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo khó và đau khổ trong những lý
thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những môí bất hòa kỳ thị dân tộc và đẳng cấp; những
kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao. Đến bao giờ, hỏi đến
bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?”
ĐOẠN KẾT II
Thoát khỏi biển lửa, đoàn tìm vàng sót lại một mình Phăng. Y
mang số vàng tìm đến được dinh quan sở tại. Phăng đưa tấm thẻ tín bài có dấu
triện của vua Gia Long xin được che chở. Quan huyện là một vị túc nho già, biết
nghề thuốc. Phăng đã dưỡng bệnh ngay tại huyện lỵ hẻo lánh này. Con gái quan
huyện là Vũ Thị còn trẻ nhưng góa chồng mang lòng yêu mến y. Sau khi Phăng vể
kinh đô, y được vua Gia Long ban thưởng hậu hĩnh. Nhà vua đã cho tiến hành khai
thác mỏ vàng.
Lúc này ở châu âu , nền Đế chế của Napôlêông Bonapac đã sụp đổ.
Châu âu chín chắn hơn. Họ đã bắt đầu hiểu vẻ đẹp và vinh quang một dân tộc
không phải do cách mạng hoặc chiến tranh mang lại, cũng không phải do các nhà
tư tưởng hoặc các Hoàng đế mang lại, bởi vậy họ sống đỡ căng thẳng hơn, giản dị
hơn, hợp tự nhiên hơn. Phăng xin vua Gia Long mang theo Vũ Thị và một số vàng lớn
hồi hương. Về Pháp, ông lập một ngân hàng và sống sung sướng đến già. Ông thường
kể lại cho con cháu nghe về những kỷ niệm quá khứ, về những biến cố ở xứ An Nam
xa xôi. Theo ông, thời kỳ ông ở An Nam mới là sự bắt đầu lịch sử của quốc gia
người Việt, khi này biên giới phân định, chữ viết có gốc từ chữ La tinh phổ biến,
người Việt dần thoát ra sự cầm tù đáng sợ của nền văn minh Trung Hoa, có những
mối giao lưu chung với cộng đồng nhân loại.
ĐOẠN KẾT III
Tất cả đoàn tìm vàng bị giết chết. Lính triều đình bao vây và
tấn công họ chứ chẳng có thổ dân nào cả như trong hồi ký của người Bồ Đào Nha
vô danh lầm tưởng. Người ta tìm được vàng giấu trong đồ đạc của những người
châu âu, nó lẫn trong quần áo và ở cả trong những sổ sách ghi chép. Vua Gia
Long cho xung công và sau đó cử một người trong hoàng tộc đứng ra lo việc khai
thác mỏ vàng. Cuối đời, vua Gia long sống trong cung cấm, tìm cách tránh mọi tiếp
xúc với bên ngoài. Nhà vua rất ghét những ai nhắc lại mối quan hệ với người
này, người nọ khi nhà vua còn hàn vi, dù đấy là người Việt, người Trung Hoa hay
người châu âu nào khác. Triều Nguyễn của vua Gia Long lập ra là một triều đại tệ
hại. Chỉ xin lưu ý bạn đọc đây là triều đại để lại nhiều lăng.
PHẨM TIẾT
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng...
Chữ trinh còn một chút này...
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đuờng...
(Nguyễn Du)
Việc tìm ra ngôi mộ cổ ở vùng lòng hồ trong khu vực thủy điện sông Đà khiến tôi
lại lên Tu Lý, huyện lỵ Đà Bắc. Ông Quách Ngọc Minh (bạn đọc đã làm quen với
ông qua hai truyện ngắn Kiếm sắc và Vàng lửa của tôi) ngờ rằng ngôi mộ này là của
bà Ngô Thị Vinh Hoa sống cách cây gần hai trăm năm. Truyền thuyết người Mường
vùng này kể rằng bà đã lập ra dòng họ Quách. Hôm dời mộ từ khu vực lòng hồ lên
Tu Lý, tôi đã đến xem. Mộ ở vuông đất hẹp, bằng phẳng, cách bờ sông Đà hai trăm
năm mươi mét, ở độ cao mười sáu mét kể từ mặt sông. Bao nhiêu năm nay chưa bao
giờ lũ sông Đà ngập đến chỗ này. Nhìn bề ngoài, ngôi mộ cổ trông không khác một
gò mối lớn. Đào sâu ba mét thấy vỉa gạch.
Người chết táng theo lối xưa, trong quan ngoài quách. Quan tài làm bằng gỗ quý,
ván dày tám phân, dăm gỗ nhỏ, đưa ra ngoài trời có màu mận chín. Quan tài chạm
trổ đơn giản nhưng đẹp mắt. Khi bật nắp quan tài, thấy có một lớp vải lụa hồng.
Dưới lớp vải lụa hồng, là một màng trong suốt như thạch, hiện lên hình một phụ
nữ đẹp rực rỡ, khuôn mặt tươi tỉnh như người sống, trang phục xiêm y lộng lẫy.
Đây là ngôi mộ kết. Tất cả chúng tôi thảy đều kinh hoàng. Thoắt cái, một làn
sương mờ trên quan tài ùn lên phủ kín xung quanh. Mười phút sau, làn sương tan
hết, trong quan tài chỉ còn một bộ xương đen như mun, lớp vải lụa hồng cũng
không thấy nữa. Trong quan tài đầy vụn chè khô, lẫn ở đấy rất nhiều đồ trang sức
quý giá. Ông Quách Ngọc Minh tự tay rửa sạch từng đốt xương bằng rượu quý và nước
thơm, đặt vào vuông vải trắng trong tiểu sành. Tôi chưa bao giờ chứng kiến lần
bốc mộ nào có ấn tượng mạnh như thế. Con gái ông Quách Ngọc Minh là Quách Thị
Trình hỏi tôi có biết gì về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ hay không? Tôi băn
khoăn quá. Phải là người mơ mộng và nghiêm khắc mới hiểu rằng biết hoặc không
biết, đều chỉ là những ước lệ mơ hồ, có tính lịch sử và hạn chế.
Câu chuyện này kể về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ ấy.
° ° °
Ngô Thị Vinh Hoa là con thứ mười của Ngô Khải. Khải là hậu duệ
của Chương Khánh Công Ngô Từ, ngưởi đã sinh ra bà Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê
Thánh Tông. Ngô Khải là bậc đại phú, nhà gần chùa Tiên Tích, chuyên buôn hàng
tơ lụa. Nhà Khải kho đụn không khác gì phủ Chúa, đầy tớ vài trăm người. Khải
giao du rộng, chơi với toàn người sang. Con gái họ Ngô đẹp nổi tiếng Kẻ Chợ, đời
này qua đời khác nhiều người được tuyển vào cung. Khải có bảy người con gái thì
sáu người đều là thiếp yêu ở phủ Chúa. Vinh Hoa là con gái út. Khải rất yêu chiều.
Khi đẻ ra Vinh Hoa, trên nóc nhà bỗng có đám mây ngũ sắc bay đến, tỏa ra ánh
sáng rực rỡ, khắp nơi hương thơm ngào ngạt. Trên cổ Vinh Hoa có bảy tràng hoa
quấn cổ, xòe lòng tay ra thấy có viên ngọc...ở trong, trên khắc hai chữ “thiên
mệnh”. Khải dựng tóc gáy, lập bàn thờ tạ trời đất. Có người bảo rằng: “Trời mượn
cửa nhà ông gửi ngọc, liệu mà chăm chút”. Vinh Hoa lớn lên, hát hay, đàn giỏỉ,
đẹp lồ lộ nói câu nào thiêng câu ấy. Khải rất sợ. Tỉ như trời nắng chang chang,
nàng buột miệng “ngày kia trời mưa”, quả nhiên ngày kia mưa thật. Tỉ như có người
đi qua, nàng bảo “mai ông này chết”, quả nhiên người ấy không ốm đau bệnh tật
gì hôm sau lăn ra chết. Trai gái lấy nhau thường dắt đến trước mặt nàng nhờ
xem, nàng gật đầu là lấy được, nàng lắc đầu thì chịu, ba đầu sáu tay gì lễ cưới
cũng không thành.
Nhà Ngô Khảỉ có cửa hàng tơ lụa gần Hồ Gươm. Khi nào Vinh Hoa trông hàng, khách
vào mua đông như hội. Ai trót tham, do vải thừa, trả tiền thiếu, khi về nhà nếu
không bị chó cắn thì nhà cháy, đại để thế, tai họa không lường được. ở Kẻ Chợ
có câu ca:
Biêí điều thì tránh Vinh Hoa
Quịt năm cắc bạc mất nhà như chơi.
Năm Kỷ Dậu (1789) Quang Trung Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt Mãn Thanh xong,
tìm cách an dân. Nghe theo lời Trần Văn Kỷ, nhà vua cho mời cơm các nhà danh
giá thế phiệt trong thành, Khải cũng được mời.
Khi thiếp mời đưa đẹn nhà Khải, Khải cho gọi người quản lý tên là Sâm đến bàn.
Khải nói:. “Ta không đi không được, Quang Trung là bậc anh tài, hào hùng lắm.
Ta ăn lộc nhà Lê, nhưng cũng không bỏ lộc nhà Trịnh, gì thì gì cũng mang tiếng
cơ hội. Bây giờ Quang. Trung mời đến, nên cư xử thế nào cho “phải” Sâm nói: “Đại
nhân chớ băn khoăn về chuyện cơ hội hay không cơ hội. Điều ấy vô nghĩa. Có điều
Quang Trung đang thịnh, lẽ đời là phải phù thịnh, đại nhân cứ thế mà làm. Ta
không phù Quang Trung, sợ cơ ngơi này khó bảo toàn, lấy ai tiếp nối? Lính Tây
Sơn chỉ cho mồi lửa, vu cho tàn quân Tôn Sĩ Nghị là xong, lúc đó ta biết kêu
ai? Không nói gì đến đại nhân bị hại, bọn Sâm này cũng mất niêu cơm”. Khải cười:
“Mày ranh ma lắm. Ta nghe mày”. Nói đoạn bảo Sâm chuẩn bị lễ vật đi dự tiệc.
Sâm là tên đểu cáng, xuất thân lái trâu, từ lâu có ý hại chủ. Chuẩn bị lễ vật
cho Khải, Sâm cho vào rương hòm toàn những đồ vàng bạc giả còn vải lụa quý thì
cho cắt vụn ra từng đoạn ngắn. Khải không biết gì, cứ thế cho đầy tớ mang vào
cung.
Bữa tiệc của vua Quang Trung có đủ mặt mấy trăm gia đình giàu có ở Kẻ Chợ. Khải
ngồi chiếu trên cùng. Vua Quang Trung nói: “Ta xuất thân áo vải cờ đào, vì nước
xả thân, dẹp yên bốn cõi. Thời chiến ta lấy kẻ có sức lực làm điểm tựa, thời
bình ta lấy kẻ có trí lực làm điểm tựa. Nay các ông đến đây, đều là những người
có của, tức là những người có trí lực cả; ta cho ăn cho uống, xin các ông vì ta
mà mở mang công nghệ, bán buôn, làm cho nước giàu dân mạnh”. Bọn Khải lạy tạ,
ai cũng vui vẻ hứa sẽ vi nước mà làm giầu.
ăn uống xong, nhân vui vẻ, vua Quang Trung hỏi thức ăn có vừa miệng không, Khải
đang say, dại miệng nói rằng: “Ngon thì ngon nhưng chưa biết nấu, hơi ghê ghê,
có vị lợm”. Nhà vua cười nhạt, không nói năng gì. Khách dự tiệc lần lượt cho
dâng vào các lễ vật mừng, đủ đồ ngọc ngà châu báu; sơn hào hải vị rất lạ. Vua
Quang Trung đứng xem, trầm trồ thán phục. Đến lượt Khải, Khải cho đầy tớ khênh
vào ba cái rương to, mở ra thấy đồ vàng bạc toàn đồ giả, vải lụa bị cắt ra từng
mảnh vụn nhỏ. Khải thất sắc, mọi người có mặt thảy kinh hoàng. Vua Quang Trung
giận lắm, mắng rằng: “Thằng Khải kia, tài bằng cái đấu, khinh ta quá chừng! Trời
cho mày sống, cướp không biết bao nhiêu lộc thiên hạ, ăn miếng ngon không biết
đậy mồm, còn chê là lợm. May nhờ phúc tổ, có ít của chìm, như cái đuôi khô,
tháng ba ngày tám mang ra gặm tưởng xênh xang ư?”
Khải về nhà, căm tức tên Sâm lắm. Tên Sâm đã bỏ trốn. Đang hoang mang thì đà thấy
tướng của Tây Sơn là Đặng Tiến Đông mang quân đến vây, bắt tịch biên gia sản.
Khải khóc lóc kêu oan nhưng không sao được. Vinh Hoa từ trong lầu chạy ra, rẽ
đám lính Tây Sơn, quỳ trước mặt Đặng Tiến Đông lạy rằng: “Tướng quân tha cho,
việc này ở tên đầy tớ khốn nạn. Thân phụ thiếp hồn nhiên, lỡ phạm đến uy trời.
Tướng quân vì thiếp mà xét phải trái, sao chỉ vì một gã buôn trâu mà gây oán hận?”
Đặng Tiến Đông thấy Vinh Hoa xinh đẹp lạ lùng đánh rơi cả kiếm. Là người có học,
Đông biết anh hùng và mỹ nhân ở đời đều hiếm, nông nổi phạm đến có tội với trời.
Đông bảo rằng: “Tội của cha nàng đáng chết nhưng quyền tha không phải quyền ta.
Nàng muốn giải tội cho cha, phải vào cung mà tâu bày”. Nói rồi Đông quay ra cho
lính bao vây dinh thự nhà Khải, còn tự mình dẫn kiệu Vinh Hoa vào cung.
Đặng Tiến Đông vào cung, tâu bày sự việc với vua Quang Trung. Nhà vua thấy Vinh
Hoa, thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu quý cầm tay. Vinh Hoa nói
năng rành rẽ, đâu vào đấy, nhà vua thích lắm. Nhà vua hỏi gì, nàng trả lời điều
ấy, nói thông cả buổi, kim cổ đông tây đủ cả. Bọn Trần Văn Kỷ ngồi nghe toát cả
mồ hôi. Nhà vua bảo Vinh Hoa hát. Nàng gẩy đàn hát:
Mây ngũ sắc ứng điềm lành
Con Tạo xoay vần
Ai biết gặp nhau ở đâu
Mộng tưởng hão huyền
Muôn dặm đường trường
Khi cưỡi voi giục trống đánh thành.
Có nhớ ngàý xưa...
Đom đóm lập lòe ở góc vườn không.
Có nhớ mẹ ta cậy nanh ở miệng không.
Mối sầu của ta chỉ có mặt trăng biết
Ngồi trên ngai cao còn biết sợ ai..
Ngọc tỷ cầm trên tay lo việc nước
Biết lo là được, còn thành bại ở trời
ở nơi nguời
Người ngoan không nên...
biện bạch có quỷ thần hay không có quỷ thần
Hay nhìn từng giọt đồng hồ rơi mà run sợ.
Tiếng đàn có khí lạnh, mọi người không ai dám thở. Vua Quang Trung hỏi nhỏ: “Vận
Tây Sơn được mấy đời? “ Vinh Hoa bảo: “Sao không hỏi được bao nhiêu ngày”.
Vua Quang Trung giữ Vinh Hoa lại trong cung, rồi sai Đặng Tiến Đông rút quân khỏi
nhà Khải. Khi Đông đến nhà Khải thì Khải hổ thẹn đã treo cổ tự tử. Vua Quang
Trung thương xót, hối lại thì đã muộn. Nhà vua đang đêm xõa tóc, đi chân đất, vừa
đi vừa vấp, chạy vào báo cho Vinh Hoa việc Khải mất. Vinh Hoa lập bàn thờ ngay
trong cung, thắp hương, tạ vong linh Khải rồi bảo: “Bệ hạ khỏi bận lòng. Phận
nào phận ấy. Trời chỉ nhờ cửa sinh, có ai giữ được bố mẹ sống một nghìn năm? Bệ
hạ có thương, cho mở kho lấy một đấu vàng để trả đạo hiếu”. Nhà vua gật đầu.
Khi đi ra gặp Trần Văn Kỷ, nhà vua bảo: Ta nóng nảy đã đành, ta có lý của ta.
Còn cái lũ nhà giàu khốn nạn, chỉ biết mỗi thân mình, Khải bị hạn, sao không có
đứa nào đứng ra kêu hộ một tiếng?” Trần Văn Kỷ tâu: “Bệ hạ không hiểu bọn nhà
giàu, chúng có thương xót ai bao giờ? Ta có câu: Có độc mới đủ, có phũ như chó
mới giàu!...” Nhà vua lại hỏi: “Khải khôn khéo thế, bình sinh cẩn thận, sao sơ
suất đến nỗi bị tên đầy tớ kia lừa?” Trần Văn Kỷ tâu: “Đời người ta có vận hạn,
Khải không sợ trời, tính ích kỷ, giàu có mà đóng cửa ăn một mình; không biết
giúp ai, không biết làm điều phúc, điều thiện, không biết chia lộc cho thiên hạ,
trông thấy người hiền ngoảnh mặt đi; khi hạn đến, tránh sao kịp được? Nói chi đến
mưu thằng buôn trâu, có khi chỉ vì con ruồi cũng làm tan nghiệp” Nhà vua gật đầu,
cho làm ma Khải rất hậu rồi lệnh truy nã tên Sâm.
Vinh Hoa ở trong cung, vua Quang Trung rất ân cần, thương xót. Từ quan tới
lính, không ai không nể vì. Nàng ăn nói khoan hòa, cư xử thông minh, lịch lãm,
bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm, Đặng Tiến Đông, Vũ Văn Dũng, Trần Văn Kỷ... ai
cũng quý trọng nàng. Nhiều việc triều chính nàng tham dự, mọi ý kiến luận bàn của
nàng vua Quang Trung hết sức thán phục, làm gì cũng thành. Cũng có khi nàng múa
hát cho mọi người xem. Vua Quang Trung nói: “Ta được Vinh Hoa như được báu vật,
một Vinh Hoa bằng ba vạn người”.
Tuy vua Quang Trung đối xử ân cần, hết lòng yêu thương chiều chuộng, song Vinh
Hoa vẫn một mực không cho nhà vua thành thân. Mỗi khi nhà vua ngỏ ý, nàng đều
khéo léo chối từ. Nhà vua rất lấy làm buồn. Tuy hàng ngày gặp nhau nhưng nhà
vua vẫn không sao gần gụi được.
ổn định xong Bắc Hà, vua Quang Trung giao việc triều chính cho bọn Ngô Văn Sở rồi
kéo quân về Phú Xuân, đưa cả Vinh Hoa theo. ít lâu sau nhà vua bỗng mất đột ngột.
Khi lâm chung, có Vinh Hoa đứng hầu bên giường, nhà vua nhìn mãi Vinh Hoa mà
không nhắm mắt. Cả triều đình thương cảm. Con trai nhà vua là Nguyễn Quang Toản
vuốt mắt cho cha nhưng hễ buông tay ra mắt nhà vua lại mở trừng trừng. Đến cả
Hoàng hậu Ngọc Hân cũng thế. Sau Vinh Hoa phải lấy ngón tay út của mình đặt lên
hai mi mắt nhà vua thì mắt nhà vua mới nhắm lại được. Sau đấy, chỗ ngón tay út
của Vinh Hoa đen như chàm, rửa thế nào cũng không sạch.
Từ khi vua Quang Trung mất, nội bô Tây Sơn rối ren, Nguyễn Quang Toản kéo quân
vào Quy Nhơn đánh bác ruột mình là. Nguyễn Nhạc. Bọn tướng của Tây Sơn là Vũ
Văn Dũng đánh nhau, chia năm xẻ bảy cơ nghiệp. Năm Tân Dậu (1810), vua Gia Long
Nguyễn Phúc ánh chiếm Phú Xuân Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc, triều Tây Sơn sụp
đổ.
Khi chiếm Phú Xuân, tướng của Gia Long là Vũ Văn Toàn vào trước, kéo quân thẳng
vào hậu cung, cướp được nhiều cung tần mỹ nữ, cướp được cả Ngô Thị Vinh Hoa.
Quân hồi vô phèng, Toàn hốt rất nhiều vàng bạc. Toàn vốn xuất thân quản tượng,
theo vua Gia Long nhưng thâm tâm có ý không phục. Khi vua Gia Long vào thành an
dân, kiểm kê kho đụn Tây Sơn, thấy chẳng còn bao nhiêu. Nhà vua hỏi Toàn: “Của
cải trong kho, không có cánh mà bay à?” Toàn tâu: “Từ khi Nguyễn Huệ chết, Tây
Sơn làm gì có của, chỉ có chuột”. Nhà vua hỏi: “Phi tần không còn ai ư?” Toàn
tâu: “Đàn bà trơn mà nhanh như rắn, động ổ là chuồn, biết đâu mà lần?” Nhà vua
nín lặng, không nói năng gì.
ít bữa sau, có người mật báo với vua Gia Long nhà Toàn chứa đầy gái đẹp với đồ
vàng bạc. Nhà vua giận lắm, đang đêm đến vây nhà Toàn, thấy Toàn đang ngủ trên
giường bèn trói nghiến lại.
Tướng của vua Gia Long là Nguyễn Văn Thành soi đuốc dẫn nhà vua đi xem xét, quả
nhiên thấy đúng như lời mật báo. Nhà vua gọi Toàn ra mắng: “Thằng khốn nạn theo
voi ăn bã mía kia, đểu cáng chừng nào. Mày mượn danh ta để đi ăn cướp với chơi
gái à?” Toàn lạy van: “Bệ hạ tha cho. Toàn theo bệ hạ từ thuở hàn vi, nằm gai nếm
mật đắng cay. Nay nghiệp đã thành, muốn hưởng lạc riêng, thế gọi là trả giá đời
sống”. Nhà vua cười nhạt: “Mày tưởng công mày to ư? Mày ở gần ta mà không biết
ta. Mày kể công với ta làm gì? Mày chỉ dự vào trò chơi của ta. Trò chơi nào chẳng
vô công? Mày phạm luật thì mày chịu. Đừng trách ta ác”. Toàn lại lạy van: “Bệ hạ!
Bệ hạ! Bệ hạ nói gì vậy? Đẩy vạn con người vào cuộc binh đao là trò chơi sao? “
Nhà vua bảo: “Binh đao là trò chơi của trời. Sao mày lại hỏi ta? Ta chơi trò
khác, chơi trò đế vương!” Toàn lại lạy van: “Bệ hạ thương tình! Vàng bạc trả lại
bệ hạ! Phi tần trả lại bệ hạ! Chỉ xin bệ hạ ban cho Ngô Thị Vinh Hoa” Nhà vua nổi
giận: “Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê ư? Ta cho cắt dái mày! Ta cho
mày ăn cứt”. Nhà vua vào phòng Ngô Thị Vinh Hoa. Mở cửa ra, thấy Vinh Hoa bị
trói, trên người không có mảnh vải che. Gia nhân thưa rằng Toàn muốn làm nhục
Vinh Hoa nhưng nàng không chịu, nhà vua rất thương xót. Nhà vua đến gần, thấy
Vinh Hoa đẹp quá, bỗng nhiên xây xẩm mặt mày. Nhà vua thở dài, ngã quay ra đất,
ngất lịm đi.
Vinh Hoa ở trong cung được nhà vua hết sức vêu chiều. Dần dần nàng hồi tâm lại,
đẹp mơn mởn y như lộc mùa xuân. Biết Vinh Hoa có tài múa hát, lại có tài đoán định
việc trước sau, nhà vua thích lắm, muốn lấy làm vợ. Nguyễn Văn Thành can: “Bệ hạ!
Bệ hạ! Vinh Hoa ở với Nguyễn Huệ bao năm mà Huệ không dám đụng vào thân thể. Thần
xin bệ hạ giữ lấy mình rồng! “ Nhà vua bảo: “Thế là Huệ dại, Huệ trọng tinh thần
mà bỉ thể xác”. Thành hỏi: “Bệ hạ muốn dùng Vinh Hoa ở phần tinh thần hay phần
thể xác?” Nhà vua bảo: “Làm đến đại tướng còn ngu. Bậc đế vương giữ nước là ở
tinh thần, còn giữ mình là ở thể xác”. Thành lắc đầu rồi lui ra.
Vua Gia Long vào cung, tìm Ngô Thị Vinh Hoa, nhà vua bảo nàng. “Ta muốn sở hữu
nàng như nuôi con gà, con vịt trong nhà. Vinh Hoa tâu: “Bệ hạ muốn làm vua gà,
vua vịt hay sao? “ Nhà vua thở dài: “Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn,
chỉ được quyền cao cả, không được quyền đê tiện”.
Vinh Hoa tâu: “Ai cũng phải thế”. Nói rồi nàng ôm đàn hát:
Nước có còn không
Nước có mạnh không
Thiên tử là cái ghế lớn thiên hạ
Cây cao, bóng cả
Trùm lên muôn dân
Gió mây có biến hóa
Ghi nhớ trong tâm trường
Nhắc ai tự chủ trương
Giữ chữ “thường”
Chính đạo thuần vương
Nhà vua nghe tiếng đàn, mơ màng, gục đầu xuống bàn ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy,
nhà vua không thấy Vinh Hoa đâu nữa, chỉ thấy trên bàn có ghi mấy chữ:
Thời lai phong tống tạ Đà giang
(Thời vận đến, gió đưa lại phía sông Đà)
Nhà vua sai tìm Vinh Hoa khắp nơi nhưng không thấy. ít lâu sau, ở vùng huyện lỵ
Đà Bắc (thuộc phủ Hưng Hóa), người ta vớt được một xác phụ nữ quý tộc trôi trên
sông, trên tay có bế một đứa bé con còn sống. Quan sở tại báo việc này về triều
đình. Vua Gia Long cho người lên xem xét, nhận ra người chết giống hệt Ngô Thị
Vinh Hoa. Nhà vua cho làm ma nàng rất hậu, bắt lập miếu thờ. Đứa bé con được những
người dân Mường ở đây đón về nuôi. Trong miếu thờ có đôi câu đối của nhà vua
ban, ghi rằng:
Sự nhị quân, vĩnh thủ trinh tâm
Lưu vạn cổ, bảo tồn phẩm tiết.
(Thờ hai vua, vẫn giữ lòng trinh
Lưu muôn thuở, còn nguyên phẩm tiết)
SANG SÔNG
Bến đò.
Sang đò có một nhà sư, một nhà thơ, một nhà giáo, một tên cướp,
hai tên buôn đồ cổ, hai mẹ con, một cặp tình nhân và chị lái đò.
Chị lái đò bắc tấm ván cầu để hai tên buôn đồ cổ đẩy chiếc xe
máy lên đò. Tên cao gầy bảo tên mặc áo ca rô:
- Cẩn thận!
Đấy là tên này bảo bạn nó cẩn thận ôm cái bọc vải trên tay,
trong ấy có cái bình cổ.
- Giúp với!.
Tên cao gầy nói với người đứng sau. Người ấy là nhà thơ.
Họ loay hoay đẩy chiếc xe máy lên tấm ván cầu. Nhà thơ vụng về
níu chiếc xe máy lật nghiêng. Anh khuỵu đầu gối xuống nước. Đôi trai gái đứng
trên bờ bật cười. Cô gái nói với người yêu:
- Giúp họ một tay!
Chàng trai cởi áo khoác đưa cho cô gái. Anh đến chỗ xe đổ.
Chiếc xe được nâng lên, đẩy vào khoang đò, nơi có hai mẹ con
ngoài thành phố về thăm quê. Người mẹ ba mươi hai tuổi, xinh đẹp, đài các. Đứa
con trai chín tuổi trông rất kháu khỉnh.
Chiếc xe máy quay ngang trong lòng đò, chạm vào người thiếu
phụ. Thiếu phụ cau mặt. Tên cao gầy nhanh nhảu:
- Xin lỗi chị.
Tên cao gầy cúi xuống phủi vết bẩn ở đầu gối thiếu phụ. Thiếu
phụ hất tay hắn, quay mặt đi.
Đằng sau họ, nhà sư đang kể chuyện cho ông giáo nghe về đức Bồ
Đề Lạt Ma:
- Khi ngài ngồi điện bích ở Tụng Sơn, Huệ Khả đến chặt tay
mình để xin pháp ấn, nói rằng: “Bạch thầy, tâm con không an”. Ngài bảo: “Ngươi
đưa tâm của ngươi ra đi”. Huệ Khả đáp: “Bạch thầy, con tìm tâm mãi mà không thấy”.
Ngài bảo: “Đó! Đó là ta đã an tâm cho ngươi rồi đó”. Thế là Huệ Khả giác ngộ...
Tên mặc áo carô ôm bọc vải vào lòng ngồi cạnh nhà sư. Đây là
chỗ an toàn nhất trong đò. ông giáo không bằng lòng:- Cái anh này! Sao chen vào đây?Tên mặc áo carô khép nép:- Cụ xá lỗi! Con đang giữ trong tay báu vật. Vỡ cái bình này
thì sạt nghiệp.- Bình gì thế?Tên mặc áo carô hơi co người lại.Cặp tình nhân xuống đò. Họ ngồi ở mũi đò, sau chỗ chị lái đò.
Chàng trai đưa tay vớ lấy chiếc áo khoác trên đùi cô gái. Tay anh chạm vào làn
da. bụng âm ấm của cô. Anh để yên, không rút tay ra nữa. Cô gái đỏ mặt, lấy chiếc
áo khoác trùm lên tay ánh.Nhà thơ ngồi chênh vênh ở bên mạn đò. Anh khỏa tay xuống nước
làm đò chao nghiêng. Tên cao gầy cau mặt vỗ vai nhà thơ:- Ông anh đừng đùa! Chết ráo cả bây giờ.Nhà thơ ngơ ngác:- Nước trong quá! Nhìn thấy những con cá thần tiên dưới đáy.Tên cao gầy bật cười:- Thật chịu thầy! Tôi chỉ thấy có cá diếc thôi!Chú bé chen vào hùa với nhà thơ:- Cá thần tiên đấy!Tên cao gầy lia mắt vào lòng thiếu phụ:- Con ơi, con hỏi mẹ con xem đấy là cá diếc hay cá thần tiên?Thiếu phụ luống cuống, khép đùi lại, kéo tay chú bé.Chị lái đò đẩy sào. Chiếc đò rời bến. Trời chiều mây xám. Một
cánh chim bay về phía núi. Con đò xoay ngang.- Đò!Tiếng gọi gay gắt từ trên bờ đất vang lên. Tên cao gầy khoát
tay:- Kệ họ!Chị lái đò lưỡng lự đẩy sào.- Đò!Tiếng gọi lần này lại gay gắt hơn. Con đò hướng mũi vào bờ.Từ doi đất đi xuống là một người cao lớn, khoác túi, trông
dáng phong trần. Nhảy một bước, anh ta đã ở trên đò. Nước sông bắn cả vào nhà
sư.Nhà sư giật mình, thốt lên:- A di đà Phật!Ông giáo lẩm bẩm:- Người với ngợm, trông như tướng cướp.Kẻ ấy là tướng cướp thật. Hắn cười nhã nhặn như để xin lỗi mọi
người rồi thản nhiên cầm lấy tay chèo. Hắn quấn chiếc túi vải lên đầu tay chèo
rồi vừa kẹp tay chèo vào nách để châm thuốc lá vừa nháy mắt nói với chị lái đò:- Trời chẳng nắng, trời chẳng mưa. Thoắt cái mà đã xế trưa mất
rồi!Chị lái đò bâng quơ:- Giông bão gì đâu mà quạ xuống núi?Tên cướp vui vẻ:- Có cỗ cưới, người ta mời. ông lão sáu mươi lấy cô mười bẩy.Mọi người trên đò lặng ngắt. Chẳng ai ưa lối trò chuyện này.
Chỉ có cặp tình nhân không chú ý gì Chàng trai luồn bốn ngón tay qua lần chun
quần cô gái. Cô gái định làm một cử chỉ cưỡng lại nhưng sợ mọi người chú ý nên
lại ngồi im.Tiếng chèo khua rất khẽ.Tên mặc áo carô ngủ gà ngủ gật.Ông giáo tiếp tục câu chuyện:Bạch thầy! Bản chất đời sống con người có sự ác. Con người chạy
theo dục tình, tiền bạc, danh vọng hão huyền.Nhà sư đưa mắt nhìn vào lòng bàn tay. Bạch thầy! Đâu đâu con
cũng thấy toàn là súc vật. Mọi sự thảy súc vật hết. Cả sự chung tình cũng là
súc vật. ý thức hướng thiện cũng súc vật nốt.Nhà thơ ngâm khe khẽ:- Chỉ có ta, cô đơn giữa bầy...Thiếu phụ bóc một quả cam đưa cho chú bé. Chú bé lắc đầu.Tên cao gầy rút bao thuốc lá mời nhà thơ. Nhà thơ nhận ra một
nốt ruồi ngay tinh mũi hắn. Anh lắc đầu:- Cái nốt ruồi kinh quá!Tên cao gầy trố mắt:- Sao thế?- Anh có thể thoắt cái giết người như bỡn.Nhà thơ đưa tay cứa ngang cổ mình:- Như thế này này...Tên cao gầy bật cười:- Sao biết?.Nhà thơ lắp bắp, anh không tin chắc điều mình nói nữa:- Tôi là nhà tiên tri thấu thị.Chú bé níu lấy tay anh:- Thế còn cháu thế nào hả chú?Nhà thơ chăm chú nhìn sâu vào mắt chú bé, nhận ra một nỗi buồn
khắc khoải tê dại như thể của tổ tông truyền lại cho nó, lẫn ở đấy có những vằn
đỏ nhỏ li ti.Anh ngần ngại hỏi:- Cháu có dám mơ mộng không?Chú bé gật đầu quả quyết:- Có!Nhà thơ mỉm cười:- Vậy cháu bất hạnh.Thiếu phụ thở dài. ông giáo lẩm bẩm:- Đâu đâu cũng rặt những phường điêu trá.Cô gái ngồi ở đầu mũi đò cựa quậy. Người yêu của cô luồn bốn
ngón tay sâu thêm chút nữa vào trong quần lót của cô. Cử chỉ của anh không lọt
qua mắt thiếu phụ. Bằng kinh nghiệm riêng đàn bà, thiếu phụ biết cặp tình nhân
đang giở trò khỉ.Ông giáo ngâm ngợi:Góc danh lợi bùn pha sắc xámMặt phong trần nắng rám mùi dâuNghĩ thân phù thê mà đauBọt trong bể khổ bèo đầu bến mêMùi tục lụy lưỡi tê tận khổĐường thê đồ gót rỗ kỳ khuSóng cồn cửa bể nhấp nhôChiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh...Nhà thơ reo khẽ:- Hay quá! Thơ của ai thế cụ?Ông giáo trả lời:- Đấy là Nguyễn Gia Thiều.Nhà thơ thở dài:- Tiếc thật...Tay nào hay thì đều toi cả...Văn chương chết đoản
hết...Cô gái ngồi ở đầu mũi đò bật lên tiếng rên khe khẽ.Thiếu phụ nhìn sâu vào mắt cô gái rủa thầm:- Đồ đĩ!Cô gái nhận ra lời rủa bèn quay mặt đi nhưng vẫn bị ánh mắt
thiếu phụ dõi theo. Không chịu nổi, cô gái trâng tráo nhìn thẳng vào mắt thiếu
phụ thừa nhận:- ừ thì đĩ!Chú bé bật cười vì nhìn thấy rớt dãi ở mép của tên buôn đồ cổ
mặc áo ca rô. Mắt hắn díu lại, đầu cứ thúc lia lịa vào mặt nhà sư.Chiếc bọc vải trên tay của tên mặc áo carô tỳ hẳn lên đùi ông
giáo. ông bực mình, giằng lấy chiếc bọc vải làm sợi dây buột ra để lộ chiếc
bình.Tên mặc áo carô tỉnh ngủ, giật mình:- Cháu xin lỗi cụ!Ông giáo nâng chiếc bình lên tay ngắm nghía thán phục:- Chiếc bình đẹp quá!Ông giáo quay sang bên cạnh:- Bạch thày! Chiếc bình này thời nào?Nhà sư ngước lên, trong ánh nhìn lóe một tia sáng thậm chí giống
hệt dục vọng:- Bình gốm thời Bắc thuộc, đời Lý Bí hay Khúc Thừa Dụ...Ngần ngừ giây lát, nhà sư đưa bàn tay sờ lên miệng bình:Chùa Tương có cái bình thế này, bán đi đủ tiền xây lại tam
quan.- Một “cây” đấy!Tên cao gầy hãnh diện đỡ lấy chiếc bình trên tay ông giáo. Tên
cướp dừng chèo, không điều gì trong đò lọt qua mắt hắn.Cô gái ngồi ở cuối đò xoay người, tránh một cử chỉ quá trớn bất
cẩn của người yêu cô. Chàng trai bực mình rút tay khỏi lòng cô gái. Anh len lén
chùi tay vào khe ván đò nhưng không làm sao gạt được sợi lông loăn xoăn dính ở
ngón tay. Ngay lúc ấy, một ý nghĩ hiện lên khiến anh tự dưng cáu bẳn.Anh ngồi nhích xa cô gái:- Đàn bà...quỷ sứ...Tất cả đều chẳng ra gì... Bẩn thỉu...Cô gái duỗi thẳng chân. Vẻ thất vọng của cô làm cho thiếu phụ
chú ý. Thiếu phụ cười nụ, không giấu được vẻ hả hê trong mắt.Nhà thơ xem xét chiếc bình, thán phục:- Hàng nghìn năm lịch sử...Kinh thật! Ngày xưa có cô công
chúa đựng nước gội đầu ở bình này đấy!Tên cao gầy mỉm cười:- Tôi tưởng bình đựng rượu?Nhà thơ gật đầu:- Đúng rồi! Thế kỷ XIII, khi quân Nguyên Mông sang, có tráng
sĩ đã dùng bình này đựng rượu...Thế kỷ thứ XV người ta chôn nó xuống đất.- Thật chịu thầy! - Tên cao gầy thú vị. - Chiếc bình này chắc
nhiều sự tích phải không?Tất nhiên rồi. - Anh nheo mắt lại. - Có năm mươi sự tích.Ông giáo đánh rơi chiếc cặp trên tay. Tên mặc áo ca rô nhặt hộ
tờ giấy, thấy ở đấy có chữ ghi chép. Hắn liếc mắt đọc:Nhân loại có bổn phận làm việc không ngừng để sáng tạo những
người cao thượng; đó là nhiệm uụ của con người, và chẳng có việc gì khác nữa
(Nitsơ). Tôi thường nói với nghệ sĩ - và tôi còn nói mãi - rằng cùng đích những
xung đột trong vũ trụ và loài người chính là nghệ thuật trình diễn kịch, bởi vì
những xung đột đó không có một công dụng nào nữa (Gơtơ)”.Tên mặc áo carô đưa trả ông giáo tờ giấy. Hắn lễ độ:- Chữ cụ tươi quá!Ông giáo cầm tờ giấy, chua chát nói:- Chữ à! Văn tốt chữ tươi thì nghĩa lý gì?Chú bé dựa hẳn vào lòng nhà thơ. Chú bé đút tay vào trong miệng
bình. Thiếu phụ hốt hoảng:- Này con! Khéo không rút tay được ra thì khốn!Có lẽ lời nhắc nhủ của thiếu phụ chính là lời rủa của tạo
hóa, ở đấy chứa cả nỗi căm uất quá khứ.Tên cao gầy giật mình. Hắn bảo chú bé:- Rút tay ra!Nhà thơ bông đùa:- Đút tay vào lịch sử thì kẹt ở đấy còn lâu!Chú bé loay hoay. Hình như miệng của chiếc bình bé lại. Chú
bé mếu máo:- Mẹ cứu con!Mọi người trong đò rối rít cả lên. Chú bé không sao rút tay
ra được miệng bình.Thiếu phụ sợ hãi:- Làm sao bây giờ?Tên mặc áo carô ngồi xuống đở lấy chiếc bình, hắn vừa xoay
chiếc bình vừa cằn nhằn:- Đồ quỷ! Nghịch hết chỗ nói!Chú bé òa khóc. Tên cao gầy bắt đầu nổi giận.Tên cướp không chèo nữa. Hắn đến gần, xem xét.Hắn khuyên chú bé:- Kéo mạnh tay ra!Tên cao gầy nhăn mặt, giọng khàn lại:- Cẩn thận không vỡ chiếc bình!Chỉ còn một thôi chèo nữa là đò cập bến. Dòng sông lặng ngắt
như tờ. Đã thấy khói lam chiều ở phía làng xa.Cặp tình nhân cũng rời chỗ ngồi đến gần chú bé. Người ta tìm
đủ cách gỡ chiếc bình ra. Chú bé nước mắt lưng tròng.Nhà thơ đùa cợt, rõ ràng chẳng hợp tình cảnh chút nào:- Chỉ còn cách chặt tay chú bé để cứu chiếc bình, sau đó lại
đập vỡ bình cứu tay chú bé.Thiếu phụ khóc lóc, rên rỉ:- Trời ơi...khổ quá!Tên cao gầy đỡ lấy những chiếc bình. Hắn kéo mạnh.Đây là cố gắng cuối cùng. Cổ tay chú bé đỏ hỏn, xước cả da.- Chịu!Tên cao gầy khẳng định. Hắn đứng dậy, thò tay vào trong ngực
áo. Tên mặc áo carô hiểu ý bạn hắn.Chiếc đò cặp bến. ở trên bờ không một bóng người.Gió lạnh thổi.Tên cao gầy và tên mặc áo carô lăm lăm hai mũi dao nhọn.Tên cao gầy nói với thiếu phụ, dứt khoát, lạnh lùng. Chiếc
bình này một “cây” bà chị tính sao thì tính!Thiếu phụ sợ hãi, ôm chặt chú bé:- Trời ơi...tôi không mang tiền...Sực nhớ ra, thiếu phụ vội vã tháo ở ngón tay chiếc nhẫn.Tên cao gầy hất đầu cho tên mặc áo carô. Tên này cầm ngay chiếc
nhẫn đút vào túi áo.Tên cao gầy dí dao vào cổ chú bé. Một giọt máu ứa ra nơi đầu
mũi dao. Giọt máu chảy từ từ trên vệt lang ben trắng bạch.- Làm sao thế.Ông giáo lập cập đánh rơi cả kính. Mũi dao ấn sâu hơn nữa. Một
tia máu nhỏ phun vào bàn tay ông giáo.Cô gái đứng bên chàng trai ôm mặt rú lên, ngã cạnh thành đò.
Chàng trai đẩy nhà thơ ra, anh tháo chiếc nhẫn ở tay chìa cho tên mặc áo carô.Anh nói, giọng như ra lệnh:- Các người bỏ thằng bé ra! Thiếu phụ thôi khóc. Chị hơi ngạc
nhiên trước cử chỉ của chàng trai trẻ.Tên cao gầy đảo mắt. Mũi dao lún sâu dần vào cổ chú bé.Tên mặc áo carô cầm lấy chiếc nhẫn trên tay chàng trai.Tên cướp sấn vào, hắn dẫm vào chân chú bé.Chú bé rú lên. Tên cướp nghiêng người, xô cả vào người ông
giáo. Chiếc túi vải khoác trên vai hắn rơi xuống, đổ ra lủng củng các thứ đồ
nghề rõ ràng chẳng phải lương thiện chút nào. Chiếc côn nhị khúc, chùm chìa
khóa đến năm chục chiếc khác nhau, lưỡi lê, còng số 8, cuốn lịch xem ngày tốt xấu
ố vàng rách nát...Tên cướp nhét vội đồ nghề cho vào túi vải. Hắn cầm chiếc côn
lên tay đập đập. Hắn nói:- Việc đã lỡ rồi, coi như vận xấu, đi buôn lỗ vốn!Tên cao gầy trừng mắt lên nhìn. Tên cướp nửa đùa nửa thật:- Thôi đi! Trẻ con là tương lai đấy! Làm gì cũng phải nhân đức
hàng đầu.Tên cao gầy lưỡng lự, để lỏng mũi dao. Ngay lúc ấy, chiếc côn
trên tay tên cướp bổ mạnh vào miệng chiếc bình.Chiếc bình gốm vỡ.Nhà thơ thở phào, anh tán thưởng:- Có thế chứ!Chú bé quỵ vào lòng mẹ. Hai mẹ con ôm nhau khóc. Tên cao gầy
và tên mặc áo carô sững sơ, chúng quay sang phía tên cướp, lăm lăm lưỡi dao.
Tên cướp lùi dần rồi nhảy lên bờ. Hắn xoay chiếc côn nhị khúc trên tay.- Vô ích, - hắn thản nhiên nói.Mà vô ích thật. Rõ ràng là thế.Chàng thanh niên đỡ cô gái dậy. Cô gái mỉm cười. Cô biết, cô
sẽ yêu anh mãi mãi.Nhà thơ lẩm bẩm.Tình yêu làm cho con người cao thượng.Hai tên buôn đồ cổ cất dao rồi đẩy xe máy lên bờ.Chúng làu bàu chửi rủa đến khi ngồi lên xe máy. Ông giáo bàng
hoàng. Sự việc xảy ra khiến ông kinh ngạc:- Trởi! Anh ấy dám đập vỡ bình! Thật đúng là một anh hùng! Một
nhà cách mạng! Một nhà cải cách!Chị lái đò giấu nụ cười thầm. Chị biết, vô phúc cho ai một
mình gặp hắn trong đêm..Nhà thơ nhặt mấy mảnh gốm đưa cho thiếu phụ. Anh giải thích:- Để làm kỷ niệm.Anh cúi xuống đỡ người chú bé. Mọi người lần lượt lên bờ.Bóng chiều tan dần. Trên đò còn lại nhà sư vẫn ngồi bất động.Chị lái đò dè dặt:- Bạch thầy! Mời thầy lên bờ.Nhà sư lắc đầu:- Thôi, tôi nghĩ lại rồi...Cho tôi quay về.Ngần ngừ giây lát, ông lưỡng lự nói:- Tôi sẽ đi sau.Chị lái đò tần ngần nhìn những vì sao cuối trời:- Bạch thầy, về bên kia sông con không đi nữa.Nhà sư vui vẻ, cười khẽ:- Không sao! Muốn đi là được. Ngày xưa, đức Bồ Đề Lạt Ma còn
sang sông trên một cọng cỏ cơ mà...Chiếc đò quay về bến cũ. Bóng chị lái đò và nhà sư nổi bật ở
trên dòng sông phẳng lặng. Trăng lên, tiếng chuông ngân nga êm đềm. Nhà sư thầm
thì đọc câu thần chú:- Gate gate! Para gate! Para para san gate!THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊTôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Ði trên
đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là
vòng cung Ðông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi lên đấy phải năm mươi cây số.
Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về.Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với
tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa.Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm,
ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên
như bánh đa.Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp
kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lấp ra đa với máy thông tin, mỗi năm về
phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi
làng. Mẹ tôi bảo: "Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người". Chú
Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú
cháu với nhau : "Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh
nhân, có yêu quái". Nhà chú Phụng toàn phụ nữ : mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gáị
Chú Phụng đùa :"Chú đẹp giai nhất nhà".Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân
trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quì dạy cấp một ở
làng. Hồi trước tôi học ông giáo Quì. Ông giáo Quì có nhiều sách. Mọi người vẫn
bảo ông là "đồ gàn", lại bảo ông là "lão dê già", "Quì
dê". Ông giáo Quì có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị đâu tôi. Vợ hai là
thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung
trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quì lấy về làm vợ nên uy tín chẳng
còn gì.Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái
Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt
sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt
áo.Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước
mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được
thịt mỡ.Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa
ngột ngạt.Ðường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì
Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi :"Anh Nhâm
!". Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau
yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi :"Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội".Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì
Lưu đang công tác bên Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội
có con gái là Quyên đi học đại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên đã có lần về thăm quê.Tôi cầm bức điện đọc :"Cô Lưu cho người ra ga đón cháu
Quyên 14 giờ ngày... ". Tôi hỏi cái Mị :"Chiều nay à ?". Cái Mị
gật đầu.Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm
như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi :"Nhâm giúp dì ra đón em Quyên
nhé". Tôi bảo :"Nhà cháu đang gặt". Dì Lưu bảo : "Ðể đấy
đã. Gặt ở khoảnh nào ?". Tôi bảo :"Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng".Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi
cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn, đậm người hơn. Nó hay nói, hay làm
nũng. Cái Mị bảo :"Anh Nhâm ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi".
Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lòng hơi giống hom giỏ, có hàm răng mở
ra. Tôi bảo :"Em kiếm nứa đi". Cái Mị bảo :"Em có rồi. Mai anh
làm nhé". Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo
:"Mai đấy". Tôi bảo :"Ừ". Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi
gãy cành có lần suýt ngã. Chú Phụng đọc tờ điện báo nói: "Sao lại bưu cục
S.N.N ? Thế là nghĩa lý gì ?". Mẹ tôi bảo :"Dì Lưu đã nhờ thì Nhâm đi
đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc". Tôi bảo cái Mị :"Em về đị
Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn".Cái Mị đi về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa
tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh.
Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật
mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. Ðất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ
xíu nhảy lách tách.Ðến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà
tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhổ gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm
mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng
cung Ðông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi :"Mày về luôn
chứ ?". Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai chú cháu tôi
mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa rất nặng.
Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000
bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà.Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho
mẹ tôi và chị Ngữ.Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho
khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông
đấu gạo.Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc,
nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôi. Tôi
sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo :"Cháu cầm lấy ít tiền". Dì
Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hơn cân thóc.
Dì Lưu hỏi : "Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không ?". Tôi gật đầu, thực
ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra.Tôi đạp xe ra gạ Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm
tôi mới đi xa thế này.Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi
theo bờ mương ngược về huyện lỵ. Tôi nghĩ. Những ý nghĩ của tôi mông lung.Tôi nghĩTôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từSự bất lực của hình thức biểu đạtMà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đấtSự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đấtNhững số phận hiu hắt đầy mặt đấtBao tháng ngày trôi điBao kiếp người trôi điSự khéo léo của ngôn từ nào kể lại đượcAi nhặt cho tôi buổi sáng mai nàyNhặt được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôiNhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôiNhặt được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôiVà nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quêTôi rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩTìm cách săn đuổi cho nó vào chuồngVà tôi hú gọi trên cánh đồng lòngTru lên như con sói hoangTôi gắng gặt một lượm sốngBó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từTôi hú gọi trên cánh đồng ngườiTôi nhặt những ánh mắt đờiHòng dõi theo ánh mắt tôiDõi vào cõi ý thứcCõi ý thức mênh mông xa vờiDầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi.Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga.
Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát-xét nhà nào
đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi :"Người đi qua đời tôi,
có nhớ gì không người ? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em ?". Hàng phở,
hàng giải khát. La liệt là những sạp hành quần áo, giầy dép, đường sữa, thuốc
lá. Ô tô chạy xuôi chạy ngược.Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng.Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to
:"Tàu về". Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên :"Tàu về".
Tiếng còi tàu hâm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những
bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy ngược chạy xuôi. Tiếng rao hàng
chen nhau :"Nước đây ! Ai bánh nào ! Ai nước nào ! Ai bánh nào ! Ai nước
nào !".Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngỗn
ngang ở ngay bậc cửa. Ðây là ga lẻ. Ðồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô
danh.Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé. Tôi nhận ra
mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người
thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên
cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này. Ðấy là nhà thơ Văn Ngọc.
Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên.Quyên xõa tóc, mặt áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi.
Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra.Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo
: "Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không ?". Tôi bảo
:"Vâng". Quyên cười :"Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu ?
Anh tên gì ?". Tôi bảo :"Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng".
Quyên hỏi: "Thế anh có họ hàng gì với tôi không ?". Tôi bảo
:"Không". Quyên gật đầu :"Tốt. Cô Lưu thuê anh à ?". Tôi
nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng
nhận là kẻ làm thuê, làm mướn.Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt
đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa.Quyên hỏi :"Nhà anh cấy bao nhiêu sào ? Mỗi sào bao
nhiêu thóc ? Ðược bao nhiêu tiền ?". Tôi bảo :"Mỗi sào được hơn ba nồi,
khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư". Quyên nhẩm :"Hai mươi triệu
tấn thóc cho sáu mươi triệu người". Tôi bảo : "Có ai chỉ nghĩ đến
ăn".Qua đầm sen gặp sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều
bảo :"Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu" . Tôi bảo :"Ðể
lúc nào qua chùa con xin". Tôi thú chơi hoa. Ông giáo Quì bảo :"Ðấy
là thú của kẻ biết đời". Sư Thiều bảo :"Có lấy ít sen về cắm lọ không
?". Ðầm sen của chùa mùa này nhiều hoa.Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa
người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo :"Tôi muốn đi thuyền". Tôi gọi
sư Thiều.Sư Thiều ghé thuyền vào.Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi
đẩy thuyền ra.Sư Thiều bảo :"Chìu người lụy ta". Tôi cười. Tôi và
sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng
hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không.Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi :
"Ngon không ?". Quyên bảo :"Ngon".Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào. Quyên chào lại. Quyên
ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo.Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều.CHUYỆN SƯ THIỀUSư Thiều mồ côi cha mẹ. Năm 15 tuổi có người trông thấy tướng
lạ bảo :"Nên xuất gia, trong trần gian không có chỗ chứa cậu". Sư Thiều
nghe lời, đi du phương nhiều nơi, tìm hiểu qua nhiều bậc thiện tri thức nhưng
chẳng ngộ. Sư Thiều nói :"Nay Phật ở nơi không có Phật". Lại nói :"Ðạo không tâm hợp ngườiNgười không tâm hợp đạo"Sư Thiều tìm thấy một nền chùa cũ bèn phát công đức, tìm cách
tu dựng lại, không hiểu sao gọi là "Bạch xỉ tự" (Chùa trắng răng). Sư
Thiều hay đọc thơ, có câu :"Cô luân độc chiêu giang sơn tịnhTự tiếu nhất thinh thiên địa kinh"Nghĩa là :"Một vầng riêng chiếu non sông lặngChợt cười một tiếng đất trời kinh"Lại có câu :"Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếmBất thị thi nhân mạc hiến thi"Nghĩa là:"Gặp tay kiếm khách nên trình kiếmChẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ"Sư Thiều bảo :"Phật dạy con người tu một cách thực tế, tìm lại bản lai diện
mục của mình, Phật quá thực tế nên không phải ai cũng hiểu".Tôi và Quyên về nhà. Dì Lưu nước mắt lã chã gọi :"Cháu!
Cháu ơi !". Quyên ngồi bên giường bảo :"Bố mẹ cháu nhớ ngày giỗ ông
nhưng bận không về được, bảo gửi cho cô chú ít tiền". Dì Lưu bảo :"Cô
chú không cần tiền, chỉ cần tình cảm". Quyên lấy ở túi ra năm triệu đồng
đưa cho dì Lưu. Quyên bảo : "Chị cho Mị cái áo". Cái Mị cười bẽn lẽn
bảo :"Em cám ơn chị". Tôi bảo dì Lưu :"Cháu về đây". Tôi
nhét trả dì Lưu hai nghìn đồng xuống gối rồi về.Ở nhà đang tuốt lúa. Chị Ngữ hỏi :"Con bé Quyên có xinh
không !". Tôi bảo :"Xinh".Ăn cơm tối xong thì tối mịt. Trời đổ mưa rào. Sấm sét nổ vang
trời. Cả nhà tôi lục đục chuyển thóc ra khỏi chỗ dột. Xong mọi việc thì đồng hồ
đã 11 giờ khuya. Trời vẫn mưa. Tôi bỗng thấy bồn chồn trong dạ, không ngồi yên
được. Tôi bảo mẹ tôi :"Con muốn ra đồng bắt ếch. Mưa này có nhiều ếch".
Mẹ tôi bảo :"Con không sợ sấm sét ư con ?". Tôi cười. Mẹ tôi chẳng hiểu
nụ cười của tôi đâu. Tôi cười như một tên thổ phỉ, cười như một gã nặc nô, cười
như một tên quỷ sứ cười móng chân tay mình sao lại đen dài như thế.BÀI HÁT PHỤ ĐỒNG BẮT ẾCHHồn ếch ta đã về đâyPhải nằm khô cạn, ta nay lên bờỞ bờ những hốc cùng hangChăn chiếu chẳng có trăm đường xót xaLạy trời cho đến tháng baÐược trận mưa lớn ta ra ngồi ngoàiNgồi ngoài rộng rãi thảnh thơiPhòng khi mưa nắng ngồi ngoài kiếm ănTrước kia ta vẫn tu thânTa tu chẳng được thì thân ta hènTa gặp thằng bé đen đenNó đứng nó nhìn nó chẳng nói chiTa gặp thằng bé đen sìTay thì cái giỏ tay thì cần câuNó có chiếc nón đôị đầuKhăn vuông chít tóc ra màu xinh thayNó có cái quạt cầm tayNó có ống nứa bỏ đầy ngoé conNócó chiếc cán thon thonNó có sợi chỉ son son dài dàiẾch tôi mới ngồi bờ khoaiNó giật một cái đã sai quai hàmMẹ ơi lấy thuốc cho conLấy những lá ớt cùng là xương sôngẾch tôi ở tận hang cùngBên bờ rau muống phía trong bè dừaThằng Măng là con chú TreNó bắt tôi về làm tội lột daThằng Hành cho chí thằng HoaNắm muối cho vào cay hỡi đắng cayBụt ơi bụt hiện xuống đâyLượm oan hồn ếch đón bay về trờiTrăm năm lẫn lộn khóc cườiKiến ếch kiếp người cay hỡi đắng cay...Ðồng vắng lặng. Tiếng ếch ộp oạp. Tiếng ễnh ương rất vang, rất
to. Tiếng côn trùng rỉ rắc.Mưa.Mưa miên man.Tôi cầm đèn pin, chân xéo bừa lên các chân rạ ẩm ướt. Ếch có
nhiều, đờ đẫn dưới ánh đèn, chỉ cần bắt vào rọ. Sấm sét nổ vang trời. Chớp loé
sáng. Vũ trụ mở ra vô cùng vô tận. Gió ào ào, nghe như có muôn vàn cánh chim
bay đang vỗ trên đầu. Một cảm giác kinh dị xâm chiếm toàn thân khiến tôi bủn rủn.
Tôi rõ ràng thấy có một bóng hình vĩ đại đang lướt nhanh qua, đang chuyển vận
mãnh liệt trên đầu. Tôi nằm áp xuống bờ rạ, tâm trạng bàng hoàng, thổn thức.
Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt bên trên tôi kia, đang chuyển vận rầm rộ
kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc chắn bảo dưỡng tính thiện
trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số phận. Ðiều ấy
khiến tôi an lòng.Tôi đã đúngTôi an lòng bởi sự lựa chọn hình thức biểu đạt nàyHình thức khó khăn, tầm thường, vô nghĩa, phù phiếmÐể sáng danh giá trị thiện tri thứcTrên cánh đồng hoang nàyCánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơAi đấy ?Ai cất lên tiếng sáo nỉ non trong đêmVà những anh linh nào, những hồn ma nào quờ quạngTiếng thở nào rất khẽNụ cười nào rất khẽCất lên ghê rợn từ hàm răng trắngNhững tiếng thì thầm nàoNhững lời rên rỉ côn trùng, không nghĩa lý gìChỉ riêng tiếng sáo mục đồng nhỏ nhoi, phiêu bồngÐi hoang trên cánh đồng lòngÐi hoang trên cánh đồng ngườiKẻ tha nhân nào sống sótGã tri âm nào lắng ngheCội rễ nào gọi vềRung tiếng tơ đồngÐêm vô minh nay còn ai thức chongAi rảo bảo phiêu du trên đồngTrong cõi trần ai mênh mông ?Mưa ngớt dần. Tôi đi qua khoảnh ruộng này, khoảnh ruộng khác.
Bọn ếch cũng biến đâu mất. Thỉnh thoảng chỉ thấy một con nhái bén phóng vào
theo rạch nước. Thấp thoáng chân trời phía vòng cung Ðông Sơn ánh lửa le lói.
Tôi cảm giác thấy mình lạc hướng. Tôi không biết bây giờ là mấy giờ nhưng bỗng
nhiên nghe thấy tiếng gà kêu. Tiếng gà kêu khắc khoải, chẳng trình tự gì, khi đổ
hồi, khi tiếng một. Tôi đi lúc lâu chẳng thấy có con ếch nào, bỗng nhiên nhận
ra mình đã lạc đến tận rạch sông Cấm lúc nào không biết. Trên trời, đơn độc một
vì sao Mai.Mãi đến tận mờ sáng tôi mới lần về đến rìa làng. Không khí rất sạch. Làng quê
quen thuộc, yên tĩnh. Sau mưa, quang cảnh hiện lên vừa đỏm dáng, vừa tinh khiết.Qua nhà thím Nhung, tôi dừng lại. Ngôi nhà nhỏ nép ven đường.
Phên liếp hé mở. Một bóng người vội vã lách ra. Người ấy trông trước trông sau
rồi vụt chạy nhanh vút sau bụi duối. Trộm chăng ? Tôi định kêu lên thì nhận ra
chú Phụng. Một lát, Thím Nhung mở cửa bước ra, vẻ bình thản, mặc bộ váy ngủ
phong phanh. Thím Nhung hơn ba mươi tuổi, người cân đối, xinh đẹp.Tôi xách giỏ ếch đi sau chú Phụng. Ðến chỗ rẽ, chú Phụng
ngoái lại thấy tôị Chú Phụng hỏi :"Ếch có nhiều không ?". Tôi không
trả lờị Chú Phụng thoáng giật mình. Chú căn vặn :"Mày sao thế ?". Tôi
bỗng thấy buồn da diết. Tôi buồn cho thím Nhung, buồn cho chú Phụng, cho ông
giáo Quì. Tôi buồn cho tôi.Chú Phụng bỏ đi, vẻ bất cần. Tôi về nhà. Hóa ra cũng chỉ có
khoảng hai chục con ếch. Chị Ngữ bảo :"Chẳng bõ. Thế mà cũng đi suốt
đêm". Mẹ tôi cười :"Chắc cu cậu vừa bắt ếch, vừa ngủ gật". Cái
Minh sửa soạn đến trường để sinh hoạt hè. Nó mặc quần phăng xanh, aó trắng, đây
là bộ diện nhất mà nó chỉ mặc trong dịp hội hè. Cái Minh ghé tai tôi bảo
:"Em biết anh đi đâu rồi, nhưng em không nói. Không phải anh đi bắt ếch".
Cái Minh cười. Tôi nhìn vào mắt nó. Nó biết. Tôi đâu ngờ rằng chỉ vài giờ sau
tôi đã phải khóc nó. Nó biết, đơn giản vì gần như nó đã trải qua, thấu suốt. Ðến
lúc ấy, lúc nó chết, chỉ còn hơn bốn giờ nữa để nó đùa cợt và ngộ cho xong hết
thảy mọi điều.Mẹ tôi bảo :"Con mang mấy con ếch sang cho nhà bác giáo
Quì nhắm rượu". Tôi bảo :"Vâng". Nói xong đi tắm.Mẹ tôi và chị Ngữ ra đồng giỡ lạc. Ðấy cũng là công việc của
tôi buổi sáng.Tôi xách xâu ếch qua nhà ông giáo Quì. Qua nhà dì Lưu thấy
Quyên gọi :"Anh gì ơi". Tôi bảo :"Tôi là Nhâm. Cái Mị đâu rồi
?". Quyên bảo :"Mị đến trường. Anh đi đâu cho tôi đi với".Chúng tôi đến nhà ông giáo Quì.CHUYỆN ÔNG GIÁO QUỲÔng giáo Quì dạy cấp một, tính thương người, hay đọc sách từ
nhỏ. Lớn lên, cha mẹ đi hỏi vợ cho, ông giáo Quì bảo :"Cô đừng lấy tôi rồi
khổ một đời". Người kia bảo :"Khổ cũng lấy". Ông giáo Quì bảo
:"Lấy tôi thì đừng sợ nghèo là một, đừng sợ nhục là hai, đừng ghen tuông
là ba, phải trọng liêm sỉ là bốn". Người kia bảo :"Biết trọng liêm sỉ
thì ba việc trước là thường". Hai vợ chồng lấy nhau ăn ở tâm đắc. Ông giáo
Quì về sau bị đuổi việc vì dạy trẻ con không chịu dạy theo sách giáo khoa, cứ tục
ngữ ca dao mà dạy. Một lần đi chấm thi ở Hải Phòng, thấy cô gái giang hồ đang bụng
mang dạ chửa không có nơi sinh nở thì đưa về làm vợ hai, vợ cả cũng chẳng nói
gì, còn cấp tiền cho để làm nhà riêng. Biết vợ hai phong tình, vẫn hay đi lại với
nhiều người, ông giáo Quì cũng mặc, chỉ bảo :"Cô ngủ với ai thì nhớ đòi tiền,
không có tiền thì lấy thóc hay lấy lợn vịt thế nào chứ đừng ngủ không". Cả
làng cười, ông giáo Quì cũng mặc. Ông giáo Quì hay uống rượu, rượu vào thơ ra,
có nhiều bài nghe cũng được.Ông giáo Quì ở nhà một mình, nằm võng đọc sách. Tôi và Quyên
chào. Ông giáo Quì vội nhỏm dậy pha nước. Chúng tôi ngồi ở chõng tre dưới dàn
thiên lý. Ông giáo hỏi Quyên :"Cô học đại học bên Mỹ thì lợi cho ai
?". Quyên bảo :"Lợi cho cháu, cho gia đình, cho đất nước". Ông
giáo Quì cười :"Ðừng nghĩ đến lợi, nghĩ đến lợi nhọc mình".Chúng tôi ngồi ăn khoai sọ chấm muối vừng. Ông giáo Quì cầm
quyển sách nhét xuống chiếu. Quyên bảo :"Bác làm thế nát mất sách còn gì
?". Ông giáo Quì cười :"Nát thì thôi. Ðọc sách để có tri thức. Có tri
thức để sống đời mình có nghĩa".Nắng lọc qua dàn hoa rải những vệt nắng trên đất. Cả ông giáo
Quì, cả Quyên, cả tôi đều cùng im lặng. Tôi muốn ra đồng. Quyên bảo :"Tôi
về lần này, rất muốn có một ấn tượng đúng về đồng quê. Anh đi đâu cho tôi đi với".
Tôi lưỡng lự. Ông giáo Quì cười :"Cô ấy là đàn bà, sao lại chối từ đàn bà
được ?".Chúng tôi chào ông Quì rồi ra đồng. Quyên bảo :"Cánh đồng
rộng quá... Anh có biết cánh đồng bắt đầu từ đâu không ?".Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôiTrong máu thịt tôi đã có cánh đồngÐứng bên ni đồng mênh mông bát ngátÐứng bên tê đồng bát ngát mênh mông.Tôi làm sao quên được nơi mẹ sinh tôiMẹ đã buộc cuống rốn tôi bằng sợi chỉTắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trướcTôi biết khóc cũng vô ích vì tất cả phải chờ đợiPhải chờ đợ từ tháng giêng đến tháng chạpTháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng càTôi đi qua rất nhiều bờ ngang, bờ dọc lầm lạcÐi qua rất nhiều gian khó, thô tụcTôi phải gieo trồng, gặt hái trên cánh đồng nàyPhải thuộc tên nhiều loại sâu bọCòn cánh đồng thì khi mưa, khi nắngNơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâuRồi ngày kia(Cái ngày xung tháng hạn)Có một người đàn bà đến làm cho tôi đauNàng dạy tôi thói bạc tìnhBằng cách phản bội tôi như có thể phản bội một người thườngTôi lẳng lặng chôn nỗi căm ghét cuối cánh đồng.Trong mạch đất hiểm có hình lưỡi kiếmNhững bông hoa mơ ước héo trên tayCông việc trở nên nặng nề hơn trướcTôi bán những sản vật làm ra với giá rẻ như bèoÐã có những mùa thu hoạch lớnTôi cũng đã phá sản đôi lầnKhi chiều xuống, hoàng hôn tĩnh lặngTôi không kịp xem những vết sẹo trên ngườiChỉ biết rằng tôi đã mang thương tíchÐêmNhững vì sao thắp nến trên bầu trờiTôi đắp tấm vải liệm sực mùi đồng nội lên ngườiKhi ấy, bạn ơi, bạn trẻ ơiBạn hiểu cho tôiTôi đã gắng làm cho cánh đồng phì nhiêu...Tôi dẫn Quyên đi qua cánh đồng màu. Quyên hỏi :"Giá nông
phẩm quê anh năm nay tăng giảm thế nào ?". Tôi bảo :"Tăng 0,4%".
Quyên bảo :"Chết thật ! Thế mà hàng công nghiệp tăng 2,2% . Thế giá phân
bón thế nào ?". Tôi bảo :"Ðạm tăng 1,6% , lân tăng 1,4%". Quyên
hỏi :"Quê anh có dùng điện không ?". Tôi bảo :"Không".
Quyên bảo :"Giá điện tăng 2,2%".Khoảng 10 giờ sáng là khoảng thời gian đông người trên đồng, có nhiều phụ nữ,
trẻ em. Họ là nguồn lao động chính. Ðàn ông quê tôi phiêu lưu, lại nhiều ảo tưởng,
họ ôm ấp ước mơ làm giàu nên hay bỏ ra ngoài thành phố tìm việc, đi buôn bán.
Cũng có người lặn lội vào tận miền trong đào vàng, đào hồng ngọc. Giàu có chẳng
thấy đâu nhưng khi về làng, tính tình họ đổi khác, họ trở nên những con thú dữ
độc. Chú Phụng là người như vậy.CHUYỆN CHÚ PHỤNGNguyễn Viết Phụng, nhà nghèo, học hết cấp hai thì thôi học.
Phụng làm nhiều nghề : thợ cày, thợ xây, thợ mộc, đánh xe bò... Năm 20 tuổi Phụng
đi bộ đội. Ba năm sau về làng lấy vợ. Vợ hơn Phụng bốn tuổi, đẻ liền ba năm bốn
đứa con gái (lần thứ ba vợ đẻ sinh đôi). Phụng quyết chí làm giàu, bán đồ đạc ở
nhà lấy hai đồng cân vàng giắt lưng vào miền trong đào vàng. Bặt đi hơn năm chẳng
có tin tức gì, một hôm lù lù trở về, người ngợm gầy như xác ve, mặt phù như cái
lệnh. Phụng nằm liệt giường, vợ tần tảo thuốc thang nửa năm trời, nhà nghèo lại
nghèo thêm. Sau trận ốm, Phụng tính nết đổi khác, có lần chém người bị thương,
dân làng ai cũng sợ. Cũng có khi Phụng bỗng khóc hu hu, cứ chắp tay lạy vợ lạy
con. Về sau may bố mẹ vợ chuyển ra thành phố với người con trai ở nước ngoài về,
cho không ngôi nhà với ba sào vườn nên đời thay đổi. Vợ Phụng là người tháo
vát, chăn nuôi giỏi, lại có nghề làm đậu phụ. Bốn đứa con gái đứa nào cũng chịu
khó giúp mẹ. Phụng ở nhà, dọn cho mình một mình một buồng, cấm vợ con vào. Thỉnh
thoảng, Phụng vẫn đi lại với thiếm Nhung và mấy bà góa nạ dòng. Vợ con Phụng hỏi
:"Sao anh cứ xa lánh chúng tôi?". Phụng bảo: "Báu gì mà ở gần
tao. Thịt của tao rất độc. Cắn vào tao là cắn phải bả chó. Tao thương mẹ con
mày, muốn cho mẹ con mày trong sạch đấy thôi".Tôi và Quyên đi qua đấu đất giữa đồng. Ở dưới đấu đất, những
bụi thầu dầu, rau dền gai mọc đầy. Có cả những cây ngô đồng hoa đỏ lá xanh. Quyên
hỏi : "Sao gọi là đấu đất?". Tôi bảo: "Ngày xưa, vua Ba Vành đào
nơi này để đong quân như ta đong thóc". Quyên hỏi :"Khoảng bao nhiêu
người?". Tôi bảo: "Hai mươi người một ngũ, hai trăm người một
cơ". Tôi và Quyên đến khoảnh ruộng mẹ tôi và chị Ngữ đang dỡ lạc. Nước xâm
xấp luống, nhấc cây lạc lên là bật gốc. Quyên sắn quần, cũng lội xuống bứt lạc.
Quyên bảo:"Nhàn thật". Mẹ tôi bảo: "Cô ơi, đấy là cô mới chỉ
cưỡi ngựa xem hoa đấy thôi. Cô thử tính xem từ khi hạt lạc gieo xuống luống
này, đến khi kết hạt mẹ con tôi vất vả lấm láp thế nào!". Chị Ngữ ví von: "Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".Tôi đạp phải ổ dế. Lấy cuốc bới ra, hàng nghìn con dế đất béo
núc ních bò nhung nhúc. Mẹ tôi, chị Ngữ bỏ dỡ lạc bắt dế. Mẹ tôi xuýt xoa :"Ôi
chao, phúc đức đầy nhà rồi các con ơi!". Chị Ngữ mừng: "Cái nhà ta rồi
giàu nhất làng!".Khoảng gần trưa, thấy ở đường Năm có đám đông kêu la khóc lóc
đang chạy. Mẹ tôi tự dưng ngã chúi xuống ruộng, thất thanh gọi tôi :"Nhâm
ơi Nhâm". Tôi và chị Ngữ sợ hãi, tưởng mẹ tôi trúng gió. Mẹ tôi mặt tái
đi, tay giơ trước mặt như sờ nắn ai. Mẹ tôi gọi :"Nhâm ơi Nhâm. Sao em
Minh con máu me đầy người thế này?". Chị Ngữ lay lay mẹ tôi: "U ơi
u, sao u nói gở thế?".Có mấy người từ đám đông trên đường Năm bỗng chạy tách ra,
băng qua đồng. Có ai gào to thảm thiết: "Bà Hùng ơi (Hùng là tên bố tôi)
mau ra mà nhận xác con đây này". Anh Ngọc tóc dựng ngược, cái anh nhà thơ
mà tôi đã gặp ở ga chiều qua, chạy ở phía trước. Anh nói không ra hơi, tôi nghe
loáng thoáng, chỉ biết rằng cái Minh em tôi và cái Mị con dì Lưu đèo nhau đi học
về, qua ngã ba thì bị chiếc ôtô chở cột điện cán chết.Mẹ tôi lăn lộn giữa ruộng lạc đang dỡ nham nhở. Những con dế
đất bay nhanh, bay một quãng lại bò, lại rúc đầu xuống bùn. Chị Ngữ đứng lặng,
mắt ngơ ngẩn thất thần nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Ðông Sơn, tựa như
không hiểu sao bỗng dưng trời cao phũ phàng đến thế.Anh Ngọc, tôi và Quyên chạy ra đường. Nước mắt tôi giàn giụa.
Cái Minh mới 13 tuổi. Cái Mị mới 13 tuổi. Tôi còn chưa kịp làm cho cái Mị cái lồng
lấy ổi. Còn cái Minh em tôi, con bé rất thảo, nó suốt đời mặc quần áo vá, nó
bao giờ cũng dành cho tôi những quà ngon nhất.Chiếc xe tải chở ba cây cột điện đổ nghiêng ở bên vệ đường.
Người ta dùng kích để nâng bánh xe, tìm cách kéo xác cái Minh và cái Mị ra. Cái
Minh nằm nghiêng, cái Mị nằm sấp, đè lên nhau. Chiếc xe đạp rúm ró bên cạnh.Tôi đưa tay lên miệng để bịt âm thanh thổn thức trong cổ cứ
thấy bật ra. Tôi thương các em tôi quá. Rất đông những con ruồi bu quanh hai lỗ
mũi cái Minh, cái Mị. Anh Ngọc nhà thơ không biết lấy ở đâu ra nắm hương cứ huơ
huơ trước mặt hai đứa, khói hương quẩn lại một chỗ không bay lên được. Tôi sẽ
không kể gì về cái chết của cái Minh, cái Mị nữa. Chiều hôm ấy phải làm đám ma
cho hai em tôi. Cũng giống như mọi đám ma ở làng, ở đấy có rất nhiều nước mắt,
nhiều lời than vãn. Tôi và một thanh niên trong làng cáng dì Lưu ra tận ngoài đồng
rồi lại cáng về. Quyên cũng đi theo. Anh Ngọc có làm bài thơ về sự việc này.
Tôi không hiểu sao anh làm thơ được ở trong hoàn cảnh nhẫn tâm như thế.BÀI THƠ "ĐÁM MA EM GÁI TRÊN ĐỒNG" CỦA NHÀ THƠ BÙI
VĂN NGỌC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét