Thứ Tư, 2 tháng 2, 2022

Cuộc đời tranh đấu của Gandhi - Đời Thánh Cam Địa 2

Cuộc đời tranh đấu của Gandhi
Đời Thánh Cam Địa 2

Chương 10
NHỮNG NGÀY Ở ẤN
Hai ngày trước khi Cam-Địa cùng bà vợ và Kallenbach đặt chân lên đất Anh, thì cuộc chiến-tranh 1914-1918 bùng nổ. Cam-Địa liền họp một đội cứu thương tình-nguyện đầu quân trong hàng ngũ Anh. Hơn tám chục sinh viên Ấn lúc ấy đang theo học ở Anh cũng đầu quân theo Cam-Địa.
Cuộc chiến-tranh xẩy ra làm ông rất buồn phiền, vì nỗi ông phải tham-gia cuộc chiến-đấu - dù là ông không cầm súng - một điều mà ông không muốn. Ông thường nói:
''Chẳng cứ gì phải bắn giết mới là phạm lỗi. Ngay giúp đỡ việc săn sóc những người bị thương trên trận tuyến cũng là trái đạo rồi, vì như thế tức là tham dự cuộc chiến-tranh''.
Bạn hữu ông lấy làm lạ là đã thế tại sao ông còn tình nguyện đầu quân?
''Vì'' - ông trả lời - ''Tôi sống dưới sự bảo-hộ của nước Anh. Ngay chính tôi cũng còn không hành-động gì để phá nước Anh, thì vì lẽ gì tôi lại mong cho nước Anh bị hủy diệt?''
Ông lại luận-lý rằng lúc bình thời bạn đã hợp tác với người Anh, thì lương tâm bạn không cho phép bạn phản bội người Anh trong cơn nguy khốn. Tại sao trước kia bạn lại đóng thuế cho người Anh để họ có tiền đúc súng đạn mà đánh nhau? Tại sao trước bạn vẫn răm rắp tuân theo luật lệ của những kẻ chỉ nuôi dưỡng sức mạnh để gây hấn? Nếu bạn có can-đảm bất hợp-tác với người Anh từ trước, thì bây giờ bạn mới có quyền phó mặc người Anh với số phận họ. Nếu không thì bạn có bổn phận phải giúp đỡ họ trong lúc nguy nan.
Đầu năm 1915, Cam-Địa mắc bệnh sưng màng phổi phải trở về Ấn để tĩnh-dưỡng. Ông cùng bà vợ tới Bombay ngày mồng 9 tháng giêng.
Tại Ấn, ông in cuốn sách đầu tiên là cuốn Hind Swarai. Sách đó nhắc lại những cuộc tranh-luận giữa Cam-Địa và bọn người quốc-gia Ấn ở Luân-đôn. Ông thường nói rằng:
''Nếu chúng ta đối xử với người Anh một cách công-bằng và hợp lý, thì ngày giải-phóng nước Ấn chúng ta càng sớm đến. Trái lại, nếu ta coi họ như thù-nghịch, thì ngày đó chưa biết bao giờ''.
Cam-Địa lại viết:
«Một số người Anh cho rằng họ đã chinh phục được nước Ấn làm thuộc địa, và họ có quyền dùng võ lực bảo vệ quyền lợi của họ trên đất Ấn. Nói như thế là sai. Không thể dùng võ lực mà giữ được đất Ấn trong quyền sở-hữu của mình. Ai giữ đất Ấn trong tay người Anh? Chính là chúng ta vậy. Chúng ta thích những sự tiện lợi của nền văn-minh máy móc người Anh đem đến. Chúng ta ham lợi mà buôn bán với họ. Chúng ta tranh dành cãi cọ nhau, khiến họ có thể lợi dụng được tình trạng chia rẽ ấy. Cái gì đã giữ nước Ấn trong vòng nô-lệ ngoại bang? Đó là tính uỷ-mị của các bạn không thể thoát ly được những quyến rũ của nền văn-minh hiện tại».
Cũng có nhiều người không đồng ý với Cam-Địa về sự tai hại nền văn-minh máy móc. Trong cuốn Hind Swarai có mấy đoạn kể lại những cuộc tranh luận giữa họ và Cam-Địa. Thí dụ năm 1924 có người hỏi phải chăng Cam-Địa kết án tất cả mọi máy móc không phân biệt ? Ông trả lời:
«Không khi nào! Vì chính ngay thân thể của chúng ta chẳng là một thứ máy móc với những bộ phận tinh vi đó sao? Cái guồng quay tơ cũng là một cái máy tinh xảo. Tôi không bao giờ phản đối máy móc. Tôi chỉ phản đối cách người ta sử dụng máy móc bây giờ mà thôi. Chẳng hạn, bây giờ nhiều máy móc chỉ có công dụng là làm lợi khí giúp cho một số ít tư bản làm giầu trên lưng hàng triệu đồng bào khốn khổ của họ mà thôi. Ngoài trường hợp đó, thiếu gì máy móc có ích lợi cho ta. Nhưng mà muốn làm được những chiếc máy nhỏ đó, cần phải có những nhà máy lớn. Lẽ dĩ nhiên tôi rất thích những nhà máy đó, vì nó làm ra những đồ vật có ích».
Xem như thế thì rõ Cam-Địa không phải là kẻ thù của toàn thể các máy móc. Ông chỉ nhắc ta hãy nên thận trọng đừng quá tin tưởng ở những sự kỳ diệu của khoa học, kẻo lợi thì ít mà hại thì nhiều, rồi ra có ngày lại như kẻ tập làm phù-thủy, làm xổng những sức mạnh tàn phá vô hình, mà chính tay mình thả ra cũng không sao chế-ngự hoặc thu hồi lại được. Cam-Địa chỉ ưa chuộng máy móc khi nào máy móc là thứ đồ dùng để phụng sự thể chất, để cho đời sống vật chất được dễ-dàng tiện-lợi hơn. Còn nếu để cho ảnh hưởng của máy móc chi phối cả đến đời sống tinh thần, thì đó thực là một sự dại dột rất đáng chê trách. Vì thế nên ông tự kiêu là những dân-tộc Đông-phương có một nền văn-minh thuần tuý hơn nền văn-minh Thái-Tây. Ông không cho là người Anh và người Ấn không thể sống chung với nhau được:
«Việc gì phải đuổi họ khỏi đất Ấn? Ở với chúng ta, họ có lợi. Họ hấp thụ dần được đạo sống thanh cao mà nền giáo-lý Đông-phương khuyên dạy».
Người ta bẻ ông: «Điều đó chưa bao giờ thực-hiện được trong lịch-sử nhân-loại».
Ông trả lời: «Nếu vì chưa bao giờ thấy thực-hiện một điều trong lịch-sử mà bảo rằng điều đó không thể nào thực hiện được, thì thực là quá khinh giá-trị của con người».
Nhiều người không thể hiểu được ý-nghĩa sự độc-lập mà Cam-Địa mong muốn. Họ cho là muốn dành độc-lập, phải đánh đuổi kẻ ngoại địch ngự-trị trên đất mình.
Cam-Địa bẻ rằng: «Nếu bảo là dân-tộc kia được sống sung-sướng, chỉ vì họ tự cai trị lấy nhau, thì thực là nói mò».
Có sự gì thay đổi trong đời sống của người dân, nếu kẻ cầm-quyền người bản-quốc cũng có thái-độ áp-bức chẳng khác người ngoại-quốc trước kia?
Tuy không tán thành nền văn-minh Thái Tây, Cam-Địa cũng không ruồng bỏ hẳn mọi sản phẩm của nền văn-minh ấy.
Trong một bữa tiệc ở Madras, tháng 4 năm 1915 ông hô hào ủng-hộ phong trào đầu quân giúp Anh đánh Đức. Ông khen ngợi lòng yêu chuộng tự do của người Anh. Ông nhận rằng trong đế quốc Anh, người dân nào cũng có quyền được hoạt động trong một phạm-vi rộng rãi theo quan-điểm và lý-tưởng riêng của mình. Bài diễn văn đó không được dư luận tán thưởng. Từ trước, trong con mắt người dân Ấn, Cam-Địa vẫn được coi là vị anh hùng đã dẫn đầu cuộc tranh đấu ở Nam-Phi, đã chế ngự được tướng Smuts, kẻ thù của dân Ấn. Những người ái-quốc Ấn đều hy-vọng ở ông một nhà lãnh-tụ tương lai của phong-trào giải-phóng. Nhất là từ khi giáo sư Gohhale chết, thì cả nước đều hướng về ông. Thái độ dè dặt của ông làm họ thất vọng.
Vậy mà chính Cam-Địa sau này lại là người lãnh đạo cho phong-trào độc-lập ở Ấn.
Đó là chuyện sau. Hãy nói bây giờ thì gia-đình Cam-Địa cùng nhiều gia-đình các bạn đồng chí của ông, đã rời khỏi Nam-phi về Ấn. Nhóm đồng chí trước kia ở Phoenix, bây giờ tụ họp ở Chantinikétan, tại một trường học xứ Bengale, thuộc miền đông Ấn-độ. Trường đó có đặc điểm là được nâng đỡ bởi nhà thi sĩ Rabindranath Tagore, người đã giật giải Nobel về văn thơ năm 1913.
Cam-Địa và Tagore sống cùng một thời, và cùng là những người chủ-xướng phong-trào phục-hưng Ấn-độ hồi đầu thế thứ 20. Nhưng Cam-Địa là đồng lúa phì nhiêu, mà Tagore là vườn hồng sáng-lạn. Cam-Địa là bàn tay xây dựng, mà Tagore là người ca ngợi trước năm châu những sự kỳ-ảo của nền văn-hoá Ấn. Cam-Địa gầy bé quắt queo, vì thân thể bị đoạ-đầy bởi những tuần chay liên-tiếp. Trái lại, Tagore, thì yêu chuộng sự xa-hoa và có dáng-điệu phong-nhã hào hùng của một nhà thơ quý-phái. Nhưng cả hai đều cùng nhau thông cảm bởi một lòng yêu nước và một lòng nhân ái sâu xa. Tagore đã khóc mà ví tổ quốc như một kẻ đi tìm ở những đống rác-rưởi các nước vất ra, một vài thức đồ đáng cứu-vãn khỏi sự mục-nát dơ-bẩn. Và ông cầu-nguyện cho tất cả các dân-tộc trên thế-giới này hoà-hợp với nhau trong một tình thương vô tận.
Tagore và Cam-Địa, hai bậc vĩ-nhân của Ấn-độ trong nửa thế kỷ đầu ngày nay, đối với nhau bao giờ cũng một lòng sùng-kính. Chính Tagore là người đầu tiên suy-tôn Cam-Địa làm Thánh (Mahâtmâ). Ông nói: «Đó là một tâm hồn cao-thượng ẩn trong manh áo rách». Cam-Địa thì tôn Tagore là «người chiến-sĩ tiền-phong». Nhưng hai ông vẫn thường đối-lập nhau ráo-riết trên trường tranh-luận. Cam-Địa muốn dùng quá-khứ để xây-dựng tương-lai. Theo ông, các tôn-giáo, các thần-thoại đều là những gia-tài quý-báu của một thủa xưa thuần-túy. Ông thường suy-luận ở đấy mà tìm đường lối hành-động cho tương-lai. Trái lại, Tagore say-sưa với hiện-tại. Ông ưa thích những tư-tưởng mới lạ của Tây-phương. Ông ham chuộng những tiện nghi của nền văn-minh cơ-khí. Cam-Địa tằn-tiện dè-sẻn. Tagore hoang-phí xa-hoa. Trong một bức thư viết cho Tagore, Cam-Địa đòi hỏi cho «trăm triệu sinh-linh đang sống quằn-quại trong đau khổ, những lời thơ rắn-rỏi mang lại cho họ sức sống và niềm hy-vọng». Nhưng lời thơ của Tagore chỉ là một điệu nhạc trầm bổng du-dương. Ở Chantinikétan, môn đệ của nhà thơ hàng ngày chỉ múa hát và hái hoa để cho cuộc đời thêm tươi đẹp.
Trong khi ấy thì Cam-Địa đang chú ý tìm một nơi nào khuất-tịch, thích hợp cho sự làm việc, để đem gia-đình cùng những người cộng-sự thân tín về ở cùng. Bấy giờ ông cũng không có trụ sở nhất định để đặt văn phòng thầy kiện. Nay đây mai đó, ông thường vắng mặt ở gia-đình. Một ngày kia, có người ngoại quốc hỏi ông: «Gia-đình vẫn mạnh?» Ông trả lời: «Tất cả người Ấn đều là gia-đình tôi».
Sau ông tìm được một khoảng đất ở bờ sông Sabarmeti, ngay bên kia thành phố Ahmédabad. Chính ở trên bãi cát lầy ẩm đó, giữa những người nghèo khó ở chui rúc chốn ngoại-ô, Cam-Địa luyện dần sức mạnh của tâm hồn để trở nên người lãnh-đạo tối cao của dân-tộc Ấn.
Thành phố Ahmédabad là một thành phố giầu về kỹ-nghệ dệt. Gần đó lại có hải-cảng Bombay trù-phú.
Các nhà kỹ-nghệ giúp Cam-Địa tiền để lấy khu nhà Satyagraha Ashram làm nơi truyền giáo.
Cam-Địa ở một gian phòng kích thước chỉ vừa bằng một buồng giam. Chỉ có một chiếc cửa sổ nhỏ ở tít trên cao, trông xuống một cái sân thượng nhỏ. Ngoài những năm tù, Cam-Địa tự hãm mình trong căn phòng đó cả thẩy 16 năm trường. Ông còn tự hành hạ mình hơn nữa. Ban ngày nắng hè thiêu đốt thì ông khiêng bàn ra giữa sân làm việc. Những đêm lạnh lẽo nhất ông cũng ngủ ngoài trời.
Tự hãm mình như thế, Cam-Địa đã theo gương những thầy tu đời cổ. Những người này, khi đã lập lời nguyền thì tìm đến một nơi xa hẻo lánh, ngày ngày ngồi trầm-tư mặc-tưởng, và tìm đủ mọi cách hành hạ thể xác để chóng đến ngày siêu thoát. Nhưng khác với các thầy tu thời cổ, Cam-Địa không tự huỷ hoại thân thể để tìm cái chết, Ông hành hạ thể xác để tinh thần được mạnh mẽ hơn. Vả lại ông cần sống để thực-hiện cái công cuộc vĩ đại ông đang theo đuổi là giải-phóng tổ-quốc. Vì thế, nên ông cho phép các môn đệ nắn bóp thân thể ; Ông ăn ngủ điều hòa, ông đi lại để gân cốt được co dãn. Suốt đời không bao giờ ông ốm đau nặng. Nếu không phải là người có sức khỏe dẻo dai như ông, thì không thể nào tuyệt thực luôn để yêu sách như ông, mà không hề bị ảnh hưởng đến cơ-thể. Ông đã sống đến 78 tuổi, mà vẫn giữ được trí óc minh mẫn và sức làm việc bền bỉ như hồi còn trẻ.
Một bức ảnh chụp hồi bấy giờ cho ta thấy ông ngồi trên một cái bục cao, đang diễn thuyết trước một cử tọa người Ấn phần nhiều vận âu-phục. Ông để mình trần, chỉ quấn một chiếc phá bằng vải trắng. Ông vẫn thường khuyên các môn đệ bắt chước mình ở trần như thế; sẽ lấy được lòng tin của dân quê dễ dàng hơn là những bộ âu phục sang-trọng.
Nhưng bọn người nghe ông hồi ấy có bao giờ nghĩ đến dân quê? Họ chỉ chăm lo làm sao thuyết phục được cho người Anh huỷ bỏ chế-độ thuộc địa hay ít nhất cũng nới rộng chế-độ đó phần nào. Mà giao-thiệp với người Anh, thì phải ăn mặc sao cho nền-mã, phải nói tiếng Anh cho thạo, viết tiếng Anh cho chỉnh. Vậy mà Cam-Địa lại khuyên họ ở trần, bỏ tiếng Anh để học nói thổ-âm. Theo Cam-Địa phong-trào giải-phóng phải lấy nơi thôn dã làm căn bản. Vì hơn 90 phần trăm người Ấn là dân quê. Nếu không làm cho họ thoát sự tối tăm ngu độn, lười biếng, thì ví dù có giải phóng được họ khỏi cùm xích người Anh cũng là vô ích mà thôi. Liệu sau khi người Anh đi khỏi Ấn-độ, thì số phận năm sáu mươi triệu người bần-cố có thay đổi gì không, hay là họ vẫn bị các giai cấp khác ghét và xua đuổi như thường? Phong-trào giải-phóng có mục đích nào cao hơn là chỉ chăm lo thay thế người Ấn vào người Anh ở những chức vị hữu quyền?
Ảnh-hưởng những lối giảng dạy của Cam-Địa thực là to tát. Mọi người dần dần mở mắt. Họ không còn tiếc nhớ những thời oanh liệt xưa kia của tổ-quốc. Họ tranh đấu trong thực tại. Nhờ Cam-Địa, họ tin-tưởng ở sức mạnh của dân tộc. Cam-Địa nói cho họ biết rằng không phải bây giờ là lần đầu tổ quốc bị chà đạp dưới gót ngoại bang. Tự nghìn xưa, dân tộc Ấn đã bị chinh phục nhiều lần, xong lần nào kẻ xâm lăng cũng bị thu hút và đồng hoá bởi sức sống mãnh liệt, và những đức tính vững bền của người Ấn.
Cam-Địa cũng không tán thành một cuộc cách mạng bằng võ lực. Song ông còn đi xa hơn nữa ông không chịu hợp-tác với người Anh. Ông không muốn cho Tổ-quốc phải hỏi gì ở người Tây-phương. Ông không cần hưởng những xây dựng người Anh đã thực hiện được cho nước ông. Ông chủ trương tái tạo đời sống tinh thần của dân-tộc trước đã. Khi ấy, trước cái giá trị không thể chối cãi của những người đứng lên đòi lại những quyền lợi tối cao của mình, người ngoại quốc không vì lẽ gì mà từ chối không trả.
Chương 11
NHỮNG ĐỨA CON YÊU CỦA THƯỢNG ĐẾ
YASUAHARLAL Nehrou nói rằng nước Ấn-độ là cả một sự pha trộn giữa những cái gì cao quý nhất và những cái gì ghê tởm nhất. Những cái gì ghê tởm đây chỉ những người bần cố ở giai cấp hạ tiện nhất trong bậc thang xã-hội Ấn.
Trong đời tranh đấu của Cam-Địa, ông đã tốn bao nhiêu tâm cơ để xoá nhòa trong trí óc đồng bào ông, cái thành-kiến bất công của xã-hội đối với những kẻ chỉ đáng thương chứ không đáng bỉ.
Từ đâu có sự phân chia giữa các hạng người, trong xã-hội Ấn? Ta phải cắt nghĩa bằng lịch-sử. Sáu bẩy nghìn năm về trước, ở vùng Caucase, giữa biển Caspienne và Hắc hải, vẫn có một dân tộc gọi là người Aryens. Hai ba nghìn năm trước Thiên-chúa Giáng-sinh, một chi nhánh của dân tộc đó tràn về phía Nam và dừng lại ở phía Bắc Ấn-độ. Sự phân chia giai cấp giữa kẻ thắng và kẻ bại đã có từ đó. Người Aryens tự phụ về mầu da trắng của mình nên khinh rẻ những thổ-dân có mầu da sẫm. Họ dùng thổ-dân để làm những công việc nhọc như cầy ruộng, chăm nom gia-súc. Ngoài giai-cấp chủ và giai-cấp đầy tớ, còn giai cấp những nông dân tự do Vaisylas và giai-cấp thợ thuyền lao-động gọi là gia-cấp Sondras.
Nhưng chính người Aryens với nhau cũng dần dần phân biệt kẻ sang người hèn.
Trước hết, một bên là vua và quần-thần, cùng tướng sĩ, binh-lính, và gia-đình họ họp thành giai-cấp những người Kchatryias hay là giai cấp chiến-sĩ; một bên là các thầy tu, chuyên về việc cúng lễ, giảng đạo, viết kinh đó là giai-cấp Brahmanes. Thoạt tiên thì người Brahmanes phải phụng-sự người Kchatryias. Nhưng về sau nhờ sức mạnh của tôn giáo, và của trí-tuệ, họ đã vượt người Kchatryias mà trở nên giai-cấp thượng đẳng của xã-hội Ấn.
Một lý do khác của sự phân chia đẳng-cấp giữa người Aryens với nhau là ảnh hưởng những cuộc hôn nhân giữa người Aryens và thổ dân. Do sự phối hợp ấy, nẩy nở một nòi giống mới.
Tuỳ theo phong tục từng nơi, bọn lai này được chấp nhận vào giai-cấp thượng đẳng hay bị liệt xuống những giai cấp dưới. Cũng có nơi, không giai cấp nào chịu nhận họ, thành ra có tới hàng triệu người Ấn sống bấp-bênh, không bấu víu vào hệ thống xã-hội nào.
Khi bọn người chinh phục đến thì một số đông thổ-dân trốn tránh lên núi hay vào rừng sâu. Đến khi người Aryens đã an tọa ở những làng mạc họ xây dựng nên hay là chiếm-đoạt được, thì thổ-dân mới dám mon men về bán cho họ những giỏ đan hoặc một vài thứ đồ dùng khác. Lâu dần, người Aryens sai phái họ làm những việc nặng nhọc bẩn thỉu không ai muốn mó tay vào, như chôn cất người chết, vứt bỏ những xác súc vật, cùng dọn-dẹp chuồng nuôi súc vật, lau cọ nhà tiêu, v.v… Do đó, nẩy sinh một giai-cấp hạ tầng, là giai-cấp những người bần-cố.
Muốn thoát khỏi số phận dành cho mình, người tiện dân chỉ có cách là cải giáo mà theo đạo Gia-tô hay đạo Hồi-Hồi. Tuy nhiên, chỉ có ít người theo phương sách đó, còn thì đa số, vào khoảng năm sáu mươi triệu người thích ở lại giai-cấp của mình, mặc dầu bị khinh rẻ và xua đuổi như những kẻ mắc bệnh dịch tễ. Tại sao?
Vì họ tin tưởng rằng cuộc đời khổ nhục họ đang sống chỉ là một hình phạt họ phải chịu, để chuộc lại những ngày lầm lỗi họ đã phạm trong kiếp sống trước của tiền nhân. Nếu họ can đảm chịu đựng thì kiếp sau họ sẽ được thác sinh vào một giai-cấp cao hơn. Trái lại, nếu họ trốn tránh thì sau này có thể bị đầu thai làm súc vật. Ý nghĩ ấy khiến họ nhẫn nhục cam chịu số phận, và cũng bởi thế họ vẫn tồn tại cho tới ngày nay.
Thế nào là một kẻ tiện dân? Họ không được đụng vào một vật gì mà một người ở giai-cấp trên đã cầm đến. Vì thế mà họ không được đặt gót tới những đền đài, nhà cửa cho chí đến cả những cửa hiệu của người Ấn. Trong mỗi làng, người ta dành cho bọn tiện dân khu đất nào thấp nhất và bẩn thỉu nhất. Ở các thành phố, họ bị dồn vào một khu riêng biệt có tường vây kín. Người Ấn nào không may mà chạm phải một kẻ tiện dân thì thế nào cũng phải tắm rửa, chay tịnh và làm lễ tẩy uế. Nhiều nơi người ta sợ cả đến cái bóng người tiện dân in trên mặt đường. Họ tin rằng chạm vào cái bóng đó cũng bị nhơ-nhớp chẳng khác gì va phải một tiện dân bằng xương bằng thịt.
Cam-Địa cố gắng chống lại những thành kiến bất công đó.
Tháng 5 năm 1918, ông tới dự một cuộc mít-tinh họp tại Bombay để tìm cách giúp đỡ những người tiện dân cùng khốn. Trước khi lên diễn đàn, ông lớn tiếng nói: «Ở đây có ai thuộc về giai-cấp tiện-dân đến không»? Không ai giơ tay. Ông bèn không nói nữa, vì cho là cuộc hội họp không có ích lợi gì, nếu không có chính vai chủ động tới dự.
Bấy giờ có một gia-đình tiện-dân đến khu nhà Ashram của Cam-Địa xin trú-ngụ. Ông không ngần ngại mà thâu nạp họ.
Một luồng dư luận nổi lên phản đối cử-chỉ ấy.
Những phú thương người Ấn vẫn trợ-cấp cho Cam-Địa cho là sự hiện diện của gia-đình tiện dân ấy trong khu Ashram làm ô-uế cả nơi thánh thất tôn nghiêm. Họ không gửi tiền nữa. Đến cuối tháng thì một môn đệ Cam-Địa giữ chân thủ-quỹ trình với ông rằng tiền đã cạn, và hỏi ông lấy gì để sống tháng sau?
Ông điềm nhiên trả lời: «Thì chúng ta vào sống chung với những người, tiện-dân vậy».
Một buổi sáng kia, Cam-Địa tiếp một vị khách đến thăm khu truyền giáo của ông bằng xe hơi. Khách hỏi ông có cần tiền chăng? thì ông đáp « Tôi cần lắm ». Khách liền chìa ra một bó bạc lớn, rồi chào ông mà đi. Ông không biết vị khách hảo tâm đó là ai, vì ông nhớ mang máng hình như chỉ gặp khách có một lần tại nơi nào. Cam-Địa đếm được cả thẩy mười ba ngàn roupies. Số tiền đó đã giúp ông nuôi sống các môn đồ đủ ăn một năm ròng.
Nhưng không phải vì đã yên bề tài-chính mà mọi điều phiền nhiễu sẽ chấm dứt đối với Cam-Địa. Các phụ nữ, trong số đó có cả bà Kastourbai, không bằng lòng sống lẫn lộn với kẻ đàn bà tiện dân. Cam-Địa làm cách gì để thuyết phục được bà vợ? Ông hỏi bà rằng liệu một thiếu phụ con nhà dòng dõi như bà có thể vì điều bất hoà ấy mà rỗi chồng trở về sống với bố mẹ đẻ không? Bà đuối lý không thể trả lời được. Vả chăng bây giờ bà không còn giám cãi ông như ngày xưa. Ông đã được suy tôn làm Thánh rồi kia mà. Cho nên bà hậm-hực nhưng không giám tỏ ra, đành nhịn không dám nói gì về cái gia-đình tiện dân ông đón về nữa.
Ít lâu sau, Cam-Địa báo cho mọi người biết là ông đã nhận con bé Lakchmi (con người tiện dân) làm con nuôi. Như thế bà Kastourbai thành ra mẹ một đứa trẻ dòng giống tiện dân vậy. Ông thường nói :
«Tôi không muốn sau khi chết, lại tái sinh làm kiếp khác. Song nếu có phải đầu thai lần nữa, thì tôi ước mong được sinh vào kiếp tiện dân, để được cùng những kẻ khốn khổ ấy chia sẻ nỗi vui buồn, ngõ hầu làm dịu bớt được phần nào cái số phận nặng nề mà thành kiến xã-hội bất công đã dành cho họ, và gắng công tranh-đấu để giải-phóng họ ra khỏi nơi tối-tăm u-ám».
Người Ấn ở các giai-cấp trên nói đến chữ tiện dân với một niềm khinh-bỉ vô hạn. Cam-Địa cũng lại tự mình nêu gương trước. Để gọi những kẻ tiện dân, ông dùng một danh từ thân mến là «những người con yêu của Thượng-Đế». Tờ tuần báo ông xuất bản, ông cũng đặt tên «con yêu của Thượng-Đế». Lâu dần, dân chúng bắt chước ông mà gọi những kẻ trước kia họ khinh bỉ bằng danh-từ luyến-ái ấy.
Nhưng đa số những người quá mang sâu thành kiến phân chia giai-cấp đã hết sức phản-đối tấm lòng nhân-ái của ông đối với những kẻ khốn cùng. Ông đã gặp ở họ những địch thủ gay gắt nhất trên trường tranh-đấu chính-trị về sau. Song hầu hết quảng đại quần chúng, không ai là không luyến-ái con người mà họ tôn sùng như bậc Thánh. Họ đòi ông phải ban phúc cho họ. Họ ngăn đón giữ ông lại để hôn chân ông. Có kẻ nằm rạp xuống đất để cung kính đặt môi lên vết chân để lại trên làn bụi. Họ không còn phẫn-nộ về việc ông đem một gia-đình tiện dân về cung dưỡng nữa. Họ coi con bé Lakchmi như con đẻ ông. Thoạt tiên, đến hầu ông, sau khi về, họ còn làm lễ tẩy uế thân thể, vì sợ bị nhây nhớp bởi sự lân cận với cái gia-đình tiện dân ông nuôi bên cạnh. Về sau, quen dần, họ bỏ cái tục-lệ kỳ quái ấy đi. Và hàng chục ngàn người Ấn ở những giai-cấp sang trọng đã giám đến gần những kẻ tiện dân, trong những bận đến hầu ông, mà không sợ bị lây bẩn ra người. Cuối cùng thì nhiều người theo gương ông nuôi hẳn ngay những kẻ tiện dân trong nhà, để sai phái.
Ngoài ra hoàn-cảnh xã-hội bấy giờ cũng không còn cho phép người ta xa lánh triệt để những kẻ tiện dân nữa.
Nhưng vẫn còn những tâm hồn thiển-cận cố bo-bo giữ vững thành-kiến hẹp hòi. Cho nên Cam-Địa vẫn phải ra công hô-hào, khuyến-dụ cho mọi người hiểu rõ rằng không gì dã-man bằng sự «coi đồng-bào của mình rẻ hơn súc vật».
Ông kinh tởm thái-độ đó đến nỗi thốt ra rằng: «Nếu quả thực tôn-giáo của chúng ta bắt chúng ta không được coi kẻ tiện dân như người, thì thà rằng tôi ruồng bỏ đạo của tôi».
Muốn hiểu Cam-Địa phẫn nộ đến bực nào khi thốt ra lời ấy, chúng ta đừng nên quên rằng tôn giáo đối với người Ấn rất là quan-trọng. Tôn giáo của người Ấn ảnh hưởng đến cả mọi cử chỉ thường ngày. Trong nhà, ngoài ruộng, trong các trường học, cho chí đến cả những cửa hàng buôn bán, đâu đâu cũng thấy thần tượng, ban thờ. Các môn học ở nhà trường, sử-ký, địa dư, kinh-tế các ngành văn-hóa đều mang dấu hiệu của tôn giáo cổ truyền. Sự thấm nhuần của tôn giáo đó xâu xa trong dân chúng đến nỗi những cố gắng của các đạo về sau, như Phật-giáo, đạo Djainisme để cải-cách lại sự tin tưởng cổ-truyền, của dân Ấn đều thất bại. Chẳng hạn dù theo đạo Phật, người Ấn vẫn còn làm ngơ cho tục-lệ sát-sinh để tế thần. Có nơi thì ngoài Phật ra, còn thờ đến hàng chục ông Thần khác nhau. Có người không dám giết đến con sâu cái kiến, ngắt đến một nụ hoa, một chiếc lá. Có kẻ lại đem sinh vật vào đền chích huyết cúng Thần. Một nhà triết-học Ấn đã viết rằng :
«Tôn-giáo của chúng ta không có những lễ-nghi nào nhất định, và không có lấy một kinh sách nào có thể dùng làm căn bản».
Bởi thế, theo Cam-Địa, việc xa lánh bọn tiện dân không phải là một cấm điều bất di dịch. Tại sao người ta không bỏ được tục-lệ ấy? Đạo giáo cổ truyền của chẳng là một tôn-giáo mềm mỏng chế biến được đó sao? Lòng nhân của Cam-Địa không cho phép ông làm ngơ trước sự hành-hạ mà giai-cấp tiện dân phải chịu.
Có người đã nói rằng triết-lý của Ấn-độ-giáo là «Sống» và mặc cho người khác «sống tự do». Bởi thế, ta mới thấy hiện-tượng lạ lùng là trong xã-hội Ấn, từ ngàn xưa tồn tại cho đến bây giờ, sự cách-biệt hoàn-toàn hai giai-cấp khác nhau. Ngay mỗi giai-cấp cũng thường chia ra nhiều chi-nhánh, và giữa các chi-nhánh, thường truyền đến 1, 5 đời mà không có một sự giao-thiệp nào-chứ đừng nói sự pha trộn hôn nhân.
Nguyện-vọng của Cam-Địa và thế-hệ ông là kết-hợp những khối biệt lập thành một quốc gia thống-nhất.
Chương 12
ÁO VẢI NHUỘM MÀU CHÀM
Tháng chạp năm 1916, Cam-Địa tới Lucknow để dự đại hội thường niên của Đảng Quốc-hội Ấn. 2301 đảng viên tới họp.
Giữa hai phiên nhóm, một hôm Cam-Địa thấy một kẻ ăn mặc quê mùa tiến tới bảo ông: «Tôi là Raykoumar Choukla, quê ở Champaran. Và tôi muốn trở xứ sở». Cam-Địa chưa gặp người đó bao giờ, và cũng không biết Champaran ở đâu. Hỏi ra mới rõ, đó là một thị trấn hẻo-lánh xa xôi, ở mãi những ngọn đồi thoải dốc dưới chân núi Hy-mã Lạp-Sơn, gần xứ Népal.
Raykoumar, là một trong những người tá điền lĩnh canh ruộng các điền chủ người Anh lập nghiệp ở tỉnh đó. Nhân đang kháng-cự lại sự áp bức của chủ điền, họ phái Raykoumar tới Lucknow để giãi bày tình cảnh họ trước đại hội toàn quốc Đảng Quốc-Hội. Có người khuyên Raykoumar đến xin Cam-Địa can-thiệp. Anh ta bèn y lời.
Cam-Địa trả lời là hiện nay ông chưa thể nhận giúp y được, vì ông đã định trước nhật-kỳ đi thăm nhiều nơi khác trên đất Ấn. Choakla không chịu rời ông ra, cứ theo gót hết tỉnh này sang tỉnh khác mà năn nỉ cầu xin. Đến lúc Cam-Địa trở về nhà ở gần Ahmédabad thì Choukla cũng theo về. Y kiên-nhẫn chầu chực dưới thềm ông hàng mấy tuần ròng rã.
Y nói: «Tôi không dám xin Thánh giúp ngay, song xin Thánh định cho một nhật kỳ».
Cảm động vì lòng thành và đức nhẫn-nại của người nông-dân xứ Champaran, ông bảo: «Hiện tại đã hẹn có mặt ở Calcutta ngày ấy tháng ấy, ngươi đến tìm ta ở Calcutta vào khoảng thời gian đó, rồi dẫn ta theo ngươi».
Mấy tháng qua. Tới kỳ hẹn, Cam-Địa đến Calcutta thì đã thấy Choukla chực sẵn ở nơi ước định. Anh ta chờ Cam-Địa xong xuôi công việc, rồi dẫn ông lên đường đi Patna, kinh-đô xứ Bihar.
Nhưng Cam-Địa muốn qua Mouzzafarpour một thị-trấn ở gần Champaran trước đã, để xem xét tình trạng tại chỗ. Tin ông tới loan-truyền đi khắp vùng. Từ Monzzafarpour, từ Champaran, dân chúng đổ đến như nước để chào mừng ông. Những viên thầy cãi ở Monzzafarpour, đã từng nhiều phen bênh vực cho bọn nông dân ở Champaran trước Tòa-án vội vã trình bầy rành rẽ để ông hay nội dung cuộc tranh chấp giữa bọn tá điền và điền chủ xử Bihar. Họ lại cho ông biết cả những số tiền các nông dân trong vùng đã trả công cho họ.
Cam-Địa trách họ sao lấy công quá nặng đối với những người dân quê nghèo túng. Ông nói:
«Tôi cho rằng từ nay ta đừng nên đem những việc này ra Tòa-án. Tòa không phân xử được đâu. Một khi dân quê đã bị áp bức và đe dọa đến nỗi sợ sệt như bây giờ, thì Tòa-án làm sao bênh-vực nổi họ trước cường quyền được. Chỉ có cách giúp đỡ họ làm cho họ hết sợ hãi mà thôi».
Bấy giờ phần lớn đất cát cầy cấy được ở Champaran đều đã quân phân thành từng lô thuộc quyền sở-hữu của những điền chủ người Anh đã mua hoặc xin được của nhà nước mà thuê người Ấn làm canh. Các đồn-điền phần nhiều trồng chàm. Các chủ điền bắt buộc những tá điền của họ phải dành ra một diện tích là 15 phần trăm đất để trồng chàm, và phải nộp cho họ tất cả hoa mầu thu được về giống cây này. Sự thỏa thuận giữa hai bên đã được ghi vào những bản giao kèo dài hạn.
Song hồi ấy, được tin người Đức mới tìm ra được một phương-pháp chế thuốc nhuộm chàm hóa học, các chủ điền người Anh thấy trồng chàm không còn lợi nữa, bèn hủy cái khoản trồng chàm trong các bản giao kèo; song lại bắt ép một cách vô lý những kẻ tá điền vô tội phải trả cho họ một khoản bồi-thường để bù vào số chàm thôi không trồng, tức là thôi không thu nữa.
Một số tá điền người Ấn cũng ưng chịu, vì họ cho là càng may đỡ phải phí đất để trồng một thứ hoa lợi mà họ không được hưởng. Nhưng một số khác nhất định không chịu, và họ nhờ luật-sư binh vực. Đồng thời nhiều người đã trả khoản bồi-thường rồi, nay vỡ lẽ ra sự tráo-trở của người Anh, cũng làm đơn kiện đòi trả lại tiền.
Chính giữa lúc ấy thì Cam-Địa đến Champaran.
Ông muốn nghe đủ mọi tiếng chuông trước khi quyết-định thái-độ. Ông đến thăm viên thư ký của Hiệp-hội các địa chủ người Anh, song viên này không tiếp. Y trả lời là không thể chỉ bảo điều gì có liên quan đến Hiệp-Hội cho một người ở xứ khác đến như Cam-Địa. Ông bèn xin yết-kiến vị ủy-viên người Anh ở tỉnh Tirhout mà lãnh vực thân gồm cả trấn Champaran, song viên chức này chửi rủa ông một cách thô-bỉ, và hạ lệnh cho ông phải rời ngay khỏi Tirhout.
Cam-Địa thản nhiên như không. Ông đi Motihara, tức là tỉnh-lỵ của trấn Champaran, có nhiều viên luật sư đi theo ông. Quần chúng tụ-hội đông đặc sân ga để chào đón ông. Ông ngừng lại tại một tòa nhà trong phố, và tiếp tục các cuộc thăm dò dư-luận, cùng quan sát tình hình. Có người cho ông biết một nông-dân đã bị hành hung dã man ở một làng bên. Ông quyết định đến tận nơi xem xét câu chuyện. Sáng hôm sau, ông cưỡi voi sang làng đó, nhưng chưa đến nơi thì một nhân viên cảnh sát đuổi theo kịp và mời ông lên xe hắn ta quay trở lại. Viên cảnh sát dẫn ông về nhà rồi trao cho ông một công lệnh bắt buộc ông phải rời Motihara ngay tức khắc. Ông điềm nhiên ký nhận, và viết rõ ràng vào phiếu nhận, rằng ông quyết không tuân theo lệnh đó. Bởi thế, ông phải ra tòa ngay sáng hôm sau.
Tin đó khuấy lộn thị-xã Motihara như một chảo dầu sôi. Nông dân các miền quê lân cận kéo đến đông như kiến cỏ. Các phố đen nghịt những người. Họ tự động mà đến. Là dân cư một miền núi hẻm, đường xa, cách biệt với đời sống văn-minh, họ chưa từng đọc báo, và bởi thế cũng không biết cả đến cuộc đắc thắng vinh quang của Cam-Địa ở Nam-phi. Họ chỉ nghe nói là có một vị thánh nhân từ miền Nam lặn lội lên đây để bênh-vực họ, mà đang bị người Anh bắt bớ giam cầm. Lòng ái quốc bỗng nhiên sôi nổi, và muôn người như một, không ai bảo ai, họ cũng tìm đến bên cạnh vị cao nhân mà họ tôn sùng cảm-mến. Bỗng chốc, họ tự thấy trong lòng bừng cháy một nguồn lửa mới-họ ngẩng cao đầu, mắm môi, vỗ ngực. Mắt tung ánh lửa, họ không còn là người dân quê yếu hèn chất-phác, quỳ gối uốn lưng trước roi vọt của kẻ ngoại xâm. Trong khoảnh khắc, họ đã trở lại bản-ngã của con dân một nước tự-do, đã từng mang trong tay gia-tài cổ-kính của một nền văn-minh thuần-túy. Gandhi đã thành công trong dự định của ông, là giúp cho những người miền thôn dã, mà bộ ngực thở hút khí trời trong sạch ít nhất cũng to lớn gấp đôi thân hình bọn chủ điền bét rượu, rũ bỏ được sự sợ hãi vô lý từ trước vẫn làm họ co rúm trước giọng nói nạt nộ và tròng mắt vọ của bọn da trắng tráo-trưng.
Trước đám đông quyết liệt đó, bọn cầm quyền bắt đầu lo sợ. Trong cái biển người xáo động như giông bão đó, họ hiểu rằng tính mạng họ không đầy một dúm. Chỉ còn phương-sách cầu-cứu Cam-Địa giúp đỡ. Đầy một vẻ kẻ cả ông đối đáp với họ một cách ôn tồn lễ phép. Ông nói với đám người biểu tình mấy câu. Tức thì cái biển người đang xôn xao, bỗng im lặng như mặt hồ đứng gió. Rồi họ giải tán rất có trật tự, đâu về nơi đấy.
Các nhà đương-cục địa phương rất phân-vân. Họ đành ra lệnh cho công-tố-viện hoãn việc truy-tố Cam-Địa lại, ý chừng để chờ hỏi ý kiến nhà cầm quyền trung ương.
Cam-Địa cực lực phản-đối việc đình xử ấy. Ông cho công-bố một bản tuyên ngôn, trong đó ông nhận tội bất tuân thượng lệnh, và đòi được đem xử ngay. Ông tuyên bố với tòa án rằng ông đang đứng trong trường hợp bị lôi kéo giữa hai bổn phận tương phản: một đằng thì ông không muốn xâm phạm vào luật-lệ của nhà cầm quyền, e nêu gương xấu cho đồng bào ông, một đằng khác, ông tự nhận thấy có phận sự thiêng liêng phải tiếp-tục cuộc tranh đấu mà lương tâm ông, cũng như lòng yêu nước thương nòi, cùng lòng bác-ái, đã bắt buộc ông phải theo đuổi đến cùng. Bởi thế, ông đành trái lệnh nhà đương cục bắt ông rời khỏi nơi tranh đấu, không phải vì ông khinh-mạn chính-quyền mà chỉ vì ông tuân theo một hiệu-lệnh nghiêm-ngặt hơn mọi luật lệ của loài người, là tiếng nói của lương-tâm. Nhưng đã phạm luật thì ông yêu cầu được trừng trị theo luật pháp, để trọng sự công-bình, và khỏi nêu gương xấu cho người sau.
Tòa án chưa tìm được giải-pháp nào thỏa đáng, bèn ngỏ ý sẵn-sàng hoãn tuyên án cho ông trong hai giờ đồng hồ, nếu ông chịu nộp một khoản tiền ký quỹ. Ông không chịu. Tòa đành thả ông ra vậy. Sau hai giờ nghị luận, Tòa tuyên-bố hoãn đến một ngày chưa định về sau, mới tuyên án. Trong khi chờ đợi, Tòa cho phép Cam-Địa được tự do, không phải câu thúc thân thể.
Bấy giờ những nhà luật sư cùng biện hộ có danh như Rayendra Prasad (sau này làm Tổng thống nước cộng hòa Ấn-độ), Bryi Kichon Babou, Maoulas Mazharoul Houg, v.v… từ Bihar đều tìm đến quây quần tụ họp bên cạnh Cam-Địa để bầy mưu tính kế.
Cam-Địa hỏi họ rằng họ sẽ áp dụng phương sách gì để giải nỗi bất công cho những kẻ tá điền trấn Champaran đang phải chịu. Các luật gia xin hãy họp nhau để thảo luận, rồi sẽ trả lời. Cuộc hợp bàn rất ngắn ngủi. Ai nấy đều đồng ý rằng:
«Cam-Địa là người ngoại cuộc, mà vì tình nhân loại, còn can đảm ngồi tù để bênh vực những dân quê cùng khốn, huống chi chúng ta đây, là những người đã nhận nhiệm-vụ bênh-vực quyền lợi của họ, lại không biết theo Cam-Địa mà tranh-đấu sao? Vậy, không thể hèn nhát bỏ về để trốn tránh phận sự. Chúng ta sẽ cùng vào tù với Cam-Địa, để ủng hộ cho sự tranh đấu của ông».
Sau đó, cả bọn trở về nhà Cam-Địa, và báo cho ông biết quyết nghị của toàn thể. Ông vui mừng nói: «Thế là chúng ta giải quyết xong việc Champaran rồi!» Đoạn, ông lấy giấy bút, chia cả nhóm ra thành từng đôi một, và ghi sẵn thứ tự mỗi đôi sẽ theo đó mà hành động, mục đích làm cho các nhà cầm quyền bắt buộc phải tống mình vào tù.
Nhưng mấy hôm sau, thì Cam-Địa nhận được giấy của Tòa án báo cho ông biết rằng viên phó Tổng-Trấn tỉnh Bihar đã quyết định xếp việc lôi thôi của ông lại. Vậy ông đã hoàn toàn được trả tự do. Thế là lần đầu tiên phong-trào tranh-đấu bằng sự bất hợp tác đã thắng thế tại Ấn-độ.
Đến tháng sáu, Cam-Địa được triệu đến dinh phó Tổng-Trấn. Trước khi lên đường, ông hội họp các bạn đồng-chí lại để ấn-định chương trình khởi phát phong trào bất hợp-tác, nếu ông bị giữ, không được trở lại.
Cam-Địa được viên phó Tổng-Trấn tiếp kiến cả thẩy bốn lần. Sau những cuộc thảo luận đó, viên quan này lập một ủy-ban điều-tra chính thức để điều tra về trường hợp các tá điền người Ấn. Ủy ban này gồm toàn người Anh, một phần là chủ điền, một phần là viên-chức trong Phủ Tổng-Trấn. Chỉ riêng có Cam-Địa là đại diện độc nhất của quyền lợi người Ấn.
Cuộc điều tra kéo dài gần một năm trời mới kết liễu. Trước những bằng chứng không thể chối cãi, ủy ban phải công nhận là lỗi về phần những nhà địa chủ người Anh. Lẽ dĩ nhiên họ sẽ phải hoàn lại những số tiền họ đã thu một cách bất công của bọn tá điền. Họ lo lắng hỏi Cam-Địa: «Chúng tôi phải trả lại bao nhiêu?»
Theo nguyên-tắc thì phải hoàn y nguyên số thu, chưa kể tiền lời. Song họ đã ngạc nhiên xiết bao, khi thấy Cam-Địa chỉ đòi 50 phần trăm họ xin bớt một nửa, tức là hoàn lại 25 phần trăm số đã thu. Họ càng ngạc nhiên khi thấy Cam-Địa cũng ưng chịu không khó khăn gì. Sau Cam-Địa giải nghĩa rằng đối với người dân quê, sự thắng lợi quan trọng không phải ở chỗ họ lấy được đủ hay thiếu số tiền đã nộp, mà ở chỗ những người thuê họ đã tự hủy hoại cái uy-tín làm chủ của mình. Thực vậy, sự gian lận của bọn chủ đất bị phơi bầy ra ánh sáng, không làm vinh-dự cho họ chút nào. Thêm vào sự xấu-xa đó, bọn chủ còn tỏ ra mình chẳng còn là những ông thánh sống uy-quyền nghiêng trời lệch đất nữa. Từ trước họ vẫn hành-động bất cần cả luật-pháp, thì nay, họ đã phải vào khuôn phép. Người dân quê cảm thấy rằng hãy còn có những tấm lòng bác-ái dù xa-xôi khuất nẻo nơi đâu, mà hễ nghe tiếng kêu thương của những người lâm nạn, cũng tức khắc tìm đến, để ra tay cứu vớt.
Những việc xẩy ra mấy năm sau đã kết thúc một cách hoàn-mỹ công cuộc giải-phóng mà Cam-Địa đã reo mầm ở miền núi Champaran. Có lẽ vì sự khai khẩn không được phát đạt như trước, nên những điền-chủ người Anh đã trả lại đất cho Chính-phủ. Nhà cầm quyền không còn cách gì hơn là lại trả đất cho những chủ cũ của nó, tức là những nông-phu người Ấn.
Giai đoạn Champaran là những khúc quanh quyết-liệt trong đời tranh-đấu của Cam-Địa. Ông đã thấy bản ngã cá-nhân của mình nẩy nở trong sự toàn vẹn của sức mạnh tinh-thần. Ông đã nói:
«Tất cả những công chuyện tôi làm ở Champaran chẳng có chi là lạ. Tôi đã bảo mãi rằng người Anh không thể nào ra lệnh, mà bắt được người Ấn ở trên đất Ấn phải tuân theo».
Vụ Champaran còn cho ta thấy đường lối tranh-đấu của Cam-Địa đặc-biệt ở chỗ thiết-thực. Ông diễn-thuyết đấy, viết báo, in sách đấy, song mỗi bận tranh-đấu là ông phải thân đứng ngay vào hàng ngũ và số phận của những người ông định bênh-vực. Ông sống đời sống thường ngày của họ. Ông truyền hơi nóng của lòng tin tưởng, óc lạc-quan, chí phấn-đấu của ông cho những trái tim đã khô héo và giá lạnh vì đau khổ dạn-dầy; và với một lòng kiên-nhẫn vững bền hơn bàn thạch, ông chờ đợi cho đến một ngày kia, sự sống hiện tại làm cho những tâm hồn đã chết từ lâu, bỗng nhiên rung động hồi-sinh, thoạt tiên còn e-ấp như cánh bướm run rẩy trước gió xuân, rồi bừng nở đón rước cuộc đời mới, như một mầm non tràn-trề nhựa sống.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà ông bỏ lãng phương diện tinh-thần của công cuộc tranh-đấu. Chúng ta đã thấy trong vụ Champaran ông không chú ý đến số tiền bồi thường, chỉ quan tâm đến ảnh-hưởng của sự đắc thắng trong công cuộc tái-tạo lại bản-ngã người dân quê Ấn-độ. Họ yếu. Ông muốn làm họ khỏe. Họ rụt-rè e-sợ. Ông muốn làm cho họ trở nên những người mới, mạnh dạn, tự do, đầy lòng tự-tin, những người đủ sức mạnh tinh-thần để tự kiềm-chế nổi những bản-ngã yếu mềm của xác thịt, ngõ hầu vượt được những trở ngại lớn lao đó, mà mạnh tiến trên con đường giải-phóng và xây-dựng quốc-gia. Tóm lại, quan-niệm giải-phóng của Cam-Địa xây trên một căn-bản trái ngược hẳn những quan-điểm thông thường của con người luận-lý. Độc-lập là gì? Ai chẳng trả lời là người bản quốc, chứ không phải người ngoại quốc, lãnh trách-nhiệm dìu-dắt dân chúng nước mình. Bởi thế, kết-luận hợp lý nhất là muốn độc-lập phải đánh đuổi kẻ ngoại xâm đang ngự-trị ở chỗ đáng lẽ phải dành cho người bản-quốc. Lầm to. Cam-Địa nói : Lý-luận thế là bỏ quên điểm chính, mà chỉ nói đến điểm phụ. Dựa vào quốc tính người cầm quyền, mà giải nghĩa hai chữ độc-lập, là nhầm sự độc-lập với hình-thức của sự độc-lập. Mà đứng về phương-diện hình-thức nữa, chưa chắc lời giải đó đã đúng. Ở một nước độc tài chẳng hạn liệu có sự độc-lập không? Hay là dân chúng chỉ là những nô-lệ của một nền luật-pháp khắt-khe, ban hành theo ý muốn tối cao của một cá-nhân?
Không! ý nghĩa chân-chính của những danh-từ «giải-phóng» và «độc-lập» không phải như người ta thường nghĩ. Linh hồn đất nước tức là chất tinh-túy do muôn ngàn bản ngã của tất cả con dân trong nước hòa-hợp mà cấu tạo thành. Vậy hay, hay dở phải xét từ gốc. Độc-lập như ta rõ, là một tình-trạng siêu-thoát trong như nước, nhẹ như không khí, sạch như băng, và sáng láng như đỉnh trời xanh một buổi không mây. Độc-lập là tinh-thần đã thoát-ly được tất cả những tư-tưởng xấu xa hay không chính đáng, đồng thời phải rũ bỏ được mọi sự yếu mềm nhờ đó mà ảnh-hưởng ngoại-vật có thể chi-phối, hay ít nhất làm trở ngại được đời sống của tinh thần. Xem thế thì biết nếu muôn dân, ai nấy đều cùng một tư-tưởng chăm lo tu thân luyện tính làm sao cho cái bản-ngã thiện của con người thoát-ly được mọi ràng buộc về tinh-thần cũng như về thể-chất mà nẩy nở được đến chỗ tuyệt mỹ, thì kết quả dĩ nhiên của sự hòa hợp giữa muôn triệu nền độc lập cá nhân đó, sẽ là một sự độc-lập duy nhất, sự độc-lập của quốc-gia.
Chúng ta đã giải nghĩa được thế nào là một nền độc-lập chân-chính. Bây giờ ta phải nói đến phương-pháp nhờ đó mà đã tiến tới cái tình-trạng siêu-thoát của mỗi cá nhân, hay của quốc-gia, mà ta gọi là độc-lập. Phương-pháp đó chỉ là một sự tập luyện không ngừng của mỗi người chúng ta để chế-ngự thể-xác, và khuyếch-trương tinh-thần. Hễ giải-phóng được cá nhân, thì kết-quả dĩ nhiên của sự giải-phóng đoàn thể là sự giải-phóng của quốc-gia. Tóm lại, phương-châm hành-động là cố gắng, cố gắng mãi để đạt tới một nền đạo-lý cao-siêu.
Chúng ta hiểu tại sao Cam-Địa chỉ hướng về nền văn-minh cổ-truyền của Á-đông mà tìm tòi suy-nghiệm những phương-châm của đạo sống. Ông thẳng thắn khước từ nền văn-minh Thái-Tây mà ông cho là quá ư máy móc, nghĩa là đời sống của người Thái-Tây, về phương-diện vật chất quen thói sử dụng những tiện-nghi của cơ-khí, nên về phương-diện tinh-thần, khối óc cùng trái tim thường bị chi-phối bởi ảnh-hưởng của cơ khí, và sự phát-triển thiên về lý-trí hơn là thiên về lương-tâm.
Trở lại vấn đề thay đổi những người cầm quyền ngoại quốc bằng những người cầm quyền bản quốc, mà Cam-Địa cho là một vấn-đề hình-thức và phụ thuộc hơn là một vấn đề chủ yếu, chúng ta nhận thấy ông không quan tâm tới lắm, vì theo ý ông, kết quả dĩ nhiên không thể tránh được là một khi dân tộc đã tiến tới cái trình-độ siêu-thoát đã nói trên, nghĩa là đã tự do tạo được một sức mạnh tinh-thần tuyệt-đối, thì ví dù dân Ấn có ở trần, dẫm đất, không một tấc sắt trong tay chăng nữa, người Anh cũng phải bỏ xứ Ấn-độ mà đi.
Thí dụ họ có cố bám chăng nữa, thử hỏi giải-quyết phong-trào bất hợp-tác toàn thể bằng phương-sách gì?
Làm ra luật-lệ, chỉ cốt để cho người ta theo, để cứu-vãn một nền trật-tự do mình đặt ra. Vì thế mới có những hình phạt hoặc xâm-phạm vào túi tiền, hoặc xâm-phạm vào thân thể kẻ không tuân theo luật, để đe dọa họ không được làm trái những lề lối mình đã ấn định. Nhưng đối với kẻ không sợ mất tiền, vì đã tu-luyện hủy-diệt được lòng tham cùng tính tư hữu, và cũng chẳng để ý đến những hình phạt xâm-phạm vào thân-thể, vì đã kiềm-chế được những sự mềm yếu của thể xác đến nỗi coi thường cả sự tra-tấn hành-hạ lẫn sự câu thúc, thử hỏi đối với những kẻ ấy, không phải là một hai người, hay một nhóm người, mà là cả mấy trăm triệu người một lúc, thì khi ấy những đạo luật của kẻ trị nhậm long-trọng ban-hành, có thoát khỏi số phận dĩ nhiên của mấy trang giấy lộn không?
Về kinh-tế, lại càng dễ dàng hơn nữa. Kẻ mạnh đi chiếm đất mục đích không ngoài việc lập một thị trường thuộc quyền sở hữu của mình mà buôn rẻ bán đắt để làm giầu, hoặc việc sử dụng nhân công rất rẻ để dùng vào những việc khai thác có lời. Kẻ địch bán đắt mà mình vẫn tranh nhau mua, là vì mình chưa hủy diệt được thói xa-hoa, tự phụ, ỷ vào quyền cao chức trọng hay tiền nhiều. Nếu muôn người như một, ai cũng khinh rẻ những sự phù-phiếm, mà chỉ nghĩ đến công-dụng của thứ đồ hàng, thì ta dệt lấy vải mà mặc, cấy lấy thóc mà ăn, đan lấy dép mà đi, đóng lấy đồ mà dùng, mở trường ra mà dạy riêng lẫn nhau, chẳng cần lấy mảnh bằng của người ngoại quốc mà phải học tiếng nước họ, thì lẽ dĩ nhiên là vải vóc, xe hơi cùng những vật dụng khác ế chất hàng đống, bán rẻ cũng không ai mua, tất phải khấn mà vất xuống biển cho khỏi tốn phí tiền mang về nước. Các nhân công nếu cũng biết bảo nhau mà tẩy chay hết mọi sự mời mọc quyến rũ của các chủ mỏ, chủ đồn-điền, nếu biết đùm bọc lấy nhau cùng thân quyến, mà chia sẻ cho nhau mỗi người một ít, sống tạm qua những ngày khó khăn, thì bọn tư-bản ngoại quốc tất phải sớm cuốn gói theo gót bọn nhà buôn về nước.
Tóm lại, theo Cam-Địa, chỉ một phong-trào bất hợp-tác cũng đủ giải-phóng được nước nhà. Song đó là lý-thuyết. Về thực-tế, tất nhiên không thể áp-dụng được trước khi dân chúng đã tự luyện được một sức mạnh tinh thần rất cao. Nhưng mới chỉ áp-dụng trong phạm-vi nhỏ hẹp của một vài địa phương với sự tham-gia của một nhóm đồng chí cùng môn-đệ, mà phong trào bất hợp-tác đã gây ra không thiếu sự khó khăn nào cho nhà cầm quyền người Anh thì thử hỏi công-dụng xác-thực của một phong-trào toàn thể sẽ to tát đến đâu?
Bởi vậy, Cam-Địa cho sự nóng nẩy của các phần-tử quốc gia trong Đảng Quốc-Hội là không thích-hợp với tình-trạng nước Ấn. Ông chủ-trương phải đi một cách kiên-nhẫn, từng giai-đoạn một. Việc trước tiên ông muốn làm là gây cho mọi người, nhất là người dân quê mà tổng số chiếm 90 phần trăm dân số toàn quốc, một lẽ sống mới, một niềm tư-tưởng mới, những phương-châm hoạt-động mới.
Thời gian đã xác-nhận quan-niệm của ông là đúng. Phong-trào hoạt động tích-cực đã bị tan rã trong máu, sau một cuộc đàn áp không thương tiếc của bọn người Anh. Trái lại, thắng lợi ở Champaran tỏ rõ người ta có thể tay không mà thắng địch, ấy là chỉ riêng với ý chí đoàn kết.
Ông chú trọng luyện-tập sức mạnh của tinh thần tới bực từ chối cả sự giúp đỡ, tuy nhiên rất thành thực, của một bạn đồng chí người Anh. Ngay khi ông lao mình vào cuộc kháng Anh ở Champaran, thì một người Anh đệ-tử thuyết hòa-bình, là ông Charles Freer Andrews, bạn trung thành của ông, tìm gặp ông để tình nguyện theo giúp. Sự có mặt của một người Anh trong hàng ngũ phản kháng có thể làm dễ dàng nhiều cho cuộc tranh-đấu. Các đồng chí của Cam-Địa có ý muốn chấp nhận sự cộng tác của Andrews, song ông không nghe. Ông nói:
«Các bạn cho rằng trong cuộc tranh đấu này, có một người Anh trong hàng ngũ thì lợi hơn phải không? Tôi không nghĩ thế. Ý muốn của các bạn chứng tỏ rằng sức mạnh tinh thần của các bạn chưa được vững chắc. Hãy nghĩ rằng hoạt động của chúng ta đây là để phụng sự chính-nghĩa, để noi theo một lý tưởng cao siêu là lý tưởng nhân đạo bác-ái. Thế chưa đủ hay sao mà các bạn phải cầu một người Anh?»
Chương 13
TUYỆT THỰC LẦN THỨ NHẤT
Sau khi tranh-đấu cho nông dân xứ Champaran những sự đền bồi xứng đáng mà họ có quyền được hưởng, Cam-Địa đang định ở nán lại ít lâu giúp họ thành lập trường học, mở nhà thương, thì có tin ở Ahmedabad nhắn ông về ngay bởi có sự lôi thôi giữa các chủ và thợ kỹ-nghệ dệt.
Bấy giờ thợ thuyền trong thành phố Ahmédabad đang đòi tăng lương, vì số lương hiện tại của họ quá ít ỏi đối với số giờ làm. Họ lại yêu sách được hưởng những điều kiện xứng đáng hơn. Cam-Địa công nhận là mực sống của họ quả nhiên kém thực.
Cam-Địa là bạn thân của Ambalal Sarabbai, một kỹ nghệ gia giầu lớn về nghề dệt, và là một bậc đàn anh rất được tin cẩn của các chủ xưởng dệt trong thành Ahmédabad. Bởi thế, thoạt tiên ông hãy khuyên các chủ nhà máy nên công-nhận nguyên-tắc nhờ một ủy ban trọng-tài phân-giải. Họ từ chối. Ông liền đứng về phe thợ và hô hào họ bãi công. Họ y theo, và ủy cho ông lãnh-đạo phong-trào.
Cam-Địa bắt các thợ phải long-trọng cam-kết là bất cứ khi nào hễ chủ chịu tăng lương, hoặc chịu đem việc xích mích ra trước một ủy ban trọng tài, họ mới tiếp tục đi làm. Hàng ngày, ông hội họp họ trên bờ sông Sabarmati, dưới bóng xum xuê của một gốc đề cổ thụ. Hàng ngàn người quây quần chung quanh ông. Ông khuyên họ bao giờ cũng phải giữ thái-độ bình-tĩnh, và sẵn sàng đi làm nếu bọn chủ nhượng bộ. Sau mỗi cuộc mít-tinh, thợ thuyền lại sắp hàng đi diễu qua các phố với những lá cờ cùng biểu ngữ trưng khẩu hiểu: «Hãy giữ lời hứa».
Trong khi ấy, Cam-Địa vẫn liên lạc với phái chủ, vì ông không bỏ ý định thuyết phục họ nhận một cuộc trọng tài. Nhưng họ không đổi ý.
Cuộc đình công kéo dài. Thợ thuyền đã bắt đầu nản chí. Số người đến dự những buổi họp dưới gốc đa càng ngày càng thưa thớt. Tại nhiều xưởng dệt, một số nhân công không chịu gia-nhập phong-trào bãi công lén-lút đi làm với một số lương kém sút. Trong đám thợ bãi công đã thấy xôn-xao. Cam-Địa bắt đầu lo không biết họ sẽ nóng máu làm liều, gây ra sự đổ máu, hay làm nhụt hết ý chí tranh-đấu mà hàng-phục bọn chủ để cầu xin lại được đi làm.
Bấy giờ một ý tưởng đến với Cam-Địa. Một sáng kia, trước mặt đủ số thợ dệt bãi công quây quần xung quanh gốc đa ông ngồi, ông ngỏ với họ ý chí cương-quyết sẽ nhịn ăn đến chết, nếu họ không chịu giữ lời đã hứa là tiếp-tục cuộc tranh-đấu cho đến khi thắng lợi.
Từ trước tới nay, Cam-Địa cũng nhiều lần nhịn ăn, song chỉ là vào những tuần chay, hoặc những khi ông ăn khem với mục-đích giữ vệ-sinh bộ máy tiêu hóa. Lần này là lần đầu ông tuyệt thực để đạt một yêu-sách.
Ông tuyệt thực chỉ cốt để buộc những thợ bãi công phải giữ lời hứa, tức là không được bạo-động, cũng như không được bỏ dở cuộc tranh-đấu trước khi toàn thắng. Song chính phái chủ lo-lắng trước tiên.
Khi họ tới vấn-an ông thì ông khuyên họ không nên bận tâm tới sức khỏe của ông; ông tuyệt thực vì thợ chứ không phải vì họ. Vả lại, ông đã tự đứng vào hàng ngũ những thợ bãi công, nên ông chỉ muốn được coi như một người thợ, tức là một người trong phái địch. Mặc dầu những lời lẽ ấy, đối với các nhà kỹ-nghệ thành Ahmedabad, bao giờ cũng là bậc cao nhân, vị Thánh mà họ tôn-sùng, nên ba ngày sau, họ ưng thuận giao việc xích-mích cho một ủy-ban trọng tài hòa-giải. Cuộc đình-công dứt sau khi kéo dài hai mươi mốt ngày.
Ý định của Cam-Địa là nhịn ăn để ép buộc bọn thợ đình-công giữ trọn vẹn lời thề nguyền. Ông không muốn cho cuộc đình công thất bại vì e sự thất bại đó sẽ làm nản lòng nhụt chí những người tranh-đấu về sau. Vả lại ông rất ghét những linh hồn thấp hèn yếu đuối chưa hoạt-động bao lâu đã mang ý tưởng hàng phục. Ông có cảm tình nồng nhiệt với những kẻ nghèo kẻ yếu song ông muốn cho họ phải chống lại nỗi khó khăn với một thái-độ phản-kháng tuy hòa-nhã nhưng không kém phần cương-quyết. Tuy nhiên, nói ví dụ ông về phe chủ nữa, trong trường hợp này ông cũng tuyệt thực. Ông rất hài lòng là cả đôi bên chủ và thợ đều nghe theo lời ông khuyên bảo mà thỏa-thuận giải-quyết vụ xích-mích bằng một cuộc trọng tài. Nguyên tắc hòa giải là một điểm chính trong đạo xử thế ông thường giảng dạy. Ông cực lực phản-đối việc dùng bạo lực cùng sự áp-bức làm lợi khí tranh-đấu, bất kỳ dưới hình thức nào.
Ông nói: «Tôi tuyệt thực để cảm-hóa những người yêu quý tôi sửa mình cho phải đạo». và ông tiếp «Tuy nhiên, bạn không thể tuyệt thực để làm động lòng một kẻ cầm quyền bạo ngược».
Những chủ nhà máy ở Ahmédabad không giám trái ý Gandhi vì họ quý ông, không muốn ông hủy hoại thân thể. Vả lại được chứng kiến sự hy-sinh cao quý của ông và họ tự lấy làm xấu hổ về lòng vụ lợi của mình. Nếu Gandhi tuyệt thực để yêu sách một quyền lợi riêng, chắc chắn ông không thể đánh mạnh vào trái tim người ngoài như thế. Chính ông cũng công nhận rằng ông có thể tuyệt thực để cảm-hóa một người thân từ bỏ một thói xấu, song không thể dùng cách ấy để bắt buộc người ta phải cho mình thừa hưởng gia-tài.
Ảnh hưởng của Gandhi còn tồn-tại trong trí nhớ những thợ thuyền cùng chủ nhà máy ở Ahmédabad. Năm 1918, một ký giả đi qua Ahmédabad còn thấy thủ tục hòa-giải bằng trọng tài vẫn được áp dụng để giải-quyết những vụ tranh-chấp giữa chủ và thợ dệt trong phạm vi nghề-nghiệp.
Chương 14
LỊCH SỬ MỘT NỀN THỐNG TRỊ
Suốt 30 năm ròng rã, từ 1948 đến 1918, Thánh Cam-Địa ba lần tranh-đấu gắt-gao: Chống lại chính bản-ngã ông, chống lại các đồng-bào ông, và chống lại nền thống-trị của Đế-Quốc Anh trên đất Ấn.
Nói đến cách đối xử của người Anh với dân bản quốc, thì không một người Ấn mang chút tâm-huyết nào mà không chau mày nghiến răng. Sự hống-hách của người Anh khó dùng lời mà tả được. Xã-hội Ấn chia ra 4 giai-cấp, thì người Anh tự đặt mình vào một giai-cấp thứ năm, một giai-cấp riêng biệt, thượng đẳng, ngất-ngưởng ở cao tít trên giai-cấp Bà-la-Môn gồm những gia-đình quý tộc của Ấn. Xã-hội Ấn có hạng tiện-dân mà ai cũng khinh-khi và ghê tởm, thì đối với người Anh, tất cả mọi người Ấn, từ vị vương-hầu quý-tộc cho tới kẻ cùng dân hạ tiện, tất cả không phân biệt, đều là những hạng tiện dân đáng khinh bỉ mà họ không thèm tiếp-xúc.
Hãy tưởng tượng nhà cửa của mình, mà một kẻ côn đồ tự nhiên chiếm đoạt, tịch-thu đồ đạc của mình để dùng riêng với tư-cách chủ-nhân-ông, đã liệt mình xuống hàng tôi tớ để hách-dịch sai bảo lại còn ỏe-họe chê bai đến điều, trông thấy mình thì bẩn mắt, chạm phải mình thì bẩn tay và tiếp xúc với mình thì danh dự bị xúc-phạm; hãy tưởng tượng như thế thì biết thứ tình-cảm của người Ấn đối với người Anh là tình-cảm gì, và sẽ hiểu tại sao mãi đến bây giờ, sau khi đã thu hồi được nền độc-lập hoàn-toàn, người Ấn vẫn còn giữ một mối ác-cảm xâu xa và một lòng nghi-kỵ không gì gột rửa nổi, đối với mọi tàn-tích của chính-sách đế-quốc, bất luận dưới hình-thức nào.
Người Ấn vốn là một dân tộc kiêu ngạo với nền văn minh cổ-kính của mình. Óc phân chia giai-cấp ở họ cũng mạnh hơn ở mọi dân tộc khác. Bởi thế nên trong tất cả những nguyên nhân va chạm giữa hai dân tộc, nguyên nhân sâu xa nhất là tính hách-dịch của người Anh, luôn luôn tự-kiêu tự-đại với nền văn-minh của mình, với màu da của mình. Họ có những hành vi hình như cố ý nhắc nhở người Ấn rằng chỉ có người da trắng mới xứng đáng được sống tự do dưới ánh mặt trời. Bị thương tổn lòng tự ái, người Ấn lại càng mài dũa ý-chí độc-lập của mình.
Đó là tình-trạng cuộc sống chung giữa hai dân-tộc Anh Ấn. Mối ác-cảm người Ấn đối với Anh sâu-xa đến nỗi ví thử người Anh có đem lại cho họ tiền rừng bạc bể, cùng ruộng sôi sông mật chăng nữa, họ cũng chẳng động tâm. Vì vết thương thầm kín ở tận trong thâm tâm, trong tận cùng tủy não một vài sự tiện lợi vật-chất thí bỏ cho, như đường xe hỏa, viện tế-bần, trường học, nhà thương, v.v… băng bó sao nổi. Về phần người Anh, họ cũng thừa hiểu rằng họ không được lòng mến chuộng của dân Ấn. Càng bực hơn nữa là mỗi khi họ tìm cách làm thân với người Ấn - lẽ dĩ nhiên là vì chính-trị chứ chẳng phải thực lòng - thì người Ấn lại lảng tránh. Bàn tay chìa ra, không được tiếp nhận, thu lại mới bẽ làm sao!
Bởi vậy, người Anh rất e ngại sự phát-triển của phong-trào Quốc-Gia Ấn. Trong 89 năm thống-trị ở Ấn, chính-sách của Anh phản-chiếu rõ-rệt nỗi phân-vân lo ngại của các nhà cầm quyền vừa hứa xong đã tìm cách thoái thác. Nhiều lần dân Ấn có cảm-tưởng như bị mắc lừa bởi những điều hứa hẹn bâng quơ.
Muốn cai-trị được dễ-dàng cái khối dân số khổng lồ mấy trăm triệu người đó, người Anh đã dùng chính sách chia mà trị. Họ lần lượt nâng đỡ người Hồi để kìm hãm người Ấn, và chia bán đảo Ấn-Độ - trừ miền đất phì-nhiêu nhất, gọi là Ấn-Độ thuộc Anh, cai trị trực-tiếp bởi người Anh - ra làm nhiều tiểu bang nhỏ, về hình thức, thuộc quyền các tiểu vương cai trị, song kỳ thực thì dưới quyền kiểm soát tối cao của người Anh. Đầu thế kỷ thứ 20, số tiểu vương bù nhìn ấy có tới 550 vị. Tất cả hoạt động của người Anh ở khu vực «Ấn-Độ thuộc Ấn» chỉ dồn vào việc giật dây các ông vua bù nhìn đó. Họ rất có quyền lực đối với người dân, và rất giàu mạnh, vì người Anh thả lỏng cho họ tha hồ vơ vét, nhưng lại rất trung-thành đối với người Anh.
Chính giáo sư Rushbrook Williams là người thường làm trung-gian giữa các tiểu bang, và vì thế rất am hiểu tình hình các nơi đó, đã phải thốt ra lời nhận xét sau đây:
«Khó lòng có thể xẩy ra một vụ nổi loạn toàn thể chống Anh ở Ấn-Độ, vì lòng trung thành của các tiểu vương đối với người Anh không ai nghi-kỵ được».
Chính-sách kinh-tế của người Anh ở Ấn cũng ác liệt không kém chính-sách cai-trị. Đúng lý ra, thì người Anh phải nâng đỡ nếu không thì cũng để cho nền kỹ-nghệ bản xứ tự-do phát triển để xứ thuộc địa có thể dần dần trưởng thành về kinh-tế ngõ hầu rời khỏi chính quốc mà sống tự lập được một mình. Nhưng người Anh lại hết sức hạn chế khả năng kinh-tế của Ấn-Độ, bóp chết các ngành kinh-tế bản xứ để dành độc quyền trên thị-trường cho các hóa phẩm chính quốc, cấm đoán việc đóng tầu và mở mang kỹ-nghệ hàng hải. Về giáo dục, thì loại hẳn ra ngoài chương-trình những môn học thiết dụng, có thể đào-tạo được những kỹ-sư và thợ thuyền chuyên-môn bản xứ sau này sẽ giúp ích cho nước họ.
Các sự thực-hiện của người Anh ở Ấn – những món quà quý báu của nền văn-minh, mà các đế quốc thường tự hãnh-diện là đã làm trọn sứ mệnh khai hóa của mình mà ban cho dân bản xứ hưởng thụ cũng - chẳng nhiều nhặn gì cho lắm. Vài con số sau đây chứng tỏ sự chênh lệch giữa cái tình-trạng được ghi trong những bản tường trình tràng giang đại hải để kể công với thế giới, và tình-trạng thật sự.
Năm 1939, Ấn-độ, với một số dân đông gấp ba lần dân số Mỹ Quốc và một diện-tích chỉ bằng 2 phần 3 diện-tích nước này, chỉ có 41.134 dặm đường sắt; trái lại Hoa-Kỳ có những 395.589 dặm. Năm 1935, Ấn-Độ sản-xuất được 2.500 triệu kilowatts điện lực, trong khi Hoa-Kỳ sản-xuất được 98.464.000.000 kilowatts.
Tình trạng thấp kém của một xứ trù phú như Ấn-Độ lỗi tại ai? Lẽ dĩ nhiên là người Anh phải chịu phần lớn trách nhiệm. Song nếu quy cả tội vào đầu họ thì cũng hơi oan uổng cho họ. Chúng ta đã biết rằng người Ấn không bao giờ chịu hợp-tác hết sức với người Anh. Nhưng đến khi kiểm điểm kết quả, thì họ lại quên hẳn những sự trở ngại họ đã gây ra cho nhà cầm quyền, mà phê-bình chính-sách của người Anh với một con mắt hết sức gắt gao, soi mói.
Các nhà đương cục người Anh hết sức khó chịu vì thái-độ ấy. Tính tự cao tự đại của họ bị tổn thương bởi bất cứ một lời phê-bình nào. Họ trả lời sẵng giọng. Thế là cái hố ác cảm giữa kẻ trị và người bị trị lại khơi sâu thêm một nấc. Đến cuối thế kỷ thứ 19 sự phẫn uất âm-ỉ trong lòng người Ấn bùng lên dưới hình thức nhiều vụ khủng bố ở Bengale và ở mấy nơi khác. Đã có khủng bố, tất phải có sự bắt bớ tiễu trừ tiếp theo. Hoạt động khủng bố và hoạt động chống khủng bố, cái này kéo theo cái kia, rồi cứ thế bùng lên với một cái đà đáng sợ. Về phía người Anh, một nhóm đòi đè bẹp phong-trào phản đối của người Ấn dưới máu, sắt, và lửa; nhóm đối lập thì muốn an lòng dân bằng những thực hiện cải cách thích hợp. Về phía người Ấn, Đảng Quốc-Hội tức là đại diện của phong-trào độc-lập, cũng bị lôi kéo giữa hai khuynh-hướng tương tự. Đáng lẽ phải tìm cách nâng đỡ những khuynh-hướng ôn hòa của cả đôi bên, thì các nhà cầm quyền người Anh lại dại dột đổ dầu vào lửa. Cuối thế-kỷ thứ 19, một võ quan cao cấp và cũng là một thực dân kỳ-cựu ở Ấn-Độ, đã tuyên bố như sau :
«Chính bởi vì chúng ta hiểu rõ sứ mạng của người da trắng đối với các dân tộc khác màu-da, nên chúng ta mới chinh phục và thống-trị xứ Ấn-Độ này. Một người dân bản xứ, dù thông minh, can đảm và văn minh đến đâu chăng nữa, và mặc dầu được chúng ta đặc biệt để ý và khen thưởng đến đâu chăng nữa, cũng không thể nào được coi như ngang hàng với các viên chức người Anh».
Những lời tuyên-bố vụng về đó chỉ có kết quả là làm suy yếu những khuynh-hướng ôn hòa đang cố gắng kìm hãm tình thế không cho tiến triển nhanh đến sự đổ vỡ. Bấy giờ những phần tử ôn hòa Ấn gồm các nhà luật sư, các ký giả, và các nhà tư bản vẫn còn nắm giữ được đảng Quốc-Hội, song có phải tất cả mọi người ái quốc đều ở trong Đảng Quốc-Hội cả đâu. Đã có những đứa trẻ còn thấp lách-chách đã dám thủ bom đi liệng vào lính Anh. Các thanh niên tây học, đã tốt nghiệp ở Oxford hay Cambridge, cũng ruồng bỏ nền văn hóa mà họ vừa hấp thu được, để gia nhập những hàng ngũ xung phong của phong trào Độc-lập; với khẩu hiệu: «Đông là Đông» mà «Tây là Tây». Không thể có sự gặp nhau giữa Đông và Tây, vì người Tây Phương nhất quyết đòi làm chủ nhân ông một cách vô lý, còn người Đông Phương thì không đời nào chịu hạ mình đi làm đày tớ những kẻ ấy.
Trong cuốn sách tự thuật đời mình, nhan đề là «Trên đường giải-phóng», Yaouaharlal Nehru viết rằng hồi ấy (năm 1907), ông vừa 17 tuổi và mới tốt nghiệp ở trường Trung-Học Harrow ra để vào trường Cao-Đẳng Cambridge. Ông nhận rằng, cũng như tất cả mọi sinh-viên du học ở Anh, ông có gia nhập phong trào quốc gia dưới màu sắc quá khích của nhà lãnh tụ Tilak.
Bal Gangadhar Tilak đã đóng một vai trò quan trọng trong phong trào Độc-Lập Ấn, và trong quãng đời hoạt động chính-trị của Cam-Địa.
Tilak thuộc giai cấp Bà-la-Môn, dòng quý tộc, sinh trưởng ở Poona. Năm 1897, ông bị nhà chức-trách Anh buộc cho tội đã xui giục một thanh niên Bà-la-Môn ám sát một viên chức người Anh, giữa hôm cử hành lễ thọ Nữ Vương Victoria. Bị kết án 2 năm tù, và được tha trước kỳ hạn, ông trở về tiếp-tục công cuộc điều-khiển phong-trào tôn giáo kháng Anh.
Bấy giờ, nhiều việc quan trọng mới xẩy ra, thổi một luồng gió mới về đất Ấn, khiến cho ngọn lửa ái quốc đang cháy âm-ỉ trong người dân Ấn bỗng được quạt bốc lên cao. Trong nước thì những sự cải-cách của người Anh không đem lại kết quả mong muốn: toàn thể phong-trào quốc gia, dù quá khích hay ôn hòa đều bị chê là không đủ rộng rãi. Bên ngoài thì nước Nhật vừa đánh bại nước Nga ở eo Tsushima; tin đó kích-thích mãnh-liệt lòng yêu nước của người Ấn. Lần đầu tiên trong lịch sử cận kim, người da vàng đã ghi tiếp được một chiến thắng oai hùng vào trang sử dầy đặc những võ công lừng lẫy thủa xưa, khi mà Âu-châu quỳ gối một cách thấp hèn trước vó ngựa của những người chinh-phục da vàng từ phương Đông tràn tới, và của những người chinh-phục Ả-Rập từ bờ biển Địa-Trung-Hải đánh thốc lên.
Kế cận biên thùy phía Tây Ấn-độ, thế giới Hồi giáo cũng đang sôi sùng sục với sự nổi dậy của phong trào Thanh-Niên Thổ, và chân trời bắt đầu nặng trĩu những đám mây đe dọa đối với người Anh.
Năm 1904, Phó Vương Ấn-Độ là Lord Curzon quyết định phân tỉnh Bengale ra làm đôi. Vị Phó vương này tuy đầy thiện chí, song không đủ tài năng và trí lực để quán xuyến được tình thế. Bởi vậy ông ta không nhận xét được thấu đáo phong-trào phản kháng đang cháy ngùn-ngụt hay âm-ỉ khắp mọi nơi, đến nỗi đi phải một nước cờ vụng là lại áp dụng chính-sách cổ truyền «chia mà trị» đối với dân chúng tỉnh Bengale. Nhất là lại vụng thêm ở chỗ chia ra 2 khối Ấn-Hồi riêng biệt, khiến cho một phong-trào tôn-giáo lại ghép thêm vào phong-trào chính-trị để phản kháng.
Các phần-tử ái quốc ở Bengale trả miếng bằng sự khủng bố. Các vụ ám sát mỗi ngày một nhiều. Ở miền núi quê hương Tilak, nhà lãnh tụ này ngày đêm hô-hào, kích-thích những thanh-niên vạm vỡ và cương quyết, để biến đổi họ thành từng đội xung phong cuồng tín. Các lãnh-tụ quốc gia hô hào dân chúng ở hai tỉnh mới xứ Bengale tẩy chay hàng Anh. Và chính trong vụ tẩy chay hàng hóa đó mà Cam-Địa cùng Tilak trở nên những đối thủ công-kích nhau kịch liệt.
Cam-Địa chủ trương giữ vững thái-độ ôn hòa. Tilak đòi bạo động. Cam-Địa kêu gọi sự hợp tác giữa người Ấn và người Hồi. Tilak bênh-vực quyền-lợi của người Ấn. Cam-Địa chú trọng đến phương-pháp hành động hơn là kết quả. Tilak, trái lại, tin tưởng rằng chỉ có mục-đích là trọng.
Năm 1911, Tân vương nước Anh là George V cùng Hoàng Hậu qua thăm Ấn-Độ. Để an lòng dân, vua Anh tuyên bố hủy bỏ việc chia đôi tỉnh Bengale, và cho thiên đô nước Ấn về Delhi. Song hoạt động khủng bố cũng không vì thế mà giảm bớt.
Tilak lúc ấy đã bị buộc tội là xui dân khởi loạn và đang chịu án tù ở Mandalay, nhưng các đồ-đệ của ông ta vẫn tiếp tục hoạt động. Năm 1912, Phó Vương Ấn-Độ là Lord Hardinge bị một trái bom suýt chết.
Khi cuộc thế giới đại chiến thứ nhất bắt đầu thì những sự biến động giảm bớt nhiều. Nhiều người Ấn đầu quân trong hàng ngũ Anh. Hơn nửa triệu người Ấn chiến đấu dưới bóng cờ Anh trên khắp các mặt trận Pháp, Bỉ, Cận Đông và nhiều nơi khác.
Bấy giờ Tilak đã được tạm tha. Cam-Địa từ Nam-Phi, qua Anh, đáp tầu về. Ông sốt sắng đi các làng tuyển lính tình nguyện giúp Anh. Năm 1916, nhân việc dân Ái-Nhĩ-Lan khởi nghĩa, Tilak lại bắt đầu hoạt động ráo riết. Ông thu hút được rất nhiều chính-khách tên tuổi theo mình, như bà Annie, Besant, Sir C.P. Ramasouami Aiyer và Yinnah.
Nhưng sự hy sinh của người Ấn ở bãi chiến trường đã cảm hóa được phần nào các nhà cầm quyền Anh. Ngày 20 tháng 8 năm 1917, viên Bộ-Trưởng Ấn-Độ sự vụ là Edwin S. Montagu tuyên bố trước Hạ Nghị-Viện rằng Chính-phủ đang dự định cho phép người Ấn tham dự một cách chặt chẽ hơn vào tất cả mọi ngành cai trị, cùng là cho họ được hưởng những thực hiện dân chủ, để họ có thể lần lần đi tới sự tự trị.
Coi đó là một lời hứa hẹn đáng tin cẩn, người Ấn nán lòng chờ đợi.
Tháng 8 năm 1918, chiến-tranh chấm dứt. Và đến tháng giêng năm 1919 thì các cuộc biến động lại bắt đầu.
Tại sao?
Vì lời hứa của viên Bộ-Trưởng Ấn-Độ sự vụ, đã tiêu tan như mây khói không để lại một chút dấu vết.
Người Ấn cảm thấy những dòng máu họ rỏ khắp năm mặt trận để gìn giữ cho của cải người Anh được toàn vẹn, đã hoàn toàn là một sự phí phạm.
Tilak đã bị bắt lại ngay sau chiến-tranh chấm dứt. Bà Besant cũng thế. Hai anh em Chaoukat và Mohammed Ali, lãnh tụ Hồi cũng bị giam suốt thời hạn chiến-tranh. Khắp Ấn-Độ, những tòa án đặc biệt được thành lập để xử kín chính-trị phạm. Một số lớn báo chí bị đóng cửa hoặc khóa miệng bởi chế-độ kiểm duyệt nhà binh. Những cuộc đàn áp trên đây chỉ làm cho dân chúng thêm phẫn nộ, vì họ cho rằng những tự do bị thu hồi hay hạn chế trong thời chiến-tranh, thì nay phải trả lại cho họ chứ?
Nhất là khi một ủy ban đặc biệt cầm đầu bởi một viên chức cao cấp vừa ở Anh tới để xem xét về hoạt động tư-pháp ở Ấn quyết nghị nên giữ nguyên những sự hạn chế tự do trong thời chiến tranh thì Đảng Quốc-Hội công-kích kịch liệt quyết-nghị nói trên. Tháng 2 năm 1919, khi bản dự luật hạn chế các quyền tự do căn bản được thảo luận trước Hội-Đồng Lập Pháp thì các đại biểu Anh giữ đa số ở Hội-Đồng, đã chấp thuận ngay, không kể đến sự phản kháng của các đại biểu Ấn, trong số đó có Cam-Địa.
Ngày 18-3-1919, đạo luật Rowlat được ban bố trong dân chúng.
Người ta tự hỏi: «Đây là nền tự trị mà người Anh hứa hẹn đó chăng?»
Và dân chúng ngảnh về phía Cam-Địa, chờ đợi một mệnh-lệnh.
Ngay hôm sau, ông hô hào dân chúng mở cuộc tổng bãi thị bãi công trong toàn cõi. Ngày ấy, các hiệu đều đóng cửa, công chức không đi làm, thợ thuyền bỏ xưởng, các chợ không bán thức ăn, tầu xe không chạy, tại các bến tầu, phu không bốc hàng lên tầu, mà cũng không bốc hàng xuống.
Đó là miếng đòn đầu tiên Cam-Địa đánh vào Chính-Phủ Anh, mở đầu cho một cuộc tranh-đấu 28 năm. Khi cuộc tranh-đấu chấm dứt, thì chế độ của người Anh ở Ấn cũng đổ sụp, cùng với tiếng cồng cuối cùng.
Chương 15
CÔNG TRƯỜNG ĐẪM MÁU
Dân chúng, cũng như người Anh, đều hiểu rõ tính cách quan trọng của mỗi cuộc tổng đình công bãi thị như Cam-Địa đang hô hào. Ý kiến của Cam-Địa trong khoảnh-khắc lan tràn khắp đất Ấn. Dân chúng ưa những cuộc biểu tình, vì cái cảm giác được ủng hộ bởi hàng trăm triệu người, trong lúc này đang cùng mình tranh đấu cho một lý tưởng chung, đem lại cho mỗi người lòng tin tưởng mãnh liệt ở cái sức mạnh thần bí đang lên men, để rồi bộc phát ra, hòa hợp với muôn ngàn sức mạnh khác thành một sức mạnh gì ghê gớm xô đẩy những đám quần chúng cồn lên như sóng biển, tưởng chừng nếu một mệnh lệnh được phát ra, thì một cái thác lũ ấy đổ vào đâu, ắt là thành quách, hay súng đạn gươm dao cũng bị băng đi mất tích.
Người Anh không những sợ hãi cái biển người cuồng dại ấy, mà còn sợ cả đến bộ mặt ôn hòa của những cuộc phản kháng cộng đồng. Có ai đi qua những thành-phố Ấn trong thời tranh đấu của Cam-Địa mới biết là lòng dân, một khi đã muốn, có thể thúc đẩy được từng đoàn người thản nhiên ca hát mà đi vào luồng đạn, hay là khiến được cả một bức màn bao trùm từng đô thị dưới bầu không khí im lìm chết chóc.
Cuộc tổng đình công bãi thị làm tê liệt hết thẩy mọi hoạt động kinh-tế ; những thành-phố chết chứng tỏ người Ấn biết nghe theo tiếng gọi của Tổ-Quốc họ, mà tẩy chay hết thẩy những cái gì họ cho là có liên lạc với bọn người thống-trị. Nhưng muốn cho cái sức mạnh tiềm-tàng trong tinh thần họ bột phát được ra ngoài, cần phải giúp cho họ tìm thấy lòng tự tin. Điều-kiện đó, Cam-Địa đã mang lại cho họ. Cũng như ở Champaran, ông đã giúp cho bọn tá điền lĩnh hội được khả-năng tinh thần của họ, mà rũ bỏ được nỗi sợ hãi vô lý của họ trước người Anh.
Trước tiên, Cam-Địa hãy sửa soạn dư-luận. Ông kêu gọi Phó Vương Anh nhận định chân ý nghĩa của phong-trào bất hợp-tác ông sắp phát động. Cuộc tranh đấu của ông không ngoài mục đích giúp thêm một viên gạch vào công trình sửa đổi lại quan-điểm chính-trị, cùng là dẫn linh hồn từ con đường sai lạc đã vào lầm, trở về với bản ngã toàn thiện của con người, khi khởi thủy. Ông lại gửi cho Tổng-Thống Woodrow Wilson, lúc đó đang ở Ba-Lê, một cuốn giác thư giải bầy quan điểm của ông về việc sử dụng cái sức mạnh tinh thần nẩy nở ở nền đạo lý. Lúc bấy giờ, một điều mà bản Tuyên-Ngôn của Hội Quốc Liên nhấn mạnh là sử dụng bạo lực để chống lại một sự bất công chỉ là phương tiện vạn bất-đắc-dĩ, khi nào mà tất cả những sức mạnh tinh thần mà ta kêu gọi đều đã hoàn toàn thất-bại. Ông không đồng ý với quan-điểm ấy. Ông viết :
«Chúng tôi hy-vọng là cuộc tranh đấu sắp tới của chúng tôi sẽ chứng tỏ được rằng bạo lực không thể nào coi được là cùng một công dụng với sức mạnh tinh thần, một sức mạnh không bao giờ bị thất bại».
Có người tỏ ý lo ngại rằng phong trào phản kháng mà Cam-Địa chủ xướng sẽ giúp cho mầm Cộng sản dễ bề nẩy nở. (Bấy giờ các nước Á-Châu đang hướng về cuộc cách-mạng Bon-sơ-vích vừa bùng nổ ở Nga trước đấy 2 năm). Trong một bài diễn văn đọc tại Madras ngày 30-3-1919, Cam-Địa trả lời :
«Không khi nào, trái lại, chính phong trào bất hợp tác mới thực là khí giới kiến hiệu nhất để chống lại sự bành trướng của họa Cộng sản. Chủ nghĩa Bon-sơ-vích là sản-phẩm dĩ nhiên của nền văn-minh vật-chất hiện đại quá thiên về vật-chất, chủ-nghĩa đó đã mắc lỗi lầm là nêu cao sự tiến bộ vật chất, làm chủ đích, mà không hiểu gì về cứu cánh của sự sống… Tôi cam đoan rằng nếu chúng ta không biết đặt tinh thần lên trên vật chất, tự do và bác ái lên trên sức mạnh bạo tàn, thì chỉ trong ít năm nữa, chúng ta sẽ thấy chủ-nghĩa Bon-sơ-vích tự do hoành hành trên giải đất vốn ham chuộng đạo lý như nước Ấn-Độ».
Cuộc tổng bãi công bãi thị, màn đầu của phong trào tiêu-cực để kháng, được áp-dụng ngày 30 tháng 3 ở Delhi, và ngày 6 tháng 4 ở Bombay cùng nhiều thành phố khác. «Hoàn toàn thắng lợi ở Bombay». Ông báo tin thế. Và ông tiếp thêm:
«Sức cố gắng toàn thể của đồng bào khắp trong nước thực là một cảnh tượng cảm động».
Tuy nhiên, ở Delhi cuộc tổng bãi công bãi thị gây nên nhiều chuyện đổ máu. Xứ Pundjab gồm hàng mấy triệu dân Hồi, dân Ấn, dân Sikhs, những chuyện xích mích về tôn-giáo, ấp-ủ từ trước, nay được dịp nổ tung trong bầu không khí căng thẳng bởi cuộc bãi công.
Tiếng súng đã lác đác nổ, thì các nhà lãnh-tụ lo ngại bèn mời Cam-Địa tức tốc tới Delhi. Nhưng Cam-Địa chưa kịp vào đến xứ Pundjab thì ngày 9-4, người Anh đã chờ sẵn để bắt ông ở biên-giới, và đem ông về Bombay mới thả. Tinh thần dân chúng đang bị kích thích mạnh vì không khí cuộc bãi công, thì họ được tin Cam-Địa bị bắt. Thế là như một bầu nước đun sôi nổ tung, loạn nổi lên ở Bombay và ở Ahmédabad.
Ngày 11 tháng 4, Cam-Địa quở trách các đồng-chí coi khu Bombay. Ông nói:
«Chúng ta đã ném đá vào các cửa hàng. Chúng ta đã bắt buộc xe điện phải đỗ, và đã vứt các chướng ngại vật ra phố để ngăn trở người đi lại. Như thế, không thích hợp với phong-trào tranh-đấu thụ-động. Chúng ta đã yêu sách nhà chức-trách phải trả tự do cho 50 người bị bắt vì can tội hành-hung, phá-phách. Nhưng đáng lý ra thì chúng ta phải tự bắt lấy mình. Xin tha cho những kẻ bị phạt đáng tội là trái với cấm điều trong tôn-giáo. Nếu các bạn tự xét không thể trông nom được cho phong-trào tranh-đấu khỏi bị vẩn đục bởi những hành-vi hung-bạo, thì có lẽ rồi tôi phải chấm dứt cuộc tranh-đấu để khỏi làm sai lạc cả ý nghĩa của nó đi. Vừa đây tôi còn được tin nhiều người Anh bị hành-hung. Có lẽ đã có người vì thương tích quá nặng mà bỏ mình rồi. Nếu quả thực thế, thì đó là một đòn chí tử đánh vào phong-trào tranh-đấu của chúng ta rồi. Đối với tôi, người Anh cũng chẳng khác gì đồng bào của tôi vậy».
Ngày 14-4, Cam-Địa diễn-thuyết trước một cử tọa đông-đảo hội họp trong khu nhà Ashram của ông trên bờ sông Sabarmati. Dân thành phố Ahmédabad cũng có nhiều hành-vi bạo-ngược ngày nổi-loạn, nên Cam-Địa rất buồn phiền. Ông nói:
«Thà rằng tôi bị một nhát kiếm đâm suốt ngực còn hơn là tôi được những tin này».
Sau đó, Cam-Địa đi Nadiad, thị trấn của xã Khéda, cách Ahmédabad 29 dậm, nơi mà trước kia ông khản cổ hô hào trai tráng đi lính cho Anh mà chẳng ai hưởng ứng. Ông thấy rằng ngay ở các tỉnh nhỏ cũng xẩy ra chuyện lưu huyết. Chán nản, ông tuyên bố trước cử-tọa ở Nadiad rằng tất cả phong-trào tiêu-cực tranh-đấu hiện tại chỉ là một sự «lầm lỗi» khổng lồ mà ông không tính đến. Ngày 18-4, ông ra lệnh bãi bỏ phong-trào bất hợp-tác.
Cam-Địa không bao giờ hối hận là đã ngay thẳng thú nhận một điều lỗi. Điều lầm lỗi ông tự cáo, là chưa luyện tập cho dân chúng quen tuân theo luật-lệ đã thả ra cho họ đi phá luật-lệ. Ông lại nói:
«Tôi chỉ tiếc là đã vì khinh thường sự quan-trọng của những khuynh-hướng xấu, nên phát động phong-trào dân chúng quá sớm khiến phải bỏ dở ; bây giờ tôi muốn nghỉ một thời gian để nhận định lại tình thế, hầu tìm cách giải quyết».
Giữa lúc ấy, thì ở tỉnh Pundjab, dân chúng xôn xao đến cực độ. Cuộc tổng bãi công bãi thị ngày 30 tháng 3 được dân chúng áp-dụng hoàn-toàn tại Amritsar. Không còn một hoạt-động nào trong thành phố. Công chúng giữ thái-độ rất đứng-đắn, không một cuộc va chạm nào với cảnh binh. Ngày 6-5 Aritsar lại bãi thị bãi công lần thứ hai. Cũng không xẩy ra việc gì đáng tiếc: bọn người Âu vẫn đi lại tự do trong các phố mà không sợ bị hành-hung.
Nhưng đến ngày 9-4, khi dân chúng được tin chính-phủ Pundjab trục xuất khỏi địa hạt tỉnh hai lãnh tụ đảng Quốc-Hội ở địa phương, là các bác sĩ Saïfouddine và Satyapal, thì loạn tức khắc xẩy ra. Dân chúng phát điên, sục khắp các phố để tìm giết bọn da trắng. Hai viên giám-đốc và phó giám-đốc của nhà ngân hàng Anh National Bank bị đánh cho đến chết. Viên giám-đốc nhà Nhân Hàng Alliance Bank rút súng bắn vào dân chúng cũng bị giết chết luôn. Nhiều người Anh khác bị đánh chết ở các phố.
Hai ngày sau, chính-phủ Pundjab thỏa thuận với một viên võ quan Anh là Thiếu-Tướng Edward Harry Dyer mới từ Youllounder tới về những biện, pháp đối phó với quần chúng. Viên quan này công bố một bản hiệu lệnh cấm ngặt mọi cuộc hội họp, biểu tình trong thành phố. Lệnh này giao cho Cảnh binh bố cáo cho dân chúng biết, song theo những điều nhận xét của ủy ban điều tra sau này, thì cơ-quan cảnh sát đã không quảng bá đi khắp mọi nơi, không hiểu vì không kịp, hay vì sơ-suất, hay vì có hậu ý gì. Chỉ biết đến ngày 13-4 thì dân chúng lại tụ họp, như lệ thường, thành cuộc mít-tinh lớn ở công-trường Yallianoualla Bagh. Đó là một bãi đất bỏ không, bốn bên đều quây tường cao, chỉ có một vài lối vào nhỏ hẹp.
Khi tướng Dyer được tin báo có cuộc mít-tinh ở Yallianoualla thì y đem quân tới ngay. Y đem cả xe thiết giáp theo. Đến nơi, y cũng không hạ lệnh giải tán quần chúng. Y cho chịt hết tất cả các ngả đường cùng các lối vào công trường, rồi xua hết dân chúng trong bãi vào một khoảng đất trũng, để cho quân lính vây bọc trên cao mà bắn loạn xạ vào đám đông. thế là hàng chục ngàn người quây quần trong đó không thể ẩn núp hay chạy trốn ra ngoài được, đành để cho bọn lính Anh bắn như bắn bia. Kết quả cuộc đàn áp của quân lính là 1516 người dân vừa chết vừa bị thương.
Hình như Dyer còn chưa vừa lòng. Trước Ủy-ban điều-tra, y khai rằng nếu những lối vào công trường Yllianonalla không quá hẹp thì y còn cho xe thiết giáp vào để dùng liên-thanh mà bắn dân chúng.
Sau khi đàn áp y kéo quân đi ngay, không thèm đoái hoài gì đến những người bị thương nằm rên rỉ trên vũng máu. Y còn đổ cho người Ấn định làm loạn để đánh đổ Chính-phủ thuộc địa. Thế cũng chưa hết. Mấy hôm sau, muốn báo thù cho một người Anh bị giết trong vụ biến loạn ngày 10-2, y cho vây các phố mà người Anh bị giết rồi hạ lệnh cho tất cả mọi người Ấn, dù có nhà cửa trong phố cũng mặc, hễ đi qua phố đó thì phải bò như chó. Y lại trồng một cái cột kỷ niệm vào chỗ người Anh bị giết, và hạ lệnh rằng bất cứ một người Ấn nào gặp một viên võ quan Anh ở đâu mà không xuống xe, xuống ngựa, hay không bỏ mũ, cụp ô mà chào lạy thì sẽ bị trói vào cột ấy để đánh bằng roi da trước công chúng.
Cuộc tàn sát ở công trường Yallianoualla Bagh, và nhất là thái độ báo thù hèn hạ của bọn võ biền, đã làm cho Cam-Địa phải suy nghĩ tìm một phương-pháp quần chúng tranh đấu nào không để cho người Anh vin vào cớ giữ trật tự mà bắn giết được dân-cư vô tội. Do đó, ông nghĩ ra một phong-trào là phong-trào hô-hào dân chúng bất hợp-tác với người Anh.
Chương 16
MỘT PHƯƠNG PHÁP TRANH ĐẤU MỚI: PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG BẤT HỢP TÁC
Người ta có thể nói làm chính-trị là tìm cách để nắm chính-quyền. Muốn nắm được chính quyền, phải tìm cách làm suy yếu hay lật đổ kẻ nào đang giữ chính quyền. Trước kia, ở Nam-Phi, Cam-Địa không làm chính-trị, vì ông không có ý định làm suy yếu hay lật đổ Smuts. Ông chỉ theo đuổi một mục tiêu tinh thần là buộc nhà cầm quyền Nam-Phi phải trả lại cho kiều dân Ấn chững quyền lợi chính đáng của họ, mà chính-phủ Nam-Phi đã tước đi một cách bất công.
Bây giờ, quan niệm tranh-đấu của ông đã thiên về chính-trị hơn. Ông công nhận mục-tiêu của Đảng Quốc-hội là thay thế Chính-phủ hiện tại ở Ấn-Độ bằng một chính-phủ hoàn toàn bản xứ, nghĩa là thay hết những người cầm quyền Anh bằng người cầm quyền Ấn, nhưng không vì thế mà Ấn-Độ đòi thoát-ly khỏi khối Đế-quốc Anh. Tóm lại, người Ấn hồi bấy giờ đòi tự-trị chứ chưa đòi độc-lập.
Năm 1920, Cam-Địa được bầu làm Chủ-tịch Phong-trào Vận-động Tự-trị.
Nhưng suốt đời, ông vẫn không thành một chính-trị gia với những đức tính, những thủ-đoạn cần thiết mà ta thấy ở hầu hết mọi nhà chính-trị lão thành. Làm chính-trị, tức là tiên đoán… Điều này thì ông có. Chúng ta đã thấy ông sáng suốt biết bao, khi ông phản đối khuynh-hướng bạo động của Tilak, mà ông quyết là chỉ đưa đến kết quả tai hại. Tấn thảm-kịch ở Amritsar đã chứng tỏ lời tiên đoán của ông.
Nhiều người công-kích ông không chịu lợi dụng những lúc địch thủ bị suy yếu mà áp bức họ phải chấp thuận những yêu sách của mình. Điều đó quả có đúng, song ta nên nhớ là Cam-Địa không chú trọng đến sự thắng-lợi không mà thôi, ông muốn thắng một cách ngay thẳng và cao-thượng. Một người quân-tử không bao giờ đánh kẻ địch đã ngã.
Giờ vinh-quang của Cam-Địa đã điểm khi ông đi thăm tỉnh Pundjab, sau vụ tàn sát ở Yallianoulla. Tới đâu ông cũng được dân chúng hoan hô nhiệt liệt. Hàng triệu người xô đẩy nhau để tới chiêm ngưỡng ông, mỗi khi nghe tiếng ông đến tỉnh nào. Ông đã thành tượng trưng của phong-trào dân tộc quyết-tâm chống lại chính-sách độc ác của người Anh.
Tại Pundjab, không tin hẳn ở lòng vô tư của ủy-ban điều-tra Anh, ông giúp lãnh-tụ Quốc-hội địa-phương là Motilal Nehru mở một cuộc điều-tra riêng về vụ tàn sát Yallianoualla. Khắp trên đất Ấn, không ai còn nghi ngờ về những sự thực mà bản phúc-trình của đảng Quốc-hội đem ra ánh sáng, vì tên ông ký cùng với những nhân viên điều-tra ở dưới.
Rời xứ Pundjab, Cam-Địa tới Delhi để dự một cuộc hội họp của phong trào ủng hộ quốc-vương Thổ-nhĩ-kỳ, bấy giờ vừa thua trận bên cạnh các nước Trung-Âu. Ngồi trên bục cao, ông ngắm nhìn buổi họp sôi nổi dưới mắt, và đăm-chiêu ngẫm nghĩ. Một tia sáng vụt lóe trong trí não ông. Ông đã tìm thấy đường lối tranh-đấu mới. Đến lượt ông lên tiếng, thì cử tọa đang ồn ào bỗng nhiên im lặng để nghe ông buông rơi gọn lỏn một khẩu-hiệu tranh-đấu gồm 3 tiếng là: «Bất hợp-tác». Người Ấn không thể chống lại người Anh về phương-diện này, mà còn hợp-tác với họ về phương-diện kia thì không thể được. Tẩy chay hàng hóa của người Anh chưa đủ, còn phải tẩy chay các học đường, các tòa án, các công sở, tư sở, các huy-chương khen tặng của người Anh ; tóm lại, bất hợp-tác trong tất cả mọi ngành.
Phong-trào bất hợp-tác vì không có tính cách tranh đấu tích cực, như hội họp và kích thích dân chúng công nhiên kháng Anh, nên không thể gây ra sự đổ máu được. Cùng lắm, chỉ tù tội hay bị hành hạ lén lút trong ngục thất thì có nghĩa gì đối với những kẻ đã coi thường danh lợi, và tinh thần khả dĩ đủ vững bền để coi khinh sự đau đớn của phần xác. Ngoài ra, theo Cam-Địa, dân chúng tập luyện tự kiểm-soát lấy mình tức là sửa soạn cho nền tự trị mai sau vậy.
Phong-trào bất hợp-tác mà Cam-Địa đe-dọa chính-phủ Anh đây chỉ là một phương sách bất đắc-dĩ. Ông hy vọng rằng người Anh sẽ nhượng bộ phong-trào Hồi-giáo cho xong đi, chứ ông không chủ trương bỏ hết mọi liên lạc giữa người Ấn và người Anh.
Vì thế cho nên mấy tháng sau, vừa gặp dịp Quốc-vương Anh ban hành chương trình cải cách Montagu-Chelmoford, ông cho là thế cũng đủ để làm dịu bớt dư luận dân chúng, và tuy ông biết rằng những sự cải cách mới chẳng có gì lợi cho người Ấn, ông cũng hô hào đồng bào ông chấp nhận, để lấy sự thắng lợi này làm căn cứ mà tiến tới thắng lợi khắc.
Chương-trình Montagu-Chelmoford định rằng từ nay Ấn sẽ có một chính-phủ liên-bang, để tự cai trị lấy mình, không phải bẩm báo gì về Luân-Đôn nữa. Nhưng người Ấn không có quyền gì trong cái chính-phủ trung-ương ấy. Còn về các chính-phủ địa phương thì người Ấn được giữ vài bộ không quan trọng như canh-nông, kỹ-nghệ, giáo-dục, y-tế, v.v… nhưng tài-chính và công-an thì lại hoàn toàn trong tay viên toàn-quyền địa-phương, và viên này có thể hủy bỏ bất cứ một quyết nghị nào của hành-pháp-viện hay của lập-pháp-viện Ấn địa-phương.
Sự tham-gia của người bản xứ vào các cơ quan hành chính cũng có tăng thêm đấy, song phàm những người hiểu biết, ai cũng cho là chương-trình trên đây chỉ nêu lên những danh từ suông để che lấp một chính sách không khác xa gì chính-sách trực trị.
Vì tán thành chương-trình cải-cách trên đây, Cam-Địa đã bị những phần tử thanh niên ái quốc phản đối kịch liệt. Họ không quên những lời hứa hẹn của Chính-phủ Anh năm 1916 trước Hạ-nghị-viện. Họ muốn một nền tự trị thực sự, chứ không như miếng bánh vẽ bầy ra trước mắt họ bây giờ. Ngoài ra, người Hồi cũng bất mãn. Họ thấy rõ người Anh không có ý định nới tay cho Thổ-nhĩ-Kỳ. Lại thêm tướng Kyer, người đã giết hại và làm nhục dân Ấn không những không bị trừng phạt, lại còn được dư luận chính quốc ngợi khen và tặng thưởng, khiến cho người ta cảm thấy ủy-ban điều-tra Hunt cũng chỉ là một trò ru ngủ.
Vì thế cho nên ba tháng sau, khi Chính-phủ Anh nhất quyết gác bỏ lời thỉnh nguyện của hơn trăm triệu dân Hồi, mà bắt Thổ-nhĩ-kỳ phải ký một bản hòa ước cực kỳ khắc nghiệt, đồng thời lại không giải quyết nổi nạn khan thực phẩm, khiến hàng triệu người Ấn lâm vào cảnh đói, thì những lời ôn hòa của Cam-Địa không còn hiệu lực gì nữa, và ông bị lôi cuốn theo phong trào phản kháng của dân chúng. Ngày mồng 1 tháng 8 năm 1920, ông phát động phong-trào bất hợp-tác.
Bấy giờ Tilak vừa mất, ông trở nên người cầm đầu độc nhất của Đảng Quốc-hội. Ngày 9 tháng 9 năm ấy, Đảng quyết-nghị ủng-hộ cuộc tranh-đấu của dân chúng, và tuyên-bố lấy sự đạt tới nền tự trị làm mục đích tối cao, dù phải thoát-ly khỏi Đế-quốc Anh cũng không quản ngại.
Đại hội thường niên của Đảng họp ở Nagpuor chấp thuận một quyết-nghị do Cam-Địa đưa ra, mục đích cải-tổ lại Đảng thành một tổ-chức có tính cách bình dân hơn, để lôi cuốn đại chúng vào phong-trào. Từ trước tới nay, Đảng chỉ là một Tòa nhà sang trọng, trong đó chỉ có một số trí thức cùng phú thương có quyền ngự tọa, còn dân chúng ít khi được bén gót tới. Bởi vậy, công cuộc của đảng Quốc-hội chưa có bề sâu cần thiết. Không ăn rễ trong những tầng lớp phong-phú của dân chúng, Đảng làm sao có được nguồn sinh lực dồi dào để theo đuổi một cuộc trường-kỳ tranh-đấu.
Lời khuyên nhủ của Cam-Địa có hiệu lực tức khắc. Trong những kỳ đại hội ở Calcutta mà Nugpour, trong hàng ngũ đảng viên chỉ còn thấy lác đác ít người bận Âu-phục, còn thì đa số đã trở về với cách phục sức cổ truyền. Cuộc bàn cãi cũng không mấy khi còn dùng tiếng Anh. Đại-biểu các giai-cấp trung lưu nhiều hơn mọi năm. Những đảng viên quý tộc hay phú hộ dù bị lấn át cũng không lấy làm phật ý: họ rất kính phục ông đã gây được ở dân chúng một sức mạnh họ chưa từng thấy bao giờ.
Điều đó không có gì khó giải. Cam-Địa thuộc về giai-cấp trung lưu. Ông dễ gần dân chúng hơn các vị lãnh tụ khác của Đảng Quốc-Hội. Dân chúng lâu dần coi ông như một người trong giai-cấp họ. Ngoài sự tôn sùng, họ còn luyến ái ông như ruột thịt. Họ nghe ông vì họ yêu ông, không muốn ông buồn phiền. Còn các lãnh tụ cùng ông chỉ dẫn phong trào thì ai cũng phải kính phục sức hoạt động không ngừng, đức tính yêu đời cùng lòng tin tưởng vô biên của ông ở chính mình và ở nơi dân chúng.
Trong một quốc gia đã bị kẻ ngoại xâm tước hết quyền hành chính trị, ông tượng trưng cho sức mạnh quần chúng, tượng trưng của hoài bão Tự-do. Dân chúng tôn sùng ông như Trời như Thánh.
Danh từ «bất hợp tác» mới mẻ và giản-dị đã đập mạnh vào trí não dân. Dân chúng đã chán những luận điệu tràng giang đại hải, những danh từ bí hiểm, những cuộc cãi vã không đâu. Trái lại họ hiểu Cam-Địa muốn khuyên họ làm gì. Khi tự ý từ bỏ hết mọi tiện nghi, danh lợi, họ cảm thấy điều họ làm đây là tự ý hy sinh giúp nước, chứ không phải đã bị ai lợi dụng để làm bước tiến thân.
Cam-Địa rất tin tưởng ở khả năng tranh-đấu của người dân, một khi họ muốn. Trong kỳ đại-hội ở Nagpour, ông đoan quyết với đại biểu các địa phương là nếu dân chúng biết áp dụng phong-trào bất hợp-tác, trong vòng kỷ luật, khiến cho người Anh không còn cớ gì đàn áp, thì chỉ trong một năm, sẽ lấy lại được quyền tự trị. Ông nói một cách thiết-tha, đến nỗi ai nấy đều có cảm tưởng rằng nếu không gia nhập phong trào, thì sẽ mang suốt đời cái trách-nhiệm đã làm chậm giờ giải-phóng của quốc-gia. Tự mình nêu gương trước, Cam-Địa gửi trả Phó-vương Ấn-Độ hai tấm huy-chương cùng là tấm bài vàng mà Chính-phủ Anh tặng ông để khen thưởng công cuộc nhân đạo ông đã thực hiện ở Nam-Phi. Một số lớn người Ấn trả lại văn bằng, chức sắc. Motilal-Nehru, một trạng sư danh tiếng, cũng tự ý đóng cửa văn phòng, không quản thiệt hại, vì không muốn biện luận trước các toà án Anh.
Con ông là Yaouaharla, C.R.Das, trạng sư ở Calcutta, Vallabhbhai Petel cùng hàng ngàn luật sư khác cũng thề không bước chân vào những Toà-án của người Anh nữa.
Vô số sinh-viên bỏ học, dù phần lớn đang học những trường chuyên nghiệp. Họ đã hy-sinh cả nghề nghiệp sau này. Nhưng người Ấn mở trường riêng để dạy lẫn cho nhau học. Tilak chết chưa bao lâu, thì một Cao-đẳng học-hiệu mang tên ông đã mở cửa đón tiếp hết thảy những sinh-viên vừa tẩy chay các học đường Anh. Kẻ giầu, người nghèo thi nhau giúp tiền vào công cuộc ấy.
Đồng thời những người đang theo đuổi các nghề nghiệp tự do ở tỉnh thành cũng bỏ nghề, trở về sống lẫn lộn với dân quê, tập sống lầm than như họ, và dạy lại họ những điều hiểu biết của mình. Mỗi người là một cán-bộ tuyên-truyền không tiếc sức. Người dân quê chất-phác không đi sâu vào lý-thuyết, nhưng họ ưa cuộc sống mới lạ, từ nay không đóng thuế, và nhất là không uống rượu để khỏi làm giầu cho túi tiền người Anh, và khỏi làm suy yếu giống nòi.
Về phần Cam-Địa, ông cũng đi khắp mọi nơi hang cùng ngõ hẻm đem tới cho dân quê những lời nồng nhiệt cùng tấm lòng tin-tưởng vô biên của ông. Mỗi ngày, hàng vạn người chẳng quản nắng mưa, im lặng-tụ họp quanh ông để cố nghe cho được một lời ông nói. Hồi ấy làm gì có máy phóng thanh. Song mắt họ chỉ cần in kỹ hình ảnh của ông, là cái nụ cười nhân hậu của ông sẽ mãi mãi phảng phất bên mình họ, truyền nhập cho họ đức tính yêu đời, lòng hy vọng và gan chịu đựng không hề than thở. Những người bị đám đông dồn ra xa, tuy không trông rõ dung nhan ông, song trí óc họ cũng đã thâu nhận được luồng tư tưởng của ông. Vì ông là một bậc Thánh kia mà? Ví dù ông có là một bức thần-tượng bất-động chăng nữa, họ cũng còn đến được gần ông với một lòng tin kia mà! Huống hồ chính ông lại không quản ngại nắng mưa, lầm lũi đến tận nơi xóm thôn hẻo lánh của họ, mà an ủi vỗ về, hơn nữa, dạy cho họ một đạo sống cao-siêu sẽ giải thoát họ khỏi kiếp trâu ngựa kéo dài từ đời này sang kiếp khác. Bẩy tháng trời đằng đẵng, ông đi khắp nước, trên đoàn tàu đầy than bụi, chốc chốc lại phải dừng bánh để cho hàng đoàn người đông như kiến cỏ bám quanh các toa, trèo lên nóc, chui qua cửa sổ để vào nhìn mặt Thánh, hôn chân Thánh. Có nơi, dân chúng nằm ngang đường sắt để buộc Thánh phải dừng gót lại, cho họ được chiêm ngưỡng dung nhan. Có hôm, giữa nửa đêm, tiếng bánh xe hãm ghê rợn trên đường sắt đánh thức Cam-Địa dậy thì ông nghe thấy muôn vạn tiếng hô. Chưa hiểu việc gì xẩy ra, ông vừa ló đầu khỏi cửa toa thì cả đám đông đang ồn-ào hỗn-độn ấy bỗng im lặng, và quỳ xuống trước mặt Thánh. Có tiếng nức nở của những người không cầm được lòng cảm xúc.
Suốt bẩy tháng trời vất vả nay đây mai đó mà mỗi ngày Thánh chỉ dùng 3 bữa cơm, mỗi bữa một tách sữa dê, ba khoanh bánh khô, 2 trái cam và chừng vài chục quả nho.
Bạn đồng hành của Thánh là Mohammed Ali, lãnh tụ Hồi. Tới đâu, hai ông cũng hô hào rằng muốn giải phóng nước nhà, trước hết hãy tập giải-phóng mình khỏi những tục lệ của người Anh đã. Các ông khuyên dân chúng nên bỏ tục-lệ mặc Âu-phục như người Anh. Mọi người vỗ tay tán thưởng, thì Cam-Địa yêu cầu cử toạ hãy thực hành ngay ý định mà trút hết quần áo tây vứt ra để ông tiêu huỷ. Chỉ nháy mắt, áo quần, giầy mũ, bít-tất, quần đùi, cà-vạt đã chất thành đống cao như núi. Cam-Địa thân vứt vào đống tàn tích ấy một que diêm. Rồi trong khi ngọn lửa lem lém thiêu hoá những thứ hàng len dạ ấy, Cam-Địa khuyên nhủ mọi người hãy tỏ ý định tự-lập, tự-cường, mà bỏ hết bất cứ một thứ hàng ngoại quốc nào trong việc ăn mặc. Các bạn hãy tự dệt lấy vải, tự may lấy áo mà mặc! Ông cũng đã dệt thạo rồi. Mọi người hãy theo ông, mỗi ngày bỏ ra nửa giờ trước bữa ăn, để tập dệt. Chỉ ít lâu sau, nơi nào ông đi qua thì không còn bóng dáng người Ấn nào vận Âu-phục. Lâu dần, không ai dám đến trước mắt ông với bộ quần áo người Âu nữa.
Nhưng trong khi đi hô hào người Ấn tẩy chay hàng Anh, ông không quên mục-đích thiết-thực đang theo đuổi là tuyên-truyền sâu rộng ảnh hưởng của Đảng Quốc-hội vào mọi tầng lớp dân chúng, nhất là nông dân. Đi đến đâu, ông cũng hội họp những người tiếng tăm trong vùng, giảng giải cho họ sự cần-thiết phải lập những chi-nhánh địa-phương, để hoạt-động theo mệnh lệnh từ Trung-ương phát ra, để phong-trào tiến hành một cách duy nhất và lâu dài. Ông tuyển những thiếu niên hăng hái từ 13 đến 19 tuổi, cho ăn mặc y phục ngắn đồng mầu, họp thành từng tốp, kỷ luật nghiêm minh để giữ gìn trật-tự trong các cuộc hội họp dân chúng. Ông vẽ cho chúng một huy hiệu: lá cờ của Đảng Quốc-hội, trung tâm mang hình một khung dệt. Đồng thời, ông vẫn viết báo tuyên-truyền. Dù ở nơi nào cũng thế, mỗi tuần ông theo lệ viết hai bài, một bằng tiếng Anh, một bằng tiếng Ấn, để đăng trong hai tờ tạp chí ông xuất-bản, là tờ India, viết bằng Anh-văn, và tờ Navayivan, viết bằng tiếng bản xứ. Hai tờ báo đó, xuất bản năm 1919, là những cơ quan riêng, ông dùng để truyền-bá tư-tưởng.
Bấy giờ, năm đã hầu tàn, mà nền tự-trị ông hứa cùng quốc dân chưa thấy dấu hiệu gì chứng tỏ là thực hiện tới nơi.
Một buổi chiều tháng chín, Cam-Địa đang cùng người bạn tranh đấu là Mohammed Ali tới nơi hội họp dân chúng, thì một tốp cảnh-sát Anh bắt Mohammed Ali điệu đi. Mấy hôm sau, người anh nhà lãnh-tụ Hồi-Hồi là Chaoukat cũng bị bắt nốt. Cả hai đều bị tuyên án 2 năm tù, vì tội hô hào dân Hồi-giáo tẩy chay việc đi lính cho Anh.
Tại sao người Anh cho bắt anh em Ali? Vì lúc bấy giờ ở miền duyên hải xứ Ma-La-Bà, dân Hồi bản xứ đang ra mặt chống lại chính-phủ địa phương Anh, và người Anh thì xui bẩy người Ấn chống lại người Hồi, nên giữa Ấn và Hồi đã xẩy ra nhiều vụ xung đột. Hai anh em nhà lãnh tụ Hồi đang định thân đến hoà giải hai dân tộc, để họ khỏi mắc mưu người Anh mà đánh lẫn nhau khiến bỏ lãng cả công cuộc chung đang theo đuổi, thì người Anh cho bắt anh em Ali để ngăn trở không cho họ đến Ma-La-Bà.
Những việc xẩy ra làm Cam-Địa rất lo âu, vì ông cho rằng nếu hai dân tộc Ấn và Hồi mà chia rẽ, thì không sao chống lại được với người Anh. Để lãng quên, ông đặt hết tâm trí vào công cuộc thúc đẩy dân chúng tẩy chay hàng ngoại hoá. Việc đó trở nên một ám ảnh với ông. Ông muốn rằng trong sự ăn mặc, người Ấn chỉ dùng toàn đồ nội hoá may lối cổ truyền. Nêu gương trước tiên, ông trút bộ quần áo vải thô ông còn mặc, để khoác một tấm phá độc nhất bằng vải thô dệt lấy, quần ngang hông; Rồi ông ở trần, đầu không mũ, vác trên vai một cái đẫy đựng bút mực giấy má, chuỗi tràng hạt, vài thứ đồ cần dùng cùng vài món lương khô. Cứ thế ông đi lang thang cổ võ cho phong trào bất hợp tác. Ông vui vẻ tự ví với kẻ ăn xin, tay chống gậy, vai vác bị, lê gót trên đường.
Cách phục sức của ông làm cho các đồ đệ vừa tức cười vừa giận. Nhưng nào ông có chú ý. Ông quấn phá đến Bombay dự cuộc hội họp sôi nổi của các lãnh tụ chính trị toàn cõi, để ấn định phương-sách đối phó với Anh. Ngày 5 tháng 10, Uỷ-ban chấp hành Đảng Quốc-hội quyết nghị rằng:
«Bổn phận mỗi người Ấn, dù quân nhân hay tư nhân, là phải tức khắc thôi hợp tác với người Anh để về tìm cách khác sinh nhai».
Đó là một lời kêu gọi đào ngũ không hơn, không kém. Chính anh em Ali cũng bị bắt vì những lời tương tự.
Thi hành luôn điều quyết định, các lãnh-tụ Đảng Quốc-hội trả lại chức tước cho người Anh rồi ai về địa phận người ấy, cầm đầu phong-trào không hợp-tác.
Giữa lúc tinh thần đôi bên cùng căng thẳng, thì Thái tử Anh sang Ấn. Nhà cầm quyền người Anh bẽ bàng tức giận, về nỗi dân Ấn không chịu tham dự cuộc đón tiếp. Không có một bóng dân trên con đường Thái tử đi qua. Họ rút vào trong nhà đóng cửa kín mít. Các cửa hiệu không bán hàng. Chợ không họp. Tại Bombay, những người Ấn xu nịnh, chờ nghênh đón Thái-tử Anh, bị dân chúng đánh dừ tử. Cam-Địa khản tiếng kêu gào dân chúng bình tĩnh đừng đổ máu. Ông nhịn ăn cho đến khi những cuộc bạo động chấm dứt mới thôi.
Chính-phủ người Anh bấy giờ nhất quyết ra tay hành động. C.R.Das, Motilal Nehru, Laypat Rai và hàng trăm đảng viên cao cấp khác của đảng Quốc-hội bị đem đi an trí. Tháng chạp năm 1921, Đảng Quốc-hội nhóm đại hội thường niên ở Ahméhabad trước những hàng ghế thưa thớt. Tính đến hôm ấy, 20 ngàn đảng viên đã bị cầm tù vì tội bất hợp tác, hay là xui dân làm phản. Khoá ấy Cam-Địa được bầu làm Uỷ-viên chấp hành độc nhất của Đảng.
Tới tháng sau, thêm 10 ngàn người Ấn bị tống giam về tội chính trị. Tại nhiều tỉnh, người cầm đầu phong trào đã bị bắt mà dân quê vẫn tiếp tục không nộp thuế. Công chức Ấn bỏ việc không kể xiết.
Chính phủ tức thì tăng thêm sự đàn áp. Cam-Địa cực lực phản đối những vụ bắt bớ giam cầm.
Thế là dân chúng lại trải qua một năm 1921 với những sự khổ cực vô biên, mà chưa thấy bóng hình nền tự-trị. Lại thêm sự chia rẽ đã phát hiện trong hàng ngũ Đảng Quốc-hội. Khuynh-hướng bạo-động dần dần lấn bước. Người ta ra mặt chế riễu đường lối tranh-đấu của Thánh. Họ cười Thánh hãy còn mải thú vui dệt vải, và chỉ chăm lo vào việc ăn uống tiết-độ thế nào cho bộ máy tiêu-hoá được khoẻ mạnh. Nghi ngờ sự hiệu quả của những cuộc khẩu chiến cùng bút chiến của Thánh, họ đòi phải thay chính-sách, vì thái-độ ôn hÒA không đưa đến đâu. Cam-Địa cố can ngăn.
Ông nói: «Người bất hợp-tác còn can-đảm hơn người bạo-động nhiều», hoặc «Người Ấn còn nhiều sứ-mệnh cao cả khác phải theo đuổi, chứ đâu chỉ có mục-đích trừng-trị những kẻ độc-ác trên đất này?»
Ông còn viết: «Bản ngã con người là sự ôn-hòa mực thước, còn hung-bạo chỉ là bản năng của con vật. Nếu bắt buộc phải dùng đến khí giới, thì ví dù chúng ta có thắng chăng nữa, lòng tôi cũng không thỏa nguyện. Tôn-giáo không dạy ta ghét bỏ người ngoại quốc. Tôi còn để lòng nhân lên trên lòng yêu nước của tôi».
Xem thế, ông thực đã trái hẳn với những người yêu nước thiển cận.
Muốn hiểu Cam-Địa đức độ là dường nào, ta đừng quên rằng nếu người Anh giữ trong tay Công-an và quân-đội, thì Cam-Địa lại có một thứ khí-giới ghê gớm hơn nữa, là hơn ba trăm triệu người, lòng tức giận đang sủi như chảo dầu sôi, chỉ một hiệu lệnh phát ra là lao đầu vào vòng chiến. Liệu một nhóm người Anh trong cái bể lửa ấy sẽ chống cự được bao lâu?
Cũng như Cam-Địa, Reading, Phó-vương Ấn là người đã tự tạo lấy đời mình. Lăn lộn đã nhiều, nên kiến-thức ông rộng-rãi, chứ không bo bo một mớ thành-kiến lạc-hậu như những nhà cầm quyền trước. Sinh ra trong một gia đình nghèo người Do-Thái, ông ta đã từ một chân bồi tầu lên đến chức Tổng-trưởng, rồi Phó-vương, trong triều đình Anh, mà hoàn toàn chỉ nhờ vào sức vóc của đôi tay và khối óc.
Bởi thế, các viên thuộc quan người Anh đã ngạc nhiên xiết bao khi thấy ông mời Cam-Địa gặp ông để trao đổi ý kiến.
Mọi người có ý không muốn cho Cam-Địa gặp Phó-vương, e rằng ông có thể bị Reading lung-lạc chăng? Nhưng ông không ngần ngại.
«Chúng ta có thể chống lại những biện-pháp, những chính-sách, nhưng không bao giờ nên công-kích cá-nhân. Chúng ta đã phải là những người gương mẫu chưa mà dám khắt-khe suy xét người ngoài? Nhất là lý do hành-động của người, dân ta đã biết?» Ông trả lời họ thế.
Reading từ lúc mới sang nhậm chức, vẫn ước ao có dịp được gặp Cam-Địa, mà ông cho rằng: «Có lẽ là một tay kiệt liệt lắm».
Gặp Cam-Địa rồi, ông viết cho con:
«Cha đã gặp Cam-Địa cả thảy 6 lần. Bề ngoài ông không có gì là đặc biệt. Ông ta đến, chỉ vận… độc một chiếc phá bằng vải thô quấn ngang người, và đội một chiếc mũ dệt bằng tay, còn thì mình để trần và chân dẫm đất. Nhưng đến khi ông ta nói, thì khác hẳn. Ông ta dùng tiếng Anh rất đúng mẹo, và cân nhắc từng câu từng chữ ý nhị vô cùng. Ý kiến tỏ bầy có vẻ rất thành thực. Nhất là khi bàn về những vấn đề tôn-giáo, ông ta tin tưởng một cách gần như cuồng dại rằng phong-trào bất hợp-tác cùng với bác-ái của quần chúng chắc chắn sẽ giải-phóng được nước Ấn. Những ý kiến về tôn-giáo và luân-lý của ông rất siêu-việt, song cha không hiểu cách thức ông ta sẽ áp dụng vào việc tranh-đấu chánh trị ra sao? Chúng ta đã đàm đạo với nhau một cách rất cởi mở. Cam-Địa tỏ ra có lễ-độ lắm, và dáng-dấp quả là con người lịch-sự».
Reading không hiểu đường lối chính-trị của Cam-Địa, điều đó không có chi là lạ. Thánh Cam-Địa bầy giải với Phó-vương những phương sách ông sẽ dùng để thắng người Anh:
«Phong-trào chúng tôi đang theo đuổi - lời Cam-Địa - là một phong-trào tôn-giáo, có mục-đích tẩy-trừ ở người Ấn tất cả những sự thoái hoá đáng khinh, như sự lọc lừa, khủng-bố và cái tâm-lý kém hèn của dân quê trước người da trắng».
Vậy Cam-Địa quy hết khả-năng tranh-đấu của dân tộc vào công cuộc cải-tạo tinh-thần; Việc xua đuổi người Anh đi không còn là mục-phiêu tối-cao nữa vì tự nó sẽ xẩy đến một khi dân tộc Ấn thực hiện được cuộc cách-mạng tinh-thần. Bởi thế, người Ấn sẽ từ chối không hợp-tác với người Anh, song sẽ tránh không dùng bạo-lực.
Nhiều người Ấn không tán thành chính-sách của Cam-Địa, song họ phục ông và quý ông, lại phải công nhận ảnh-hưởng lớn lao của ông trên quần chúng, nên đành khuất-phục trước ý kiến ông. Song, họ lấy làm lạ là tại sao ông chưa ra lệnh phát-động phong-trào bất hợp-tác trên toàn cõi? Ngày 4 tháng 11 năm 1921, ban chấp-ủy Đảng Quốc-hội chẳng đã chấp-thuận một bản kiến-nghị yêu cầu áp-dụng một phương-sách tương tự đó sao? Nhưng Cam-Địa buộc các lãnh-tụ phải cam đoan không được hành-động gì trước khi có sự thoả thuận của ông.
Cam-Địa định thí-nghiệm phong-trào bất hợp-tác toàn thể ở từng vùng một. Ông chọn vùng Bardoli, một quận độ 87.000 dân, ở gần Bombay. Trước hết, ông muốn tự mình chỉ-huy và kiểm-soát được phong trào vì e rời mình ra thì lại xẩy những sự bạo động đáng tiếc. Ngày 1 tháng 2 năm 1922, ông báo cho Reading biết trước ngày phong-trào sẽ nổi.
Tại sao ông chỉ quy hẹp phong-trào vào một vùng nhỏ bé như Bardoli?
Vì Cam-Địa tin tưởng rằng phong-trào bất hợp tác sẽ thắng nếu được chỉ huy và coi sóc cẩn thận, chứ quy mô của phong-trào chỉ là điều phụ. Phong-trào chỉ làm cho người Anh lo sợ, nếu có một sự thuần nhất đặc biệt, phản-chiếu ý chí đoàn-kết của dân chúng. Ngoài ra, dù chỉ có 100 ngàn người tham dự phong-trào, liệu người Anh có dám giết hết 100 ngàn người một lúc, hoặc có đủ nhà lao để giam hết lại chăng?
Vả lại, mục đích cuộc tranh đấu của Cam-Địa đâu phải là đánh quỵ Đế quốc Anh. Ông biết rằng muốn đạt mục đích ấy, phải dùng đến máu và sắt, tức là làm khổ dân Ấn một cách vô ích. Lại còn tai hại về sau nữa. Lẽ dĩ nhiên bên nào cũng phải đưa ra những kẻ cầm đầu quyết liệt, nghĩa là không bận tâm về những ý tưởng danh-dự và nhân-đạo, và không ngần ngại áp-dụng những phương-sách vô nhân-đạo. Như thế, dù bên nào thắng, cả hai dân tộc và cả thế giới đều phải chịu một sự thiệt hại thảm khốc vô cùng.
Bởi thế Cam-Địa chọn quận Bardoli làm trung tâm thí-nghiệm để tỏ cho người Anh biết rằng họ không thể vì cớ bất hợp tác mà bắn giết những dân cư hiền lành, lương-thiện, biết trọng kỷ-luật như dân Bardoli. Bao giờ Cam-Địa cũng muốn dẫn-dụ địch, đánh vào lương tâm cùng tình cảm họ. Ông không thích trông thấy cảnh máu chảy thịt rơi giữa hai địch thủ.
Vậy Bardoli đã sẵn sàng phát động phong-trào vào nhật kỳ đã định, thì việc xẩy ra làm đảo lộn cả chương trình hành động của Cam-Địa. Ngày 5 tháng 2, tại Chaouri Chaoura, cách Bardoli 800 dặm, máu lại chảy giữa người Anh và người Ấn. Cam-Địa thuật lại việc đó trong tờ Young India ngày 16 tháng 2 :
«Dân chúng đang đi rước trong thành phố thì bất chợt cảnh sát ngăn những kẻ chậm chạp chưa theo kịp đám đông lại mà hành hung. Họ kêu cứu rầm rĩ. Dân chúng tức thì quay lại. Bọn cảnh sát Anh liền nổ súng. Dân phát điên, cứ tiến bừa lên. Hết đạn, lính trốn vào Tòa Thị-sảnh. Dân đốt nhà Thị-sảnh. Lính bị hun, chạy ra người nào thì bắt giết người đó, và dân chúng ném xác vào đống lửa».
Cam-Địa rất dỗi buồn phiền về cuộc đổ máu. Ông kêu lớn:
«Không một lý do gì có thể rửa sạch vết nhơ trong lương tâm dân chúng đã đang tâm giết một nhóm người không còn khí giới».
Theo ông, đó là một điềm gở cho phong-trào sắp phát động.
Ông liền ra lệnh bãi bỏ phong-trào bất hợp-tác ở Bardoli:
«Thà rằng bị chê cười hèn nhát, cũng còn hơn là phạm vào lời chúng ta đã thề nguyện với lương tâm là không bao giờ làm trái đạo Trời».
Mấy nhân viên Ủy-ban Chấp hành Đảng không đồng ý với ông, Ông cũng nhất định với họ rằng sự đảo lộn bất ngờ đó rất hại cho uy-tín của Đảng, song ông tin rằng ông đã làm phải, trên lập-trường tôn-giáo. Theo ông, vụ Chaouri Chaoura đã cho ta thấy rõ con đường mà Ấn-Độ sẽ theo (nghĩa là con đường bạo động), nếu ta huy động những khối lớn dân chúng mà chưa đủ phương sách ngăn ngừa những phần tử vô trách nhiệm lẩn lút trong đám đông xui bẩy quần chúng làm điều tai hại. Đảng Quốc-hội có bổn phận hãy tự dạy dỗ mình dạy dỗ quần chúng trước đã.
«Riêng tôi - Cam-Địa - tôi phải nhịn ăn để sám hối những điều xảy ra mà tôi đã không biết liệu định, ngăn ngừa nổi. Tôi cần phải thanh sạch trong mình để lập được cho linh hồn những sợi dây cảm thông với linh hồn quần chúng, ngõ hầu linh cảm được mọi điều biến đổi trong linh hồn đó để liệu trước mà ngăn ngừa».
Giữa lúc ấy, bên phía người Anh, cũng có sự bất đồng ý kiến giữa các nhà cầm quyền về việc đối phó với phong trào bất hợp tác sắp phát động tại Bardoli. Nhiều người đòi bắt giam ngay Cam-Địa vì họ cho rằng sự bất hợp tác chỉ là mưu gian che đậy một vụ nổi loạn toàn thể. Nhưng Phó-vương Ấn thận trọng hơn. Những bài diễn văn nẩy lửa của Cam-Địa chưa làm ông quan tâm. Ông đợi khi nào Cam-Địa hành động, nghĩa là khởi phong trào bất hợp tác, mới liệu định; Nhưng ông không vì thế mà tỏ ra kém cương quyết. Ông tuyên bố là nếu cần, ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về việc bắt Cam-Địa.
Tuy nhiên, dưới áp lực của viên Bộ-trưởng Ấn-Độ vụ, Reading đành phải hạ lệnh bắt Cam-Địa. Cam-Địa vui vẻ theo nhân viên Cảnh sát vào nhà ngục tỉnh Sabarmati. Về phần Lord Reading, ông cũng được yên lòng vì không thấy dân chúng tỏ phản động lực gì về việc Cam-Địa bị bắt. Thực ra, về phương diện chính-trị, Cam-Địa đã hớ khi bãi bỏ phong trào bất hợp tác ở Bardoli. Ông đã hạ khí giới để cho người Anh được tự do bắt mình. Nhưng đã từ lâu ông biết thế nào cũng có ngày này, nên ông đã sửa soạn dân chúng trong nhiều bài báo. Ông khuyên họ nên nhẫn nại. Trong số báo ngày 9 tháng 3 của tờ Young India, ông viết:
«Những suối máu chính-phủ khơi ra không làm tôi sợ hãi, nhưng tôi sẽ buồn phiền biết bao, nếu dân chúng vì cảm tình với tôi mà nổi loạn chống lại chính-phủ. Tôi không muốn thấy dân chúng mất bình tĩnh chỉ vì tôi bị bắt».
Ra trước Tòa án, ông bị buộc tội đã viết 3 bài báo xúi gục dân chúng nổi loạn. Vì thế ông S. G. Banker, chủ nhà in, người ấn loát tờ Young India, cũng bị buộc tội đồng lõa với Cam-Địa. Phiên tòa cực kỳ sôi nổi. Quân lính được lệnh canh phòng nghiêm mật khắp nơi. Sau khi đọc bản cáo trạng, quan Tòa hỏi Cam-Địa có muốn tuyên bố gì không? Ông bèn đứng lên dõng dạc tố cáo lại những người vừa buộc tội ông. Ông nói rõ nguyên do làm sao đặng là một công dân trung thành, đầy lòng tin tưởng ở tình thân Anh-Ấn mà đến nỗi phải chủ trương bỏ hết mọi sự hợp tác với người Anh. Ông nhắc lại những hành vi của người Anh ở Nam-Phi. Hành vi đó đã làm ông phải nghĩ. Phải chăng chỉ vì ông là người Ấn nên không được hưởng một quyền lợi nào của người dân tự do chăng?
Tuy nhiên, không vì thế mà ông thôi hợp tác với người Anh, hai lần ông tình nguyện đầu quân và mộ lính cho Anh. Ông tin tưởng rằng làm như vậy sẽ cảm hóa được lòng người Anh, khiến họ sẽ tự ý cởi mở gông cùm cho đồng bào ông vậy. Song từ năm 1919 trở đi thì luôn luôn có sự đụng chạm giữa hai dân tộc. Tại sao? Vì người Anh càng ngày càng có cử chỉ khinh miệt người Ấn nào là vụ tàn sát ở Yallianoualla, nào là những đạo luật phản dân chủ Rowlatt, nào là cách báo thù hèn nhát của Dyer, v.v… Tuy nhiên, ông vẫn cố tin tưởng ở sự thức tỉnh của lương tâm người Anh, một ngày sẽ tới. Vì thế ông mới khuyên dân chúng chấp nhận các đạo luật cải cách Montagu Chelmoford. Nhưng ông đã tốn công vô ích. Và nay ông đã phải đi tới kết luận là sự hợp tác với người Anh chỉ đem lại cho dân tộc Ấn những mầm thất vọng sâu cay, người đã làm cho Ấn suy nhược, đến nỗi một xứ đất đai rộng lớn phì nhiêu, dân cư chăm chỉ hiền lành như Ấn mà mỗi năm phải hiến cho Thần Đói hàng triệu sinh linh. Những việc người Anh đã làm tại Ấn là những tội phạm đối với nhân loại. Rồi ông tiếp:
«Tôi vinh dự vì được kết án về tội đã viết những bài báo đó. Và tôi nhắc lại rằng tôi nhận hết tội lỗi, cái tội đã đoan quyết với dân tộc tôi rằng sự bất hợp tác với kẻ ác còn là một bổn phận ngặt nghèo hơn là hợp tác với người ngay».
Kết luận, ông đòi được xử với tất cả nghiêm ngặt của luật pháp.
Sau khi ông ngồi xuống thì thẩm phán Anh đứng lên, nghiêng mình về phía ông mà nói:
«Mặc dầu luật pháp không biết phân biệt cá nhân những kẻ tội phạm, tôi cũng xin nói với ông rằng tôi không thể nào không nhận thấy ông đã được hàng triệu đồng bào ông coi như một nhà ái quốc nồng nhiệt, và một vị lãnh đạo siêu quần. Và chính những người không đồng quan điểm với ông như chúng tôi đây, cũng phải nhìn nhận rằng ông đã phụng sự những tư tưởng cao siêu, và đã có một quan niệm trác việt về đạo nhân sinh».
Rồi ông tuyên án phạt Cam-Địa 6 năm tù giam. Ông Banke, ấn loát tờ Young India, cũng bị phạt 1 năm tù và một ngàn đồng Roupies tiền vạ.
Sau khi nghe tuyên án, Thánh Cam-Địa đứng dậy, và nói rằng ông rất vui mừng thấy pháp-luật người Anh đối với ông ôn hòa đến thế, Ông lại trân trọng cảm ơn thái độ hòa nhã của quan Tòa.
Khi các viên thẩm phán rời khỏi phòng án, thì dân chúng đổ xô lại phục dưới chân ông. Có người bíu gấu áo ông mà khóc nức nở. Sau khi an ủi mọi người, ông theo lính gác xuống nhà giam, trên môi vẫn không rứt nụ cười hiền hậu.
Vì ông coi thường sự giam cầm. Ông còn yêu thích nhà giam là đàng khác nữa. Tù tội là một trong những căn bản nền móng của thuyết bất hợp tác. Ông thường nói:
«Chúng ta hãy yêu cầu mở rộng cửa nhà giam, để chúng ta bước vào với tất cả tấm lòng hân hoan của chàng trai vén rèm bước vào buồng cưới. Nhà giam chính là nơi mà dân tộc chúng ta hun đúc rèn luyện ý chí để đấu tranh».
Cho nên người Anh càng làm tù ông bao nhiêu, ông càng vỗ đùi khoái chí bấy nhiêu.
Chương 17
BỆNH NÃO VÀ TUYỆT THỰC
Đêm hôm 12 tháng giêng năm 1924, Thánh Cam-Địa được chở từ nhà ngục Yeravda đến nhà thương Sasseon của thành phố Paona. Các thầy thuốc xem thấy ông mắc bệnh đau ruột thừa, và cần phải mổ ngay thì mới sống được.
Người ta chỉ còn nhờ các nhà giải-phẫu Ấn ở Bombay đến mổ cho ông. vì nhà đương cuộc Anh tỵ hiềm, không muốn để cho Anh mổ, e xẩy việc thì gây sự nghi ngờ trong trí óc quần chúng Ấn. Song vì bệnh cấp quá nên viên thầy thuốc Anh là Đại-tá Maddock nhận trách nhiệm mổ lấy cho ông vậy.
Trong khi đang mổ, thì trời nổi cơn giông bão, các đèn đều tắt. Còn chiếc đèn bấm, thì dùng một lúc lại hết điện. Về sau, phải nhờ đến ánh sáng một cây đèn bão, thầy thuốc mới làm xong được nhiệm vụ.
Cuộc cấp cứu đã có kết quả hoàn-toàn mỹ-mãn, và Cam-Địa nhiệt-thành cảm tạ viên thầy thuốc Anh đã cứu sống ông. Song vì ông yếu quá, nên vết mổ thành nhọt, mãi mới hàn khỏi, nên Chính-phủ Anh quyết-định tha ông, để khỏi mang trách nhiệm làm chết ông trong nhà giam.
Được trả trự do, Cam-Địa liền chọn một nơi bờ biển mát mẻ quang-đãng gần Bombay để làm nơi tĩnh dưỡng. Ở đây, ông vui chơi đàm-đạo cùng các đồng chí và các đồ-đệ quây quần tụ họp quanh ông. Từ xưa, ông vẫn thích nghề làm thuốc. Nay đang dưỡng bệnh, lại gặp lúc rỗi rãi, ông bèn đứng ra làm thầy lang chữa bệnh cho các đệ-tử ốm-yếu. Ông bắt họ đắp nước lạnh dán cao, và ăn những món kiêng khem kỳ cục. Những người ốm, và cả ông nữa, đều thấy sức lực trở lại dần dần, có lẽ không phải vì thuốc, mà là vì được ở nơi thoáng khí, tinh-thần sảng khoái bởi sự nói cười vui vẻ.
Ông lại dần dà trở về con đường tranh-đấu. Các lãnh-tụ Đảng Quốc-hội như C. R. Das và Matilal Nehru thường đến Yenhere luôn để thảo-luận với ông về tình hình trong thời gian 22 tháng ông vắng mặt. Bấy giờ tình thân mật giữa người Ấn và người Hồi, mà Cam-Địa đặt tất cả hy-vọng tương-lai, nay đã trở nên tình thù ghét. Trước kia, phong-trào nâng đỡ ngôi Thổ-nhĩ-kỳ làm hai bên kết, song phong-trào ấy đã tận chung bởi tay Mustapha Kemal Pacha đã bãi bỏ quốc-vương để làm người chủ mới của nước Thổ-nhĩ-kỳ. Kemal là một chính khách rất khôn ngoan. Ông phát động phong-trào duy-tân, để đế-quốc Thổ-nhĩ-kỳ thành một nước cộng-hòa tân-tiến theo kiểu mẫu các nước Tây-phương. Quốc-vương Thổ đã mất ngôi, thì phong trào cũng có ngôi-báu Thổ-nhĩ-kỳ cũng mất lý do tồn-tại. Và khi phong-trào đó thở hơi cuối cùng, thì sự liên kết giữa người Ấn và người Hồi cũng suy yếu dần, và không bao lâu thì sự tranh chấp cổ truyền giữa hai tôn-giáo lại bắt đầu xuất hiện.
Một mặt khác, phong-trào bất hợp-tác cũng tàn lực mất rồi. Một nhóm luật-sư đã công nhiên mở cửa văn phòng của họ. Có kẻ lại tiếc là bị thiệt hại quá nhiều trong thời kỳ tự ý bỏ khách, về quê. Hàng trăm học sinh nam nữ ngày ngày trở lại xin tái nhập học đường. Ngay chính các đảng viên Đảng Quốc-hội, những người chủ xướng phong-trào, cũng tỏ vẻ muốn trở lại những ghế đại-biểu của của họ ở các hội đồng hành chính hay lập pháp, để có thể phá rối một cách công nhiên những đề án của chính-phủ đưa ra bàn cãi.
Bởi thế, cuối năm 1922, Das và Metilal Nehru khởi xướng một phong-trào chính-trị mới khác phong trào bất hợp-tác ở chỗ đòi hỏi chính-phủ Anh phải ban hành ngay nền tự-trị ở Ấn. Bị đặt trước sự đã rồi, Cam-Địa phải thỏa-thuận cùng với các lãnh-tụ nói trên về sự dung hòa các quan-điểm hành-động và bất-động. Ông không muốn trong hàng ngũ Đảng Quốc-hội có sự chia rẽ giữa những người bênh vực những quan-điểm khác nhau.
Nhưng Cam-Địa vẫn tin tưởng ở phong-trào bất hợp-tác. Trong báo Young India, ông vẫn khuyên dân chúng tẩy chay các trường học, các tòa án, các công sở, cùng các sự khen thưởng của người Anh. Song đồ đệ ông không còn hăng hái như xưa. Xa ông, chí khí họ đã nhụt. Mọi sự hy-sinh trở nên đau khổ. Trái lại, đường lối của phái Tự-trị do Matilal Nehru và C. R. Das cầm đầu có vẻ quyến rũ hơn nhiều. Họ được tự do tranh cử vào các hội-đồng. Họ được công nhiên bàn cãi và chỉ trích các đề án Chính-phủ đưa ra.
Thấy các lãnh-tụ chính-trị ra khỏi con đường đã cùng nhau thỏa-thuận, ông tự thấy không còn giúp ích được gì cho cuộc tranh-đấu hiện tại nữa, và ông quyết định tạm lánh khỏi trường chính-trị mấy năm để rảnh thì giờ ra dụ dân chúng tự hoán cải đời sống tinh thần, ngõ hầu đúc luyện được cái sức mạnh mà quốc gia trông đợi ở họ. Theo ông, hễ dân tộc Ấn mà trở nên mạnh mẽ mạnh mẽ vì những đức tính trong sạch thanh cao chứ không phải vì lực lượng vật chất thì tức khắc người Anh phải cởi mở cho họ tiến ra ánh sáng Tự-do.
Cam-Địa còn gắng sức hàn gắn lại tinh-thần đã rạn vỡ giữa hai dân tộc Ấn, Hồi. Tất cả số tạp-chí Young India ngày 29 tháng 5 ngày 1924 của ông dành cho vấn đề khẩn trọng đó.
Dưới nhan đề: «Tại sao có tình trạng căng thẳng giữa hai dân tộc Ấn, Hồi? Làm cách nào giải được sự hiểu lầm?», ông lần lượt trình bày những điều người Ấn trách ở người Hồi, và những điều trách móc của người Hồi đối với người Ấn. Rồi ông nhắc độc giả chú ý tới những cuộc xô xát giữa hai dân tộc. Ông cho là bởi dân chúng xa lìa phong-trào bất hợp-tác nên mới xẩy ra các việc đó. Phong-trào bất hợp-tác là sợi dây buộc giữa hai dân tộc. Nếu rứt bỏ nó đi thì làm chi mà chẳng sinh ra mâu-thuẫn. Tình trạng hiện tại là một triệu chứng tỏ rõ cho ta biết hễ xa phong-trào bất hợp tác dân chúng trở lại với bản ngã bạo động rồi. Rồi ông hỏi; làm cách gì để dân chúng trở lại với lòng tin tưởng ở phong trào bất hợp tác? Và trả lời: Cứ hành động rồi sẽ tin. Dân chúng cứ bất hợp tác đi rồi sẽ thấy ngọn lửa thiêng của lòng tin tưởng lại nhóm cháy trong lòng.
Bài báo của Cam-Địa dài 6.000 chữ, và chứa chấp tất cả lòng ông, Ông tin ở tình thân mật thiên nhiên của hai dân tộc đối với nhau. Họ không thể nào ghét bỏ nhau mãi được. Tại sao? Bởi vì họ cùng là người cả, mà giữa loài người và loài người, thì ghét nhau làm sao được. Chúng ta không thể giết nổi được một loài sinh vật nào, dù nhỏ bé đến đâu, thì ghét sao được người đồng loại của mình.
Tiếp tục xét nhận những điều có thể gây xích mích giữa hai bên, ông nhận thấy điều lỗi ở phía người Ấn nhiều hơn là ở phía người Hồi. Hai nguyên nhân mâu thuẫn lớn nhất là việc giết bò và vấn đề âm nhạc. Ông viết:
«Vẫn biết bò là một loài vật mà tôn giáo bắt buộc chúng ta (người Ấn) phải tôn thờ. song tôi thiết nghĩ can chi chỉ một việc người Hồi giết thịt một con bò cũng làm chúng ta điên cuồng sôi nổi? Các bạn chẳng hàng ngày thấy người Anh giết bò ăn thịt đó sao? Và sao các bạn không phản kháng? Như thế đủ hiểu lấy điều giết thịt một loài mục súc làm điều thù ghét dân Hồi, thì thực các bạn đã ngã vào sự phi lý. Vả chăng, bạn thấy ở các vùng quê ta, hàng đàn bò thả rông, không người chăm nom, trông thực thảm thương? Bạn sùng kính chúng mà lại để chúng đói đến thế ư? Rồi bạn lại đem bán cho người Anh giết thịt, thì có khác chi bạn sát sinh chúng bởi chính tay mình?»
Còn về vấn đề rước sách thì ông lấy làm công phẫn về nỗi người Ấn cứ nhè buổi trưa, trong lúc người Hồi làm lễ cầu nguyện Thánh Allah ở đền, là cố ý rước qua, đàn sáo chiêng trống inh ỏi, gây sự ngăn trở cho những người đang thành niệm.
Nhưng có điều ông quên, hay không muốn nói đến là những nguyên do kinh tế của vấn đề. Bấy giờ, cùng với sự trỗi dậy của mấy chục triệu người Hồi ở Thổ, dưới sự thúc đẩy của tướng Mustapha Kemal, khắp miền Nam-Á, một phong trào Hồi-giáo đang bành trướng, mục đích từ bỏ cuộc đời du mục trên các bãi sa-mạc héo hon, tìm lối len chân vào các tỉnh thành để làm ăn buôn bán, hay kiếm một chức vụ trong các công sở địa phương.
Chúng ta đừng nên quên rằng ở một xứ kinh tế phôi thai như Ấn, những chức vụ công được coi như những địa vị đem lại quyền thế cùng bảo đảm tương lai cho người giữ chức. Lẽ dĩ nhiên người Ấn không ưa gì sự cạnh tranh chớm nở của người Hồi. Lại thêm, và đó là sự thực. họ có một trình độ học thức cao hơn người Hồi, nên thường được ưu thế trong việc tuyển chọn người vào công sở.
Chính Cam-Địa cũng công nhận rằng người Ấn phải được coi trọng hơn người Hồi trong phạm vi này. Ông nói:
«Muốn làm trọn các nhiệm vụ người dân trông cậy ở họ, các ngành hành chính phải do những người tài năng học thức đảm đương. Không có thể có sự nâng đỡ riêng tây, hay sự mặc cả phân chia trong việc tuyển bổ công chức. Nếu chúng ta cần 5 kỹ sư lành nghề, chúng ta không thể lấy ở mỗi phái một người, để làm vừa lòng toàn thể. Chúng ta có thể lấy cả 5 người Hồi, nếu trong số người Ấn và người Parsi không có ai tài giỏi».
Ngoài ra, ở cái xứ mà ánh nắng thiêu đốt kích thích mọi tâm trí đến cực điểm, nhất là những thành phố lớn như Bombay, Calcutta mà hàng triệu người chen chúc trong mọi kẽ ngách, chỉ bé cũng đủ xé ra to. Xem những vụ biến động luôn luôn xảy ra trong mấy năm vừa đây, thì ta rõ ảnh hưởng của khí hậu cùng với lòng bực dọc do sự sinh sống khó khăn đã biến mỗi đô-thị Ấn thành một chảo dầu sôi.
Đã quyết định tìm đủ mọi phương sách để giải quyết tình trạng bất hòa giữa hai dân tộc Ấn và Hồi, ông liền nhịn ăn luôn 21 hôm.
Ông biết rằng nhịn như thế không khác gì tự vẫn. Vì năm nay ông đã 55 tuổi rồi. Ông vừa khỏi vết mổ trong người. Và mấy chục năm trời làm việc không tiếc sức, nay dấu hiệu mệt mỏi đã in trên nét mặt khổ hạnh của ông. Và tinh thần ông cũng chẳng được yên vui.
Tháng 6 vừa qua, khi đa số đảng viên nghiêng về thuyết tích cực hành động, mà gác bỏ những lời ôn hòa ông khuyên nhủ, ông đã mủi lòng khóc ngay tại hội-nghị trước mặt họ. Những vụ đổ máu liên tiếp giữa người Ấn và người Hồi càng làm ông thêm buồn phiền. Ông biết rằng lần này tuyệt thực, ông không còn hơi sức đâu chống với Thần Chết được nữa. Và mặc dầu ông không muốn chết - chết làm sao được khi ông còn bỏ dở bao nhiêu việc phải làm - ông cũng phải cực lòng nhìn nhận rằng bổn phận của ông là phải hy-sinh hết thẩy cho nhân loại mà ông yêu quý.
Bởi vậy, ngày 18 tháng 9 năm 1924, ông nhất quyết nhịn ăn đủ 21 ngày để hòa giải người Ấn và người Hồi.
Vốn tính thực-tế, ông dàn cảnh thực là khéo léo. Ông nhịn ăn ngay tại nhà một đồng chí người Hồi là Mohammed Ali, em ruột lãnh tụ Chaoukat Ali. Mohammed Ali cũng như ông, là một trong những lãnh-tụ nồng-nhiệt nhất bênh vực tình thân-ái giữa người Ấn và người Hồi. Cam-Địa đã viết rằng tình-trạng hiện nay phần lớn do ở lỗi của người Ấn, song trong thâm tâm ông, ông tin rằng chính những người Hồi cũng chẳng rộng rãi gì hơn các đồng bào ông. Ông thấy có bổn phận phải cảm hóa cả người Ấn lẫn người Hồi để họ có thể cởi mở cỏi lòng để đón chào những tư tưởng rộng rãi cao siêu hơn là lòng tự ái hay danh lợi thường ngày.
Khi bắt đầu tuyệt thực, ông có nói mấy lời tâm huyết sau đây:
«Từ trước tới nay, cả người Ấn lẫn người Hồi đều không thèm đếm xỉa đến những lời tôi kêu gọi họ hãy dẹp bỏ bất bình để cùng nhau sát cánh chiến đấu cho lý tưởng chung. Bởi vậy, tôi nhất quyết nhịn ăn 21 hôm, bắt đầu từ hôm nay. Tôi sẽ chỉ uống nước lạnh hay nước muối. Tôi tha thiết cầu xin các lãnh tụ hãy gặp nhau, và nhường nhịn lẫn nhau để sớm chấm dứt cuộc tranh chấp, để tránh một tội ác đối với tôn giáo và đối với toàn thể nhân loại. Chúng ta đã xua đuổi Thượng-Đế khỏi trái tim ta. Vậy ta hãy mở rộng tấm lòng thành kính đón ngài trở lại, để dọn bóng soi đường cho những bước đi lầm lỗi của chúng ta».
Mười hai ngày sau khi tuyệt thực, Cam-Địa trao mấy lời ông gượng viết sau đây cho báo chí:
«Từ trước tới nay, chúng ta đã chịu bao nhẫn nhục đau thương để tranh đấu, hòng cảm hóa tấm lòng người Anh đang cầm vận mệnh Tổ quốc chúng ta. Chúng ta đã thất bại. Thì nay, chúng ta hãy cố gắng để tự cảm hóa mình. Trước khi đòi hỏi Tự-do, chúng ta hãy tự hỏi lòng đã đủ cao thượng chưa, hiểu biết lẫn nhau để gợi lẫn ở nhau tấm lòng tin cẩn mà nếu thiếu thì loài người chỉ là những thú vật gầm ghè làm hại lẫn nhau».
Ngày thứ 20, ông đọc tội nguyện sau đây:
«Không bao lâu nữa, tôi sẽ từ giã cái thế giới bình lặng của tâm hồn để trở lại cuộc xâu xé. Càng nghĩ tới, tôi càng thất vọng. Tôi tự cảm thấy đến lúc phải bó tay. Chỉ có Đức-Thượng-Đế là có thể ban phép cảm hóa được người đời thôi. Hỡi Đấng cao xa, hãy làm tôi trở nên vật hữu dụng của người và cho tôi linh cảm được ý của người, ngỏ hầu tìm được phương-châm hành động, Thế nhân thực là nhỏ bé. Vị vương anh dũng kia, đã làm rung động cõi Âu-châu dưới gót ngựa của mình, mà một sáng đã thấy đang sống số phận kẻ tù đồ trên hoang đảo. Đó là ý muốn của Trời. Ta hãy lấy đó làm gương sáng, mà đừng bỏ thái độ nhún nhường tự hạ».
Tối hôm đó, theo lời một người thân cận, Thánh Cam-Địa rất tỉnh táo và vui vẻ. Thánh nằm trên tấm ghế ngựa kê trên sân thượng, lúc ấy sáng loáng ánh trăng. Chung quanh quây quần bạn bè thân tín. Họ cúi đầu lâm râm cầu nguyện. Rồi từng người một, im lặng lui ra để Thánh nằm một mình, y nguyện tại chỗ.
Ngày thứ 21, và là ngày cuối cùng của thời gian tuyệt thực:
«Gần 4 giờ sáng, chúng tôi được đánh thức dậy để cầu kinh - vẫn lời người thân tín - trăng đã lặn, và trời tối sầm. Gió rét căm căm. Thánh nằm một mình trong tấm chiên ấm áp. Tôi hỏi người có được an giấc chăng?»
Thánh trả lời: «An lắm». Chúng tôi sung sướng thấy tiếng Thánh đã mạnh mẽ chứ không yếu ớt như sáng qua. Buổi cầu kinh sáng hôm đó vô cùng cảm động. Lúc cuộc tuyệt thực chấm dứt, nghĩa là đúng 12 giờ trưa, Thánh gọi chúng tôi lại quanh giường. Người bảo:
«Ta muốn bạn Iman (một người Hồi) đọc cho ta nghe một đoạn kinh Coran. Rồi bạn Andrews hát cho ta nghe một bản Thánh Ca, bản mà ta vẫn thường ưa thích. Sau rốt, Vinoba sẽ đọc kinh Oupanichads và bạn Balkrichna hát bản Vaichnava…»
Đúng ngọ thì trước mặt đông đủ các lãnh tụ chính trị Ấn và Hồi, cùng mọi người trong nhà, từ các vị thầy thuốc cho đến các gia nhân, Thánh Cam-Địa cất giọng khuyên nhủ mọi người. Tiếng người yếu quá đến nỗi chỉ ai quỳ sát bên giường mới nghe thoảng được đôi lời. Thánh muốn rằng mọi người hãy hy sinh hết thảy cho lý tưởng nhân đạo, dù phải dâng cả tính mạng cũng chẳng nề hà. Các lãnh tụ Hồi cảm động nhắc lại những lời họ đã hứa cùng Người. Rồi ai nấy đều hát khúc Thánh ca xưng tụng tình nhân loại. Cuối cùng thì bác sĩ Ansari đem lại một tách nước cam tươi. Khi Thánh nhấp môi vào miệng tách nước cam tươi. Khi Thánh nhấp môi vào miệng tách thì mọi người biết rằng tuần 21 ngày tuyệt thực của Người đã chấm dứt.
Chương 18
MỘT NĂM LẶNG TIẾNG
Cuối năm 1924, tình trạng nước Ấn cũng giống như tình trạng thông thường của mọi nước sau cuộc chiến-tranh. Thời tranh-đấu sôi nổi đã qua, và người Ấn thả mình trôi theo những thú vui cùng danh lợi dễ dàng. Cuộc tuyệt thực thực 21 ngày cũng không đem lại kết quả khả quan. Các nhà lãnh-tụ dẫu đầy thiện chí, song cuộc xung đột vẫn âm-ỉ giữa hai khối Ấn, Hồi.
Đối với Cam-Địa, tình trạng đó không thuận tiện cho một cuộc thảo luận với người Anh. Ông bèn quay về một chương trình cũng cố lực lượng tinh thần của dân chúng, hòng dùng đến về sau. Ông vẫn chủ trương hòa giải Ấn, Hồi, giải-phóng giai-cấp triện-dân và cổ-võ phong-trào nội-hóa.
Ông vẫn không tán thành việc tham dự vào các hội đồng chấp-hành hay lập-pháp địa-phương. Ông thường nói:
«Nếu tự-trị sẽ đến, khi nào tất cả chúng ta đều có đủ khả năng chống lại cường quyền».
Ông cũng biết là phái trí thức ái-quốc Ấn dù mến chuộng ông song không đồng ý cùng ông về đường lối tranh-đấu. Ông không lấy thế làm phật ý. Ông chỉ nói:
«Tôi nhận xét thế thôi. Để tỏ rằng sức cảm hóa đồng bào của tôi chỉ có hạn».
Ông chê phái trí-thức hay chia bè phái. Vì họ tranh-đấu cho họ, để nắm được quyền-binh, hơn là tranh-đấu cho dân chúng. Ông thường nói:
«Họ hoạt-động từ trên xuống dưới. Tôi hoạt-động từ dưới lên trên».
Ông lại trách họ không chịu ủng hộ phong-trào cổ động dùng hàng nội hóa của ông:
«Họ không hiểu rằng đó là một dây liên lạc vô hình nhưng độc nhất vô song sẽ làm cho đại chúng cảm thông được với họ».
Một nhà tôn-giáo Mỹ một hôm hỏi ông điều gì thường làm ông lo lắng nhất cho tương-lai dân tộc? Ông trả lời: «Lòng khô-khan vụ lợi của những người trí-thức».
Nhưng ông vẫn nuôi ý tưởng cảm hóa được phái trí thức Ấn, một ngày kia. Ông cho rằng chỗ của ông không phải là ở địa vị lãnh tụ Đảng Quốc-hội. Ông không muốn đánh vào lý trí của họ. Ông muốn đi thẳng vào trái tim của họ, mà ông đã cảm hóa được hồi năm 1915 và 1919. Bởi thế ông từ chức lãnh đạo chính trị của phong trào giải phóng.
Người ta muốn giữ ông ở lại, lấy cớ rằng rời bỏ trường chính trị thì ông không còn uy tín mạnh mẽ trong dân chúng nữa, vì ông không có lập trường hoạt động. Ông trả lời:
«Uy tín đâu có thể tìm cách gây được, và tự do giữ được? Nếu lấy được lòng dân, thì uy tín khắc đến với mình, và khi ấy thì không phải giữ, cũng tồn tại với mình mãi mãi».
Thực vậy, ông không hoạt động gì về chính trị mà uy tín ông vang dậy khắp cõi Ấn. Suốt năm 1925, ông đi khắp nước, lặn lội tìm đến những nơi xa xôi hẻo lánh nhất để tiếp xúc với dân chúng. Nhưng lần này các đồ đệ ông nhất định không chịu để ông đi xe hỏa hạng cuối như ông muốn nữa. Họ ép ông lên toa hạng nhì. Ông cũng bằng lòng, không phải vì chỗ ngồi rộng rãi mát mẻ hơn, mà là vì trên toa hạng nhì ông có đủ chỗ ngồi viết lách; Vì rằng, dù ở nơi nào, hàng tuần ông vẫn không quên gửi bài về đăng trên mấy tờ tạp chí của ông. Đi tới đâu, ông cũng bị hàng trăm ngàn người vây bọc chào đón tưng bừng. Ông than phiền là không lúc nào được dân chúng để yên, dù là khi tắm rửa. Chân tay ông xây xát vì dân chúng ôm lấy mà hôn. Ông phải bôi thuốc mỡ vào ống chân, Toàn thể một bộ lạc ở miền núi kia muốn xin ông cho một bức chân dung để tôn thờ làm tượng. Ông cho sự sùng bái ấy là thừa : «Tôi có phải ông Thánh đâu?» Nhưng dù ông muốn nói thế nào, dân chúng cũng coi ông như hiện thân của Đức Phật, của Thượng-Đế như thần Krichna. Từ những nơi làng mạc xa xôi, ở tận cùng những bãi cát khô khan, hay thẳm trong núi tuyết băng che phủ dân chúng ùn ùn kéo tới để sùng niệm ông như sùng niệm một vị Thánh giáng phàm. Nhiều khi, phải khó nhọc mới đưa được ông ra khỏi đám đông, vì sợ ông bị công chúng xô đẩy nhau mà dẫm chết.
Noi về việc cổ động canh cửi thì nhiều người cho đó là một sự ám ảnh đối với Cam-Địa. Ông cho việc canh cửi là hoạt động cổ truyền của người Ấn. Nước Ấn từ xưa vẫn sống đầy đủ về nghề trồng bông và dệt vải. Không ai thiếu ăn thiếu mặc. Vậy mà từ ngày văn minh vật chất xuất hiện trên đất Ấn, cùng với sự hiện diện của người Anh, thì nghề nghiệp của ông cha hình như bị dân gian sao nhãng. Mỗi năm, hàng vạn người chết đói, là vì người Ấn đã bỏ phí mất nguồn lợi thiên nhiên của mình.
Phái trí thức nhiều người chế giễu phong trào chấn hưng nghề dệt của Cam-Địa. Họ cho rằng vải dệt bằng tay thô thiển, mặc sao cho tiện. Có kẻ lại cho rằng vải đó chỉ nên dùng làm vải liệm.
Tuy công dụng của phong trào dệt cửi không có kết quả kinh tế rõ rệt, song ai cũng phải nhận rằng nhờ phong trào dệt mà Cam-Địa thức tỉnh được người dân Ấn. Có mặc những thứ vải thô do chính tay họ dệt nên, họ mới nhận thức được giá trị của những vật chính tay mình gây nên; Đồng thời, họ sẽ công phẫn trước sự xa hoa phí phạm của những kẻ bám vào người Anh mà cầu bả vinh hoa phú-quý. Họ sẽ biết so sánh sự bần hàn hiện tại của người cùng dân Ấn với những lầu ngọc nhà vàng của bọn phong kiến, hiểu rằng tất cả những sự phù phiếm, mà trước đây họ nhìn ngắm với con mắt thèm thuồng kính phục, kỳ thực chỉ là loài ma quái đâm chồi nẩy rễ trên xương máu của đám dân đen.
Tất cả những sự hoạt động liên miên đó làm cho Cam-Địa ngày thêm suy yếu. Mỗi ngày ông họp dân chúng tại bốn, năm nơi khác nhau. Ông tiếp tất cả những người bốn phương kéo đến để hỏi han ông, từ những vấn đề chính trị lớn lao cho đến công chuyện riêng tây. Ông thức hàng đêm trắng để trả lời thư từ điện văn gửi đến chất thành từng đống. Lại thêm dầu dãi nắng mưa, khiến ông càng thêm mình hạc vác ve. Vậy mà đến tháng một năm 1925, ông còn nhịn ăn một tuần nữa.
Dân chúng lo âu, thường tự hỏi tại sao ông còn huỷ hoại thêm thân thể? Ông trả lời:
«Đồng bào đừng nên quá chú trọng vào những tuần nhịn ăn của tôi. Đối với tôi. sự nhịn ăn khiến cho tôi rũ sạch chất phàm, thanh sạch lâng lâng mà nhìn thấu đào vào tới ngách sâu thẳm của linh hồn. Sự nhịn ăn làm cho mắt nhờ đó trông rõ thâm tâm, cũng như đôi mắt thật cho tôi được trông thấy cảnh vật bên ngoài vậy».
Ông lại so sánh người nhịn ăn với những nhà leo núi:
«Họ tìm cách leo lên đỉnh Hy-mã-lạp-sơn. Tôi tìm cách đưa linh hồn lên những thượng tầng trong sạch thanh cao, để vượt khỏi hàng rào của thể chất».
Đến tháng chạp năm 1925 thì Cam-Địa mãn khóa Chủ-tịch đảng Quốc-hội. Ông bèn trao phó lại gia tài chính-trị cho bà Saroyini Naidu, một chính khách kiêm một nữ thi sĩ tài hoa. Rồi ông nguyện trong suốt năm tới sẽ không đả động một tí gì đến mọi vấn đề chính trị. Ông sẽ rút lui về khu Ashran trên bờ sông Yaharmati để di dưỡng linh hồn và thân thể. Theo ông, cuộc tranh đấu chính trị của Ấn bấy giờ đang trải qua một thời kỳ hư ruỗng. Đó là thời kỳ lý tưởng để không bận tâm về những vấn đề chính trị nữa.
Cam-Địa tổ chức một năm lặng tiếng. Cứ ngày thứ hai, thì ông hoàn toàn nín lặng. Ai nói thì ông nghe, hỏi lắm thì ông trả lời bằng một mẫu chữ nguệch ngoạc trên mảnh giấy con. Bởi thế, ngày thứ hai, ông đã được nghỉ ngơi một cách hoàn toàn, để đắm trí não vào sự trầm tư mặc tưởng.
Còn những ngày khác thì ông nói. Duy ông không đi mà cũng không nói trước công chúng, Song ông vẫn đàm luận cùng các khách khứa hoặc cùng các đồ đệ, trao đổi thư từ với hàng ngàn nhân vật ở bốn phương thế giới.
Ngày mồng 1 tháng 4 năm 1926, Lord Irwin (về sau là Ngoại-tướng Lord Halifax của Anh trong thời kỳ đại chiến thứ 2) sang Ấn làm Phó vương thay Lord Reading. Cam-Địa không đả động gì việc đổi đó. Ông hoạt động trong dân chúng, chứ không tiếp với nhà cầm quyền Anh. Tuy nhiên, ông cảm thấy người Anh đang sửa soạn chia rẽ một lần nữa tình hữu nghị giữa người Ấn và người Hồi. Hình như chính-phủ Anh có ý nâng đỡ người Hồi, để kéo dân Hồi về phe mình, làm cho họ nghịch với người Ấn.
Cam-Địa đi tới kết luận là ngày nào mà người Anh còn có mặt ở Ấn để xui nguyên dục bị, thì người Ấn và người Hồi còn chia rẽ nhau mãi mãi. Vậy thì, trái với điều ông vẫn thường tuyên bố, sự hoà giải Ấn-Hồi đáng lẽ phải là điều kiện thành công của nền tự trị, thì lại là kết quả của nền tự trị đó.
Cam-Địa vẫn thường khuyên người Ấn nên đối đãi với người Hồi thiểu số một cách nhân nhượng hơn, Vì thế nhiều người Ấn có ý trách ông là thân Hồi.
Năm 1925. ông cũng dự nhiều cuộc tranh biện về vấn đề sinh dục. Ông công nhận rằng một nguyên nhân sự nghèo khổ thảm thương của dân tộc Ấn là dân số hàng năm tăng gia quá nhiều (5 triệu một năm). Vậy phải kiểm soát sự sinh đẻ. Nhưng ông cực lực phản đối phương pháp khoa học của người Âu. Ông chỉ công nhận sự kiểm soát bởi chính mình, sự kiểm soát của tinh thần trên xác thịt.
Ông viết: «Chỉ có cách tập tự chủ được cõi lòng cùng xác thịt mình là kiểm soát được sự sinh đẻ theo ý muốn».
Không có sự tự chủ ấy, loài người sẽ chẳng khác loài muông thú. Ông lại đoan quyết rằng sự hãm mình lâu ngày hay vĩnh viễn không có chi là hại cho sức khỏe cùng tinh thần, mà chỉ có lợi thôi. Nhưng tự chủ được mình mà kim hãm dục tình không phải là không khó khăn.
«Tuy nhiên» - ông nói - «ích lợi thu được không phải là nhỏ. Tinh khí nếu đừng phí phạm đi, mà giữ lại được trong người sẽ biến thành ý chí kiên quyết và sức khang cường của thân thể».
Và ông lại nói thêm:
«Ví dụ các phương pháp kìm hãm sự sinh nở cùng phá thai của người Âu-Tây mà có đem áp dụng ở bên Ấn ta cũng không được. Bởi vì dân ta hàng triệu người, lấy đâu ra nhà chuyên môn, máy móc, thuốc men cần thiết để phá thai».
Cam-Địa còn hết sức công kích chế độ tảo hôn. Theo ông, nếu không thể bắt chước được những bậc thánh hiền cùng những người có một dũng lực tinh thần vô biên mà diệt được sức dục hòng giữ cho thân thể được hoàn toàn trinh sạch, thì tuổi tốt nhất để thành hôn phải là từ 25 trở đi đối với con trai, và 21 đối với con gái. Muốn tránh những sự kích thích về tình dục, ông khuyên nên tránh các thức ăn nhiều gia vị, những áo quần lộ liễu, những tranh ảnh cùng sách báo khiêu dâm. Trái lại, công việc chăm chú, thể thao, lòng sùng tín, những buổi đọc kinh, đó là những phương pháp công hiệu nhất để kiểm soát dục tình.
Tục tảo hôn bên Ấn còn gây ra một vấn đề xã hội đau thương là có những trẻ gái góa chồng từ thủa còn thơ, đến nỗi sớm bắt buộc phải gác bỏ cuộc đời trong khi còn tuổi xanh mơn mởn. Theo các bản thống kê của thời bấy giờ, thì khắp nước có tới 11.892 trẻ em gái góa chồng từ khi chưa đến 5 tuổi. Số «bà góa» từ lên 5 đến lên 10 là 83,057-329,147 thiếu nữ goá chồng từ khi chưa đến 16 tuổi. Theo tục lệ Ấn thì bọn con gái này bắt buộc phải ở vậy suốt đời. Cam-Địa cực lực phản đối thói tục dã man ấy. Ông cãi rằng: «Chúng có goá đâu, vì chúng đã bao giờ thành những người đàn bà có chồng?» Và ông dịu lời: «chúng đã biết thế nào là ái tình đâu?» Ông cho sự ở vậy là một giải pháp phải để người trong cuộc tự chọn lấy, sau khi cân nhắc kỹ càng, còn như bắt buộc những đứa trẻ thơ sau này lớn lên phải tự nén lòng mình thì thực là cả một phương pháp trái với đạo Trời.
Bấy giờ danh tiếng của Cam-Địa đã lan tràn ra khắp Ấn và vang động đến tận Mỹ-châu. Tại Pháp, văn sĩ Rolland xuất bản một cuốn sách nói về ông. Từ Mỹ, ông nhận được rất nhiều thư từ, cùng là lời mời sang thăm Mỹ-quốc. Nhưng ông đều từ chối.
Sau một năm im lặng, Cam-Địa trở lại chiến trường chính trị với những quan điểm cũ y nguyên không thay đổi.
Thường thường, nói trước khán đài, ông giơ bàn tay trái lên trước mặt xòe 5 ngón ra. Rồi dùng hai ngón tay phải nắm lấy ngón cái bên trái mà lắc lắc, ông nói: «Ngón này tức là: hãy đối đãi với bọn tiện nhân như người bình đẳng». Rồi ông nắm lấy ngón trỏ: «Đây là ngón tay dệt cửi». Đoạn đến ngón ba, có nghĩa là đoạn tuyệt với rượu và thuốc phiện. Ngón đeo nhẫn là tình thân mến giữa Ấn và Hồi. Ngón út chỉ sự bình đẳng giữa các phụ nữ mọi giai cấp. Năm ngón ấy nối liền với thân thể bởi cổ tay: đó là lời tự nguyện không dùng bạo lực. Năm điều tâm niệm ấy, nêu thực hành được trọn vẹn sẽ hoàn hảo được bản ngã tốt đẹp của mỗi người, và nhờ đó, sự giải phóng đất nước chỉ là kết quả dĩ nhiên.
Thường khi trước đám công chúng ồn ào đến vài chục vạn người, ông nín lặng không cất lời cho đến khi mọi người im phăng phắc như tờ. Ông vẫn im lặng. Mọi người liền ngồi cả xuống đất. Bấy giờ ông mới giơ hai bàn tay lên, để phủ dụ mọi người, rồi mỉm cười mà lui gót. Đó là một cách ông truyền bá luồng tư tưởng cho dân chúng. Chịu khó ngồi yên lặng để tiếp nhận ý nghĩ của ông, họ đã tập tự kiểm soát mình, và tìm đọc trong thâm tâm để tự hiểu. Đó cũng là một bước tập tành để đi dần đến tự lập.
Trong mọi điều Cam-Địa giáo huấn, duy có lời khuyên nhủ của ông đối với hai phái Ấn, Hồi là không được ai nghe.
Bấy giờ Lord Irwin đã thay Lord Reading làm Phó-vương Ấn-Độ. Ông là cháu một viên quan Anh tại Ấn-Độ, từ hồi thuộc địa mới khai phá, nên ông tỏ ra rất am hiểu dân tình. Ngay hôm đầu tới Bombay, nhằm ngày thứ sáu, ngày lễ của dân Ấn, ông đã cho xếp dọn hết các nghi trương tiếp đón dàn ra, để một mình vào cầu kinh trong đền. Tuy nhiên, ông không chịu gặp Cam-Địa, lãnh-tụ độc nhất được dân Ấn tôn-sùng hồi bấy giờ. Chỉ 19 tháng sau, giữa khi đang hô-hào dân chúng ở Bengalore, Cam-Địa mới nhận được điện văn của Phó-vương ngỏ ý muốn gặp ông ngày 5 tháng 11 tới. Ông vội vã vượt hơn 2 ngàn dặm đường về Delhi, để được gặp Phó-vương vừa vặn một phút rưỡi đồng hồ. Vị quan Anh này chỉ trao cho ông một bức điện văn báo tin một uỷ-ban Anh điều khiển bởi Sir Johu Simon sắp tới Ấn nay mai để điều-tra về những điều-kiện áp-dụng một vài điều cải cách.
Sau khi đọc xong bức điện, Cam-Địa ngước mắt trông lên, chờ đợi. Phó-vương vẫn im lặng:
- Ngài muốn gặp tôi chỉ để báo tin ấy thôi sao?
- Chính vậy.
Cuộc tiếp xúc thế là chấm dứt. Không nói một lời, Cam-Địa tiếp tục cuộc hành trình đi khắp miền Nam Ấn-Độ để cổ võ phong-trào dùng hàng nội hóa.
Phái đoàn Simon là một sáng kiến của viên Bộ-trưởng Ấn-Độ-Vụ trong chính-phủ Anh, tức là Lord Birkenhead, một khối óc lạc hậu. Hãy nghe ông tuyên bố trước Thượng nghị viện năm 1929:
«Tôi dám đoan quyết rằng hàng thế kỷ nữa, người Ấn cũng chưa đủ sức đảm nhiệm lấy được việc cai trị, việc quốc phòng trong nước họ».
Bởi vậy, phải đoàn Simon tới Ấn đã bị tẩy chay tàn tệ. Nhất là phái đoàn định tìm một giải pháp về chính thể tương-lai sẽ ban cho người Ấn mà không có lấy một người Ấn nào ở trong. Tức thì một mệnh lệnh ban ra toàn cõi: không ai được giúp đỡ phái đoàn bất cứ về phương diện nào. Tại Bombay, phái đoàn Simon được tiếp đón bằng những hàng cờ đen, và những tiếng: «Simon! Hãy cút về».
Không một lãnh-tụ chính-trị nào tiếp xúc với phái đoàn. Cam-Địa còn quyết liệt hơn nữa. Suốt trong thời gian phái đoàn ở trên đất Ấn, ông không thèm biết đến họ. Song dân Ấn không bình tĩnh như ông. Cuộc tẩy chay dữ dội đến nỗi nhiều khi lính tuần Anh phải đàn áp. Lãnh-tụ xứ Pundjab là Laypat Rai, một người được dân tình cảm mến, bị một viên cảnh binh dùng gậy bịt sắt đánh tử thương trong một cuộc biểu tình phản đối tại Lahore. Lại Lucknow, Yaouaharlal Nehru cũng bị hành hung. Dân chúng trả miếng tức thì. Ngay hai tuần sau khi Laypat Rai chết, viên Cảnh-sát-trưởng Lahore là Saunders đã đền mạng dưới làn đạn của một người Sikh là Bhagat Singh, mà từ đó chúng coi như một vị anh hùng dân tộc.
Chính-phủ Ấn lợi dụng dịp để đàn áp luôn các phong-trào chính-trị khác phong-trào quốc-gia như các nhóm Tổng công-đoàn, Xã-hội, cùng Cộng-sản.
Năm ấy, Đảng Quốc-hội họp đại hội thường nhiên ở Nagpour. Toàn thể đảng viên đòi phải hành động ngay. Soubhas Chandra Bose và Yaouaharlal Nehru, hai lãnh tụ thanh-niên, đòi tuyên-bố ngay Độc-lập, và khởi sự ngay sau đó Cam-Địa yêu cầu hãy gửi tối hậu thư cho người Anh một hạn là hai năm để từ giã đất Ấn. Đảng không chịu. Ông phải hạ kỳ hạn ấy một năm. Ông phát thệ rằng tới ngày 31 tháng chạp năm 1929, nếu Ấn không thành một tự trị lãnh, thì ông sẽ tình nguyện đi khắp nước để cổ võ phong-trào độc-lập.
Để dự bị cuộc hành-động sau này, ông dùng suốt năm 1929 để đi khắp nơi hô hào dân chúng.
Trong khi ấy thì dân chúng tiếp tục tẩy chay phái đoàn Simon. Ngày mồng 8 tháng 4, Bhafhat Singh, người Sikh đã giết viên Cảnh-sát-trưởng Lahore để báo thù cho Laypat Rai đàng hoàng tiến vào Lập-pháp-viện bấy giờ đang họp ở New Delhi, ném 2 trái bom vào các hàng đại-biểu rồi lăm lăm tay súng mà rút lui. May không ai bị chết, trừ một đại biểu bị thương khá nặng. Sir John Simon chính mắt chứng kiến vụ bạo động trên hàng ghế thính giả. Đó là kỷ niệm cuối cùng của ông trên đất Ấn, vì phái đoàn vội vã về nước ngay trong tháng ấy.
Tháng 6 năm 1929, cuộc Tổng tuyển cử Anh kết liễu với sự đắc thắng của Đảng Lao-động. Ông Ramsay Madonald lên cầm quyền chính. Cam-Địa hy vọng sự thay đổi này sẽ đem lại một giải pháp để ổn định tình thế mỗi lúc một khẩn cấp.
Lord Irwin vội vã về ngay Anh để xin huấn lệnh mới. Đến khi ông về Ấn với lời hứa sẽ triệu tập một hội nghị Bàn Tròn để quyết định về chính thể tương lai của Ấn, thì các lãnh tụ ôn hòa như Cam-Địa, Matilal Nehru, Besant buộc trước hết hãy vỗ an dân tình bằng cách ân xá cho phạm nhân chính trị cùng là hứa sẽ nhận cho Đảng Quốc hội được hưởng một thành phần rộng rãi trong Hội nghị Bàn Tròn. Nhưng các lãnh tụ quá khích như Soubhas Chandra Bose và Yaouaharl Nehru, bấy giờ đang là chủ tịch đảng Quốc hội. phản kháng kịch liệt việc hoà giải với người Anh. Mặc, các lãnh tụ ôn hòa cứ việc tự ý quyết định thảo luận với Lord Irwin ngày 23 tháng chạp.
Ngày đó, Phó vương Anh vừa đi kinh lý miền Nam nước Ấn, về đến ga New Delhi thì bị một quả bom gài sẵn trên đường sắt nổ ngay dưới toa ông. May không ai việc gì. Nhưng một tin khác đánh đổ hết mọi xây dựng của ông ta. Quốc hội Anh đã biểu quyết phản đối nguyên tắc thiết lập một hội nghị bàn tròn mà Phó vương đã hứa cùng người Ấn. Cho nên cuộc thảo luận không đưa đến kết quả nào. Khi các lãnh tụ Ấn xin ông nhắc lại một cách rõ rệt lời hứa trước kia thì ông đành trả lời thoái thác.

Thế là một năm đã qua, mà người Anh chưa chịu trả lại tự do cho Ấn-Độ. Đúng như đã sửa soạn từ trước, Đảng Quốc hội, dưới quyền chỉ đạo của Yaouaharlal Nehru, năm ấy vừa 40 tuổi, trong phiên đại hội lịch sử ở Lahore, đã công nhận tuyên bố Ấn-Độ hoàn toàn độc lập, và quyết nghị bắt buộc hết thảy mọi đảng viên đều phải rút lui khỏi hết các hội đồng chính-phủ, phát động phong trào bất hợp tác trong dân chúng, và thi hành ngay việc không đóng thuế. Ban chấp ủy lại giao cho Cam-Địa toàn quyền quyết định ngày giờ cùng nơi khởi sự.

20/1/2022
Louis Fischer
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...