"Một cõi đi về" qua lăng kính Thiền QuánNhư Không Thích Nhuận
Tâm
LTS: Nhân kỷ niệm 21 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rời xa
cõi tạm (1-4-2001 - 1-4-2022), PLO xin trích đăng bài viết 'Một cõi đi về'
của Thiền Quán Như Không Thích Nhuận Tâm, trụ trì Chùa Lá (Gò Vấp,
TP.HCM).
Trong buổi sinh hoạt dã ngoại văn nghệ của sinh viên
Chùa Lá (Gò Vấp, TP.HCM), một học viên thể hiện bài hát Một cõi đi về của
cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nhận được nhiều tràng vỗ tay tán thưởng kéo dài.Sau đó có một học viên đứng dậy hỏi: Bạn hát rất hay, nhưng
có hiểu được nội dung bài hát này mang ý nghĩa gì không? Tất cả 500 học viên đều
ngơ ngác, quay nhìn lại hỏi tôi: Sư phụ biết không? Phân tích cho chúng con
nghe.Đây là một điều khá nan giải. Nhạc Trịnh mang một màu sắc, thể
điệu vô cùng lạ, ca từ mênh mang trừu tượng, ý tưởng siêu nhiên khúc chiết, ẩn
ngữ mà phiêu bồng làm sao giải thích. Nhưng nghĩ trường phái hội họa siêu thực
vẫn chứa một nội dung hiện thực sâu sắc ẩn tàng trong tác phẩm, nên tôi mạo muội
đem ra phân tích cho các em học viên hiểu thêm một ít về tác phẩm “Một cõi đi về“.Chân dung Như Không Thích Nhuận Tâm. Ảnh: NVCCNơi nào diễn đạt không trọn nghĩa hoặc sai lầm, mong cố nhạc
sĩ và mọi người niệm tình lượng thứ. Nhân dịp ngày mất của cố nhạc sĩ để thay
nén nhang tưởng nhớ.Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng quy y PhậtĐầu tiên ta tìm hiểu sơ qua hoàn cảnh của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn khi tuổi thơ nỗi buồn mất cha thường hay lên chùa tụng kinh cầu siêu
và quy y pháp danh Nguyên Thọ, nghĩa là thọ nhận từ suối nguồn phật pháp, cùng
học nghi lễ âm nhạc phật giáo qua âm điệu tán tụng với hai vị kinh sư nổi tiếng
thời bấy giờ đó là Hòa thượng chùa Hiếu Quang và chùa Phổ Quang. Từ đó tâm hồn
thơ ngây của nhạc sĩ mang âm hưởng cung điệu thiền ca của Phật giáo.Trong bài viết năm 2001 trên tờ Nguyệt san Giác Ngộ, Trịnh
Công Sơn đã nói trực tiếp: “Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo
chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật”.Vậy chúng ta minh chứng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là một phật tử
thuần túy mang nhiều ảnh hưởng tư tưởng phật giáo như diễn đạt hình ảnh Mẹ Quan
Âm.“Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh, sấm bay rền vang.Bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn.Tôi mời em về đêm gội mưa trong.Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm” (Đóa hoa vô thường).Kiến thức có ba giai đoạn: Bước đầu bị bội thực, thứ hai được tiêu hóa, thứ ba
đến giai đoạn tiêu dung biến thành cơ nhiệt, thành hơi thở sức sống chất liệu
riêng mình. Nhạc sĩ Trịnh nghiên cứu kinh điển phật giáo hòa với triết học di sản
văn hóa đông tây kim cổ đã được tiêu dung mất dấu ngữ ngôn sách vở, biến thành
dưỡng chất nhạc ngữ; khác biệt âm ba trong trái tim đủ đầy thiền ca, thành
một bản kinh đặt trên nền tảng luân hồi, hóa thân vào âm nhạc một triết lý sống
lung linh với những ca từ huyền nhiệm, đưa con người từ khổ đau đến cõi an vui.Ta xét sơ qua đề tài “Một cõi đi về” là một cõi để ta đi về đến
nơi, hay một cõi để ta Đi và Về? “Vậy, Một cõi không phải một nơi chốn, một
tỉnh thành, một nước, một địa chỉ cụ thể… một cõi ở đây gọi như: cõi trời, cõi
tiên, cõi phật, cõi người ta… và một cảnh giới chỉ cho tâm linh.Chúng ta đặt lại vấn đề thời gian tác giả viết: “Bao
nhiêu năm rồi…?” là một năm, hai năm hay hàng tỉ tỉ năm đến vô lượng kiếp
năm chỉ thời gian đã đi qua. Vậy đến đâu, để làm gì, mà lộ trình cứ mãi ra đi?
Tượng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cao 2,4m
bên bờ biển Quy Nhơn. Ảnh:
TTXVN
“Ôi! cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi” (Cát
bụi). Cuộc đời là một hành trình ném đủ đầy dâu bể cứ lặn hụp giữa dòng nhục
vinh còn mất, loay hoay vòng kiếp phù sinh.
“Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Người ta thường ví
người nào khổ đau, trách nhiệm nhiều là gánh nặng trên hai vai. “Trên hai
vai ta đôi vầng nhật nguyệt”.
Đến đây chúng ta thấy nhạc sĩ thâm hiểu triết lý Phật giáo một cách sâu sắc có
hai ý: Ý nói trên đôi vai gánh hai vầng nhật nguyệt là chỉ cho sự chi phối âm
và dương, ngày và đêm, khổ đau và hạnh phúc tròn và khuyết của vần xoay nhân
duyên tan hợp.
Tuy đôi vai gánh nặng nhưng mặt trời và mặt trăng tỏa cho ta
ánh sáng, tính năng của mặt trời là nóng, tính năng của mặt trăng là lạnh, ý
nói đời người luôn chịu đựng hai thái cực nóng và lạnh, phiền và nã, nhưng triết
lý phật giáo, phiền não tức bồ đề, theo chữ hán thì bộ nhật và bộ nguyệt kết lại
thành chữ ”minh 明“, chữ minh nghĩa là sáng bên
trong, là trí tuệ bừng nở tỉnh thức tâm hồn, mới có ánh sáng.
Đi về cội nguồn thế giới tự tâm
“Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. Vậy đi về đâu cần trí
tuệ soi đường? Phải chăng chỉ rõ đi về cội nguồn thế giới tự tâm. Khi tâm
được trí tuệ soi sáng, thì nghe ra tất cả muôn loại vạn vật đều có sự sống, có
ngôn ngữ riêng, lắng nghe sâu sắc âm thanh lạ thường của núi thở, non nước hòa âm ngôn ngữ trăng sao cùng cỏ cây reo hát.
“Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ”. Khi hòa nhập với vạn
thể, vạn hữu ta đắm mình say sưa, không vướng bận buộc ràng bởi việc thịnh suy
nhân thế, nên một chiều ngồi say, thấy một ngày thanh thản trôi qua.
“Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ ngày qua”. Khi nhìn
ra sự vận hành tự nhiên bốn mùa của vũ trụ, dịch chuyển tuần tự thay nhau màu sắc
đất trời, ta không còn lo âu sợ hãi, an nhiên để nhìn.
Nhiều hoạt động kỷ niệm 21 năm ngày mất
nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn diễn ra trong hôm nay (1-4)
“Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa”. Con người
tỉnh thức sống trong chánh niệm, phúc báo đủ đầy tự nhiên có sự bảo hộ của đất
trời. Trong Phật giáo thường tụng (tùy xứ kiết tường vân) kiết tường vân là mây
lành thường che chở an ổn cuộc sống: “Mây che trên đầu”, chúng ta đặt lại vấn đề, mây
che trên đầu rồi mà còn nắng trên vai?
Đoạn đầu nhạc sĩ dùng nhạc ảnh diễn tả trên đôi vai hai vầng
nhật nguyệt, bây giờ lại nắng trên vai, tại sao hai lãnh cực đối nhau như
thế? Khi chúng ta gặp điều gì phập phồng sợ hãi đôi vai bị ớn lạnh làm cơ thể
tiêu mất nhiệt năng, ý nói từ vô lượng kiếp đến nay sống hoang mang kiếp nhược,
nay buông xả lo âu, lòng thanh tịnh thắp năng lượng tràn đầy thì nắng về sưởi ấm
bờ vai: “Mây che trên đầu và nắng trên vai”.
Nắng về đậu cho lòng an tịnh mở ra muôn trùng cuộc lữ, cho
đôi chân chánh niệm bước vững chãi đến phương trời tỉnh giác, vượt qua những
khúc quanh dâu bể thịnh suy, bỏ lại sau lưng con sông mê muội trầm luân.
“Đôi chân ta đi, sông còn ở lại”. Đôi chân khi đến bên kia bờ
giác thảnh thơi, chuyển hóa vô minh, mở lòng bi nguyện rộng lớn, yêu
thương phát từ con tim không điều kiện, không đối đãi, như con tim yêu thương của
mẹ không cần đáp lại.
Nguyên bản tác giả viết “con tinh” người miền Trung nói
chung, thường hay mắng yêu những đứa nhỏ gái ngỗ nghịch, phá phách thường gọi
là “con yêu tinh” gọi tắt là con tinh. Tại sao tác giả gọi con tinh? Trong con
người có hình ảnh thiện và ác: Ác là tham lam thường nóng nảy đố kỵ ganh ghét,
khi chúng ta chuyển hóa trở về bản chất yêu thương, bao dung tha thứ, hỷ xả vô
phân biệt nên gọi là vô tình chợt gọi để bùng vỡ trong tâm thức hiện cái bóng của
con người. Mới thấy dấu của cái bóng chứ chưa phải hình thật, vậy bóng của ai
hiện trong ta? Chính cái bóng của bản thể cội nguồn khuôn mặt xưa nay, là Phật
tính, là bản lai diện mục.
“Lại thấy trong ta hiện bóng con người”. Đến đây mở
cho ta nhìn thấy bóng dáng nửa chặng đường của “Một cõi đi về” bùng vỡ khai
nguyên suối nguồn nội tại được cơn mưa pháp tưới tẩm dưỡng nuôi kết mùa hoa
trái.
Kinh Pháp Hoa trong phẩm (thí dụ) lời thuyết pháp như
cơn mưa, như nắng hạn lâu ngày, nay cơn mưa tưới tẩm cho vạn vật cây cỏ hồi
sinh nên gọi là “mưa pháp”, khi hành giả trên lộ trình tỉnh giác, ngồi đâu cũng
nghe được tiếng pháp, từ tiếng hót của chim, lời reo ca trong gió, sự biến đổi
vô thường dâu bể… cũng đều “thuyết pháp “tức là mưa pháp. Tại sao ngồi nghe
mưa nơi này còn lại nhớ mưa xa, mưa ở đâu mà nhớ?
Theo quan niệm vũ trụ quan Phật giáo, có hằng hà sa số thế giới,
có những thế giới chư Phật đang thuyết pháp, tâm niệm hành giả luôn nhớ nghĩ đến
mười phương cõi, từ nơi này nhớ đến tận chốn xa. Nếu nhạc sĩ dùng tiếng mưa đổ,
mưa xối xả, thì có lẽ bão bùng lụt lội thiên tai là phá sản tâm hồn, chỉ dùng một
động từ nhẹ.
“Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ”. Hạt nhỏ ở đây hành
giả diễn đạt nghĩa lý sâu xa. Miếng đất tâm (tâm địa) bị khô hạn từ vô lượng
kiếp đến nay, chỉ có cơn mưa nhỏ, không đủ sức dập tan phiền não cho cây tuệ giác
ngời soi để nhìn ra cội nguồn hội ngộ.
Hội ngộ cái gì, ở đâu, để làm chi, có ích không? Một câu hỏi
trọng đại kiếp người, không đơn thuần như sự hội ngộ bạn bè, anh em, gia đình…
Đây là cuộc hội ngộ vỡ bùng đại mộng tử sinh, đường đời thăm thẳm vô biên, bão
giông nghẽn lối, não phiền ngăn che, nên: “Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ”. Bị
vô minh che khuất dày đặc chưa hội ngộ bến bờ miên viễn, thì cuộc lữ dạt trôi
trăm suối ngàn sông, mịt mờ dặm bước nghiêng mông mênh chiều, khơi đèn soi bóng
tịch liêu, đường xưa mù mịt hắt hiu quê nhà.
“Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà”. Hành giả muốn nói
”quê nhà“ ở đây là bản thể tự tính chân như, giống như ý tưởng của nhà thơ Bùi
Giáng: “Hỏi rằng: quê ở nơi đâu? Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà". Bị mê
muội não phiền che lấp từ vô thủy đến nay lên xuống sáu đường, lang thang tam
giới mịt mờ cố quận, đành phải chạy loanh quanh, một vòng của kiếp người một đời
thêm tiều tụy.
“Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy”. Đời là biển
khổ đầy mồ hôi và nước mắt. Khi sinh ra và lớn lên bon chen trong đời sống, nếm
đủ đầy nhục-vinh, được-thua, còn-mất, tranh giành phú quý công danh, khi xuôi
tay nhắm mắt. Trăm năm có nghĩa gì đâu? Hai bàn tay trắng về đâu bến bờ? mới
biết cơn đại mộng luôn bám víu theo ta, từ thời tuổi còn thơ "bờ cỏ
non” đến khi kết thúc cuộc đời.
“Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa”. Đời người ngủ
thì mơ thức thì mộng, không nhìn ra chân lý sống, khi hoàng hôn tắt bóng xế chiều
ngả xuống cô thôn, đời người cuối nẻo chân mây mới thảng thốt nghe ra: “Từng
lời tà dương là lời mộ địa”. Lời tà dương là lời vô thường thúc giục, cấp
bách, nhắc ta nhanh lên, thời gian không còn đợi chờ, từ đó ta mới ra sức nỗ lực
tinh cần tìm cầu con đường thảnh thơi giác ngộ.
Lời mộ địa là lời cuối cùng một đời người, thành bại, nhục
vinh rồi cũng chôn kín dưới đáy mộ cô quạnh. “Ngoảnh nhìn lại cuộc đời như giấc
mộng. Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không”. Giấc mộng do vọng tưởng sinh
ra hư ảo mê muội, giờ đây định tỉnh truy nguyên ra chân tướng của vạn vật mới
nghe ra.
“Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”. Nước trào
dâng trăm sông ngàn biển, dài đến vô tận rộng đến vô cùng, mênh mông không ngằn
mé, có những dòng đục và trong, lẫn lộn hương vị mặn và ngọt, phát xuất từ suối
khe là suối nguồn chân tâm thật tướng, bản thể của muôn loài, như mặt đất sinh
ra vạn vật, cỏ cây.
“Trong khi ta về lại nhớ ta đi”. Có phải đây là một cảnh
giới tác giả phác hoạ lên bức tranh tuyệt mỹ, đi và về đều ung dung xuyên suốt.
Trong 10 bức tranh thiền chăn trâu (Thập mục ngưu đồ), từ khi tìm trâu đến khi
chứng đạo trở về cội nguồn. Ta lại phát nguyện ngược lại độ sinh trong ba cõi,
sáu đường, thõng tay vào chợ. Nơi nào khổ đau ta ban vui, chốn nào trầm luân thả
thuyền từ cứu vớt, nơi nào vô minh trao đuốc tuệ soi đường.
“Đi lên non cao đi về biển rộng”. Đi cùng khắp chứng kiến
nhiều cảnh bi thương thống khổ đọa đày, kiếp nhân sinh nổi trôi trăm bờ vạn bến,
bão tố thiên tai dịch bệnh chiến tranh quái ác, chưa một lần thứ tha.
Như Không Thích Nhuận Tâm, Trụ trì chùa Lá,
phát gạo và nhu yếu
phẩm cho những người có
hoàn cảnh khó khăn trong giai đoạn
đại dịch bùng phát. Ảnh:
PĐ
“Ngọn gió hoang vu thổi buốt xuân thì”. Ngọn gió hoang
vu là ngọn gió vô thường có sức tàn phá từ nội tâm bản chất đến hiện tượng bên
ngoài, từ rực rỡ đến điêu tàn.
Nhưng vô thường ẩn tàng chơn thường, ta biết tận dụng tuổi
xuân thì, tuổi có sức bậc mãnh liệt, một nhựa sống tràn đầy, để chuyển hoá ngọn
gió vô thường từ xấu đến tốt, từ khổ đau đến an vui, từ trầm luân đến bờ giải
thoát như kinh Bát Nhã bất sinh, bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm,
thị cố không trung…
Một cõi đi về, một trang kinh được lồng chuyển bằng năng lượng
nhạc ngữ hòa âm thể điệu trái tim bồng bềnh sương khói, lan tỏa sâu trong tiềm
thức, quyện với gió núi mây ngàn, cho vạn hữu hồi sinh, khai thông nhập vào bản
thể không sinh không diệt, nhiếp dẫn cội nguồn Một cõi Đi và Về vô
biên tự tại.
1/4/2022
Nhuận Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét