Thứ Tư, 23 tháng 2, 2022
Một thời để mất
Lời tác giả:
Anh đang nghĩ gì? Tôi không dám hỏi. Cho đến khi ánh đèn Long
Châu chớp loé, anh lẩm bẩm một mình như không có tôi ở đó: “Long Châu sáng rồi!”
và anh vào nhà sắt nối dây điện vào hai cực ắc quy. Chúng tôi cùng ngửa mặt
nhìn lên chiếc bóng đèn thuỷ tinh hình mang cá trên nóc nhà sắt đang toả ra những
làn ánh sáng còn chưa rõ hình khối trong lúc nhập nhoạng. Chiều nào Bằng cũng
đăm đăm nhìn về phía Long Châu bắt đầu toả sáng. Và tôi cũng nhìn về đấy. Nhìn
về cây đèn cách bờ non trăm hải lý. Tôi hiểu rằng đối với những người gác đèn
trong này, Long Châu luôn là nguồn động viên khích lệ. Những người gác đèn tìm
về ánh sáng Long Châu như tìm về những điều tốt đẹp nhất của lòng mình.
Anh là nhà văn của Hải Phòng cũ, Hải Phòng tăm tối và đau khổ.
Hải Phòng nước mất nhà tan. Hải Phòng bất công, lầm than, nô lệ. Hải Phòng ấy
là của anh. Không ai thay thế được. Còn Hải Phòng hôm nay, Hải Phòng sang trang
mới là của lớp trẻ chúng tôi và có lẽ là của chính tôi. Anh có tin được điều ấy
không. Tôi sẽ làm và làm được. Tôi sẽ thể hiện Hải Phòng trong cuộc sống mới, Hải
Phòng của những người nô lệ giờ đây đã đứng lên làm chủ xí nghiệp, làm chủ xã hội.
Hải Phòng độc lập tự do hạnh phúc. Hải Phòng có Đảng, làm cách mạng và hưởng
thành quả cách mạng.
Tôi chưa được một lần nhìn Nguyên Hồng viết văn, nhìn Nguyên
Hồng sáng tác, cái công việc khổ sai mà ai đã vướng vào thì không sao gỡ ra cho
được. Kim Lân, người bạn thân thiết của Nguyên Hồng, người tôi quen từ hồi còn
đi học đêm ở Phú Bình đã viết rất hay, rất chính xác về lao động nhà văn của
anh: “Bàn viết của Nguyên Hồng là cái giường tre anh vẫn ngủ. Anh hay dùng giường
nằm làm bàn. Anh cũng còn cái bàn viết bằng cái mâm tre, ở nông thôn dùng làm
mâm ăn. Nó giống như cái chõng tre thu ngắn. Nó thay thế cho cái vạn kỷ, chân
quỳ, gỗ xưa, gỗ trác (?), mà các tay chơi đồ cổ đặt trên đấy cái ống bút hay bộ
đồ trà. Trước cái bàn viết ấy, Nguyên Hồng trải chiếu, ngồi xuống đất viết. Thường
làm việc gì anh cũng làm một cách tất bật, vội vàng qua quýt cho xong. Nhưng
khi Nguyên Hồng chuẩn bị viết, tự dưng anh điềm đạm hẳn lại. Trang trọng, từ tốn.
Những lúc ấy anh phải thu dọn xung quanh cho gọn gàng sạch sẽ. Anh quét nhà,
anh lau bàn ghế, anh sắp xếp lại những tập sách, giải chiếu xuống đất, vuốt ve
mấy tờ giấy trắng, để bút để mực sẵn sàng. Rồi anh đi loanh quanh, đi ra đi
vào, mặt mũi đăm chiêu khổ sở.
Ba hôm sau, cô con gái Nguyên Hồng đến Hội văn nghệ tìm bố.
Cô con gái mà Nguyên Hồng có ý định tác thành cho Thi Hoàng nhưng chuyện không
thành. Cô gái cứ nhìn cái quần Thi Hoàng đang mặc và quay đi cười. Thi Hoàng hiểu.
Chờ lúc chỉ có hai người, Thi Hoàng quát hỏi Nguyên Hồng:
Ở Mường khương tiếp đón long trọng quá. Món thịt thắng cố
ninh trong vạc lớn. Rượu múc từng bát. Một chút gì hoang dã. Một chút gì Lương
Sơn Bạc. Ăn uống xong, thâm nhập thực tế. Sổ sách, giấy bút, hỏi han, ghi chép.
Nhưng anh em nhởn nhơ, không viết. Nguyên Hồng họp tất cả lại, mắng nhiếc tàn tệ:
Có thể kể ở đây chuyến đi của các anh Phạm Ngà, Lưu Văn Khuê
lên Yên Thế, tới nhà Nguyên Hồng như một cuộc hành hương về đất thánh. Các anh
đã nhìn thấy tập bản thảo Bỉ vỏ viết tay, Nguyên Hồng ghi sau dòng cuối cùng
hai chữ bằng mực tím Năm 1936 và thấy thời gian như ngưng đọng ở đấy. Cùng với
Nguyễn Vũ Giang, thứ nam của Nguyên Hồng, hai người đi bộ trên con đường mòn sỏi
đỏ, dưới những cây bạch đàn mới trồng tới mộ nhà văn và vợ nhà văn. Hai ngôi mộ
song song bên nhau nhìn xuống cánh đồng lúa xanh lúc này lại càng xanh vì cơn
mưa vừa dứt, một con suối nhỏ ôm quanh, êm đềm chảy và một bầu trời nặng mây của
vùng trung du nhấp nhô đồi núi. Những câu thơ ập đến với Phạm Ngà, bài thơ được
hoàn thành gần như tức thời khi thắp hương xong trước mộ vợ chồng nhà văn, anh
cùng Lưu Văn Khuê mỗi người một tâm tư, yên lặng.
Tin dữ đến với tôi quá bất ngờ. Tôi đã tưởng không còn chuyện
gì là bất ngờ đối với tôi được nữa và đã tự bảo chuyện gì cũng có thể xẩy ra.
Thế mà tôi vẫn choáng. Vẫn phải cố gắng lắm mới quen với ý nghĩ từ nay không được
gặp anh nữa, anh đã đi vào hư vô. Ba năm sau cảm giác ấy lại đến với tôi khi
cha tôi qua đời cũng đột ngột như vậy. Cũng như với Nguyên Hồng, tôi nghĩ cha
tôi còn có thể sống khoẻ mạnh mươi năm nữa. Khi thế hệ cha anh mình mất đi, mình
bỗng thấy trơ trọi. Không còn nữa cái tuyến một vẫn đứng chắn giữa mình với vô
cùng, che chở cho mình bình yên sống. Mình không an toàn nữa. Mình bỗng biến
thành tuyến đầu. Từ nay mình bị phơi ra trước họng súng bắn tỉa của Thần Chết.
Thế là anh kể về những hàng quà rong. Cái thú khi ngồi ăn ở vỉa
hè, cổng chợ. Vừa ngon. Vừa rẻ. Vừa được nhìn, được nghe. Biết bao nhiêu chuyện.
Như cái hôm anh ăn bên Hạ Lý. Giời rét đại hàn chi cực. Anh thanh niên ngồi cạnh
anh quần áo phong phanh lại chỉ ăn bún chấm mắm tôm, vừa ăn vừa run lập cập khiến
chính Nguyên Hồng cũng run lên. Lại như cái hôm anh ngồi uống rượu ở hàng bà
bán bún ngoài cổng chợ Lạc Viên. Ngồi ghế đối diện với anh là một phụ nữ, chắc
là làm bốc vác Cảng. Giầy vải, quần áo bảo hộ lao động xanh rộng thùng, lấm bẩn.
Rõ ràng vừa tan ca về. Người ấy lẳng lặng ăn như anh lẳng lặng uống. Ăn xong
khen bún ngon và lấy trong túi xách ra cái cặp lồng đựng một bát mua thêm. Lấy
cả chanh ớt, chíu chương. Thêm một ít hành dúng. Đừng cho hành dúng vào bún. Cứ
để ngăn trên chỗ chanh ớt. Rồi chỉ vào cái tỏi gà: Chặt cho tôi cái tỏi này.
Con gà hôm nay béo, mềm. Gói riêng ra hộ tôi. Cả lá chanh nữa. Cho vào cặp lồng,
cho gói thịt vào túi xách. Tưởng xong. Lại rút từ túi ra một con hươu. Cho tôi
một cút vào đây. Lúc ấy mới trả tiền. Xách túi đứng lên còn quay lại giải thích
với Nguyên Hồng đang cố làm ra không để ý gì đến mọi việc chung quanh:
Cuối năm 1974, nghĩa là khi tôi ở tù ra được một năm và đang
làm bốc vác, Nguyên Hồng lại nhà tôi. Đó là một tối mùa đông. Ngồi trên chiếc
chiết giải giữa nhà, đúng chỗ tôi và anh uống rượu với chả mực năm nào, anh lục
trong cặp (lần này là cặp, không phải cái làn đựng các thứ hỗn mang nữa) rút ra
một tập sách anh mới in. Một tuổi thơ văn. Anh lấy bút ghi tặng tôi, vẫn bằng
thứ chữ to anh chuyên đề tặng trên các tập sách: Cho Bùi Ngọc Tấn rất thương.
Mùa đông nhớ năm xưa. Nguyên Hồng.
Tôi ngần ngại mãi, nghĩ là cứ viết thư thẳng cho anh có lẽ
hay hơn. Vẫn là chung quanh câu chuyện bản thảo Một thời để mất của anh thôi.
Tôi nghĩ là mình có trách nhiệm trong việc này, tôi đã gợi ý để anh viết. Tôi
xót xa cho nó, như xót xa cho những gì tự tôi viết ra. Do vậy cứ thấy gờn gợn
trước quyết định của mấy anh trong Ban giám đốc chúng tôi, là tước bỏ tột cả những
gì “râu ria” đi (những gì liên quan đền chính Bùi Ngọc Tấn và đám bạn bè) mà chỉ
giữ lại những gì liên quan đến Nguyên Hồng thôi. Có thể sách viết ra hôm nay có
phần hơi tản mạn, và cái phần lam lũ cay đắng trong nghề của các anh hôm nay viết
ra chưa tiện (thậm chí, xin phép được nói thẳng: có thể ai đó nghĩ Bùi Ngọc Tấn
chưa phải là người. có quyền và cần chia sẻ với bạn đọc và đồng nghiệp những
vui buồn của đời mình như thế). Nhưng đã vậy thì nên để quyển sách lại. Chứ tước
bỏ đi cái phần “râu ria” ấy, chỉ giữ phần Nguyên Hồng thôi, thì tức là làm nánh
hẳn quyển sách, làm nó mất đi sự thống nhất nội tại và tôi nghĩ là cái phần tâm
huyết anh đặt vào đó cũng mất đi cơ hội bộc lộ.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Mùa moan nở Cỏ moan có lá thon dẹp màu xanh nhạt, cạnh lá có những cái răng cưa be bé có thể làm chảy máu nếu cứa vào da. Sông Sương bốn m...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Qua bài thơ "Không đề" hiểu thêm tính sâu sắc của Văn Cao Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi b...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét