Lại bàn về trường phái
lý luận Việt Nam
Ðọc xong bài trả lời của tác giả Phan Nhiên Hạo1, tôi
bỗng giật mình. Ông chỉ cần đọc qua bài của tôi là đoán ngay được cái chân
tướng của tôi. Vì vậy tôi không dám giấu giếm nữa. Tên thật của tôi là Trư Bát
Giới, còn Võ Tấn Phong chỉ là bút danh. Bản thân tôi học hành lơ tơ mơ, vào lớp
học thì bị các bạn học chỉ chăm chăm chế nhạo cách phát âm tiếng Anh ngọng
nghịu của tôi. Thấy học hành khó nhai, tôi muốn tìm một chỗ đứng (hoặc ngồi, hoặc
quỳ) trong văn chương. Vì có quen biết sơ, qua trí tưởng tượng, với các vị có
tên tuổi trong giới cầm bút như Phạm Thị Hoài, Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc
Tuấn, và các vị này lại tôn trọng ý kiến của một kẻ lơ tơ mơ nổi tiếng như tôi,
nên tôi quyết định viết một bài (và nếu bài viết này được đăng, thì tôi có hai
bài!) đứng về phe họ hoặc ca, binh họ thật nhiều. Chỉ mong sao khi tôi viết vài
bài thơ lơ tơ mơ hoặc một cuốn tiểu thuyết lơ tơ mơ, họ sẽ nhớ cái tình nghĩa
này mà ra tay cứu bồ.
1.
Nhưng khi tôi thông minh đột xuất, viết ra một câu đúng, hoặc phát biểu một
chân lý, như "Người chết thì hết thở", thì cái câu này vẫn đúng, bất
chấp cái lương tâm dơ bẩn, cái dáng nịnh hót đê hèn, và cái vẻ nhút nhát dấu
kín tên tuổi mình của tôi. Và như thế, cái quy ước quan trọng nhất đối với cá
nhân Phan Nhiên Hạo tự nhiên không còn giá trị gì trong các cuộc tranh luận.
2.
Phan Nhiên Hạo cũng phê bình tôi về việc can dự vào cuộc tranh luận có tính
chuyên môn hẹp của Phan Ngọc và Phạm Thị Hoài. Tôi ngờ rằng Phan Nhiên Hạo chưa
đọc các bài của Thảo Hảo2, Hoặc Ngữ3, và Phạm Thị Hoài4 phê
bình dịch phẩm của Phan Ngọc. Riêng trong bài viết trước, tôi chưa hề chen vào
sự đúng sai của Phan Ngọc, mà chỉ phê bình cách tranh biện của ông5.
Phan Ngọc khó chịu vì "Cách nói của chị Hoài quả là gay gắt"; ông
viết: "kiến thức Hán học của chị không giống ai"; ông khoe ông học
Hegel với Trần Ðức Thảo; ông kết luận rằng ông "sống nhỏ bé, không nói
năng ồn ào..." Nếu Phan Nhiên Hạo không cho đó là ví dụ của sự tấn công
người phê bình, và bảo vệ mình kiểu "ta có chân truyền", thì Trư này
cũng đành vẫy đuôi chịu thua. (Hơn nữa, chữ Entfremdung dịch
ra tiếng Anh là alienation, có nghĩa là sự làm cho xa lánh, sự
ghét bỏ, sự làm cho khác đi. Còn tha hóa vào cái thời Trương
Tửu và Trần Ðức Thảo có lẽ vẫn còn cái nghĩa Entfremdung trong
tiếng Ðức hoặc alienation trong tiếng Anh. Bây giờ tha
hóa chỉ còn cái nghĩa biến chất, trở thành xấu xa - degenerate,
become depraved-như trong cuốn từ điển Việt-Anh6. Nếu lúc này
tôi không đứng về phía Phạm Thị Hoài, thì nên khen cái sai rành rành của Phan
Ngọc sao?
3.
Về sự chậm hiểu của Trư Bát Giới tôi lúc đọc bài của Nguyễn Quốc Trụ7,
tôi xin trích vài ví dụ. Ở mục "1. Ðọc Thơ Trẻ, ở trong nước" sau khi
trích dẫn Vi Thùy Linh, Nguyễn Quốc Trụ lại trích Octavio
Paz, rồi hai câu thơ dịch vô danh, ở dưới chú thích là mô phỏng Rilke và Victor-Émile
Michelet, rồi đến trích dẫn Phan Huyền Thư. Trư tôi
chậm chạp hiểu ra và tự hào là Việt Nam ta có thêm ba nhà thơ trẻ nổi tiếng có
bút danh bằng tiếng Tây Ban Nha, bằng tiếng Ðức, và tiếng Pháp. Trong các đoạn
văn tiếp theo, rất nhiều câu phức hợp dài một cách không cần thiết; dấu phảy
được dùng rất tùy tiện, lại bị phức tạp hóa bằng những trích dẫn trong ngoặc
đơn hoặc suy tư của tác giả trong ngoặc vuông; và lại rất không thống nhất
trong cách trích dẫn. Mạch văn lại ngắt quãng bằng những đoạn hồi tưởng. Ðó là
chưa kể ông tạm dịch sai chữ poet-tsar (tsar là từ
chỉ Nga Hoàng, và poet-tsar có thể dịch là thi bá hoặc nhà thơ
đầu đàn) thành nhà thơ-cung đình. Hoặc ông dịch sai đoạn "art
subjected to the rules of a tyrannical power" (đúng ra là "nghệ thuật
dưới những luật lệ của bạo quyền") thành "nghệ thuật viết dưới ánh
sáng của Ðảng". Thơ văn có thể (và nhiều khi rất cần) lan man, sai ngữ
pháp, thiếu logic, hoặc khó hiểu, nhưng phê bình thì rất cần sự trong sáng,
chính xác, và rõ ràng.
4.
Phan Nhiên Hạo tranh luận rất dài hơi về chữ ngụy biện tôi đã
dùng để dịch từ fallacy của Anh ngữ. Tôi có thể đoán là Phan
Nhiên Hạo chưa hề học qua khoá "Critical Thinking", cũng không buồn
tìm hiểu về phép biện chứng và thế nào là fallacy. Các cuốn từ điển
Anh-Việt8 hiện lưu dùng ở Việt Nam đều dịch fallacy là
ngụy biện. Còn trong phép tranh luận, fallacy có nghĩa là một
lời lý luận có sức thuyết phục, dù sai lầm hoặc vì hình thức lý luận, hoặc vì
sự sai lầm của một trong các giả thuyết9. Như vậy có thể thấy
rằng fallacy chỉ là một cú chơi xấu (thuộc về hình thức tranh
luận), giống như cú đấm dưới thắt lưng bị cấm trong quyền Anh, nên tránh trong
lúc tranh cãi, chứ không phải là cách diễn giải các sự kiện (thuộc về nội dung
tranh luận), như Phan Nhiên Hạo đã giải thích rất sai một cách rất hùng hồn.
Trong khi phê bình việc tôi ghép ông cái "tội" ngụy biện, Phan Nhiên
Hạo cũng làm một phép so sánh: việc tôi bắt bẻ cách viết của ông cũng giống như
việc bạn bè trong lớp chế nhạo giọng Anh ngọng nghịu của tôi. Ông đã vô tình
phạm thêm vào một lối ngụy biện khác gọi là "False Analogy"
hay là "so sánh bậy", vì hai thứ này không có gì liên quan với nhau
cả. Nếu phải so sánh, thì phải là: việc tôi bắt bẻ cách viết của ông cũng giống
như việc bạn bè trong lớp chế nhạo thứ ngữ pháp rừng rú của tôi. Bởi vì cách
tranh luận và ngữ pháp là những luật lệ cần phải tuân theo khi tranh luận và
khi nói. Và một khi đã so sánh như vậy, tôi cần thay đổi cái thứ ngữ pháp rừng
rú bằng ngữ pháp tiêu chuẩn của tiếng Anh, và Phan Nhiên Hạo nên thay đổi cách
lý luận đầy những ngụy biện.
5.
Bản thân bài của Nguyễn Quốc Chánh10 không có gì sai, vì đó là
một tác phẩm sáng tạo. Người nghệ sĩ trong lúc sáng tạo cần đi rất xa, càng đi
xa con đường mòn càng tốt. Bài của Thân Thu Anh11 cũng không có
gì sai. Phê bình là một cách hiểu. Nếu phê bình chỉ nhắm vào tác phẩm, và dựa
trên các quy tắc tranh luận, thì ý kiến phê bình nên được tôn trọng. Còn trong
bài của Phan Nhiên Hạo12, ông đòi hỏi người đọc "một chút thiện
chí". Tại sao phải cần "thiện chí" khi phê bình? Ông muốn biến
cái "thị trấn" văn chương Việt Nam vốn đã tụt hậu quay trở về cái
"làng xã" lạc hậu hơn mà các cụ khi bình văn cứ gật gù châm chước
nhau chăng?
Trong cả hai bài đã trích dẫn của Phan Nhiên Hạo, ông nhấn đi nhấn lại một ý
kiến kỳ quặc khác, là phải căn cứ vào nhiều bài viết khác để đánh giá một bài
viết của Nguyễn Quốc Chánh. Thật ra, mỗi tác phẩm khi khai sinh là đã có, và
rất cần có, một số phận độc lập. Chỉ khi đó, các nghệ sĩ mới luôn đi tìm cái
mới lạ, cái hay, cái đẹp, chứ không dựa vào và lập lại những tác phẩm đã nổi
tiếng xa xưa của mình. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến nổi tiếng là một trong những
người đầu tiên đã nhận ra văn tài của Nguyễn Huy Thiệp và đã bảo vệ nhà văn này
rất nhiệt tình. Cái "công" đó không làm giảm cái "tội"
trích dẫn sai khi tranh luận với Hoàng Ngọc-Tuấn. Và nếu sau này khi Hoàng Ngọc
Hiến lại phát hiện ra một Nguyễn Huy Thiệp khác, thì cái "tội" trích
dẫn sai không hề làm giảm cái "công" mới này. Lấy một ví dụ giả tưởng
khác. Nếu một mai trời đất đổi thay, Nguyễn Huy Thiệp bỗng viết một cuốn tiểu
thuyết ủy mị, văn chương tầm thường, thì tôi nên viết một bài "Trời đất
quỷ thần ơi, sao Nguyễn Huy Thiệp viết văn tệ như dzậy!!!", hay là nên
viết "Cùng với Tướng Về Hưu, Kiếm sắc, và Con
gái Thủy Thần, văn chương Thiệp vẫn còn khá lắm"?
6.
Phan Nhiên Hạo trong bài viết trước không hề lý luận tại sao Nguyễn Quốc Chánh
có thể làm thơ hay mà vẫn viết sai ngữ pháp, mà chỉ chăm chăm phê phán Thân Thu
Anh là "từ trong sâu thẳm" bị đe dọa bởi những xác tín chính trị,
không dám phê bình thẳng Nguyễn Quốc Chánh. Và ông bênh vực rằng Nguyễn Quốc
Chánh là "người làm thơ lâu năm" nên không thể bị phê bình về ngữ
pháp. Bài viết này cho thấy Phan Nhiên Hạo đã tránh né luận điểm "Nguyễn
Quốc Chánh viết sai ngữ pháp" bằng cách khen ngợi trình độ Nguyễn Quốc
Chánh, và đánh vào Thân Thu Anh. Như vậy ông đã phạm vào một lối ngụy biện gọi
là "Ad Hominem" (tiếng Latin), có nghĩa là "nhắm vào con
người", thay vì tranh luận về các luận điểm. Tôi cũng vừa nhận ra ông phạm
thêm một lỗi tranh luận khác, gọi là "Red Herring" (có thể
dịch là tung hỏa mù), khi ông phê phán Thân Thu Anh "thiếu thiện
chí", hoặc "những xác tín chính trị bị đe dọa", mà thực ra những
vấn đề này không liên quan chút gì đến luận điểm "Nguyễn Quốc Chánh viết
sai ngữ pháp"; những lời phê phán của ông chỉ nhằm tung hỏa mù để làm
người đọc rối trí và quên mục tiêu ban đầu.
7.
Tôi đọc "AQ chính truyện" lần đầu tiên từ bản tiếng Anh13.
Rất lâu sau này, tôi mới có dịp đọc bản dịch tiếng Việt, "AQ chính
truyện" của Trương Chính và "ẢQ chính truyện" của Giản Chi. Vì
bị bạn bè chế nhạo lâu ngày về thứ tiếng Anh ngọng nghịu của tôi, tôi hiểu được
cái giọng châm chọc chua chát trong bản dịch tiếng Anh. Bản dịch của Trương
Chính và Giản Chi có nội dung giống nhau, nhưng ẢQ trong bản dịch của Giản Chi
hiện ra gần với bản dịch tiếng Anh hơn: sống động hơn, hề hơn, và giống tôi
hơn. Vì vậy tôi mạo muội cho rằng bản dịch của Giản Chi là nhất. Cũng tương tự
như vậy, tôi đọc "Tội Ác và Trừng Phạt" qua bản dịch tiếng Anh14 trước.
Khi đọc lại qua bản dịch của Cao Xuân Hạo, tôi rất khâm phục lối hành văn trong
sáng, cũng ngạc nhiên vì tiếng Việt có thể chuyên chở một cách khúc chiết những
lời lý luận đầy chất triết học và tâm lý học vốn rất rắc rối của Dos. Hơn nữa,
tôi có thể nhận thấy dịch giả Cao Xuân Hạo rất cẩn thận khi dịch, như việc ông dùng
bản dịch Kinh Thánh của tiếng Việt thay vì dịch thẳng những đoạn trích Kinh
Thánh từ nguyên bản tiếng Nga của Dos, và giải thích rõ ràng khi có sự khác
nhau. Vì vậy tôi nghĩ rằng bản dịch "Tội Ác và Trừng Phạt" của Cao
Xuân Hạo là xuất sắc.
Khi nêu lên hai tác phẩm dịch này, tôi muốn nói rằng tiếng Việt có thể dịch một
cách rõ ràng và trong sáng nếu người dịch nghiêm túc. Khi Phan Ngọc dịch Hegel,
đã làm phức tạp và làm vô nghĩa nhiều câu văn, là một ví dụ không nên theo.
8. Khi nêu ra vấn đề thiếu dẫn chứng, Phan Nhiên Hạo lại lý luận rằng vì trong
nước thiếu tư liệu cho nên cần được "châm chước", để cho công bằng
hơn. Khi tranh luận, mà lại thiếu tư liệu, thì người tranh luận chỉ có thể dựa
vào cảm giác của mình, vào kiến thức cũ của mình (có khi đã bị lạc hậu), vào
những mối quan hệ cá nhân giữa người viết với nhau... chứ ít dựa vào bằng chứng
rõ ràng. Và như vậy tranh luận dễ bị trở thành các trò ngụy biện. Hơn nữa, có
nên nâng cấp trình độ lý luận của giới phê bình trong nước cho ngang bằng với
trình độ của thế giới, hay là nên "công bằng" bằng cách ngoài nước
thì phải nghiêm cẩn, chú thích rõ ràng, còn trong nước thì cứ ngựa quen đường
cũ, không cần dẫn chứng?
Nếu người viết không nêu ý kiến rõ ràng và không lý luận vững vàng, mà chỉ chăm
chút vào trích dẫn những tên tuổi lớn, thì đó là "mượn oai hùm", một
lối ngụy biện. Nhưng nếu tư liệu đưa ra là để củng cố ý kiến của mình và giúp
độc giả tìm hiểu sâu hơn những vấn đề mình đưa ra, thì đó là điều tốt, và nên
làm theo.
9.
Tôi vẫn giữ vững ý kiến nên tách rời tác giả và tác phẩm trong nghệ thuật nói
chung, trong văn chương nói riêng. Chỉ khi đó mỗi tác phẩm mới ra đời sẽ đứng
ngang hàng nhau và sẽ được phẩm định theo vẻ đẹp và tính sáng tạo của nó. Chỉ
khi đó nhà phê bình sẽ không sợ sệt khi chê những tác phẩm tầm thường hoặc cẩu
thả của những tên tuổi lớn, và không ngại ngùng ngợi ca những tia sáng le lói
của những mặt trời sắp mọc. Chỉ khi đó người bị phê bình sẽ cảm thấy khó chịu
nhưng chỉ trong thoáng qua, vì chỉ có tác phẩm nghệ thuật của hắn bị phê bình
thôi, chứ không ai bôi tro giát trấu vào mặt hắn cả. Chỉ khi đó nghệ thuật sẽ
thêm phần lịch sự: người ta chỉ phê bình tác phẩm của nhau, mà không réo gọi
tên nhau và không moi móc đời tư nhau. Chỉ khi đó nền nghệ thuật, bao gồm người
sáng tác và phê bình, sẽ cư xử nhau nhân ái hơn: khi những cuộc tranh luận đi
qua, người ta có thể bắt tay nhau và cùng nhau đi uống bia, vì những vấn đề vừa
tranh luận nảy lửa trên kia thuộc về một ngôi thứ ba, vì những ý kiến phê bình
vừa qua không nhằm hạ thấp giá trị con người của tác giả mà chỉ mong xây dựng
những tác phẩm lớn hơn. Chỉ khi đó, chúng ta mới có được một nền cộng hòa văn
chương15.
10.
Cuối cùng tôi cũng xin lỗi tác giả Phan Nhiên Hạo và độc giả nào lỡ đọc bài
viết trước của tôi, là tôi đã không viết rõ ràng các ý kiến đưa ra. Sự cẩu thả
đó là không thể tha thứ trong khi tranh luận. Tôi cũng đã học hỏi được nhiều
khi viết bài trả lời này: phải viết rõ ràng, và cố gắng suy nghĩ mạch lạc trong
lúc tranh luận, để không phạm vào các lối ngụy biện.
Chú thích:
1. Phan Nhiên Hạo: "Trường phái lý luận
Việt Nam" và trường hợp của tôi, Talawas, Góc nói, 31.8.2002
2. Thảo Hảo: Tôi nghi ngờ ông Hegel, Talawas,
Ngôn Ngữ và Dịch Thuật, 20.4.2002
3. Hoặc Ngữ, Vài suy nghĩ về bản dịch bộ Mỹ học-Hegel
của Phan Ngọc, Talawas, Ngôn Ngữ và Dịch Thuật, 22.4.2002
4. Phạm Thị Hoài: Sấm Hegel, Talawas, Ngôn Ngữ
và Dịch Thuật, 9.6.2002
5. Phan Ngọc: Câu chuyện dịch "Mỹ Học"
của Hegel, Talawas, Ngôn Ngữ và Dịch Thuật, 19.8.2002
6. Ðặng Chấn Lưu, Lê Khả Kế, và Phạm Duy Trọng: Từ
Ðiển Việt-Anh, nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1993
7. Nguyễn Quốc Trụ: Những chi tiết thơ trong
một cõi không thơ, Talawas, 5.8.2002
8. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Từ điển
Anh-Việt, nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1990
Viện Ngôn Ngữ Học, Từ điển Anh-Việt, nxb TP. Hồ Chí
Minh, 1993
9. http://www.kcmetro.cc.mo.us/longview/ctac/fallacy.htm
A Fallacy is a kind of argument which tends to persuade us, even though it is a
bad argument, either because of the form, or because of the falsity of one of
the premises.
10. Nguyễn
Quốc Chánh: Của căn cước ẩn dụ, Talawas, Thơ và Thơ Trẻ
11. Thân
Thu Anh, Ðọc Nguyễn Quốc Chánh, Talawas, Thơ và Thơ Trẻ, 4.8.2002
12. Phan
Nhiên Hạo: Tiêu biểu của lối tranh luận tủn mủn, tránh né, Talawas, Thơ và
Thơ Trẻ, 6.8.2002
13. Lu
Xun: Diary of a madman and other stories, translated by William A. Lyell,
Honolulu: University of Hawaii Press, 1990
14. Dostoevsky: Crime and Punishment,
translated by Richard Pevear and Larissa Volokhonsky, New York: Alfred A.
Knopf, 1993
15. Nguyễn
Hưng Quốc: Tiến tới một nền cộng hòa văn chương, tập san Việt, số 6, 2000.
10/9/2002Võ Tấn Phong


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét