LỜI NHÀ XUẤT BẢN Kể từ năm 1998, tác giả Cao Hùng - một sĩ quan cao cấp quân đội
đã nghỉ hưu, một nhà nghiên cứu lịch sử có kinh nghiệm đã cùng một số trí thức
Hà Nội, nhiều lần ra vào tỉnh R để nghiên cứu một hiện tượng đặc biệt: Đ. V. T
- nhân vật của cuốn truyện ký này. Nhóm các nhà nghiên cứu đã ăn, ở, ngủ lại, để
theo (hay nói đúng ra bị “hút hồn”) bởi chính nhân vật cuốn truyện - một người
bằng xương bằng thịt như mỗi chúng ta, nhưng lại có nhiều khả năng đặc dị. Chứng
kiến những điều tai nghe, mắt thấy, tác giả muốn phản ảnh một cách khách quan,
chân thật các hiện tượng lạ có thật để các nhà khoa học trong các lĩnh vực khác
nhau suy nghĩ, nghiên cứu tìm câu trả lời. Con người - tổng hòa các mối quan hệ xã hội - tiềm ẩn nhiều
khả năng kỳ diệu ở nhiều góc độ khác nhau, chẳng hạn khả năng điều chỉnh sức khỏe
bằng hai bàn tay, khả năng chẩn đoán bệnh không cần tiếp xúc người bệnh, khả
năng tự chữa trị bệnh cho mình, khả năng dự báo trước một số hiện tượng, sự việc
sẽ xảy ra trong tương lai gần, v.v... Ngoài những thông tin chân xác về những điều kỳ diệu ở một
con người Việt Nam bé nhỏ, là nhân vật trong tập sách này - mà tác giả đem đến
- chúng ta vẫn cảm thấy trăn trở trước việc thờ ơ của các cơ quan chức năng - gần
như chưa có một ai, một chương trình, một cơ quan nào đứng ra nghiên cứu để làm
giàu kiến thức, làm giàu dữ liệu cho khoa học. Cuốn sách chứa nhiều thông tin - dữ liệu quan trọng sẽ có ích
cho công việc nghiên cứu con người nói riêng và sự sống nói chung - những lĩnh
vực mà khoa học đã và đang khám phá. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hiện tượng, nhiều
thuật ngữ y học mà tác giả mô tả hoặc ghi nhận chưa thật chính xác so với thuật
ngữ chuyên môn, v. v. Bỏ qua những hạn chế này chúng ta vẫn có được một truyện
ký hay, và có lẽ, truyện ký này cũng đã đạt một 'kỷ lục" về thời gian
trong lịch sử viết truyện ký ở ta khi tác giả đeo bám nhân vật tới 6 năm ròng. Nhà xuất bản xin giới thiệu cùng bạn đọc cuốn truyện
ký: Chuyện lạ có thật về một con người và xem nó như là một món quà
nhằm đánh thức những khả năng tiềm ẩn trong mỗi bạn đọc. Chừng mực nào đó cũng
là mong muốn hãy trân trọng và giúp đỡ những biệt tài ở giữa chúng ta. Hà Nội, tháng 6 năm 2006 NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG LỜI GIỚI THIỆU Đã nhiều năm nghiên cứu Năng lượng sinh học, Khoa học Sự sống,
Tìm hài cốt thất lạc và những Khả năng kỳ diệu của Con người, chúng tôi đã thu
thập được một kho dữ liệu và rất nhiều, rất nhiều hiện tượng mà quan điểm khoa
học đương đại chưa thể giải thích được. Khi đọc tập Truyện ký "Chuyện lạ
có thật về một con người” của Đại tá Cao Hùng, chúng tôi thật sự ngạc nhiên về
việc làm cao quí của tác giả: Theo đuổi thu thập tài liệu, cùng ăn, cùng ở với
nhân vật để cuối cùng viết lên được những điều tai nghe mắt thấy. Có thể có ai
đó chưa đồng tình và không có tiếng nói chung trong vấn đề này, nhưng xuất phát
từ quan điểm tôn trọng những dữ liệu có thật mà mai sau không thể nào phục hồi
lại được, việc xuất bản những ấn phẩm như thế này là rất cần thiết. Những hình ảnh
và những câu chuyện trình bày trong cuốn sách này là có thật. Bằng uy tín của một
nhà khoa học, một sĩ quan quân đội, tác giả đã phản ánh một cách khách quan các
hiện tượng về nhân vật của cuốn sách. Tuy chúng tôi tiếp cận nhân vật trong cuốn sách này không nhiều
vì quá cách xa (gần một ngàn cây số) và không có nhiều thời gian, nhưng chúng
tôi vẫn ghi nhận được một vài khả năng kỳ lạ của anh: Vận công bẻ gãy dao, thìa
nĩa.... mà bất cứ ai trong chúng ta đều không thể thực hiện, anh cũng đã khám bệnh
cho một vài người trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi (có kết luận của từng cá
nhân và cả nhóm). Được tiếp xúc với nhân vật, được đọc những vấn đề mà tác giả
tâm huyết viết ra, chúng tôi có nhã ý đề nghị tiếp tục nghiên cứu thêm. Mặt
khác muốn trân trọng giới thiệu với tất cả bạn đọc để mọi người tham khảo và
ghi nhận nhiều khả năng kỳ diệu xuất hiện quanh chúng ta mà chưa giải thích được. Nếu bỏ qua những hạn chế về lối kể lể và một vài thuật
ngữ chưa chuẩn thì thì tập truyện ký này rất có giá trị về khoa học và
mang đậm tính nhân văn. Tác giả đã làm được việc đáng quý, đó là tôn trọng những
khả năng mà nhiều người không thể có, chấp nhận những hiện tượng như vậy vẫn là
sức ỳ trong nhận thức của số đông, vẫn quen nếp cũ cái gì bình thường, cái gì
không phiền hà thì ủng hộ còn cái gì có vẻ gai góc thi phủ nhận... Xin mời bạn hãy đọc và cho lời bình! PGS.TS NGUYỂN ĐÌNH PHƯ Giám đốc trung tâm CBE MỞ ĐẦU (A) Vào những thập niên giữa và cuối thế kỷ 20 và những năm đầu
thế kỷ 21, qua sách báo và truyền thông, nhiều truyện lạ có thật trên khắp năm
châu, bốn biển, cả ở Việt Nam đã được chúng ta biết đến. Chuyện lạ có thật là
những chuyện diễn ra hiện hữu trên nhiều lĩnh vực mà khoa học hiện đại ngày nay
dù đã và đang tiến như vũ bão cũng chưa thể giải thích, phân tích, làm sáng tỏ
được. Có thể đơn cử một số ví dụ điển hình về những chuyện lạ có thật
trên thế giới. Ở Mỹ có Barbara Ann Brennan vừa là nhà vật lý, vừa là nhà tâm
linh đã dùng tri giác cao cấp kết hợp với trường năng lực vũ trụ, thao tác bằng
bàn tay, cộng với ý niệm, chữa cho hàng ngàn người khỏi bệnh. Bà đã viết cuốn
“Bàn tay ánh sáng" phổ biến phương pháp chữa bệnh độc đáo này cho cả thế
giới. Ở Liên Xô - nay là Cộng hòa liên bang Nga - có Djuna
Đavitasvili đã dùng trường sinh học để chữa bệnh. Bà được nhân dân Nga và nhân
dân các nước Cộng hòa SNG tôn trọng, ngưỡng mộ. Bà đã viết cuốn sách “Tôi nghe
đôi tay mình”. Theo bà chữa bệnh bằng trường sinh học là một phương pháp chữa bệnh
kỳ diệu, dễ phổ cập, hiệu quả cao, có thể khắc phục những thiếu sót bất lực của
những phương pháp khác, làm giàu cho kho tàng các biện pháp của nền y học hiện
đại. Các nhà bác học ở Nga dùng thuật ngữ “Hiện tượng Djuna" đặt cho
phương pháp chữa bệnh của bà. Ở Bungari xuất hiện “Hiện tượng Vanga”. Vanga là một nhà tiên
tri đầy bí ẩn được cả thể giới ngưỡng mộ. Nhân dân nhiều nước châu A6u, châu Mỹ
đều tìm đến bà. Bà bị mù cả hai mắt do một cơn lốc (vòi rồng) dữ dội cuốn lên
không trung và quật bà xuống đất. Từ đó bà trở thành nhà tiên tri. Buổi đầu, khả
năng tiên tri của bà bị phủ nhận vì cho là mê tín dị đoan. Tiến sĩ khoa học
Gheseghi Lôđanốp bỏ công sức tiến hành một công trình nghiên cứu với 1.000 trường
hợp đã thừa nhận tiên đoán của Vanga chính xác tới 80 phần trăm. Từ đó khả năng
tiên tri của bà d9ược nhân dân Bungari và nhiều nước trên thế giới hoan nghênh. Hoặc như Ở Tnmg Quốc, nước bạn "nu1i liền núi, sông liền
sông" với Việt Nam, trong một vài thập kỷ gần đây đã xuất hiện nhiều nhân
vật có công năng đặc biệt kỳ lạ đến mức ủy ban Khoa học Nhà nước nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa đã chính thức phê chuẩn thành lập “Hội nhân thể học"
(tha1ng 5-1987), nhằm tập trung nghiên cứu những công năng đặc biệt khác thường
của con người, kết hợp với lý luận và thực hành của trung y và khí công một
cách có hệ thống. Ngành khoa học mới mẻ, đầy sức hấp dẫn này chính là một ngành
khoa học nghiên cứu các loại trạng thái công năng xuất hiện trong cơ thể người.
Nhân thể học có nhiệm vụ bảo vệ những công năng đó, tạo điều kiện cho nó phát
triển, nhằm phát huy tiềm lực của con người, phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc
trên nhiều mặt. Nhà nước Trung Hoa đã đặt Nhân thể học ngang tầm với các ngành
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học quân sự, văn hóa, nghệ thuật,
v.v... Hiện tượng công năng đặc biệt hay chuyện lạ có thật ở Trung
Quốc xuất hiện khá nhiều, ở đây xin dẫn chứng vài trường hợp. Trước hết nói về chuyện lạ có thật của Nghiêm Tân. Nghiêm Tân
vừa là khí công sư, là bác sĩ, là lương y đồng thời là một cao thủ võ lâm thành
thạo "thập bát ban võ nghệ", đã đạt tới đỉnh cao của các loại công
năng. Nghiêm Tân theo thầy học Đạo từ lúc 4 tuổi. Năm nay (2004) ông vừa tròn
54 tuổi. Qua 50 năm theo học khí công, võ thuật, trung y, y học hiện đại... ông
đã đạt tới đỉnh cao của một loại công năng có thể nói là siêu phàm trên nhiều
phương diện. Chỉ nói riêng việc chữa bệnh ông đã lập được những kỳ tích mà con
người khó có thế tưởng tượng nổi. Một công nhân bị đau bụng dữ dội, rên la, giẫy giụa, nằm quằn
quại trên mặt đất. Nghiêm Tân tình cờ đi qua, thấy vậy liền lấy một cốc nước, vận
công vào và đưa cho người công nhân uống. Như một chuyện thần kỳ, sau khi uống
hết cốc nước, người công nhân dứt hẳn cơn đau. Đối với Nghiêm Tân, dùng nước
(nước năng lượng - nước tín tức) chữa khỏi bệnh là chuyện bình thường ngay với
một nhánh cỏ xanh ven đường ông cũng có thể cứu sống một mạng người. Công lực của
Nghiêm Tân còn có thể làm cho xương cốt bị gãy vụn trở lại lành lặn như nguyên
(sách, báo ở Việt Nam đã nhiều lần giới thiệu về những khả năng thần kỳ của
Nghiêm Tân). Với tài nghệ chữa bệnh, Nghiêm Tân được nhân dân Trung Quốc tôn
xưng là "Thiên phủ Thần y”, “Hoa Đà tái thế”. Một nhân vật khác có một công năng đặc biệt, một chuyện lạ có
thật không thể tưởng tượng nổi là Trương Bảo Thắng. Hoàn toàn khác với Nghiêm
Tân là Nghiêm Tân theo thầy tu học, rèn luyện từ nhỏ suốt mấy chục năm mới
thành tài còn Trương Bảo Thẳng không theo học thầy nào mà công năng đặc biệt kỳ
diệu của anh xuất phát tự bẩm sinh. Từ buổi đầu, khi những công năng đặc biệt ấy
xuất hiện ngoài ý thức, anh cũng không biết mình có những tài năng đặc biệt ấy.
Từng bước, từng bước một, qua thời gian nhiều năm tháng, anh mới khẳng định được
mình không phải con người bình thường. Anh làm được nhiều điều kỳ diệu ngoài sức
tưởng tượng của mọi người mà bản thân anh không hiểu vì sao mình làm được. Ớ
đây chi đơn cử vài công năng đặc biệt của anh. Khi vận công định thần anh có thề
nhìn thấy từng lớp, từng lớp lục phủ ngũ tạng, xương cốt từ ngoài vào trong của
cơ thể người như một máy chụp cắt lớp hiện đại. Công năng thấu thị của anh kỳ
diệu đến mức có thể nhìn thấy những động mạch, tĩnh mạch, cả những mạch máu nhỏ
li ti, từng sợi dây thần kinh, đặc biệt nhất là anh nhìn thấy cả hệ thống kinh
lạc đang vận hành trong cơ thể gồm 1 2 mạch kinh và 8 mạch kỳ kinh, điều mà máy
móc của nền y học hiện đại ngày nay đang bất lực, chưa có cách gì nhìn thấy,
đo, đếm được. Anh còn nhiều khả năng đặc biệt khác như dùng mũi (khứu giác)
đọc thư, đọc tài liệu dán kín trong phong bì, dùng ý niệm di chuyển đồ vật, lấy
cả 30 viên thuốc đắng trong lọ được gắn xi, niêm phong cẩn thận ra mặt bàn mà dấu
niêm phong vẫn còn nguyên hoặc lấy những xấp giấy bạc trong tủ sắt khóa kín rồi
lại đặt vào chỗ cũ chỉ trong chốc lát. Đặc biệt nhất là khả năng đi xuyên tường. Đưa anh vào trong một
phòng khóa kỹ cửa ra vào, anh có thể đi xuyên tường ra ngoài bất cứ lúc nào. Có
lần trắc nghiệm, anh không chỉ ra một mình mà còn vác theo một bao đường trắng
cùng xuyên tường ra ngoài. Anh đã đi xuyên qua Vạn Lý trường thành trước sự chứng
kiến của nhiều người. Giống như Nghiêm Tân, khả năng chữa bệnh của anh cũng thật
thần kỳ. Cuối năm 1983, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đang trong tình trạng
ốm nặng thập tử nhất sinh. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã mời Trương Bảo
Thẳng đến cứu chữa cho Người. Anh đã nhiều lần dùng công năng đặc biệt qua hai
bàn tay hút đờm từ phổi và phế quản ra ngoài tạo cho Nguyên soái thở dược, cứu
sống Người. Trên thế giới đã xuất hiện biết bao chuyện lạ rất khó tin
nhưng đều là chuyện có thật, nhu chuyện nhớ lại kiếp trước của bé gái Santi
Devi 9 tuổi ở New Delhi, Ấn Độ hay bé Triết Quốc Nga 2 tuổi ở thôn Đông Tháp tỉnh
Hà Bắc, Trung Quốc. Hai em này kể lại rất chi tiết về kiếp trước của mình, cả
tên chồng, tên vợ, tên con. Bé gái Santi Devi kiếp trước tên là Ludgi có chồng là
Padrajanti ở tỉnh Multra, có 3 con gái. Khi sinh bé Dadri, con út thì Ludgi qua
đời. Đặc biệt, bé gái Triết Quốc Nga kiếp trước là một người đàn ông ở thôn Mã
Gia Thân cũng thuộc tỉnh Hà Bắc tên là Trương Phúc Đại có vợ và sinh được 2 con
trai, con trai cả tên là Trương Cát Lâm. Ngày 29-11-1977 ông Đạt qua đời vào
lúc 57 tuổi. Cả hai bé gái này đã cùng bố mẹ về quê cũ của kiếp trước gặp chồng,
vợ, con và họ hàng. Biết bao chuyện cảm động đầy nước mắt đã diễn ra trong những
ngày ấy. Mà như vậy là con người khi chết đi, linh hồn vẫn tồn tại và tái sinh
vào kiếp sau ư! Chuyện khó tin nhưng là chuyện thật trăm phần trăm. Hai sự kiện
trên, báo chí ở Pháp, Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam đều đã đưa tin. Tin hay
không là tùy bạn. Chuyện lạ thế giới, xin phép được dừng lại ở đây để đi vào
các chuyện lạ ở Việt Nam ta. MỞ ĐẦU (B) Ở ấp Vạn Hạnh, xã Trung Mỹ Tây, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ
Chí Minh có anh Lê Văn Ngang thường gọi là Tư Ngang bị đau dạ dày nặng. Hàng
ngày những cơn đau dạ dày cứ hành hạ anh. Đọc báo biết ở nước ngoài người ta
dùng điện để chữa bệnh. Do trình độ có hạn, anh nghĩ rằng cách chữa ấy là dùng
dây điện dí trực tiếp vào chỗ đau của cơ thể. Nghĩ sao làm vậy, anh lấy một đầu
dây nóng có điện 110 vôn dí thử vào vùng dạ dày đang đau. Điều kỳ diệu đã xảy
ra. Anh không bị điện giật mà nhận được một cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái, dạ
dày bớt đau. Thấy cách chữa có hiệu quả, anh phấn khởi tiếp tục dí điện để chữa.
Sau nhiều lần như vậy, anh thấy trong người khỏe hẳn, bệnh đau dạ dày đã khỏi.
Anh nghĩ mình ít học, không hiểu gì về khoa học, cứ mạnh dạn làm thử hóa ra điện
lại chữa được bệnh. Thật ra đây là trường hợp ngẫu nhiên may mắn có một không
hai ở nước ta và cả trên thế giới. Ở Trung Quốc, một vài người có công năng đặc
biệt cầm cả dây nóng điện 220 vôn mà không bị giật, nhưng chưa có ai dùng điện
theo kiểu này để chữa bệnh. Mong các bạn không nên thử. Anh không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử nghiệm chữa cho gia
đình, biết đâu đây là một phương pháp chữa bệnh hiệu nghiệm mà từ trước đến nay
chưa ai biết. Đứa con út của anh lúc đó 8 tuổi bị bệnh đái dầm và bị mụn cóc. Một
tay cầm dây điện trần, một tay cầm cây ăng-ten gỡ từ chiếc đài bán dẫn dí vào
những mụn cóc và vùng thắt lưng con. Sau vài lần như thế, mụn cóc không còn và
bệnh đái dầm của con cũng khỏi. Bà con xa gần được tin kéo đến nhờ anh chữa ngày càng đông. Anh
không từ chối một ai, nhưng cũng thầm lo nhỡ ra có chuyện không hay! Anh chữa đủ
thứ bệnh, người khỏi, người đỡ, không ai bị tai biến gì. Anh chữatừ thiện,
không lấy tiền. Sau này được cơ quan y tế mời lên chữa thử nghiệm ở Bệnh viện
đa khoa Hóc Môn, có bác sĩ giúp đỡ kiểm chứng. Anh đã chữa trên 200 bệnh nhân,
có hồ sơ bệnh án và không có trường hợp nào có phản ứng phụ. Để tạo điều kiện
cho anh có kiến thức về y học, bệnh viện cử anh đi học một khóa đào tạo lương
y. Anh được học về y lý Đông y, các hệ kinh lạc, huyệt đạo cách bắt mạch. Sau
đó anh còn được học về giải phẫu sinh lý cơ thể người, phương pháp xét nghiệm,
đọc phim X.quang, siêu âm và anh được cấp chứng chỉ, được phép hành nghề chữa bệnh
cho dân. Sau này nghĩ lại anh mới giật mình, đúng là “điếc không sợ
súng", chưa hiểu gì về cơ thể người, về huyệt đạo mà cứ chữa đại, chỉ có tấm
lòng mong mọi người khỏi bệnh. Anh được chính quyền địa phương và cơ quan y tế
cho phép và tổ chức cho anh chữa bệnh tại nhà, có sự sắp xếp để bảo đảm an ninh
trật tự. Bệnh nhân ở các tỉnh xa đến ngày càng đông. Hàng ngày anh cầm dây điện
để "sạc" điện vào người. Cơ thể anh như một bình ác-quy chứa điện.
Qua thực tiễn anh đã dần dần thu, phát, điều khiển được dòng điện bằng ý niệm.
Anh có thể điều chỉnh cường độ dòng điện mạnh, yếu tương ứng với từng loại bệnh
và sức chịu đựng của cơ thể từng bệnh nhân. Những bệnh thông thường, anh chỉ chữa
một vài lần là khỏi. Riêng bệnh bại biệt và di chứng của tai biến mạch máu não
nằm một chỗ, anh phải kiên trì chữa một vài tháng mới đỡ, bệnh nhân chống gậy
đi lại được. Khi viết về chuyện lạ chữa bệnh của anh Tư Ngang chúng tôi hết
sức hoan nghênh chính quyền địa phương xã Trung Mỹ Tây, huyện Hóc Môn và cơ
quan y tế địa phương. Trước một hiện tượng lạ chưa bao giờ có đã không trù dập,
cấm đoán, cho là mê tín dị đoan mà nghiên cứu công nhận và tạo điều kiện cả về
nâng cao trình độ, kiến thức y học Đông, Tây và tổ chức cho anh phát huy, phục
vụ nhân dân. Nhiều nơi, không ít trường hợp ở nước ta khi có chuyện lạ xảy ra,
chính quyền địa phương cùng công an, y tế chưa nghiên cứu đã trù dập, cấm đoán,
cho là mê tín dị đoan. Thật ra, nhiều trường hợp là mê tín dị đoan thật, là lừa
bịp cần cấm đoán. Do đó cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu, phải dựa vào quần chúng
nhân dân và chứng minh được hiệu quả thực tế để phân biệt thật giả, đúng sai.
Trước hết, hãy vì lợi ích của nhân dân, tôn trọng pháp luật và nghiên cứu phát
triển khoa học, ngay cả những chuyện lạ mà khoa học chưa lý giải được. Lại một hiện tượng chữa bệnh lạ ở Quảng Nam. Anh Nguyễn Văn Minh
ở thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn nguyên là chiến sĩ trinh sát trung đoàn 45
quân khu V, tùng chiến đấu trên chiến trường nước bạn, sau khi phục viên bị bệnh
rối loạn tâm thần đã điều trị tại quân y viện nhưng không khỏi. Sau 2 năm bệnh
tự nhiên khỏi và xuất hiện một khả năng "ngoại cảm" kỳ lạ. Anh
"nhập vai" một thầy thuốc dùng cây lá chữa bệnh cho dân không lấy tiền.
Cần nói thêm, trước đó. anh chưa có kiến thức gì về đông y, bắt mạch, chỉ định
thuốc… Phương pháp chẩn đoán bệnh của anh rất độc đáo. Người bệnh
không phải khai bệnh, chỉ đưa tay cho anh bắt mạch. Trong giây lát, anh nói
chính xác từng căn bệnh của bệnh nhân. Anh còn nói những người thân trong gia
đình, ai đang mắc bệnh gì. Kỳ lạ nhất là anh có phương pháp "chụp phim”
vùng bị bệnh nằm sâu trong cơ thể như y học hiện đại chụp Xquang hoặc siêu âm.
Khi cần "chụp phim" anh lấy một tờ giấy trắng hoặc vàng không kẻ đặt
lên vùng đau bệnh nhân, phun vào đó một ngụm rượn. Như vậy là chụp xong. Tờ giấy
được lấy ra xem trực tiếp bằng mắt thường. Phần thương tổn nổi rõ trên tờ giấy
như rỗ phổi, tim to, có u trong dạ dày hoặc xương bị gãy... Khám xong, anh không phát thuốc tại chỗ mà kê đơn cho bệnh
nhân về nhà tự bốc thuốc. Cho đơn ai anh đều dặn kỹ là phải tìm đủ các loại cây
lá và liều lượng ghi trong đơn, không được thiếu, thừa, uống vào sẽ khỏi bệnh.
Những vị thuốc này đều là cây, lá dễ tìm trongdân gian. Có bệnh nhân không thực
hiện đúng, lần sau đến là anh nói ngay: "Thuốc ông (bà) uống thiếu vị A, vị
X, bệnh không khỏi mà còn nặng thêm". Tiếng lành đồn xa, bệnh nhân đến xin anh chữa ngày càng đông.
Hàng ngày có từ 50 đến 100 người xếp hàng chờ đến lượt. Trong số bệnh nhân ngồi
chờ, anh biết ai bị bệnh nặng, ai bị bệnh truyền nhiễm, anh gọi lần lượt từng
người lên khám, chữa trước. Điều kỳ lạ nữa là gặp trường hợp bệnh nặng,
"người nhập vai” thứ nhất không chữa được, anh nói: "Bệnh này ta
không chữa được, mời người giỏi hơn về chữa". Thế là anh “nhập vai"
ngay người khác. Cứ như vậy, có ngày gặp toàn bệnh hiểm nghèo, anh phải
"nhập vai" tới 6 lần mà người cao nhất là người có khả năng xuất
chúng, có thể chữa được bệnh nan y. Sau 5 tháng, bệnh nhân được anh chữa khỏi rất nhiều. Ở đây chỉ
xin nêu một số trường hợp người thật, việc thật điển hình. Đại tá Huỳnh Tấn Sơn đã nghỉ hưu ở tổ 47 Hòa Thuận. Ông bị
nhiều bệnh nặng như viêm sỏi túi mật, gan to nhiễm mỡ, sỏi thận, mỡ màng ngoài
tim, cụp xương sống, thoát vị bẹn lại thêm đục thủy tinh thể, dù điều trị nhiều
lần ở Viện quân y 17, Viện quân y 108. Viện 108 đã 2 lần mổ thận và đề nghị ông
cắt bỏ túi mật, nhưng sức khỏe ông quá yếu chưa dám mổ. Lúc này ông chỉ còn
38kg. Sau 15 ngày được anh Minh chữa trị, điều thần kỳ đã xảy ra. Ông hoàn toàn
khỏi bệnh, sức khỏe được hồi phục. Mắt sáng ra, siêu âm lại thấy túi mật hết
viêm, không còn sỏi... Hàng ngày ông chạy được 5 - 10 ki-lô-mét vào buổi sáng
và đi xe đạp vài chục ki-lô-mét là chuyện bình thường. Thật rất khó tin nhưng
là chuyện thật. Chứng tai biến mạch máu não, nằm một chỗ được anh chữa khỏi
tương đối nhiều như đại tá Phạm Hữu Thiện, nguyên Chính ủy Đoàn 333, đại tá Lê
Chí Cẩm nguyên Phó viện trưởng Viện quân y 17. Bác sĩ Huỳnh Thanh nguyên Phó
phòng quân y Quân khu V đau nhức trong xương, đi đứng không vững (nghi bị ung
thư tủy), vợ anh là chị Nguyệt, Phó chủ nhiệm khoa tim mạch Bệnh viện C Đà Nẵng
bi sa dây chằng và mỡ trong máu được anh Minh "chụp phim" và cho đơn
thuốc. Sau một thời gian ngắn, vợ chồng anh đều khỏi bệnh. Anh Huỳnh Thanh nói:
"Tôi là bác sĩ chuyên khoa cấp 2 mà không sao hiểu nổi hiện tượng kỳ lạ
này!". Thiếu tướng Nguyễn Nghĩa, Chủ nhiệm chính trị Quân khu V, bị ung
thư vòm họng được Viện quân y 108 và Viện K Hà Nội chữa bằng xạ trị, hóa trị,
khối u teo nhỏ lại nhưng mất luôn cả tuyến nước bọt, không còn cảm giác mùi vị.
Anh Minh khám, "chụp phim" đưa cho mọi người xem thấy rõ còn khối u.
Sau khi uống 6 tháng, tuyến nước bọt hoạt động trở lại, ông Nghĩa đã phân biệt
được mùi vị, đau bớt nhức, người tỉnh táo hơn. Nhiều người bi xơ gan cổ trướng, hẹp van tim... đều được anh
Minh chữa khỏi. Nhưng điều đáng tiếc đã xảy ra. Các cơ quan chức năng ở địa
phương đã ra lệnh cấm anh Minh không được chữa bệnh nữa vì cho đây là cách chữa
bệnh mê tín dị đoan. Nhiều người đang uống thuốc dở dang đã òa khóc vì không được
tiếp tục điều trị trong đó có nhiều cán bộ quân đội nghỉ hưu và cán bộ đương chức
đang bị những căn bệnh hiểm nghèo. Xin miễn bình luận về sự việc đáng tiếc này. Một chuyện lạ khác ở thị trấn Phù Cát, tỉnh Bình Định. Đó là
chuyện ông Huỳnh Lại, một lão nông đã ngủ một giấc suốt 18 năm - tính từ năm
1975 đến năm 1993 (lúc các báo phát hiện đến tận nơi đưa tin). Theo lời anh Huỳnh Đạt con trai ông kể lại thì ông Lại cũng
như những người già khác, sức khỏe suy yếu, lúc khỏe dậy chơi với con cháu, lúc
mệt nằm nghỉ một cách bình thường. Nhưng 3 tháng trước ngày Bình Định hoàn toàn
giải phóng, ông không dậy nữa mà nằm ngủ suốt ngày đêm, kéo dài 18 năm liền.
Ông nằm trong tư thế thẳng đờ, bất động, mắt nhắm nghiền, da mặt vẫn giữ được vẻ
hồng hào. Chòm râu thưa chưa điểm sợi bạc. Ngoài khuôn mặt thể hiện thần khí của
một người còn sống, toàn thân ông cứng đờ. Hai bàn tay nắm chặt trong thể bắt ấn,
quyết. Qua những năm tháng dài dằng dặc ấy, ông Lại hoàn toàn không
ăn gì ngoài việc hàng ngày uống mấy thìa nước dừa do người nhà bón theo các giờ
tý, mão, ngọ, dậu. Thỉnh thoảng,. người nhà cũng cho ông uống nước cam vắt, ông
uống trong trạng thái vô thức như một người bị hôn mê hoàn toàn. Cứ như vậy, ông Huỳnh Lại đã qua một giấc ngủ 18 năm. Đây là
một hiện tượng sinh lý khá đặc biệt. Nhiều người đặt câu hỏi phải chăng đây là
một trạng thái bệnh lý hay một phương pháp thiền định đặc biệt mang màu sắc
siêu hình? Qua nhiều năm, câu trả lời vẫn đang bỏ ngỏ. Trong lĩnh vực tìm mộ từ xa bằng khả năng đặc biệt của các
nhà ngoại cảm, nhất là tìm mộ liệt sĩ thất lạc, chúng ta đã được nghe, được đọc
nhiều trên báo chí. Nhà nước ta đã bắt đầu quan tâm đến nhu cầu bức xúc này vì
tìm mộ liệt sĩ - những người đã hy sinh tính mạng của mình đề bảo vệ nhân dân,
bảo vệ Tổ quốc - là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA), Viện
khoa học hình sự Bộ Công an, Trung tâm nghiên cứu bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền
thống, cả ba cơ quan đều được trên giao nhiệm vụ theo dõi nghiên cứu chương
trình tìm mộ liệt sĩ từ xa. Các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Phan Bích Hằng,
Đỗ Bá Hiệp, Nguyễn Thi Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Vũ Thị Nghĩa, Nguyễn Đức Phụng...
trong nhiều năm đã tìm được hàng ngàn mộ liệt sĩ, được các cơ quan nghiên cứu
khoa học và gia đình liệt sĩ công nhận. Việc tìm mộ từ xa, đến nay các cơ quan khoa học Nhà nước ta
tuy chưa lý giải được nhưng đều phải công nhận đó là sự thật hiển nhiên, không
thể bác bỏ, đã dẫn đến thành công trong việc thực hiện một chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước đối với liệt sĩ. Tuy vậy, qua báo chí chúng tôi được biết còn có
người, có cơ quan đến nay vẫn phản bác tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm, cho là mê
tín dị đoan, là lừa bịp. Chúng tôi xin phép nói một câu: “Nếu ‘mê tín dị đoan’
mà tìm được hàng ngàn mộ liệt sĩ vẫn tốt chứ sao!". Trong câu chuyện này chúng tôi không định viết việc tìm mộ của
các nhà ngoại cảm mà chuyện tìm mộ này còn lạ lùng, kỳ tuyệt gấp bội vì chính vị
liệt sĩ ấy báo cho gia đình và tự mình dẫn người thân đi bốc mộ, đưa hài cốt về
quê. Đó là trường hợp của liệt sĩ Nguyễn Văn Tự quê ở xã Thạch
Đĩnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tự là con trưởng của một gia đình có 9 người
con: 5 trai, 4 gái. Tự đi bộ đội từ đầu năm 1965. Sau ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng cho đến nhiều năm sau, bà Hạnh - mẹ của Tự và các em trong gia đình
đợi chờ tin Tự đến vô vọng không biết còn sống hay đã hy sinh. Riêng mẹ Hạnh có
linh cảm là con mình đã hy sinh rồi. Có một đêm, mẹ Hạnh nằm mơ thấy rõ ràng Tự
về đi đôi giày vải và mặc bộ quần áo bộ đội cũ. Anh đứng nhìn mẹ rồi ra đi mà
không nói lời nào. Cả nhà nóng ruột, cho người lên huyện đội hỏi. Sau đó không
lâu thì nhận được giấy báo tử: Nguyễn Văn Tự hy sinh năm 1966 ở mặt trận phía
Nam, chứ không nói rõ ngày tháng và hy sinh ở địa phương nào. Thế rồi vào một đêm cuối năm 1994, anh Nguyễn Văn Cử em trai
Tự công tác ở thành phố Vinh trong giấc mơ thấy anh Tự hiện về nói: "Anh hy
sinh ở đồi 405 Vĩnh Linh, các em vào đưa anh về quê!". Câu chuyện báo mộng
này được thuật lại cho anh em trong nhà nhưng chưa ai dám tin. Gần 30 năm rồi,
rừng núi mênh mông biết đâu mà tìm. Nếu tìm được chỉ còn nắm đất đen thôi. Tuy
vậy, với lòng thương nhớ anh da diết, ba anh em Cử, Thử, Phùng bàn nhau chuẩn bị
lên đường theo lời anh mách bảo. Cháu Nguyễn Thị Hằng 12 tuổi, con gái anh
Phùng, xin đi theo bố và hai bác, cuối cùng được các anh cho đi. Đúng ngày 1 tháng 6 (âm lịch), ba anh em cùng cháu Hằng lên
xe đi vào Vĩnh Linh, đến gặp Thị đội trình bày và hỏi đường đi đến đồi 405. Các
đồng chí ở Thị đội rất nhiệt tình, đưa bản đồ ra chỉ vị trí của đồi 405. Theo tỷ
lệ bản đồ từ Vĩnh Linh đến đồi 405 khoảng 70 ki-lô-mét. Rời Thị đội, nhóm tìm mộ
dùng xe đạp đèo nhau vượt qua nhiều đoạn đường khó đi suốt một ngày. Trời sắp tối,
không có ai để hỏi đường, anh em bàn nhau bẻ lá cây làm lán ở tạm, ngày mai đi
tiếp. Bỗng nhiên cháu Hằng vừa chạy lên trước vừa nói với giọng khác lạ: - Các chú mau đi theo anh, gần đến nơi rồi! Cà ba anh em quá đỗi ngạc nhiên trước câu nói lạ lùng ấy. Hằng
tiếp tục chạy. Anh Phùng bố cháu Hằng gọi với theo: - Hằng ơi, đi chậm lại chờ bố và các bác theo với". Cháu Hằng dừng lại nói: - Các chú ơi, đến mộ rồi. Anh sẽ hướng dẫn các chú. Bốc xong
rồi về luôn trong đêm nay. Hằng đi trước dẫn ba anh em trèo lên một ngọn đồi cao thì dừng
lại. Trước mặt hiện ra ba nấm mộ. Hằng chỉ vào nấm mộ giữa và nói: - Đây là mộ của anh, các chú đào đi! Ba người lấy cuốc, xẻng ra đào. Một lúc sau, Hằng nói: - Các chú nhặt xương đi! Nhặt được một ít xương, thấy chưa đủ, ba người định đào tiếp
thì Hằng nói: - Anh chết vì trúng bom. xương thịt tản mác hết chỉ có chừng
đó thôi, đừng đào nữa, hết rồi, gói lại đi! Thế là ba anh em cùng cháu Hằng mang gói hài cốt ra về. Dọc
đường, cháu Hằng vẫn tiếp tục nói chuyện: - Anh ở cái đồi này lâu lắm rồi. Rất nhớ mẹ, nhớ các em! - Tại sao bác không về? (Lúc này các anh gọi Hằng là bác). - Anh có về chơi mấy lần, có biết tình hình ở nhà, nhưng chưa
về luôn được! - Bây giờ bác còn nghiện rượu, nghiện thuốc lá nữa không? - Thôi rồi, không nghiện gì nữa cả! Bỗng Cử nói: - Hồi đầu anh đóng quân ở Hương Phó (Hương Khê), em lên thăm
sao anh đuổi em về! - Vì bí mật quân sự, vả lại ngay trong đêm đó anh đã phải
hành quân cùng đơn vị rồi em ạ! - Bây giờ anh về sẽ ở đâu? - Về Thạch Đỉnh quê hương, nhưng trước hết ở Vinh với chú Cử
mấy ngày đã! Phùng nói: - Bác ơi, bác cứ nhập vào chúng em, đừng nhập vào cháu Hằng nữa,
cháu còn nhỏ mà! - Cháu Hằng khỏe gối. Anh bảo đảm cho cháu đi đến nơi về đến
chốn, không việc gì đâu! Đi một đoạn, cháu Hằng quay lại phía núi vẫy tay chào và nói:
"Vĩnh biệt, vĩnh biệt nơi này" rồi bảo ba người ngồi nghỉ. Cả nhóm dừng
lại nghỉ, bỗng cháu Hằng níu áo bố Phùng nói: "Hồi nãy đến giờ con ngủ bố ạ!".
Thế là mọi người hiểu linh hồn Tự đã ra khỏi cháu Hằng. Trời gần sáng mọi người mới đến Quốc lộ I, chờ đón xe về
thành phố Vinh và ở đấy 2 ngày. Sáng ngày 7 tháng 6 (âm lịch), hài cốt anh Nguyễn
Văn Tự được đưa về nhà tại xã Thạch Đỉnh, để trên bàn trước bàn thờ gia đình. Đại diện Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã, Hội đồng nhân dân, các
đoàn thể và bà con Thạch Đỉnh được tin đến thăm viếng rất đông. Mọi người đang
bàn việc tổ chức đưa hài cốt anh Tự ra nghĩa trang, bỗng cháu Hằng đứng dậy
khóc và nói với một giọng khác lạ. - Mời mẹ và các em lại ngồi cạnh đây, còn bà con xin ngồi tạm
ở ngoài - Hằng khóc nói tiếp: - Đáng lẽ anh phải về lâu rồi nhưng vì hoàn cảnh,
các em chưa đưa anh về được nên chưa bảo thôi - Nói xong Hằng cầm tay Phùng (là
bố) vừa khóc vừa nói: - Lúc anh đi em mới 6 - 7 tuổi. Em níu áo anh và dặn về sẽ
mua kẹo cho em, đến bây giờ anh mới về được! Phùng nói: - Thôi anh đừng khóc nữa! Anh về là cả nhà mừng lắm rồi! Bây
giờ anh cho biết thờ anh ở đâu? - Thờ ở nhà Cử. Còn chú Biểu đã có thờ anh, từ nay đừng thờ nữa,
anh vẫn phù hộ cho chú. - Anh mất vào ngày, tháng, năm nào nói để gia đình biết làm
giỗ. - Anh mất lúc 9 giờ sáng ngày 9 tháng 2 năm 1966 trên đồi 405
Vĩnh Linh. Bỗng Hằng hỏi Minh Ở đâu. Minh là vợ Tự, đã có một con với Tự
tên là Quý nhưng không nuôi được. Minh vẫn ở vậy chờ đợi anh. Minh năm ấy 55 tuổi.
Minh tiến lại gần Hằng. Hằng hỏi: - Anh viết cho Minh nhiều thư, em có nhận được không? Minh nói trong nước mắt: - Dạ có. - Thế có thuộc bài thơ anh làm cho em vào dịp Tết năm 1965
không? - Dạ lâu lắm rồi, thương nhớ anh, em không nhớ gì nữa. Thế là Hằng cất cao giọng đọc luôn bài thơ: Đêm giao thừa Anh ngồi ăn bánh Gửi lại tình thương Giờ đây xa cách đôi đường Chẳng có gì gửi lại cho em Mặn mà tình nghĩa thân truyền Đậm đà nét bút lời nguyền trăm năm. Đọc xong Hằng khóc, Minh cũng khóc. Hằng nói tiếp: - Nhà đốt cho tôi một bộ quần áo bộ đội và thằng Quý một bộ đồ
trắng. Đúng 2 giờ chiều nay đưa tôi ra, đặt mộ tôi cạnh mộ con. Nói xong, Hằng ngồi lặng một lúc rồi đứng dậy nói với bố mẹ: - Con ngủ nhưng nghe nặng cái đầu lắm! Đồng chí phóng viên báo Hà Tĩnh có mặt từ đầu đến cuối câu
chuyện, hỏi cháu Hằng: - Cháu có biết và nhớ những điều cháu nói không? Cháu lắc đầu bảo cháu không biết gì cả. Đây là toàn bộ diễn biến trong câu chuyện liệt sĩ Nguyễn Văn
Tự nhập vào người nhà dẫn đi tìm mộ với bao nhiêu tình tiết ly kỳ rất khó tin,
nhưng không tin cũng không được vì nó diễn ra trước đông người và là chuyện thật
trăm phần trăm. Nhân chuyện linh hồn liệt sĩ về dẫn người nhà đi tìm mộ, xin
kể thêm ở phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, Hà Nội, hồn người chết đi gặp
chồng, bố mẹ và các em. Sau đó sống lại và thuật lại câu chuyện. Đó là cụ bà Nguyễn Thị Nghĩa, sinh năm 1931 trú quán tại
phòng 307, nhà 118, phường Thanh Xuân Bắc. Bà có 3 người con là Khánh, Thoa,
Tuyên đã trưởng thành. Năm 2002, bà Nghĩa bị ốm nặng, các con đưa bà vào điều
trị tại Quân y viện 103. Sau một thời gian điều tri, bà qua đời. Thi thể bà được
đưa ranhà xác chờ ngày khâm liệm, tổ chức lễ tang. Chính tại căn nhà xác Quân y viện 103 đã diễn ra câu chuyện kỳ
lạ này. Sau lần chết sống lại, bà Nghĩa kể: - Tôi đang đi lang thang vô định bỗng nhìn thấy trước mặt có
một đoàn người mặc quần áo trắng có cờ xí kèn trống inh ỏi. Thấp thoáng trong
đoàn người đó, tôi nhận ra ngay chồng tôi. Dáng người gầy, da nâu sậm, đầu hơi
cúi về phía rước khi bước đi của ông ấy không thể lẫn với ai được! Cách đây hơn
30 năm, ông ấy chết bỏ lại tôi một nách 3 đứa con nhỏ. Không kể hết được nỗi
gian truân, vất vả của một người mẹ nghèo hai bàn tay trắng nuôi 3 con mọn. Bỗng nhiên có giọng nói ồm ồm của một người đàn ông cất lên:
"Con ơi! Bố mẹ đi đón con đây!" làm tôi sửng sốt. Tôi mồ côi cả bố lẫn
mẹ từ ngày còn rất bé. Trong bộ óc non nớt của mình, tôi chỉ còn nhớ độc một cảnh
tượng vào một đêm tối trời, trên vùng đất trung du Phú Thọ, bố mẹ tôi bị bọn phản
động lôi xềnh xệch đi rồi bắn chết trong tiếng khóc thét của chị em tôi. Cũng từ
đó chị em tôi lưu lạc mỗi đứa một nơi. Nhiều lúc tôi cố hình dung lại khuôn mặt
của bố mẹ nhưng đều bất lực chỉ hiện lên hình ảnh hai khuôn mặt bê bết bùn và
máu. Người đàn ông lớn tuổi vừa gọi tôi có nước da đen giòn, trán
có nhiều nếp nhăn, chỉ vào người đàn bà bên cạnh có khuôn mặt bầu, đôi mắt hiền
từ nói: "Đây là mẹ con, hai đứa mặc đồ bộ đội đi phía sau là em con đấy!”
Tôi lưỡng lự nhìn ông bà, nhìn tất cả mọi người. Trừ chồng tôi còn tất cả đều lạ,
nhưng những ánh mắt hiền từ thân thương của họ lấp lánh những tình cảm trìu mến,
vui sướng khó tả. Đoàn người đứng cách tôi một con sông nhỏ, hẹp nhưng không có
ai nhảy sang. Bố tôi đứng bên bờ đối diện chìa tay sang chỗ tôi. Tôi đang định
nắm tay ông để nhảy sang bờ bên kia với mọi người bỗng nghe tiếng rao lanh lảnh:
"Ai bánh chưng xôi nóng nào? Ai ăn bánh chưng xôi nóng nào? ". Đúng là tiếng rao tôi từng nghe quen thuộc mỗi buổi sáng ở
Quân y viện 103 khi tôi nằm điều trị. Bỗng nhiên, một cảm giác lạnh tràn ngập
cơ thể tôi, lạnh đến run người làm tôi choàng tỉnh. Tôi càng hoảng hốt khi nhìn
thấy bên cạnh là những tủ ướp xác người. Tôi ngã bổ xuống nền xi măng lạnh ngắt.
Tôi lồm cồm bò dậy cố tránh xa những chiếc tủ đựng xác người. Tôi đẩy cánh cửa
nhà xác, nhìn thấy các con tôi đang khóc gọi mẹ ơi mẹ hỡi sao mẹ bỏ lũ chúng
con! Các con nhìn thấy tôi bỗng nín bặt, mắt trân trân, mồm há hốc. Chúng sụp
xuống chân tôi nức nở. Thằng cả nhà tôi hét to: “Bác sĩ ơi, bác sĩ!". Lập
tức bác sĩ đưa băng ca đến và tôi lại được đưa về phòng cấp cứu, nơi tối hôm
qua tôi đã chết. Khỏi phải nói các con tôi mừng như thế nào khi thấy mẹ sống lại. Sau thời gian ngắn, tôi được xuất viện. Khi người đã hoàn
toàn khỏe mạnh tôi lại tiếp tục đi bán bánh rán như trước. Tôi suy nghĩ mãi về
cảnh tượng đi gặp chồng, bố mẹ và hai em. Không biết suy nghĩ có đúng không
nhưng tôi cho rằng cái con sông nhỏ hẹp ấy chính là cái ranh giới ngăn cách giữa
cõi trần và cõi âm. Những suy nghĩ ấy thôi thúc tôi tìm về cội nguồn để tìm hiểu
sự thật và gốc tích bố mẹ. Lang thang trên đất Phú Thọ mãi rồi tôi cũng tìm về
được đất Sông Thao, nơi quê cha đất tổ, nơi bố mẹ tôi sinh ra và chết ở đó,
cũng là nơi chôn rau cắt rốn của tôi. Vào nhà thờ tổ, nhìn lên bức ảnh thờ bố mẹ,
tôi hết sức ngạc nhiên thấy người trong ảnh giống như in hai khuôn mặt bố và mẹ
mà tôi đã gặp bên bờ con sông ngăn cách âm dương ấy. Có cả ảnh của hai em trai
tôi mặc đồ bộ đội là liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Nhu vậy,
đối chiếu với thực tế, những điều tôi nhìn thấy khi chết là đúng sự thật trăm
phần trăm. Tôi thấy mình thật diễm phúc vì đãa có dịp đi gặp được bố mẹ, gặp chồng
và em ở thế giới bên kia. Chuyện của bà Nguyễn Thị Nghĩa ở Thanh Xuân Bắc trên thế giới
không hiếm. Sách báo đã viết nhiều. Y học hiện đại gọi đó là hiện tượng chết
lâm sàng. Tim, phổi ngùng hoạt động nhưng bộ não vẫn chưa chết hẳn. Do có trường
hợp chết lâm sàng nên y học quy định khi có người chết phải đo điện tâm đồ và
điện não đồ không thấy có sóng mà chỉ thấy có tín hiệu một đường thẳng là người
đó đã chết thật và chờ thêm 30 phút hãy đưa ra nhà xác. Còn chuyện linh hồn rời khỏi thể xác chu du vào thế giới bên
kia gặp người thân tuy là chuyện có thật nhưng khoa học chưa lý giải được. Và
trên thế giới này, trong cuộc sống này còn biết bao điều khoa học chưa lý giải
được! Theo ý chúng tôi, không nên vội vàng phản bác cho là mê tín dị đoan. Gần
đây trên thế giới nói nhiều đến một ngành khoa học mới - khoa học tâm linh. Tâm
linh là khoa học vì nó có thật, nó hiện hữu. Khoa học tâm linh hoàn toàn khác với
mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là lừa bịp, không có thật, không hiện hữu. MỞ ĐẦU (C) Chúng tôi đã kể với các bạn một số chuyện lạ có thật trên thế
giới và ở ngay nước ta. Trong thế kỷ 21 này sẽ còn tiếp tục xuất hiện nhiều
chuyện lạ nữa. Tại sao vậy? Vì theo triết lý phương Đông con người là một tiểu
vũ trụ nằm trong đại vũ trụ bao la mênh mông và quyện chặt với đại vũ trụ. Với đại vũ trụ ta, biết quả đất tự xoay một vòng là 24 giờ,
xoay một vòng quanh mặt trời là một năm. Mặt trăng xoay quanh quả đất với chu kỳ
là 29 ngày 12 giờ 44 phút. Chín hành tinh lớn của hệ mặt trời đều xoay quanh mặt
trời với quỹ đạo và chu kỳ riêng. Mặt trời không đứng yên mà chuyển động xung
quanh tâm của hệ Ngân hà. Hệ Ngân hà lại xoay quanh hệ lớn hơn là đám Thiên hà. Với tiểu vũ trụ thì cơ thể người là sự tập hợp của hàng chục
nghìn tỷ tế bào. Trong một tế bào của cơ thể người, điện tử xoay quanh nguyên tử.
Trong một tế bào có nhiều nguyên tử thì số điện tử còn gấp mười mấy lần nguyên
tử, thậm chí mấy chục lần. Các tế bào biệt hóa họp thành mô, các mô họp hành nội
tạng, nội tạng họp thành các bộ máy trong cơ thể. Từ đó, ta thấy sự vận động xoay chuyển nhiều dạng nhiều tầng
của các thiên thể trong vũ trụ hoàn toàn thống nhất với sụ xoay chuyển nhiều dạng,
nhiều tầng trong cơ thể người và, con người cũng là một vật thể xoay chuyển. Từ
những quy luật vận động trên, rõ ràng cơ thể người là một tiểu vũ trụ. Giữa tiểu
vũ trụ và đại vũ trụ luôn có mối liên hệ thông suốt, chặt chẽ với nhau. Luật
chu kỳ vận hành của thiên thể phản ánh rõ nét trên cơ thể con người. Con người nói theo duy vật biện chứng gồm vật chất - thể xác
và ý thức, nói theo khoa học tâm linh gồm thể xác và linh hồn, cái tiểu vũ trụ ấy
hàm chứa bao điều bí ẩn khó hiểu mà các ngành khoa học đương đại toán, lý, hóa,
sinh, y... còn phải tiếp tục nghiên cứu, lần tìm. Đơn cử như bộ não người, theo
các nhà khoa học nó gồm trên dưới 15 tỷ tế bào mà con người chỉ mới sử dụng khoảng
trên dưới 8 phần trăm. Cái phần lớn lao còn lại hầu như vẫn "ngủ' yên. Những
người có công năng đặc biệt, tài năng siêu phàm trên nhiều phương diện phải
chăng là trong những điều kiện đặc biệt của tâm, sinh, lý, hóa... mà một phần
trong cái khối lượng tế bào lớn lao "ngủ' yên đó đã được đánh thức, đã trỗi
dậy và phát huy tác dựng? Tất nhiên có thể còn do những nguyên nhân tiềm ẩn bí
hiểm khác trong những con người ấy cùng với sự tác động của biến đổi vũ trụ mà
ta chưa biết được. Chủ yếu ở đây, chúng tôi muốn kể với các bạn một nhân vật có
nhiều khả năng đặc biệt trên nhiều phương diện ở ngay nước ta mà báo chí đã có
lần nói đến. Hoan nghênh, ca ngợi cũng có mà phản bác, cho là lừa bịp, mê tín dị
đoan cũng không ít. Vậy sự thật như thế nào? Khởi đầu, vào đầu tháng 10 năm 1998, chúng tôi có dịp
được đọc bài “Một người có khả năng chữa bệnh đặc biệt" in liên tiếp trên
ba số liền của một tờ báo nói về một nhân vật có khả năng chữa bệnh kỳ lạ. Nhóm
phóng viên tờ báo trên mang theo máy ghi hình, máy ghi âm, máy ảnh đến tận nơi
mở cuộc điều tra, trực tiếp quan sát, chứng kiến khả năng chữa bệnh của người
này. Nội đung bài báo là công nhận, hoan nghênh cách chữa bệnh đặc biệt của người
này có thể chữa được nhiều bệnh, có bệnh khỏi, có bệnh đỡ. Người này chữa bệnh
làm phúc không lấy tiền. Cách đó không lâu, chúng tôi lại có dịp đọc bài báo của một số
tờ báo khác viết về nhân vật này với nội dung hoàn toàn ngược lại, không thiếu
những lời phản bác, lên án, chỉ trích gay gắt cho là lừa bịp, mê tín dị đoan Cùng một hiện tượng, một sự kiện, một nhân vật mà báo chí phản
ánh ngược nhau đã là một chuyện lạ ít khi xảy ra. Với trí tò mò của một cán bộ
nghỉ hưu, ưa nghiên cứu, tìm hiểu chuyện lạ, chúng tôi không quản đường xa đến
tận nơi để tìm hiểu đâu là sự thật, chứ không thể có chuyện vô lý là người khen
hết lời mà người phỉ báng cũng thậm tệ, vì chân lý chỉ có một. Không chỉ lần đó mà suốt 6 năm qua (1998 - 2003), không chỉ
mình tôi mà có 5 anh em nữa đều là trí thức các ngành, năm nào cũng đến nhiều lần,
có lần 5 - 10 ngày, có lần hàng tháng trời để chứng kiến, nghiên cứu, tìm hiểu.
Những nội dung viết sau đây là kết quả của những năm tháng đi sâu, đi sát, tìm
hiểu về những khả năng đặc biệt kỳ lạ trên nhiều lĩnh vực của nhân vật này.
Chúng tôi muốn phản ánh một cách chân thực, khách quan về con người này cả về
tài năng đặc biệt và những điểm yếu, mặt yếu còn tồn tại, hay nói cách khác là
những điều khác thường của một con người khác thường, vì đã là con người - tổng
hòa của các mối quan hệ xã hội - bao giờ cũng có hai mặt ưu và khuyết, mạnh và
yếu. Sáu năm nghiên cứu, tìm hiểu - thời gian vừa đủ để có nhận
thúc, đách giá một cách khách quan - không dừng lại ở chỗ chỉ trực tiếp đối tượng
mà chúng tôi mở rộng tìm hiểu đến những bà con thân thuộc, hàng xóm lãng giềng,
đặc biệt là với đông đảo người bệnh xa gần và nhân dân quanh vùng, cố gắng phản
ánh đúng sự thật như nó vốn có. Chương một LÝ LỊCH TRÍCH NGANG - BƯỚC KHỞI ĐẦU NHỮNG SINH HOẠT THƯỜNG
NGÀY Viết về nhân vật này, chúng tôi có suy nghĩ là có nên viết
tên họ thật, địa chỉ thật không, vì trước đây khi bài báo đầu tiên được phát
hành, hàng trăm người ở nhiều vùng trong nước mà đa số là những bệnh nhân nặng
kéo đến gây nên cuộc náo loạn ở địa phương cả về an ninh, trật tự, ô nhiễm môi
trường và nhiều vấn đề phức tạp khác buộc địa phương phải có biện pháp giải tỏa. “Chuyện lạ có thật về một con người" viết mang
tính chất nghiên cứu một sự thật khách quan không mang ý đồ tuyên truyền. Để
tránh mọi sự cố có thể xảy ra do người đọc, người bệnh vì tò mò vô ý gây ra,
chúng tôi không viết tên thật, địa chỉ thật. Bạn đọc hết sức thông cảm cho vấn
đề này, không nên đi tìm nhân vật chính trong truyện, để khỏi gây khó khăn cho
địa phương. Nếu có dịp đọc tập sách nhỏ này mong các bạn đọc với tinh thần
nghiên cứu một hiện tượng lạ có thật để suy ngẫm, phán xét. Tập sách này ra mắt
bạn đọc chỉ có một mục đích cung cấp dữ liệu để các bạn nghiên cứu, ngoài ra
không có mục đích nào khác. Nhân vật chính trong câu chuyện tên khai sinh là Đ.V. T., gia
đình và hàng xóm thường gọi là T., T. sinh ngày 8 tháng giêng năm Tân hợi
(1971) trong một gia đình nông dân đông anh em. Bố là Đ.V.H. 61 tuổi mẹ là
L.T.H. 60 tuổi (tính đến năm 2003) ở thôn X,. xã T., huyện K. tỉnh R. Theo mẹ
T. kể bà có mang đến tháng thứ mười mới sinh. T. sinh ra lúc 10 giờ đêm, trong
một cái bọc. Mẹ T. xé bọc cho T. ra thì T. không khóc mà lại nhoẻn miệng cười.
Sau hơn một giờ mới cất tiếng khóc. Trường hợp này là bình thường, không có gì
đặc biệt vì không hiếm những người mẹ sinh con trễ tháng, sinh trong bọc và
cũng không hiếm những trường hợp sinh ra không khóc, bà mẹ phải phát vào mông mới
khóc Được ba tuổi, bố mẹ T. làm giấy khoản nhờ ông ngoại nuôi.
Ngôi nhà vợ chồng T. đang ở hiện nay vốn là nhà của ông ngoại để lại, thuộc
thôn B., xã M., huyện S tỉnh H.. Ông ngoại làm sao nuôi được cháu nhỏ?
Vấn đề là ông ngoại có năm người con gái, 4 người lấy chồng ở riêng còn bà N. ở
lại vừa phụng dưỡng ông vừa trông nom, nuôi dưỡng T. từ ba tuổi cho đến lúc trưởng
thành. T. phát triển bình thường như những đứa trẻ khác trong làng.
T. học đến lớp 9 thì thôi học, ở nhà lao động và buôn bán vặt giúp gia đình. Với
những người ruột thịt trong gia đình, người T. yêu quý nhất là ông ngoại vì ông
là người thay mặt bố mẹ T. cưu mang T. từ tuổi ấu thơ đến lúc nên người. Lúc
ông ngoại qua đời khỏi phải nói T. đau thương đến mức nào! Có một chi tiết hơi đặc biệt và cũng là chuyện lạ có thể viết
ra đây. T. không xưng hô với bố mẹ là cha, mẹ mà chỉ gọi bằng thứ. Bố T. thứ
năm nên T. gọi bằng Năm. Mẹ thì gọi bằng Bốn. Hỏi thì T. trả lời: Bố mẹ T.
chỉ sinh thể xác T. phần còn lại (phần linh hồn) T. thuộc về một thế giới
khác. Việc T. lấy vợ, theo T. kể là để làm vui lòng gia đình chứ T.
không thích người khác giới. T. chưa từng yêu hoặc có cảm tình với một phụ nữ
nào, kể cả vợ. Tuy vậy, cái gì phải đến đã đến theo quy luật tự nhiên của tạo
hóa. Vợ T. đã sinh cho T. 2 cháu gái cùng một lúc (đẻ sinh đôi). Hai cháu năm nay
đã 6 tuổi, khỏe mạnh, đang học cấp 1, vợ T. 32 tuổi, làm ruộng, chăn nuôi và chạy
chợ lúc nông nhàn. Những chuyện lạ về nhân vật này bắt đầu từ năm 1996. Tù lúc
thôi học, là một thanh niên khỏe mạnh ở nông thôn, gặp việc gì T. cũng làm. Ai
nhờ việc gì T. cũng giúp như đào mương, đắp nền nhà, cuốc vườn. Và vào một buổi sáng mùa thu năm ấy, T. dùng xe ba gác kéo đất
đắp nền nhà cho một gia đình như đã từng làm cho một số gia đình khác. Kéo được
mấy xe, đến xe tiếp theo, mới nửa đường, bỗng nhiên T. bỏ xe đất, chẳng nói chẳng
rằng chạy thẳng một mạch về nhà tọa thiền trước bàn thờ gia tiên suốt 3 ngày, 3
đêm, không ăn, không ngủ. Người nhà hỏi gì cũng không nói. Ngồi kiết già (kiểu
ngồi hoa sen) triền miên như một pho tượng gỗ. Thấy chuyện lạ, cả nhà hốt hoảng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao.
Người thì bảo T. bị ma làm, người thì cho là T. mắc bệnh tâm thần. Mặc cho ai
nói gì thì nói, T. vẫn yên lặng, tập trung tinh thần hướng về cõi vô định mênh
mông. Cho đến khi ông H. bố T. lo lắng bảo người nhà đi thuê ô tô để đưa T. đi
bệnh viện chứ kiểu nảy là nó bị đau nặng lắm rồi! Nghe vậy, sau ba ngày đêm, lần đầu tiên T. mở miệng nói:
"Năm dẹp cái chuyện thuê xe đưa tôi vào bệnh viện đi! Tôi không đau ốm gì
đâu!". ông H. nói: "Không đi bệnh viện cũng được nhưng con phải ăn uống
gì chứ! Ba ngày rồi, ngồi mãi chịu sao nổi!". Nói xong ông thúc người nhà
dọn cơm cho T. ăn. Cơm dọn xong, T. buộc phải ngồi vào mâm thì chuyện lạ lại xảy
ra. Khi T. một tay bưng bát cơm, một tay cầm đũa định đưa bát cơm lên miệng, nửa
chừng bỗng cả bát cơm và đũa đều rơi tung tóe xuống bàn. T. đứng dậy nói:
"Trên bảo từ nay trở về sau không được ăn cơm mà chỉ ăn rau, hoa quả
thôi!". Cả nhà ai cũng trố mắt ngạc nhiên. Từ sự khởi đầu lạ lùng đó cho đến ngày nay đã qua tám năm, T.
chỉ ăn độc có rau, thỉnh thoảng có ăn hoa quả nhưng rất ít. Anh em chúng tôi đã
chung sống với T. nhiều lần, nhiều ngày nhưng chưa bao giờ thấy T. ăn thứ gì
khác. Các loại rau như rau muống, rau cải, rau đắng, rau diếp... luộc hoặc xào
dầu T. đều ăn được. Cơm, bánh mỳ, bánh ngọt, kẹo các loại đều không ăn. Thấy T.
luôn khỏe mạnh, cơ bắp nở nang rắn chắc như gỗ nhiều người không tin. Coi chừng
anh ta có ăn lén về ban đêm. Chúng tôi bảo đảm điều đó tuyệt nhiên không có. Về
ăn của anh chàng này có một điểm đặc biệt là rất thích ăn hoa vạn thọ sống mà
hoa vạn thọ thì ở tỉnh H. rất nhiều. Người nhà kể lại, có lần hàng tháng liền, anh
ta chỉ độc ăn hoa vạn thọ, ngoài ra không ăn rau quả gì khác. Thấy nhiều năm rồi T. vẫn ăn như vậy, chúng tôi rất lo cho sức
khỏe của T. Anh ta chỉ cười: "Anh em không phải lo chuyện đó! Anh em không
biết chứ chỉ ăn rau mà hôm nào ăn hơi nhiều một chút là trong người thấy mệt lắm,
không ăn người lại khỏe! Lúc nào luyện thành công thì rau cũng không ăn nữa mà
chỉ sống bằng không khí". Về uống, T. chỉ uống nước dừa. Gần đây, không có dừa T. uống
nước khoáng đóng chai hoặc uống một thứ nước do T. pha chế có chanh, một ít đường
và bột thuốc bắc tự chế mà uống rất ít. Ngoài ra tuyệt nhiên không uống nước gì
khác kể cả các loại nước ngọt, chè, cà phê. Nước dừa uống trong quả, rót ra cốc
không uống. Nước khoáng đóng chai cũng vậy. Chai để nguyên niêm đưa cho anh ta,
mở nắp rồi là không uống. Giữa mùa hè nóng bức đi đường với T., anh em hết ăn lại
uống nhưng với T. đi cả ngày không uống cũng không ăn. Đặc biệt vào những ngày 30, 1, 14, 15 âm lịch T. hoàn toàn nhịn
ăn. Đặc biệt nữa là từ lần đầu rơi bát, đũa, T. không cầm đũa được nữa mà chỉ
ăn bốc. Mỗi lần đi ra ngoài năm bữa nửa tháng, anh em muốn mời T. ăn phải sắm nồi
xoong, bát riêng vì T. không ăn những thứ nấu đồ mặn của gia đình. Về mặc, đối với T. cũng là một chuyện lạ. Mùa đông lạnh lẽo,
anh ta chỉ mặc phong phanh một chiếc áo lót và áo khoác. Ngược lại mùa hè nóng
bức, đi đâu T. mặc sáu lớp quần, áo căng cứng người. Anh ta không tắm như người
thường mà mỗi lần muốn tắm, cởi quần áo ngoài, ngồi thiền vận công cho mồ hôi
toát ra rồi lấy khăn lau. Như vậy là tắm xong. Tuy vậy, người T. vẫn sạch sẽ
không hôi hám gì. Lâu lâu, T. có tắm bằng nước nhưng chỉ thi thoảng. Về ngủ, gần như nhân vật này không ngủ hoặc có thể nói ngủ rất
ít. Ban đêm, trong khi mọi người ngủ, T. ra ngoài trời tập luyện tháng này,
sang tháng khác, thường xuyên như vậy. Tập luyện với ai, tập như thế nào không
ai biết. Hỏi thì T. bảo tập với thầy, nhưng không được nói vì thiên cơ bất khả
lộ. Một điều chắc chắn là T. không có thầy đời trần. 5 giờ sáng T. mới vào nhà,
thiền định cho đến 12 giờ trưa. Về quan hệ vợ chồng, từ ngày không ăn cơm đến nay, T. không
còn sinh hoạt trong quan hệ với vợ mà chỉ coi vợ là người giúp việc, lo toan
gia đình. Anh ta nói thẳng với vợ là từ nay T. không còn làm chồng được nữa, cô
có thể tự do đi lấy chồng khác. Tuy rất buồn, khổ nhưng vợ T. nhất quyết ở lại
với T. lo làm ăn, nuôi con khôn lớn. T. là một người tương đối đẹp trai, thân thể tráng kiện lại
có nhiều tài năng nên một số cô đem lòng thương trộm nhớ thầm nhưng chỉ là vô vọng,
chỉ là một thứ tình yêu đơn phương. T. có biết nhưng không quan tâm. Nói với
anh ta chuyện này, anh ta chỉ cười và nói. "Đó là chuyện của người ta.
không phải chuyện của mình, chẳng có liên quan gì đến mình". Những sinh hoạt thường ngày của nhân vật này không giống sinh
hoạt đời thường của con người. Có người đặt câu hỏi phải chăng anh chàng này lập
dị để cho khác với mọi người. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy không phải lập dị
mà có thể do những nhu cầu đặc biệt nào đó của cơ thể, cả thế xác lẫn tinh thần,
ý thức, nhằm phục vụ cho một mục đích mà T. đang theo đuổi. Đã là con người thì từ những bậc quyền quý cao sang, đến người
dân thường ai cũng có những ham muốn nhất định - đây chỉ nói những ham muốn
chính đáng. Ăn uống phải đủ, phải ngon. Ngủ phải say phải ngon giấc. Tắm rửa
thường xuyên cho thân thể sạch sẽ, khỏe mạnh. Mặc phải đẹp, mùa hè mặc mát, mùa
đông mặc ấm. Sinh hoạt vợ chồng bình thường, bảo đảm quân bình âm dương, sảng
khoái, không bệnh tật, v.v. Con người ai cũng có nhu cầu và ham muốn chính đáng
đó trong sinh hoạt đời thường. Riêng với T. là không có, ăn uống như T. còn gì
gọi là ngon. Ngủ như T. lấy đâu được đẫy giấc. Tắm rửa như T. làm sao thoải
mái. Chuyện cai vợ, tiết dục làm mất quân bình âm dương, và vân vân. Có thể nói T. không có những ham muốn đời trần. Trong sinh hoạt đời thường, chúng tôi muốn nhấn mạnh một vấn
đề là tiền. Tiền nói riêng, tiền của, vật chất nói chung. Từ thời thượng cổ đến
thời hiện tại, tiền là phương tiện giao lưu phục vụ cuộc sống con người và
trong mọi quan hệ xã hội. Có tiền là có tất cả. Chính con người đã sáng tạo ra
đồng tiền và sử dụng nó để phục vụ cuộc sống cho từng cá nhân, gia đình, từng
quốc gia, dân tộc và cả nhân loại. Ở đây chỉ nói đến đồng tiền chân chính không
nói đến khía cạnh đồng tiền bất minh, bất chính. Lao động và làm đủ thứ nghề để
kiếm ra tiền. Người có nhiều tiền muốn có nhiều tiền hơn. Người nghèo khổ không
có tiền lo ngày lo đêm, lao động cật lực, chạy vạy để có tiền cho cuộc đời đỡ
khổ. Xưa nay chỉ có người ham tiền, "càng nhiều càng ít” chứ chẳng có ai
chê tiền, không cần đến tiền. Quy luật tự nhiên, quy luật xã hội đều như vậy.
Nói cách khác tiền là cuộc sống. Vậy mà có chuyện lạ là nhân vật chính trong câu chuyện này chẳng
mấy quan đến tiền. Nói ra rất khó tin nhưng lại là chuyện có thật. Khi viết những
dòng này, chúng tôi đã nghiên cứu thận trọng, theo dõi trong nhiều năm và có
nhiều chứng minh thực tế. Trước hết là chuyện chữa bệnh không lấy tiền. Ở đây chúng tôi
chỉ nói đến góc độ tiền, chưa nói đến khả năng chữa bệnh. Suốt 8 năm qua, T. đã
chữa cho hàng ngàn bệnh nhân chưa bao giờ lấy tiền của ai, kể cả những căn bệnh
thập tư nhất sinh. Chữa ở bệnh viện hoặc các cơ sở y tế tư nhân Tây y, Đông y đều
phải có tiền, tiền khám bệnh. tiền thuốc, mà nông dân nghèo lấy đâu ra tiền!
Riêng chuyện chữa bệnh không lấy tiền đã thu hút nhiều bệnh nhân đến với T. Chúng tôi chứng kiến nhiều trường hợp T. giúp người bệnh nặng
thoát khỏi cái chết. Khỏi bệnh rồi, biết T. không nhận tiền, người bệnh và gia
đình lúng túng không biết làm thế nào để đền ơn người chữa cho mình. Có thể nêu
vài ví dụ điển hình. Anh Bùi Thanh Tùng ở Kế Xuyên bị bệnh viêm khớp teo cơ, bệnh
viện cho về chờ chết. T. chữa 19 ngày hoàn toàn khỏi bệnh. Vợ chồng bàn nhau thấy
nhà T. quá nghèo, không có gì ngoài cái bàn và bộ phản gỗ, liền đi mua 1 chiếc
ti-vi 21 in mang đến biếu. T. bảo: “Tôi không lấy tiền kể cả quà biếu vì đó
cũng là tiền. Anh chị mang về, nếu không, về nhà đau lại, tôi không giúp nữa
đâu!". Nghe thế, vợ chồng sợ quá đành mang về nhưng vẫn chưa yên lòng. Thấy
chỗ T. nằm kê bằng hai chiếc ghế băng, khổ quá, vợ chồng lại đi mua một chiếc
giường xếp bằng bố, thừa lúc T. không có nhà đem đặt vào chỗ hai chiếc ghế
băng. T. về, vợ chồng phải năn nỉ mãi T. mới chịu cho để lại có tính chất kỷ niệm. Một trường hợp khác, một bệnh nhân nặng được chữa khỏi mang đến
một chiếc xe máy mới, T. không nhận. Nói mãi, cuối cùng. T. xin chiếc chìa khóa
xe nhận tượng trưng còn xe phải mang về. Và còn nhiều, nhiều nữa: Bệnh nhân đến
phần nhiều chỉ mang hoa quả đặt trên bàn thờ gia tiên. Có người bảo T. không lấy
tiền của ai nhưng bệnh nhân có đưa tiền cho vợ T.. Điểm này cần làm rõ. Thấy vợ
T. phải nuôi hai con mà quá nghèo, thỉnh thoảng có bệnh nhân cho các cháu ít tiền
hoặc quần áo. Lần nào T. cũng biết. Cho các cháu năm, mười ngàn T. cho qua
nhưng nhiều hơn, T. bắt vợ phải trả lại. Có trường hợp một bệnh nhân đền ơn T.
dưới dạng lén đưa tiền cho vợ. T. không nhìn thấy nhưng biết ngay bắt vợ phải lập
tức mang trả lại và cấm vợ tuyệt đối không được làm thế. Một số Việt kiều ở Mỹ, Ca-na-đa về nước thấy T. có nhiều tài
năng nhưng quá nghèo gửi cho T. hàng nghìn đô la nhưng T. đều gửi trả lại. Anh
em bảo cậu cứ nhận rồi giúp các quỹ từ thiện có hơn không! T. bảo làm vậy là
mình có nhận tiền. Còn việc mình làm từ thiện hay không ai biết được. Tốt nhất
là không nhận. Trong người T. không lúc nào có tiền. Chúng tôi thỉnh thoảng
lén kiểm tra chiếc ví chỉ thấy có giấy tờ chứ không có tiền. Khi cần mua xăng
hay mua vé tàu, xe T. bảo vợ đưa, ngoài ra không tiêu việc gì khác. Xin nói thêm T. có phải là người lừa bịp, mê tín dị đoan không?
Gần T. lâu không bao giờ thấy T. thắp hương hoặc cứng bái. Ngày rằm, mồng một,
ngày giỗ cũng vậy. Theo dõi tìm hiểu vẫn chưa phát hiện T. có tín ngưỡng gì rõ
rệt. Thiên chúa, Tin lành không phải, ngay cả Phật giáo, Lão giáo, Cao Đài cũng
không thấy có gì rõ rệt. Chưa bao giờ thấy T. tụng kinh. Điều thấy được là T.
chống mê tín dị đoan, chống lừa bịp, nhất là các vị thầy cúng bói toán nói dựa
lấy tiền. Còn T. có lừa bịp ai không có thể lấy thực tế trả lời. Chữa bệnh
không lấy tiền thì lừa bịp sao được, và lừa bịp nhằm mục đích gì? Nhân nói về sinh hoạt, kể thêm một vài chuyện lạ trong ngôi
nhà của T. Một lần ba anh em gồm tôi (người viết truyện), bác H. cán bộ
công an nghi hưu, bác Q. cán bộ địa chất nghỉ hưu đến thăm chơi với T.. Tối hôm
đó, như thường lệ T. ra ngoài tập luyện. Ba anh em ngủ ở nhà. Nhà chỉ có một
chiếc phản để bác H., bác Q. ngủ, tôi trải chiếu nằm dưới đất ngay cửa ra vào.
Trước khi ra ngoài T. dặn tôi: "Bố (tôi lớn tuổi nên T. thường gọi tôi bằng
bố) vào giường xếp của tôi ngủ, đừng ngủ dưới đất". Tôi nghĩ mình nằm chỗ
tay này, khuya nó vào nó không có chỗ nằm nên tôi vẫn nằm dưới đất. Độ một giờ sáng, tôi nằm im vẫn chưa ngủ được. Bỗng nhiên thấy
ngay phía đầu nằm của mình có một người đang đứng. Thấy người nhưng không rõ mặt.
Lúc đó cửa ra vào vẫn đóng. Tôi lặng lẽ chồm người dậy nhìn và suy nghĩ cửa
đóng làm sao có ai vào nhà được. Tôi vẫn yên lặng theo dõi. Người đó đứng một
lúc rồi đưa tay chỉ vào chiếc phản và chỗ đặt chiếc giường xếp của T. xong quay
lưng bước ra trong khi cửa vẫn đóng. Thấy chuyện lạ, tôi vội vàng đến mở cửa
hông, ra ngoài thì không thấy gì nữa. Đến kiểm tra chiếc cửa ra vào mà người đó
vừa bước ra thì cửa vẫn đóng. Tôi đánh thức bác H., bác Q. dậy kể lại câu chuyện vừa thấy,
ai cũng ngạc nhiên. Gần sáng, T. đi luyện tập về tôi kể lại T. chỉ cười nói:
"Ở đây, chuyện đó là bình thường!". T. còn nói thêm: "Tại bố
không vào giường xếp nằm như tôi dặn đấy!". Chuyện này tôi trực tiếp chứng kiến, không phải nằm mơ. Một chuyện lạ khác là trước đó mấy tháng có mấy bà phụ nữ đến
nhà T. chữa bệnh, nhà xa không về kịp xin ở lại. Nhà T. có một quy ước là chiếc
phản nhà trên chỉ để nam giới ngủ. Phụ nữ nằm nhà dưới. Hôm đó, ở nhà dưới quá
chật, một chị cỡ trung niên thấy phản nhà trên bỏ không liền lên nằm đỡ. Ngủ đến nửa đêm, chị thấy có một người đàn ông đến bảo:
"Chị xuống nhà dưới nằm, không được nằm ở đây!” Chị vâng vâng dạ dạ nhưng
buồn ngủ quá nằm luôn trên phản ngủ tiếp lúc nào không biết. Độ 3 giờ sáng bỗng
chị thấy một bầy độ bốn, năm con khỉ líu cha, líu chíu kéo đến khiêng chị ra hè
ném chị đúng vào bậc tam cấp làm chị đau ê ẩm cả người và sây sát chân tay. Vừa lúc T. đi tập luyện về thấy vậy hỏi- "Sao chị lại ra
đây nằm?” Chị kể lại câu chuyện vừa xảy ra. T. lại cười: “Ấy là tại chị, có người
nhắc rồi nhưng chị không nghe! Thôi rút kinh nghiệm vậy!". Nói xong T. dìu
chị xuống nhà. Giải thích thế nào về những hiện tượng lạ này? Xin để các nhà
khoa học nghiên cứu giúp! Đó là toàn bộ sinh hoạt thường ngày của nhân vật. Hiếm thấy
có ai sinh hoạt kiểu mô hình này! Trên thế giới cũng như trong nước đã xuất hiện
nhiều người có công năng đặc biệt nhưng chưa thấy ai có những sinh hoạt kỳ lạ
như đã kể. Phải chăng để có những công năng đặc biệt như T. phải có cách sinh
hoạt tương ứng? Chương hai NHỮNG CÔNG NĂNG ĐẶC BIỆT
CÁCH CHỮA BỆNH Từ bước khởi đầu năm 1996, không ăn cơm nữa, T. thực hiện một
cách nghiêm túc mọi sinh hoạt (như đã nói phần trên), đặc biệt là chuyên cần,
kiên trì tập luyện theo một phương pháp riêng. Qua thời gian, những công năng đặc
biệt bắt đầu nảy sinh. Trước hết là khả năng chữa bệnh bằng năng lượng, khả
năng tiên tri, biết trước sự việc và nhiều khả năng kỳ lạ khác. Tìm hiểu về đời tư của nhân vật này thì T. chưa từng được học
một khóa huấn luyện Tây y nào mà mới chỉ tham dự một khóa huấn luyện Đông y ở địa
phương. Nói về học thì T. chưa đủ trình độ và kiến thức y học để chữa bệnh. Những
năm qua cả trong Nam lẫn ngoài Bắc nổi lên phong trào học năng lượng sinh học
(nhân điện), khí công, yoga và nhiều môn phái dưỡng sinh, chữa bệnh khác nhưng
T. không tham gia. Theo T. kể với các nhà báo, chữa bệnh được là nhờ T. hằng
ngày thu năng lượng vũ trụ vào người theo một phương pháp riêng và dừng năng lượng
đó chữa bệnh cho người nghèo. Từng bước, từng bước, T. thực hiện khả năng chữa bệnh của
mình. Trước hết chữa cho người thân trong gia đình. Thấy T. chữa có kết qua, bà
con xa gần đến chữa bệnh ở nhà T. ngày càng đông. Trước hiện tượng chữa bệnh kỳ lạ của T., đặc biệt là người đến
mỗi lúc một nhiều, chính quyền và công an xã căn cứ vào T. không có bằng cấp chuyên
môn và không có giấy phép hành nghề y tế nên lập biên bản và ra lệnh cấm T.
không được chữa bệnh. Tuy vậy, do T. chữa bệnh không lấy tiền và thấy bệnh tật
có thuyên giảm nên bà con cứ đến và xin chữa. T. nhiều lần nói với bà con:
"Tôi rất thông cảm và quý mến bà con, bà con đau cũng như tôi đau, nhưng
chính quyền không cho tôi chữa, bà con nên đến các cơ sở y tế Nhà nước, nếu
không tôi bị vi phạm pháp luật". Nói thế nào bà con vẫn không nghe; đặc biệt
là trước tình trạng đau đớn của bệnh nhân nặng, T. buộc lòng phải chữa. Hiệu quả
chữa bệnh ngày càng được khẳng định. Có bệnh khỏi, có bệnh thuyên giảm. Nếu việc
chữa bệnh của T. không có hiệu quả thì tại sao nhân dân cứ ùn ùn kéo đến? Việc
chữa có hiệu quả hay không nó diễn ra sờ sờ trong cơ thể từng cơn bệnh đâu phải
chỉ nói mồm. Quần chúng nhân dân ta không đến nỗi khờ dại, u mê chữa không kết
quả mà vẫn bỏ công bỏ việc, mất thời gian, tốn tiền tàu xe đi lại để cuối cùng
bệnh tật vẫn đâu hoàn đấy. Cần biết rõ một điều, cách đây hàng ngàn năm. Hoa Đà, ông tổ
ngành y phương Đông có nói một câu: "Trên thế gian này, không có một
phương pháp chữa bệnh thần diệu nào, không có một thầy chữa tài ba, siêu việt
nào, không có một thứ thuốc thần dược nào có thể chữa một trăm người khỏi cả
trăm". Câu nói nổi tiếng này mãi mãi là chân lý vĩnh cửu suốt các thời đại.
Nó hết sức đúng đắn ở chỗ cơ thể con người là một bộ máy hết sức tinh vi phức tạp
và hoàn thiện về mặt cơ cấu khoa học, không ai giống ai cả trong hình thành
phân tử tế bào và hệ thống ADN. Ngoài ra con người từ khi sinh ra cho đến lúc
trưởng thành không ai giống ai cả về mã di truyền, điều kiện nuôi dưỡng, cách sống,
nghề nghiệp, gia đình bố mẹ, anh chị em, vợ chồng con cái, môi trường sống,
v.v. Có thể khái quát là nó khác cả về phần tiên thiên cũng như hậu thiên (Tiên
thiên là phần thừa hưởng di truyền của bố mẹ, dòng họ từ trong bào thai. Hậu
thiên là cuộc sống về mọi mặt từ khi lọt lòng đến lúc trưởng thành). Có thể đơn
cử một sự khác biệt của những con người. Đó là dấu vân tay. Nước ta có 80 triệu
người là 80 triệu người có vân tay khác nhau. Địa cầu này có 7 tỷ người là 7 tỷ
người có vân tay khác nhau. Từ những căn cứ khoa học và phân tích trên vận dụng vào việc
chữa bệnh, cũng phương pháp chữa bệnh ấy, thầy ấy, thuốc ấy mà kết quả có người
khỏi, người không khỏi, tỷ lệ thuyên giảm, từng căn bệnh, từng người bệnh cũng
kẻ nhiều, người ít khác nhau. Ngay như nền y học hiện đại thế giới cũng với các
ngành khoa học đồng bộ, liên quan đang tiến như vũ bão với nhiều phát minh,
sáng tạo, nhiều loại thuốc mới đặc trị, nhiều máy móc chuyên khoa tinh vi, với
những giáo sư, bác sĩ tài ba lỗi lạc mà nhiều trường hợp cũng đành bó tay trước
những căn bệnh hiểm nghèo, trước những người bệnh thập tử nhất sinh. Ở nước ta
cũng vậy, Đảng và Nhà nước ta với quan điểm lấy dân làm gốc, luôn chăm lo sức
khỏe cho dân, với hàng chục viện nghiên cứu về y học, với hàng ngàn cơ sở
chữa bệnh Tây y, Đông y với nhiều giáo sư, bác sĩ, lương y giỏi, nhiều kinh
nghiệm, với nhiều phong trào bảo vệ sức khỏe như sức khỏe sinh sản, sức khỏe
ban đầu, sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sức khỏe người cao tuổi, sức khỏe cho dân
vùng sâu vùng xa. v.v. mà đâu có thể chữa hết mọi bệnh cho dân. Không phải nền
y học thế giới yếu kém, không phải nền y học Việt Nam thiếu cố gắng mà đó là
quy luật, mà đã là quy luật thì không thể khác được. Việc chữa bệnh của T. hay của bất cứ thầy chữa nào cũng đều nằm
trong quy luật chung đó, có bệnh khỏi, bệnh đỡ, có bệnh không khỏi. Trên cơ sở
quy luật khoa học đó nếu có vị thầy chữa nào nói bệnh nào chữa cũng khỏi thì lời
nói đó chỉ là hoang tưởng. Đứng về phía bệnh tật mà nói, bệnh nào cũng có quy luật phát
sinh, phát triển của nó. Tính chất cơ thể con người khác nhau thì bệnh phát
sinh, phát triển cũng khác nhau và tiếp thu liệu pháp điều trị, thuốc men cũng
khác nhau, nó luôn tương ứng với cơ thể từng con người. Do vậy, hai người mắc
phải căn bệnh giống nhau, cùng dùng một bài thuốc, do một thầy chữa điều trị mà
kết quả vẫn khác nhau, người khỏi nhanh, người khỏi chậm, thậm chí có trường hợp
lay lắt không khỏi. Chúng tôi không phải là bác sĩ, lương y nhưng qua nhiều năm
nghiên cứu theo dõi có thể định ra bốn mức độ của bệnh: loại một, nhẹ, cơ thể tự
điều chỉnh, không chữa cũng khỏi. Loại hai, có chữa mới khỏi, không chữa không
khỏi. Loại ba, nặng, phải có thầy giỏi thuốc hay chữa mới khỏi. Loại bốn, bệnh
nan y, khó chữa khỏi. T. chữa được nhiều bệnh thông thường, có chữa được một số bệnh
hiểm nghèo, đặc biệt là không có phản ứng phụ. T. chữa bệnh chủ yếu bằng công lực,
bằng năng lượng (y năng lượng) và bấm huyệt, một số trường hợp cần thiết có
dùng thêm thuốc Nam hoặc thuốc Bắc. Một vài người nói T. chữa bệnh bằng cách
"chưởng" vào người bệnh. Nói vậy là không đúng, là không hiểu thế nào
là chưởng. Chưởng là một thủ thuật trong võ thuật. Các môn võ thuật nói chung gồm
quyền, cước chưởng, chỉ, v.v. Khi võ sĩ ra chưởng là nhằm đánh đối phương. Chưởng
không dùng trong chữa bệnh. Trong chữa bệnh bằng năng lượng, người chữa dùng
cách phát công hay nói theo khí công học là phải phóng ngoại khí vào một số điểm
tương ứng với bệnh tật của người bệnh theo một phác đồ điều trị năng lượng. Qua nhiều năm theo dõi, nghiên cứu, chúng tôi khẳng định T. sử
dụng công lực và ý niệm có kết hợp với bấm huyệt để chữa bệnh. Công lực của T
hàm chứa một sức mạnh kỳ lạ, có thể phát ra khí nóng, hoặc khí lạnh, có thể
phát bằng hai bàn tay hoặc cả bằng mắt. T. có một nội khí độc đáo, có thể nói
là độc nhất vô nhị. Trên thế giới cũng như trong nước chưa thấy ai làm được kể
cả những khí công sư tài ba lỗi lạc. Đó là phát công làm cho người bệnh hôn mê
- như y học hiện đại gây mê bệnh nhân trên bàn mổ trước khi tiến hành phẫu thuật
để chữa. Khi chữa xong, T. chỉ đưa một ngón tay, thổi một hơi vào ngực là người
bệnh tỉnh lại. Sau khi phát công cho người bệnh hôn mê, T. dám nói với tất cả mọi
người ai làm cho người bệnh tỉnh lại được T. xin tôn người ấy làm sư phụ. Đã có
nhiều nhà khí công làm thử, nhưng không ai làm cho người bệnh tỉnh lại được.
Không phải bệnh nhân nào T. cùng áp dụng thủ pháp này mà chỉ áp dụng cho một số
bệnh nhân nặng cần dùng những thao tác mạnh để tránh cho bệnh nhân khỏi đau, vì
đã hôn mê rồi thì không còn cảm giác đau nữa. T. có thể gây mê ba, bốn người
cùng một lúc. Nội khí của T. còn kỳ diệu ở chỗ có thể phát xa với khoảng cách
50 mét hoặc cách một bức tường dày 22cm người bệnh vẫn hôn mê. Một thủ pháp độc đáo và kỳ lạ khác là khi muốn gây mê người bệnh,
T. không trực tiếp phát công mà dùng một tấm ảnh đặc biệt của chính T. đưa cho
một người khác cầm và bảo người bệnh tập trung nhìn vào mặt T. trong tấm ảnh.
Chỉ sau mấy phút, người bệnh ngã vật rahôn mê, không biết gì nữa, giống nhu lúc
T. trực tiếp phát công. Chữa xong, người cầm tấm ảnh quay lưng tấm ảnh về phía
người bệnh, đưa tay thổi một hơi về phía người bệnh đang nằm, người bệnh lập tức
tỉnh lại, ngồi dậy. Một thủ pháp chữa bệnh khác là cho người bệnh uống nước năng
lượng cao, làm tất cả bệnh nhân có mặt đều sửng sốt. T. lấy 3 ly nước nguội để
trước mặt xong vận công vào hai bàn tay và lần lượt phát công vào 3 ly nước. Chỉ
mấy phút sau, cả 3 ly nước đều bốc hơi. T. bảo 3 bệnh nhân đến bưng nước uống
và dặn: “Nước nóng lắm đấy, uống từ từ, cẩn thận kẻo bỏng môi”. Mới sờ tay vào
ly nước, ai cũng bảo nóng quá. Công lực của T. là như vậy. Còn khi chữa bệnh, có trường hợp T. nhảy và dậm chân lên hai ống
chân người bệnh mà đã có lần được chứng kiến, một cán bộ cao cấp ngành vật lý
cho rằng cách chữa nảy là cực kỳ nguy hiểm, phản khoa học, có thể làm gãy chân
người bệnh và chắc chắn là phải vào bệnh viện bó bột. Tám năm nay chưa có người
bệnh nào bị T. dẫm gãy chân phải bó bột. Vì sao? Vì qua theo dõi, nghiên cứu,
chứng tôi thấy khi nhảy lên, T. dùng thuật khinh công, trọng lượng của T. 55kg
chỉ còn vài ki-lô-gam. Và T. chỉ dùng thủ thuật này với những căn bệnh cần thiết,
không phải người bệnh nào cũng áp dụng. Xin trở lại thời điểm tháng 10, 11 năm 1998. Trước những yêu
cầu bức xúc của đông đảo bệnh nhân. T. cân nhắc giữa hai cái tội: tội vi phạm lệnh
cấm chữa của chính quyền địa phương và tội hàng ngày nhìn người bệnh đau vật vã
mà không chữa. Với tâm đức của một người có khả năng chữa bệnh, T. đành chấp nhận
phạm tội vi phạm lệnh cấm. Xác định rồi, T. tiếp tục chữa bệnh cho dân. Và việc
gì diễn ra tiếp theo thì chúng ta đã rõ. Thấy T. không chấp hành lệnh cấm,
chính quyền địa phương lại đến lập biên bản và ra quyết định xử phạt hành chính
200.000 đồng. Đặt biệt sau khi bài báo "Một người có khả năng chữa bệnh
đặc biệt” được phát hành. Nhân dân các nơi trong cả nước ùn ùn ke1o đến gây náo
loạn ở địa phương (như đã nói ở phần trên). Trước tình hình đó, Sở Y tế tỉnh H.
cùng Công an tỉnh, công an huyện thành lập đoàn kiểm tra khả năng chữa bệnh của
T. bằng một cuộc trắc nghiệm tại trụ sở công an huyện. Nhưng T. đã từ chối thục
hiện yêu cầu của đoàn kiểm tra mà thừa nhận không đảm bảo khả năng chữa bệnh của
mình. Về việc này, chúng tôi qua tìm hiểu có biết vì sao T. không thực hiện những
nội dung trắc nghiệm nhưng không tiện viết ra đây vì có nguyên nhân tế chị, chứ
không phải T. không cỏ khả năng thực hiện. Đối với đoàn kiểm tra của tỉnh nhu vậy là đã đủ để Sở Y tế tỉnh
H. ra thông báo kết luận với nội dung như sau: "l. Ông Đ.V.T. chưa được học tập qua bất kỳ mộttrường lớp
đào tạo về công tác khám chữa bệnh. Chưa được một cơ quan y tế nào công nhận về
khả năng chữa bệnh. 2. Mọi câu trả lời của ông T. đều cho rằng việc chữa bệnh của
ông theo ý nguyện của bản thân mà chưa có khả năng chẩn đoán, điều trị, tiên lượng
cũng như đánh giá kết quả điều trị cho người bệnh có hiệu quả hay không. 3. Việc chữa bệnh của ông T. trên bệnh nhân, đoàn kiểm tra đã
kiểm chứng thấy không có cơ sở khoa học và không hiệu quả như một số thông tin
báo chí đưa tin. 4. Buộc ông Đ.V.T. phải thực hiện nghiêm chỉnh quyết định về
việc đình chỉ công tác chữa bệnh.” Một lần nữa T. bị cấm chữa bệnh, không phải ở cấp xã cấp huyện
mà ở cấp tỉnh - cấp cao nhất ở địa phương. Chúng tôi không muốn đi sâu vào những
chứng cứ trong việc điều tra của đoàn để dẫn tới kết luận là cách chữa bệnh của
T. "Không có cơ sở khoa học và không có hiệu quả” (chứng tôi sẽ có nhiều dẫn
chứng để chứng minh cho việc chữa bệnh có hiệu quả của T. Ở phần dưới của
chương này). Nhưng một điều tho6ng bảo nói đu1ng là tính bất hợp pháp của T.,
T. không có bằng cấp của ngành y - không phải bác sĩ, không phải lương y, chưa
được một cơ quan y tế nào công nhận về khả năng chữa bệnh. Hơn nữa T. không có
giấy phép hành nghề y của cơ quan chức năng. Với những bằng chứng có ti1nh pháp lý đó cộng với tình hình
phức tạp nhiều mặt do bệnh chân kéo đến quá đông ở địa phương, việc cấm T. chữa
bệnh là đúng đắn cả về mặt bảo đảm kỷ cương pháp luật và mặt xã hội. Đặt một giả
thuyết không thể có là lúc đó T. không bị cấm chữa bệnh, số lượng đông đảo bệnh
nhân cùng gia đình sẽ không chịu về. Cấm rồi, niêm yết quyết định cấm của Sở Y
tế, cả một lá thư của T. dán ở cửa mà số ở lại còn quá đông. Phần của T. cũng
có sức đâu mà chữa cho số lượng bệnh nhân đông đảo đó mà toàn là bệnh nặng. Đó
là một phần của lý do T. không đáp ứng cuộc trắc nghiệm của đoàn kiểm tra. Đặt
một giả thuyết nữa, hôm đó T. trắc nghiệm thành công thì Sở Y tế có ra lệnh cấm
không? Chắc là vẫn phải cấm. Trước tình hình rối loạn đó không thể không cấm.
Không cần biết T. chữa có kết quả hay không, không có bằng cấp, không có giấy
cho phép chữa bệnh là đủ điều kiện cấm rồi. Rõ ràng trước tình hình đó, T. phải lánh mặt là hợp lý, không
phải chạy trốn mà để cho dân buộc phải ra về. Sau một thời gian, T. về nhà thì
lần lượt người bệnh vẫn kéo đến xin chữa. T. buộc lòng phải giúp, lại tiếp tục
vi phạm. Và từ đó đến nay, lần nào thấy có người đến nhà T. là chính quyền đến
lập biên bản. Vào một buổi sáng, anh em chúng tôi hôm đó có 7 người lâu ngày đến
thăm T. và gia đinh, không phải bệnh nhân đến xin chữa bệnh vẫn bị công an xã đến
lập biên bản. Đó cũng là một chuyện lạ. Chương hai (B) Xin nói về cách chữa bệnh của T. Mỗi lần chữa cho bệnh nhân
nào, T. yêu cầu bệnh nhân không khai bệnh mà chỉ đưa tay cho T. Cầm tay một lúc
T. có thể nói đúng các căn bệnh của bệnh nhân. Có trường hợp T. bắt mạch (thốn,
quan, xích) như Đông y nhưng thông thường T. chỉ cầm rà lên rà xuống thế là
xong. Xin kể vài trường hợp được tận mắt chứng kiến. Anh Miền con trai lớn ông Nguyễn Minh Hoàng cán bộ công an
nghỉ hưu, hôm đó hai bố con đến thăm T. T. bảo anh Miền đưa tay cho T. Chỉ vài
phút sau T. nói: “Phía sau gáy anh có một mảnh lựu đạn nhỏ hình tam giác, hai cạnh
sắc, cạnh thứ ba tù (không sắc), nhưng may nó không vào sâu trong não. Tôi (người
viết) hỏi bác Hoàng, bác Hoàng nói đã đi Xquang, đúng y như vậy! Trường hợp sau đây còn thần kỳ hơn. Một hôm tôi đang ngồi với
T. ở ngoài vườn, bỗng có một ông già vóc người vạm vỡ đến xin gặp T. Không để
ông già kịp nói, T. nói ngay: "Tôi biết ông đến gặp tôi về việc gì rồi,
ông đưa tay đây!". Ông già đưa tay cho T. cầm, dùng ngón cái rà lên rà xuống
rồi nói: "Con trai lớn của ông bị bệnh ung thư hạch ở cổ, đã di căn xuống
dạ dày, ông đến nhờ tôi xuống giúp cho con ông phải không?". Ông già nghe xong vội vàng chắp tay vái T. nói: "Hoàn
toàn đúng như ông nói, bệnh viện không chữa được cho về chờ chết, ông cố giúp
cháu sống được ngày nào hayy ngày ấy!". Chuyện xảy ra trước mắt tôi, người thực, việc thực, quả là một
cách chẩn đoán hy hữu, kỳ lạ hết chỗ nói. Cầm tay bố mà biết rõ con ở nhà đau
thế nào và biết bố đến để nhờ chữa cho con. Lúc ông này đến, tôi nghĩ chắc ông
này đến xin T. chữa bệnh! Tôi hỏi, ông nói: "Tôi tên là Trinh Minh Hiệu ở
thôn 4, xã Tam Hải, huyện Núi Thành". Ông nói với T.: "Ông cố giúp
cháu, hiện nó nằm kêu la đau bụng quá, mấy ngày rồi cháu không ăn gì!". T.
nói: "Hiện nay tôi chưa đến được, ông đưa tay đây!". Ông già đưa tay.
T. cầm bàn tay ông, úp bàn tay của mình vào xoa đi xoa lại mấy vòng, xong bảo
tôi vào nhà lấy cho T. quả quýt. Tôi đem quả quýt ra, T. vận công vào quả quýt
và nhét vào túi ông già, dặn: "Ông đi thẳng về nhà, không được ghé đâu. đến
nhà dùng bàn tay tôi đã xoa, xoa nhẹ nhiều vòng vào bụng anh ấy rồi bóc quả
quýt cho anh ấy ăn, anh ấy sẽ bớt đau. Nếu anh ấy đòi ăn, ông bảo người nhà nấu
cháo loãng cho ăn, không được ăn gì khác!". Ông già vội vàng ra về. Ngày
hôm sau ông lên. Lúc đó T. bận đi với anh em chúng tôi vào thị trấn N. Ông già
cũng đi. Đến thị trấn. T. cùng anh em dừng lại vào một nhà quen. Một lúc thấy
con dâu ông già đèo chồng là bệnh nhân bị ung thư đến. Tôi hỏi ông Hiệu, ông bảo:
"Ông T. chưa xuống được nên tôi điện về bảo vợ nó đèo nó lên đón đường nhờ
ông giúp". T. bảo đưa bệnh nhân vào phòng trong và chỉ cho tôi cùng vợ bệnh
nhân vào, ngoài ra không cho ai vào. T. vận công, tập trung nhãn lực nhìn vào bụng bệnh nhân nói:
"Trong dạ dày đầy bún, bốc mùi hôi thối! Tôi dặn chỉ cho ăn cháo loãng sao
lại cho ăn bún để thối như thế này!". T. gọi tôi cúi xuống ngửi, tôi thấy
có mùi thối. T. lại gọi vợ bệnh nhân đến ngửi. Vợ nói: "Thưa ông, đúng là
thối thật". Vợ bệnh nhân kể lại: "Khi bố về xoa bụng và cho ăn quýt,
anh hết đau và đòi ăn. Em đi nấu cháo như bố dặn nhưng chồng em bảo thèm bún lắm,
đòi ăn bún cho bằng được. Vì thương chồng, buộc lòng em đi mua bún cho anh ăn mới
ra nông nỗi này". T. vận công nghe rắc rắc rồi phát công vào bụng, vào cổ chữa
cho bệnh nhân độ 15 phút. Xong T. bảo: “Xong rồi, cô đèo về, nhưng nhớ chỉ cho
ăn cháo loãng thôi đấy!” San lần đó, tôi về Hà Nội, không theo dõi được việc chạy chữa
tiếp theo thế nào! Một lần khác, tôi về thăm quê ở Quảng Ngãi, gặp ông Ba, Bí
thư Đảng ủy phường Lê Hồng Phong, thị xã Quảng Ngãi muốn ra nhờ T. giúp. Tôi
đưa ông đến nhà T. Gặp nhau, T. bảo đừng nói gì để T. coi cho! T. cầm tay ông
Ba rà lên rà xuống nói: "Ông là người thích chơi thể thao có lần bị chấn
thương phải vào bệnh viện cấp cứu. Hiện nay ông bị đau đầu kinh niên. Bệnh đau
đầu của ông không phải ngày nào cũng đau mà đau theo chu kỳ. Khoảng 10 ngày đau
một lần, cứ thế diễn đi diễn lại tháng này sang tháng khác, đúng không?".
Ông Ba nói: "Ông nói đúng quá, không sai một chi tiết nào, xin bái phục”.
T. bảo: "Ông không có điều kiện gặp tôi thường xuyên để chữa, tôi cho ông
bài thuốc nam về tìm uống, bệnh sẽ đỡ”. Nói xong, T. lấy giấy viết đơn thuốc
đưa cho ông Ba. Việc chẩn đoán của T. là như vậy! Xin chuyển qua câu chuyện T. làm thuốc. Anh Bốn Bôi quê ở xã Cẩm Kiến, thị xã Hội An, có con gái lớn
bị đau cổ họng. Hàng ngày anh đi làm thợ hồ chưa đưa con lên T. được. Anh đến
nhà trình bày với T. T. bảo: “Tôi cho tạm ít thuốc về cho cô ấy uống. Lúc nào rảnh
đưa cô lên sau cũng được". Nói xong, T. đem ra một túi thuốc bột màu vàng,
lấy tờ giấy trắng đặt dưới, lấy cuộn giấy vệ sinh xé làm bốn khúc đặt chéo bốn
góc, đổ thuốc vào, lần lượt gấp các góc giấy vệ sinh, xong gấp tiếp tờ giấy trắng
lại thành một gói vuông vức. T. lấy bút viết lên tờ giấy trắng mà toàn là chữ
Phạn. không ai đọc được. T. dặn anh Bốn Bôi: “Ông đem gói thuốc về đưa cho con
ông bảo cứ theo hướng dẫn viết ở đây mà uống, ông không được mở ra!”. Bốn Bôi
thắc mắc chữ này làm sao con đọc được, nhưng không dám hỏi. Bốn Bôi về nhà đưa
thuốc cho con và nói như T. dặn. Xong do bận việc phải đi làm ngoài Đà Nẵng, ba
ngày sau mới về hỏi con: "Con uống thuốc ông cho thấy thế nào?” Cô con bảo:
"Mỗi ngày ông dặn uống một viên mà thuốc nhiều lắm, con mới uống có ba
viên”. Bốn Bôi trố mắt ngạc nhiên, tại sao là viên được, rõ ràng ông
cho thuốc bột mà! Bốn Bôi bảo con gái lấy thuốc ra xem lại. Mở ra thấy đúng
toàn thuốc viên. Mấy khúc giấy vệ sinh không thấy nữa mà nó biến thành từng mẩu
nhỏ bọc từng viên thuốc một. Một việc lạ nữa là T. viết chữ Phạn làm sao đọc được
liền hỏi con. Con bảo: "Ông viết chữ quốc ngữ nên con đọc được”. Xem lại tờ
giấy thì vẫn là chữ Phạn. Lần sau gặp tôi; Bốn Bôi kể lại và hỏi tôi. Tôi chịu
không làm sao giải thích được. T. còn nhiều cách làm thuốc rất lạ chứ không chỉ có vậy. Một hôm hai bố con Phước và Lương từ Hà Nội đến thăm T. Phước
là huynh đệ thân tình với T. Hai bố con Phước ở nhà T. hơn nữa tháng. Buổi tối
hôm đó, T. bảo Phước: "Ông muốn coi tôi làm thuốc không?” Phước nói muốn!
T. bảo Lương ra bờ rào bứt một số lá, lá gì cũng được, đem vào. Lương ra bờ rào
bứt mỗi loại năm, ba lá đưa cho T. T đặt nắm lá vào lòng hai bàn tay vừa vò vừa
nhảy nhót. Một lát. T. xòe bàn tay cho hai bố con xem thì nắm lá đã hóa thành
10 viên thuốc màu đen tròn như viên thuốc tể lớn hơn hạt ngô. T. bảo Phước có
muốn nếm thử không! Phước gật đầu. T. bảo há mồm ra. T. búng một viên vào mồm
Phước bảo nhai nuốt đi. Phước nhai nuốt thấy đúng là viên thuốc tể có mùi thuốc
bắc. Chín viên còn lại T. cho vào mồm nhai nuốt hết và cười. T. hỏi hai bố con
ông muốn xem nữa không. Phước gật đầu. T. bảo Phước: "Bây giờ đến lượt
ông! Ông ra ngoài bốc cho tôi một nắm đất". Phước ra bốc đất nhưng vùng
này toàn cát, Phước hỏi cát có được không? T. trả lời, cát cũng được! Phước bốc
nắm cát đem vào. T. lại cho vào lòng bàn tay, vừa xoa vừa nhảy nhót như lúc đầu,
xong xòe tay ra. Mười viên thuốc màu vàng nhưng lần này là viên nén, dẹp đã nằm
giữa bàn tay T. T. cười hỏi muốn nếm thử nữa không? Phước bảo có và một viên
thuốc lại bay vào miệng Phước. Phước nhai. Điều lạ lừng là viên thuốc nhai rất
mịn không hề thấy có tý cát nào mà hơi chua như vitamin C. Chín viên còn lại T.
cho vào mồm nhai nuốt luôn. Một lần khác, ông Xuân kỹ sư ở Hà Nội cũng là huynh đệ thân
tín của T. vào chơi với T. hơn một tháng trời xem T. chữa bệnh. Theo Xuân kể lại
có một bệnh nhân nữ đến xin T chữa bệnh. T. bảo bệnh nhân nằm trên phản rồi ra
ngoài sân bứt một số lá vạn thọ vào bỏ trong một ly nước. T. bưng ly nước đưa
ra ngoài cửa sổ. Sau đó lấy lá vạn thọ ra cho vào mồm nuốt đồng thời uống luôn
cả ly nước. Một lát T. ợ cho số lá vạn thọ ra khỏi mồm đặt vào ngực và bụng
phía trong áo bệnh nhân xong, T. một tay bưng chiếc ly đưa ra ngoài cửa sổ một
tay lấy từ ngực bệnh nhân ra hai viên thuốc tròn màu nâu nhét vào mồm bệnh nhân
bảo nhai nuốt. Xong T. đưa tay vào bụng bệnh nhân lấy ra viên thuốc thứ
ba. Viên này không đưa cho bệnh nhân mà bảo ông Xuân: "Viên này cho
ông!". Ông Xuân cầm viên thuốc ngửi thấy thơm mùi thuốc bắc. Không thấy T.
bảo nhai viên thuốc nên đem vào cất trong tủ. Lúc về Hà Nội, quên không lấy
viên thuốc. Tất cả những câu chuyện trên đều có thật trăm phần trăm. Anh
em suy nghĩ mãi không thể nào giải thích được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét