Tường Linh - Thơ một đời…
Tuyển tập thơ Tường Linh (*) ấn hành khi nhà thơ vừa qua
tuổi 80. Ông sinh đầu năm 1931, âm lịch là Canh Ngọ, làm con ngựa thồ văn
chương, thồ nhân nghĩa và ân tình xứ Quảng.
Hơn sáu thập niên làm thơ, vắt dòng qua hai thế kỷ, giờ chọn
lại 396 bài, Tường Linh vẫn là một nhà thơ thuộc thế hệ trước, một nhà thơ mới cổ điển. Ông là nhà thơ dụng công về kỹ thuật, chú trọng niêm luật và vần điệu
của từng thể loại mà không gây cho người đọc cảm giác gượng ép, có lẽ một phần
là vì thuở thiếu thời, ông đã được rèn luyện nhuần nhuyễn khi làm các thể thơ cổ.
Sở trường của ông là thơ bảy chữ, tám chữ và lục bát. Có đôi lần ông làm thơ
cách tân - thơ tự do hay thơ văn xuôi - nhưng cảm hứng và tình điệu vẫn không rời
mạch thơ truyền thống của dân tộc. Thơ ông được nuôi trong nguồn mạch đó và hoà
vào tiếng nói trữ tình của người Việt một cách tự nhiên như hơi thở, như không
khí.
Từ tám tập thơ in riêng (tập đầu tay nhan đề Thơ tập làm
thuở nhỏ, in thạch bản ở Tam Kỳ năm 1950), ba tập thơ in chung, Tường Linh
cấu trúc cuốn sách này theo ba phần: Nhánh hồn sông Thu, Chim bay biển Bắc và Thao
thức phương Nam. Thơ ở cả ba phần đều thấm đẫm một “dòng nhớ thương chảy
mãi qua hồn” và nồng nàn tình người, tình nhà, tình quê, tình nước. Không bao
giờ thơ Tường Linh thôi âm vọng những tiếng gọi Trung Phước, Đại Bình, Cà Tang,
Hòn Kẽm Đá Dừng... , lúc xôn xao trên sóng nước Thu Bồn, lúc hun hút trong mưa
ngàn gió núi.
Ở Sài Gòn, thơ ông luôn hướng vọng về “ngoài ấy”, “phương
xưa”, phương của mẹ, phương của quê nhà: Ngoài ấy giờ đây mùa gió mùa/
Xiêu xiêu quán nhỏ mé đường trưa/ Vườn cau của mẹ hoa cau rụng/ Giọt sáng rơi
dường giọt nước mưa. Khi thơ ông cất lên “Thu ơi từ đó…”, thì hình ảnh
sông Thu, mùa thu quyện chặt hình ảnh người thương mến: Anh mất mùa thu, mất
cả em/ Lạc nhau từ thuở mới vừa quen/ Trùng trùng dâu bể đau hồn bút/ Đêm mịt
mù sương lụn ánh đèn. Hình tượng thơ Tường Linh gắn liền hình ảnh đất và
người xứ Quảng, với tần số xuất hiện cao, vậy mà không thấy trùng lặp, mỗi lần
đọc lại gợi lên những rung động mới. Những bài thơ như Tháng bảy, Tin bão
miền Trung... được tác giả viết gần nửa thế kỷ trước mà tưởng như là chuyện
vừa mới hôm qua.
Phong vị cổ điển trong thơ Tường Linh còn thể hiện ở chỗ dường
như nhà thơ làm nhòa đi hình ảnh chính mình mặc dù những điều ông nói đều bắt
nguồn từ gan ruột. Phải chăng ông nghĩ rằng những “gió dập sóng nhồi” của cuộc
đời ông có thấm gì so với những chìm nổi của đất nước quê hương. Nhưng dù ông đứng
lùi về phía sau thì tấm lòng ông, cái tình trong thơ ông vẫn hiện lên dạt dào ở
phía trước. Dễ nhận ra chất nhạc trong thơ Tường Linh là yếu tố gây men cho những
ca khúc phổ từ thơ ông của Anh Việt Thu, Trầm Tử Thiêng, Minh Kỳ, Bắc Sơn… Khi
viết những bài thơ thế sự về những thảm nạn do thiên tai hay chiến tranh, về những
ngang trái đắng cay của cuộc đời, Tường Linh vẫn giữ vẹn nguyên chất giọng nhỏ
nhẹ, kín đáo mà làm chứng cho những bể dâu và “cuộc tỉnh say” của kiếp người.
Hồi 50 tuổi, Tường Linh viết về mình: Ta năm mươi tuổi rồi
sao?/ Đời như một thoáng chiêm bao chưa tàn/ Nửa phần thế kỷ thời gian/ Trăng
tàn sau núi, mây tan cuối trời/ Quê xưa: bóng nhớ xa vời/ Thề xưa câm nín như lời
cỏ cây. Cái tôi của nhà thơ như tan loãng vào thiên nhiên, vào giấc mơ,
vào cả niềm im lặng. Đến khi viết lời từ biệt chuẩn bị cho ngày về, ông vẫn
muốn gửi lại mọi người giọng thơ chân thành, lão thực ấy: Bởi ta về phía mặt
trời sẽ lặn/ Không gặp ai, cả chiếc bóng của mình/ Đi tay trắng thì trở về tay
trắng/ Thơ một đời gửi lại phía bình minh.
Đọc một tập thơ, hiểu một tâm hồn, luận đề quen thuộc ấy càng
đúng với thơ Tường Linh. Đó là một tâm hồn hết mực khiêm cung mà chất chứa bao
nỗi niềm tâm sự để viết ra những vần thơ, như “tiếng trúc trầm luân”, thấm sâu
vào những tấm lòng Việt Nam bình dị.
(*) NXB Văn học, 2011.
25/9/2011 Huỳnh Như Phương
25/9/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét