Thứ Tư, 23 tháng 2, 2022

Chuyện lạ có thật về một con người - Phần 2

Chuyện lạ có thật
về một con người - Phần 2

Chương hai (C)
Việc T. chữa cai nghiện rượu, cai thuốc lá, ma túy xin kể vài mẩu được trực tiếp chứng kiến.
Hôm đó có tôi, bác Hoàng và một số anh em đang ở nhà T. Một ông khoảng 60 tuổi ở xã Tam Lãnh đến nói với T.: "Thưa ông (tất cả những người đến chữa bệnh đều gọi T. bằng ông), tôi nghiện rượu đã hơn chục năm nay, muốn bỏ mà không sao bỏ được, nhờ ông giúp cho". T. hỏi: “Mỗi ngày ông uống bao nhiêu?". Ông già trả lời: Ít là một xị còn nói chung từ nửa lít đến một lít!”. T. lại hỏi: “Ông dứt khoát chưa?”. Ông bảo: “Dứt khoát rồi vì không có tiền và biết uống rượu là hại sức khỏe lắm”. T. bảo: “Ông ngồi xuống đây!” T. nhờ tôi lại bàn lấy một ly nước sôi để nguội trong bình nhựa. Tôi rót đầy ly và đưa cho T., T. cầm ly nước, phát công vào ly đưa cho ông. già và dặn: “Ông gắng uống hết ly này thì bỏ được rượu!”. Ông già thấy tôi rót nước sôi để nguội vào ly liền cầm uống. Uống được vài ngụm, khoảng một phần ba ly liền ngưng lại nói: “Ông cho uống thú rượu quá nặng, uống vào muốn đứt hơi. Tôi chưa uống loại nào nặng như rượu này!”. T. bảo: “Ông phải uống hết, nếu say ngã, có anh em đỡ đừng sợ.” Với quyết tâm từ bỏ rượu, ông cố gắng uống tiếp. Mặt ông đỏ phừng. Đến ngụm cuối cùng, ông ngã quẹo đầu trên ghế. Đúng là ông già say rượu thật. Độ 15 phút sau, ông tỉnh lại, T. bảo: “Ông bỏ rượu được rồi! Từ nay về sau, chỉ cần ngửi thấy mùi rượu là ông lảng tránh, đừng nói chuyện uống. Chiếc ly T. vẫn cầm trên tay. Tôi bảo T. đưa ly tôi cất cho. T. biết ngay nói: “Bố lại muốn kiểm tra nước hay rượu chứ gì!” T. đưa ly cho tôi. Trong ly còn một ít nước, tôi đưa lên miệng nhắp thì vẫn là nước sôi để nguội mà ông già uống lại là rượu quá nặng, say ngã vật  ra. Chuyện thật khó hiểu.
Mấy ngày sau ông già Tam Lách quay lại gặp T. cảm ơn rối rít nói: “Nhờ ông tôi bỏ hẳn được rượu rồi! Giờ có ai mời cũng không uống được!”
Một buổi tối T. rủ tôi ra Kế Xuyên thăm huynh đệ. Sau khi thăm vài nhà, T. và tôi đến nhà anh Ngộ khoảng 30 tuổi. Anh Ngộ nói với T.: “Em hút thuốc nhiều quá, biết có hại nhưng chưa bỏ được”. T. hỏi: "Mỗi ngày anh hút bao nhiêu điếu?”. Ngộ trả lời: “Mỗi ngày em hút trung bình 20 điếu, có ngày hút 30 điếu”. "Được rồi. Anh lấy  thuốc châm lửa đi”. Ngộ móc gói thuốc Du Lịch trong túi ra, lấy một điếu châm lửa rồi đưa cho T. T. cầm điếu thuốc vuốt tới vuốt lui đưa cho Ngộ nói: “Anh muốn bỏ hẳn thuốc phải hút hết điếu thuốc này.Vấn đề là phải hút hết, khó mấy cũng phải hút hết. Nếu chỉ hút một nửa mà thôi thì chỉ bỏ được một nửa!". Ngộ bắt đầu hút. Mới được mấy hơi, anh ta dừng lại nói: 'Vẫn là thuốc Du lịch thường hút nhưng hôm nay sao nó quá gắt, hút vào đau ngực chịu không nổi". T. bảo: “Tôi nói rồi mà, phải ráng hút hết điếu thuốc!". Ngộ hút tiếp một hơi nữa, ho sặc sụa, ôm ngực kêu đau, không hút được nữa. T. cầm điếu thuốc cười nói: "Như vậy, anhh chỉ bỏ được một nửa chứ không bỏ hẳn được! Đó là tại anh nhé!". Tôi bảo T. đưa điếu thuốc cho tôi. T. đưa cho tôi cười: "Bố lại muốn thử rồi!". Tôi hút hết nửa điếu thuốc còn lại thấy hoàn toàn bình thường, không ho cũng chẳng đau ngực.
Chữa cai nghiện ma túy, T. chữa cho nhiều người khỏi hẳn. Tôi chứng kiến được hai trường hợp: Cậu B và cậu H. là hai thanh niên ở Hà Nội. Hàng năm, T. có ra Hà Nội vài thuần. Nghe T. có tài chữa bệnh, gia đình có con nghiện đưa con đến nhờ chữa.
Hôm đó ở một quán cơm chay đường Thái Hà thuộc quận Đống Đa, con nghiện B. được T. chữa. Trước tiên, T. phát công cho B. hôn mê nằm trên giường không biết gì. T phát công vào đầu, ngực, bụng độ 15 phút là xong. Anh thầy chữa này rất vui tính. Anh ta cầm quả khế ngọt trên bàn cắt ra từng miếng bảo những người chung quanh: “B. mê man rồi, các anh thử cho anh ta ăn miếng khế xem anh ta có ăn được không?". Một người ngồi sát bên cầm miếng khế nhét vào mồm B. Hai hàm răng B. cắn chặt không nhét khế vào được. T. nói: "Không cho ăn được phải không? Tôi sẽ cho B. ăn cho các vị xem!".
T. cầm miếng khế đưa vào miệng B. thì B. ngậm lấy và nhai nuốt trong khi vẫn hôn mê. Tóm lại, người đã hôn mê rồi, T. điều khiển thế nào cũng được.
Cả B. và H. chữa ở Hà Nội được vài lần. Khi T. về, hai thanh niên này được gia đình đồng ý cho đi luôn với T. để được tiếp tục chữa. B. sau khi khỏi hoàn toàn đã lấy vợ và đã có 1 cháu. H. sau khi khỏi nghiện, tình nguyện đi theo thầy để học chữa bệnh.
Phần này xin dành tập trung nói về hiệu quả chữa bệnh của T.
Nhu phần trước đã phân tích, T. hoặc bất cứ thầy chữa nào cũng không thể chữa khỏi trăm phần trăm cả người bệch và loại bệnh vì đó là quy luật. T. chữa bệnh có hiệu quả nhất định. Chúng tôi chỉ là những người bình thường, không phải bà con họ hàng xa gần gì với T., chỉ có một mục đích là tìm hiểu sự thật đúng như nó vốn có. T. làm đúng, làm được, chúng tôi nói T. làm đúng, làm được. T. làm sai, làm dở, chứng tôi nói T. làm sai, làm dở một cách khách quan, vô tư. Sau đây là những kết quả chúng tôi chứng minh được:
Trở lại chuyện chữa bệnh đau cổ họng cho cô con gái của Bốn Bôi ở Cầu Kim, Hội An. Sau lần T. cho thuốc bột (mà bột đã hoá thành viên) uống đỡ chỉ được một thời gian. Độ một năm sau, cô này bệnh càng ngày càng nặng đến mức không nuốt được cơm mà chi bón cháo loãng. Trong cổ họng như có một cục u, ra cả máu mũi, máu mồm. Gia đình quá nghèo không có tiền đưa đi bệnh viện. Bốn Bôi phải nghỉ làm thợ hồ, đèo con lên gặp T. xin T. giúp.
Chở con đến nhà thì T. đi vắng. Lúc đó là 5 giờ chiều. Hai bố con chỉ còn biết ngồi than thở. Không gặp ông thì chắc là chỉ còn có chết. Bốn Bôi nói với con phải ráng chờ đến tối may ra ông về chứ bây giờ biết đi đâu trong lúc nhà không có tiền. May sao lúc chạng vạng tối thì T. về. Vẫn thấy mặt hai bố con Bốn Bôi T. nói ngay: "Tôi biết bố con ông đợi tôi mà đợi trong giờ phút hiểm nghèo của con ông nên tôi phải bỏ việc đang làm giở, chạy gấp về đây. Yên tâm đi, con ông không chết đâu! Tôi chữa ngay bây giờ!".
T. bảo bệnh nhân nằm lên phản, vận công nhìn vào vùng cổ nói: "Cô này bị một cái u ở vòm họng đã bị vỡ, nhưng là u lành không phải u ác. May là ông đưa lên kịp nếu chậm vài ngày thì xin chịu". Nói xong. T. tiếp tục vận công, phát phóng ngoại khí vào đầu, gáy, đặc biệt tập trung trên vùng cổ. Độ 20 phát. T. bảo xong rồi và dặn: "Bố con ông phải ở đây vài ba ngày, tôi chữa tiếp mới được, một lần chưa được đâu. Ăn uống không lo nhà tôi còn nhiều gạo, rau thì rất sẵn".
Tối hôm đó, Bốn Bôi không ngủ, thức để theo dõi con. Hiệu quả trước mắt là hết ra máu ở mũi, ở mồm, đau có giảm, thở dễ chịu hơn. Sáng sớm hôm sau, đỡ con ra bể nước rửa mặt, cô con bỗng nổi ho và hộc lên một tiếng, cục u trong họng vọt ra dính toàn máu, mủ. Thật mừng hết chỗ nói, cả hai bố con đều rơi nước mắt. Lấy giấy cầm cục u vào đưa cho T. xem. T. bảo: "Tôi biết rồi, u lành mà! Nhưng chưa về được đâu, ở lại chữa tiếp vài lần nữa cho cổ họng bình thường trở lại mới hoàn toàn khỏe mạnh được!". T. còn nói vui: "Về lấy chồng được rồi! Lúc nào cưới nhớ mời tôi nghen!"
Sau đó, bố con về và cô con gái hoàn toàn khỏe mạnh cho đến ngày nay, đã lấy chồng và có 2 cháu.
Nói tiếp việc T. chữa bệnh cho Bùi Thanh Tùng ở Kế Xuyên mà trong phần nói về tiền đã đề cập.
Bùi Thanh Tùng độ 35 tuổi sống khỏe mạnh, bình thường bỗng nhiên các khớp cả chi trên, chi dưới đều sưng đau, có khớp bị lở loét. Gia đình vội vàng đưa Tùng vào bệnh viện đa khoa Đà Nẵng để chữa trị. Bệnh viện qua khám nghiệm chẩn đoán Tùng bi bệnh viêm khớp teo cơ, một chứng bệnh hiếm gặp. Qua 3 tháng điều trị tốn khoảng 5 cây vàng mà bệnh càng ngày càng nặng. Các khớp bị lở loét đầy máu mủ. Các cơ bắp chân, bắp tay mất dần chỉ còn xương với da. Suốt ngày đêm Tùng nằm trên giường bệnh, không ngồi, đứng được, không ăn được. Vợ phải luôn túc trực bón cháo, sữa và phục dịch.
Cuối tháng thứ ba, bệnh viện tuyên bố hết khả năng chữa tri cho về sống được ngày nào hay ngày ấy. Đưa chồng về khỏi nói là vợ Tùng và cả gia đình đau thương như thế nào? Vợ Tùng là một người vợ hết mực yêu thương chồng. "Chẳng lẽ anh ra đi bỏ em và con bơ vơ trên đời này sao?". Không biết làm gì hơn, vợ Từng thắp hương trên bàn thờ gia tiên khấn xin trời đất, thần linh và ông bà tổ tiên độ cho Tùng tai qua nạn khỏi.
Vì phải chăm sóc chồng mấy tháng trong bệnh viện nên vợ Tùng rất ít được ngủ, khấn xong vào giường nằm xuống là ngủ thiếp đi. Độ 12 giờ đêm, vợ Tùng nằm mơ thấy một ông già râu dài đầu tóc bạc phơ đến bên giường bảo: “Chồng con không chết đâu, không nên bi lụy, ta sẽ mách bảo để cứu chồng con. Ngay bây giờ sau khi ta nói, con dậy huy động người nhà thuê xe, làm cáng đưa ngay chồng con theo đường 1 vào hướng nam, qua khỏi cầu T.... cây số, dừng lại, khiêng chồng con theo đường luồng hướng tây một đoạn là tới. Người này sẽ chữa cho chồng con khỏi bệnh. Nhưng không được chậm trễ. Đưa đến chậm, người này cũng không cứu được. Nhớ kỹ điều đó".
Vợ Tùng quá mừng lập tức nhanh chóng tổ chức đưa chồng đi theo đúng lời Thần dặn. Xe vào đến đầu đường luồng, Tùng được chuyển qua cáng. Vừa khiêng chồng, vợ Tùng năn nỉ số người ở dọc đường luồng xin cho lên trước vì bệnh quá nặng sợ không kịp. Thời điểm này, bệnh nhân từ các nơi đến nhà T. quá đông. Và cuối cùng, Tùng được khiêng đặt trước sân nhà T. Lúc này trời đã gần sáng. Trong nhà, T. đã biết sự việc, bảo mấy người đang đợi chữa ra ngoài và gọi ra sân bảo khiêng Tùng vào ngay, chậm không cứu kịp đâu!
Tùng vừa được đặt xương sàn nhà, T. không nói, không hỏi lập tức vận công khắp người kêu răng rắc, phát công từ đầu đến chân độ 15 phút. Tiếp theo là một đợt bấm huyệt cũng từ chân lên đầu. Trên người T. mồ hôi toát ra đầm đìa. T. thở phào nói: "Khỏi chết rồi, may mà đến kịp, nếu chậm độ một giờ thì vô phương cứu chữa! Nhưng chưa xong đâu, mới bước thứ nhất!". T. bảo vợ Tùng: "Ngay bây giờ huynh đệ sẽ đèo cô đến một chỗ lấy về đây cho tôi một viên gạch cổ. Cô cứ ngồi lên xe, người lái xe biết chỗ". Thế là vợ Tùng ngồi lên xe ra thị xã X. đi về phía tây độ 10km. Xe dừng lại bên đống gạch cổ, vợ Tùng đã thấy T. đang ngồi chọn gạch, quá sức ngạc nhiên về sự có mặt của T. ở đây. T. cầm viên gạch đưa cho vợ Tùng bảo: "Phải về nhanh, lấy rơm đốt cho viên gạch đỏ lên rồi cho vào chậu nước xông cho Tùng". Vợ Tùng ngồi lên xe và người lái xe chạy một mạch về nhà. Về đến sân lại đã thấy T. trong nhà hối thúc phải đi đốt gạch nhanh lên. Càng ngạc nhiên hơn nhưng lo đốt gạch chữa cho chồng, vợ Tùng không dám hỏi.
Tùng được xông toàn thân theo hướng dẫn của T. T. lại bảo: "Mới bước thứ hai. Còn một việc nữa. Đơn thuốc tôi đã viết sẵn, cô ra hiệu thuốc Bắc ngoài thị xã bảo họ hốt cho 10 thang. Mỗi thang 15 nghìn, cô có tiền trong túi không? Nếu không có xuống bảo vợ tôi đưa”. Vợ Tùng nói: "Em có tiền đây rồi". Thế là lại lên xe đi mua thuốc. Mang thuốc về, vợ Tùng nói: “Em kể lại chuyện chồng đau, nhờ ông chữa khỏi chết như thế nào cho ông hốt thuốc nghe, ông cảm động lấy vốn chỉ 10 nghìn một thang!” "Giờ cô sắc ngay một thang cho Tùng uống là hoàn toàn yên tâm".
Sau khi Tùng uống thuốc, T. bảo: "Giờ thì ngồi được rồi! Ông ngồi lên tôi coi!” Tùng chống tay ngồi dậy. T. lại bảo: “Ông đứng lên!” Tùng theo lời đứng dậy. T. bảo:  "Ông đi được đó, đừng sợ, cứ đi đi". Tùng bước tới rồi bước lui. Cả vợ lẫn chồng đều rơi nước mắt. Vì cả tháng trời, Tùng có có nằm. Tất cả những người có mặt hôm đó đều ngạc nhiên trước cảnh chữa thần kỳ của T.
T.dặn tiếp: "Giờ cô cho tất cả số anh em đi theo về, chỉ cần mình cô ở lại với Tùng, tôi sẽ chữa cho chồng cô khỏi hẳn mới được về. Còn một việc nữa, cô ra ngoài quán mua 3 gói mỳ tôm đem về đây!".
Mỳ tôm mua về, T. lấy hai chiếc bát bảo: "Cô làm một bát 2 gói, một bát một gói. Hai gói là cho chồng, một gói là cho cô. Chồng cô lâu rồi không ăn gì, đang thèm ăn đấy!". Vợ Tùng nhất nhất chấp hành nhưng vẫn sợ nên e ngại. T. biết ngay nói: "Cô lại sợ chồng lâu không ăn mà ăn những hai gói chứ gì! Tôi bảo đảm, không việc gì đâu!".
Ngồi nhìn chồng ăn liền hai gói mỳ ngon lành, vợ Tùng lại khóc vì quá mừng và xúc động. Ngày nào Tùng cũng được T. phát công và bấm huyệt. Đến ngày thứ 10 thì tất cả các khớp lở loét đều lành lặn. Sức khỏe hồi phục trông thấy, có da có thịt không còn tình trạng da bọc xương như lúc mới đưa đến. Hàng ngày T. hướng dẫn Tùng tập thể dục. Ngày thú 11 trở đi, T. bảo vợ Tùng đưa Từng đi từ nhà ra cầu rồi trở về. Đến ngày thứ 15, T. cho hai vợ chồng chạy lúp xúp cũng ra đến cầu rồi chạy về. Đến ngày thứ 19, T. cười bảo: "Ngày mai xuất viện được rồi đó!".
Vậy là qua 19 ngày bằng nhiều phương pháp, T. đã chữa cho Tùng, một bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo trong tình trạng thập tử nhất sinh hoàn toàn khỏi bệnh trong khi bệnh viện bất lực cho về chờ chết. Ta suy nghĩ thế nào về hiệu quả chữa bệnh trong trường hợp này? Tôi là người chứng kiến và gặp vợ chồng Tùng nhiều lần để trao đổi về hiệu quả chữa bệnh thần kỳ của T. Chuyện tặng ti-vi đã nói ở phần trước, không nhắc lại. Vợ chồng Tùng còn một thắc mắc hỏi tôi, tôi không làm sao giải thích được. Đó là tại sao vợ Tùng khi đi lấy gạch đã thấy T. đang ngồi chọn gạch. Lúc về đến nhà lại thấy T. có mặt ở nhà. Vợ Tùng cả đi lẫn về đều ngồi trên xe máy chạy nhanh. Nếu T. đi tắt phải đi bộ làm sao nhanh được. Một hôm nằm với T. tôi đưa thắc mắc đó ra hỏi, T. chỉ cười và nói là các người đó đi đường thẳng còn tôi đi đường tắt có gì mà không hiểu? Tôi suy nghĩ mãi vẫn thấy giải đáp của T. không ổn chút nào, bên trong còn những vấn đề huyền bí không hiểu được mà T. không nói.
Ông Nguyễn Minh Hoàng cán bộ công an nghỉ hưu ở thị xã Quảng Ngãi là bạn thân của tôi. Ông bị sỏi thận lâu năm đã một lần tán sỏi bằng la-de và cũng đã mổ lấy sỏi ra. Nhưng chỉ một thời gian sỏi lại hình thành trở lại. Tôi đưa ông ra gặp T. nhờ T. giúp. Đi lại hàng năm trời, ông Hoàng trở thành huynh đệ thân thiết của T. nhưng T. vẫn chưa chữa cho ông lần nào (đây là điểm khác thường của T., sẽ tập trung nói ở phần sau). Một hôm ông Hoàng ra thăm T., T. bảo: "Ông lại đây tôi giúp. Tôi biết bệnh ông rồi!”. Thế là T. phát công độ 10 phút vào vùng thận. Tôi hỏi ông Hoàng: "Ông có cảm thấy gì không?”. Ông Hoàng bảo: “Thấy bình thường, không có gì lạ”. Nhưng sáng hôm sau khi ông về đến nhà thì chuyện lạ đã xảy ra. Ông đi tiểu thấy tức và 2 viên sỏi to bằng.hạt đậu xanh vọt ra. Trong ngày hôm đó, mỗi lần đi tiểu sỏi lại tiếp tục ra. Tất cả là 7 viên. Ông nhẹ hẳn người và từ đó đến nay không thấy đau tức ở vùng thận nữa. Chuyện lạ và cũng là thần kỳ ở chỗ chỉ mới chữa một lần mà có hiệu quả trông thấy.
Cô Lê Thị Lan con ông Lê Văn Tám ở thị xã Hội An bi bệnh bướu cổ lỗ tròng, Tây y gọi là bướu độc hoặc ba-giơ-đô. Bướu ở cổ cô Lan càng ngày càng to và hai tròng mắt lồi ra ngoài. Lan lên nhà xin T. giúp. T. chữa cho cô nhưng không được liên tục vì nhiều lúc phải đi các huyện để chữa cho những người không đến được. Tuy vậy sau khoảng một tháng cục bướu ở cổ nhỏ dần và hai tròng mắt cũng bớt lồi. Qua mấy tháng, bệnh ba-giơ-đô của Lan lùi dần. Vài ba năm nay Lan hoàn toàn khỏe mạnh. Căn bệnh quái ác không còn hành hạ Lan nữa. Cô tự nguyện tu tại gia, ở vậy không lấy chồng, và ăn chay trường từ đó đến nay. Thỉnh thoảng T. ra Hà Nội, cô xin đi theo nấu ăn cho thầy để ghi nhớ mãi công ơn người đã cứu cô khỏi căn bệnh mà cô cho là rất nguy hiểm và khó coi đối với giới nữ.
Một cách chữa bệnh kỳ lạ khác. Một hôm chúng tôi đang ngồi với T. trong nhà thì có hai bà vào lứa tuổi trên 50 từ ngoài sân đi vào. Vào đến cửa, hai bà định nói, T. bảo: "Biết rồi, không cần nói! Bây giờ tôi quăng trái quýt này xuống đất, bà nào chụp được quýt tôi chữa, bà nào không chụp được thì thôi!”. Nói xong, T. lăn quả quýt trên mặt đất. Hai bà bò trên mặt đất ra sức chụp đến 15 phút, quả quýt lăn hết chỗ này sang chỗ khác không bà nào  chụp được! Thì ra là T. dùng công lực điều khiển quả quýt chạy. T. hỏi: “Hai bà muốn chụp nữa không?". Hai bà đều nói xin chụp tiếp vì nghĩ không chụp được sẽ không được chữa bệnh. Quả quýt tiếp tục lăn, 10 phút sau, không bà nào chụp được quả quả quýt. T. nói: "Đủ rồi! Tôi chữa cho cả hai bà xong rồi! Các bà xem lại cánh tay của mình đi!". Hai bà lúc ấy mới ngớ người ra nhìn vào cánh tay của mình. Thì ra hai bà này đều bị cánh tay cán vá (cánh tay bị khuỳnh không thẳng ra được). Sau hai lần ra sức chụp cho được quả quýt cánh tay đã trở lại hoạt động như tay người bình thường. Hai bà xuýt xoa đưa tay co vào duỗi ra không thấy có trở ngại gì nữa vội sụp xuống cám ơn T. rối rít. Cả T. và chúng tôi cuối cùng không ai biết hai người này tên gì, ở đâu, 'vì sự việc diễn ra liên tiếp hấp dẫn mọi người, không ai nghĩ đến việc hỏi tên họ, địa chỉ. Riêng T. không mấy khi hỏi tên họ, địa chỉ người bệnh.
Chúng tôi hiểu T. đặt ra chuyện chụp quả quýt là để kích thích bệnh nhân phát huy sức lực của cánh tay tới mức tối đa để chữa dị tật ở cánh tay. Ngoài ra không rõ T. có tác động thêm gì nữa không, điều đó chỉ có T. biết. Riêng việc điều khiển quả quýt lăn và biết né tránh để hai bà không chụp được đã là một việc thần kỳ.
Trước sự việc đó chúng tôi chỉ biết kết luận: Đây là một cách chữa bệnh đầy sáng tạo và độc đáo.
Chương hai (D)
Về chữa mắc xương chúng tôi biết có hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất: Một anh ở thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định (không rõ tên họ địa chỉ cụ thể) ăn cá ngừ bị mắc một khúc xương nằm sâu trong ống thực quản. Gia đình đã dùng các cách chữa mẹo không kết quả. Qua mấy ngày, chỗ mắc xương bị nhiễm trùng viêm tấy nặng gây khó khăn cho ăn uống. Đưa vào bệnh viện thành phố, các bác sĩ hết lòng cứu chữa, đưa xuống không được mà dùng dụng cụ y tế sắp ra cũng không được. Đã nghĩ đến dùng biện pháp phẫu thuật nhưng sợ nguy hiểm vì vết thương bị viêm tấy nên nên đành bất lực cho về nhà tìm phương pháp khác.
Lúc đó có người mách chỉ có ông T. ở khu vực Q. may ra có thể chữa được. Gia đình lập tức thuê xe hỏa tốc chạy đi mời bằng được T. vào. Cũng may lúc đó, T. ở nhà không đi đâu vì T. hay đi nơi này nơi khác. Mời được T. rồi, xe lại hỏa tốc chạy về.
Đến nơi, T. bắt tay vào chữa ngay. Một số bác sĩ ở bệnh viện được tin kéo đến chứng kiến. T. vận công lực đến đỉnh cao, toàn thân rung động, răng nghiến ken két, hai tròng mắt như muốn lồi ra ngoài, đưa toàn bộ nội khí ra hai bàn tay, từ bên ngoài lồng ngực tập trung đẩy từ dưới lên trên và hét lên một tiếng. Chiếc xương cá ngừ không chịu nổi áp lực lớn vọt lên miệng ra ngoài. Những người có mặt hôm đó, cả mấy bác sĩ ồ lên một tiếng tỏ lòng khâm phục, ca nhợi cách chữa thần kỳ của T.
Vấn đề còn lại là theo đơn bác sĩ người nhà đi mua thuốc kháng sinh về cho bệnh nhân uống để giải quyết chỗ bị viêm tấy.
Trường hợp thứ hai xảy ra ở thành phố Buôn Ma Thuột. Sau buổi liên hoan thịt thú rừng, một người bị mắc xương, cũng nằm sâu trong ống thực quản. Gia đình, bạn bè và các bác sĩ bệnh viện thành phố làm đủ mọi cách nhưng không lấy xương ra được. Giống như trường hợp ở Quy Nhơn có người mách phải đi mời thầy T.. Tôi viết theo cách gọi thông thường nhưng T. không bao giờ chịu người khác gọi thích bằng thầy. T. nói "Tôi có dám làm thầy đâu mà gọi bằng thầy!".
Mời được T. lên, T. thao tác y như trường hợp ở Quy Nhơn. Mẩu xương vọt ra ngoài. Lần này cũng có các bác sĩ ở bệnh viện thành phố Buôn Ma Thuột tham dự. Cách chữa mắc xương của T. là như vậy, tin hay không tùy các bạn.
Đến đây chúng tôi xin trở lại bài báo đầu tiên với nhan đề “Một người có khả năng chữa bệnh đặc biệt”! Những điều tờ báo viết về hiệu quả chữa bệnh của T. là hoàn toàn đúng sự thật, không hề có chuyện dối trá, lừa bịp mang màu sắc mê tín dị đoan. Có thể tóm tắt lại sau đây:
- Chị Lê Thị Lệ 29 tuổi bị lao màng bụng và u đại tràng đã chữa ở bệnh viện ĐKĐN 4 tháng nhưng không khỏi.
- Anh Võ Nã 36 tuổi bị đau cột sống được bác sĩ Đ.X C. ở BVĐKTK chữa 15 ngày. Sau đó chữa tiếp ở phòng mạch của Đông y sĩ N.T.B 20 ngày nữa vẫn không khỏi.
- Cháu Lê Thị Hằng 16 tuổi bị bệnh đau đầu mãn tính sau đó chuyển sang hội chứng tâm thần đã chữa ở BVĐKĐN không khỏi.
- Chị Lê Thị Hồng Xuân 46 tuổi công tác ở Z176 Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng đã nghỉ hưu bị đau đầu kinh niên đã chữa ở BVXP và có đến một số giáo sư bác sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng không bớt.
- Bà Đỗ Thị Năm 49 tuổi bị đau dạ dày đã vào thành phố Hồ Chí Minh chữa trị 3 tháng tại Trung tâm chẩn đoán y khoa HH vẫn chưa bớt.
- Anh Nguyễn Đăng Bảng 39 tuổi bị bệnh đường tiêu hóa đã điều trị ở BVĐKTK không khỏi.
- Và vân vân…
Tất cả những bệnh nhân đều được T. chữa một cách nghiêm túc, hết lòng và cả hết sức trước mặt nhóm phóng viên với nhiều công năng đặc biệt có ca-mê-ra ghi hình như phát công từ gần đến xa, phát nội khí nóng, lạnh bằng tay cả bằng mắt, phát công cách tường, cho hôn mê, cho tỉnh, v.v. Bài báo đã tường thuật từng chi tiết quá trình chữa trị của T., chúng tôi không nhắc lại. Chúng tôi chỉ khẳng định một điều là bài báo ấy viết đúng đắn, nghiêm túc, đúng sự thật, có băng ghi hình kiểm chứng. Hiện nay chúng tôi còn lưu giữ được băng ghi hình này. Sở dĩ chúng tôi có băng ghi hình là do một sự ngẫu nhiên. Trong dịp gặp một người bạn, biết anh có băng ghi hình này chúng tôi mượn đi in sang lại. Chúng tôi không hề quen biết và chưa có liên hệ nào với nhóm phóng viên tờ báo đó. Nói vậy là để chứng minh sự khách quan. Chúng tôi có nhận được một thông tin là bài báo đó do ủng hộ một hiện tượng mê tín dị đoan phản khoa học nên ông trưởng nhóm phóng viên bị thi hành kỷ luật "treo bút" 3 tháng, không biết có đúng không? Nếu đúng thì thật oan cho ông ấy.
Trở lại hiệu quả chữa trị đối với các bệnh nhân trên. Những bệnh nhân trên được T chữa trị có người 10 - 15 ngày, có người chữa 1 - 2 tháng. Có người khỏi như anh Võ Nã, cháu Lê Thị Hằng. Có người giảm được từ 70% đến 50% như chị Lê Thị Lệ, chị Lê Thị Hồng Xuân, bà Đỗ Thị Năm, anh Nguyễn Đăng Bảng. T. chữa hoàn toàn không lấy tiền mà hiệu quả được như vậy là quý trong khi những người này đã chữa ở các cơ sở y tế tốn nhiều tiền mà bệnh không khỏi. Tất nhiên ở bệnh viện cũng đã chữa khỏi, chữa thuyên giảm nhiều người bệnh, nhiều loại bệnh nhưng phải tốn tiền. Ngoài tiền khám bệnh, tiền thuốc theo quy định của Nhà nước, ở bệnh viện còn nhiều loại tiền tiêu cực khác mà người bệnh phải gánh chịu. Còn đến với T. thì không tốn tiền. Đó là cái lý do duy nhất tại sao T. bị cấm bao nhiêu lần mà người bệnh vẫn kéo đến đông. Xin nói lại một điều là T. không có khả năng chữa khỏi mọi người bệnh, mọi loại bệnh. Các bệnh viện từ địa phương đến Trung ương cũng vậy, vì đó là quy luật của tự nhiên. Đừng bao giờ thần thánh hóa người chữa, bất kể là ai.
Phần còn lại của chương này xin tập trung nói về chuyện chữa căn bệnh hiểm nghèo - bệnh ung thư.
Trước hết xin trích lời khẳng định của một bác sĩ nói với các nhà báo: "Trong y văn thể giới từ trước đến nay chưa từng công bố một trường hợp nào chữa trị được ung thư gan". Trải qua các thời đại, bệnh ung thư các loại quả là bệnh nan y, một căn bệnh hiểm nghèo vào loại bậc nhất trên thế giới. Từ lời khẳng định trên. chúng tôi hiểu rằng với nền y học hiện đại trên thế giới, chưa có trường hợp ung thư gan nào được chữa khỏi.
Công bố trên chắc là đúng, vì qua theo dõi chúng tôi thấy y học hiện đại chỉ có thể làm chậm lại, ngăn chặn sự tiến triển của bệnh ung thư gan, chứ chưa có khả năng chữa khỏi hoàn toàn. Nếu bệnh mới ở thời kỳ tiền ung thu hoặc mới nhóm bệnh, được phát hiện sớm, y học hiện đại có khả năng chữa khỏi. Nhưng hầu hết bệnh nhân khi đến bệnh viện đã ở thời kỳ nặng nên bệnh viện cũng đành bất lực.
Đó là y học hiện đại còn các phương pháp khác như y dược học dân tộc, y học năng lượng, thuốc nam gia truyền có chữa được không, xin mời các bạn tham khảo phần chứng minh sau đây.
Qua báo chí trên thế giới và trong nước, chúng tôi thử tìm hiểu xem có nơi nào chữa được căn bệnh quái ác này chưa? Tiếp cận tư liệu. thông tin không nhiều, nhưng chúng tôi đã phát hiện thấy ở Trung Quốc và ngay ở nước ta một số nơi đã chữa được bệnh ưng thư, trong đó có ung thư gan.
Ở Trung Quốc có ông Vương Chấn Quốc đã để cả mấy chục tuổi xuân của mình vào việc nghiên cứu loại thuốc Trung y chống ung thư. Cuối cùng ông đã thành công. Ông phát minh ra loại thuốc mang tên “Thiên tiên dịch” và “Thiên niên nang” được nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới công nhận.
Hai loại thuốc Thiên tiên dịch và Thiên tiên nang được Hiệp hội chống ung thu quốc tế công nhận là loại thuốc có giá trị chống ưng thu vào loại hàng đầu trên thế giới. Ông còn phát minh ra lọai thuốc thứ ba có tên là “Thiên tiên dinh dưỡng", phòng chữa ưng thư, chống lão suy và tăng cường thể lực. Với những thành tích phát minh trên, Vương Chấn Quốc trở thành nhà khoa học Trung Quốc đạt được nhiều giải thưởng, nhiều huân chương cao quý ở giải hạng cao nhất tại một Hội chợ phát minh Quốc tế. Ông được các chuyên gia chống ung thư hàng đầu của hơn 30 nước trên thế giới bầu làm Hội trưởng Hiệp hội chống ung thư quốc tế. Với khả năng chữa ung thư đạt hiệu quả cao, ông được Chủ tịch Giang Trạch Dân đến thăm những bốn lần, cũng là việc hiếm thấy. Thiên tiên nang, đặc biệt là Thiên tiên dịch của ông có tác dụng chữa trị hiệu quả các loại ung thư thực quản, ung thư dạ dày, ung thư ruột, ung thư phổi, ung thư gan, ung thư vú. Tỷ lệ chữa khỏi và kìm hãm bệnh đạt 80,2%. Hiện nay có hàng vạn bệnh nhân ung thư các loại ở hơn 50 quốc gia đã được chữa trị. Hàng chục ngàn bệnh nhân ung thư ở Nhật Bản đã được chữa trị có hiệu quả bằng loại thuốc trên.
Ngay ở Việt Nam ta cũng có mấy nơi chữa được bệnh ung thư bằng y dược học dân tộc.
Cháu Trần Thị Ngọc ở cây số 5, ấp 5 xã Sông Trâu, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, 19 tuổi đang học lớp 11 thì bị căn bệnh hiểm nghèo xơ gan cổ trướng. Chân tay, mặt mày cháu Ngọc bị sưng vù, bụng trướng lớn. Gia đình đưa cháu vào Bệnh viện Thống Nhất điều trị. Sau 20 ngày chữa chạy bệnh ngày càng nặng, không ăn được, thỉnh thoảng bị những cơn đau khủng khiếp. Bệnh viện cho về chờ chết
Bạn bè mách có thầy Bùi Quốc Mẫn ở nhà thuốc Mậu Phước Đường cu trú tại Trà Cổ, xã Bình Minh, huyện Thõng Nhất, tỉnh Đồng Nai - một đông y sĩ gia truyền có thể chữa được bệnh này. Lập tức gia định đưa cháu Ngọc đến gặp thầy Mẫn. Sau khi bắt mạch, chẩn đoán, thầy nói: "Bệnh cháu quá nặng, đã ở thời kỳ cuối”, nhưng động viên gia đình còn nước còn tát. Thầy kê đơn, bốc thuốc dặn về nhà sắc một thang cho cháu uống ngay. "Thuốc rất đắng cố cho cháu uống hết!".
Uống thang đầu tiên cháu đi ngoài nhiều lần, toàn chất nhầy nước đen hôi thối, bụng bớt đau, người nhẹ dần. Uống thang thứ hai, mặt, chân tay, bụng xẹp dần, không bi trướng nữa. Cháu đòi ăn và ăn khá, thấy ngon miệng. Hết thang thú bảy, cháu đi lại, chơi đùa với các em được. Khỏi phải nói bố mẹ cháu mừng như thế nào, nghĩ lại nếu để chậm vài ngày mới đến thầy Mẫn chắc không còn được thấy mặt con nữa. Liều chỉ định của thầy là 40 thang nhưng chỉ sau 20 thang, sức khỏe cháu Ngọc ngày càng hồi phục, cháu đã đến trường học trở lại. Cháu Ngọc thi đỗ đại học, học ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thủ Đức.
Một trường hợp khác, chị Lê Thị Bích Thu 38 tuổi cu trú tại 8G thôn Long Nguyên, xã Long Điền, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vú bên trái nổi lên một cục như hòn bi. Vào Trung tâm ung bướu Gia Định, sau khi làm đủ các xét nghiệm, cả sinh thiết tế bào, kết luận chị bị ung thư vú.
Bệnh viện quyết định mổ cắt khối u và dùng phương pháp xạ trị để tiêu diệt tiếp tế bào ung thư. Được 3 tháng sức khỏe tốt, bệnh viện cho về. Được hơn một năm bị đau lại, chị Thu lại lên Trung tâm ung bướu Gia Định diều trị tiếp. Để ngăn chặn di căn, các bác sĩ quyết định mổ cắt bỏ buồng trứng. Cắt buồng trứng xong, thấy phổi có vấn đề, bệnh viện cho xét nghiệm lại toàn bộ, chụp phim cắt lớp hai lá phổi, và một tin sét đánh đến với chị Thu và gia đình: Ung thư đã di căn vào phổi, gây tràn dịch màng phổi. Bệnh viện lại cho xạ trị, rút nước ở phổi cùng với các loại thuốc đặc trị nhưng bệnh ngày càng nặng. Bệnh viện Ung Bướu cho về sống được ngày nào hay ngày ấy. Không biết làm gì hơn, chồng chị lại đưa chị vào bệnh viện An Bình. Sau 3 tuần điều trị không có tác dụng gì chị được xuất viện về nhà trong điều kiện thập tử nhất sinh. Không lẽ để chị chết, chồng chị lại đưa chị vào Bệnh viện Bà Ria. Vào đây các bác sĩ chỉ còn biết cho chị thở ôxy và truyền Moriamin với độ đạm cao. Người chị chỉ còn da bọc xương và thường xuyên đau đớn gần như không còn sức chịu đựng. Bệnh viện Bà Rịa cho chị về.
Chị biết mình không thoát khỏi cái chết nên đã viết di chúc để lại cho chồng trăn trối lời cuối cùng và hôn mê không còn biết gì nữa. Thân nhân, họ hàng đã dựng rạp, mua quan tài chuẩn bị làm đám tang.
Anh Tiến chồng chị đã có địa chỉ của thầy Mẫn Mậu Phước Đường trước đây hai tháng, nhưng anh không tin, vì các bệnh viện Nhà nước đầy đủ dụng cụ y tế, thuốc men, với những bác sĩ chuyên khoa ung thư tài ba còn bất lực thì một thầy thuốc đông y với những cây, lá, rễ, củ làm sao chữa được căn bệnh quái ác này. Nhưng giờ đây, trước cái chết từng giờ, từng phút của vợ, anh đành đến gặp thầy Mẫn với hy vọng mong manh cuối cùng của người chồng hết lòng thương yêu vợ. Anh trình bày với thầy Mẫn tất cả diễn biến bệnh tình của vợ và cách chữa trị của 3 bệnh viện. Thầy Mẫn lặng lẽ cắt cho anh 3 thang thuốc về uống thử, và chuyện lạ đã xảy ra.
Uống thang đầu, chị Thu hết hôn mê. thấy dễ chịu. Uống hết 3 thang chị nằm được, ngủ tốt hơn và đòi ăn. Trước đó chị chỉ ngồi dựa mới thở được, không ăn được. Cả nhà phải thốt lên đúng là thuốc thánh. Uống hết 20 thang, sức khỏe chị hồi phục, đi lại bình thường. Nhờ những cây, lá, rễ, củ và cái tâm của thầy Mẫn, chị Thu đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, khỏe mạnh, đi làm việc trở lại.
Bạn suy nghĩ gì về hai trường hợp trên? Chúng tôi chỉ có suy nghĩ là đừng bao giờ coi thường Đông y nói chung và Đông y Việt Nam nói riêng. Bác Hồ chúng ta đã từng đề xướng và kêu gọi phải thực hiện Đông Tây y kết hợp đó sao! Tây y có cái mạnh của Tây y, Đông y có cái mạnh riêng của nó. Mỗi phương pháp đều có điểm mạnh và cả mặt hạn chế. Phải kết hợp, bổ sung cho nhau để đạt tới mục đích chữa được bệnh, cứu được người.
Việc dùng Đông y chữa các căn bệnh hiểm nghèo có hiệu quả không dừng lại ở đây. Ở tỉnh Hòa Bình có bà lương y Đinh Thị Phiễn người dân tộc Mường có bài thuốc gia truyền chủ vị là cây xạ đen kết hợp với một số cây, lá khác đã chữa được nhiều bệnh nhân ung thu có hiệu quả. Bài thuốc của bà Phiễn đã được Thiếu tướng, Giáo sư Tiến sĩ khoa học Lê Thế Trung, Phó chủ tịch Hội ưng thư Việt Nam khẳng định bằng nhiều nghiên cứu khoa học, kể cả sưu tầm các kết quả nghiên cứu của nước ngoài về cây xạ đen và họ hàng của nó trong tác dụng chữa trị và ngăn ngừa bệnh ung thư. Mặt khác Sở y tế tỉnh Hòa Bình cũng đã làm một việc rất hợp lòng dân, rất đáng hoan nghênh là bước đầu công bố kết quả nghiên cứu về bài thuốc chữa ung thư của bà Phiễn chứ không ngăn cấm, vùi dập như một vài nơi khác. Có thể nêu một số dẫn chứng hiệu quả chữa bệnh của lương y Phiễn.
Anh Tụ nguyên là lái máy bay ở Hà Nội, ông Bùi 70 tuổi ở Hải Dương, anh Nổi 40 tuổi ở Hà Tây khi đến với bà Phiễn đang ở trạng thái bệnh rất nặng. Sau khi uống thuốc đều đã vượt qua cửa tử, ăn ngủ tốt, các dấu hiệu của căn bệnh quái ác bị đẩy lùi.
Ông Đỗ Văn Tại ở Đội Bình, Ứng Hòa, Hà Tây bị ung thư môn vị đã được bệnh viện mổ vị tràng nhưng không khỏi. Ông cầu cứu đến bà Phiễn. Sau khi uống 60 thang, bệnh khỏi và hiện nay đã khỏe mạnh.
Ông Đỗ Công Đoạn ở Đông Xá, Bình Lục, Hà Nam bị ung thư phế quản trái đã điều trị Tây y nhưng không khỏi. Khối u lớn 6 x 4cm. Sau 2 tháng uống thuốc bà Phiễn, đi kiểm tra X-quang, không còn khối u, chỉ phổi bị xơ hóa. Ông Đoàn hiện sinh hoạt bình thường..
Bệnh nhân ung thư Đặng Văn Được ở 11B Trần Quốc Toản, Trần Phú, Hải Dương. Tây y chẩn đoán ung thư dạ dày, đã mổ cắt dạ dày nhưng bị di căn lên phổi và có hạch ở vùng rốn phổi. Sau khi uống thuốc bà Phiễn một thời gian đi kiểm tra Tây y lại thì u và hạch vừng phổi đã biến mất.
Dẫn chứng kết quả còn nhiều nhưng chỉ xin đưa một trường hợp đặc biệt nữa.
Ông Đoàn Khu Tự ở 20/4 khu phố 7, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tháng 3 năm 2003, bỗng nhiên lưỡi ông bị hoại tử, thối rữa từng mảng, không nói được, không ăn uống được phải dùng bơm. Gia đình đưa ông vào Bệnh viện Pháp - Việt ở thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh viện chẩn đoán ông bị ung thư lưỡi, vô phương cứu chữa. Cả Bệnh viện ung bướu Gia Định, Bệnh viện K Hà Nội cũng đành bất lực. Như vậy là các bệnh viện chuyên khoa cấp cao nhất không làm gì được trước căn bệnh hiểm nghèo. Ông về nhà đợi ngày sang thế giới bên kia.
May sao một người bạn đưa cho gia đình xem tờ báo Công an nhân dân có đăng tin về bài thuốc gia truyền chữa được ung thư các loại của bà Phiên. Thế là gia đình cấp tốc một lần nữa đưa ông ra Hà Nội. Một điều may mắn nữa là ông được gặp Giáo sư Lê Thế Trung và chính Giáo sư đã giới thiệu để lương y Đinh Thị Phiễn khám chữa cho ông. Cách chữa của bà Phiễn là dùng tinh bột xạ đen đắp trực tiếp vào vùng lưỡi bị hoại tử. Và chuyện thần kỳ đã xảy ra. Sau hơn một tháng chữa trị, các vết hoại tử ở lưỡi biến mất, ông Tự bắt đầu nói được, ăn uống bình thường trở lại. Sức khỏe hồi phục và căn bệnh quái ác bị đẩy lui hoàn toàn. Để chắc ăn, ông trở lại Bệnh viện Pháp - Việt làm các xét nghiệm kiểm ta. Các bác sĩ ở đây bị bất ngờ vì sau ba lần sinh thiết ở ba tầng cơ lưỡi của ông Tự đều không phát hiện được một tế bào ung thư nào!
Bà Phiễn có được học hành về y khoa lần nào đâu! Với chuyên khoa ung thư bà lại càng không biết. Chỉ với bài thuốc gia truyền tổ tiên để lại cùng một số gia giảm theo từng loại bệnh, người bệnh, bà đã chữa được căn bệnh ung thư một cách có hiệu quả.
Một thông tin gần đây nhất làm xôn xao nhân dân Cà Mau và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đó là việc chữa bệnh bằng thuốc Nam của anh Hứa Thành Chương ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hơn 3 năm nay anh đã chữa được nhiều bệnh thông thường, đặc biệt là chữa được bệnh ung thư cho nhiều người dân nghèo.
Bố anh là ông Hứa Thành Tâm bị bệnh xơ gan cổ trướng đã chữa ở nhiều bệnh viện, cả ở Trung tâm ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không khỏi chỉ chờ ngày chết. Gia đình đã đi mua đất chuẩn bị đào huyệt. Anh Chương được cử đi Tiền Giang để báo cho bà con về lo tang lễ.
Đến Mỹ Tho, trong một quán nước.,tình cờ anh gặp và làm quen với ông Ba Việt. Anh kể cho ông Ba Việt nghe về căn bệnh xơ gan cổ trướng của bố, quá trình chữa chạy và hiện đang chờ chết ở nhà. Nghe vậy ông Ba Việt kể là trước đây ông cũng bị xơ gan cổ trướng chữa chạy từ tỉnh tới Trung ương mất gần 28 lạng vàng mà không khỏi. Ông bán cả ruộng vườn và đã lập di chúc để lại.
Trong lúc không còn gì để hy vọng, ông được một người bạn ở U Minh cho uống mấy thang thuốc nam. Nhờ mấy thang thuốc đó ông vượt qua được cửa tử, bệnh xơ gan cổ trướng bị đẩy lùi, ông sống khỏe mạnh cho đến ngày nay.
Như người chết đuối vớ được cọc, anh Chương năn nỉ ông Ba Việt xin lại toa thuốc, hy vọng cứu sống bố, và điều kỳ lạ đã xảy ra. Sau khi cho bố uống 26 thang thuốc do tự mình thu hái, sao chế theo đúng toa ông Ba Việt cho, bố anh khỏe mạnh, trở lại bình thường như người chưa từng biết bệnh xơ gan cổ trướng. Năm nay ông đã 80 tuổi.
Anh Chương nghĩ: cái toa thuốc thần này đã cứu được hai bệnh nhân xơ gan cổ trướng trong tình trạng gần đất xa trời, tại sao mình không đem ra cứu giúp bà con nghèo khổ. Nhưng anh lại nghĩ: mình vốn là dân chài lưới, văn dốt vũ dát, không biết một tý gì về y học, ai tin mình chữa được bệnh. Kệ, cứ thử xem sao! Chính từ cái sự thử xem sao ấy, Hứa Thành Chương trở thành thầy thuốc nổi tiếng suốt dọc vùng sông nước Cà Mau, cả vùng sông Tiền, sông Hậu. Thấy uống thuốc thầy Chương có hiệu quả, thầy lại không lấy tiền, dân nghèo từ bốn phương kéo đến ngày càng đông.
Ban đầu anh chỉ dám hốt thuốc cho những người mắc bệnh thông thường. Anh lại thử hốt cho những phụ nữ bị viêm loét tử cung - một bệnh tương đối phổ biến đối với chị em vùng sông nước. Điều thần kỳ xảy ra là toa thuốc ấy cũng chữa được bệnh viêm loét tử cung. Bệnh nhân uống vào đều khỏi. Như vậy Hứa Thành Chương chẳng những chữa được bệnh thông thường mà anh đã chữa được các bệnh khó như xơ gan cổ trướng, viêm loét tử cung, ra máu trắng, thận ứ nước, cả viêm gan siêu vi B, C.
Người khỏi bệnh rất nhiều không kể hết được, chỉ xin đưa một dẫn chứng điển hình.
Chị Lê Thị Thùy Dung quê gốc ở Sông Đốc Cà Mau theo chồng sang định cư ở Úc. Bỗng nhiên chị bị ốm nặng phải vào bệnh viện. Các bác sĩ Úc sau khi làm xét nghiệm kết luận chị bị ung thư tử cung, khối u có kích thước 60mm.
Đầu năm 2002, chị đã làm mọi thủ tục, đóng trước viện phí 10.000USD chờ ngày nhập viện để mổ. Chưa biết được kết quả sau khi nhập viện thế nào, chị đưa chồng con về thăm quê để lỡ xảy ra điều chẳng lành sau này khỏi phải ân hận.
Về quê nhà ở thị trấn Sông Đốc, người nhà đưa chị sang anh Hứa Thành Chương khám và hốt thuốc uống thử. Uống được 10 thang, nhân đưa con lên thành phố Hồ Chí Minh thăm bạn bè, chị vào Bệnh viện Hòa Hảo kiểm tra bằng siêu âm. Chuyện lạ bắt đầu xảy ra. Khối u qua siêu âm chỉ còn 30mm, nhỏ được một nửa. Về Sông Đốc uống tiếp 15 thang nữa chị nhớ chồng con phải trở về Úc.
Đến đây mới thật là thần kỳ. Vào bệnh viện Úc kiểm tra lần cuối, bệnh viện đã hoàn lại số tiền cho chị vì khối u không còn. Chị đã hoàn toàn khỏi bệnh. Vợ chồng chị quá đỗi vui mừng gọi điện thoại về Sông Đốc báo tin vui, hết lòng cám ơn thầy Chương, gửi biếu thầy một chai rượu quý và một tút thuốc lá.
Xin đưa một dần chứng nữa về chữa trị bệnh ung thư gan. Anh Trần Đương Sang ở thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định 72 tuổi bị đau vùng gan. Vào bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh, cả 2 bệnh viện sau khi khám nghiệm kiểm tra, làm sinh thiết đều thống nhất kết luận là anh Sang bị ưng thư gan. Bệnh viện Chợ Rẫy quyết định anh phải vào để tiến hành xạ trị, hóa trị. Gia đình không đủ tiền xin về tìm cách chữa khác.
Có người mách nên dùng mật gấu may có thể chữa được, ít ra là có thể kéo dài cuộc sống. Người nhà lên Buôn Ma Thuột tìm mua được một cái mật gấu cho anh uống. Liều lượng dùng theo hướng dẫn của một lương y. Sau khi dùng hết cái mật gấu, vùng gan không đau nữa. Anh đã vào viện kiểm tra lại, không còn dấu hiệu của bệnh ung thư gan. Đến nay, đã qua 5 năm, anh Sang hoàn toàn khỏe mạnh, thân thể tráng kiện. Tôi đã gặp anh vài lần, hỏi anh và viết lại câu chuyện này.
Để dừng lại phần dẫn chứng hơi nhiều này, chúng ta thấy gì? Riêng chúng tôi thấy: Trong khi y văn thế giới từ trước đến nay chưa từng công bố một trường hợp nào chữa trị được ưng thư gan thì ở Việt Nam ta có những công dân xuất thân là đông y sĩ, thậm chí là nông dân, bạn chài lưới với một vài bài thuốc gia truyền đơn giản đã chữa được các loại bệnh nan y, hiểm nghèo. Điều đó đúng là khó tin nhưng là chuyện có thật. Và, chuyện lạ có thật ở nước ta còn nhiều chưa phải đã hết.
Viết những câu chuyện này, chúng tôi muốn qua thực tế cuộc sống chứng minh một điều. Ở nước ta, dân tộc ta, thời nào cũng có những người tài, những người có khả năng đặc biệt trên nhiều phương diện. Vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu, nghiên cứu, xác minh, khai thác, tạo điều kiện cho họ phát huy, phát triển, phục vụ lợi ích cho dân, cho nước, không nên vội quy chụp, trù dập. Tất nhiên phải phân biệt đâu là thật, là khoa học, đâu là giả, là lừa bịp, mê tín dị đoan.
Giờ xin trở lại câu chuyện T. chữa bệnh, đặc biệt là T. có chữa được bệnh ung thư không?
Trở lại năm 1998, T. có chữa hai trường hợp báo chí nói nhiều.
Trường hợp thứ nhất là anh Nguyễn Ngọc Trai ở tổ 19 phường An Mỹ, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Anh bị đau vùng gan vào bệnh viện Tam Kỳ xin điều trị. Theo các bác sĩ nói với nhà báo: Qua siêu âm thấy gan to hơn bình thường, có biểu hiện sưng tấy. Từ kết quả siêu âm, các bác sĩ kết luận: Trai bị viêm gan cấp với bệnh lý viêm gan mãn, có khả năng ung thư gan nguyên phát. Đây mới là chẩn đoán ban đầu, để chắc chắn có phải ung thư gan thật không phải tiến hành thử Test, trong đó có xét nghiệm sinh hóa (alpha - photo protéin) và làm sinh thiết mẫu vật. Thế nhưng chưa kịp tiến hành thì Trai xin ra viện. Theo anh Trai kể: "Chữa ở bệnh viện tốn nhiều tiền mà tôi thì nghèo không biết có khỏi không, tôi đến thầy T., vấn đề quan trọng là chữa không tốn tiền nên tôi xin thầy chữa. Chữa được một tháng 4 ngày, thấy bệnh thuyên giảm rõ rệt". Hiện nay qua 3 năm rồi anh vẫn khỏe mạnh, bình thường. Chúng tôi cứ cho là anh Trai bị viêm gan sưng tấy, nghi ung thư như bác sĩ đã nói chứ chưa khẳng định là ung thư mà T. chữa khỏi đã là quý.
Trường hợp thứ hai là bà Nguyễn Thị Vinh ở xã Tam Anh, huyện Núi Thành bị đau ở vú. Bà được một bác sĩ tên Từ, người cùng địa phương khám, chẩn đoán bà bị ung thu vú. Được T. chữa trong thời gian một tháng, bệnh đã khỏi. Bà chưa qua xét nghiệm và làm sinh thiết ở bệnh viện, do đó cũng chưa chắc là bà bị ung thu vú. Cứ cho bà bị u lành ở vú, T. chữa khỏi vẫn là tốt.
Việc T. chữa các loại bệnh ung thư, tuy hiện nay đã có một số tư liệu nhưng để thật chắc chắn, chúng tôi cần có thời gian ới gặp từng người bệnh theo dõi thật kỹ từng trường hợp, nhất là phải được y học hiện đại làm sinh thiết xét nghiệm, kiểm tra, xác minh. Do vậy phần này xin tạm dừng ở đây. Sau này có điều kiện tái bản, chúng tôi sẽ bổ sung. Mong các bạn thông cảm.
Chương 3
KHẢ NĂNG BIẾT TRƯỚC SỰ VIỆC
Với những khả năng đặc biệt, T. không chỉ chữa bệnh có hiệu quả mả còn nhiều khả năng kỳ lạ khác. Chương này dành nói về khả năng biết trước sự việc của T. dân gian gọi là tiên tri.
Chuyện đầu tiên. Hôm đó, ba anh em cùng T. có việc phải đi một tỉnh xa. Ra bến xe, anh em vào mua vé đi chuyến ô tô khách đầu tiên (trong đó dân gọi là "tài một”). Khi đến trước chiếc xe "tài một". T. bảo vào phòng vé đổi lại đi chuyến sau (tài hai). Anh em thắc mắc bảo đi tài một cho sớm, sao lại đổi đi tài hai. T. đứng trước xe nói: "Xe này chạy khoảng 70 cây số thì bị tai nạn, không nên đi, chỉ vậy thôi!".
Người lái xe và hành khách ngồi trên xe đều nghe T. nói. Người lái xe đứng lên chỉ vào mặt T. nói: "Ông có điên không đấy! Xe sắp chạy ông nói cái quái gì lạ thế! Không đi thì thôi, ai cần ông đi, cút đi cho khuất mắt". Lái xe còn chửi T. những lời thậm tệ.
Anh em vào phòng vé đổi vé đi xe sau. Xe T. chạy khoảng 70 cây số nhìn thấy chiếc xe chạy trước nằm lật dưới ruộng. Hai người chết, một số người khác bị thương. Lái xe chính chết. Xe của T. phải dừng lại. T. cùng anh em cả hành khách đều xuống xe. Người lái phụ của chiếc xe bi lật vừa thấy T. liền sụp lạy nói: “Trời ơi! Ông biết trước xe ra đây bị tai nạn sao ông không ngăn lại đừng cho chạy để đến nông nỗi này!” T. nói: "Anh nghe rõ ràng nhé, tôi mới chỉ nói có thế mà bạn anh đã chửi tôi một trận thậm tệ, tôi làm sao ngăn được!”
Anh em đi cùng T. qua một phen hú vía. Nếu T. không bảo đi đổi vé, bây giờ không biết sẽ ra sao?
Chuyện có tai nạn giao thông trên đường các bạn đã biết. Công an đến làm biên bản, gọi xe cấp cứu đưa người bị thương đi bệnh viện, xử lý người chết, giải tỏa giao thông không kể làm gì.
Chuyện thứ hai. Hai vợ chồng người nông dân nghèo nọ muốn nuôi lợn mà không có tiền. Có người bày đem giấy sở hữu đất lên ngân hàng thế chấp sẽ vay được tiền. Mừng quá vì sẽ có tiền nuôi lợn, hai vợ chồng đem giấy tờ lên ngân hàng và vay được hai triệu đồng. Có tiền rồi, vợ chồng lo sửa sang chuồng trại, máng ăn, chuẩn bị thức ăn cho những con lọn sắp nuôi.
Trong khi chờ đến phiên chợ có bán nhiều lợn giống, vợ chồng đem gói tiền hai triệu dúi trong bồ thóc. Đến phiên chợ, hai vợ chồng dậy sớm ra bồ lúa lấy tiền đi mua lợn thì ôi thôi gói tiền đã không cánh mà bay. Cả vợ lẫn chồng như người mất hồn bỏ cả ăn uống. Như vậy là có trộm vào nhà mình lấy tiền, lấy gì mua lợn và làm sao có tiền trả ngân hàng. Cả ngày vợ chồng chỉ biết than ngắn thở dài. Bỗng nghĩ ra điều gì, bà vợ nói với chồng: "Tui nghe bà con nói ở xã bên có một ông tên T., ông này giỏi lắm, chuyện gì ông cũng biết. Vợ chồng mình sang đó nhờ ông thử xem may ra!".
Hỏi được địa chỉ rồi, vợ chồng liền đến gặp T. Vừa bước vào nhà, T. cười nói ngay: "Ông bà bị mất tiền, đến nhờ tôi giúp phải không?". Ông chồng thưa: "Dạ, ông tài quá chưa nói mà ông đã biết, ông cố giúp cho! Thưa ông, gay quá, đã nghèo lại gặp cái eo! Loại phi nghĩa này nếu trời không tru thì đất cũng diệt nó!".
T. ngồi định thần một lúc rồi bảo: "Ông bà cứ bình tĩnh, tôi sẽ cố giúp thử được không? Nhưng hiện giờ thì chưa được vì kẻ lấy tiền của ông bà tiêu hết rồi!" T. lại định thần nhẩm tính trên đầu các ngón tay, nói tiếp: 'Tôi ghét loại người trộm cắp này lắm! Tôi sẽ bắt nó trả lại tiền cho ông bà. Ông bà phải chịu khó đợi đến ngày X tháng tới. Đúng ngày tôi dặn, ông bà đến bồ lúa moi lên sẽ thấy lại túi tiền. Số tiền vẫn đủ như lúc mất nhưng loại tiền thì nhiều loại không giống như trước chỉ một loại!".
Vợ chồng cám ơn T. rối rít rồi chào ra về. Dọc đường ông chồng bảo vợ: "Chẳng lẽ ông tài tới mức biết kẻ cắp đã tiêu hết tiền giờ ông bắt nó phải chạy cho ra tiền để trả lại chỗ cũ cho mình! Nếu đúng vậy ông này là Phật, là Tiên chứ không phải người thường". Tin thì tin rồi nhưng thấy việc khó quá nên bán tín bán nghi.
Đúng ngày T. dặn, vợ chồng hồi hộp đến bồ lúa bới sâu xuống quả đụng gói tiền đã mất. Vợ chồng ngồi đếm, đúng hai triệu không mất đồng nào. Chỉ có điều khác là khi nhận ở ngân hàng về toàn giấy một trăm, nhưng giờ thì đủ loại, vừa một trăm, vừa năm chục, cả loại hai chục và một chục.
Không có nỗi mừng nào bằng, hai vợ chồng mua bánh trái lên tạ thầy. Gặp T., T. chỉ cười: "Thấy tiền rồi phải không? Có đủ không?” Ông chồng nói: "Dạ thưa ông, đủ không thiếu đồng nào, chỉ khác là nhiều loại tiền”. T. lại nói: "Tiền lấy được nó tiêu xài hết, nó không ngờ bị bắt phải trả lại nên phải chạy đi vay kẻ ít, người nhiều cho đủ số. Tôi không nhận quà đâu, ông bà mang về!".
Làm sao giải thích được chuyện này.
Một chuyện khác. Ở xã bên có vợ chồng một gia đình nông dân quá nghèo, chỉ biết làm ruộng, không có nghề phụ gì khác nên cuộc sông rất bần hàn, cơ cực. Lao động một nắng hai sương mà không đủ nuôi hai con ăn học, không có tiền đóng học phí cho con.
Một hôm cả hai vợ chồng đến gặp T. Kể nỗi khổ của gia đình cho T. nghe và nhờ ông có cách gì giúp cho để bớt khổ. Xin nói thêm, tôi đã đến vùng này nhiều lần. Tình trạng nghèo khổ trên không phải chỉ có gia đình này mà nhiều gia đình khác cũng trong tình trạng đó.
Tôi đến thăm T., nhưng ban đêm có lúc không ngủ nhà T. mà sang nhà hàng xóm ngủ để tránh công an thấy nhà T. đông người đến lập biên bản. Ở nhà hàng xóm nhiều lần, tôi như người thân của gia đình. Một hôm về quê tôi mang đến cho gia đình này một ki-lô lá long tu - loại lá bổ dưỡng. Tôi hướng dẫn gia đình cách làm rượu thuốc long tu. Chỉ cần một cân đường, một lít rượu là làm được. Vậy mà, khi trở lại hỏi làm rượu long tu xong chưa? Cả nhà nín thinh. Sau mới biết là cả nhà không làm gì có tiền để mua đường và rượu. Tình trạng chung là thóc làm ra chỉ đủ ăn với rau mắm qua ngày, không làm gì ra tiền. Muốn có tiền chỉ có cách bán thóc, mà bán thóc rồi lấy gì ăn. Có lúc cả nhà không có lấy năm nghìn đồng.
Trở lại đôi vợ chồng nông dân nghèo gặp T. Sau khi nghe vợ chồng than nghèo kể khổ, T. bảo: "Chỉ có cách phải cày sâu cuốc bẫm thôi! Ông bà cày cuốc cạn hịt làm sao hoa màu tốt được mà có tiền lo cho con. Nghe lời tôi mùa sắp tới phải cày cuốc thật sâu mới vượng lên được!".
Vợ chồng về thực hiện như lời T. dặn, ra sức cày sâu cuốc bẫm. Đến mùa thu hoạch, thóc lúa hoa màu tăng tiến hơn trước. Đời sống có khá lên chút ít, nhưng chưa thể thay đổi cảnh sống nghèo khổ. Vợ chồng lại lên gặp T. nói lại kết quả thực hiện lời T. dặn. T. bảo: “Ông bà có thực hiện đúng lời tôi đâu mà bảo không kết quả. Tôi bảo cày sâu, cuốc sâu, phải sâu nữa mới có kết quả làm như gãi đất làm sao có kết quả tốt được!".
Về nhà chồng bàn với vợ: "Bà nghe ông dặn kỹ rồi đó! Nhưng tôi vẫn thấy có cái gì khó hiểu. Mùa rồi mình đâu có gãi đất, cày cuốc sâu đấy chứ! Thôi lần này ta đào thật sâu xem sao!". Thế là vợ chồng hì hục đào xới cả khoảnh vườn rộng. Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm. Lần này thì chuyện lạ đã xảy ra. Đào xới đến độ sâu nhất định ở một góc vườn, lấp loáng dưới ánh trăng thượng tuần, vợ chồng thấy hiện ra nhiều lá vàng, ông chồng thì thẩm bên tai vợ: "Bà ơi, trời cho rồi, trời cho rồi, đổi đời rồi!" Bà vợ cãi lại: “Không phải trời cho mà là ông T. cho!". Vợ chồng thu gom lại tất cả được 21 lạng.
Lúc này vợ chồng mới thấm thía lời ông T.. Như vậy ông biết dưới mảnh vườn nhà mình có vàng nên ông bảo phải cày sâu, cuốc bẩm, đào chưa sâu, chưa tới ông bảo gãi đất. Như vậy không lo con thất học. Phải phấn đấu cho con vào đại học, chứng nó đều học khá cả.
Vợ chồng tìm nơi bí mật cất 11 lạng còn 10 lạng mang tới gặp T. vì nghĩ rằng được thế này tất cả đều nhờ ông mà gia đình ông cũng nghèo nên kính ông một nửa là thỏa đáng. Vợ chồng minh chi có công đào thôi! Ông không tận tình chỉ bảo làm sao mình có được! Lúc gặp T., đưa gói vàng ra trình bày, nói gì T. cũng không nghe, bắt phải mang về, còn nói: "Không phải giúp cho ông bà để tôi cũng được đâu đấy! Tôi không dùng thứ đó, nếu muốn lúc nào tôi chả có! Thôi, để giành lo cho gia đình, lo cho con ăn học!".
Không thể nói gì hơn, vợ chồng hết lời cảm tạ T. ra về rất mừng nhưng vẫn chưa vui vì chưa đền đáp được công ơn của ông.
Trong xóm của T. ở có một ông lão khoảng 70 tuổi thân với T.. Hàng ngày ông thường sang nhà T. chơi, lúc nào thấy T. rảnh là mời T. đánh cờ. Một hôm, đánh cờ xong T. nói với ông già: "Tháng này là tháng rất xấu đối với ông, nhất là vào ngày N. Đúng ngày đó, từ sáng đến tối, ông không được ra khỏi nhà. Ông phải nhớ lời tôi dặn, nếu không ông bi chết đấy!". Ông già vâng dạ cám ơn, lấy giấy ghi ngày T. dặn, sợ quên.
Đúng ngay N. ông già nhớ lời T., không dám đi đâu. Nhưng có một việc là sáng nào ông cũng tập thể dục. Tập xong ông chạy lúp xúp theo lề đường quốc lộ 1. Hôm đó cũng vậy, ông nghĩ mình có đi đâu mà sợ, chạy bên lề đường chắc không việc gì. Bỗng một chiếc xe tải chạy cùng chiều không hiểu thế nào đang chạy giữa đường lạng bánh vào lề đường tông ông già chết ngay tại chỗ. Ông được báo trước cái chết nhưng vẫn không tránh khỏi. Phải chăng đến ngày đó, số mệnh ông đã hết? Chúng tôi nghĩ nếu hôm đó ông không đi tập thể dục như mọi hôm, chỉ ở trong nhà thì ông có tránh được cái chết không?
Chịu, không trả lời được!
Nhân chuyện này kể luôn chuyện ông Sáu Nuôi.
Ông Sáu Nuôi ở thị xã Hội An là một huynh đệ có thể nói là thân tín nhất trong hàng huynh đệ của T. Thảng tuần không thấy ông Sáu Nuôi lên, thế nào T. cũng xuống thăm ông, không gặp không chịu được. Một tình cảm hơi đặc biệt. Ông Sáu Nuôi hơn T. những 30 tuổi.
Sáng hôm đó, ông Sáu Nuôi ngủ dậy, bỏ chân bước xuống đất, chân bi vướng ống quần làm ông ngã nhào, đầu gối dập xuống nền xi măng làm ông rất đau. Gia đình lo sợ náo loạn cả lên.
Lúc này T. đang ở nhà mình. Bỗng nhiên. T. nói với người nhà và anh em có mặt lúc đó: "Ông Sáu Nuôi vừa bị tai nạn, có thể gãy chân, tôi phải xuống ngay!". Thế là T. mượn xe máy phóng thẳng đi Hội An. Đến nơi, T. vào xem chân ông Sáu Nuôi, vận công phát vào đau gối và bấm một số huyệt. T. nói: "Chân không sao, nhưng xương bánh chè bị vỡ đôi. Tôi chỉ giúp ông bớt đau thôi, phải nhanh chóng đưa ông đi bệnh viện”.
Đến bệnh viện, sau khi làm X quang, các bác sĩ kết luận: Xương bánh chè bị vỡ đôi, phải làm phẫu thuật để ghép xương lại. Làm phẫu thuật xong T. xin đưa bệnh nhân về nhà. Bác sĩ dặn về cũng được nhưng vết ghép sau 1 tháng mới liền, phải bất động. Đến tháng thứ hai bắt đầu tập cử động đề đầu gối khỏi cứng. Sau đó, mới chống gậy tập đi dần. Đây là một thương tổn khó và phức tạp phải rất cẩn thận.
Về nhà T. ngày nào cũng xuống chữa cho ông. Chỉ sau một tháng, ông đã đi lại bình thường và khỏe mạnh.
Sau lần đó, T. biết ông Sáu Nuôi số đã hết. Anh em chỉ còn sống với nhau hơn một năm nữa thôi! Quả đúng như T. dự đoán. Một năm sau ông Sáu Nuôi bị tai biến mạch máu não và qua đời để lại mềm thương tiếc vô hạn cho T.
Riêng T., T. biết trước ngày tháng mình bị tai nạn ô tô rất nặng nhưng không chết. Lần đó có kỹ sư Xuân từ Hà Nội vào chơi với T. cả tháng trời. Hàng ngày T. đưa Xuân đi bằng xe máy nhiều nơi. Đến một hôm, vào buổi chiều gần tối, T. bảo Xuân chuẩn bị hoa quả đi thăm ông Sáu Nuôi. Lúc này ông Sáu Nuôi bị tai biến não nằm một chỗ. Xuân chuẩn bị các thứ xong định lên xe cùng T. tới Hội An thì T. bảo: "Hôm nay ông phải ở nhà, chỉ mình tôi đi thôi!" T. không nói lý do vì sao không để Xuân đi, Xuân thấy lạ đành ở nhà, không hỏi. Sau này Xuân mới biết là hôm đó T. bi tai nạn nên không cho mình đi.
Trên đường từ Hội An về, đến khoảng huyện Thăng Bình thì T. bị một chiếc xe tải cùng chiều chạy với tốc độ cao từ phía sau đâm vào xe T. làm T. văng xa hơn 10 mét đập đầu vào miệng cống trên quốc lộ 1. Lúc này là 2 giờ sáng. Dân ở vùng đó phát hiện báo cho bệnh viện Thăng Bình. Bệnh viện đưa xe cấp cứu đến thấy tình trạng T. quá nặng. không dám để lại bệch viện huyện mà đưa thẳng ra Đà Nẵng.
Nhân đây kể thêm một số chi tiết lạ của T. Ở Bệnh viện đa khoa Đà Nẵng để các bạn tham khảo.
Qua chẩn đoán ban đầu của bệnh viện. T. bị chấn thương sọ não với 3 vết thương, hai trước, một sau, mỗi vết dài 5 - 7cm. Xương sống bị chấn thương nặng làm tê liệt toàn thân. 6 xương sườn bên trái bi gãy. Trạng thái lúc này của T. là toàn thân cứng đờ không cử động được nhưng vẫn tinh táo, nói chuyện bình thường, không hôn mê. Các bác sĩ bảo trường hợp này rất lạ ít khi gặp. Thông thường bị chấn thương nặng cả sọ não và xương sống thì chết ngay tại chỗ, nếu chưa chết cũng bị hôn mê sâu triền miền. Ngược lại T. vẫn nói chuyện với bác sĩ bình thường. Việc gãy sáu xương sườn, các bác sĩ quyết định mổ để lấy máu trong bụng ra. Nếu không lấy máu ở ổ bụng rất nguy hiểm đến tính mạng, nhưng T. yêu cầu không mổ mà chỉ yêu cầu bác sĩ mấy việc: Khâu giúp ba vết thương trên đầu và bó bột lồng ngvc để giữ cho các xương sườn gãy trở lại bình thường.
Bệnh viện theo yêu cầu làm xong các việc đó, T. xin thanh toán viện phí và xin ra viện. Cả bệnh viện ngạc nhiên. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị. Riêng việc thử máu, sau này hỏi lại mới biết là máu T. không có cách nào thử được.
Bệnh viện cho T. về nhưng chắc chắn một điều là về nhà T. sẽ chết, không thể chịu nổi trước những thương tổn quá nặng đến mức ấy.
Về nhà được 3 ngày, bệnh viện cử 2 bác sĩ vào theo dõi tình trạng của T., thấy T. không chết, chỉ nằm không cử động, T. vẫn ăn uống được, tất nhiên là phải có người chăm bón. Sau 15 ngày, T. bắt đầu cử động.
Sau 1 tháng T. đứng dậy, đi lại bình thường. Lần thứ hai, các bác sĩ ở bệnh viện Đà Nẵng vào thấy vậy quá sức ngạc nhiên. Các bác sĩ bảo phải sau 3 tháng mới được tháo bột. Vừa đúng một tháng, T. bảo người nhà tháo bột vì thấy khỏe mạnh bình thường rồi nhưng không ai dám tháo vì việc tháo bột phải do bác sĩ làm.
Một buổi chiều. T. gọi cô L. con dâu bà N., chị em bạn dì với T. giúp T. tháo bột. T. lấy dao đưa cho L nói: "Cô cắt ra cho tôi, tôi chịu trách nhiệm, không việc gì mà sợ!" L. buộc phải chấp hành, cắt tháo bột cho T.
Từ buổi tháo bột đó, T. hoàn toàn khỏe mạnh, bình thường như người chưa từng bị tai nạn suýt chết. Sau lần tai nạn khủng khiếp này, T. bảo còn bị một lần nữa không kém nguy hiểm, hai mắt bị mù, nhưng sau đó sáng lại và không chết.
Thời gian sẽ trả lời cho dự báo này!
Chương 3 (B)
Kể thêm vài chuyện vặt biết trước của nhân vật này.
Nhân một lần ra Hà Nội, T. đang ngồi với năm ba anh em huynh đệ ở nhà ông M. một người bạn. T. vừa cười vừa bảo ông H.: “Vợ ông có một căn hộ cho thuê. Hôm trước có một cô thợ may đến gặp vợ ông hỏi thuê nhà. Vợ ông ra giá tám trăm ngàn. Cô thợ may xin thuê với giá bảy trăm ngàn. Vợ ông cuối cùng chấp nhận và bảo cô thợ may phải đặt trên cọc để nếu ai trả hơn cũng dành cho cô. Cô thợ may hỏi đặt cọc bao nhiêu? Vợ ông nói hai trăm. Cô thợ may lục túi chỉ có một trăm. Vợ ông bảo cũng được và nhận một trăm tiền đặt cọc. Chuyện này ông không biết. Chiều nay ông về hỏi vợ, nói lại những điều tôi nói xem có đúng không? Nếu đúng ông bảo vợ ông xuất một trăm đặt cọc đó xuống đây chiêu đãi anh em. Nếu sai hoặc không đúng tôi xin chịu phạt lại một trăm chiêu đãi”. 
Chiều hôm đó, ông H. về gặp vợ nói lại những điều T. nói. Bà vợ trố mắt ngạc nhiên: "Chuyện này ngay ông cũng không biết, làm sao ông T. biết được?" Ông H. nói: "Bà chỉ trả lời ông T. nói đúng không thôi!" Bà vợ trả lời: “Hoàn toàn đúng!".
Ông H. không bảo vợ đưa tiền vì đoán chắc bà sẽ không đưa nên lấy tiền túi xuống gặp T., T. chỉ cười: “Cà rửng với các ông cho vui thôi, chứ lấy tiền bà ấy làm gì!".
Một chuyện khác. Một tuần trước khi đến gặp vợ ông H. hỏi thuê nhà, chính cô thợ may này đã đi xem một căn hộ khác. Xem xong cô về quán cơm chay trên đường Thái Hà gặp ông T. nhờ ông đi coi thử nhà này có hợp với cô không? Cô biết lúc này ông T. đang ở quán cơm chay với mẹ cô. Lúc này tôi (người viết) cũng đang có mặt tại đó. Cô thợ may vừa bước vào cửa, T. nói: “Tôi biết cô gặp tôi nhờ việc gì rồi! Cô đừng nói để tôi nói cho!".
Một lát sau. T. nói: "Cô định nhờ tôi đi xem căn hộ cô vừa đi xem về, có nên thuê không chứ gì? Tôi không cần đi, ngồi đây tôi đã xem kỹ nó rồi!". T. cười nói tiếp: “Căn hộ đó nằm ngay dưới chân một cái dốc hơi cao, nhà hai tầng, mặt bằng khoảng 30 mét vuông. Trước nhà phía bên phải có giàn giây leo rủ xuống lòng thòng. Có thể ở được nhưng không tốt lắm đối với hiệu may của cô. Nếu muốn thuê, cô phải làm các động tác tẩy uế! Tôi biết chỉ có vậy!" Cô thợ may quá đỗi ngạc nhiên, nghĩ làm sao ông biết tường tận như vậy! Cô trả lời: “Ông nói không sai một chi tiết nào!" Mẹ cô ngồi một bên nghe xuýt xoa thán phục.
Một hôm, tôi đang ngồi ở nhà T., có hai thanh niên, một nam, một nữ đến nhờ T. chữa bệnh. Bỗng T. nói luôn: “Này hai bạn không còn chỗ nào hôn nhau sao đi vào đường luồng trước nhà tôi ôm hôn nhau thắm thiết thế không sợ ai thấy người ta cười cho à!". Cả đôi nam nữ đỏ mặt tía tai ngồi im không dám có lời nào.
Chữa bệnh xong lúc chàng và nàng ra về, tôi theo ra cổng hỏi riêng chàng thanh niên: "Ông nói có đúng không?” Chàng thanh niên vừa thẹn vừa nói: "Thưa ông, bọn cháu mới yêu nhau, thấy đường luồng vắng vẻ nên có làm việc ấy thật, ông thông cảm cho!".
Một buổi sáng khác, vào lúc 11 giờ, một anh trung niên độ 40 tuổi là huynh đệ của T. đến rủ T. đánh cờ. T. cười cười bảo: "Này, ban đêm ông bận lắm hay sao, hay thiếu thì giờ mà 9 giờ sáng nay vợ chồng ông làm cái chuyện ấy giữa ban ngày, không sợ con cái nhìn thấy sao?” Ông bạn kia đỏ mặt phải thú thật: “Vợ mình nó biểu làm, không phải tại mình”. T. lại bảo: "Chuyện đó ông với vợ ông biết làm sao tôi biết được! Nhớ đừng để con biết, nó biết thì phiền đấy!".
Những chuyện vặt đó đối với T. là bình thường. Muốn biết điều gì, định thần là biết ngay.
Một câu chuyện nữa khá ly kỳ, rất khó tin mang nhiều tính huyền hoặc nhưng là chuyện có thật nên viết để các bạn rộng đường tham khảo.
Vào một buổi tối, khoảng 19 giờ, năm bảy anh em đang ngồi trong nhà với T.. bỗng nhiên T. hỏi: "Các ông đã bao giờ nhìn thấy một ngôi sao lạ trên bầu trời này chưa?". Mọi người trả lời chưa nhìn thấy và cũng không biết có chuyện đó. T. nói: trước khi chỉ cho các ông xem, tôi nói qua về chuyện ngôi sao này. Đến tháng này thì sao lạ mới xuất hiện trên đầu chúng ta. Qua theo dõi ngôi sao nhiều lần, một số chiêm tinh gia nước ngoài phát hiện ở vùng này có một nhân vật lạ. Họ cử người đến gặp nhân vật đó và tìm mọi cách thuyết phục dụ dỗ. Nếu đi với họ sẽ được trọng vọng, sung sướng, không bị trù dập, không khổ như hiện nay. Nhân vật này nói thẳng với họ là không bao giờ rời khỏi quê cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Thấy không dụ dỗ được, họ dùng đủ mọi cách họ có được để thực hiện bằng được ý định trên. Chuyện đó nói sau, bây giờ các ông ra ngoài sân nhìn lên trời đi!".
Thấy chuyện lạ, tất cả anh em có mặt đều ra sân. Nhìn lên chỉ thấy bầu trời đen kịt, đầy mây đang vần vũ, trần mây rất thấp. Ngoài ra không thấy gì khác. T. nói: "Các ông cứ yên tâm theo dõi, chốc lát rồi sẽ thấy". Nói xong, anh em thấy T. đưa cả hai tay lên trời khoác đi, khoác lại. Độ năm phút, những đám mây đen tản ra để lộ một khoảng trời xanh thẳm với một ngôi sao sáng chói. T. nói: "Thấy rồi phải không. Thôi vào nhà đi, trời sắp mưa đấy!". Anh em không ai chịu vào, đứng nhìn mãi ngôi sao cho đến khi những đám mây đen kéo trở lại che kín ngôi sao và cả khoảng trời.
Trở lại chuyện các chiêm tinh gia. Không dụ dỗ được T. theo họ, họ thuê người chờ lúc T. không có nhà giả làm người bệnh đến bí mật, yếm bùa trước cổng, chung quanh nhà. Mỗi lần có người đến đặt bùa, T. về đến cổng là biết ngay, moi lên đốt đi. Đã bốn lần như vậy. Đến lần thứ năm, cũng là lần cuối cùng thì sự việc diễn ra khác những lần trước. Diễn biến câu chuyện như sau:
Hôm đó T. đang trong nhà bỗng có một đoàn khách gồm năm người trong đó có ba người lạ mới đến lần đầu có một người làm phiên dịch. T. mời ngồi và câu chuyện bắt đầu.
Một vị đứng lên nói: "Chúng tôi ở xa, được biết ông là người có nhiều tài năng đức độ nên đến thăm sức khoẻ ông. Nếu ông đồng ý chúng ta ra ngoài vườn nói chuyện thoải mái hơn và xin phép ông cho vài người ở lại thắp hương trên bàn thờ gia tiên”. T. đồng ý. Thế là T. ra vườn với ba bị khách. Ngoài vườn, dưới hàng cau có bóng cây râm mát, có sẵn ghế nhựa để anh em đến đánh cờ.
An tọa xong, vị khách tỏ lời ca ngợi, mến mộ việc T. chữa bệnh có hiệu quả mà không lấy tiền của ai và nhiều tài năng khác. Bỗng nhiên T. đứng lên nói với một thái độ nghiêm trang. "Các ông bảo đến thăm tôi với thiện chí và tấm lòng trân trọng, vậy các ông hãy vào nhà, tôi sẽ chứng minh thiện chí của các ông". Nói xong, T. lặng lẽ đi vào nhà buộc các vị khách phải đi theo.
Vào nhà T. vọt lên bàn thờ cao lật chiếc lư hương lấy ra một gói nhỏ mở ra nói: "Đây, thiện chí của các ông đây! Tôi nói để các ông biết, từ lúc các ông vào đây tôi đã biết các ông từ đâu đến, đến đây định làm gì, không qua mặt tôi được đâu”. Các vị khách im như thóc, mặt tái ngắt, không nói được lời nào. T. nói tiếp: 'Tôi còn biết rõ lá bùa này các ông nhằm mục đích gì. Nhưng thôi lần này tôi cảnh cáo các ông, các ông về đi! Xe các ông để ngoài đường 1, tôi biết rồi!".
Trước khi ra về, các vị khách chỉ còn biết xin lỗi. Ra đường, lên xe, chạy tới cầu xe bị nổ lốp không đi được. Các vị hiểu nguyên nhân xe nổ lốp chứ lốp tốt làm sao nổ được! Để lái xe thay lốp, các vị quyết định kéo trở lại gặp T.
Gặp lại T., các vị hoàn toàn bị thuyết phục, thay đổi hẳn thái độ, thành khẩn xin lỗi thực sự. Một vị nói: "Chúng tôi tuy có biết, nhưng điều chứng tôi không ngờ là tài năng ông đã đạt đến độ cao siêu như vậy! Hết sức thành thật một lần nữa mong ông thứ lỗi cho". T. đáp: “Tôi nói rồi, tôi không làm hại các ông đâu, chỉ cảnh cáo các ông thôi, nhớ đừng bao giờ coi thường người Việt Nam. Tôi chẳng là cái gì đâu! Đất nước này còn nhiều người tài hơn tôi nhiều! Được rồi, các ông về đi, xe thay lốp xong rồi đó!".
Vậy là những vị "khách quý" ra về.
Viết những dòng này, chúng tôi càng thấy tự hào về dân tộc mình, đất nước mình. Quả là một dân tộc anh hùng, với những người con có nhiều tài năng trên nhiều mặt.
Chương bốn
NHỮNG KHẢ NĂNG KHÁC
Ngoài khả năng chữa bệnh cho dân, biết trước sự việc, T. còn nhiều khả năng kỳ lạ khác, không thể tin nổi, nhưng toàn là chuyện thật. Ở Trung Quốc, Viện nhân thể học gọi những người có khả năng đặc biệt là những người có "công năng đặc dị". Khoa học hiện đại chưa giải thích được, nhưng công nhận là nó đang hiện hữu, không thuộc phạm trù mê tín dị đoan. Những khả năng đặc biệt khác của nhân vật này cũng lắm màu nhiều sắc.
Trước hết nói về Khánh Duy, một em bé có liên quan đến những khả năng của T.. Năm 2000, Khánh Duy đã một thời làm xôn xao dư luận trong giới khoa học nói chung, các nhà nghiên cứu tâm linh nói riêng. Chuyện Khánh Duy hơi dài, ở đây chỉ đóng khung trong những chuyện có liên quan đến nhân vật chính của tập truyện.
Khánh Duy năm nay (2003) vừa tròn 12 tuổi, đi học bình thường như những đứa trẻ khác. Năm 2000, Khánh Duy mới 9 tuổi. Vậy mà hàng năm cứ đến ngày Tết, cậu bé này có viết một bản bằng một thứ chữ lạ không ai đọc được nên không biết nội dung viết những gì.
Chuyện đó như sau.
Khánh Duy là con một chị quê ở tỉnh Phú Thọ, đã đỗ hai bằng đại học, đã từng ở Liên Xô (cũ), nhưng sau khi sinh con, chị bỏ việc cơ quan, đưa con về Hà Nội mở quán cơm chay sống qua ngày để nuôi con khôn lớn. Tôi quen chị do đến ăn cơm chay ở quán chị. Chị cho biết vào dịp Tết năm 2000, Khánh Duy có viết một bản chữ lạ. Tôi bảo chị đưa tôi xem thử. Chị bảo không được, con nó biết nó la chị. Không ngăn được tính tò mò, tôi bảo chị cho tôi xem rồi trả ngay, nó không biết đâu. Chị buộc phải lấy cho tôi xem. Tôi thấy một thứ chữ lạ quá, xưa nay chưa từng thấy bao giờ. Tôi năn nỉ chị cho tôi mượn nửa giờ thôi. Cuối cùng chị đồng ý. Tôi cầm ngay đi phô tô, chỉ 15 phút sau cầm về trả chị. Vậy mà khi đi học về Khánh Duy biết, nói với mẹ: "Mẹ lấy bản viết của con đưa cho ai con biết rồi. Con đã bảo mẹ không được đưa cho ai xem cơ mà!”. Nói xong Khánh Duy đốt luôn tờ giấy.
Có bản viết rồi, tôi phô tô thêm mấy bản, đưa cho các nhà nghiên cứu nhưng không ai đọc được. Chẳng lẽ chịu thua sao? Tôi nghĩ đến T., thời gian này tôi đã quen T. ba năm rồi, biết T. có nhiều khả năng may ra T. có thể đọc được. Quyết như thế rồi, nhưng bận không vào T. được. Nhân có bác Quyên cán bộ địa chất nghỉ hưu về thăm quê cũng là huynh đệ của T.. Tôi nhờ Quyên đưa cho T. xem, nếu được dịch ra luôn, tôi sẽ vào sau. Sau đây là bản viết của Khánh Duy cùng với bản dịch ra chữ Phạn và bản dịch ra chữ quốc ngữ của T.
Bản dịch ra chữ quốc ngữ của T.
Linh ấn thư!
Chứng minh sở đắc cầu thiên địa!
Nhân Trần đang đau khổ lắm của kỳ này, khó ai mà hiểu được. Chỉ có các bậc thiên linh trả lời tất cả mọi sự việc hiển diện cho kỳ này. Ta nói để bày tỏ đến tất cả những gì mà còn thảm hại, bi kịch ở hành tinh. Các người hãy đề phòng thiên tai dồn dập cứ diễn tiếp. Người thì gây thảm hại cho nhau cũng không ít (…………….). Ta nói rằng chỉ có các vị thiên sứ về mới giúp được nhiều việc nguy kịch sẽ diễn biến sau này tại quả đất các người. Nói về nền tâm linh. Ai có thân có mạng, có duyên hãy cố gắng lên, đừng bỏ phí chút thời gian vàng ngọc tại kỳ này mà không hành trì. Sau này đến việc mà không giúp được việc gì cho nhân loại, cho chúng sanh thì cũng đừng hối tiếc Ta nói... Có một đám mây đen ùn kéo đến + ba tiếng nổ không vừa và trời nổi giông tố, có trận nóng tăng nhiệt độ kinh khủng làm sức chịu. đựng không nổi, và có ngọn gió lốc đi như tên bay, lúc đó làm rung chuyển cả bầu trời. Sẽ có một căn bệnh lạ xuất hiện, lúc này khoa học không tìm nguyên nhân được (không tìm thấy vi trùng). Căn bệnh này chi các bậc thiên linh mới giúp được thôi.
Ngày... sẽ có tác động. Đây lời ta nói đến tháng 7 - 8 các chư thiên về mượn thân, đầu thai giúp cho nhân loại nhiều việc hay (2000).
Phần ta cũng không xa, thời gian ta cũng sẽ giúp đất nước nhiều việc. Ta hẹn thư sau.
G.C.
"Tôi chỉ biết bấy nhiêu dịch lại do chữ thiên của Khánh Duy viết ra. Có câu "Thiên cơ bất khả lộ". Tôi còn muốn đưa rộng thêm ý trong thư nhưng sợ lỗi ý trời đất. Tôi chỉ dịch ra phần cơ bản và tóm lại ý để ai xem tự mình rút ra kết luận theo hiểu biết mỗi người, trong thư cho nói khi nhận điển lực, không cho ghi, chép, người có ý, lộ lời sai ý".
Trong bản dịch ra chữ quốc ngữ, T. không dám dịch toàn văn vì sợ lộ thiên cơ và đụng tới vấn đề chính trị, các nhà nghiên cứu, các bạn thông cảm.
Một tuần sau, tôi vào gặp T. thì T. đã dịch xong. T. còn muốn dịch ra bản chữ nho nhưng tôi bảo thôi, không cần đâu. Tôi kể lại cho T. nghe về chuyện lạ của cậu bé 9 tuổi Khánh Duy. Tôi định nói ngày sinh tháng đẻ của cậu bé này để T. xem có điều gì lạ không, mẹ Khánh Duy đã nói cho tôi biết. T. đưa tay bảo đừng nói để T. nói cho.
T. lấy tờ giấy viết tên Nguyễn Khánh Duy bằng chữ Phạn, ngồi thiền, đưa hai tay lên trời khua mấy vòng rồi chụp xuống tờ giấy. Làm hai lần như vậy, xong T. nói: 'Cậu này sinh lúc 2 giờ chiều ngày 9 tháng 9 năm Nhâm Thân tức ngày 9 tháng 10 năm 1992". Tôi lấy sổ tay ra đối chiếu thấy đúng y như vậy, thật kỳ lạ! T. còn nói về nguồn gốc Khánh Duy, tôi thấy không tiện viết ra đây vì nó ở lĩnh vực nghiên cứu khác. Tôi bảo khi nào T. ra Hà Nội, muốn gặp cậu bé này tôi sẽ đưa đến.
Khi hai nhân vật này gặp nhau ở Hà Nội, nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ lạ, không ai hiểu được. Thời điểm này có đông anh em ngồi nghe. Về chuyện viết dịch và nói thứ ngôn ngữ lạ, một vài nhà nghiên cứu tâm linh cho rằng T. không làm được mà có người nhập vào hoặc điều khiển T. làm. Tôi chứng kiến một lần ở quán cơm chay, một vị tướng quân đội ta đã nghỉ hưu nói với T.: "Tôi nghe nói anh biết viết và nói nhiều loại ngôn ngữ, anh thử viết cho tôi xem được không?". T. đồng ý lấy giấy bút viết ngay một trang nhỏ, viết rất nhanh. Vị tướng công nhận tài của T., xin tờ giấy làm kỷ niệm, cũng là để về nghiên cứu.
Một lần gặp riêng T., đề cập việc T. viết, nói loại ngôn ngữ đó một vài anh em cho là có người điều khiển. T. nổi khùng nói: "Toàn nói bậy! Tôi là tôi, ai điều khiển được tôi! Vị nào điều khiển, tôi tát cho vị ấy một tát tai! Tôi viết ngay cho ông coi xem có ai điều khiển tôi không". Nói xong T. lấy giấy bút viết ngay một trang nhanh như điện rồi nói: "Ông thấy đấy, có ai điều khiển tôi không!".
Chương bốn (B)
Xin chuyển sang khả năng kỳ lạ khác.
T. thường nói với tôi, T. muốn biết một điều - T. là ai? T. đã đi nhiều nơi gặp nhiều thầy nhưng chưa có thầy nào giải đáp được thắc mắc của T. - Lúc đó ở quê tôi xuất hiện một hiện tượng lạ. Một em gái học sinh phổ thông cơ sở được một ông già người dân tộc cho cái chén hạt mít - loại chén nhỏ không quai và một tờ bìa có 24 chữ cái, các số 1 đến 10, v.v... như tờ giấy người ta dùng cầu cơ. Ông già người dân tộc hướng dẫn khi cần xin gì úp chén vào giữa tờ bìa, đặt lên đó một ngón tay xong hỏi xin điều gì Thần Chén sẽ chạy lần lượt chỉ vào chữ hoặc số. Ráp lại thành câu Thần cho.
Hỏi hoặc xin điều gì, chén trả lời chính xác, từ tên, tuổi, vợ con và, v.v... Dân quanh vùng đến xem rất đông. Tôi nói với T. hiện tượng lạ ấy, nếu T. muốn, tôi sẽ đưa đến để hỏi việc T. thắc mắc. T. bằng lòng đi.
Đến nơi, sau khi làm các thủ tục, T. đặt tay hỏi: "Ông cho biết tôi tên gì?" Chiếc chén chạy chỉ chữ T... T. hỏi "Tôi bao nhiêu tuổi?" Chén chỉ số 3, số 0. Cứ như vậy, T. tiếp tục hỏi, Chén tiếp tục trả lời.
- Tôi có vợ chưa? - Có.
- Có mấy con? - Hai.
- Hàng ngày tôi làm gì? - Chữa bệnh.
- Có lấy tiền không? - Không.
- Chữa bệnh không lấy tiền sao bị cấm - Vì ganh ghét.
- Bây giờ ông nói cho biết tôi là ai - Là con Phật.
- Tôi thế này làm sao con Phật được - Ông đầu thai.
T. nói với Chén: "Ông xem cho tôi rồi, nói chung là đúng. Bây giờ đến phiên tôi xem cho ông, ông đồng ý không? Nếu tôi nói về ông đúng, ta kết nghĩa làm anh em, nếu sai thì thôi, ông đồng ý như thế không?"
Chén trả lời - Đồng ý.
Dân trong vùng kéo đến xem rất đông lớp trong lớp ngoài. Lạ nhất là thấy người đi xem bói lại muốn bói cho ông thầy. Tất cả tin phăng phắc tập trung theo dõi câu chuyện lạ có một không hai.
T. đang ngồi bình thường bỗng rút chân lên thành thế ngồi kiết già - hoa sen trên hai thành ghế, hai tay chắp lại theo thế ấn Quán thế âm để trước bụng, mắt nhắm, bắt đầu nói:
- Ông là người dân tộc ở vùng cao, không phải người kinh ở đồng bằng, đúng không? - Đúng.
- Ông qua đời lúc 34 tuổi đúng không? - Đúng.
- Khi còn sống ở cõi trần cũng như lúc đã sang thế giới bên kia ông luôn tu hành nên đã thành công đắc đạo! - Đúng.
- Hiện nay ông không muốn ở trên núi cao mà thích ngao du xuống đồng bằng và vùng ven biển, đúng không? - Đúng.
- Bây giờ tôi sẽ nói một câu chuyện làm ông xúc động và chẳng bao giờ quên dược. Đó là, lúc trước ông có yêu một cô gái cùng dân tộc với ông. Hai người yêu nhau thắm thiết, không rời. Những buổi trăng lên, hai người đưa nhau vào rừng hát chung một bài hát ca ngợi tình yêu. Ông muốn nghe, tôi hát lại bài hát đó cho ông nghe!
Ông Chén đáp: - Rất muốn nghe!
T. cất tiếng hát bằng tiếng dân tộc nghe du dương, trầm bổng. Bà con chung quanh cũng như tôi nghe không hiểu nhưng cảm nhận được giai điệu tình cảm yêu thương tha thiết từ bài hát toát ra.
Hát xong, T. hỏi: "Ông nghe tôi hát bài hát đó có đúng là bài hai anh chị thường hát không?"
Chén đáp lại: - Hoàn toàn đúng, không có chỗ nào sai, tôi rất cảm động.
T. bảo: - Tôi với ông kết nghĩa huynh đệ nhé!
Chén đáp: - Xin tuân lệnh.
Câu chuyện đến đây kết thúc. Mọi người ra về, không ai không ngạc nhiên và xúc động trước một hiện tượng hết sức lạ lùng, kỳ.tuyệt, chưa bao giờ xảy ra trong đời sống con người. Có một chi tiết cần nói thêm là sau buổi gặp giao duyên giữa hai người, kẻ âm, người dương đó, ông Thần Chén hết linh thiêng cầu xin không được nữa. Một vài người hiếu kỳ phán đoán có lẽ ông T. rủ ông Chén đi rồi!
Hôm ấy, tôi có mặt từ đầu đến cuối, trực tiếp chứng kiến,cố gắng tường thuật lại từng chi tiết, tin hay không là quyền của các bạn.
Nhân chuyện gặp ông Chén ở vùng núi Quảng Ngãi, xin kể tiếp câu chuyện nhân vật này gặp một bà cũng người dân tộc thuộc một dân tộc khác ở vùng núi cao Quảng Nam.
Câu chuyện này xảy ra đúng vào buổi sáng hôm tôi, bác Hoàng và 5 anh chị em nữa, trong đó có vợ ông Trưởng công an huyện Y. đến thăm T. bị công an xã đến lập biên bản (đã nói phần trước).
Lập biên bản xong, các ông công an xã ra  về. T. mời vợ ông Trưởng công an huyện lên phản ngồi và hỏi: “Tôi nghe nói chị được một bà ở cõi vô vi mến, thỉnh thoảng nhập vào chị phán bảo nhiều chuyện hay lắm. Giờ chị mời bà ấy về cho tôi hỏi mấy việc được không? Chị trả lời: "Lúc nào bà về là về, em không biết gì hết. Bà nói gì em cũng không biết, làm sao em mời được?”
Chị này khoảng 35 tuổi, nước da trắng mịn, đẹp gái. T. nói tiếp: "Chị không mời được để tôi mời. Chị cứ ngồi yên thế!”. Nói xong T. ngồi kiết già kiểu hoa sen, hai tay chắp lại theo ấn Quán thế âm. Khoảng 3 phút chị ợ lên mấy tiếng và chuyện lạ xảy ra.
Tôi ngồi gần bên chị nên trông rất rõ. Sau khi ợ mấy tiếng, nước da chị từ màu trắng chuyển sang nâu sậm như da người dân tộc. Vẫn nguyên là khuôn mặt của chị, nhưng nét duyên dáng, dễ nhìn của người con gái kinh trước đó không còn, thay vào là nét mặt người phụ nữ dân tộc kiên nghị, rắn rỏi. Tôi thấy chuyện đó đã là lạ, những diễn biến tiếp theo còn làm tôi và anh em có mặt hôm đó càng ngạc nhiên hơn.
Chị bắt đầu nói, không phải tiếng Kinh mà nói một hơi dài tiếng dân tộc. T. đáp lại đúng bằng thứ tiếng dân tộc đó. Hai bên trao đổi với nhau một hồi bằng tiếng dân tộc. Tôi chăm chú nghe, thấy không giống thứ tiếng bài hát dân tộc mà T. đã hát lúc gặp ông Chén. Độ 15 phút, T. nói tiếng Kinh với anh em: "Vừa rồi bà kể với tôi bà là người dân tộc trên vùng cao Quảng Nam. Nhờ tu hành đắc đạo nên được phong danh hiệu ‘Cao sơn Thánh mẫu'. Trên phái bà xuống trần nhưng bà rất buồn vì không hoàn thành nhiệm vụ trên giao".
T. vừa nói dứt, chị bật sang nói tiếng Kinh: "Ông nói rất đúng! Tôi nói thêm để các ông biết. Tôi đã đi nhiều nơi, thấy nhân dân ta chưa phân biệt được đâu là khoa học tâm linh chân chính, đâu là mê tín dị đoan. Những người có chức, có quyền, hiện tượng nào cũng cho là mê tín tuốt tuột. Do vậy tôi không làm được nhiệm vụ. Tôi buồn lắm!".
Anh em ngồi nghe thấm thía như nuốt từng lời. Riêng tôi, tôi không hiểu biết nhiều về tâm linh nhưng thấy người này có trình độ khá vững, nói như một nhà khoa học.
Chị hỏi tiếp T. bằng tiếng Kinh: "Ông định hỏi gì tôi thì hỏi đi?" Từ đây hai bên dùng tiếng Kinh, không nói tiếng dân tộc nữa - có lẽ để cho mọi người cùng nghe.
T. nói: "Tôi chỉ hỏi bà hai câu thôi. Câu thứ nhất: Tôi có nên tiếp tục chữa bệnh không, chữa bệnh cho dân không lấy tiền của ai vẫn bị chính quyền cấm. Tôi ngán lắm muốn thôi cho rảnh có được không?”.
Chị nói: “Ông không được thôi, nhiệm vụ đó quan trọng lắm, có lợi cho dân. Tuy ông có khó khăn, phiền phức, nhưng ông vẫn làm được nhiệm vụ, không giống như tôi”.
T. hỏi tiếp câu thứ hai: "Chừng nào tôi thoát khỏi khó khăn, phiền phức đó!" Chị trả lời: "Chỉ vài năm nữa thôi, ông phải tiếp tục rèn luyện tâm đức, cứ chữa khỏi nhiều người, nhiều bệnh, ai cũng công nhận ông chữa đạt hiệu quả sẽ không còn khó khăn, phiền phức nữa! Tôi nhắc lại, ông không được thôi chữa bệnh đấy! Nếu ông không hỏi gì nữa, xin chào ông!
Nói xong chị ợ lên mấy tiếng. Gương mặt nâu sậm biến dần trả lại cho chị nước da trắng mịn nhu trước. Chị trở lại bình thường. Tôi hỏi chị: "Vừa rồi, chị có biết chị nói gì không?” Chị đáp: "Tôi vừa ngủ một giấc dài, có biết gì đâu, giờ thức dậy thấy đầu nặng lắm".
Trong hai mẩu chuyện trên, tôi có suy nghĩ một điều: T. có học tiếng dân tộc hồi nào đâu mà khi vào cuộc anh ta nói thông thạo thứ tiếng của đối phương. Điều đó thật không hiểu nổi, không lý giải được. Nhờ các nhà nghiên cứu tìm đáp số giúp.
Phần này chuyển sang khả năng bài trừ những vong linh vì một nguyên nhân nào đó, gây hại cho một số người dân, nhân dân ta thường gọi là ma hoặc quỷ. Với những người chưa bao giờ tin người chết rồi vẫn còn linh hồn, nếu có đọc xin đừng cho là chuyện bịa vớ vẩn, gây mê hoặc lòng người, gieo rắc mê tín dị đoan. Chuyện rất khó tin nhưng được trực tiếp chứng kiến, tôi viết để các bạn tham khảo, nghiên cứu, suy ngẫm.
Đây là vấn đề cực kỳ phức tạp chưa thể có một kết luận thỏa đáng. Suốt các thời đại lịch sử vẫn tồn tại hai trường phái. Căn cứ vào diễn biến thực tế xảy ra trong đời sống con người, một trường phái cho rằng người chết nhưng linh hồn vẫn tồn tại (phần mở đầu chúng tôi đã đưa tóm tắt một số chuyện có thật về linh hồn). Trường phái thứ hai cho rằng tuyệt đối không thể có linh hồn. Thể xác tan rữa là chấm hết. Nhiều bài báo và cả một cuốn sách của tác giả nọ viện dẫn cả nền khoa học đương đại cùng với nhiều nhà khoa học các ngành vật lý học, sinh học, hóa học, v.v... cố gắng chứng minh cho quan điểm của mình là thế giới này, vũ trụ này chỉ có vật chất, không làm gì có linh hồn.
Chúng tôi không được học hành nhiều chỉ suy nghĩ một điều là khoa học lý, hóa, sinh... đương đại chưa thể chứng minh, giải thích được những hiện tượng thuộc phạm trù tâm linh. Chứng tôi thừa nhận là có thật những hiện tượng lạ được trực tiếp chứng kiến. Việc giải thích, viện dẫn bằng khoa học đương đại xin nhường phần các bậc cao minh. Chỉ xin nói thêm một điều là không nên nhầm lẫn giữa tâm linh và mê tín dị đoan. Tâm linh là khoa học, là hiện hữu, mê tín dị đoan là lừa bịp, giả dối. Cũng không dễ phân biệt hai vấn đề trên. Trước một hiện tượng lạ cần hết sức khách quan tìm hiểu, nghiên cứu không nên dùng quan điểm có sẵn, chủ quan của mình để phán xét, quy chụp.
Sau đây là những mẩu chuyện thật của nhân vật này.
Ở xã Kế Xuyên, huyện Thăng Bình, có một anh nông dân tên N, bỗng nhiên bị điên mà điên rất dữ dội. Anh lấy lửa đốt nhà, đập phá đồ đạc, đanh vợ, đánh con, gia đình phải dùng xích sắt xích anh vào cột nhà. Các thầy pháp có tiếng là cao tay, các nhà sư đã được gia đình mời đến nhưng đành bất lực.
Việc điên của anh N., sau khi khỏi bệnh anh kể với T. như sau:
Anh có một hồ sen lớn cách nhà khoảng 5 - 7 cây số. Đến mùa sen, anh làm một cái chòi, hàng ngày lên đó trông giữ sen. Mỗi lần lên hồ trông sen, anh thường gặp một phụ nữ non 30 tuổi, người dễ coi, vác cuốc đi tháo nước ruộng. Từ đó hai người quen nhau, có cảm tình và yêu nhau. Ngày nào gần như hai anh chị cũng gặp nhau trong chòi. Và lần nào cũng vậy, đến 12 giờ trưa chị xin phép về lo cơm nước. Thường ngày mỗi lần về từ trên chòi chị bước chân xuống bờ ruộng rồi theo bờ ruộng đi về. Nhưng buổi trưa hôm ấy, có lẽ quá say vì tình, quên không bước chân xuống bờ ruộng mà bước xuống phía hồ, rơi tõm xuống nước.
Anh N. sợ quá la lên: "Ma, tôi gặp ma, cứu tôi với bà con ơi!". Anh tháo vội cái võng, chạy một mạch về nhà. Chị tháo nước ruộng từ dưới hồ vọt lên chạy theo gọi: "Anh ơi, dừng lại, em là người, không phải ma đâu!" Gọi gì anh N. vẫn không đứng lại. Về đến nhà trở thành người điên.
Trở lại việc gia đình mời T.. T. đến nhà bảo người nhà mở xích cho anh N. nhưng không ai dám mở xích. T. bảo: "Cứ mở cho anh ta, có tôi anh ta không làm gì đâu, tôi chịu trách nhiệm". Mở xong. N. ngồi yên một chỗ không đập phá gì. T. lấy chiếc ghế, ngồi trước mặt N. bắt đầu hỏi:
-Nhà nguơi có biết ta là ai không?
- Dạ biết!
- Biết được là tốt! Thế xưng tên họ đi! Đau đuôi câu chuyện ra sao?
- Dạ, thưa ông, bên cõi âm thường gọi con là con quỷ hai màu. Con tu luyện ở cái hồ sen này nhiều năm rồi. Tình cờ con gặp anh N.. Từ đó hai người quen nhau, qua thời gian chúng con yêu nhau thắm thiết. Trưa hôm đó, con đang say trong vòng tay tình cảm của anh ấy, lúc rời nhau, không còn biết gì nữa, con lỡ chân bước xuống hồ. Anh phát hiện con là ma, chạy về nhà rồi hóa điên.
- Được rồi ta nói cho biết, ngươi là con quỷ hai màu chú mười màu đối với ta vẫn không nghĩa lý gì.
- Dạ, con biết, gặp ông con xin khai thật, không dám giấu điều gì. Trong muôn nghìn kiếp trước, con với anh ấy đã có lần là vợ chồng, nay gặp lại con không thể bỏ anh ấy được, ông nghĩ tình thương cho.
- Điều nhà người nói là không thể được. Cõi trần là cõi trần cõi âm là cõi âm, âm dương cách biệt không thể nào yêu thương nhau được. Anh N. có gia đình, vợ con. Việc ngươi làm vừa rồi là phá nát gia đình, hạnh phúc người ta, rồi bắt người ta điên. Tội nhà ngươi to lắm! Biết không!
- Dạ, con biết rồi, cầu xin ông tha mạng cho.
- Ăn năn hối hận được là tốt. Ta sẽ tha cho nhà ngươi với một điều kiện là lập tức rời bỏ hồ sen, lên núi cao tìm một hang động thực sự tu hành, sám hối tội lỗi của mình, quên ngay mối tình vớ vẩn đó đi. Nếu không nghe, ta bóp chết ngay tại đây!
- Dạ, ông tha cho con. Con xin nghe lời ông!
- Thôi nhà người đi được rồi!
- Dạ, xin chào ông, con đi ngay bây giờ!
Nói xong câu ấy, anh N. rùng mình một cái, ngồi thẫn thờ một lát sau thì tỉnh hẳn, hết điên, trở lại bình thường.
Một trường hợp khác. Ở ngoại Ô thành phố Đà Nẵng, một gia đình có 4 người con, ba trai một gái, bỗng nhiên tất cả bốn anh chị em đều bị điên. Gia đình đã chạy chữa đủ cách nhưng không giải quyết được. Có người mách đi mời thầy T. may ra có thể chữa được.
Khi người nhà gặp T., trình bày với T. về trường hợp bốn người bị điên. T. bảo: "Tôi có thể giúp được, không khó lắm!".
T. đến nhà gọi ba người con trai lại ôm cả ba người vào trong vòng tay của mình nói mấy câu: "Thôi nhé, không có điên khùng gì nhé! Ta bảo phải nghe đấy, không nghe không được với ta đâu!". Thế là xong.
Người em gái điên dưới bếp được gọi lên. T. cũng cho vào vòng tay của mình nói như trước. Từ đó bốn anh chị em hết điên.
Qua hai lần chữa điên của T., chúng tôi thấy rõ đây không phải là bệnh điên thực thể. Qua nghiên cứu các bệnh nhân điên, chúng tôi phân thành hai loại: Loại điên thực thể và loại điên tạm gọi là phi thực thể. Điên thực thể có nguyên nhân từ bên trong cơ thể bệnh nhân, chủ yếu tập trung ở não bộ và hệ thần kinh trưng ương. Điên phi thực thể, nguyên nhân không phải từ bên trong mà là từ bên ngoài tác động vào. Riêng bản thân tôi đã trực tiếp chứng kiến 7 trường hợp điên phi thực thể với nhiều dạng khác nhau. Nền y học thế giới và nước ta có thể chữa được loại điên thực thể, nói có thể là  muốn nói khó có thể chữa được trăm phần trăm. Loại điên phi thực thể theo chúng tôi, qua nghiên cứu, thấy y học hiện đại khó có thể chữa khỏi. Không có điều kiện thống kê, sơ bộ có thể định ra một tỷ lệ như sau. Loại thực thể chiếm từ 90 đến 95%. Loại phi thực thể chỉ chiếm từ 5 đến 10%. Qua nhiều năm theo dõi nghiên cứu chúng tôi thấy các bệnh thực thể và phi thực thể không dừng lại ở bệnh điên mà nó còn quán trong một số loại bệnh của con người.
Nhân kể chuyện vong, xin kể thêm vài chuyện lạ xưa nay chưa thấy ai dám làm.
Một hôm mấy anh em đi xe máy ra Đà Nẵng, đi đến cầu Câu Lâu, chiếc cầu dài nhất ở Quảng Nam, thì bị tắc đường. Ô tô bị dồn lại hàng mấy chục chiếc. T. nói ngay: "Tôi biết vì sao, để tôi lên giải quyết cho!". T. đi chen lên tới giữa cầu thấy một chiếc xe tải nằm ngang ngăn đường, không có ai chết hoặc bị thương. T. lách qua phía trước chiếc xe tải đứng giữa cầu nói to: "Tôi biết chiếc xe ngăn đường là do các vị gây ra. Các vi ngự trên chiếc cầu này gây bao tai nạn cho dân lành. Các vị tưởng nhầm làm cho người ta chết, người ta thay thế mình để siêu thoát. Không có chuyện đó đâu! Muốn siêu thoát rủ nhau lên núi tìm hang động mà tu. Tôi tuyên bố không cho các vị ở đây nữa. Tôi phá bỏ chỗ ẩn náu của các vị đây!".
Nói xong, T. tiến lên hai bên thành cầu nơi nào có các am thờ người tử nạn (do dân trong vùng dựng lên để hương khói cho vong linh người chết), anh ta đạp hết xuống sông, đồng thời đập vỡ tất cả các bát hương - một việc xưa nay không có thầy phép nào dám làm. Từ đó trên cầu Câu Lâu không thấy tai nạn xảy ra nữa.
Phía bắc thị trấn huyện Núi Thành có chiếc cầu trong một tuần xảy ra liên tiếp ba vụ tai nạn làm chết và bị thương hàng chục người. Anh em được tin đặt câu hỏi: “Tại sao ở một chỗ lại xảy ra nhiều tai nạn nhu vậy?” T. nói: "Tôi biết rõ nguyên nhân, tôi sẽ vào giúp để tai nạn không xảy ra ở đó nữa?" Chiều hôm sau T. vào đứng ngay chỗ xảy ra tai nạn nói giống như ở cầu Câu Lâu. Từ đó, xe qua lại bình thường không có vụ tai nạn nào nữa.
Thật là những chuyện lạ!
Chương bốn (C)
Tiếp theo là những chuyện lạ khác thể hiện khả năng kỳ lạ của nhân vật này.
Một hôm ông N.T.H, tiến sĩ nông nghiệp nhân chuyến về huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi thăm quê, ông mời T., bác Hoàng và tôi cùng đi. Về đến nhà, ông và người nhà ra nghĩa trang thắp hương trên mộ bà. T. và chúng tôi cùng đi. Thắp hương xong, T. nhìn ngôi mộ nói: "Bà này lúc chôn không có áo quan, đầu gối trên chiếc gối mây và cánh tay trái bị gãy!". Người nhà ông H. nói: "Chúng tôi là những người chôn bà, đúng y như ông nói, làm sao ông biết được?". T. đáp: “Tôi thấy mới dám nói chứ". Cả người nhà và anh em đi theo vô cùng ngạc nhiên. Người này có khả năng nhìn xuyên qua đất.
Vợ T. dành dụm tiền mua được chiếc nhẫn, không dám đeo sợ T. la, đem cất một chỗ kín trong nhà. Một thời gian bỗng nhiên chiếc nhẫn không cánh mà bay. Vợ T. buồn lắm nhưng không dám nói. Vợ T. rất sợ T. vì T. hay đánh, mà mỗi lần đánh là bảo vợ đi lấy roi, bắt nằm đánh đủ 12 con giáp (12 roi). Tuy vậy, T. đã biết, gọi vợ lên bảo: "Tôi đã cấm cô không được mua vàng. Có ít tiền lo nuôi con. Tại sao cô lén tôi đi mua để bị mất. Tội cô không nghe lời đáng đánh nhưng tôi tha. Tôi biết ai lấy chiếc nhẫn và giấu ở đâu! Cô ra ngoài đường luồng đến cây dứa dại thứ ba bên phải tìm sẽ thấy.
Vợ T. không bi đánh và nghe chiếc nhẫn vẫn còn mừng quá chạy ra theo hướng dẫn, nhưng tìm mãi không thấy. Vợ T. ve nhà với bộ mặt ủ rũ. T. nói: "Không tìm thấy phải không? Đi ra đây với tôi". T. đưa vợ ra đúng cây dứa thứ ba nói: "Cô bới chung quanh gốc sẽ thấy!". Vợ T. lặng lẽ bởi đất tìm thấy chiếc nhẫn bị mất. Lúc trước vợ T. tìm không đúng gốc thứ ba.
Về đến nhà T. bảo: "Một lần nữa tôi cấm cô không được mua vàng. Để tiền làm vốn nuôi heo có tốt hơn không!".
Còn vài chuyện vặt xin kể nốt.
T. là người vui tính hay đùa nghịch. Lúc này trong nhà có năm bảy anh chị em. T. dùng tay vạch một vòng tròn trên nền nhà rồi thách: "Tôi đố anh nào vào trong vòng tròn này mà bước ra ngoài được tôi xin bái phục!".
Một anh bước vào vòng tròn rồi bước ra, bước đủ các phía không cách nào bước ra được. Một anh bên ngoài lấy tay đẩy anh trong vòng trốn ra ngoài, nhưng chỉ nửa người trên gục xuống còn hai chân vẫn ở trong vòng tròn T. cười: "Không ra được phải không? Bây giờ ra được đó!". Nói xong, T. khoát tay một cái. Anh nọ bước ra ngoài bình thường.
T. lấy một quả quýt bóc lấy ra từng múi đưa cho một chị nói: "Múi này ngọt này!". Lấy một múi khúa đưa cho một anh: "Múi này chua đấy”. Lại một múi nữa đưa cho một chị: "Múi này đắng này". Lại một múi nữa: "Múi này chua này!". Cứ thế chia cho mọi người hết quả quýt. Ai cũng ngạc nhiên vì ăn múi quýt vào cảm nhận đúng như T. nói. Một quả quýt mà đủ vị ngọt, chua, đắng, v.v...
T. lấy một quả táo con đưa cho một chị bảo: "Quả táo này nhỏ nuốt được không cần nhai, chị nuốt vào, tôi biểu diễn cho chị coi, vui lắm!". Chị nọ cầm quả táo nuốt vào bụng. T. ngồi cách chị khoảng 5 mét vận công lực dùng tay điều khiển quả táo chạy vòng tròn trong dạ dày làm chị chịu không nổi. T. cười: "Khó chịu phải không? Bây giờ tôi cho quả táo lên miệng đây?". Nói xong T. lật bàn tay đẩy từ dưới lên, quả táo lên miệng thật. Chị cầm quả táo ra nói: "Chịu thua ông rồi!".
Trỏ chơi bài của T. cũng thật lạ lùng. T. lấy bộ tú lơ khơ 32 lá ra đưa cho bác Hoàng xóc, xong đưa cho tôi xóc tiếp. Tôi xóc đi xóc lại nhiều lần đưa cho T. T. cầm bộ bài đưa ra sau lưng, rút một con lật ngửa đặt trên. Đó là con át cơ. T. lần lượt rút từng con đặt tiếp: Già cơ đến đầm cơ, bồi cơ, mười cơ, chín cơ, tám cơ, bảyy cơ. T. rút tiếp đặt hàng thứ hai là rô, đúng tám con theo thứ tự như hàng trên. Hàng thứ ba là chuồn, hàng thú tư là bích, cũng theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Mọi người trố mắt ngạc nhiên. Một chị nói: "Ông nhìn thấy mới rút được thế!". T. cười: "Tôi đưa ra sau lưng làm sao nhìn thấy được!".
Nhân nói tú lơ khơ, một hôm có một ông người nước ngoài đến biểu diễn tú lơ khơ ở Văn Miếu nhân một dịp lễ hội. T. có mặt đứng xem ông biểu diễn. T. nói với tôi: "Xoàng quá thế mà cũng biểu diễn, để tôi vào chơi cho vui!". Nói là làm, T. vào không kể lạ quen. T. biểu diễn cái trò như vừa kể và thách ông Tây nhiều trò kỳ lạ nữa. Ông Tây nói qua phiên dịch: "Ông quá tài tôi không sánh kịp, quả là Việt Nam có nhiều người tôi xin bái phục!". Suốt buổi đó ông Tây nọ đi theo T. không chịu rời.
Chuyện đóng cửa, mở cửa ở nhà T. cũng mang tính khác thường. Đến nhà T. có lúc tôi ngủ lại nhà trong khi T. ra ngoài tập luyện. Ngủ trong nhà lúc nào tôi cũng chốt kỹ các cửa, người ngoài không thể vào được. Vậy mà khi đi tập luyện về, T. vào nhà cứ như không và vào bằng cách nào tôi không biết. Hỏi thì T. không nói. Tôi quyết rình xem T. vào nhà bằng cách nào khi các cửa đều được chốt kỹ.
Đêm đó, tôi không ngủ, thức chờ lúc T. về. Tôi phát hiện ra là từ bên ngoài cửa, T. dừng công lực trước tiên đẩy cho cái chốt rời cái ngoắc ra, sau đó dùng công lực đẫy cho cái chốt rơi xuống. Thế là xong. Cửa mở và anh ta vào.
Một lần khác T. và tôi đi Đà Nẵng. Tôi hỏi làm thế nào gài chốt cửa được vì nó ở bên trong. Chẳng lẽ để cửa trống ư! T. cười bảo: "Ông khỏi lo chuyện đó, để tôi chốt cửa cho!". Nói xong, T. khép cửa lại, vận công, từ bên ngoài đẩy cái chốt vào lỗ rồi lật bàn tay đẩy ngang một cái, cái chốt bị lực đẩy quay ngay vào rãnh. Thế là cửa được cài an toàn
Một lần khác, tôi cùng với T. đi Hội An vào ban đêm. Nói thêm là T. đi đâu, thường đi ban đêm, không mấy khi đi ban ngày. Trên đường về, lúc đó đã là 24 giờ. T. bảo ghé vào đây chữa cho ông này rồi hãy về. Ông này bị ung thư máu nặng, suốt ngày chỉ nằm. Đến nhà, đèn lửa tối om, cửa đứng kín mít. Tôi tưởng là T. sẽ gọi người nhà dậy bật đèn, mở cửa. Nhưng không, T. vận công mở chốt từ bên ngoài. Cửa mở, T. vào nhà bật đèn, vén màng chữa cho ông độ 15 phút, sau đó hai bác cháu mới lên xe về.
Chuyện mở, đóng cửa của T. là như vậy. Nói thêm một chuyện nữa là ngồi sau xe của T. đi ban đêm rất sợ. Các bạn biết ban đêm đi xe máy trên quốc lộ 1 luôn có hai luồng xe ôtô đi ngược chiều nhau với tốc độ cao. T. cho xe mình đi giữa hai luồng xe mà đi với tốc độ nhanh khoảng 60 kilômét giờ. Đêm đó, tôi phát hoảng vì luồng xe đi ngược chiều bật đèn pha chói không nhìn thấy gì. Tôi bảo: "Đi chậm lại chứ đi kiểu này kinh lắm, cho tôi xuống thôi!". T. bảo: "Bố yên tâm, tôi không bị chói mắt như bố đâu!". Về đến nhà, tôi mới biết mình còn sống. Từ đó, đi đêm, tôi không dám ngồi xe T. nữa.
THAY LỜI KẾT
Qua bốn phương, chúng ta thấy nhân vật này là một người đa tài, có nhiều khả năng đặc biệt vừa độc đáo vừa thần kỳ. Có thể nói nhân vật này còn nhiều khả năng kỳ diệu khác mà chúng tôi chưa được chứng kiến. Tất cả những chuyện trên là những chuyện chúng tôi được trực tiếp chứng kiến trong 6 năm qua (1998 - 2003), những câu chuyện có thật đến từng chi tiết không hề bịa đặt hoặc hư cấu. Chúng tôi bảo đảm điều đó và chịu trách nhiệm về những điều đã viết. Còn nội dung sự việc qua các câu chuyện, tin hay không là quyền của các bạn.
Tất cả những điều đã viết đã là điểm mạnh của T.. Có thể khái quát lại T. là người có tâm đức. Không kể giai đoạn thiếu thời, T. giành suốt những năm tháng của đời mình chỉ có mỗi một việc là giúp dân, giúp những kẻ nghèo khó, chủ yếu là bằng khả năng chữa bệnh và các khả năng khác khi có yêu cầu. Có thể nói T. vô tư đến mức không bao giờ nghĩ đến tiền và ham muốn của cải, vật chất, đặc biệt là trong cơ chế thị trường. T. chữa bệnh không lấy tiền và không nhận bất cứ thứ gì của bệnh nhân mang đến biếu. Không thiếu những lời ra, tiếng vào nhưng bảo đảm điều đó là sự thật, được hàng ngàn người bệnh chứng giám.
Con người của T. rất lạ, suốt tám năm qua tuy gặp nhiều khó khăn, ngăn cấm, nhưng chỉ chữa bệnh và giúp người. Ngoài ra có thể nói T. không làm một việc gì khác. Ruộng vườn, chăn nuôi, con cái,... tất tất đổ trên đôi vai gầy của vợ. Hàng ngày T. không làm việc gì có ích cho gia đình. Không quan tâm đến vợ đã đành, T. ít khi chăm nom con cái. Đó cũng là chuyện lạ về trách nhiệm của một người chủ gia đình, người chồng, người cha. Vợ không làm đúng những điều quy định của anh ta là bị đánh. Sau lần bác Hoàng và anh em họp phân tích đánh vợ là sai, là vi phạm pháp luật, không yêu thì phải thương phải quý, mọi gánh nặng gia đình đều do vợ lo toan, từ đó đến nay T. không đánh vợ nữa.
Theo chúng tôi, đó là điều khác thường của T. trong gia đình.
Một con người sống trong xã hội với bao nhiêu mối quan hệ phức tạp, trong một môi trường nhất định, luôn có mặt mạnh. mặt yếu, có ưu, khuyết. Bất kỳ ai, dù là một vĩ nhân, một nhà tu hành, một lãnh tụ cũng đều nằm trong quy luật chung đó. T. cũng vậy. Mặt mạnh của T. gần như đã giải trình gần hết trên các chương trước. T. là một con người thích sống tự do, không chịu ràng buộc vào bất cứ một khuôn phép nào, không quy luỵ cầu xin với bất cứ một ai về vấn đề gì. Trước tình trạng bị địa phương dùng quyền lực ngăn cấm không cho T. chữa bệnh, anh em thấy việc đó vừa đúng về mặt pháp lý vừa có phần chưa thỏa đáng về mặt dân sinh, thiếu một sự nghiên cứu đến nơi, đến chốn. T. chỉ một lòng giúp dân, giúp những người nghèo khổ, không lấy tiền, không lừa bịp ai, không mê tín và gieo rắc mê tín dị đoan. T. chữa bệnh bằng công lực huyệt đạo, không hề dùng bùa, phép. T. chữa bệnh có hiệu quả, tất nhiên chưa đạt được trăm phần trăm, chưa đạt được trăm người trăm khỏi, nhưng có ai chữa được trăm phần trăm, kể cả các bệnh viện Nhà nước!
Những điều đó các giới chức chính quyền nên suy nghĩ. Nói cho cùng, nếu T. có tội thì đó là T. không có bằng cấp về y tế và không có giấy cho phép chữa bệnh theo pháp luật quy định.
T. thường nói: "Tôi đâu có ngu si gì mà không biết lệnh cấm của chính quyền. Nhưng trước nỗi đau của bao người bệnh đến nhờ giúp, tôi làm sao làm ngơ trước những nỗi đau đó. Lương tâm con người buộc tôi phải chữa. Tôi không lấy tiền của ai, không lừa bịp ai, mà lừa bịp sao được, lừa bịp nhằm mục đích gì? Nếu chính quyền cho là tôi vi phạm pháp luật, cho tôi là người có tội có thể bắt bỏ tù, hoặc đem bắn cũng được!".
Nhìn rộng ra cả nước, chứng tôi thấy một số người không có bằng cấp, không có giấy phép hành nghề nhưng nhờ có thuốc gia truyền chữa bệnh đạt hiệu quả nên chính quyền địa phương chẳng  những cho họ chữa, còn tổ chức sắp xếp bảo đảm trật tự, an ninh chu đáo. Chính quyền của ta là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Việc gì có lợi cho dân thì nên làm. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn giáo dục, nhắc nhở chứng ta như vậy.
T. chỉ chữa bệnh giúp dân, ngay cả nuôi sống bản thân mình cũng không nghĩ đến. Đó là một điều quý giá, một con người đáng được nể trọng. Trong xã hội chúng ta ngày nay, hiếm có con người như vậy.
Từ những suy nghĩ đó, chúng tôi định đến gặp các cơ quan chức năng ở địa phương đề trình bày sự thật về T. với mong muốn các cơ quan chức năng địa phương biết rõ sự thật, tạo điều kiện cho T. phát huy tốt những khả năng của mình. T. biết được ý định này phản đối chúng tôi, bảo là ý định tốt nhưng không kết quả gì đâu. Chúng tôi đành thôi.
Tuy vậy, thấy việc nghĩa, việc đúng phải làm, chúng tôi về Hà Nội gặp Giáo sư Ngô Đạt Tam, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người trình bày, đặt vấn đề. Giáo sư rất hoan nghênh, cho văn phòng đánh ngay giấy mời, mời T. đến cơ quan để trao đổi những vấn đề khoa học mà cơ quan quan tâm.
Đem giấy mời về, tất cả anh em huynh đệ đều vui mừng. Riêng T. lạnh như tiền. T. bảo: "Tôi không đi, không muốn xin xỏ, quỵ lụy ai!". Anh em bảo đây không phải chuyện quy luỵ, xin xỏ mà một cơ quan cấp Trung ương mời mình chứ mình có cầu xin gì đâu!
Khuyên bảo gì T. cũng không nghe.
Chưa chịu thôi, một thời gian sau, chúng tôi đến gặp Trung tướng Phạm Hồng Sơn, tạo điều kiện để ông gặp T.. Ông rất hoan nghênh và qua xem cuốn băng video, ông công nhận tài năng của T.. Ông nói: "Nếu T. đồng ý ông sẽ quan hệ với Bộ Quốc phòng hoặc Cục Quân y hay Bộ Tư lệnh Quân khu V để T. vào giúp lực lượng vũ trang”. T. cũng không nghe.
Phải chăng đây là điểm khác thường của T. trong quan hệ xã hội.
Chúng tôi làm những điều trên với mong muốn đưa T. vào phục vụ trong một tổ chức để có điều kiện phát huy khả năng, phục vụ lợi ích cho dân, cho nước, ngoài ra không có mục đích nào khác. Cho đến ngày nay T. vẫn  chữa bệnh không được pháp luật cho phép.
T. còn những điều lạ khác.
Trong chữa bệnh không phải gặp người bệnh nào T. cũng chữa. Có người đến năn nỉ, T. không chữa. Ngược lại chỉ mới gặp lần đầu hoặc gặp ngoài đường T. gọi vào chữa. Chúng tôi là những người đã nhiều năm học năng lượng sinh học, khí công học, bấm huyệt. v.v... nên có biết chữa bệnh. Vào nhà T., T. thường bảo anh em tham gia chữa bệnh. Một hôm người bệnh đến đông xếp thứ tự chờ T. chữa. Theo dõi thấy bốn người đến sớm nói gì T. cũng không chữa mà gọi những người sau lên chữa. Đến quá 12 giờ trưa, T. bảo nghĩ không chữa nữa. Thấy bốn người đến sớm không được chữa, tôi bảo: "Ông bà đi ăn trưa đi, chiều đến đây, ông không chữa tôi chữa cho!".
Đến chiều, các ông bà này đến, tôi chữa giúp để họ còn về vì nhà xa. Chữa xong ra khoe với T. đang đánh cờ ngoài vườn. Tôi bị T. la một trận. T. bảo: "Tôi có bảo bố chữa những người ấy đâu! Đó là những người tham lam, buôn gian bán lận không chữa! Từ nay bố chỉ chữa những người tôi bảo, những người tôi không bảo bố đừng chữa!".
Tôi thấy đây cũng là một chuyện lạ, vì nghĩ rằng với cái tâm, cái đức của một người có khả năng chữa bệnh, bất kể ai mình cũng nên chữa. Những người không tốt mình cũng phải chữa để qua đó giáo hóa người ta trở thành người tốt, người có ích cho xã hội. Ngay bản thân chúng tôi, những anh em huynh đệ thân tín của T. bị đau ốm nhờ chữa, T. cũng không chữa. T. bảo: "Các ông là những người biết chữa, tự chữa cho mình tốt hơn tôi! Một điều có thể các bạn chưa rõ: chữa cho người khác thì được, nhưng chữa cho mình rất khó, không có kết quả. Phải có công lực mạnh nhu7 T. mới tự chữa được. Nói thế nào T. cũng không chữa.
O73 Hà Nội, anh em quen biết một số bệnh nhân nặng đã chữa đủ các bệnh viện nhưng không khỏi. Mỗi lần T. ra Hà Nội anh em thấy T có khả năng có thể chữa được nói với T. cố gắng giúp. T. bảo: "Đất Thủ đô thiếu gì người tài, để các vị ấy chữa cho!".
Ở Thanh Xuân Bắc có chị H. 35 tuổi, đỗ hai bằng đại học, biết ba ngoại ngữ làm phiên dịch cho Công ty dầu khí Vũng Tàu, 5 năm nay bị một loại bệnh phi thực thể (có thể nói rõ là bị một vong nam giới chiếm làm vợ) đã đi đủ các bệnh viện, các thầy pháp, các đền miếu vẫn không làm gì được, bỏ việc về nhà ở với mẹ. Thể xác, tinh thần lúc nào cũng giở say, giở tỉnh. Một lần vị vong ấy nhập vào chị H. nói trước mặt đông người, có tôi trực tiếp ngồi nghe: "Cô này là người đẹp nhất, là vợ yêu quý nhất của tôi, không bao giờ tôi rời xa cô ấy, ông bà đừng nói vô ích!". Mẹ cô đã đưa cô H. đến một cơ sở nghiên cứu và thực hành ngoại cảm của Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) nhưng cũng đành bất lực.
Lúc T. ra Hà Nội tôi kể lại chuyện đó. Tôi bảo: “Bệnh lạ này chỉ có T. chữa mới khỏi. Tôi tin chắc như vậy. Cô này đẹp người, đẹp nết, là một trí thức trẻ nhưng không lấy được chồng vì lý do trên!". T. bảo: "Nghe ở Hà Nội mới xuất hiện một cửa linh thiêng lắm, lại được bảo trợ của một số cơ quan chúc năng, cứ để họ chữa!". Vậy là T. từ chối.
Phong cách sinh hoạt của nhân vật này cũng có điểm khác thường. Đó là bất kể ở đâu, khi T. có mặt, anh em bạn hữu và những người hâm mộ kẻo đến là T. thao thao bất tuyệt đủ thứ chuyện, nói suốt buổi, lại còn biểu diễn các trò vặt vãnh. Và cứ lặp đi lặp lại như vậy nhiều lần, ảnh hưởng không ít đến sự nể trọng của những người hâm mộ nói riêng và quần chúng nói chung đối với nhân vật
Viết những điểm khác thường ở đây là để khách quan nói lên một con người nhiều tài năng như T. vẫn tồn tại những mặt không đáng có, không nên có. Ngoài ra còn có mong muốn nếu T. được đọc tập truyện ký này có thể nhận ra một số mặt tồn tại của mình để từng bước khắc phục, dần dần trở thành một con người tương đối hoàn thiện giúp ích cho dân, cho nước.
Để kết thúc phần thay lời kết này cũng là kết thúc tập truyện ký, xin kể thêm một chuyện có thể có ích cho T. và các giới chức có trách nhiệm. Đó là một hôm kỹ sư Xuân cùng T. do ngẫu nhiên được gặp một nhà ngoại cảm tài ba ở Đà Nẵng. Nhà ngoại cảm này nói với T.: “Ông là một người nhiều tài năng, đã luyện đủ các môn nội công ngoại kích có thể nói đã đạt tới mức thượng thừa, nhưng tiếc là ông chưa phát huy hết những khả năng đó để phục vụ cho dân. cho nước. Những việc ông làm được còn ít lắm trong khi ông có nhiều tiềm lực. Tôi chỉ nói vậy, ông hãy tự suy nghĩ”. Nghe Xuân kể lại chúng tôi thấy lời nói trên quả đúng với nhân vật chính của tập truyện. Tất nhiên mình T. chưa thể thực hiện được những điều đó mà cần có cách nhìn đúng, cách đánh giá đúng, tạo điều kiện cho T. phát huy tiềm lực của các giới chức có trách nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Barbara Ann Brennan, Bàn tay ánh sáng, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin.
[2] Djuna Davitasvili, Tôi nghe đôi tay mình, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
[3] Kraximira Xloiankova, Vanga hay những bí ẩn của nhà trên tri, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin.
[4] Nguyễn Đình Phư, Nhân điện - Những phát hiện và ứng dụng, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin.
[5] Nguyễn Đình Phư, Hướng dẫn ứng dụng Năng lượng Sinh học, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin.
[6] Nguyễn Đình Phúc, Còn mãi một tình thương, Nhà xuất bản Hải Phòng.
[71 Trịnh Xuân Thuận, Hỗn độn và Hài hòa, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
[8] Trịnh Xuân Thuận, Giai điệu bí ẩn và Con người đã tạo ra Vũ trụ, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
 
Các báo - Tạp chí:
- Báo Tài hoa trẻ
- Tạp chí Thế giới mới
- Báo Thanh niên
- Tạp chí Thế giới trong ta
- Báo Công an thành phố Hồ Chí Mình
- Báo Lao động
- Báo An ninh Thủ đô
- Báo Công an nhân dân
- Báo Văn nghệ
- Báo Tiền phong chủ nhật
- Báo Phụ nữ Việt Nam cuối tuần. 
1/12/2009
Cao Hùng
Nguồn: Nhà xuất bản lao động 2006
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm c...