Thứ Tư, 21 tháng 8, 2024

​Khói trời lộng lẫy

 Khói trời lộng lẫy

NƯỚC NHƯ NƯỚC MẮT

Đừng sợ hãi, dù vì nó mà người ta sống, chết… [1]
1. Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai.
2. Nhà chức trách nói rằng họ đang tìm sự thật nhưng có thể chồng Sáo đã lẻn lên bè rẫy Đại Thanh trộm tài sản của họ, lúc người ta bắt gặp đã xảy ra xô xát nhỏ, anh lao xuống sông định trốn, chết nước là chuyện rủi ro không ai ngờ… “Những người đầu tiên trông thấy xác chồng cô đều chứng kiến trên tay anh ta còn cầm một sợi dây chuyền vàng đã đứt”, nhà chức trách bảo vậy. Sáo nói không phải đâu, anh Thi chồng tôi chỉ muốn lén hái vài lá ngò. Nhà chức trách hơi xẵng giọng, chúng tôi dựa trên nhiều bằng chứng quan trọng. Sáo cãi không phải đâu, chồng tôi cần có chút ngò gai thôi. Họ kiên nhẫn kêu vài nhân chứng tới nói mấy câu chuyện ngập ngừng.
Sáo cãi phăng đi. Ngay khi Sáo ôm xiết chồng đang nằm thõng thượt trên cái bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chức trách, ngay khi nó vùi mặt mình vào cơ thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm, ràn rụa tìm kiếm hơi thở của anh núp trốn đâu đó, trong rún, trong mắt hay ở bên sườn. Khi lướt qua đôi môi dập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai. Trời đất ơi, chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa hái được. Anh vẫn chưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Người ta đang nhâm nhi ngò gai thì không ngó ngàng tới vàng bạc đâu, Sáo nói và xốc ôm chồng tha về ghe.
Dưới sạp ghe hai con cá Bạc Đầu đã chết. Cặp cá này sáu tiếng đồng hồ trước vợ chồng Sáo giăng lưới bắt được. Cá bị nước đuổi ốm tong teo nhưng chồng Sáo sướng quên trời đất, và như con nít, anh đứng múa may quay cuồng ở đầu ghe, kêu hết sẩy hết sẩy, nói phước đức ông bà để lại. Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đến vậy, đến nỗi nó đã chạnh lòng ngay lúc đó, anh đâu có từng tỏ ra quý mình như quý cặp cá này.
Cá Bạc Đầu luôn đi thành đôi, là loại cá rất hiếm hoi. Sục sạo như chồng Sáo cũng chỉ một lần thấy chúng. Má chồng Sáo hồi còn sống thường thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốt mật cặp cá Bạc Đầu thể nào cũng cấn thai. Bà hay ngồi ở cửa trước hóng coi trẻ con bên xóm đang chạy giỡn, tiếng thở dài của bà lửng thửng bay về phía Sáo nhoi nhói. Chồng Sáo cà rỡn, “bắt được cá Bạc Đầu rồi vợ con sanh một lần bảy đứa, cho má giữ mệt nghỉ…”. Má chồng không chờ được, lúc bà chết bên vách vẫn còn giắt mớ vỏ tỏi - thứ đàn bà đẻ dùng để xông da thịt cho thơm. Chồng Sáo vẫn phấn khích quăng chài xuống sông Sắc nuôi hy vọng, không hoàn toàn vì khao khát trẻ con. Chồng Sáo đã được ăn cá một lần hồi mười lăm tuổi mà mỗi khi anh nhắc lại nồi canh cá nấu mẳn, Sáo lại thấy nước miếng rỉ ra rưng rưng bên mép anh. Người Châu Thổ hay nói, bắt tao tả đau bụng đẻ ra làm sao chẳng khác nào kêu tả mùi vị con cá Bạc Đầu, tức là chẳng thể chia sẻ cảm giác với người khác nếu họ không tự mình trải qua. Sách “Bi ký” chép lại, năm 813 đã có một làng chài lưới bị tàn sát vì giữ lại cá Bạc Đầu mà không cống nộp cho vua. Một trăm ba mươi bốn người trong làng đã chết. Ba chồng Sáo quý cuốn sách đó như một gia tài nhưng nhà nó đã làm mất vào một bữa nước đột ngột dâng.
Giờ con cá của những đồn đãi, con cá huyền thoại, con cá vì nó mà người ta sống, chết đang nằm trong ghe nhà Sáo, đuôi màu xám đậm rồi phai dần cho đến phần đầu thì trắng muốt tựa bông lau chín. Cái chết cận kề không làm cho chúng thôi quấn quýt. Chúng chạm râu vào nhau khẽ khàng, như âu yếm như đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức. Phải, nước đuổi đã quá hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc bạc đi.
3. Mùa nước đuổi bắt đầu từ giữa tháng Giêng. Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn Tết trên ghe.
Cứ mỗi năm nước đuổi lại tới sớm hơn, mùa mỗi năm mỗi dài hơn. Tết chưa tàn vợ chồng Sáo đã lụi hụi dọn đồ đạc lên ghe, bông vạn thọ trồng trong cái khạp lủng để trước hàng ba còn chưa bung nở hết. Chồng Sáo cứ tiếc là ghe chật quá, không rinh cái khạp đó đem theo được.
Anh còn muốn bứng cả cây cỏ quanh nhà theo, nếu có thể. Nên trên ghe lủ khủ những bụi hành hẹ, sả, vài cây ớt, ít hẹ, ngò om… Mấy thứ cỏn con này hay làm chồng Sáo bận lòng, ăn cá chốt nấu cơm mẻ mà thiếu sả ớt, cá trê nướng mà không gừng… là anh băn khoăn lắm. Anh nói thà không ăn, chứ ăn vầy không đúng điệu.
Chồng Sáo ưa nói hai từ đúng điệu. Coi kìa, đêm nay trời trong nhưng trăng tròn quá nhìn không đúng điệu, phải khuyết chút ngó hay hơn. Nắng vầy mà có bóng cây để treo võng nằm chơi là đúng điệu. Con lá lóc này phải có rơm khô chất lên đốt nướng trui mới đúng điệu. Sống giữa trời nước bao la vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ mà tức.
Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khi đang ngồi ểnh ra, se miết mấy ngón tay da cổ làm đất rụng xuống lả tả. Gọi là tắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong sẽ tắm ướt bằng hai gàu nước. Nhưng có bữa chồng Sáo tắm cả xô, tắm đúng điệu. Chữ đúng điệu nhiều lúc làm Sáo sợ. Nhất là khi nghe bảo “em nằm day lại tui gãi cho đúng điệu cái coi”. Đêm nào trước lúc ăn nằm với nhau bao giờ chồng cũng gãi lưng Sáo, trong một trình tự lớp lang đúng điệu, bắt đầu từ lúc những ngón chân cọ vào bắp chân Sáo, sau đó này sau đó kia, anh nhẩn nha đến nỗi nó thiu thiu ngủ luôn bỗng nghe cái gì đó xộc tới chới với. Nó không thích vậy nhưng không dám nói, biết đâu vì cái khoảnh khắc chới với đó mà trẻ con không chịu ra đời.
Sáo còn hồ nghi vì hai chữ đúng điệu mà nhà nó nghèo. Gieo mấy giồng cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổ bán là không đúng điệu, nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau rách nát. Có năm trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo đòi bán cho thương lái. Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa căng bóng mới đúng điệu. Ai ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt dây dưa nổ lụp bụp như pháo, nứt vỏ hết. Trắng tay.
Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùng gần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào chân ruộng. Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo nhau lên ghe ở cho rồi. Cây trái tàn rụi, chỉ còn cỏ Đuôi Mèo là sống được, đem bán rẻ mạt cho những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới, chẳng được bao nhiêu tiền.
Chồng Sáo không lấy chuyện đó làm phiền, cả khi ôm cái lư hương cha mẹ rút lên ghe chờ qua mùa nước đuổi, anh vẫn làm mặt tỉnh queo. Cả xứ này bỏ đất mà đi chớ đâu phải chỉ nhà mình, chồng Sáo nói vậy. Chỉ một lần duy nhất chợt thèm ớt giữa bữa cơm, mà cây ớt đem theo đã chết queo, anh mới dựng đũa kêu trời.
Trời im ắng ở trên cao, trong ngằn ngặt, trong như nước mắt. Nắng quay quắt như vắt như vo con người thành những hòn đá khô khốc có thể lăn cọc cạch. Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đất vườn mình, cạnh mái nhà mình, lây lất sống nhờ chài lưới những con cá nước đục còn sót lại ốm ròm trên mình đầy ghẻ lở… sau đó thì tới đám cá nước trong len lỏi vào sâu trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đến nỗi cực ăn. Nhưng có bữa chỉ bắt được cá Sầu Ngư, đành ăn cơm với muối hột.
Sầu Ngư bình thường vẩy màu xám bạc chỉ nhẩn nha ăn bèo rong trôi dạt, đến nước đuổi thân cá trở nên đỏ thẫm. Chúng có thể sống tỉnh queo nhờ rỉa xác súc vật chết trôi, trong đó có cả xác người. Chồng Sáo vừa ghét vừa ghê sợ chúng, anh xỉa xói, “Cái thứ ham sống tới nỗi bất chấp tội lỗi…”. Sáo mắc cười quá, mắng cá mà như mắng người.
Sáo đâu có ngờ có ngày mình phải bảo vệ chồng khỏi miệng cá Sầu Ngư.
4. Chồng Sáo ốm teo, nằm gọn đeo trong cái hòm được ghép tạm bằng mấy tấm ván ngựa xóm giềng giúp mò lấy từ dưới nhà lên. Lúc lau rửa cho chồng, men tay theo từng tấc thịt da dường như đang tan chảy Sáo thấy buồn quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hòm xuống nước, lấy dây buộc níu vô cột nhà, chờ nước rút mới đem âm thổ. Vị mặn của nước ngấm vào sẽ làm chồng Sáo lâu tàn rữa, họ nói vậy.
Xóm giềng lặng lẽ tiễn chồng Sáo. Cũng mệt mỏi và đuối sức như những con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển, họ chới với khi bị bứng lìa khỏi đất, khỏi cái màu xanh rười rượi của cỏ cây. Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông…
Riêng chồng Sáo thì chết vì thèm rau. Hàng xóm bảo, không phải, nó chết vì nghèo đó chớ. Vì nghèo nên không đi ra khỏi cái xứ trần ai này được. Vì nghèo nên phải bỏ mạng vì gặp phải bọn cậy giàu coi sinh mệnh người như cỏ rác. Bứt mấy cọng ngò thôi mà, có phải thù oán gì cho lắm đâu mà nhẫn tâm quá thể? Sáo cũng muốn đi hỏi người của bè rau Đại Thanh câu đó. Sao vậy, tại sao, vì sao?
- Thời thế loạn rồi, đất không còn thì có thứ gì còn.
Ông bán xôi dạo thở hắt ứ hự. Ông nói bữa trước đi ngang bè rau nghe có tiếng kêu cứu, nghe trên đó rầy sao mầy không chết đi, sống làm chi mà làm khổ người ta. Không biết “người ta” là ai, mắc mớ gì tới cái bọn sống sung sướng trên cái bè rau đó.
Sáo nghe xong tưởng trong lồng ngực có thứ gì vừa đứt phựt, nó hức lên, anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. Ủa, vậy chồng mình chết chỗ khác thì mình đỡ đau lòng hơn sao? Sáo giật mình nghĩ vậy khi vừa khóc dứt. Trong nỗi ân hận Sáo ngồi dựa vách ghe, mong xóm giềng cứ ngồi chơi, nếu không muốn nhắc tới chồng nó thì cứ nói chuyện bâng quơ, chuyện những vùng đất cao cẳng xa xôi nước biển không bao giờ đuổi tới, chuyện ở đâu đó con chó đẻ ra con dê, cây dừa có chín đọt… Hoặc họ không nói gì cũng được, ca hát cũng được… Nhưng họ phải về, phải sống. Cuối buổi sáng là nhà chức trách xả nước ngọt ở các máy nước công cộng, không kịp chèo ghe đi lấy sẽ không có nước nấu cơm, tắm giặt…
Sáo chỉ còn một mình.
Một mình.
Sáo lết đi bắc xoong cơm lên bếp lửa. Cảm thấy tay áo giở lên còn không nổi. Bụng không đói miệng thì đắng nhưng Sáo phải ăn, để chờ người ta trả lời tại sao chồng nó chết. Đợi chán Sáo lại chèo ghe tới chỗ nhà chức trách thăm chừng, khi thì thấy vài anh say sưa chơi cờ, khi thì thấy một anh ngủ gục bên bàn làm việc kệ ruồi o e trên mép. Hỏi thì họ chưng hửng nói cô còn đợi sự thật nào? Như thể có rất nhiều sự thật nằm nhấp nhổm trong ngăn kéo, và họ đang chọn một cái sự thật hợp với tướng tá xơ rơ, túi áo lép kẹp của Sáo.
Hơi thất vọng, Sáo chèo trong chảo nắng mặn trở về, bỗng nín thở nhìn thấy cái lưng dài nhằng của chồng mình trên mái nhà. Em chồng Sáo mang nó về, cả đôi chân mày rậm. Nó thảng thốt hỏi chị Hai làm gì vậy. Sáo nói chị đâu có làm gì. Trời ơi chị xởn tóc chị xơ cờ kìa.
Em chồng nhìn Sáo như thể kêu Sáo nín đi, như thể Sáo xởn tóc là một cách khóc. Sáo chỉ gượng cười rồi luýnh quýnh đi nấu cơm cho em chồng ăn, bận bịu làm sự sống quay trở lại trong nó. Sáo đã quen sống và làm lụng vì ai đó. Như bà nội Sáo vì thương chồng mà bơi xuồng đi cưới hai bà vợ bé cho chồng, như má Sáo vì chuộc chồng khỏi núi nợ ở trường gà mà phải bán hết đất lên ghe sống lênh đênh. Năm mười chín tuổi, nghe má ao ước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy chồng. Lấy người má nó chọn, lý do “thằng đó có tới chục ngoài công đất”. Sáo nhìn thấy chồng lần đầu khi anh đang ôm con gà tre đi trên đường, miệng ngậm vung vinh cọng cỏ mần trầu, nó tự hỏi đây sẽ là chồng mình sao? Lễ ăn trầu uống rượu rồi, chồng vỗ mông Sáo, nó lại hỏi đây là chồng mình sao? Hôm cưới nghe chồng phả hơi rượu nóng rực vô vành tai, vẫn hỏi chồng mình đó sao? Nhưng lúc Sáo cài khuy áo lại, ngó cái người đang lật ra ngủ queo đó, nó nghĩ đây là chồng mình. Nghẹn căng ứ mũi.
Má Sáo vui lắm, gói ghém mấy lễ, bà mua hai công đất dành để chôn. Nhờ con gái hiếu thảo mà thím đổi đời rồi, má giả đò vu vơ khoe với một khách thương hồ quen, không lâu sau, anh ta cũng lấy con gái nhà giàu dưới chợ.
Nước đuổi vào sâu Châu Thổ, đất – thứ mà vì nó mà Sáo lấy chồng – trở nên vô nghĩa, như cái tên xóm Rẫy mà còn cái rẫy nào đâu.
Giờ đến cả chồng, Sáo cũng làm mất.
Em chồng rút trong túi xách ra bộ đồ tây mới cáu đặt cạnh đôi dép da mà nó đã mua cho chồng Sáo từ năm trước. Món quà còn nguyên niêm mạc, chồng Sáo chưa đi lần nào, anh nói chờ kiếm có quần áo đẹp mặc cho đúng điệu. Có lần đi chợ gặp em chồng, Sáo kể, nó buột miệng chửi thề, “Má, thằng cha cầu kỳ quá, con nhà lính tính nhà quan…”. Giờ thì em chồng im lìm ngồi vuốt mớ đồ của anh nó. Bao giờ chồng nhập thổ, Sáo sẽ chôn chúng theo.
Ngó cái cảnh đợi công lý của Sáo, thằng em chồng cười khào, con dao bấm trên tay cứ lè lưỡi ra tanh tách, sáng quắc. Nó nói “công lý ở trong tay mình mà, chị Hai…”
Em chồng đi giang hồ từ nhỏ, lưng em giờ đã hai mươi hai cái thẹo, đó là những lần em thực thi công lý hay bị công lý của nhóm giang hồ khác thực thi lên. Không thẹo người ta không biết mình dân giang hồ, em khoe vậy, giống như ở chợ hay gắn chữ văn hóa cho người ta biết là có văn hóa vậy. Em chồng cũng thường khoe công lý của em nhanh hơn, luật của em công bằng, sòng phẳng hơn. Không tin không được, nhiều lần nó tìm lại những món đồ nhà Sáo bị trộm lấy đi, dù chúng đã bị thay hình đổi dạng, bị tháo rã ra bán đầu một nơi mình một nẻo. Nó còn dẫn thằng ăn trộm về biểu, "xin lỗi anh chị Hai tao, mầy!", và thằng kia cun cút cúi đầu.
Nhưng đó chỉ là thằng trộm nhỏ thó hom hem, giờ em chồng Sáo sẽ đối đầu với một bè rau đông người lắm của. Em chồng đi rồi Sáo nóng ruột bồn chồn quá, như thể chỉ cần vo gạo rồi ôm cái nồi vào bụng, gạo sẽ sôi thành cơm. Mấy bữa sau nghe ở mấy máy nước công cộng người ta hể hả bàn tán, nói xe hơi của nhà Đại Thanh dưới chợ bị đập phá, tụi giang hồ còn đánh thuốc chết mấy con chó, tưới xăng định đốt biệt thự may mà nhà chức trách tiếp cứu kịp.
Bữa sau nữa, người ta rủ Sáo đi coi một bảo vệ của bè rau bị dìm chết. Sáo không đi, nó không chắc mình sẽ hả hê khi nhìn thi thể đó. Sáo sợ cái bàn lạnh ngắt giữa căn phòng lạnh ngắt, nơi hơi thở một con người bỗng dưng biến mất. Ở đó, biết đâu cũng có con đàn bà gột rửa da thịt chồng bằng nước mắt, mong gọi những hơi thở trở về.
Nhưng buổi tối hôm đó Sáo đã phải xuôi ghe tới văn phòng của nhà chức trách, vì em chồng Sáo. May phước, em chồng không nằm trên bàn mà bị trói gô, khiến cái lưng dài thượt gần như cuốn tròn lại. Sáo thở phào nhẹ nhỏm dù hoàn cảnh của thằng em hiện giờ rất cay đắng. Vậy mấy bữa qua Sáo đã bồn chồn lo lắng cho ai? Nó tự hỏi, người mướt mồ hôi lạnh. Ngó vẻ mặt đờ đẫn của Sáo, em chồng cố an ủi mà giọng nói cứ nghiến sít sìn sịt:
- Chị buồn con c. gì, tụi nó bắt tui như bắt cóc bỏ dĩa. Chỉ uổng là tui chưa kịp bẻ cổ thằng Giang.
Câu nói làm Sáo rúm ró. Sáo biết người đàn ông tên Giang đó, lầm lì ít nói, da ngăm đen mắt sâu, hai bàn tay đều chai. Và tóc gội sương gió cứng đến nỗi nếu ai đó để anh ta gối đầu lên đùi, họ sẽ nghe vừa nhột ran vừa đau nhoi nhói. Người đó đã từng hiền lắm, ngập ngừng mãi mới dám nắm bàn tay con gái, nhưng theo lời em chồng Sáo thì giờ anh ta đã đổi thay quay quắt như con cá Sầu Ngư. Sáo muốn đi tìm coi anh ta nhuốm đỏ tới mức nào.
Sáo sẽ đi. Nó quyết định vậy khi nhìn theo em chồng bị người ta đưa đi mất. Nhanh đến nỗi Sáo nhận ra công lý thật ra đâu có già nua hay chậm chạp hay đui mù. Sáo thấy mình vừa mất hết, cả người thân cuối cùng và chút niềm tin cuối cùng. Nhưng cái cảm giác đó thật sự rõ ràng khi nước bắt đầu rút, Sáo đào xuống năm lớp dá, rồi kéo cái thứ đất ngâm lâu bủng beo trong nước đó, đắp lên cho chồng.
Chờ những mầm cỏ Đuôi Mèo lún phún lên xanh, Sáo chèo ghe đến bè rau Đại Thanh. Nhắm mắt thì nó cũng chèo được tới cái chuỗi xanh ngằn ngặt ở ngã ba sông Sắc, chỗ sông Mê cắt qua.
5. Bè đang tuyển người làm. Những nhân công cũ sợ giang hồ đòi công lý nên xin nghỉ quá nửa. Sáo bị xua đuổi ngay khi trờ tới, họ nhận ra vợ của thằng oan gia bứt ngò. Nhưng vì người ta biết Sáo nên nó vẫn cắp cái nón trong nách nấn ná chờ. Hồi lâu có người kêu, cô kia tên gì để tôi ghi hồ sơ? Ông ta hỏi mà vẻ mặt thảng thốt như không hiểu cái câu vừa rồi sao lại tuôn ra khỏi miệng, như thể đang nghĩ mướn con này chẳng khác nào rước giặc vô nhà, sao ông chủ mình ngu vậy?
Cũng ngơ ngác, Sáo nói tên mình. Ngay lập tức trên danh nghĩa nó trở thành người của bè rau. Dù Sáo chỉ muốn tới hỏi người đàn ông tên Giang đó có thật đã muốn chồng nó chết không. Sáo nghĩ người đó sẽ im lặng hoặc nói không, vậy đỡ quá. Chối bỏ nghĩa là còn biết sợ hãi. Nhưng con rể của nhà giàu Đại Thanh, người quản lý bè rau mênh mông này, anh ta nói có. Anh ta nhìn thẳng vào Sáo, nói có, nó – đáng – chết…". Anh ta vẫn rám nắng chắc chắn vạm vỡ như năm bảy năm trước, mắt vẫn rười rượi sâu. Mặt anh ta phẳng lặng, giọng cũng đều đặn thản nhiên, mà buốt nhức:
- Em sẽ làm gì tôi?
Sáo chết trân. Nó không biết. Nó đinh ninh là anh ta sẽ chối bay chối biến và nó cắp nón ra về, an ủi mình đã tìm được sự thật giống như sự thật. Nhưng anh ta thừa nhận, trâng tráo như Sáo không thể làm gì được. Sáo sẽ chạy tới nhờ nhà chức trách đang ngủ gục hay sẽ đòi công lý bằng dao bấm giống như em chồng?
Ngơ ngác, Sáo bỏ đi. Vài ba bận chèo ghe trở lại, cũng chừng ấy lần lủi thủi quay về, Sáo nghi chắc tại phải chèo xa mệt mỏi nên sự căm thù hao hụt. Nó quyết định ở lại làm công cho bè rau. Ở đây nó sẽ tích tụ được những cơn giận dữ, đến khi chúng căng chật, nổ tung thì đường đến căn phòng của tên gian ác cũng gần.
Và nơi này làm cho Sáo không bao giờ nguôi oán giận. Sáo gánh nước tưới những giồng ngò gai và tưởng tượng cái tối chồng mình khoái chí nhấm nháp chúng, chắc anh không kịp rửa, chắc trong cái vị cay nồng có lẫn oi oi mùi rơm mục. Sáo ngồi bó rau bồ ngót ở sàn nước và nghe gan bàn chân tê tái bởi ý nghĩ chồng mình đã bị người ta đánh đập, lăn lộn đau đớn ở đây (dựa theo sự thật của ông bán củi). Trầm mình dưới khúc sông bên hông bè để ủ rơm tươi, Sáo đánh dấu lên dòng nước chỗ người ta đã dìm chồng nó xuống (vịn vào sự thật của thím bán bánh dừa).
Có lần lửa bùng lên tới mặt, Sáo đã chạy tới căn phòng đó, khi xô cửa bỗng bàn tay Sáo chui tọt vào vạt áo. Một đứa trẻ đang ngồi trong lòng người đàn ông, nó đang vùng vằng cằn nhằn cha không biết chải tóc làm đầu nó đau lắm luôn. Anh ta nhác thấy Sáo liền nói, “cô để lần sau…”. Ừ, Sáo không muốn khi xiên con dao trong túi nó qua ngực người đàn ông đó lại có đàn bà và trẻ con trông thấy. Đi men theo những giồng gừng về dãy nhà ngang nơi dành cho những người làm công ngủ, tiếng con nít thỏ thẻ vướng chân làm Sáo trợt chân té sấp. Nó gượng bò dậy khỏi những vũng nước săm sắp, nghĩ phải chi mà vợ chồng nó cũng có đứa con như vậy, chắc bọn nó sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau, sẽ không phải tìm kiếm mỗi đêm dù nó mệt đến rã rời, chỉ muốn ngủ thôi. Và đứa con sẽ làm Sáo thôi nhớ tháng ngày trôi nổi.
Trưa thứ bảy ca nô đưa trẻ con ra bè, chiều chủ nhật trẻ con vào trong chợ. Vợ của người đàn ông, tức bà chủ của Sáo thì tới bè mỗi buổi chiều, lúc các máy nước công cộng đã khóa chặt và những người không lấy nước kịp sẽ ghé qua chỗ chị ta mua nước với giá cao. Cuối chiều cho tới nửa đêm, thương lái nườm nượp tới để giành giật nhau từng bó rau, chị ta đứng bán rồi sáng hôm sau cũng biến mất sau con đê kiên cố sừng sững như tường thành bọc quanh thành phố. Nó cao tới mức những người lam lũ như Sáo cảm giác bị bỏ rơi, bị rời ra, thấy mình nhỏ nhoi như kiến, cỏ. Nó nhắc nhớ nắm xương của ba Sáo đã lạc mất bên dưới tầng tầng lớp lớp nhà cao. Nó nhắc nhớ ba mươi sáu bậc thang mà Sáo đã dò dẫm từ mặt đê xuống ghe cùng với xác chồng.
Nên nhìn thấy bà chủ là Sáo nghe giận. Chị ta cứ lai vảng hoài nên mỗi tuần Sáo chỉ còn lại chừng bốn mươi tiếng đồng hồ để tiếp cận kẻ thù, mà không phải lúc nào kẻ thù cũng ở một mình, bởi người làm công cứ dập dìu qua lại. Trắc trở nhiều khi đến từ trong Sáo, bởi đôi lúc đứng nhìn một vạt cải con xanh non, đôi lúc đi ngang giồng quế đang trổ bông, hay bước chân giẫm lên một lá gừng già… mùi thơm nồng nàn làm người Sáo lỏng lơi ra, nhẹ bỗng. Vậy đâu có được. Nó ở đây để đòi công lý cho chồng, sao lại quên chỉ vì mùi hương của những thứ cỏ cây này.
Nhưng trước những đọt ổi non, những giồng rau húng lủi, đống rơm mới…Sáo vẫn không cầm lòng nổi. Sáo đã nhớ chúng biết bao nhiêu, từ khi nước đuổi lấp ló phía chân trời.
6. Sáo sống gần như đơn độc trên bè. Thui thủi. Bạn làm công dè dặt, đám bảo vệ canh chừng, và Sáo biết mình đi đâu làm gì cũng có người ngó theo, khi da diết khi mãnh liệt, khi hờn mát khi chua chát. Có cảm giác người ta rọng nó ở lại bè rau chỉ để Sáo quẩn quanh trong tầm mắt, nó không phải thả ghe chơi vơi chài lưới chật vật kiếm sống trong mùa nước đuổi.
Sáo hơi tuyệt vọng, nó vẫn chưa trả được thù chồng. Người xóm Rẫy ghé qua bè mua rau đổi nước cắt Sáo bằng ánh mắt căm ghét đến rát mặt, ý nói "thứ người gì tệ bạc, đi làm tôi mọi cho giặc...". Sáo càng nôn nóng, sợ năm dài tháng rộng mớ màu xanh ngằn ngặt trên bè sẽ loang hết mảng tím bầm trong lòng nó. Vậy đâu có được. Nhưng kết thúc bằng cách xiên một mũi dao thì quá dễ cho anh ta. Cái cảm giác sống mà mất hết, nhìn thấy mọi thứ chung quanh tàn rữa mới ghê. Nhưng những thứ mà kẻ thù yêu quý Sáo đều không thể chạm vào. Trẻ con, đàn bà, và cả những giồng rau trái thênh thang trên bè - thứ mà mùa nước đuổi trắng xóa những chân trời, chúng là vàng. Có thể anh ta còn thứ quý giá hơn, Sáo đang tìm kiếm. Nó tới gần anh ta hơn, tới mức có thể nghe giữa những cơn nín thở là tiếng nuốt nước bọt lục cục trong cổ họng. Có lần vô tình cùng khiêng chung một cái lu, Sáo bỗng thấy cảnh này sao giống đôi vợ chồng đang chuẩn bị đón mưa đầu mùa, ý nghĩ làm nó giật mình buông tay làm lu rớt xuống mấy ngón chân anh ta tươm máu. Sáo đau, đến nỗi nó tin rằng nếu lưỡi dao thấu qua ngực anh ta chắc nó là người gục xuống.
Phát hiện đó làm Sáo về luẩn quẩn gần mộ chồng ân hận cả ngày. Oán đong đầy lại. Sáo bắt đầu ráo riết tìm kiếm, bằng cách nhìn rười rượi vào mắt anh ta mỗi khi chạm nhau giữa mấy luống cà chua, dưa chuột. Bằng cách vu vơ hát lên một câu hát cũ, hoặc ra ngồi nhìn trời nước chỗ cây quao. Trời ơi, khi mà mỗi tấc đất trên bè này đều là một tấc vàng, thì người ta bứng trồng lên đó một cây quao, chẳng làm gì cả, trái không ăn được lá lại hôi rình.
Anh ta không thèm giải thích. Con người kỳ cục đó hùng hục làm giàu, nhưng có khi Sáo thấy anh ta đứng ngó bạn hàng vây quanh vợ mình, ngó những xấp tiền xập xòe bằng cái nhìn trống rỗng, tựa như chúng vô nghĩa. Dù nhiều tiền thì gì cũng có, có cả nhà chức trách hồ hởi ghé chơi. Bạn làm công lâu năm vui miệng kể hồi lập bè anh ta cũng chỉ nói với vợ một câu, “tôi ra sông làm rẫy, em ưng thì theo…” Bè dứt khoát phải đặt ở ngã ba sông Sắc, người xóm Rẫy đi chợ đằng nào cũng phải ngang qua. Vợ anh ta nghĩ chắc chồng nhớ sông, nhớ quãng đời lênh đênh nên quyết ra bè sống. Sau này nước đuổi, rau trái quý như vàng, bên nhà vợ khen con rễ biết nhìn xa trông rộng. Sáo nghe chuyện nghĩ, thì anh ta hại chồng nó chết mà có giải thích gì đâu.
Mỗi khi nhìn những bông quao trắng muốt, Sáo nghiến ngầm trong bụng, thằng gian ác thằng gian ác, mình căm thù mình căm thù mình căm thù. Như thể không đinh ninh vậy thì Sáo sẽ coi anh ta như người yêu cũ mất. Vậy đâu có được.
Một bữa người ta cho phun thuốc khắp nơi trên bè. Mọi bán mua vốn đang tấp nập bỗng dưng ngưng bặt. Bà chủ của Sáo cũng không trèo đê ra với chồng. Tắm đêm giữa chừng Sáo để nguyên quần áo ướt xông vào căn phòng người đàn ông đó. Anh ta nằm im lìm như mặt ao ngày không gió, cả khi bọc tay nó trong bàn tay chai cứng vì từng chèo chống sông hồ.
- Em đi với tôi nghen…
Sáo muốn khóc. Câu nói này Sáo đã nghe lần đầu dễ chừng bảy năm trước, hồi chưa lấy chồng. Sáo đùng đưa chân khỏa nước trên sông, nói má em bệnh không ai lo. Lần thứ hai ngồi dưới chòm quao lập lòe đom đóm, nó nói má em nhận lễ của người ta rồi. Lần thứ ba là vào một mùa mưa, bữa đó đi chợ, đứng đụt mưa ở hiên nhà người ta, gió tạt làm hai ống quần sũng nước, Sáo bỗng nghe ai đó nói “em đi với tôi nghen…”, như tha thiết như thương hại, xót xa… Nó đi hết chặng đò rồi, về tới nhà vẫn còn nghe. Chục bữa sau vẫn nghe. Sáo không đi chợ nữa, cần gì thì chồng đi hoặc nhờ hàng xóm tiện thể mua giùm.
Nhưng Sáo có cài bao nhiêu cửa, có ngồi miết trong buồng thì vẫn nghe “hãy đi với tôi…”. Bằng thứ âm thanh chỉ mình nó biết, nó nói đâu có được, tui mắc nấu cơm cho chồng tui, người khác không biết ý ổng nấu ăn sẽ ấm ức lắm. Như bữa ở chợ Sáo nói mắc đi mua chỉ về cho chồng vá chài. Sáo luôn phải bận bịu, vướng víu vì ai đó, dù đôi lúc giữa đêm Sáo mặc lại áo, nó nghĩ nếu đi với Câu Nói thì giờ chắc mình được ngủ rồi.
Lần cuối cùng Sáo nghĩ tới chuyện nắm tay Câu Nói ra đi, là khi chồng Sáo nhảy lên chiếc xuồng câu bơi đi hái trộm ngò gai nêm canh cá Bạc Đầu. Nhìn theo anh rẽ lân tinh lấp lánh như con tôm mon men vào ven đó, Sáo nghĩ, nếu con cá, cọng ngò có thể làm anh vui vẻ tới vậy, thì không nó cũng không sao. Nó muốn có một đứa con được tạo thành bởi tình yêu chớ không phải bởi phép màu của cá. Đang nghĩ bùi ngùi bỗng có người tới gọi, chồng bây bị người ta đánh té xuống nước chết queo rồi. Sáo chôn cất cuộc đi, vì mắc tang tế, đòi công lý cho chồng, cúng quảy người nhà chồng. Chớ ai.
Hôm đó, Sáo chôn cất luôn những ý nghĩ chạy trốn vẩn vơ. Giờ người đàn ông này lại bảo, “Em đi với tôi nghen – Cũng câu nói hôm xưa, giờ nhuốm màu vô vọng – Chồng em có còn đâu…”. Sự vô vọng của năm chữ đằng sau phả hơi lạnh tới cả cái gật đầu của Sáo, ừ thì đi.
7. Cả hai không xếp hành lý, thậm chí không lấy ghe, cứ ào xuống nước bơi về phía bờ mà ai cũng biết là đã không còn bờ từ nước đuổi. Sau lưng, bè rau càng lúc càng rực rỡ. Ngọn đèn chong Sáo kê sát vách mùng giờ chắc đã bén lửa lan vào tận những đụn rơm phía ngoài. Người đàn ông bơi cạnh Sáo không một lần ngoái lại. Sáng hôm qua khi tiễn con gái nhỏ trở vô trong chợ, anh ta đã xiết nó đến nỗi nó kêu đau. Như không có lần sau. Giây phút đó Sáo nhận ra thứ anh ta quý nhất, đến nỗi sẵn sàng từ bỏ tất cả để có được. Là Sáo.
Nó rớt nước mắt. Đi cùng nó có gì vui đâu mà người này cứ đòi phải đi cho được, bảy năm trời không chịu thôi. Ừ vậy thì đi. Hai đứa bơi mãi trong ánh lân tinh réo rắt dìu dặt. Nước tràm trụa trên mặt, nước mặn xót mấy cái chân răng. Bơi đến kiệt sức, đến trống rỗng, đến mức có thể chìm trôi, có thể quên hết quá khứ. Chớ Sáo biết đi đâu với người đã vô tình làm chồng nó chết, bởi một cơn nóng giận, bởi một lầm lẫn, tưởng đạp rào là sẽ được bước qua.
Quanh hai con người đau đớn, cá Sầu Ngư đang nhơ nhởn họp bầy.
… Đoạn, có người hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi không biết, tôi đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi.
Chú thích:

[1] Từ Bi Ký.

 

CÓ CON THUYỀN ĐÃ BUÔNG BỜ
Đàn bà, hễ mũi xấu thì mắt đẹp, mắt mũi xấu thì miệng đẹp, mặt xấu thì dáng đẹp, người xấu tâm hồn đẹp. Bằng cách này hay cách khác, họ cứ phải đẹp. Lúc giận cũng đẹp. Nho nghĩ vậy, trong lúc chạy xe theo chở Bế đi chợ.
Lúc đó Bế dùng dằng đằng trước, lưng cong, tay đánh đằng xa ngúc nga ngúc ngoắc. Cô đang bực mình. Hôm nay anh chủ về. Mà lúc nào cũng vậy, chưa thấy người đâu thì điện thoại đã rộn ràng, bảo muốn ăn món này món này. Anh chủ về được bảy ngày, cái thực đơn cũng dài ngoằng hai mươi mốt món. Anh nói với chị chủ, giản dị thôi em, anh thèm lẩu mắm ăn với rau đồng, kèo nèo bông súng, bánh xèo mà có đọt xoài, đọt lụa thì thích. Anh đang nhớ món lươn um lá nhào muốn chết được đây, cháo cá lóc nữa… Bế nghe nói lại, chỉ nhẩn nha hỏi “Mà ổng có nói nhớ chị không?”. Chị chủ ngẩn ra, lắc đầu. Bế nổi quạu, “Vậy ổng về là do ổng muốn ăn chớ đâu phải nhớ vợ con. Đàn ông sao mà tệ… Thôi, đừng có nấu nướng gì mắc công”.
Nói vậy nhưng mới mờ sáng Bé đã lên tiếng vói vào phòng, “đi chợ à…”. Tiếng dép ngún nguẩy lép bép trên mặt sân. Chị chủ nhoài đầu nhìn ra thấy Bế đứng bên ngoài loay hoay, xủng xoảng dập cánh cỗng, bộ đồ thun bông tím nhập nhòa với giàn bông tỏi tím, như hoa trên cao đang rơi xuống người cô. Chị chủ kêu thằng em mới vừa ngủ dậy, “lấy xe chở chị Bế đi chợ…”
Mỗi cuối tuần, không đi làm, Nho hay đưa Bế đi chợ. Coi như sáng đó vui. Nho đậu xe ở gần đó, mua tờ báo để đọc lúc ngồi chờ, nhưng đôi khi chẳng đọc chữ nào vì mãi nhìn Bế. Cô thường đủng đỉnh đi ngược xuôi mấy vòng chợ, tung tăng như là đi dạo công viên. Cô rờ rẫm mấy trái dừa khô đã lột vỏ chỉ còn cái chóp nhỏ, cô cầm bó rau ngót lên rồi đặt xuống, cười ỏ ẻ với chị bán hàng, “nhớ vườn rau dưới quê quá…”. Nói rồi cô đi nựng nịu mấy trái khế của bà già kế bên. Có khi cô đi khỏi mấy trái bình bát chín đó rồi, cô bèn lùi lại mấy bước chân để nhìn cho kỹ. Việc không quay người lại đôi khi gây phiền, cô đụng vào người đi đằng sau.
Chợ họp ở trên một bờ kè cũ kỹ nằm dọc theo bến sông. Ai ngồi bán chỗ nào thì xuồng ghe xuồng buộc vô cái cọc đằng sau lưng. Phía trước là con đường đông đúc người xe qua lại. Bế lọt vào cái nơi chộn rộn nửa chợ nửa quê đó là trở nên hồn nhiên và lơ đãng. Ở nhà là một Bế khác, chỉn chu và nề nếp. Chút nữa anh chủ về chắc sẽ bị Bế rầy rà mấy câu vì đã không nói rằng anh nhớ vợ. Tính Bế vậy, thẳng đuột, nghĩ gì nói nấy. Rửa nước chợ ba năm rồi vẫn chưa hết quê. Anh rể của Nho cũng ngại cô giúp việc này, mấy lần về thăm nhà, gặp bạn cũ nhậu nhẹt, Bế cằn nhằn ngay, “Đi suốt. Có chút xíu thời gian cũng không dành trọn cho vợ con, cũng đem đi chia chác cho bạn bè…”. Anh ta ấm ức lắm, nhắc khéo, “giờ không biết ai là chủ nữa…”. Bế nguýt suýt rách đuôi mắt, có miệng làm chi mà thấy sai không nói…
Bế không giả vờ quỵ lụy, sợ sệt vì chút tiền công, cũng không mặc cảm cái vị trí nhỏ nhoi của mình, cô cứ ngang phè vậy. Có những ngày trống rỗng, con đến trường, chồng đi công tác, chị chủ buồn quá vô bếp nấu món này món nọ. Chị không cho Bế làm gì nhưng cô cứ lẻo đẻo đi theo. Trời, cháy chảo tôi hết rồi. Sao để khói dữ vậy, đen mấy cái đít nồi. Cái này bằng thủy tinh đó chị Hai, nhẹ tay giùm em cái. Hủ đường không phải để chỗ đó… Bế đứng đằng sau, tay chống nạnh, luôn miệng càu nhàu, như gian bếp này là của cô, những vật dụng kia là của cô, thắc thỏm như thiên đường của mình bị kẻ lạ xới tung lên. Chị chủ thì nhễ nhại mồ hôi, tóc rối xù lên, mặt mũi bê bết bột, trứng. Nho mắc cười, thấy chị gái mình giờ trở thành người giúp việc, bị hiếp đáp, cơ cực đáng thương.
Nho đi sớm về khuya, mấy lúc hiếm hoi ở nhà gác sách lên bụng nghe Bế đưa võng rọt rẹt phía sau, ca “Lá trầu xanh”. Đến câu cuối cùng, “mưa thu lạnh buốt khung trời, anh phụ em rồi em còn biết tin ai…” thì lần nào cũng vậy, nghe hụt hơi, nghe có chút nghẹn ngào. Có lần chị chủ hỏi sao buồn vậy, Bế nói, “bài buồn phải ca giọng buồn…”. Chị chủ cười, hay là nhớ người yêu dưới quê rồi. Bế đủng đỉnh đứng dậy, phủi đít vài ba cái, nói đi lau cầu thang, bụi quá sức.
Bế giữ trong lòng một vài bí mật, ngoài chuyện ai cũng biết: ba mươi hai tuổi, nhà trong đập Láng Cháo, cách thành phố này bốn giờ đi đò, thêm nửa giờ lội bộ. Chưa chồng, có vẻ ghét đàn ông. Không may Nho cũng nằm trong số đó, nên hay gặp phiền phức nếu lỡ đặt đôi giày không đúng chỗ, quần áo lộn xộn, sách vở để lung tung. Có lúc Nho cố tình bừa bộn để nghe Bế càm ràm cho vui. Nho cho rằng, chỉ có ai đó ôm ghì lấy Bế một lần, thì mới mong cô hết quay quắt, khắt khe. Trên đường qua chợ, ý nghĩ đó làm Nho buồn cười. Bế không hay gì hết, vẫn chị chị em em, ra vẻ người lớn, “bữa nay chờ hơi lâu nghen, cậu vô quán uống nước đi…”. Rất chị. Cũng phải, già hơn hai tuổi mà.
Bế vào chợ một mình, trong lòng bực bội đã tiêu tan. Cứ thấy những chị trong đồng ra, buôn bán thật thà, mặt mũi lam lũ là cô cảm giác đang ở quê nhà. Nên cái chỗ eo sèo đông đúc này cô coi như nơi chơi giỡn, như mọi khi. Và cũng như mọi khi, cô lơ đãng giẫm lên chân một chị, trong lúc lùi lại chỗ bán thớt mù u mà cô vô tình đi qua khỏi. Chị kia cong cái môi màu trái giếc lên, hỏi mắt để ở đâu. Thường thì nó ở trên mặt, nhưng giờ mắt Bế dán vô chỗ người đàn ông đang ngồi với những thớ gỗ tươi còn dính dấp mùn cưa, đứa bé gái ngồi dựa vào hông anh tay vịn chặt buồng dừa nước. Chỗ của họ còn bày thêm mấy nải chuối xiêm vừa chín tới. Bế hỏi vống lên, “chuối này bán sao đây?, sau khi dựng vai lên, cô nhận thấy nó chảy xuống thiểu não quá, không đẹp.
Anh nọ ngẩng lên, cúi xuống, lại ngẩng lên, rồi lần này thì cúi xuống lâu hơn, nói giá tiền lục bục đâu đó trong miệng. Bế trả giá bằng giọng xẵng lè, nhận được một cái lắc đầu. Bế lại nhón ngón tay ấn miết vô một tấm thớt, như đây là con cá chứ không phải là gỗ, chưa hỏi giá cô đã ngang phè chê đắt. Mặt cô tỉnh bơ có vẻ không tha thiết mua. Mặt anh nọ cũng lầm lì không tha thiết bán. Chỉ đứa nhỏ nhìn Bế, nó hỏi giọng đờ đẫn và khẽ khàng, mua dừa không cô?
Tất nhiên là không rồi, sáng nay Bế đi chợ để tìm lá chùm ruột non để ăn kèm món mắm lóc trộn thịt, nếu có bông so đũa thì mua một mớ về nấu canh chua. Bế không biết làm gì với dừa nước, với thớt mù u và những nải chuối xiêm thưa trái kia. Nhưng Bế không nỡ lắc đầu khi nhìn đứa nhỏ, cô nói:
- Mới năm sáu tuổi mà lanh quá… Giống ai mà lanh vậy con?
- Giống má.
- Ủa, má đâu không thấy?
Con nhỏ định há miệng ra trả lời thì người đàn ông xốc nách dựng thẳng nó dậy. Nó đờ ra, quên luôn. Bế không hỏi lại, cô muốn bỏ đi đi tìm lá chùm ruột, vì thím bán khoai lang ngồi cạnh đó đang ngó cô cười:
- Đừng thấy đàn ông ngồi chợ là xáp lại chọc ghẹo nghen…
Bế cũng cười, thấy lưng mỏi rã ra, vì đã phải dựng lên lâu quá, cô muốn thả nó trôi xuôi. Nhưng như vậy thì cô sẽ không có cái dáng dấp thong dong thành thị, cô lại ưỡn ngực và thẳng lưng lên. Bế giữ cái dáng đi mà cô cho là sang trọng, đủng đa đủng đỉnh ngược hết chợ, rồi lại quay xuống. Cô ngơ ngác ngiêng ngó, đâm sầm vào vài người trước mặt mình. Hôm nay chợ đông, và cô cứ bị xô tới, xô tới chỗ hai cha con anh thớt mù u. Cô thấy họ đang lóng ngóng dường như muốn dọn hàng đi. Bế kêu lên:
- Ủa, sao bỏ về sớm vậy? Tôi muốn mua cái thớt mà. Anh bào gọt kỹ giùm. Bao nhiêu tiền cũng được…
Người đàn ông ngó trân vào Bế một thoáng, có lẽ nhận ra cô không nói chơi, anh trùng trình ngồi lại, lục lọi cây bào cóc. Cái thớt xù xì, vỏ cây còn bọc quanh (để cho người ta tin đây chính là mù u thứ thiệt) đã giữ người đàn ông nán lại thêm chút nữa. Bế hài lòng, chẳng tỏ ra nôn nóng, dù nắng đang lên, dù bao nhiêu công việc đang chờ cô ở nhà. Cô thản nhiên ngó quanh, lúc nhìn xuống chân bỗng dưng thấy tiếc. Sáng nay cô chỉ mang đôi dép nhựa. Sáng nay cô mặc bộ đồ thu tím rẻ tiền. Lẽ ra cô thay quần jean, áo thun, chân mang giày. Và điện thoại đi động nữa, lạ thiệt, sáng giờ không ai gọi cho cô (mà có ai ngoài chị chủ đâu). Bế nghĩ, giờ mà điện thoại cô reo một cái, cô sẽ tặng cho người gọi vài triệu xài chơi. Bế muốn gọi cho ai đó, sực nhớ từ ngày chị chủ cho lại cái điện thoại cũ này, Bế chỉ dùng chơi game và… nghe. Tài khoản trống rỗng, không còn tiền gọi đi. Nhưng Bế vẫn nhẩn nha rút điện thoại trong túi ra, nhón mấy ngón tay bấm vài phím bất kỳ, nhẩn nha nói với chính mình, em đây, em còn ở chợ, chút nữa em về, đừng có trông, vậy nghen.
Bế nhận ra mình chỉ có một khán giả duy nhất, là con bé gầy gò kia. Nó nhìn cô đăm đăm, mắt dại đi. Không phải vì say mê, mà nó đang sốt, đến đờ đẫn. Đôi môi nó đỏ nhừ, khô căng, như sắp rỉ máu ra. Bế kêu trời đất ơi, con nhỏ bệnh hả? Anh nọ day qua nhìn con, lặng lẽ cúi đầu. Bế lại trời đất ơi, anh làm cha kiểu gì vậy? Có cho nó uống thuốc chưa? Sáng giờ ăn uống gì chưa? Người đàn ông lại cúi đầu sâu hơn. Như thể anh mà ngước lên thì ánh nhìn Bế sẽ làm anh cháy mất, biến thành tro mất.
Bế khẳng khái kéo con bé lại với mình, cô xốc nó đi tới một hiệu thuốc chếch bên kia đường. Cô đi xấp xãi, lưng cong và vai xuôi. Con bé cứ nhìn cô rồi ngoái lại nhìn cha nó. Anh ta không chạy theo níu lại, anh ta chỉ trố mắt ngó theo. Bế mặc kệ, cô nắm bàn tay nhỏ nhắn và nóng ran của nó đi len giữa người, giữa xe, giữa ồn ả, giữa xô đẩy. Cô không cười khi nghe ông dược sỹ hỏi “Con chị bị làm sao? Ấm đầu bao lâu rồi?”.
Nho đứng bên đường, né nắng chỗ mái hiên của cây xăng, âm thầm coi kịch. Nữ diễn viên chính không thèm diễn vai thị dân nửa mùa nữa, để lại cái sân khấu là buổi chợ nghiêng nghiêng nắng, nháo nhác những gương mặt người. Lát sau, Bế quay lại với đứa bé đã hơi tươi tỉnh, sau khi ăn cháo, uống thuốc. Lúc ở quán nó còn bắt chuyện với cô, vẫn nhớ đã nợ cô một câu trả lời:
- Má con ở nhà, mới sanh em bé nhỏ xíu.
Bế ờ ờ, lúc đầu Bế tưởng má nó đã bỏ đi. Chuyện này hay xảy ra trong phim, vì không chịu được nghèo khó, chật vật, không chịu được những va chạm vụn vặt nên vợ bỏ nhà, để lại vài đứa con nheo nhóc. Chồng hối hận lắm, vừa nuôi con vừa nhớ tiếc mấy người con gái mình đã từng thương. Chồng thấy phải mình lấy cô kia thì may phước quá. Cô đó có xấu chút xíu, nhưng nghèo khó chịu quen rồi. Cô đó chắc lẳn, gọn lỏn như hột mít…
Bế thấy xao xuyến, bỗng dưng nhân vật tưởng tượng trong phim đó sao mà giống… cô. Cô còn tính chút nữa cô sẽ xuống chiếc ghe nhỏ, cùng về với cha con họ... Ý nghĩ kỳ cục làm cô bật cười trong lúc dùng mấy ngón tay chải tóc lại cho con nhỏ. Trao nó lại cho anh, cô thấy đôi mắt đứa nhỏ giống hệt ba, cả đôi mày rậm rì như có hai con sâu róm đen thủi bò ngang qua trán. Bế bỗng nói:
- Thôi cứ ngồi lại buôn bán đi, đừng để ý tôi, tự ái khỉ khô gì – Cô hất mặt về bên kia sông – Tôi đi về.
Người đàn ông chìa cho cô thớ gỗ, anh nói anh biết sự xuất hiện của mình đã làm cô mất vui, “Khỏi trả tiền, em đem về, lúc nào rảnh rỗi lấy dao ra băm nó như băm… thằng nào làm em buồn…”.
Bế ngó anh ta ỏ ẻ cười, hỏi nhỏ, ủa, làm vậy là hết buồn hả? Dễ ợt vậy sao? Nhưng cô vẫn sẽ sàng nhận lấy, cầm về, coi như kỷ niệm về một buổi chợ, kỷ niệm của hai cha con một người ở quê ra mà cô tình cờ gặp, kỷ niệm về một vùng đất xa xôi nào đó, có những cây mù u mọc hoang dại trong những bờ vườn, bãi sông, có những người con trai con gái e ấp khắc lên cây lời thề nguyện vợ chồng... Cô nhìn người đàn ông lần nữa, dịu dàng vuốt má con bé, chào tạm biệt nó rồi đưa tay ngoắc Nho.
Chở cô một đoạn, khi xe xuống dốc cầu, Nho bắt chuyện:
- Lúc nãy gặp lại người yêu cũ hả?
- Ủa, sao biết hay vậy? – Đang sững sốt, Bế bỗng trở giọng – Đâu phải.
“Giỡn chơi. Không phải thì thôi”, Nho nói, cảm giác gáy mình buồn buồn. Bế đằng sau thở ngập ngừng từng lát, từng lát mỏng. Bàn tay vịn vai Nho rất lạnh và hơi run. Ôi những người đàn bà, hễ mặt mũi xấu thì tay chân đẹp, cổ xấu thì lưng đẹp, người xấu thì tâm hồn đẹp. Bằng cách này hay cách khác, họ cứ phải đẹp. Lúc buồn cũng đẹp.
Hôm đó Nho lại nằm gối tay lên đầu lẩn thẩn lắng nghe trong bếp Bế nói dịu dàng, Bế cười nhẹ nhỏm. Trong cô có nỗi vui nào đó đang ngấm đầy dần, đầy dần. Buổi chiều, Nho giúp Bế bắc cái giàn cho mấy dây thiên lý leo qua khoảng sân, chợt cô nói nhỏ, “cây mù u ở góc ao mà chị với ảnh hay hẹn ra ngồi nói chuyện, ảnh cũng đốn rồi, thì chị còn nhớ thương chi nữa…”.
Từ đó, Nho không còn nghe Bế ca “Lá trầu xanh”.
TÌNH LƠ
1. Lâu rồi, má tôi có đi coi phim Công lý báo thù người ta chiếu đằng sân Xã ủy. Dượng Bảy (lúc chưa phải là dượng Bảy) bữa đó cũng coi chung, ngồi kế bên má, gần cái phông vải lớn. Coi hát thì chỗ này là ngon lành nhất, nhìn đào kép rõ, mụt ruồi giả của họ bị rớt, hoặc áo vua rách mình cũng thấy, nhưng đây là chiếu bóng, cái phim từ đầu tới cuối chỉ ca hát với đánh nhau. Cứ mỗi lần nhân vật ra đòn là má tôi né, thấy máu má tôi che mắt kêu trời, tới cảnh mấy con trăn rắn lớn bò tới thì khán giả đều sụt lùi ngã rạp sắp lớp lên nhau la ó ré. Má tôi sợ tới quên trời đất, dúi mặt vô lưng người thanh niên lạ hoắc bên cạnh, tức dượng Bảy. Khi phim gần hết, nam nữ chính múa hát ứ ư thì dượng Bảy đã chính thức chạm vào ngón tay út của má.
Hết phim má tôi để lại một cái lông ngỗng, em là cháu ông xã Nghiệp, rồi chìm mất vào dòng người. Năm bữa sau dượng Bảy (lúc đó sắp là dượng Bảy) nhờ một người bạn của ông ngoại tới nhà. Bữa đó má tôi chở mía đi lò đường để ép, dì Bảy ở nhà nấu cơm. Bạn già của ông ngoại khều dượng Bảy hỏi, “mầy thương đứa đó hả?”. Dượng ngó cái người thấp thoáng trong bếp, thấy cái eo thon, đuôi tóc dài, gương mặt nhỏ nhắn xinh xẻo, trên môi lúc nào cũng nhoẻn cười, dượng tưởng người quen liền gật đầu. Tới đám ăn trầu uống rượu mới hay dì Bảy có người chị sinh đôi, tức là má tôi. Hai người giống nhau đến mức khó mà phân biệt được, nên đã nhiều người há hốc, “Ủa, mới thấy con Bảy xách giỏ đi chợ cái độp giờ sao nó làm cỏ ở nhà rồi?” Dượng Bảy cũng cầm khay rượu há hốc ra, hết nhìn cô chị rồi tới cô em. Bẽ bàng. Lỡ làng.
2. - Cô không phải người tôi thương.
Dượng Bảy phũ phàng nói thẳng trong một tối say mèm, say đến nỗi thay vì chỉ thẳng dì Bảy thì dượng dứ dứ vô cái gối. Dì Bảy mắc cười quá, khẽ khều sườn chồng, nhỏ nhẻ, em bên này nè anh. “Tôi nhớ em từ bữa đi coi chiếu bóng tới giờ…”, dượng nói sau khi day lại ôm dì, sau khi cầm ngón út nhỏ nhắn của dì nắn mãi. Dì kệ, để tay mình ở đó, mặt héo lòng hon bỡi bàng hoàng, phải như bình thường dì đã thanh minh giòn giã, “Đây Bảy à nghen, con Bảy, không phải Sáu…” Nhưng dì biết nói gì cũng muộn, người nhầm lẫn là chồng dì, tối đó đúng tối tân hôn.
Bữa sau ra vườn đắp mấy họng đìa, hồn vía để đâu mà dượng xắn lưỡi dá vô chân, máu chảy đầm đìa. Dì Bảy bứt lá chuối non nhai nghiến ngấu đắp lên vết thương của dượng, máu trôi bả chuối này dì đắp lên bã chuối khác, miệng không hay chát. Dượng lắc đầu nói, cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy máu trên phim còn không dám nhìn…
Hôm gặt, dì đẩy xuồng lúa bó trên mương ruộng cạn, mồ hôi này chưa khô mồ hôi kia lại tươm bê bết, lúc ăn cơm dượng ngồi gần nhăn mặt, cô không phải người tôi thương, đàn bà gì đâu mà chua lè, người ta kia thơm phức như múi mít…
Năm sau vợ chồng cãi nhau, bữa đó chồng có rượu nói ngang, tức quá vợ đá vô ống quyển của dượng rồi té chạy. Chồng rượt sát đằng sau. Lọt qua cây quao che khuất tầm nhìn, vợ liền xõa tóc đủng đỉnh đi ngược lại, hỏi lớn, “dượng Bảy, cầm chổi chà chạy đâu gấp vậy?”. Chồng tưởng chị vợ tới chơi, khựng lại sượng trân, “à, tôi.. tôi đuổi mấy con gà…” rồi mời vợ vô nhà, rót nước cho vợ uống, hỏi vợ đói bụng không để chồng nấu cơm. Vợ nằm chờ cơm đòng đưa trên võng, ngó dượng chổng mông thổi lửa, mắc cười nhưng buồn quá, không cười được. Tối đó chồng chắc lưỡi hít hà xoa dầu gió vô chỗ chân bầm tím, chồng nói cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy đánh nhau trong phim còn sợ...
Năm sau dì sinh con gái đầu lòng, tóc rụng xơ xác, dượng Bảy ngó lom lom vào đỉnh đầu trống trãi nói, cô không phải người tôi thương, người ta kia tóc nắm môt vốc, mướt rượt…
Cô không phải là người tôi thương, sau này dượng còn nhắc đi nhắc lại câu này, mỗi khi say. Mà nghề thợ mộc cất nhà của dượng thiếu gì dịp say. Dỡ gỗ, nhậu. Lên đòn dông, nhậu. Lợp nhà, nhậu. Nhưng say nhất là về đám giỗ bên vợ, phải ngượng ngập gặp chị vợ lúc này cũng đã có chồng, phải nhớ lại mùi tóc, làn da, ngón tay nhỏ xíu nóng rẫy năm xưa. Nhưng đáp lại cái câu tạt mặt phũ phàng vô duyên vô dùng là một cái nhoẻn cười, cũng đôi khi dì Bảy hỏi lại, “chắc không à?”, mà dượng có lần dõng dạc nói chắc, dì vặn ngay, ‘vậy sao hồi hôm ôm tui?”. Dượng Bảy không biết trả lời sao, đành ngoẹo đầu ngáy o o.
Có lần dượng đi đám giỗ ba bữa chưa về, dì lấy tờ giấy vẽ bản đồ nhà mình, vẽ sông Cái Tàu cong cong ẹo ẹo qua rạch Giồng Ông, vẽ chòm cây trâm bầu dưới bến, vẽ cái nhà có bàn ông Thiên đằng trước, ghi chú rõ ràng “Nhà Hai Hiệp”. Trâm bầu thì dì viết chữ “trâm bầu”, không thôi người ta nói đó là so đũa sao. Xong dì sai con đem tờ giấy cho dượng. Đi te te về, dượng nạt, ý cô nói tui đi nhậu không biết đường về nhà hả? Cô sâu cay hết biết. Thiệt là… cô không phải người tôi thương, người ta kia mủ mỉ thật thà…
3. Ba mươi năm sau, dượng Bảy đột quỵ. Chân yếu, miệng méo, xãi lai nằm một chỗ, mỗi khi dì dìu đỡ vào nhà tắm, giặt khăn với nước ấm lau khắp người, thay quần áo cho, dượng mắc cỡ quá nói câu gì đó, dì Bảy phiên dịch là, “cô đâu phải người tôi thương. Người ta kia kín đáo, ý tứ tới cái tên còn không dám nói thẳng ra…”. Dượng nghe chảy nước mắt. Dì hết hồn, hớt hãi nhắn xuống xóm Rẫy kêu má tôi qua, để an ủi tinh thần dượng.
Buổi đó nhá nhem, đèn đỏ ối, dượng Bảy nhìn má tôi rồi ngơ ngác ngó quanh tìm dì, rướn cái cổ lên dượng nói từng chữ lục cà lục cục, “chị không phải người tôi thương…”
CẢM GIÁC TRÊN DÂY
Cô Nghĩa vừa qua tuổi bốn mươi sáu, suốt từ lúc trẻ đến giờ chỉ yêu và cưới đúng một người, sinh cho chồng hai thằng con trai đẹp như cha chúng. Mười tám năm nay cô dạy lịch sử cấp ba ở trường Phù Đổng, mười tám năm cô tới trường đúng giờ, kiểu thời trang ưa thích là áo dài, tóc dài. Cô ăn nói nhỏ nhẹ, cười khẽ khàng, vui lắm cũng không thành tiếng. Đề tài ưa thích của cô khi tán gẫu với đồng nghiệp là chuyện cải cách sách giáo khoa và giá cá, rau đang lên. Cô không thỏa hiệp với những lời nói đùa kiểu như “cô đẹp lắm…”, cô nghĩ ai đó mỉa mai mình. Đến nỗi có thầy nói lén sau lưng, ngồi gần cô Nghĩa không dám bật hột quẹt, sợ cháy bất tử…
Vòng vo để thấy cô không chút gì thích hợp với lời tỏ tình của thằng nhỏ học trò mới mười bảy tuổi. Chiều hôm qua nó chờ cô trong nhà xe dành cho giáo viên, và nói em yêu cô. Nhìn thẳng vào cô, nó nói bằng vẻ điềm tĩnh, nắm chắc và kiểm soát từng từ khi thả chúng rơi chậm rãi vào tai cô gây âm thanh leng keng như những đồng xu. Em – yêu – cô. Những lời yêu cô gặp nhiều hồi chưa lấy chồng, nhưng hơn chục năm rồi ít ai nhắc tới, nghe xa lạ quá chừng. Năm giây ngó quanh, năm giây định thần, thêm năm giây ngơ ngác, rồi cô Nghĩa cũng tin rằng thằng nhỏ đang nói với mình.
- Em giỡn có duyên lắm – Cô nhẩn nha lúc dắt xe ra cửa - nhưng cô đói bụng quá nên không thấy mắc cười.
Cô quay đi và nghĩ trò đùa này đã kết thúc. Ra về trong một buổi chiều muộn của tháng ba, những con đường khô cong sau một ngày nắng đỏ, xe trước tung bụi bay mù lấp mặt xe sau. Thời tiết ngột ngạt nín thở chờ đợi một cơn mưa xô đổ cửa mùa. Khi cô Nghĩa dừng xe trước đèn đỏ chỗ ngã tư quen thuộc, cô nhìn thấy người bán bắp luộc đang ngồi ngáp. Ở vỉa hè gần đó, người ta rao bán áo sơ mi hàng công ty tồn kho, hai mươi lăm ngàn một cái. Chà, phải còn sớm ghé lựa áo cho mấy đứa con chơi, rẻ quá…, cô nghĩ vậy. Cô nghĩ ngợi cho buổi chiều này bình thường như mọi buổi chiều đã trôi đi không tăm tích trong cuộc đời mình, những buổi chiều không có ai đó nói yêu cô.
Nhưng chủ nhân của câu nói đó mới mười bảy tuổi. Con nhà giàu, học dở, thủ lĩnh một băng hơn chục đứa con nhà giàu học dở khác. Nó không chỉ sáng tạo ra những cuộc chơi bất tận mà còn đi đầu trong bộ điệu, làm sao phải thật nổi bật giữa đám đông nổi bật. Bữa nay tóc nó vuốt keo dựng đứng như ngựa hoang bờm sửng lên trong gió, thì bữa sau nó chải tóc xước ra đằng sau, ướt rượt và bóng lộn như công tử Bạc Liêu thời xưa bôi dầu dừa, thoắt cái lại thấy nó nhuộm chòm nâu chòm đỏ. Buổi nghỉ giữa giờ nó với đám bạn hay ngồi đồng ở căn tin, rú lên từng hồi man rợ. Đó là lúc có đứa con gái đẹp, cô giáo trẻ, hay bạn học trò quê mùa (mà học giỏi) ngang qua, hoặc một đứa trong tụi nó đang bàn chuyện “phức tạp”. Hoặc chẳng cơn cớ gì, cứ hú hét cho sướng, cho nổi bật, cho đỡ chán chường khi nghĩ tới tiết sau, cho đói để tan học đi tiệc tùng… Mấy giáo viên ngồi nói với nhau, tiến hóa mấy triệu năm khỉ mới thành người, còn tụi ôn con này từ người thành khỉ cái một.
Giờ khỉ đầu đàn chắc lại làm trò khỉ, sau vụ nó dùng điện thoại di động chụp hình cô Nghĩa rồi dán hình lên mông mình đi đủng đỉnh trong trường, vụ nó dùng sơn đỏ vẽ hình đôi môi lên ghế cô ngồi làm mông cô lãnh trọn nụ hôn cháy bỏng… Thường, cô giận rất phải cách, mím miệng xăm xăm lên văn phòng. Năm phút sau thầy giám thị tới lôi thằng nhỏ đem đính vào cột cờ lộng gió. Đám bạn nó ngưỡng mộ nó hơn, căm ghét môn lịch sử hơn, tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới có mắc mớ gì tới cuộc đời tụi nó? Có lần cuộc phá phách lên đến cao trào khi nó giả bộ trượt té và chụp lấy vạt áo dài của cô làm nút áo bứt tung. Phản ứng ngoại lệ, cô vừa khóc vừa tát nó một cái rát mặt.
Chuyện đó xảy ra vào tháng trước, nối thêm dây oán càng dài, giờ thằng nhỏ trở mặt nói yêu cô lắm. Ai mà tin. Cô Nghĩa càng không, thằng này mà ho hoặc gãi đầu cũng là những hành động có âm mưu. Coi như đã quên chuyện xảy ra ở nhà xe rồi, những khi bước vào lớp nó học, cô dửng dưng lướt mắt qua cuối dãy, nơi nó ngồi. Dạo này nó thay đổi lạ lùng, lúc nào cũng ngước nhìn cô với vẻ buồn rượi, chân thành, như uống như nuốt từng lời, từng cử chỉ nhỏ. Đôi lúc cô thấy nhột ran cả gáy, băn khoăn đằng sau chắc tóc bạc nhiều, hay lúc chải đầu mình cặp tóc không ngay ngắn.
Tuần sau nó lại xuất hiện ở nhà xe lúc vắng người, trực tiếp trao cho cô lá thơ, nói “cô đọc xong rồi xé cũng được, nhưng cô phải đọc, mỗi chữ trong này là một đọi máu của em…”.
Chữ nó xấu như gà bới, chuyện này thì cô biết rồi, những bài kiểm tra bao giờ cô cũng trừ điểm vì viết xấu, sai chính tả. Cô chỉ chưa biết là nó chọt phá cô vì iu cô (chữ nó viết vậy), vì muốn cô chú ý, nghĩ về nó nhiều hơn. Nó yêu cô từ năm học lớp mười, khi lần đầu tiên cô bước vào lớp với áo dài tiếm, tóc vẫn còn ướt, mặt tran nhả. Đằng sau vẻ ngim nghị khô khan của cô là sự ấm áp, ân cần, nó nhìn thấy cả nỗi cô đơn chới với. Và nó bắt đầu nhen mối tình căm, thấy ghen tuông kinh khủng khiếp mỗi lần thấy cô được chồng chại xe tới trường đưa đón, bàn tay cô mơng man trên eo chồng, ngực cô dán vào lưng chồng, ghen tuông cả khi thấy những cô giáo khác quàng vai, vuốt tóc trong lúc tán gẫu với cô. “Em biết tình yêu của mình là tiệt dộng, nhưng không kiềm chế được cảm xút”, nó viết vậy.
Thêm một chuyện cô chưa biết: nó sắp đi xa đến nửa vòng trái đất, nên nó quyết định bày tỏ với cô những tình cảm cháy bỏng của mình. Cô gấp lá thư lại nghĩ, thằng nhỏ chơi trò này công phu quá. Lúc trả lại thư, cô nói nhỏ nhẻ, “em có năng khiếu văn học lắm, nhưng rèn chính tả thêm, tệ quá…”. Mặt nó chảy xuống, nhưng ánh nhìn vẫn rát bỏng.
Làm như nó yêu thiệt vậy, cô Nghĩa hơi mắc cười. Như nó yêu thiệt vậy, ý nghĩ đó mấy bữa sau quay quắt trong đầu cô, khi buổi sáng thấy trên mảng tường đầu hẻm xuất hiện những con chữ bằng sơn đỏ “tôi iu Nghĩa”. Mạnh mẽ. Tự tin. Sòng phẳng. Chuyện này là tình yêu của tôi với Nghĩa, không thầy trò gì hết. Xen giữa mớ chữ hổn độn là mấy trái tim ú mềm bị tên xuyên qua, máu tuôn giọt giọt. Thằng con lớn của cô đi học sớm nhìn thấy đầu tiên, nó quay xe trở lại hào hển, “Mẹ, ai yêu mẹ ngoài hẻm kìa…”. Ba nó đang cạo râu, xách cái cằm đầy bọt chạy ra coi, lúc quay lại như cắn phải lưỡi, “ngoài đó thiệt là có ai yêu em”. Lúc cô Nghĩa ra tới nơi, đã có năm bảy người xúm lại chỉ trỏ, sau lưng cô thêm năm bảy người nữa nườm nượp chạy theo như đi coi đụng xe.
Cô Nghĩa nhìn tên mình lấp loáng trên tường, cố tỏ vẻ bình thản. Ý nghĩ đầu tiên là thằng nhỏ lại sai chính tả nữa rồi. Sau đó thấp thoáng những ý nghĩ khác, mình sẽ phải chiến đấu với thằng con nít quỷ này dài dài, sẽ dài dài làm mồi ngon thơm tho đậm đà cho những bữa cơm của hàng xóm, con mình sẽ hết hồn dài dài, không biết sáng nay nó học sao trong tâm trạng bớ xớ như vậy. Còn nữa, chồng có tin lời mình kể không, rằng chuyện này là do một đứa học trò quậy phá ngỗ ngược làm… Trở về với món trứng chiên sống nhăn trên bếp, cô thấy chồng đang ngồi chờ, mặt chồng biến mất, chỉ còn dấu chấm hỏi gắn trên cổ lúc lắc. Cô nuốt khan, giải thích mà nghe từng lời mỏi rã.
Câu chuyện làm cả hai người cảm giác như mình bị trói chặt trong một niềm tiếc nuối. Như họ đã để một kẻ xa lạ nào vào đào được vàng ở mảnh vườn của mình và chính mình bỏ hoang. Họ nghĩ yêu thì cần gì nói, tự hiểu thôi. Mấy tiếng em yêu anh hay anh yêu em tưởng sến rện, thừa thãi họ cứ để đó từ hồi cưới, chưa thử lần nào thì bị một đứa trẻ nhảy vào lủm mất, hóa ra chúng rất ngọt ngào. Họ thấy mật rỉ ra từ miệng đứa trẻ đó, và thoảng ra một mùi hương mê dụ. Cô Nghĩa nghe như trong cô có chút gì giận dữ, sao người nói câu yêu mình không phải là cha của hai đứa con mình?
Cô đi tới nhà thằng nhỏ nhà giàu học dở. Cô cố nghĩ ra cách nói nhã nhặn nào có giá trị tương đương với mớ từ sỗ sàng đang chật cứng trong đầu mình, “làm ơn bỏ chút thời giờ dạy con trai mấy người, nó quậy tôi vô phương…”. Đó là cô tưởng tượng gặp được mẹ, hoặc ba nó, hoặc cả hai người thì may phước. Tất nhiên họ sẽ hỏi lại nó quậy làm sao, tất nhiên cô sẽ kể chuyện nó nói yêu mình, và tất nhiên họ sẽ kêu lên, trời, đâu có được… Không biết cô có nén được hay lập tức vặn lại, tại sao không?
Cô Nghĩa thấy căng thẳng, cô chưa từng gặp phụ huynh học sinh để nói một chuyện giống như vầy. Mấy cuốn sách giáo khoa lịch sử không giúp gì được cho cô, lịch sử chưa bao giờ nhắc tới tình yêu, chỉ chiến tranh, thanh trừng, xung đột. Tuổi tác cũng không giúp được khi đây là lần trải nghiệm đầu. Dò dẫm quanh quẹo qua mấy con đường, tới trước cỗng nhà nó rồi, cô chợt nghĩ hay là thôi. Biết đâu ba mẹ nó đùng đùng buộc nó chuyển trường, nhốt nó trong nhà, biết đâu cô sẽ không còn thấy nó nghinh ngang đi với những kiểu tóc kỳ lạ, nó không thể xuất hiện thảng thốt ở nhà xe, sẽ vắng tiếng nó rú man rợ giữa giờ chơi như những tiếng kêu bầy.
Cô bần thần trước chỗ gọi chuông, rốt cuộc cơn giận dữ lúc sáng cũng quay trở lại, nó cầm tay cô ấn lên cái nút màu trắng đó. Có người đi ngang qua, nói, nhà không có ai đâu, muốn gặp người nhà thì lại đằng chỗ gốc cây me đằng đó, chỗ bán chuối nướng hột vịt lộn đó, hỏi cô Mận. Chị tên Mận trạc tuổi cô Nghĩa, dáng người cũng hao hao như cái trứng lộn chị mới khẻ mỏ, tay giơ cây muỗng gần miệng trứng nhưng mãi há hốc hóng chuyện đánh ghen. Cô Nghĩa hỏi tới lần thứ ba cây muỗng mới đổi thế xua ngang:
- Trời trời, tui ở mướn thôi, hong dám làm má thằng ôn dịch đó, đẻ nó để đẻ hột gà sướng hơn. Má nó đi Mỹ rồi, cưới Mỹ, tính rước nó qua đó luôn. Ba nó làm gỗ trên Tây Nguyên, đi suốt. Chị là cô giáo? Chắc thằng đó làm chuyện gì động trời gì rồi. Nó mà đòi cưỡng hiếp chị tui cũng không ngạc nhiên đâu à, nó hăm dọa tui hoài chớ gì. Ghê lắm, sợ bữa nào nó nổi khùng đè tui lột quần áo ra chắc tui cắn lưỡi tự vận quá.
Cô Nghĩa chăm chú vào cái muỗng nhỏ dùng để ăn trứng nằm trên tay chị Mận, nó đảo lên rơi xuống, vo ve gần cái miệng trứng rồi lại tiếp tục chao liệng. Mãi nhìn nó nên cô nghe lỏm bỏm, cả buổi tóm gọn lại là cô không thể gặp người thân của thằng nhỏ học trò vì hiện giờ nó không có người thân nào ngoài chị giúp việc có sở thích ngồi ngoài đường ăn hàng. Có một chi tiết đáng giá, chị Mận nhớ ra cậu chủ có dán ảnh cô giáo này trong phòng ngủ, bên cạnh ảnh má nó. “Thằng ôn dịch có viết chữ nước ngoài lên hình nữa, không biết nó viết gì, tiếng Việt tui còn nuốt không trôi…”
Cô Nghĩa ngẩn ngơ. Cô hình dung ra cảnh thằng nhỏ nằm giữa bốn bề hiu quạnh, cô độc, lủi thủi, lầm lì. Như con chó hoang không được một ai xoa đầu, thèm một lần mừng chủ, thằng nhỏ thèm yêu thương, thèm hơi ấm con người, thèm một bờ vai…
Tội nghiệp. Cô nghĩ tới hai từ đó suốt đường về, nhưng đi tới đầu hẻm thì mất hết cảm giác. Chồng với hai thằng con trai đang lui cui quét nước sơn lên xóa đi những lời tỏ tình. Cô Nghĩa nghe một đứa bàn, “hay là mình viết trả mấy chữ “Cảm ơn, cô giáo Nghĩa chỉ yêu chồng!”…”. Thì sao, đêm nay những trái tim bị trúng tên sẽ xuất hiện lại thôi mà, không hiểu sao cô nghĩ vậy.
Đúng như cô đoán, sáng sớm thằng con chạy ra đầu hẻm, lúc quay lại đầy vẻ thất vọng, “bữa nay mắc sơn lại nữa rồi ba ơi…”. Cô Nghĩa đang cài nút áo dài, mỉm cười rồi không hiểu sao mình lại cười mà không tức tối, khó chịu, bị quấy rối mà, bị đem ra làm trò đùa mà, nhất thiết phải giận.
“Em đừng phí công phá tôi, không ăn thua gì đâu”, cô định gặp nó để dằn mặt, nhưng thằng nhỏ đã tự tới tìm. Lúc nào cũng chủ động.
- Em biết lý do cô tới nhà em, chắc cô thất vọng lắm. Giờ cô tính sao, lôi em ra giữa buổi lễ chào cờ cảnh cáo trước toàn trường vì yêu cô? Yêu cô là tội?
Không, trong cô có tiếng trả lời, nhưng khi ra khỏi môi, nó biến dạng, “Trò đùa của em ngày càng quá quắt, tôi…”. Thằng khỉ cắt lời cô bằng cách sấn tới làm cô phải lùi lại mấy bước, tưởng nó nhào vô ôm mình ở ngay hành lang này giữa giờ chơi này chắc cô chết quá. “Em phải làm sao để cô tin em thật lòng?”, lại cái kiểu thả đồng xu khua tinh tang vang động vào lòng cô.
Nhưng dù cô tin nó thì sao? Chuyện này không đi tới đâu hết. Cô Nghĩa bỗng nghĩ vậy. Một bữa, nửa đêm cô thức dậy ra ngoài lấy nước uống, tình cờ nhìn qua cửa sổ đằng trước, cô thấy nó, trời ơi, đúng là đứa học trò con nhà giàu học dở, nó đang đứng dưới đường ngước nhìn lên. Ngọn đèn đằng kia đổ xuống nó một cái bóng dài, gầy guộc, quái dị. Cô vừa chực thấy nó là nép ngay vô rèm, lén ngó nó ngồi nhẫn nại ngồi dưới sương đêm ngóng chờ một điều vô vọng, cô nghĩ thằng nhỏ này sến quá. Khi cô hiện ra trên khung cửa, cô nghĩ dù vậy nên bù đắp cho nó chút gì, thí dụ như mớ máu bị mất đi bởi bầy muỗi đói. Dưới kia nó hí hửng ra mặt, ngoác miệng cười.
Cô mất ngủ. Cứ tới nửa đêm là nghe như có ai đó gọi mình, dù nó không tới nữa, dù cô nói với nó cô mệt mỏi rồi. Cô giảng lịch sử Việt Nam mà lơ ngơ tưởng Hoàng Hoa Thám và Đề Thám là hai người, chểnh mảng ủi quần áo cho chồng, lẫn lộn tên của hai đứa con, nấu canh chua lại bỏ nước màu dừa. Gương mặt của ba gã đàn ông trong nhà cô dần biến mất nhường chỗ cho những dấu chấm hỏi. Bây giờ mọi hành động của cô, như thở dài, đứng dựa cửa sổ ngó mây bay, chiêm bao ú ớ, soi gương lâu, may áo mới… đều liên quan gắn bó với vụ tỏ tình ngoài đầu hẻm. Những ánh mắt nghi hoặc ngờ ngợ ngày càng làm cô khó thở. Cô vốn đã thấy bị rời ra trong đám đàn ông con trai lộc ngộc, giờ cô độc, hoang mang hơn. Bỗng dưng buồn bã vì một sợi tóc bạc, thấy đau đáu vì một nếp nhăn mới, thấy u ám bởi da trên cổ nhão. “Dù em thiệt hay giỡn thì cũng thôi đi - cô nói với vẻ chán chường – chuyện này không đi tới đâu hết, em biết mà”. (Nhưng cô muốn đi tới đâu? tới đâu là tới đâu? – ý nghĩ đó làm cô giật mình)
Nó hẹn gặp cô trong cái thư viện nhỏ vắng vẻ của trường, trong giấy ghi là “lần cuối, em thề…”. Cô không tới thì tội nghiệp nó uổng công đợi (Đàn bà thường vậy, một nửa là quản giáo nửa kia là mẹ). Khỉ đầu đàn, không biết vì động lòng trước vẻ hao gầy của cô hay chấp nhận được sự thật tình này không có hậu, nó chỉ yêu cầu cô Nghĩa cho nó ôm một lần. Như đứa con ôm người mẹ đã xa lâu, như em trai ôm tiễn chị gái lấy chồng, ôm đơn giản thôi, tức là cả hai đều đứng và tay nó vòng qua lưng cô, ngực nó áp vào ngực cô. Đầu giờ chiều không có người nào khác trong phòng sách. Mùi thuốc chống mốc xộc lên ngộp thở. Nghĩ sao mà ôm nhau chỗ này trời, cô nghĩ. Nhưng thằng nhỏ đã bước tới giang tay bọc lấy cô giáo, làm cả người cô như tê rần. Đậu miết vào cổ cô là một đôi môi dày, ẩm ướt, những cơn sóng từ đó loang ra tưới tắm làm cơ thể cô như mềm nhũn đi, như sắp tan rã tới nơi rồi. Bằng những chuyển động da diết, khẽ khàng, đôi môi đó để trôi ra những lời nóng bỏng, “bà già, bà nên biết là không nên bợp tai làm nhục tôi giữa đám đông…”.
Và chuyện xảy ra tiếp theo là những gì mà ban giám hiệu, hội đồng sư phạm nhà trường được xem trong đoạn phim quay bằng điện thoại di động của một đứa bạn nó (hết sức tình cờ) chứng kiến. Thằng nhỏ cố thoát khỏi vòng tay cô và vùng vẫy hét lên, “không, em sẽ không đổi tình lấy điểm, em mới mười bảy tuổi thôi mà, em xin cô buông tha cho em đi…”, mà cô thì chới với, chết sững ở đó. Nghĩ, thằng nhỏ giỡn chơi mà cũng kỳ công quá. Nghĩ trời đất ơi hên thiệt, thằng nhỏ giỡn chơi thôi, phải yêu thật thì nó sẽ khổ tâm lâu lắm, cô hơn nó tới hai mươi bốn tuổi, tình này sẽ không đi tới đâu hết…
Nhưng cô muốn tới đâu? Tới đâu là tới đâu? Tới một chỗ nào?
MỘ GIÓ
Hồi ấy chị lên mười ba, em nhỏ hơn hai tuổi.
Mười bảy tháng Mười năm đó, ba má đi đám giỗ, để hai chị em lại nhà. Lúc xách cặp chèo ra cửa má ngoái lại dặn chị:
- Ở nhà coi chừng em...
Chị dạ. Má rải lời dặn dò nằm lển nghển khắp nơi. Chị ngó ngoài sân thấy “Coi chừng ông trời chuyển mưa thì đem củi vô nhà“ và ”Đóng cái cổng rào lại” đứng dựa hàng bông lồng đèn kêu cọt kẹt, bước vô nhà vấp “Lấy chổi rơm quét mạng nhện trên bàn thờ” và “Nhà hết gạo rồi, con lội bộ lại đằng tiệm mua nấu đỡ” thì nằm nép trong góc bếp. Ở sàn lãn gió thổi xập xòe làm “Còn mấy con cá rô đem kho tiêu” đập đuôi xao xác vách thùng.
Một mình chị làm bao nhiêu chuyện đó cũng xong, nhưng em cứ cà nhổng chạy chơi với chuồn chuồn thì ức. Ba hay nói phải chia việc mà làm, “mỗi người có một bổn phận...”. Con trai kiếm cá con gái hái rau, con trai ra ruộng rẫy con gái vùi đầu trong xó bếp. Bao giờ con trai trở thành đàn ông nó có bổn phận đưa tay đánh, còn con gái (giờ đã là đàn bà) thì giơ thân ra chịu đòn. Vụ đó ba không dạy, hai chị em tự biết thôi.
Những bài học về bổn phận chị thuộc nằm lòng, nên khi em đòi đi tiệm mua gạo thay vì bắc ghế quét mạng nhện bàn thờ, chị buộc lòng gật đầu. Làm chị phải nhường em.
Chị thích được đi tiệm để săm soi mấy cây kẹp tóc thèm chơi. Nhưng tiệm cũng là thiên đường của em, với những cục kẹo sặc sỡ như những cái bong bóng sặc sỡ. Dù mỗi lần em đi tiệm dường như răng lại mòn hơn, dù em hay chểnh mảng kiểu như mua đường cát về tới nhà thấy cát nhiều hơn đường, còn lẫn lộn thêm mấy con cuốn chiếu. Bữa trước đi mua đậu trắng em về với cái túi không, đậu chảy theo cái lỗ thủng rải dọc đường như cô công chúa Mỵ Châu để lại dấu vết cho chồng. Bữa trước nữa em lội sông mang gạo về, má phải đem mớ gạo ướt mèm xay bột.
Sẽ xảy ra vài kịch tính ở quãng đường giữa nhà và tiệm tạp hóa bà Tư Mốt: một nhánh cây gãy lộ ra ổ ong mật, một con diều của ai đó mắc kẹt trên đọt so đũa, một tiếng chim hót nghe gần... cũng làm chân em chậm lại mươi phút hay vài giờ hay hết phim, nếu nhà bà Tư Mốt đang mở một cái phim võ thuật kiểu như Ngôi chùa Thiếu Lâm tự.
Nên trưa ấy quá bữa rồi mà gạo chưa về tới nhà, chị tưởng em còn hóng hớt đâu đó. Cái mẻ kho nằm nguội ngắt chờ cơm.
Nhiều ngày sau đó, khi xóm nhỏ nháo nhác vì một cư dân mười một tuổi đã biến mất, chị vẫn nghĩ em đang chơi đâu đó. Chị giận sôi những người đã tỏ ra thất vọng khi không tìm thấy thi thể em, ở ngoài đồng hay dưới đáy sông. Một câu đố không tìm ra câu trả lời, ông trời cà chớn quá.
Nhiều tháng sau đó, khi ba má vẫn vật vã rã rượi, chị vẫn nghĩ em đi chơi đâu đó sẽ về. Cho tới khi má rọi cái ảnh em hồi mười tuổi đặt lên bàn thờ, đứng chung với mấy ông bà già u mặc. Trong ảnh, em mặc áo thun vàng đồng phục của đội bóng nhi đồng trường lúc đang nhận giải ba cấp huyện, mặt em nghiêng về trái khoe mụt ruồi lớn như con ve chó, giống như hình ảnh cuối cùng của buổi sáng ấy chị ngó thấy em chạy vù đi.
Cái ảnh là kết cuộc cho những chờ đợi nhưng hi vọng đã bay hơi theo ánh mặt trời. Má sực nhớ biết đâu thi thể thằng nhỏ trôi ra biển hay bị kẹt dưới chân cầu nào, rồi âm thầm tan rã. Biết đâu giờ hồn nó vất vơ vất vưởng đói ăn. Ba má bắt đầu kêu em về trong những bữa cơm. Có lần chị quên không dọn dư ra một cái chén, ba bợp tai chị cắm đầu, nói “đã kêu mày coi chừng em rồi mà...”.
Coi như chị đã được định tội xong, và định sẵn cho mọi lỗi lầm dù chẳng mấy liên quan như chuột cắn ổ gà, dông làm ngã cây đu đủ... Nếu mỗi lần đau trên người chị mọc sợi lông, thì những lần má ngồi khóc bên sông, những lần ba buông đũa giữa bữa cơm bởi tiếng bầy trẻ trai đi bắn chim ngang nhà, những cái tết lặng lờ qua, những khói nhang tối tối, những lần giở quần áo em ra giũ bụi... đã biến chị thành con khỉ.
Và nếu mỗi lần đau là một giọt nước, một hạt cát thì chị thành sông, thành đồi cát năm ba mươi tuổi.
Chị sống một mình. Mỗi khi định cười giòn thì chợt nhớ mình đã để mất đứa em. Mỗi khi định lấy ai đó làm chồng thì nhớ trong cơn mê sảng má thảng thốt kêu Võ, Võ ơi. Mỗi khi định sống cho ra con người thì nhớ ba lúc lâm chung vuốt mãi mắt mới chịu nhắm.
Chị vẫn tin em đi chơi đâu đó. Nhà vẫn cặm trên nền cũ, vườn cũ, kiểu cũ. Cây nào chết thì trồng lại y giống cây đó. Đoạn rào nào gãy thì được thay giống hệt. Chị chôn chị chỗ buổi sáng em guộn mấy tờ giấy bạc mua gạo vô dây lưng quần cộc xanh dương, áo màu xám tro lấm lem mủ chuối vẫy tay rẽ trái chạy vù về phía tiệm tạp hóa bà Tư Mốt. Lúc đi em không đóng cửa rào làm mấy con gà đi qua nhà hàng xóm bươi tơi bời giồng cải họ mới gieo.
Một bữa chị qua hàng xóm mượn trẻ con nhổ tóc ngứa, đang ngủ gà gật, đang lúc hờn hờn cái thân mình chẳng có đứa nhỏ để sai vặt, chợt nghe bên nhà chó sủa. Chị hỏi vóng qua hào ranh. Người đó ngập ngừng:
- Cho tôi hỏi nhà chú Mười Hưng.
- Phải rồi, nhà ba tui đó, cậu kiếm ai?
- Em Võ nè, chị Hai...
Người đó nói vậy. Chị không biết cách nào mình đã về đến nhà, bay, hay bò lết, hay nhảy ào xuống hào càn qua những dây rau muống. Chỉ biết chị phải về sụp xuống trước bàn thờ, để thưa:
- Đó, ba má thấy chưa, con đã nói là thằng Võ đi chơi mà...
Chị quỵ ở đó rất lâu, tóc xấp xải trải xòe ra đất, lưng khum khum như một ngôi mộ. Chị không hỏi em đã đi đâu, chẳng ích gì... Đàn ông rong ruổi đường xa, đàn bà vạ vật ngồi canh cửa, đời phân công vậy mà...
HIỂU LẦM NHỎ VỀ GIA TÀI CỦA CÔ GÁI NHỎ
"Chút tui lấy cái quý giá nhất của con nhỏ ho lao đó xài đỡ…", thằng Giang Hồ Con nói, thèm khát tươm ra mắt ướt ròng khi nó ngó vuốt theo bóng đứa gái chấp chới vào con hẻm tối. Ông già đang ăn bữa chiều với cháo trắng cùng trứng muối, chực nghẹn. Ông nạt nhỏ, giọng đuối như sắp khóc:
- Bậy, mầy. Con nhỏ đó coi bộ hiền. Tội nghiệp…
Nhưng dân giang hồ tuyệt không biết tới hai từ "tội nghiệp…", nhất là thằng Giang Hồ Con. Hồi mới lảng vảng ở địa bàn này, nó vỗ ngực xưng Năm Thẹo, Bảy Búa... Những cái tên oai hùng rùng rợn đó là nó tự sáng tạo cho kêu, cho thấy trong người nó chỉ chảy độc một dòng máu lạnh. Nhưng có vỗ ngực xưng ông trời thì với ông già từng dầm dề sương gió đường phố, thằng nhỏ vẫn là Giang Hồ Con. Bằng chứng là nó đang đói meo từ sáng giờ, sau khi lên xuống bao nhiêu xe buýt. Vào một ngày người ta bỗng dưng đầy cảnh giác, chẳng để lộ chút sơ hở nào. Vào một ngày chỉ một gói xôi năm ngàn đồng bạc còn kiếm không ra để lót lòng cho qua bữa, đừng nói tới chuyện teo phê tê mê.
Buồn tình, Giang Hồ Con vạ vật chỗ ông già, bòn mót từng điếu thuốc. Khói không đủ no. Nhưng không đủ tắt đi dục vọng bỗng dưng bùng cháy trong người nó. Thằng nhỏ túng tiền, không tiền thì làm gì cho hết cái đêm thênh thang này? Tình cờ đứa con gái kia chạy xe qua, tình cờ Giang Hồ Con nhìn thấy chút le lói của niềm vui chiếm đoạt. Nó liếm môi rạo rực nhắc lại lần nữa, lấy cái quý giá nhất của con nhỏ.
Đó là đứa con gái xanh, mảnh như nhánh trúc. Mỗi lần thấy con nhỏ đạp xe từ con hẻm Từ Hải tuôn ra là ông già thót ruột, cảm giác chút xíu nữa gió bụi trên đường Kiều sẽ làm cô tan vụn. Nhưng cô không tan, chỉ ngày càng gầy gò do vừa học vừa làm ở xưởng tàu hủ đâu đó trong hẻm. Cả lúc đi học con nhỏ cũng tranh thủ kiếm tiền thêm bằng cách chở theo lặc lè mấy giỏ tàu hủ, sữa đậu nành bỏ mối. Hôm nào nó cũng cắm đầu đi le te, ngang qua ông già theo kiểu tờ giấy quyến bay, lắt lay lắt lay. Mấy đứa giang hồ la cà ở chỗ ông già nhận xét "con đó bịnh ban" hay “con nhỏ ho lao”.
Nhờ cái dáng vẻ bệnh hoạn mà con nhỏ sống yên trong con hẻm dân giang hồ hay lai vãng. Ở đây khuất tối, chằng chịt, nhiều ngoắt ngoéo nhiều ngách trổ phức tạp... nhưng không ai để ý đứa con gái có vẻ lặng lờ trong suốt nhạt nhòa chẳng ra đẹp xấu.
Không may, đứa con gái đó chẳng tàng hình được mãi. Trong túng quẩn răng vắt không ra bợn cơm, không biết làm gì cho đỡ buồn tay buồn chân một thằng giang hồ vừa kết án cho cô. Dù trước đó không lâu khi ngó đôi tay trắng dởn của con nhỏ do thường ngâm trong nước tẩy, nó nói " thấy hết muốn ăn thịt chuột…".
Ông già thắt ruột như mỗi ngày ngó cô ùa ra gió bụi.Con nhỏ chẳng phải quen biết thiết thân gì với ông. Chỉ là mỗi ngày ông nhìn thấy nó ít nhất hai lần, vị chi một năm ông gặp nó bảy trăm ba chục bận, chắc chắn nhiều hơn. Có lần con nhỏ dắt xe tới vá chỗ ông. Bữa đó ông hỏi hai câu và con nhỏ trả lời hai câu nhưng gom lại không được miếng nào. Hỏi bây học trường nào. Trả lời: Trường đại học. Hỏi trọ ở chặng nào. Trả lời trong hẻm. Nhưng con nhỏ chỉ nói nhiêu thôi, như thể nói làm nó mệt. Nhưng lúc quay đi bỗng nó kêu bữa nào chú vô nhà con nấu lẩu mắm ăn chơi. Nhà con đằng trước có chữ “định đẳng cấp quý tộc” với “Mì Caloso – hương vị tuyệt vời”. Định là khẳng định đó, nhưng chữ khẳng bị rách rồi…
Con nhỏ không nói tên, cũng không cho hay là trong hẻm có tới sáu cái nhà dừng vách bằng hương vị mì gói tuyệt vời và định đẳng cấp quý tộc (vì nhiều lý do không khẳng được, bởi vướng thùng rác hay bị quảng cáo yếu sinh lý dán chồng lên…). Có năm đứa sinh viên làm thêm ở ba xưởng tàu hủ, cả năm đứa đều mỏng dờn. Một bữa mon men vô hẻm tìm, không biết con nhỏ ở đâu ông già đứng ngẩn ngơ rồi quay ra, nghe ngột ngạt trong mắt, trong cổ họng.
Ông cảm tình với con nhỏ, bởi gần chục năm vạ vật ở đất này chưa ai mời ông tới nhà chơi. Giang hồ không, dân tử tế thì dè dặt với ông bởi ông chơi với… giang hồ. Không, chính xác là ông kiếm sống nhờ vào tụi nó: những giang hồ bệ rạc, những du đãng hết thời. Ban ngày Bảo tàng trong kia mở cửa, ông ne nép bên gốc cây với tủ thuốc lá và cái pit - tông vá xe, đêm tới ông chiếm dụng mái hiên bảo tàng làm nhà làm quán với rượu trắng và vài món cá khô, trứng vịt lộn, đậu phộng rang… Giang hồ tép riu la cà nhậu nhẹt ở chỗ ông lấy dũng khí trước khi đánh quả hay ăn mừng thắng lợi sau đó. Phạm trù thắng lợi cũng mênh mông, có lúc tụi nó gặt được nhiều món nữ trang lấp lánh có lúc thắng lợi là lết được cái thân về dù cả người tả tơi thương tích. Khi đó ông già đem bông băng thuốc đỏ ra bán với giá cắt cổ. “Máu con người ta đâu có rẻ, tụi bây…”, ông nói vậy trong lúc vuốt cho phẳng phiu mấy tờ giấy bạc nhoe nhoét máu, cho vào túi quần đang mặc, sau đó cài năm cây kim tây, dù ông biết giang hồ đè ông ra cướp bất cứ lúc nào.
Nhưng giang hồ không làm vậy, cư dân lai vãng hẻm Từ Hải cũng có thứ đạo nghĩa riêng. Nhiều khi tụi nó cần ông ngồi đó, cho có người hoặc gợi nhớ những hình bóng thâm tình đã xa xôi… Nhất là nửa đêm về sáng, sau khi bay xong nằm ườn thiếp đi trên chiếc chiếu rách dưới bàn tay tẩm quất điêu luyện của ông già cô độc. Lúc nào cũng có vẻ buồn bã lủi thủi cúi gằm. Ging hồ với ông già tuyệt không có cái gọi là tình nghĩa. Tiền trao rượu múc. Giang hồ nói chuyện “làm ăn” cũng không sợ bị lộ, dù tiếng lóng ông già rành sáu câu. Trà trộn giữa tụi nó lâu ngày ông biết mình phận mỏng lắm. Người ta có thể bỏ mạng bởi “có cái mặt thấy ghét” theo con mắt thẩm định của giang hồ, chuyện đó ông chứng kiến rồi. Ông muốn tiếp tục kiếm sống ở cái vỉa hè này được chừng nào hay chừng ấy, để tìm kiếm một người, để nói lời xin lỗi…
Ông không biết cách nào ngăn thằng Giang Hồ Con lại, dù tội nghiệp cho đứa con gái đó. Đứa con gái từng rủ ông tới nhà chơi. Đứa con gái vẫn cung cúc chở tàu hủ sữa đậu nành đi bỏ mối khi húng bạn cùng trang lứa với nó đêm đêm thành bướm mọc cánh bay ra những khách sạn bên kia đường kiếm tiền son phấn hay học phí kỳ hai.
Con Giấy Quyến sẽ nhàu nhừ khi thằng ôn dịch này đụng vào. Ông già nghĩ vậy khi nhìn vào cánh tay lông lá u sù đầy dấu kim của thằng du đãng. Kéo ghế ngồi gần nó, ông thủ thỉ vài câu chuyện vẩn vơ, cốt là câu giờ. Bỗng dưng ông nghĩ biết đâu thâm tình làm cho con quỹ trong thằng nhỏ này thôi trỗi dậy, nên giả đò bâng quơ hỏi, "Ông bà già mầy sống đâu? Hỏng chừng má mầy đang chờ cửa…". Chưa hết câu mà hối hận rào ra làm đuối lưỡi, ông ngờ rằng những lời đó làm thằng nhỏ bỏ đi sớm hơn. Giang Hồ Con xô ghế đứng lên, nói khuya rồi, tui tà tà vô hẻm chơi đây. Sau mỗi bước chân cái lưng quần nó lại tụt thêm một chút, phô ra hai múi đít lỏng thỏng thâm sì. Nó cần làm gì đó vui vui, bữa nay buồn quá.
Ông già thẩn thờ đứng nhìn theo thằng Giang Hồ Con. Nó hát ngêu ngao "Ngày lấy chồng em tưng tưng tưng tưng…" bằng thứ giọng phấn khởi náo nức. Rồi thì con hẻm chỉ còn tiếng huýt sáo của nó ngắc nga ngắc ngéo trên mảng hàng rào người ta cắm đầy miểng chai nhọn hoắc.
Ông già Khô Mực hay còn gọi là Ê Tẩm Quất hay Ê Vá Xe đã sống ngót chục năm trên đường phố, đã từng thấy máu không biến sắc, vết chém nào cũng đã ngó qua… bỗng hoang mang. Trong thinh lặng ông nghe nước chảy leo lẻo bên dưới miệng cống. Âm thanh nước chảy luôn lừa mị ông, lúc nào cũng róc rách trong veo bất kể màu nước đen ngòm bốc mùi hôi thối. Tiếng nước nhẩn nha, lòng ông cồn cả, cảm giác như hồi chiến nằm trốn lính trong rừng mà ngóng về ấp chiến lược. Mấy đứa em và người con gái ông thương kẹt lại trong đó. Người sau này là vợ ông, và đã không còn ở bên ông từ đêm tân hôn cô thấy chồng mình hì hụi tìm dấu máu tươi trên giường cưới.
Chiều hôm sau khi quay trở lại chỗ ông già, thằng Giang Hồ Con nhăn nhở khoe lượm con ho lao quá dễ. Ông già nín lặng, ông biết tấm vách gá bằng thùng giấy và những tấm nhựa quảng cáo không ngăn nổi một cuộc cướp đoạt, giày vò. Đứa con gái đó sáng nay đã đi qua chỗ ông. Đi bộ. Hai tay xách hai giỏ tàu hủ đậu nành lặc lè xao xác. Chân xà bát. Vai oằn cô độc. Mất mát. Chắc con nhỏ đau đến nỗi không ngồi lên yên xe đạp được, ông nghĩ vậy, cái thằng bất nhân quá…
Giang Hồ Con không đọc được vận rủi của mình trong sự im lặng của ông già. Nó không ngờ có một tối đang không ông già vấp té hất cái pít tông ngun ngút lửa vô trong lòng nó. Thằng nhỏ không hiểu sao dây giày của nó lại bị vướng vào nhau. Cũng không hiểu ông già quýnh quíu kiểu gì mà đi lấy rượu dập lửa. Càng khó hiểu mấy chữ ông grừ grừ trong họng, "chết chết, thôi rồi, cháy tiêu cái công cụ cưỡng hiếp con gái nhà lành rồi…"
Đâu! Hồi nào đâu?! Nó chỉ lấy của con nhỏ chiếc xe đạp thôi mà, đó không phải thứ quý giá nhất của con nhỏ nghèo mạt đó thì là gì là gì? Ông già mắc dịch tưởng là gì, giữa cái thời buổi đảo điên này…
OSHO VÀ BỒ
“Osho nói, chữ viết làm người ta văn minh hơn nhưng cũng độc ác hơn.”
Bồ nói và nắm bàn tay Vĩnh đang lạnh đi. Khi đó hai đứa ngồi ở nhà chờ xe buýt, bồ vừa đọc xong một mẫu báo cũ dùng để gói bánh mì. Trên giấy úa có cái tựa lớn “Đến thơ cũng ăn cắp?” cùng ảnh một người đàn ông. Vĩnh nhớn nhác ngó sơ mà biết bài viết có năm trăm mười bảy chữ, ba chữ sai lỗi chính tả, và ảnh kia là ba nó. Báo cũ lạt mực, nhưng cũng đủ nhận ra một gương mặt xương xương đa cảm, hơi ngước lên.
Tấm hình này nằm trong tập thơ riêng đầu tiên và cũng là cuối cùng của ba Vĩnh, người ta sẵn đó chụp lại in báo. Họ không tới gặp ông. Những quyển thơ ba nó đem đi đốt lâu rồi, và cái nhìn thẳng cũng vắng bặt. Ở nhà chỉ còn ánh mắt khi rắn đanh, khi lầm lũi, khi u tối… Nhưng chân dung cũ vẫn tồn tại trong những tờ báo cũ, vẫn xộc tới bâng quơ, tình cờ như mảnh giấy gói bánh mì này.
Và tình cờ làm buổi hẹn hò của Vĩnh kết thúc. Nó ào lên chuyến xe buýt vừa trờ tới, bỏ lại mớ ngơ ngác cho con bồ. Năm phút trước Vĩnh nói, “tụi mình đi đâu đó chơi đi…”, và ngó bồ mừng rỡ nhoẻn cười, Vĩnh đã nghĩ, hay là chiều nay nó sẽ đưa cô gái này vượt qua một mê cung hẻm, tới căn ngôi nhà có cái cổng gỗ vẹo vọ đằng trước. Bồ sẽ bất ngờ lắm khi nó ghé vào tai nói nhỏ, “má anh lãng tai, Ái nhớ thưa lớn tiếng…”. Bồ mong đợi cuộc gặp gỡ này từ hồi Tết, khi hỏi Vĩnh, lần đầu, “sao anh không đưa em về nhà chào ba má?”. Câu này có nghĩa, “anh có nghiêm túc yêu em không?”.
Đôi khi bồ hoang mang, thấy Vĩnh ngồi một cục thù lù trước mặt vậy nhưng thật khó nắm bắt, như khói vậy. Đôi khi bồ không nhớ ra ông Osho có lời khuyên nào trúng vô trường hợp này.
- Osho nói, nghi ngại có nghĩa là đứng lại. Thằng Vĩnh nhại lại lời bồ.
Câu này Vĩnh nghe hồi nào nó không nhớ rõ, bởi bồ trích dẫn Osho như cơm bữa. Quen nhau ở lớp sinh ngữ tối ít lâu, một bữa cô nghiêng đầu nhìn Vĩnh, bảo, “Có ông Osho bên Ấn Độ nói, nếu buồn không tiêu hóa được, chỉ còn cách ói nó ra, bằng lời. Ái thấy anh buồn rượi, sao không nói cho Ái nghe, cho khỏe người…”. Vĩnh nghe tên ông đó lạ hoắc, nhưng qua cô nhân viên của nhà sách Văn Việt, thấy người này hơi kỳ lạ.
“Osho nói, trong đời người ta sẽ bị ném đá một vài lần, đau chút nhưng chết vì mấy cục đá đó thì lãng quá”, Vĩnh nghe như ông Osho này từng học chung lớp, từng nghe đám bạn mỉa mai cười cợt, “bữa nay ba mầy lên báo nào?”…
“Osho nói, chạy trốn là dở ẹt, nhất là chạy trốn tình yêu…”, như Osho biết tại sao Vĩnh hay lẻn ra bằng cổng phụ tránh về cùng cô gái, tại sao Vĩnh lại phủi người ta như phủi bụi, tôi chỉ là thợ cơ khí, nghèo lắm. Không ăn thua gì, cô gái cười, “Có sao đâu, Osho nói…”.
Có thật Osho nói vậy? Vĩnh không biết, nó đâu có đọc sách, cứ cầm cuốn sách là trong cổ cuộn lên tiếng ngáy. Báo thì nhà Vĩnh đã không mua từ bảy năm trước, không một tờ nào. Nhưng cô gái bốn mươi hai kí lô kia là có thật, cô nói nhiều câu (được cho là của Osho) vá víu được nỗi đau âm thầm, biết Vĩnh bị thương chỗ nào và luôn chọn một miếng đắp thích hợp. Ngay cả khi Vĩnh thắc mắc, “tại sao tôi phải tin Osho?”
- Vì ổng không phải thánh, cũng không phải tầm thường như tụi mình, Vĩnh thử tin đi nếu thần thánh với con người đã làm Vĩnh thất vọng - Cô gái rụt cổ, nói thêm - Ái đọc thấy người ta viết vậy, chớ không phải Ái nghĩ ra đâu.
Vậy có câu nào mà Ái tự nghĩ ra? - Có lần Vĩnh hỏi vặn. Cô gái day qua ngó vào mắt Vĩnh và đôi môi nhảy múa khẽ khàng trên gương mặt nhỏ nhắn ấm áp, “em yêu anh!”. Môi Vĩnh quen mím chặt, thường bị răng cắn rát… không kìm được bèn áp vào đôi môi mát lành kia, đắp lên vừa khít một vết thương.
Từ bữa đó đời gọi tên cô gái là bồ.
Bồ Vĩnh dù đọc nhiều sách trong nhà sách mà cô đang làm việc, vẫn giản dị như đa số bồ (không đọc sách) khác, nghĩ yêu một lúc thì nên cưới nhau rồi yêu tiếp cho chắc ăn. Bồ trông Vĩnh đưa mình về nhà, cô sẽ sà vô bếp nấu nướng với má Vĩnh, nghe bà già kể hồi nhỏ thằng Vĩnh ở truồng. Sau đó ra uống trà với ba Vĩnh, chuyện trò về sách, hoặc theo người chị gái chưa chồng vào phòng, thủ thỉ bày cho chị cách yêu.
Thiên đường đó bảy năm trước Vĩnh đã có và đã mất. Bởi hai chữ “ăn cắp”, dù có dấu chấm hỏi đằng sau. Dấu thì mỏng mà hai chữ kia quá trần trụi, khiêu khích, bén ngót. Chúng róc chỗ này chỗ kia tí, nhà Vĩnh trống hoang. Đến buổi yêu ban chiều chúng còn xước mất.
Phải không, hay chính mình đã hai tay dâng cho chúng? Vĩnh nghĩ vậy khi bước vào căn nhà vắng. Má Vĩnh đã ngủ từ chạng vạng. Ba nó đang coi ti vi, chương trình khuyến nông chống rầy nâu cho lúa, một chuyện không ăn nhập gì tới cuộc đời ông. Nhưng ông vẫn ngồi cú rủ trước ti vi cho đến khi mỏi mòn đi ngủ. Đó là lúc má Vĩnh thức, lẹp xẹp ra ngó ti vi. Không ti vi thì làm gì bây giờ, ngoài cỗng biết đâu người ta còn nhớ…
Vĩnh ngồi ở cầu thang nghe ngôi nhà thiu thỉu nằm đau. Nhìn ba nó từ phía lưng, Vĩnh cảm giác ông già đang lún sâu trên ghế, và bóng tối sắp nuốt trộng cả phần đầu. Nó muốn cứu ông, chết cũng được, cũng phải cứu ông.
Mà làm gì đến nỗi chết, dù bồ cũng ném đá vào Vĩnh bằng vẻ thất vọng sững sờ trước sự thật, “ba anh từng lên báo vì bị nghi ngờ ăn cắp một bài thơ…”, dù cuộc tình dừng lại. Nhưng bồ đọc nhiều sách, bồ chỉ phì cười, mặt mũi vừa rửa trôi mớ bụi đường, trong veo, “Có sao đâu…”
- Đi với anh, có ông già bị thương quá trời, cần em lắm…
THỀM NẮNG SAU LƯNG
Ngày đầu tiên tới trường, Bằng lếch thếch quay về nhà với mớ sách vở ướt mèm, bộ đồ bê bết sình đất, bà ngoại kêu trời, nói, “tại thằng cha mầy không nên thân…”. Bằng nói không phải, do đường trơn, bữa qua mưa lớn quá.
Bằng mười tuổi, đi đào bắt chuột với mấy đứa nhỏ trong xóm, bị tụi nó vô tình xắn lưỡi dá vào cổ tay, máu chảy tràn, bà ngoại kêu trời, nói, “thằng cha mầy thiệt là bất nhân…”. Bằng nói, tại thằng Kẹo tưởng đâu tay con là con chuột…
Bằng mười sáu tuổi, đi đốn so đũa làm củi chụm, búa trật vào bàn chân làm đứt phăng một ngón, ngoại đấm ngực kêu trời, “ông trời ngó xuống coi, thằng cha bây có phải là người không?”. Bằng nói, tại con mài cây búa bén quá.
Giờ thì Bằng đã hai mươi hai tuổi, trên người thẹo vết không đếm hết. Ngoại Bằng nói cha cậu phải chịu trách nhiệm về tất cả nỗi đau này. Nhưng không có vết nào là do chính tay cha Bằng gây ra, nên cậu vẫn chưa thể oán hận ông như bà ngoại và má mong muốn. Đôi lúc cậu thấy buồn, vì mình đã làm họ thất vọng, đôi lần.
Hôm Bằng ra đời, má đã thất vọng rã người, khi phải đẻ rớt cậu trên xuồng, giữa đường tới trạm xá. Xanh xao và mất máu, má cũng kịp thở dài, “nhà đã có một người đẻ trôi nổi rồi, chưa đủ sao?”. Người “đẻ trôi nổi” là ba cậu, lúc đó đang đi theo máy cày bên Đồng Ông Lớn. Ba Bằng về thì con trai gần đầy tháng, ba rón rén nhìn đứa trẻ được gói ngo ngoe trong chiếu, phì cười, “trời, ngộ quá hen, dài ngoằng vầy mà sao nằm khoanh trong bụng con người ta được vậy?”. Bằng chỉ nghe kể lại, ngay cả vụ ba bồng cậu đi chơi bên xóm, về tới nhà trên tay chỉ còn mấy tấm khăn áo bọc ngoài, cậu thì rơi tuột xuống đống rơm bên đường… Mới bốn tháng tuổi, Bằng chưa có ký ức, nên cũng không nhớ là đã đau và đã khóc ra sao, nên cũng không thể giận ông vì cái lỗi lơ đễnh đó.
Người lớn thì giận. Có lần đi mượn gạo về, má Bằng vấp chân vô cái rễ cây, ngay lập tức má rút chiếc dép ra đập cái cây điên dại, mếu máo “anh khốn nạn, khốn nạn lắm…”. Bữa sau ba cậu mới cặp xuồng vô bến, mặt mũi, áo tóc nhàu nhò. Ông chở mười mấy giạ lúa ra tới nhà máy chà, gặp thằng bạn đi qua, bạn rủ đi chợ nhậu chơi, ông gật đầu. Ở chợ ông gặp vài người bạn nữa, họ rủ ở lại mai về, ông lại gật đầu. Lúc về chiếc xuồng trống không, ba cậu bán lúa đi chơi hết tiền. Má Bằng nằm day mặt vô vách, mắt mở trừng trừng mà nước mắt cứ tuôn ra. Ông nhón chân trên nền nhà ướt bọp bẹp, kéo tay thằng con, thôi, hai ba con mình ra vườn chơi.
Vườn nhỏ, nhưng rất dài, liếp nối liếp tiếp giáp với cánh đồng mênh mông đằng xa. Ba Bằng thường trốn ra đây mỗi khi làm vợ giận. Gác sẵn mấy cây cần câu ngoài vườn, ông ngồi câu cá trong khi chờ má Bằng nguôi ngoai. Ông sợ nước mắt. Bằng tha thủi chơi gần đó. Có lúc ông gọi giật giọng, “Bằng, tàu đò Rạng Đông lên tới đầu doi kìa…”. Chuyện tàu qua làm ông dợm đứng lên, xao xuyến, dù ông chẳng định đi đâu hết. Có lúc chờ cá cắn câu, thì con chim tu hú kêu, ông cũng cất tiếng kêu. Tu hú tưởng tiếng đồng loại bèn đáp lời, vậy là hai bên cứ rượt đuổi, quấn quýt, buộc vào nhau không rời, không dứt. Cho tới mệt ngất ngư, cho tới chạng vạng, con tu hú chắc cũng thở dốc ở đâu đó trong lùm tre, ba Bằng mới chịu xách mấy con cá vô nhà, với vẻ mặt hớn hở và ngây ngất, quên mất mình đã gây ra chuyện tày đình gì.
Sau này, khi ba Bằng đi rồi, cậu vẫn nhớ những buổi chiều tiếng tu hú vờn nhau, đuổi bắt, mơn trớn, dìu dặt trong vườn. Có bữa bơi xuồng qua nhà ngoại chở nước mưa, trên đường về nghe bìm bịp kêu thâm u trong bờ dừa nước, cậu cũng bắc chước kêu bịp bịp. Cả khúc sông nhói ran. Bà mẹ đợi lâu quá lội bộ đi kiếm, thấy thằng con đang thả xuồng trôi dập dềnh bên những chùm gọng, đang nói tiếng chim giữa chơi vơi nước lớn. Bữa đó Bằng bị trận đòn tơi tả, má vừa đánh vừa khóc, “thằng cha đã không nên thân rồi, giờ tới thằng con, chừng nào mầy bỏ má mà đi, hả?”.
Không, Bằng kêu trong lòng, con không bỏ má. Ba Bằng nói, nhà có một người giang hồ là đủ khổ rồi. Hôm đó ông vừa nói vừa vò đầu cậu. Hai ba con ngồi ở bên hè, má cậu đã lạnh lùng bơi xuồng qua nhà ngoại, chắc là qua đó nằm khóc. Bữa đó ba cậu mới về, sau chuyến vắng nhà ngót nửa năm. Ba ngó nghiêng vô bồ lúa, hỏi:
- Nhà mình lúc này sao?
- Cũng vậy. Lúa đủ ăn.
- Má con sao?
- Cũng vậy. Có mấy người tới, má lấy chổi quét dạt ra đường. Má nói thấy đàn ông mắc chán.
- Trời, giờ nói vậy, mai mốt kiếm không ra à.
- Thì đó… con cũng nói vậy.
Bằng nói với ba như với ông khách mới tới nhà, như người quen lâu lâu mới gặp. Cậu ta lẻo đẻo đi đằng sau bước chân bỡ ngỡ của khách, lâu lâu lại nhắc “ba, coi chừng đụng đầu. Cái chái này con mới lợp lại…”. Cuối ngày thì ba cậu đón tàu đi. Bằng hỏi, lúc này nhà ba ở đâu. Ông cười nhỏ, vò đầu cậu:
- Nhà ba ở chỗ có người ba thương.
Bằng lại hỏi:
- Cái người tên Hường ca hay ba kể hôm trước hả?
Ba cậu cười, nửa ngượng ngiụ nửa sung sướng, cánh mũi phập phồng, thôi rồi, ba đang thương cô Năm Phượng trồng khóm bên Xóm Rẫy. Cô này lớn hơn ba năm tuổi, mà trẻ măng. Bằng ờ ờ, ngó chiếc tàu đò vừa ló cái mũi qua doi trâm bầu, nói vội:
- Chừng nào rảnh ba dẫn con đi theo chơi ít bữa.
Ba vò đầu cậu lần nữa, và nói cái câu chìm sâu trong vũng ngậm ngùi, rằng nhà mình chỉ nên có một người giang hồ thôi. Bằng nén thở dài, thấy trùng trình nhìn tàu đi.
Hai mươi hai tuổi Bằng vẫn hay bợ cột nhà, mỗi khi tàu đò qua. Như thể cậu đang níu, đang vịn chính mình ở lại. Những chiếc tàu nối đầu ghềnh cuối bãi, đi tới những chân trời xa xôi, tươi mới. Cậu muốn vẫy tay, để cùng chiếc tàu xé đôi cái viền sông xanh rợp những lùm cây hoang dại, chui ra khỏi cái chốn quê này. Nhưng chút nữa Bằng phải qua nhà má đốn cây, chẻ lá để vài ngày tới lợp rạp. Hiên, con gái của dượng sắp lấy chồng.
Hiên bằng nhỏ hơn Bằng một tuổi, đó là đứa con gái hay mủi lòng. Có lần ngoại chiên bánh xèo, sai Bằng đem qua nhà má, gặp Hiên, Bằng nói, ngoại tao cho ba mày bánh. Con Hiên tự nhiên khóc mướt, nó mếu máo nói sao mà anh Hai nói chuyện nghe xa lạ quá chừng. Nó cũng cho rằng việc học hành dang dở, hay những thương tích trên người Bằng là do Bằng không có người cha tử tế. Bằng chỉ cười, gãi gãi cái đầu gối.
Có đôi lúc Bằng thấy đời mình hơi buồn. Bằng cố gắng giận ba về cái việc ông giang hồ ham chơi. Nó cố gắng giận má việc bà đi bước nữa với dượng Tư Thuần. Nhưng giận dữ và day dứt lại làm Bằng thấy buồn hơn. Quên bỏ thì thấy nhẹ nhỏm, hớn hở. Cảm thấy nhiều chuyện hồi nhỏ trong lòng mình vẫn nhớ, nên không gọi là mất. Và nhiều thứ mình chưa kịp có, càng không thể gọi là mất.
Hiên, Bằng không tính là mình đã có. Đứa em này từ trên trời rơi xuống, chưa sống chung nhà một ngày, vài ba bữa gặp nhau một lần, nói vài ba câu. Hiên hay khóc quá, Bằng cũng sợ, vì không biết trước được con nhỏ sẽ sụt sùi lúc nào. Hỏi má tao đâu Hiên cũng khóc. Hỏi bên nhà mầy ăn cơm chiều chưa, Hiên cũng khóc. Hôm nghe tin đám gã sẽ tổ chức vào rằm tháng chín này, Bằng ngồi tra cái cán dao, nói, “mừng quá, bữa đó tao được ăn ngon…”. Con Hiên khóc tức khóc tưởi như Bằng vừa mới đánh nó. Bằng sợ nước mắt như ngày xưa ba nó sợ nước mắt má nó, nên bỏ ra vườn, chọc ghẹo con tu hú, chim vừa kêu vừa bay, Bằng vừa kêu vừa đi, theo hết chín mảnh vườn, băng qua chín hào ranh, mệt đứt hơi. Lúc quay vô nhà con Hiên vẫn còn thút thít. Từ bữa đó, nó không nhìn Bằng nữa.
Bằng cũng không lấy đó làm chuyện buồn lòng, cậu bận tối mắt mũi. Lúc thì kéo cá dưới ao, lúc thì chạy xuồng đi mua nước đá, lúc chở má đi chợ… Đôi khi bỗng nghĩ, khi nào mình cưới, chắc ba sẽ về. Ông sẽ xớ rớ ngồi bên mép ghế, tay mân mê mép bàn, sượng sùng nhìn quanh. Bằng sẽ ra cầm khách, mời ba ăn bánh, hay ba ăn thêm chén cơm nữa, đừng có ngại. Bằng hình dung, má cậu sẽ giả vờ lạnh lẽo lướt qua người đàn ông năm xưa là chồng mình, bà không thể lấy chổi chà quét đuổi vì đó là ngày cưới. Bằng cưới, thí dụ vậy. Có điều, lúc đó Bằng sẽ không biết ông ở đâu mà nhắn tin. Năm ngoái chạy chiếc ghe chở than đước qua khúc sông Láng Cháo này, ông thập thò ghé thăm Bằng. Bà ngoại mắt đã mờ, cũng không biết ai ghé nhà, nhưng nghe cất tiếng hỏi “má khỏe không?” là cằn nhằn ở đâu lổn nhổn bò ra. Ba Bằng cười hề hề, kéo tay thằng con ra sông ngồi nói chuyện chơi. Bằng không còn hỏi lúc này ba ở chỗ nào, tự thấy chiếc ghe mui vuông đậu đằng kia là nhà ông, nơi thấp thoáng một tà áo đỏ lúi húi vào ra.
Hôm đó, ba rờ nắn dái Bằng, hỏi:
- Ê, muốn vợ chưa mậy?
- Muốn hồi mười lăm mười sáu tuổi rồi, ông ơi! – Cậu nghe cái đó nhộn nhạo chạo chực trong bàn tay mềm mại của ông.
- Trễ vậy? Hồi đó tao mười hai tuổi là thấy gái biết ham - Ông cười vang. Rồi rất cố gắng, vừa sửa cái bâu áo lại, ông vừa nói với giọng nghiêm túc - Chừng nào cưới vợ ba lo cho một cây vàng.
Bằng cười, tự biết lời hứa này không nên chờ đợi. Người cha cũng tẽn tò, bẻ nhánh cây xoi xoi trên mặt đất. Bằng biết ông nghèo bộng ruột. Nghèo mà không áy náy hay lo lắng chuyện mình nghèo. Hồi đi theo máy cày, nửa tháng ăn sương ngủ gió trên đồng, lúc về nhà chỉ có nhúm tiền con con, má Bằng thở dài, “trên đời dưới thế chỉ có mình anh, gặp bạn bè là quên phứt vợ con…”. Ba Bằng gãi đầu, cười hệch, ừa, sao kỳ quá, anh tính ghé tiệm tạp hóa mua cho con lon sữa với mấy ký đường, gặp thằng bạn cũ, nó rủ ngồi lai rai chơi. Bữa sau tính về, bạn kéo đi đám cưới cháu vợ nó, đờn ca vui quá…” Và trong đám người vui chơi ca hát đó có người đàn bà tên Hường, chuyện đó thì ba cậu không kể.
Khi nhớ về người cha trôi giạt, Bằng luôn trong vai một người đứng bên lề, nghiêng ngó. Dù khi ông rượt theo con tu hú, cậu cũng ở đó, nhưng lại thấy mình rời ra. Chỉ mình người cha với cuộc chơi tùy hứng và bất tận của ông. Bằng nhận ra điều đó khi thả chiếc xuồng chở đầy nước mưa trôi theo tiếng kêu buồn trĩu của con bìm bịp, trong Bằng không còn thời gian, bờ bến, thế giới không còn người, đến chính Bằng cũng không còn. Sau đó má Bằng xuất hiện, cái nón lá chấp chới trong tay, đứng réo Bằng ơi Bằng, mới xua tan được khoảng sương mù mịt.
Sau lần đó má càng ân hận hơn vì đã đẻ Bằng trên xuồng. Bằng thấy áy náy, nên cố gắng làm cho má tin trận đòn dữ dội kia đã làm cậu thay đổi. Biết má luôn dõi theo mình với tất cả hy vọng và thất vọng, giữa bữa cơm Bằng không bao giờ ngừng đũa dù khi ấy tàu đò qua, Bằng không ngó xa về phía chân trời, không lang thang ngoài vườn vắng, không nhìn theo những cánh chim, không tụ tập với bạn bè… Má Bằng cũng thấy yên lòng đôi chút, nhưng bà không hề biết, cái khúc sông tối om, con bìm bịp làm cậu nhớ dai dẳng, dù nhiều năm qua rồi. Dù lúc này cậu hai mươi hai tuổi, đang chở một xuồng cây về bắc cái cầu ra sông, phòng hờ mai rước dâu vào giờ nước ròng, xuồng đàng trai có thể dễ dàng cập bến.
Sau này Bằng cứ tiếc, phải biết có cô trong đoàn người đó, cậu đã đóng thêm tay vịn cho cây cầu. Cậu sẽ tìm ván lót sàn chứ không phải ghép vội những thân cây còn ướt nhựa, làm cho cái gót giày nhỏ xíu của cô kẹt lại, gãy lìa. Đám rước dâu hơi nhốn nháo. Cô loay hoay đứng chôn chân một chỗ, chẳng biết nên bỏ giày đi chân không hay cứ bước thấp bước cao, cho tới khi Bằng không nói không rằng bẻ luôn cái gót giày bên kia. Lúc cúi xuống, vạt áo dài vàng chanh cứ mơn trớn hững hờ đắp lên mặt cậu.
Từ đó thì mắt Bằng không thấy gì ngoài cái màu vàng chanh chấp chới. Không có đám cưới nào, sáng nay. Không có bà mẹ ngượng ngập mặc áo dài lén lau nước mắt. Không có Tuyết Hiên mặt mũi như đào hát, cổ đeo dây chuyền vàng đang đứng ngơ ngác, dè dặt bên cạnh chồng. Không có đám đông ăn uống chúc tụng nói cười. Không ai cả. Vắng rợn như khúc sông chiều với tiếng bìm bịp kêu, như mảnh vườn thâm u tiếng con tu hú. Bằng nhìn những ngón tay nhỏ nhắn và khẽ khàng của cô, lúc nhón cái bánh, lúc chậm mồ hôi, lúc vén mớ tóc lòa xòa, lúc cắn hột dưa, cảm giác lâng lâng như khi bắt đầu cất tiếng chim gọi nước. Thỉnh thoảng cô nhìn Bằng, thẳng thắn và dạn dĩ, có chút dò hỏi, chút ngạo nghễ, rồi môi đỏ nhuộm nụ cười cũng đỏ, thả lửng lơ về phía thằng con trai đang đứng lơ ngơ.
Cô đi khi nước vẫn chưa lớn, vịn Bằng để bước xuống chiếc đò máy, cô cười, “chà, không biết chừng nào mới gặp lại…”. Bằng vẫn không biết tên tuổi, không biết nhà cô ở đâu, cô đã có chồng hay chưa. Bằng càng không biết được cô có còn nhớ cậu không, khi quay lưng lại. Nhưng điều đó chẳng làm cậu buồn, hay mất mát. Bằng đã kịp nắm bàn tay của cô, chạm vào từng ngón, từng ngón. Chúng mềm và mỏng manh như những cọng bông súng chớm héo đi dưới nắng.
Không một chút oán giận nào cái dòng sông đưa cô đi, như đã từng đưa ba, má cậu đi. Lúc rảnh rỗi, Bằng ngồi bên dòng chảy, nhìn tàu qua, nhìn tàu qua. Mỗi ngày năm bảy lượt. Bằng nhớ cô, nhớ nụ cười, cái nhìn, bàn tay ấm nắng. Bằng hay giơ bàn tay mình ra, dưới ánh sáng mặt trời, như không tin vào điều kỳ diệu, bàn tay chai sạn sứt sẹo này đã từng nắm lấy một bàn tay.
Một sáng, bỗng dưng có chiếc tàu ghé lại, họ tưởng Bằng đã vẫy tay gọi. Sự hiểu lầm làm cậu ngẩn ngơ giây lát, ông chủ tàu hối “lẹ lên, mậy…”. Vậy là Bằng nhảy xuống tàu. Cái thềm nắng lấp ló sau hàng bông bụp, nơi bà ngoại cậu đang treo võng ăn trầu, nơi cậu từng ngồi vót cần câu thả… đã khép lại, như gánh hát khép màn.
Lúc thu tiền, ông chủ tàu đò hỏi Bằng đi đâu, cậu cười, tàu chú đi tới đâu tôi theo tới đó. Ông chưng hửng, trời, vậy nhà cửa chú mầy chỗ nào mới được chớ... Cậu lại cười, lòng nghĩ, nơi nào có người tôi thương nhớ, thì nhà tôi ở đó. Nhưng giờ thì tôi chưa biết nhà cô ấy ở đâu.
Khi đi, Bằng mặc cái quần lỡ màu xám, áo sơmi xanh dương ngã màu đã đứt hai cái nút phía trên, chân không, đầu trần với ít chục ngàn trong túi…
RƯỢU TRẮNG
Bé sinh ra tù một cái trứng xỉn mèm.
Mẹ Bé khi đó tròn mười sáu tuổi, một bửa đi đám nhóm họ ở bên sông, cô dâu mời uống rượu nếp than. Rượu này không qua chưng cất, cơm nếp ủ men ba mươi sáu ngày thì tiết ra thứ nước ngọt ngào thơm phức, uống vào nghe ngây lịm tùng khúc ruột. Mẹ Bé tưởng tượng đem rượu rưới lên đá bào cũng giống xi rô nên uống no nê. Rượu ngấm, rất đằm. Ra về tới giữa sông thì cô gái không cầm nổi cây dầm, lăn ra ngủ kệ xuống trôi đâu thì trôi. Sáng sau tỉnh dậy thấy xuồng mắc vô bụi lá, thấy trong người vẫn còn ấm mềm, bồi hồi rời rã, tưởng mình vẫn còn say. Bữa dó là mùng năm tháng giêng. Mùng năm tháng năm bụng chống áo đội lên. Hai bảy tháng mười thì mẹ đẻ Bé.
Truyện cổ từng ghi lại nhiều chuyện cực kỳ bâng quơ tương tự, như bà nọ ướm vào vết chân bên đường và sinh ra Thánh Gióng, chị kia uống nươc trong cái gáo dừa và sinh ra Sọ Dừa. Thời may bà ngoại Bé nhố ra những câu chuyện đó để gượng cười khi ôm đứa trẻ ngo ngoe trong tay. Thời may hồi nhỏ Bé cũng tin cổ tích nên nghĩ nó là con của cái - gì - đó có tên Rượu Nếp Than.
Bữa nào bà ngoại kháp rượu thì Bé ngủ rất ngon, đánh thức rồi vẫn thòm thèm díu mắt lại ngủ tiếp. Một sáng đi vô căn buồng kín mít thông ra cái chái nhỏ vừa là nơi ngủ vừa là nơi nấu rượu của bà ngoại Bé, chị trưởng trạm y tế kêu trời đất ơi, hơi rượu nồng nặc vầy không chừng con nhỏ xỉn. Bà ngoại thôi mơ mộng cháu mình có gốc gác thần tiên, chuyển võng Bé ra nhà ăn. Nhưng trong ly sữa bò hay chén nước cơm pha đường, trong những cái bánh kẹp hay cục kẹo... mà Bé nhâm nháp mỗi ngày đều bảng lảng mùi rượu nếp. Và đêm đêm khi rúc vào nách bà ngoại ùm hơi ấm, mùi hương mê dụ vẫn lẩn khuất ở đó, có khi còn nồng gắt hơn. Đó là lúc bà say.
Bé không thích bà ngoại say. Nhưng làm việc trong Ủy ban xã Tiền Đường không thể không say, tổng kết quý hay ra quân làm lộ nông thôn, hội thảo đầu bờ hay lễ tuyển quân, một người chuyển đi hay người nào mới đến, ngày mưa dầm hay chiều cuối tuần... đều có thư đưa cay. Bà ngoại Bé đi qua nếm tí, đi lại uống nửa ly thì không kể. Nhũng chiều cuối tuần bà ngoại mới say thật, không có lý do để uống cầm chừng, mai không cần phải dậy sớm nấu cơm, mà nếu say thì bước chục bước là tới giường. Chỉ Bé nhìn thấy mất mát sau những cuộc vui đó, nó phản ứng bằng cách trèo lên nách ngoại, làm mình làm mẩy gào khốc vặn vẹo đòi đi. Nhưng rốt cuộc nó không ngăn được bà ngoại thấm rượu ngủ mê muội, say đến nỗi không hay chú Biền ngật ngừ bước vô buồng, lần mở áo và âu yếm ngực bà. Ở đó có đôi bầu vú nhỏ nhắn nhưng rắn chắc, đượm mùi hương bảng lảng mà ngây dại bay lên từ những khấp rượu nóng hổi.
Chuyện cũng chỉ vậy thôi mà Bé khổ tâm lắm, nó cảm thấy bị cướp đoạt. Nó nghèo muốn chết, cha không biết tròn méo sao, mẹ biền biệt đời thợ may ở đất Sài Gòn, chua chất vì “ở lại cũng không mong lấy được chồng, xứ này ai mà không biết vụ thả trôi sông”, mẹ nói. Gia tài của Bé chỉ có bà ngoại và hai bầu vú hơi lớn hơn nắm tay nó. Nếu há miệng hết cỡ, thì nó sẽ ngậm được một nứa, và bà ngoại sẽ ngúc ngoắc thân người, nắc nẻ cười, ui trời đất, nhột! Nhưng Bé đổ lì mút miết miết, bà ngoại nằm im nín thở, thở dốc rồi sau cùng là thở dài. Nhờ bầu vú dậy hơi men và sữa của một Ông Thọ lạ hoắc nào đó, Bé lớn lên.
Nên mỗi khi bầu vú bà ngoại biến mất trong cái miệng rộng huệch của chú Biền, Bé khốc tức tưởi. Cho nó và cho bà ngoại, như kia là con sói đang gặm nhấm dần dần cơ thể bà. Có lần tiếng khóc tức tưởi của nó khiến chú sượng sùng bỏ đi, nhưng không phải lúc nào Bé cũng ngăn được. Đứa trẻ chưa biết nói thì cũng giống củ khoai, ai mà sợ. Và bất kể nó báo thù bằng cách đái dầm lên giày chú Biền, hoặc thả vô đó cái xương cá lúc chú rút chân ra chéo nguẩy xỉa răng... thì những buổi nhậu khuya khoắt vào cuối tuần luôn làm Bé mất mát trong câm lặng.
Câu đầu tiên mà Bé nghĩ phải nói ngay khi biết nói là chuyện chú Biền cắn lén bà ngoại. Nhưng câu đó quá phức tạp với đưa trẻ hai tuổi rưỡi, nó buộc phải bập bẹ những từ vô bô như “chó xù tối hù”, cuối cùng cũng nối được mấy chữ tuôn bao nhiêu ấm ức. Ngoại dáo dác ngó quanh sợ ai đó nghe thấy rồi ngó Bé tủm tỉm cười, mắt lấp lánh nắng ngó ra ao rau muống chìm trong mưa giông ràn rạt. Rạng rỡ tỏa ra từ cái miệng duyên dáng của bà lan nóng đến vành tai, ngón chân cái... Bà đã làm những việc mà nghĩ rằng chẳng tới đâu, như để dành cho người đó mấy cái chân gà, như làm sẵn một ít dưa sả hay đưa phần canh có đầu cá lóc tới chỗ bàn ông ngồi. Những tín hiệu tình yêu bà thả lơ lửng bâng quơ đó đã được bắt gặp và hồi đáp, không vui sao được?
Cố gắng lắm ngoại mới nghiêm mặt lại, dặn Bé đừng nói với ai. Bé không sợ ma tóc dài, ông Chà Và, nhưng bà ngoại tỏ ra vô cùng rầu rĩ nói rằng, “nếu tụi mình bị đuổi đi, không có chỗ ở sao ngoại nuôi con được?”. Câu đó lập tức có tác dụng. Bé sợ xa bà ngoại, xa cái mùi rượu vương vất trên những gì thuộc về bà. Nó mím miệng lại, không bao giờ kể với ai rằng vào những buổi nhậu hơi khuya, lúc chú Biền khật khùng đứng dậy và đi về phía nhà vệ sinh nằm ở cuối dãy nhà, chú luôn đi lâu lâu vì vòng ra phía sau chui vào căn buồng của ngoại Bé, mở chiếc áo mà từ khi biết chú có ghé chơi bà ngoại chỉ cài hờ một nút. Chú gần như ngay lập tức được úp mặt lên vồng ngực nóng ran.
Nhưng những chuyến ghé qua vội vã của chú Biền dần thưa thớt. Vì Bé biết nói rồi, vì tỉnh gởi công văn kêu thôi bớt rượu. Tờ giấy mỏng manh mà ai nấy răm rắp nghe lời.
Bà ngoại Bé vẫn hay cười nhưng buồn teo đọng phía đuôi mắt bắt đầu hơi héo. Không hẳn vì rượu ế mà vì chú Biền độ rày không mấy khi say. Lúc tỉnh táo chú Biền luôn giữ gìn hình ảnh uy nghi, quan cách. Đứng đầu một xã với hàng ngàn dân thì không buông thả được, dù là trong ánh mắt. Có khi chú không ngước nhìn bà ngoại Bé lần nào trong suốt hai buổi cơm. Thậm chí có tuần thì chú Biền chỉ nói vơi bà ngoại Bé mỗi câu “Út, hết ớt rồi nghen”. Những tín hiệu bà ngoại cố gắng gởi đi rơi lả tả như mớ lá mục trên mái nhà, ngai ngái cái mùi buồn và ướt.
Bé cũng không thấy vui hơn dù thưa vắng những bửa say cuối tuần. Kháp rượu lạnh tanh, năm bảy bữa mơi đỏ Iửa một lần. Vắng mùi rượu và khói bếp bỗng nghe chung quanh dậy lên ẩm mốc. Trong phòng, ngoài chái, trên vẻ nói cười của bà ngoại và trên nét mặt của những người lui tới. Buổi sáng Bé lửng đửng đi suốt dãy nhà tập thể nối dài với nhà ăn, ngơ nghiêng coi người ta đánh răng, cạo râu, bì bạch giặt quần áo... thấy bơ vơ khi nghĩ tới vài phút nữa họ lên phòng làm việc, mặt ai cũng nghiêm ngắn như đắp thạch cao, nhất là khi có khách lam lũ ngơ ngác bước vào.
Bà ngoại nói khách đó là dần. Bà ngoại không muốn làm dân ngơ ngác nên gắn bó quyết liệt với công việc chị nuôi của mình, cả khi chú Biền chuyển đi làm quan trên huyện, một cuộc đi mà chú mơ ước. Không thể vì một người đàn bà mà người ta ở lại, còn lâu... Chỉ mỗi mình Bé biết ngoại lạnh đi, nó vùi mặt mũi mình vào người bà, nhưng không làm cho chúng nóng ấm trở lại. Bà ngoại thường ủ cơm vào những chạng vạng, vật vã chồm ra đệm trộn men đến mệt nhừ, đến thanh thản lăn ra ngủ không mộng mị. Cố trở lại giản dị như trước khi có một người đàn ông cởi bỏ chiếc mặt nạ để yêu bà. Nguyên xã này biết bao nhiêu người đàn bà nấu cơm mà phải lãnh đòn của chồng, chỉ mỗi mình nấu cơm lãnh lương nhà nước, ý nghĩ đó làm bà ngoại hài lòng. Và vẫn còn đó hy vọng, lại gặp ai đó để yêu.
Những ngươi thay chú Biền đều nhỏ tuổi hơn bà ngoại Bé, chờ miết mới có anh biết trùng trình mỗi khi bà quét cái đuôi mắt biết cười sắc ngọt đi qua. Anh gầy dựng lại hội hè vào những dịp có cơn cớ hoặc chẳng cần cơn cớ gì. Tờ công văn kia cũng như những tờ công văn kia nữa nằm quên trong đáy tủ. Già trẻ lại chộn rộn réo bà ngoại Bé, “Út ơi út à...”. Cán bộ ở huyện lên công tác cũng Út ơi Út, lúc nào gặp Út cũng ngon, cũng bén ngót như vầy là sao tụi này chịu nổi.
Bé ngồi canh Iửa kháp rượu sau tấm vách, làu bàu đối thoại vơi bóng nó:
- Ngon sao không thấy người nào nhào vô cắn miếng?
Ngoài kia lại hỏi Út bỏ bùa gì trong rượu?
Chắc lại nắm tay bà ngoại rồi, Bé cười khan.
Không có bùa. Chỉ một ít rễ cây Chơn Nhơn bà ngoại nó đem về từ Trảng Cò, phơi ba sương chín nắng, sao vàng rồi mài mịn rải vào những thùng ủ. Chúng khiến những người mấy mươi phút trước còn trịnh trọng ghi chép, trịnh trọng nói những lời trịnh trọng bỗng trở lại mềm yếu, tầm thường.
Bé lớn lên trong gian nhà ăn của xã ủy Tiền Đường, nó đã thấy người ta uống rượu của bà ngoại nó và ca hát, và khóc lóc và nấc cục và ngủ gục. Có người vốn nói nhiều uống nữa chừng thì ríu lưỡi. Có người điềm đạm bệ vệ chợt hồ hởi chửi thề. Có người suồng sã cởi trần như anh bán thịt ngoài chợ. Và cái anh xã đoàn thường đỏ mặt khi Bé gọi là ba Việt bỗng điềm nhiên ôm nó nhấc bổng lên, nói cho ba Việt ôm xíu coi, nhớ quá.
Bé nhớ cái ôm nồng ấm làm nó nghẹt thờ hồi bảy tuổi đó, thấy lạ tại sao đến giờ vẫn nghẹt thở, mỗi khi Việt kêu, “Bé ơi, lấy miếng cơm cháy cho anh...”
Bé không gọi anh kia là ba Việt nứa. Nó đã mười sáu tuổi. Nó nghỉ học khi chưa xong lớp bảy, sau một bửa ra quán ăn hàng, nghe lóm thầy giáo dục công dân ba hoa kể chuyên thời trai trẻ. Có đoạn vầy, một tối thầy đi họp Hưng Mỹ về thì gặp chiếc xuồng trôi, trên đó một đứa con gái đang ngủ không biết trời đất là gì hết, mà thầy cũng say không biết trời đất là gì hết...
Kháp rượu thì không cần phải học cao, Bé nói khi bà ngoại tới đón nó ở phòng hội đồng nhà trường về, sau khi ném ly đá bào vào ông thầy giáo dục công dân làm áo thầy loang đỏ như máu. Trí thức chỉ tới mắt cá chân, Bé cho rằng chữ nghĩa thay đổi được con người nhưng rượu còn quyền năng hơn, nó biến đổi được người đã sành chữ nghĩa.
Bé thanh thản nối nghiệp bà ngoại, gắn bó vơi những kháp rượu như một định mệnh của mình, của một đứa trẻ sinh ra bởi cơn say. Một mình nó kháp rượu mỗi khi bà ngoại bận nấu cơm hội nghị, đi qua những thùng ủ chỉ cần ngửi mùi nó biết thùng nào ủ được bao nhiêu ngày, ủ quá ngày rượu đắng, non ngày đem nấu rượu sẽ chua. Rượu nó kháp chưa ngon lắm, hơi nồng gắt như một màu son chói nhưng cũng cho ra thứ rượu không đốt cháy, chúng ngấm vào người chậm rãi, gây ra một thứ say bâng quơ, ơ hờ. Thứ rượu không gây vật vã đau đầu, sáng hôm sau thức dậy người ta vẫn thấy mình sảng khoái, cả bí quyết dùng rễ cây Chơn Nhơn liều lượng cũng đều tay, ít quá làm người ta tỉnh táo toan tính hoài, con người thư hai trong họ không thức dậy, nhưng nhiều quá người say mất hết chút lý trí còn sốt lại, dễ làm bậy.
Bà ngoại Bé nói vậy, bà không bao giờ nghĩ mình đang bán rượu, mà là bán một phương thuốc, để một người này trở thành một người khác (bà cũng không phải đang yêu lay lắt mà cứu chuộc chất người bị đè nén bên trong những người đàn ông kia). Và những người say càn quấy chửi bới nghêu ngao trên đường không phải là uống rượu của bà. Nhũng người say hung hăng ngược đãi vợ con cũng không phải uống rượu của bà. Và ông thầy giáo dục công dân kia chắc là uống rượu ủ men Tàu bán trôi nổi...
Bà cháu Bé làm men từ cỏ cây, rượu được nấu trong nồi đất, ống dẫn bằng tre, thùng ủ cũng bằng sành nên rượu vô cùng thanh khiết. “Rượu của mình”, bà ngoại Bé thường nói ba chử đó bằng niềm tự hào ngút ngất. Những kháp rượu nếp nóng hổi lấy ra từ chái bếp thông với căn buồng ám khói của bà chỉ làm ông xã đội dụi mãi mặt mình vào chiếc áo cũ của chị hội phụ nữ đã lấy chồng, làm chị trưởng trạm y tế phải khóc òa, “trời ơi giao thừa này tôi vẫn chưa có ai...”, làm những hạt ánh sáng lấp loáng mê đắm trong tia nhìn theo những tà áo bà ba xẻ đến là cao. Những tia nhìn không bao giờ dễ bắt gặp khi họ tỉnh.
Bé bắt gặp chúng vài lần, từ mắt Việt. Trìu mến thì không phân biệt được, nhưng đam mê rất dễ nhận ra. Người ta là cán bộ đã có vợ con rồi, nó dặn đi dạn lại để mình đừng mơ, mà không hay khoảnh khắc hoang mang ấy cũng là mơ. Bé vừa sợ vừa thích, như người ta sắp nếm ngụm rượu đầu. Biết là cay là đắng nhưng vẫn háo hức tìm kiếm cảm giác đằng sau nó. Nào thơm của gạo nếp ngoài đồng bãi, nào dư vị ngòn ngọt vướng vất nơi cổ, nào nóng ấm ran lên từng chân tóc...
Tuổi mười sáu Bé lúc nào cũng như đang say, má đỏ và mắt lung linh nắng. Bà ngoại ngó Bé mà thấy trùng trình, rồi con nhỏ sẽ sống cuộc đời như mình, phập phồng chờ đợi một người thương được cơn say mang tới. Nhưng lấy một người yêu mình lúc tỉnh mà đánh mất mình khi say thì cũng đau, bà ngoại đã gặp một người thô bạo và phải mang con bỏ chạy, chỉ kịp lấy theo cái họ Võ cho đứa nhỏ làm gia tài.
Cái ý nghĩ đời mình đang được Bé lặp lại làm bà ngoại hoang mang. Nó giống bà ở chút nhan sắc, giống cái đuôi mắt biết cười, cách gửi thương nhớ vào rượu hay những món ăn, vụng về gói không nổi thầm kín để thỉnh thoảng chúng lại rơi rớt, lấp lánh trên nét mặt. Người đàn ông mà Bé hay ngó lén cũng là phiên bản của chú Biền, ngay cả lúc lạnh lùng vẫn tỏa hào quang, từ cái áo sơ mi trắng cài nút kín cổ tay, viết vắt túi, mặt mũi đượm suy tư chuyện làng chuyện nước, ăn nói đĩnh đạc... Và họ thuộc về những cuộc đi, bà còn lạ gì...
Chỉ Bé là chưa quen. Hôm được tin anh phó chủ tịch tên Việt cao ráo đẹp trai có hai cái răng vàng làm duyên nơi khóe miệng được kêu về tỉnh, một bước thẳng vào đường quan trường thênh thang, nó nhìn thấy vẻ mặt mãn nguyện của Việt mà có chút ngỡ ngàng. Xa nó mà sao người ta hớn hở vậy?
Bữa xã liên hoan chia tay Việt bà ngoại Bé phải về đám giỗ ở quê. Bé góp mặt vào cuộc đưa tiễn bằng những nụ cười gượng gạo. Khi rượu đã chảy tới đầu chân mày, nó bỗng nghĩ bà ngoại mình chưa bao giờ say đến nỗi chẳng hay biết gì. Người kháp rượu luôn thuộc lòng cách rượu của họ đi vào người họ. Bé biết nếu uống hơn tám ly nó sẽ khóc mò, qua ly mười ba hai chân nó sẽ mềm đến nỗi có thể buộc vào nhau, ly thư mười lăm thể nào cũng lắp bắp nói ra thương nhớ. Vậy đâu có được. Nó giả đò say sớm đi ngủ sớm, dù muốn ngồi thêm một chút và năm ba chút nữa. Cách một tấm vách buồng dán trang trí bằng những tờ báo cũ, Bé nghe Việt nói anh trưởng thành ở đây, nhà ăn này mấy cái chén bị mẻ miệng anh thuộc lòng. Giọng Việt nghèn nghẹt như khóc, như vài giờ trước đụng nhau trong bếp anh nói nhỏ với Bé, “muốn ôm em quá, chưa đi mà anh đã nhớ em rồi...”. Thì ôm, Bé trả lời gọn hơ. Việt ngó nghiêng bên ngoài, nói người ta thấy là chết... Bé lại cười, thì tìm chỗ vắng (bụng nghĩ rằng chuyện có khó gì đâu...). Câu đó được Bé coi như tín hiệu đã gửi đi nên giờ nó nằm chờ. Cửa chái sau đang mở. Và Bé đang say không biết trời trăng gì như mẹ nó ngày xưa và như người ta tưởng vậy. Mãi khuya mới nghe Việt xô ghế đứng lên, nói thôi về, mai phải thu phát biểu trên truyền hình, mặt mày tươi tỉnh coi mới được...
Việt đã dừng lại trước cửa buồng Bé đứng năm giây, rồi đi...
Bé bẽ bàng ngồi dậy đổ nếp trong thùng ủ đã đủ ngày ra, nhen Iửa kháp rượu. Cái diệm nước lạnh nó mới thay để ngâm ống dẫn đã làm hơi nước ngun ngút nóng chật bung trong nồi hẫng hụt rơi xuống một thứ nước trong veo như sương sớm, như nước mắt, chảy leo lẻo giữa đêm. Không gặp nước lạnh thì rượu bay lên trời, Bé nhớ bà ngoại hay nói vậy, nghĩ trời ơi mình thành rượu rồi. Rưng rức ngồi nhìn Iửa nhảy múa dưới đáy nồi, Bé tự hỏi, phải chăng nó dùng không đủ lượng rễ cây Chơn Nhơn khi ủ mẻ rượu mà Việt vừa uống lúc tối hay có thứ gì quyến rũ mê dụ hơn một đứa con gái mười bảy tuổi đã tự nó tẩm rượu ấm mềm, chỉ mong được người ta ôm xiết một lần, lúc chia tay...
Lúc bà ngoại về đã thấy Bé lầm lì thu dọn những thùng ủ. Bà ngoại không hỏi gì, lấy ngón tay chấm vào mẻ rượu nấu lúc nửa đêm, nghe có chút mặn lấn khuất đâu đó, làm nên vị rượu đằm thắm. Thẳm suốt như mẻ rượu nào của bà đã nhiều năm trước.
Đằng kia, Bé chặt dây võng nói mình đi khỏi chỗ này ngoại ơi, ở đây không ai thấy hai bà cháu mình đẹp...
KHÓI TRỜI LỘNG LẪY
1. Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn lỗ chân lông.
Tôi lụi hụi ngồi dậy đắp mền cho thằng Phiên. Tấm mền ngắn ngủn, mong ấm cổ thì hở chân, che kín đôi chân thì phong phanh vai trần. Lại chạm tay vào nó như thường chạm khẽ trong đêm. Có lúc thằng nhỏ hơi mỉm cười, có lúc nó càu nhàu rồi lăn sát vách mùng, có khi nó quạu quọ gạt tay tôi ra. Nó phản ứng kiểu nào tôi cũng vui bởi ý nghĩ, nó còn ở bên tôi.
Nhưng khuya nay, khi tay tôi vờn trên cái mũi lấm tấm mụn của Phiên, khi cái đầu gối xương xẩu của nó co lại thúc vào sườn tôi đau nhói, vẫn cảm giác thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi. Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng đã nhổ neo rời khỏi cồn. Nhưng mưa mùa triền miên cùng với những cơn giông gió cũng không ngăn được nó quay lại, càn rướn vào rặng ô rô rách bươm.
Và không có gì ngăn gã đàn ông trên chiếc xáng kia tới tìm tôi, với vẻ nham nhở thường ngày, hỏi tôi suy nghĩ tới đâu rồi. Nham nhở như gã của ba ngày trước, khi chìa ra một vuông báo cũ ố vàng và khiêu khích hỏi tôi có gì để đổi không. Mảnh giấy nhỏ nhoi ngó chừng vô nghĩa nhưng gần như tôi không có gì đáng giá đánh đổi, ngoài chính tôi. Gã chỉ chờ đợi điều đó thôi, khẽ cười đắc thắng.
Nhưng tôi câm lặng không phải vì tuyệt vọng mà vì những bức ảnh trong bài báo phất phơ trên tay gã. Ba tôi, Anh, và tôi của ngày hai mươi ba tuổi. Tấm hình tôi dán trong bộ hồ sơ xin việc, mặt quang quẽ, tóc vén lên vành tai, nhìn thẳng, hơi mỉm cười nhưng mắt tối. Trên bài báo, ba cái ảnh nằm gần như cạnh nhau, nhưng hai người kia đang tuyệt vọng tìm tôi. Ngày trên trang báo dừng lại ở mười ba năm trước.
Ngày hai mươi ba tháng tám. Không biết bữa đó tôi với Phiên đang ở trên chuyến xe đò nào trong một lộ trình trốn chạy. Ngày hôm đó, có thể chúng tôi đang ôm nhau ngủ còng queo trong một toa xe lửa hôi sặc cứt gà, một phòng trọ mốc meo, có thể chúng tôi đang ngồi tàu đò, lúc đi qua cái cồn xanh mịt những rặng dừa nước, rặng bần có ai đó thở dài ứ hự, “cho tui nhiêu tiền cũng không lên cái cồn Bần này ở, buồn thấy mẹ…”, tôi liền kêu tàu ghé lại. Anh tài công xửng vửng, chắc hôn vậy, chắc chỗ này không, tôi gật đầu cười, bồng Phiên bước lên bờ, nói về tới nhà rồi, cưng ơi.
Chiếc tàu de khỏi bờ lá, Phiên vẫn đang ngái ngủ trên vai tôi, không biết rằng từ nay nó sẽ sống một cuộc đời khác, với cỏ cây, với sông nước, và vài ba nóc nhà thưa thớt của xóm cồn.
2. Khoảng cách ngàn cây số cũng không ngăn được những chiêm bao. Có thể ban ngày tôi thường nhớ, khi ngó cỏ cây, nhìn những người xóm Cồn í ới giúp tôi lợp nhà, ven vách, nhìn Phiên lửng đửng đi từng bước trên đất… tất cả đều quen thuộc. Như những gì cất giữ ở Viện di sản thiên nhiên và con người.
Mỗi chiêm bao là một lát cắt, một cảnh phim dang dở về nơi đó. Có khi tôi thấy vía mình ngập ngừng đi vào một tòa nhà cũ chìm lút trong một khuôn viên um tùm cây cỏ. Qua mấy bậc tam cấp gãy nứt nối với khoảng hành lang hơi tối có vài căn phòng khép cửa. Cuối lối có mảnh sân rộng nằm giữa tòa nhà, nắng sáng rót lưng chừng. Nhiều tấm pano được treo trên bốn bức tường vây quanh, giăng giăng những khẩu hiệu, bên này là “giữ gìn cái đẹp của nhân loại như giữ nhịp đập trái tim mình”, “Cái đẹp thường mong manh và tàn nhẫn, chúng ta sẽ chạm vào điều kỳ diệu giữa cơn đau”, bên này là “cần có một tâm hồn lớn để cảm thụ những cái đẹp cuộc đời”. Chữ nào cũng chắc nụi, lớn lao.
Vía tôi bị chữ hù, cứ hí húi đong đếm coi tâm hồn mình bao lớn, rồi vía thấy một dòng chữ khác được đắp nổi lên tường, “Không có gì là mãi mãi, hãy cất giữ thế giới này”. Vía tò mò, hồi nhỏ tới giờ chỉ biết đất nước muôn năm, anh hùng muôn năm. Ở đây họ nói không có gì là mãi mãi.
Tò mò quá, vía đẩy cửa vào.
Và trong những chiêm bao hao khuyết tôi từng đêm, những cánh cửa của tòa nhà Viện di sản thiên nhiên và con người luôn mở ra rất chậm, sau tiếng kèn kẹt là vùng ánh sáng chói lòa, như thể phía tôi là bóng tối.
Khi đó thằng Phiên lăn sát vào tôi, hay chân nó đập xuống giường trong lúc trở mình làm tôi thức giấc, ký ức vẫn tiếp tục mở ra những cánh cửa, mở ra những rung động, bất ngờ. Một vài căn phòng giống như biển, ngay lập tức khiến tôi chìm sâu, ngộp thở, nhưng tôi hoàn toàn không muốn vùng vẫy, chạy trốn. Lý do đôi lúc chỉ vì trong đó có người đàn ông giống như một người nào đó tôi đã gặp trong đời, một người tôi đã mất dấu.
Nhưng người đàn ông phỏng vấn tôi hôm xin việc không tỏ ra chút nào quen biết, anh ta hờ hững và xa lạ, lơ đãng khép mở hồ sơ trên tay, lơ đãng hỏi một câu lơ đãng, em có kinh nghiệm gì?
Trời, kể hết chắc tới mai. Tôi đã từng rửa chén và phục vụ ở nhà hàng, sơn tường nhà, phát tờ rơi, chăn trẻ con, xé vé ở rạp chiếu phim… và tôi còn có khả năng tươi cười, bất kể hoàn cảnh nào. Nhưng chẳng hiểu sao khi anh gác chân còn lại lên bàn, tôi lại nói ra một kinh nghiệm kỳ lạ:
- Tôi lắng nghe người ta nói.
- À, vụ này hay nghen, vậy chớ em nghe làm sao?
Tôi nhìn mấy tờ giấy bay lắt xắt trên bàn, và nghĩ mình có quyền nói dóc là trực đường dây nóng cho sản phẩm dầu gội hay thuốc diệt muỗi abc nào đó. Nhưng tôi ngước lên, cố bắt chước vẻ giễu cợt của anh ta, làm bộ điều tôi nói ra đây không quan trọng, “cũng lâu lâu rồi, tôi có làm bồ mướn”.
À, người đàn ông không biến sắc, anh ta làm như mới nghe nói tới nghề này lần đầu, nói lạ quá, em kể thêm chút nữa đi. Tôi dùng hết vẻ thản nhiên mà tôi vơ vét được, thuật một câu chuyện mà tôi biết nó chán òm. Có lúc không tìm ra học phí, bạn bè nói làm bồ mướn cũng có tiền, rồi giới thiệu cho tôi một anh. Chúng tôi gặp nhau không đem quá khứ theo, không có cả tên, gọi anh ơi em ơi như mặc nhiên tên họ là Anh tên tôi là Em. Những cuối tuần, tôi nín thở chờ điện thoại run lên và Anh nói sẽ đón. Chúng tôi đi ăn, uống, đi tới những cái quán nước vắng người để ngồi chơi. Có khi anh nói, tôi nghe. Có khi Anh không nói gì thì tôi im lặng, im lặng cũng là cách lắng nghe. Cao trào của mối quan hệ này là một lần Anh bật khóc nên tôi cho mượn vai. Tóc Anh hơi rối làm cổ và má tôi nhột ran, cả người tê dại, nhưng tôi cố chịu, vì tôi là bồ mướn. Nên vai này coi như được trả tiền rồi.
- Chúng tôi… không đi xa.
- Đi xa là đi đâu? – Lại giễu cợt.
- Từ eo tôi trở xuống.
Tôi quyết định dừng câu chuyện ở đó, giữ đoạn cuối trong lòng. Sau bữa cho mướn vai, tôi bỗng nghĩ, thôi kệ, đi xa cũng được, nhưng Anh không bao giờ gọi nữa. Không có tăm tích nào trên đời, như một giấc mơ vậy. Tôi buồn xanh xương. Không bao giờ tôi hình dung mình gặp lại giấc mơ xưa trong căn phòng này, vẫn gương mặt phớt đời, vẫn cái nhìn ngạo nghễ, và vẻ lạnh lẽo xa xôi.
Tự dưng, tôi thèm muốn tìm được một công việc nào đó ở đây, quét lá cây trong vườn cũng được. Buổi phỏng vấn là một cơn nín thở, và òa vỡ khi người đàn ông xốc xấp giấy tờ lại, bắt tay tôi:
- Từ giờ cô sẽ lắng nghe thiên nhiên nói.
Cái kiểu bắt tay cũng hờ hững, đầy vẻ ban ơn. Tôi không thấy phiền chút nào hết. Tôi vui muốn chết.
3. Chuyện đời tôi được người xóm Cồn đồn đoán, thì thầm rằng, yêu một người bị gia đình phản đối, tôi bất chấp trốn nhà theo anh ta, sinh thằng Phiên, rồi bị anh ta bỏ, không biết đi đâu về đâu, tôi tạt qua xóm Cồn ở tạm, chờ ba má tha thứ tôi sẽ dẫn con về. Chưa bao giờ tôi kể, nhưng ánh mắt u tối của tôi, thằng nhỏ đang lẽo đẽo dưới chân tôi, kiểu cười tránh những câu hỏi khó, tất cả đã nói thay.
Rằng tôi tới đây chờ đợi một sự lãng quên, giống ông Sáu Câu từng chịu án giết người, giống chị Thắm lẩn tránh những đòn ghen của bà vợ lớn, giống chị Thiện bỏ lại ở quê chồng con và món nợ hụi hè … Những người mà họ nợ dù tình cảm hay tiền bạc, biết họ ở đây, nhưng không ai đuổi theo. Cái cồn nằm giữa dòng sông Mê mênh mông, tự nó như một chốn lưu đày.
Chân trời chỉ nước và cây, mặt trời mọc trên sông rồi lặn vào sông, bờ Bắc bờ Nam nhiều bụi rậm mọc hoang lẫn trong những chòm cây cối. Chiều nào bìm bịp kêu, nắng chìm lỉm theo. Tôi hay nhìn về đó, tự hỏi người ta còn tìm kiếm tôi không?
Một ông già vác cần câu đi qua, hỏi tôi, nhớ nhà hả cô?
4. Tôi nhớ vài căn phòng, ám ảnh và xao động, như kho lưu trữ của Viện di sản thiên nhiên và con người. Nhà kho rộng, nhiều cái tủ kệ cao đến tận trần nhà, chạy song song tạo nên những lối đi hun hút. Trên kệ người ta xếp hàng ngàn khay dữ liệu, tất cả được ghi chú bằng những ký hiệu lạ lùng. Những thiết bị nghe nhìn đặt rải rác ở các góc phòng. Khi tôi chạm tay vào chúng lần đầu tiên, bằng tất cả nôn nóng tò mò và bối rối, tôi chỉ có thể nghĩ, chắc mình chết ở đây luôn quá.
Nhốt mình trong đó suốt một tuần, và sau này, khoảng thời gian nghỉ giữa những chuyến đi, tôi gần như chọn kho lưu trữ của Viện là chỗ trú chân, vạ vật. Tôi luôn thấy tiếc nuối khi rời đi khỏi căn phòng đó như hay tiếc nuối khi rời khỏi mộ mẹ tôi. Khi lục lọi những khay này, tôi đã dòm ngó qua khay bên cạnh, bên đó không biết có cất giữ những hoa lau óng muốt dưới nắng, có đàn cò trắng bay qua trăng chiều, mớ lục bình rách nát trôi ra cửa biển.không biết có ông già rớt nước mắt thổi khèn vờn quanh bà già trong phiên chợ… Lẫn giữa sự háo hức là nỗi tuyệt vọng, có thể hết đời này tôi sẽ chẳng bao giờ thưởng thức hết những hình ảnh, âm thanh đẹp đẽ và rung động của cuộc sống đang được lưu lại nơi này.
Họ vẫn đang làm đầy nó lên.
Và tôi sẽ làm đầy nó lên.
Hồi làm bồ mướn, có lần tôi lén lấy điện thoại thu tiếng nói Anh, buồn buồn lấy ra nghe chơi. Mà nghe lần nào cũng có cảm giác đói, đoạn âm thanh ngắn là tiếng muỗng chao leng keng trong ly cà phê đá, và Anh lơ đãng hỏi, “đói bụng không?”, tôi nhớ khi đó mình đã ứa nước mắt, giả vờ cúi xuống cột dây giày. Tôi hay cảm động với những câu hỏi như đói bụng không, ăn gì chưa…
Công việc của tôi ở Viện cũng gần giống vậy, tìm kiếm và ghi chép những âm thanh, hình ảnh giản dị của cuộc sống được cho là có giá trị, đáng lưu giữ. Nó có thể như một cái phim tài liệu nhỏ có mở đầu và kết thúc, hay chỉ là lát cắt bất chợt của mưa, gió, của lá rụng hay những bông hoa lăn trên cát…
Tôi rời căn phòng nhỏ trên tầng thượng cư xá sinh viên, nơi tôi làm ổ bốn năm học và thêm một năm tìm việc. Nhiều đêm buồn quá, tôi giả làm tượng phơi sương, rình coi những đôi chim heo yêu nhau, lá cờ bay bên tai rười rượi. Hôm gom mớ hành lý hẩm hiu cùng di ảnh của mẹ đi, tôi ghi lại tiếng cờ bay, coi như là mẫu đầu tay, mang về Viện. Anh trưởng phân ban của tôi râu tóc rối bời, lúc nào cũng bỏm bẻm nhai kẹo cao su, nghe xong anh vạch bụi râu ra cười, “Buồn hen nhỏ, nghe cô đơn dã man, đâu đem duyệt thử coi…”. Tôi luôn chờ đợi những cơ hội nhỏ nhoi đó, được tới gặp anh Viện phó mà tôi thương thầm, với lý do chính đáng. Và vẫn như mọi khi, anh này giễu cợt, chậm rãi và tàn nhẫn, làm tôi chết mê chết mệt.
- Kiếm sọt rác nào xấu nhất quăng cái này vô, xong đi tìm cho tôi những gì sắp mất, ngoài kia nhiều lắm…
Tôi gật gật làm ra vẻ đã hiểu rồi, nhưng “ngoài kia” chính xác là ở đâu? cái gì sẽ mất?
Có nhiều câu hỏi người ta tốn cả đời để trả lời, thí dụ như câu “Anh có thương em tới chết mới thôi không?” Tôi nghi ngờ mẹ tôi đã từng hỏi cha tôi câu này, hồi còn con gái. Cha tôi thấy khó nói quá, thôi cúi xuống khóa môi mẹ tôi cho rồi, có ai vừa làm chuyện đó vừa nói được đâu. Tôi thò đầu ra đời, mẹ mừng húm, tưởng tình yêu trả lời. Nhưng cha tôi cùng chiếc xe tải bèo nhèo bán cây giống chỉ quay lại xóm Chiếc vài lần, thưa, thưa dần và cha tôi không tới nữa, khi tôi bốn tuổi. Tôi bắt đầu hỏi một câu dễ òm, “mẹ ơi, cha con đâu?”, mẹ ngó ra sân, nói con chuồn chuồn đẹp quá. Cũng có khi mẹ chỉ vào vách và nói thằn lằn cụt đuôi kìa con. Tôi rượt đuổi theo những vu vơ của mẹ suốt thời thơ ấu, cho đến khi ngơ ngác đội khăn tang đi trong một đám ma ít người đưa, vẫn không nhận được lời đáp. Tôi hay nghĩ, nếu hôm đó chiếc xe khách không hất mẹ văng bên đường, chắc chắn buổi tối lại mẹ sẽ kể cho tôi nghe chuyện về cha tôi. Nhưng buổi tối bị bỏ lỡ, câu hỏi đó vẫn được day đi day lại, và tôi trả lời theo cách của mình. Như khi mợ tôi tỏ ra hờn giận, “nhà hết gạo rồi, chừng nào ba mầy về dẫn mầy đi?” tôi cười nói trưa nay con không ăn cơm, hồi sáng ăn mấy củ khoai còn no quá chừng. Như những lần sắp nhập học, mợ nhắc, “không biết chừng nào ba mầy quay lại…”. Tôi nhẹ nhỏm cười, hồi hè con đi làm kiếm được ít tiền, con tự đóng tiền trường được, mợ khỏi lo… Nói trớt quớt, nhưng mợ hài lòng.
Hồi đó tôi đã biết một câu hỏi có năm bảy kiểu trả lời, giản dị nhất là toét miệng ra cười, khỏe nhất là kêu “đi hỏi ổng”, phức tạp nhất là đi mấy chặng xe lớn nhỏ tới một chợ xã lún trong bụi đất đỏ, gặp một người đàn ông tóc vuốt dầu mướt rượt bảnh bao, thảnh thơi ngồi chơi bài “tiến lên”, góc nhà có hai đứa nhỏ đang cự nự. Vợ ông trạc tuổi hơn mẹ tôi, bưng ra cho tôi ly nước hột é, hỏi em cưng kiếm ai ở chợ này, tôi ngó người đàn ông nói, dạ cháu cũng quen sơ sơ thôi, giờ mưa quá nên hết quen rồi. Năm đó tôi mười bốn tuổi, đã bắt đầu tự mình tìm kiếm câu trả lời, những khi thấy lòng thắc mắc.
Giờ tôi đang thắc mắc cái đẹp nào đang và sắp mất. Để tìm câu trả lời, tôi bắt đầu rời khỏi thành phố, bắt đầu những chuyến đi xa. Vì thành phố đã xua đuổi thiên nhiên đi xa.
Tôi thường tần ngần ở ngã ba, không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Chung quanh tôi quá nhiều vẻ đẹp, đừng nói dấu mưa xoi khuyết những viên gạch trần, hoa bìm bìm lợp tím rịm cả một chòm cây, vạt rừng bướm bay như trấu vãi… với tôi, cây cỏ cứt heo mọc bên đường cũng đẹp. Nhưng những vẻ đẹp này trong kho lưu trữ Viện đã chật đầy, tôi vẫn phải loay hoay.
Một bữa, khi rửa đôi giày bê bết bùn sình bên sông Ba Bẩy, tôi nghĩ, không biết dòng nước này đang mang bụi đường này chảy về đâu, sao mình không theo nó thử coi. Nước cứ men theo bờ bụi chảy hoài cong cong quanh quanh, có đoạn nhập vào nhánh sông khác rồi lúc sau lại rẽ. Những biến hóa bất ngờ cứ xỏ mũi dắt tôi đi, dòng chảy lúc cuống quýt lúc nhởn nhơ, hoa cỏ bên bờ, những xóm làng bên bờ… Có tối tôi nằm ém gần bụi chùm gọng hàng giờ, chỉ để chờ con bìm bịp trong đó cất tiếng kêu cho bầy đom đóm hết hồn bay lên lả tả. Có trưa ngồi coi nước lên, thấy vài sự sống tình cờ từ những trái mấm đi hoang kẹt trong miệng hang của con cá thòi lòi, bén rễ luôn ở đó; một trái dừa chuột khoét trôi ngang qua, chở theo con chàng hiu ngồi thom lom, mặt nó buồn vô phương, như thể hỏi rồi đời đưa ta giạt về đâu?
Dọc đường, gặp người tôi cũng xáp vô làm quen. Tôi theo những người chài cá chốt giấy, tường thuật luôn một vụ giỡ chà, rồi nhảy qua chiếc xuồng be chín có cắm tàu lá dừa làm buồm cho gió đẩy đi, lai rai với ông già vừa uống rượu vừa ung dung cầm lái. Tôi còn rình được thằng nhỏ vừa thót lên cất vó thì cái quần đùi giãn dây thun bị tụt, nó quýnh quáng buông càng vó chụp quần lại, làm cái vó úp trúng chiếc xuồng chèo ngang qua, tiếng rầy la dậy động.
Tôi về nói bên mộ mẹ, lúc này con làm mấy chuyện tào lao lắm, mắc cười lắm. Mẹ tôi im lặng, kiểu của mẹ dù sống hay chết, dù chung quanh mẹ người ta đang nhộn nhạo nói cười. Ngày tôi bỏ quê đi ngôi mộ còn nằm tuốt ngoài đồng, giờ thì lọt thỏm giữa một xóm nhà, muốn ra thăm phải chen bên hè của một quán nhậu có rèm che. Đi qua lần nào cũng có người níu lại, kêu cầm mớ tiền rồi đem cái mả đi, chớ giờ người ma lộn xộn xà ngầu, hết phân biệt nổi. Đi qua lần nào cũng có cô nào đó giòn tan than í nhột nè quỷ sứ anh, tiếng đàn ông cười khơ khơ anh khát sữa lắm cưng ơi, lẫn trong tiếng nôn ói ồ ồ đằng sau.
Dòng kinh trước nhà ngoại tôi người ta chặn lấp, những chỗ còn lại thành những ao tù đầy nước, ai đó cắm bảng “cho mướn nền”. Tôi sực nhớ ra thân phận của con sông Ba Bẩy tôi vừa đi qua. Bèo thôi trôi, chỉ còn người trôi, chắc chắn có mấy cô í nhột nè quỷ hà. Di sản của con sông chỉ là hình ảnh mà tôi vừa nhặt nhạnh được.
Và những vẻ đẹp được nhốt trong phòng lưu trữ của Viện là những tiếng kêu thét tuyệt vọng, bất lực trước mất mát, sự run rẩy của nỗi buồn, bởi quá nhiều thứ ta sẽ không bao giờ thấy lại ngoài đời. Anh đạo diễn phim sẽ tới đây để tham khảo những âm thanh của khu rừng nguyên sinh ngàn năm tuổi cho bộ phim mới. Tôi sẽ đưa cháu mình tới, chỉ cho chúng biết kia là chim sẻ, kia là núi, còn đây là chiếc xích lô, xe thổ mộ hồi xưa ngoại từng ngồi, hơi xóc tí nhưng hay lắm, thơ mộng lắm… Cứ vậy, tôi hình dung mông lung, rồi bỗng dưng ăn gấp thở gấp ngủ gấp. Tôi muốn nhanh tới những dòng sông, cánh đồng khác. Chỉ khi nào nhớ anh sếp ngạo mạn, tôi mới trở về cơ quan, bước vào căn phòng anh, xổ ra bàn mấy chục mẫu, ngẩn ngơ lén ngó anh ta rồi quay ra.
Có khi anh ngó lom lom, chui vô chỗ nào mà gai quào rách con mắt vậy?
Có khi anh nói, hèn chi mấy sạp giày ngoài chợ bán buôn ế ẩm…
Tôi ngúc ngoắc cái ngón chân thò ra khỏi chiếc giày rách, cười rưng nước mắt, bước ra ngoài, nghĩ, trời ơi ảnh dễ thương hết sức. Rồi tôi đi ngủ, cốt giữ nước mắt lại. Tỉnh dậy nhiều khi thấy có tấm áo đắp trên người, chắc ai đó đã vào, thấy tôi nằm chò co khó coi quá. Cái dáng nằm, như nhiều người nói, toát ra một nỗi buồn. Tự mình cuộn vào, ôm ấp, tự che chở, tìm hơi ấm của chính mình.
Nhứt thấy tôi ngủ một lần, cậu ta nói tôi như con cá Bảy Trầu, sống khép mình ở những chân ruộng sâu, ẩn náu trong rong rêu và rạ nát. Nhứt là cộng tác viên của Viện, mê đắm những cái xóm làng miên man bên bờ sông Ngó Ý, nơi cậu chạy đò máy xuôi ngược mỗi ngày. Mỗi tháng một lần Nhứt lên thành phố chở cá giống, ghé Viện, khoe với bất cứ ai cậu gặp, “chuyến này mẫu của em khẳm xuồng luôn”. Mẫu của Nhứt gợi cảm, sôi nổi như chính cậu. Con rắn mối thì thụt trong bộng dừa mục rã. Những rạp cưới được trang trí bằng lá dừa, bẹ chuối, lá đủng đỉnh, bông lồng đèn… Những gàu lá, gàu miểng dừa đặt cạnh những khạp nước mưa trong lẻo, đặt ngoài hiên đỡ khát người qua đường. Một con nhỏ bưng tô canh măng hầm thịt vịt đi trên đường làng, nước canh đầy quá, đi nửa chừng nó húp bớt, qua nhà kế bên nó đưa tô măng cạn queo cho thằng nhỏ kia, thẹn thùng nói, má tao cho má mầy canh…
Tôi thích tính Nhứt hồn nhiên, nên khi lang thang, Nhứt gọi điện thoại nói cuối tháng này em lên chơi, tôi lại thu xếp trở về. Ngồi nghe Nhứt sôi nổi, “đó đó, lúc đó em núp bên mé mương nghen chị, ô rô nó đâm đau dã man luôn, nhưng quay được cảnh hai thằng nhỏ tắm sông ở truồng đo chim tự nhiên như vầy, sướng…”. Sau đó, Nhứt sẽ mời tất cả mọi người trong Viện đi nhậu, bằng tiền thù lao mà cậu ta mới nhận được, chèo kéo cho bằng được, “Bảy Trầu đi cho vui…”. Tôi thích biệt danh đó, nghe như trên tôi có có năm anh chị, dưới tôi còn vài đứa em, không phải tôi trơ trọi một mình.
Món quà của Nhứt tôi mang theo. Tôi tên Trầu, thứ bảy, mẹ của thằng nhỏ một tuổi rưỡi tên Phiên.
5. Chỉ có một đám giỗ ở xóm Cồn, trùng với ngày tôi với Phiên đặt chân lên đó. Người ta nhắc, năm trước cô Trầu nhớ hôn, thằng nhỏ con cô mới biết đi lũn đũn, năm nay nó nói sõi, chạy không sót chỗ nào. Lúc nhìn ra sân, thấy Phiên ạch đụi rượt con vịt xiêm cồ, è ạch cố cưỡi lên, rồi té lăn quay ra đất, tôi ngỡ ngàng kêu thầm, trời đất, một năm rồi sao?
Một năm. Chín lần cười trừ khi người ta hỏi, sao trôi giạt tới chỗ này. Một lần đốt cỏ hoang làm rẫy. Năm lần gieo và thu hoạch trên những giồng rau. Một lần bị rít cắn. Một lần cuốc phập vào chân tuôn máu. Tám lần thằng Phiên ấm đầu, sổ mũi, ho. Bốn lần hết gạo nấu cơm, phải giả đò đợi đến bữa qua chơi nhà khác, chờ ai đó mời lơi là nhào vô ăn chực. Ba lần quá giang xuồng đi chợ cách Cồn hai cây số đường sông, ba lần Phiên nhìn thấy người đông. Ba lần bỏ quên thằng nhỏ ở nhà hàng xóm, lúc nhớ ra chạy đi tìm thì nó đã ngủ queo rồi.
Mười năm sống một mình trở thành thói quen. Tôi thường đi băm bổ làm Phiên rớt lại đằng sau, thường ăn cơm bằng dĩa, rúc ngủ chèo queo nơi góc mùng… Nhưng giờ tôi đã là mẹ thằng Phiên, tôi luôn dặn mình điều đó. Làm mẹ thì nên thường xuyên hôn hít nó, ôm ghì nó quay vòng cho đến khi cả hai chóng mặt quá nằm bẹp xuống đất, thổi vào mấy chỗ nhột của nó cho nó cười nắc nẻ, dành cho nó những trái chín cây ngon nhất, cuộn nó vào lòng lúc nửa đêm… Mẹ tôi đã từng làm vậy cho tôi.
Và mẹ thì không bao giờ để con mình thiếu ăn. Tôi theo ông Sáu Câu đi câu.
Ông già kỳ lạ đó có hai cái chòi cất trên cồn. Chòi phía Tây nằm sát mé sông, mỗi khi nước rông, hay lũ lớn nhấn cồn lún xuống, chòi còn trơ trọi nóc. Ông già chuyển lên sống ở chòi phía Đông, vốn ở lưng chừng, nhưng giờ cũng chấm chân vào mép nước. Và trong cái chòi lá quật quăng tơi tả, ông đối mặt với dòng sông, ngồi câu bất kể những ngày mưa dầm tối tăm trời đất.
Ông không mê câu, ông không sắm chiếc xuồng đi tìm cá như những người kiếm sống trên sông mà chờ cá tìm mình. Vì ông hay thèm giết người, đây cũng là lý do ông ra cồn Bần ở, khi mãn tù. Ở đây, nếu sự ham muốn đó trỗi dậy, ông phải lội qua sông, hay chờ tàu đò đi ngang. Có khi tàu tới thì ông ngủ quên dưới bóng mát mấy cây bần. Có khi lội chạm bờ kia thì ông mệt rã rời, tạnh nguội cơn khát máu. Nằm thở một lát, ông lội ngược lại cồn.
Người xóm Cồn kể có ngày ông qua sông đến ba bận. Kiếm được cây cần câu, ông không phải lội tới lui nữa. Tôi hỏi:
- Chú còn muốn giết người không?
- Còn chớ, hận thâm căn cố đế mà. Lúc nào muốn quá thì xách câu ra, dặn trong bụng, chừng nào dính được con cá mới được đi nghen. Rủi, có bữa mới thả câu thì thấy nó rị phao.
- Rồi sao?
- Thì bắt cá nướng trui. Ăn no quá đâm ra buồn ngủ, đâu có muốn đi nữa.
Ông già cười. Tôi tập hỏi để tôi trở về con đàn bà hai mươi chín tuổi, chớ không phải bà già chín mươi hai. Một phần, ở cái đất Cồn này, mỗi lần hỏi đều nhận được câu trả lời, hoặc gần với câu trả lời. Hỏi chị Thiện nhớ chồng không, chị cười khậc khậc, nhớ có cái chân giữa của ổng hà. Hỏi chị Thắm sao đem son phấn thả sông, chị nói ở đây chỉ có mỗi thằng Thơ khùng, chưng diện nó cũng đâu có coi. Người tên Thơ đó sống một mình, không già không trẻ, suốt ngày ràng cái radio cạnh lỗ tai, mở đài rột rẹt rột rẹt cả khi đi ngủ, có bữa đi ngang qua thấy anh đứng một chân dưới gốc cây trứng cá, hỏi anh làm gì, anh nghiêm nghị, “Ta là vịt đang học tiếng người”. Hỏi ông Sáu đã giết ai, ông già ngó ra sông, để lời rớt khỏi môi như một giọt rượu chảy ngược qua cái răng gãy, “Con vợ tôi…”. Và có khi tôi chưa hỏi, ông đã nói, “Thứ đó không phải để câu cá”. Đó là lúc tôi nấn ná gần cây cần câu nhỏ ông dựng ở góc chòi đã lên nước bóng ngời, sợi nhợ mỏng nối với một lưỡi câu lớn không ngạnh, thẳng như dấu chấm than.
Ông già đã bao nhiêu lần thả câu này vào sông chờ tạnh cơn thèm muốn tìm giết gã tình địch đã làm gia đình tan nát, khiến ông nhúng tay vào tội ác, tôi tự hỏi lúc nắm đoạn cần câu lạnh buốt, neo lưỡi câu thẳng đuột xuống nước. Ngồi hàng giờ bên cạnh thằng Phiên đang giang tay phơi rún ngủ, tôi tưởng mình đang chờ nó thức dậy để hai mẹ coi cùng về nhà, nấu cơm chiều. Ông già day lại móc mồi, bâng quơ hỏi, cô thấy không an sao?
Tôi nói không, nhưng nhận thấy câu trả lời đó rất bất công với ông, tôi sửa lại, à mà có, cháu sợ mất thằng Phiên.
6. Cảm giác mất mát trở nên thật rõ ràng khi làm việc ở Viện di sản thiên nhiên và con người.
Ông già bảo vệ ở cổng Viện có lần nói nụ cười cô Di như cái áo, mặc để giấu mớ bề bộn trong lòng, chắc có đôi ba chỗ bị thương. Thêm một lý do tôi thích những ông bảo vệ, họ biết tôi về khuya hay sớm, biết bữa tối tôi ăn xôi hay bánh mì, biết tôi có áo mới, biết tôi vừa cắt tóc, biết cả ít chuyện riêng tư, “cái cậu chạy đò tên Nhứt gì đó, chắc thương cô Di mà cô không để ý, nên lúc này không thấy lên nữa…”
Tôi giật mình, chắc không đâu. Nhứt không tới Viện nữa bởi những xóm ấp ven sông trong lòng Nhứt không còn. Lúc đầu Nhứt còn nhăn nhó lác đác, than vãn lai rai khi cái đình thần Thạnh Hưng xây lại, sơn phết như “tuồng hát bội”, khi người ta làm cửa cho những ngôi nhà vốn bao đời mở phơi lòng, khi người ta dẫn nhập nước mặn vào đồng... rồi thì một bữa Nhứt tới chơi, nói, đi nhậu chị ơi, lần này nữa thôi…
Nhứt không tới nữa. Ấn tượng cuối cùng về Nhứt là cậu ta quăng ly rượu vô vách quán bể nát, chửi thề, “Quê tui còn mẹ gì, giống như cái biển vậy …”. Điều đó làm Nhứt khác chúng tôi, Nhứt không chịu nổi sự mất mát. Còn người ở Viện đối mặt với mất mát hằng ngày, hàng giờ, ở trong nó, ăn nó, uống nó. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc không yêu bất cứ gì, hoặc tập chai sạn trước nỗi đau. Cách nào thì dẫn con người về một chỗ: vô cảm. Họ có thể giẫm lên những mầm cây vì tin rằng những cái cây này không bao giờ sống sót được mười năm tuổi, khi cái xóm nghèo đang chực hờ gần đó. Họ có thể nhấm nháp rượu rắn với chim sẻ nướng dù biết đó là những con cuối cùng, họ đã giữ cuộc đời chúng bằng tiếng hót, bằng hình ảnh chúng sà xuống sân như một bầy lá rụng… và đem cất trong Viện, là xong.
Tôi không còn thích ra quán ngồi. Hồi đó tôi nghĩ đây là dịp mình gần anh Viện phó, được chào hỏi những đồng nghiệp có khi chỉ mới gặp lần đầu. Tôi vẫn chưa mở được tất cả những cánh cửa trong Viện giữa những chuyến đi về. Hiếm hoi trong những bữa tiệc tùng quen được chị Hát lỡ thời, say đắm những cơn gió trời thích anh Đê bên phân ban con người nhưng anh này lại mãi mê đeo đuổi vẻ đẹp lem luốc của những người thợ mỏ. May mắn ngồi chung với một anh khét tiếng tắm ít, suốt ngày giang nắng cùng những người đàn bà quang gánh. Mẫu của anh rất hay, những người phụ nữ có đôi vai lệch và bên vai áo sờn, những đôi chân gân guốc vồng lên vì chịu nhiều sức nặng. Những cuộc gặp cũng đôi khi xảy ra trên đường, có bữa lang thang trong chợ trung du, tôi lén sổ lồng cho mấy con nhồng bị người ta bày bán, lúc bỏ chạy tự dưng nghe tiếng xe máy sau lưng, ai đó kêu lên xe anh chở, tôi nghĩ lỡ anh ta là người bán nhồng thì sao, mình đâu có ngu. Người đó thấy tôi cắm đầu chạy hoài, kêu lớn, “dân di sản nè…”. Ủa vậy hả, tôi hí hửng nhảy lên xe ôm eo anh, nghe đằng trước rầy vói lại, “em đúng là con nít, làm chi uổng công vậy em, mấy con chim trước sau gì cũng bị bắt lại…”. Tôi nghĩ trong lúc thở dốc, phải biết vầy mình chạy bộ luôn cho rồi.
Người của Viện đông, nhưng họ cũng như tôi, đi níu kéo những mong manh, chỉ khác, họ hay đi cùng nhóm, thực hiện những chuyên đề về làng nghề, những trò chơi dân gian, hay nghệ thuật làng. Lâu lâu, thấy phòng đã lâu im ỉm bỗng dưng hé cửa, bật đèn, biết có người về, tôi ló đầu vào làm quen. Sau đó nhậu nhẹt, khen nhau và chê nhau. Cái anh hay theo mấy cô thôn nữ đội nước lên đồi cát chê anh nằm vùng trong những hẻm lao động đem về mấy cái mẫu tầm thường, lem luốc. Anh này cười nói đẹp đâu phải là mấy cô gái mặc áo dài đi qua cầu khỉ, đẹp là mồ hôi, là da sạm, tay chai. Rồi thì gió qua đồng cỏ là cái đẹp xa xỉ và vô nghĩa, một cánh đồng xanh mạ, hay rẫy bắp đang trổ cờ hay hơn nhiều. Rồi thì bồ câu là vứt đi, chim đồng chim bãi mới đẹp. Rồi thì rừng núi mới kỳ bí, mới nhiều tầng nhiều vỉa cần khai thác, chứ đồng bằng toang hoác, còn gì mà người ta chưa chạm vào đâu. mấy anh phân ban thiên nhiên nói không con nào tàn phá gây hại như con người, đi tới đâu thiên nhiên lụn bại tới đó. Mấy anh phân ban con người sôi máu, vậy thì anh từ chối làm người rồi, con người mà không đẹp thì có gì đẹp nữa.
Lúc đó tôi ngồi rất gần họ, mông bẹp lên xác kẹo cao su của họ, mặt dính dấp nước bọt của họ, mắt thấy vũng ghèn và những bợ rau trên răng của họ, tôi bỗng nghĩ mười năm trước hẳn họ vẫn còn rất đẹp, họ còn biết run rẩy, xốn xang, đau nhói trước cuộc đời, nhưng không ai giữ vẻ đẹp của những người giữ gìn vẻ đẹp, cũng như không ai lãnh đạo lãnh đạo những người lãnh đạo, không ai chiến đấu cho những người chiến đấu. Bỗng dưng cái sự gấp gáp trỗi dậy, tôi sực nhớ mình cần đi tới sông kia, suối nọ. Bỏ cuộc chơi giữa chừng, ai đó càm ràm, nhỏ này đi như điên, không mệt hả?”
Tôi xốc ba lô lên vai ngoái lại cười, mệt sao được, em có tới bốn cái chân.
7. Suốt một mùa mưa, tranh thủ nước trời tôi cắm mặt vào rẫy. Mây treo phía lưng tôi mỗi ngày năm bảy tiếng đồng hồ. Trong khi tôi cuốc giồng này thì giồng rau muống đã vượt khỏi gang tay, bên kia cải vừa gieo hạt, nhưng những cây còn sót lại đã lên ngồng. Tôi giành đất với lau sậy, lấn từng giồng, từng giồng. Sao cho mỗi khi xóm Cồn có xuồng đi chợ là có mớ đồ rẫy tôi gởi theo. Và với Phiên mỗi chuyến xuồng về là một cuộc hội hè với bánh kẹo, quần áo mới.
Tôi chờ bí ra trái. Tôi chờ ổi ra trái. Tôi trồng những cây lâu năm. Đôi khi tự thấy hành động này cũng giống như ông già Sáu ngồi bên sông với cần câu lưỡi chữ i, tôi đang neo cặm mình vào mảnh đất này, nuôi Phiên lớn.
Người xóm cồn đi qua rẫy tôi nói, cô Trầu làm lụng như có tới bốn tay. Ểnh người, một tay chống nạnh, một tay đấm lưng, tôi lặng đi, nhớ đứa bạn tên Lam.
Hồi học cấp Ba, khoảng giáp Tết, Lam giới thiệu tôi và đội sơn nhà của chú nó. Phần việc của tôi là lon ton bên dưới, Di ơi lấy giùm thùng sơn, Di, lấy cho cây cọ, giấy nhám đâu rồi, Di và Di, dời thang. Tôi rất thích được kêu Di ơi suốt. Tôi thèm muốn mình được gọi tên, đến nỗi có lần mướn thằng nhỏ bán vé số, nói nó kêu Di ơi đi tôi trả năm ngàn. Nó nói vậy tui làm má bà hen, rồi chống nạnh riết róng, “Di, mầy trồi đầu về đây tao biểu coi…”. Thấy tôi trào nước mắt, nó cụt hứng, càu nhàu, “thôi bà khùng quá bà ơi, tui lấy tiền của bà chi...”
Nên tôi ưa làm sai vặt, khoái cảm với những lời rầy rà la mắng. Đi sơn tường càng thích vì khi lơ lửng trên cao người ta hay kêu tên tôi. Lam hay ghé qua công trình của chúng tôi, nói tiện đường… Mọi người cười, sao không nói thẳng là mê gái, mậy? Tôi lừ đừ không ngó tới, miết giấy nhám vào vách tường loang lổ. Tôi không thích Lam nhà giàu rảnh rổi, mới lớp mười một mà đòi yêu đương. Tôi ghét cái tên không biết là trai hay gái, ghét chiếc xe máy tiếng nổ như xé vải. Tôi ghét Lam cha mẹ đủ đầy, thậm chí còn dư mấy má nhỏ ở quận hai quận tám. Tôi ghét cái đầu tóc dày hất ngược bồng bềnh, ghét luôn nước da trắng và cái mũi thẳng, ghét như thể trời lấy hết của tôi để ban cho Lam.
Lam biết, nhưng nó vẫn thích tôi, cuộc sống của một thằng con trai muốn gì được nấy không phải lúc nào cũng gặp một thách thức thú vị như vậy. Một bữa đúng lúc Lam đảo qua nói vo ve, tôi dời cái thang chữ A ra ban công, thang nhôm chạm vào dây điện trung thế làm tôi chết giấc.
Lúc tỉnh dậy tôi đã sống cuộc đời khác. Người ta kể Lam vì cứu tôi nên đôi tay bị cháy, có thể phải tháo khớp tận vai. Có vẻ như ông trời đang lấy của Lam để chia chác, mà tôi biết làm gì với một đôi tay nữa, chỉ một thôi đã quá nhọc nhằn rồi.
Nhưng tôi không có chọn lựa nào, Lam đã cho rồi, tôi phải nhận. Thăm Lam khi vừa tỉnh dậy, nó khóc, tôi mếu máo nói, “thôi đừng buồn, tui sẽ lấy Lam làm chồng”. Lam ngoẹo đầu qua bên vách, cố giấu cơn khóc dữ dội hơn, khóc mà không có tay để giấu mặt, không có tay để lau nước mắt. Hồi đó, báo chí ca ngợi Lam như một anh hùng, nhiều cơ quan tới tận giường tặng bằng khen, tặng tiền, tặng nước mắt cảm thương. Lam trả lời tám cái phỏng vấn, nói tôi không hối hận.
Lam nói không hối hận. Nhưng mắt nó nói tôi hối hận. Mặt nó nói tôi hối hận. Đôi tay áo trống rỗng phơ phất của nó nói tôi hối hận. Tôi chưa bao giờ thấy nỗi buồn nào giống vậy, buồn vì đã làm việc tốt. Buồn vì đã tốt. Những lần tôi tới chơi, vui thì Lam để tôi đẩy xe đưa nó ra vườn, buồn thì nó đuổi thẳng, về đi, tui không cần thương hại. Tôi chối nhưng ánh mắt tôi đã phản bội, nó nói rõ ràng, tôi thương hại. Không bao giờ mắt dám nhìn thẳng vào đôi vai trụi trơ.
Tôi cố dặn mình hãy nhìn vào đó công bằng như nhìn một người lành lặn, công bằng như nhìn thằng bạn mà mình căm ghét, hãy cười ha ha và nói đáng đời mầy, ai kêu mày giàu, mày sung sướng, giờ ráng chịu. Những buổi tối làm việc ở nhà hàng, tôi cắt cánh gà, nhìn vào cái thân mình trụi lủi của nó, thấy không có gì là khó. Nhưng Lam không phải con gà, hay cái cây bị tỉa nhánh. Và nếu quyết định gắn bó suốt đời, thì chúng tôi sẽ làm tổn thương nhau trong lúc nhìn nhau, âu yếm nhau, liệu chúng tôi có chịu được không, tôi nghĩ nát cả tuổi mười bảy. Lam nói không được đâu, nó nói bằng cách nhảy từ ban công tầng ba xuống. Tôi bắt đầu sống bằng hai người, nhưng việc đó cũng làm tôi tàn tật.
Nghe câu chuyện này, anh Viện phó kêu, thôi khóc nhiều rồi, từ giờ em nín đi. Nhưng tôi đâu có thấy mình đang khóc.
8. Chuyện của Lam, tôi kể Anh nghe trong một tối trời mưa. Cúm rúm trong một căn lều ở bìa rừng, lớp lá mục dưới chân ngấm ướt, phải ngồi chồm hổm, hai chân tê rần, tôi lóng ngóng hết ngó Anh lại nhìn ra cửa lều bóng đêm đã bịt kín.
Anh ở quá gần. Với tay là tới. Bồn chồn, bối rối, sốt ruột không che giấu được, Anh đánh mất vẻ kiêu bạc, ngạo ngược thường ngày, tôi ao ước phải chi mình là lý do, chứ không phải vì cánh rừng năm hai trăm năm tuổi này.
Năm sau, người ta sẽ san phẳng chúng và trồng lên một khu công nghiệp lớn nhất nước. Chúng tôi được lùa tới đây, làm chuyên đề rừng, mong vớt vát được chút gì trước khi nó biến mất. Nên tôi được đi công tác cùng anh, chuyến đầu tiên, đêm đầu tiên. Nhưng không phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy sự vật vã của một “con nghiện rừng”, một biệt danh mà trong giới ai cũng biết. Cái hôm nào đó, khi Anh mướn vai tôi để vùi yếu mềm vào đó, cũng có cánh rừng qua đời.
Nên dù giờ Anh vẫn giả lơ, vẫn giữ vẻ lạnh lẽo như chưa từng thuê tôi làm bồ, dù nhiều khi cả tôi cũng hoài nghi, biết đâu người giống người thôi. Chỉ khi tôi mở tất cả những khay dữ liệu mang tên Anh, tôi biết chắc đây là người tôi tìm. Mẫu của Anh nhiều lần làm tôi suýt rớt nước mắt vì tuyệt vọng. Vẻ đẹp của những tán rừng lúc nào cũng chực bứt ra khỏi máy móc, đòi sự sống, đòi hơi thở, đòi không khí trong lành… Nghĩ, nếu ai đó đã yêu đến vậy thì không thể yêu con người nữa.
Nên Anh có kiêu hãnh hơn, lạnh lùng, mai mỉa hơn tôi cũng không ngạc nhiên chút nào. Chỉ thấy lạ khi con người đó trở nên đa cảm trước sự mất mát. Mười lăm năm Anh làm việc ở Viện, bỗng yếu mềm như một đứa mới vào nghề, trong một tối mịt mùng mưa.
- Nghe lời tôi, em đừng yêu bất cứ gì.
Tôi nghĩ thầm, sao làm được ta, mình có tới hai trái tim mà.
- Trời đất, em yêu luôn những cái đã mất rồi.
- Kể tôi nghe đi, em đã mất gì?
Tôi cười, nhưng cười không phải là một câu chuyện để nghe. Giữa cô quạnh, không có chiếc xe nào chạy qua, không có người nào đi qua, tôi không có gì vớ lấy để đắp những hố thẳm trong tôi lại.
- Sao em không nói? Em nghĩ trên đời này có người nào muốn nghe em hơn tôi sao? Anh hỏi.
Ngay giây phút đó, tôi không bao giờ mặc cái áo cười trước Anh nữa. Tôi là tôi, trơ trụi xơ rơ, gân guốc bụi đời, và rửa mặt mỗi ngày bằng nỗi muộn phiền bảng lảng. Quá nhiều chuyện tôi muốn kể Anh nghe, nhưng tôi bắt đầu từ Lam, người khiến tôi đi nhanh, sống gấp. Như nàng Sheherazade của thiên truyện Nghìn lẻ một đêm, tôi để dành vài câu chuyện cho lần sau, sợ không biết nói gì vào dịp thứ hai, đêm thứ hai.
Lúc đó tôi không nghĩ sẽ cùng Anh đi tận những đất trời. Lúc đó thì tình yêu là chiêm bao. Bởi sáng sau thức dậy ở cái bìa rừng đẫm nước, Anh lại là ông sếp dày dạn, thông minh, giỏi giang mà lạnh trơ. Một bữa tôi theo những triền sông tìm những lò rèn, lò cốm, những vườn trầu, cau còn sót lại… ham quá không hay chuyến đi đã dài hai mươi bảy ngày. Về Viện, anh đón tôi bằng ánh mắt rát mặt, giận dữ nói “sao em không đi luôn đi?”. Mà kỳ thiệt, anh lại kéo tôi ôm vào lòng.
Khoảnh khắc đó tôi đã biết âm thanh đẹp nhất của cuộc sống là tiếng của một người nói yêu một người. Tôi mới vừa nghe xong. Nhưng tôi phải tỏ ra không cảm động gì cả, khi rời khỏi căn phòng đó, khi gặp một đồng nghiệp ái ngại hỏi, “bị sếp giũa te tua rồi hả?”. Tôi cúi đầu buồn tủi cho giống như cô nhân viên ít thâm niên xốc nổi, hay mắc lỗi vừa bị ông sếp khắt khe rầy rà. Thành phố giống như một sàn diễn lớn, và chúng tôi đang cố tròn vai.
Những lần về thành phố lúc cuối tuần, giống như diễn viên chờ tới lượt mình ra đèn, tôi vạ vật ngồi quán ở ngã tư Sương, uống một ly cà phê đá cùng bảy ly trà đá, ngồi từ sáng tới chiều, mong bắt gặp Anh chạy xe qua để nhìn mặt, vậy thôi. May mắn thì sẽ thấy Anh đi dạo cùng gia đình, đứa con cao nhòng nên phải khoanh tròn trong lòng ba nó, đằng trước. Vợ Anh ngồi sau thổi nhẹ một câu nói nào đó vào vành tai chồng. Chị là tiến sĩ xã hội học, đẹp và thông minh. Tôi đọc những bài viết sắc sảo của chị in trên báo, thấy chuyện chị không nhận được tình yêu trọn vẹn của Anh chỉ vì lúc mặn nồng chị luôn mở mắt nhìn, thiệt là lý do vô duyên. Anh thì không nghĩ điều đó là ngớ ngẩn, “tôi cảm giác như cô ấy đọc tôi, dò xét tới gan ruột tôi. Ngay cái lúc con người bản năng nhất, thì cô vẫn lý trí, vẫn suy nghĩ”.
Tôi cũng thường suy nghĩ lắm, khi quấn nhau, khi mê miết da thịt nhau đến tan thành khói, thành nước. Tôi nhớ mẹ, ước phải mẹ còn sống, mẹ sẽ dạy tôi biết giữ gìn và chờ đợi, tôi sẽ yêu từ từ. Chuyện mở khuy áo hay không làm tôi bối rối cũng nhiều, bỗng nghĩ không nên hoãn tới cuộc gặp sau, khi tôi đã mất Anh một lần mà không biết tìm đâu, khi chỗ chúng tôi ở, nơi chúng tôi tới hay vừa rời khỏi, mọi thứ đang đứng bên bờ vực diệt vong, và chúng tôi sẽ cùng nhau bao lâu? Nhưng dù là lần cuối cùng tôi áp môi lên môi Anh thì tôi sẽ đẹp đến phút cuối cùng. Tôi không muốn “phải chi…” một điều gì đó về Anh, sau khi đã dai dẳng hối tiếc, phải chi tôi đừng có lẻo đẻo theo mẹ hỏi về cha tôi, phải chi trước tai nạn Lam nói gì tôi cũng ừ…
Yêu nhau phải đến trăm lần cuối. Tôi hầu như về Viện rất vội, nộp mẫu, thanh toán những khoản phí, tôi lại khăn gói lên đường. Giữa thành phố tôi ngày càng ngơ ngác, nên có bữa kêu anh xe ôm từ bến xe về cơ quan, anh này chạy lòng vòng qua tám ngã tư ba ngã bảy, nhưng tôi chỉ trả tiền bằng đoạn đường ngắn ngủn mà tôi biết, thấy anh định há miệng ra cự nự, tôi cười, ủa, tôi tưởng anh chạy lòng vòng là vì anh thích tôi. Bữa khác về cơ quan gặp một người đàn ông đang đứng tra khóa vào ổ, tôi khều vai ông, lộn phòng rồi chú ơi, đây là phòng viện trưởng đó. Ông già ung dung cười, “Thì chú là viện trưởng mà. Cháu mới vô làm hả?” Tôi bật ngửa, dạ cháu làm được năm rưỡi rồi. À, ra vậy… Ông nói bằng cái giọng ung dung, lúc nào cũng ung dung, rót trà ung dung kể chuyện nằm viện vừa qua, ung dung bấm ngón tay, còn bốn tháng mười bảy ngày nữa ông mới nhận quyết định hưu, vội gì.
Sự ung dung, chậm rãi làm nhiều cấp dưới sốt ruột, trong đó có Anh. Người ta ung dung trong lúc thiên nhiên vẫn không ngừng biến mất.
May nhờ hẹn hò khiến cho nỗi chờ đợi trong Anh dịu cơn quay quắt. Hẹn hò hay lắm. Người này đón ở con đường người kia chắc chắn sẽ qua, rất xa thành phố. Vẫy đúng chiếc xe tình yêu đang ngồi, rủi trên xe đó có người quen với chúng tôi, một trong hai đứa sẽ nói, “trời, trùng hợp quá, anh (hay cô) đi đâu vậy?”, rồi ai đó xuống dọc đường. Hành trình có trắc trở chút đỉnh, nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng được lang bạt với nhau.
Có bữa đi tới cái thác có mỏm đá trông giống đầu con voi, ai đó đắp thêm cái ngà bằng bê tông cho người ta khỏi mắc công tưởng tượng, Anh cười chua chát, “Con người trừng trị thiên nhiên bằng cách hạ nhục, hủy hoại nó. Còn thiên nhiên trả thù bằng cách nào em biết không? Nó biến mất”. Tôi trân trọng những lời này cũng như câu “anh yêu em”, ghi nhớ dài lâu, cảm kích như đứa học trò ngưỡng vọng ông thầy giỏi.
Có bao nhiêu tình tôi yêu hết, tật tôi vậy, xưa thích cây kẹp tóc mà mẹ mua cho, lỡ để mất, tôi cắt tóc ngắn luôn. Một bữa tôi rủ Anh ghé qua một cái quán nước vùi giữa bụi đất đỏ, gặp người đàn ông tóc chải mướt ngồi đằng trước, miệng ngoắc ngoắc cây tăm, vuốt ve âu yếm mấy con gà nòi. Vợ ông cỗi cằn, héo quắt bưng cái bụng bầu nhọn lểu với hai ly nước mủ gòn ra, xởi lởi khoe, “trước đẻ toàn con gái, giờ mới kiếm được con trai nè, ông chồng mừng húm…”. Tôi day qua ngó người đàn ông, thấy mình tệ hơn mấy con gà, bàn tay đó đã lần nào ve vuốt tóc tôi? Nghĩ vậy, nên níu Anh đứng dậy đi, chân bước chới với.
Coi như đó là câu chuyện cuối cùng liên quan tới nhân thân tôi. Nhưng vua vẫn để Sheherazade ở bên mình, bởi vua yêu nó không phải vì những câu chuyện của nó. Vua yêu tâm hồn xanh xao của nó, yêu những quạnh hiu được che giấu bằng vẻ ngoài mạnh mẽ, yêu sự giản dị và và vẻ đẹp rực lên bất chấp bao nhiêu mất mát. Yêu vì khi khám phá tận cùng nhau, bỗng thấy nỗi đau, niềm đam mê, sự vơ vất, hoang mang của người kia cũng giống mình. Yêu vì khi vua kể chuyện đi rừng, những dã hương, chiêu liêu, sến mũ … đã tuyệt vong nó không bao giờ ngủ gật, luôn háo hức mở tròn con mắt, dạ dạ, ui trời, vậy hả anh, tiếc quá… Nó cố giấu tuyệt vọng ứa ra đầu lưỡi, như một hôm nào còn làm cô bồ mướn, nó nhìn thấy ở người đàn ông này một nỗi cô đơn vô tận. Khi đó, Anh thuê nó vì cần một người nghe. Anh kêu cứu cho rừng trên tivi, báo chí, trên những diễn đàn, hội thảo, nhưng rồi chỉ còn mình nó nghe, chia sẻ, nhưng chỉ nó nhỏ nhoi thôi thì có ích gì?
Nên Anh vẫn quay quắt chờ đợi, một lúc nào đó, tiếng nói của Anh sẽ làm thay đổi hàng triệu người. Có lần Anh rủ tôi ghé tạt ở nhà hàng bên đường, chị chủ quán trạc tuổi Anh, là người quen cũ, đã chớm đẫy đà, mà đằm thắm kinh khủng. Mừng đến mắt như cháy ngút lên, nhưng vẫn đằm thắm, “coi anh vui hơn hồi trước”. Chị hỏi thăm năm ba người quen có còn ở Viện, hỏi thăm những đứa con đang học lớp nào, hỏi thăm rừng Chớp, thủy tùng Lac Deo… còn hay mất, hỏi thăm cái suối lần mình bị kẹt lại vì lũ quét còn hay mất, hỏi thăm những người hát dân ca trong bộ tộc Tai Nát còn hay mất? Câu nói, nụ cười quấn quýt. Một hồi thấy có đứa nhỏ rớt ra ngoài câu chuyện của hai người, Anh day sang tôi nói, trước Trúc làm ở cơ quan mình. Tôi cười nói, dạ, em biết rồi. Ở kho lưu trữ của Viện nhiều lắm những mẫu mang tên chị, gắn bó duy nhất với vùng đất Thổ Sầu.
Nhưng mẫu của chị, và của Anh nữa, đã dừng lại ở mười hai năm trước. Mười hai năm trước, người ta bắt đầu tới vùng thảo nguyên Thổ Sầu xới tung nó lên khai thác quặng, nơi đó biến thành một đại công trường. Chị đưa đơn nghỉ việc. Anh từ giã rừng, nhận chức viện phó người ta đã từ lâu mời mọc. Anh cưới cô bạn học, con gái của thứ trưởng. Bước vào đường quan trường, Anh muốn đi tắt, muốn chạy mau mau đến cái ghế viện trưởng, rồi bộ trưởng, Anh sẽ vào hội đồng thành phố, hội đồng trung ương, Anh sẽ cứu được những cánh rừng bằng tiếng nói của mình. Anh sẽ giữ được chúng bằng quyền lực. Hơn ai hết, Anh hiểu cái mà Viện đang gìn giữ là vẻ đẹp không hoàn hảo, chúng đã chết một phần, chúng không có cảm giác trên da thịt, không có mùi, vị… Chúng là sự níu kéo vô vọng của con người.
- Chờ đợi làm anh sắp chết, may nhờ em…
Tôi xỏ những ngón tay khô cứng của mình vào mái tóc dày của Anh. Lại nghĩ, có thể đây là lần cuối cùng tóc Anh xước nhói vào những ngón tay này. Chút nữa biết đâu có một cuộc gọi từ thành phố, Anh sẽ được thứ Anh muốn được. Và sân khấu đó sẽ giữ Anh lại, vì Anh đã là nam chính rồi, tôi cứ thì thụt mãi vai nữ tì, lâu lâu mới dạ dạ chạy ra.
Và tôi sẽ tội nghiệp lắm, khi xó xỉnh nào cũng có kỷ niệm với Anh. Nhà trọ nằm trên dốc Mùa Sương, nơi tôi mở chiếc khuy đầu, phiên chợ chúng tôi tháo cũi cho hai con khỉ bị người ta xách dao rượt chạy trối chết, nơi kẻ trước kẻ sau è ạch đẩy chiếc xe máy xẹp bánh trên hàng chục cây số đường rừng, và thung lũng Khơi Ma một ngày mưa giông ngợp ngụa, tôi nói, anh ơi, em có thai rồi.
9. Phiên lớn từ bữa nó treo toòng teng trên võng hỏi, “mẹ ơi, sao anh Thơ khùng có ba, còn con hong có?”.
- Có chớ con, ai cũng có ba hết.
Ngay lập tức, trên môi thằng nhỏ có câu hỏi khác đã thập thò, và dấu chấm hỏi quăng ra bỗng như xóc ngược cái móc nhọn vào cổ tôi, nghe đau đến trợn trạo miếng cơm, “vậy ba con đâu?”
Phiên không bao giờ để tôi nợ lại bất cứ câu hỏi nào của nó. Mà nó thì hỏi cho tôi nghẹt thở, cứng họng mới thôi. Nhưng tôi không muốn ngăn nó lại, bởi hỏi cũng là một vẻ đẹp. Mẹ ơi nước dưới sông chảy chừng nào mới xong, sao con chuồn chuồn này màu đỏ mà con kia lại đen, sao con chó Vện cũng già lại không có tóc bạc giống như ông Sáu? Trả lời muốn đứt hơi rồi, nhưng vừa dứt tiếng nó đã nhảy tọt vào câu hỏi mới. Hỏi và tin, và thích đào bới tận cùng.
Hồi nhỏ tôi cũng tin có tận cùng. Nhưng mẹ tôi không có tận cùng nào cho tôi, bởi trong lòng mẹ cũng bị tình yêu bỏ lửng một câu trả lời. Lớn lên tôi đánh mất vẻ đẹp hỏi, tôi dần từ bỏ nó, xa lánh nó. Bởi càng lớn càng hoang mang trước cái gọi là tận cùng, hoặc không có tận cùng hoặc tận cùng là cái gì đó mơ hồ, nhưng buồn. Cảm giác đó tôi trải qua rồi khi đi tìm cha tôi, lần đầu.
Giờ Phiên cũng đi tìm ba. Tôi kể có một người cha gánh trọng trách bảo vệ những đôi tay đẹp, những loài cây quý, những cái cây tỏa hương từ phiến gỗ chứ không cần đến hoa. Người xấu muốn cướp đôi tay của trẻ con để chúng khóc mà không có gì lau nước mắt, muốn đốn cây về chụm củi cho lửa… thơm. Anh ta phải chiến đấu với người xấu bao giờ xong mới về, mà có thể mãi mãi không về vì ngày càng có nhiều người xấu. Thằng Phiên ngồi mặt chảy ra, quần xoắn cao tới bẹn, đầu gối vượt khỏi lổ tai, ngẩm ngợi, “tội nghiệp ba con thiệt, chắc ổng nhớ con…”.
Người xóm Cồn khen thằng Phiên có nhiều nét giống tôi, nhưng những khi kỳ cọ cho nó bên dòng nước, tôi chỉ xuống mặt sông xao động, nói, giống ba in hệt. Nó sung sướng lắm, “trời, vậy là ba cũng đen thùi lùi vầy hả?”.
Tuổi lên sáu Phiên nhận được từ tôi một món quà hơi đặc biệt, những chữ cái đầu tiên. Cái ca. Trái cà. Con gà. Nó không đến trường, một phần vì cồn không có trường. Nhưng bên kia sông có. Tôi không đưa Phiên qua vì nghi ngờ trường học làm những đứa trẻ biến mất. Tôi đã thấy trẻ con đi vào đó, và trở ra như những người lớn mệt mỏi, muộn phiền. Tôi giữ cho tuổi thơ Phiên đẹp như Phiên có. Hoang dã. Trong veo.
Thằng Phiên chấp nhận điều đó, vì qua sông có thể bọn người xấu nhận ra nó là con của chàng dũng sỹ, và bắt nó để ép chàng đầu hàng. Mà bên sông người ta không cho con nít tự ý vào nhà người khác, lục cơm nguội của người khác ăn, ngủ trên giường người khác… Họ không thích con nít nhấc chân như con chó vện, đái vô những bông bí, làm tụi nó héo quéo. Ở Cồn thì chuyện đó là bình thường, không sao hết.
Nhưng thằng Phiên hay nghĩ ngợi. Lúc suy nghĩ nó sẽ lấy cọng lông gà ngoáy lổ tai, lim dim khoái cảm, sau đó nó gật gù, nếu đái vô bông bí thì bông bí sẽ ngộp thở, tội nghiệp. Tội nghiệp là câu đầu môi của thằng nhỏ. Chúng tôi không ăn những con cá nhỏ vì tội nghiệp, không nhổ cải đi bán vì tội nghiệp và kết quả là tôi có một giồng bông cải thắp nắng lộng lẫy giữa mùa mưa, khi trong túi lép kẹp tiền. Và những con cá mang bụng trứng no tròn sẽ được chúng tôi trả lại cho sông. Mấy bà tiên đi ngang Cồn, thấy Phiên tốt bụng quá nên tặng nhiều quà, những khi nó ngủ. Lúc thức dậy đã thấy trên vạc có cây viết chì, hay những cục kẹo xanh đỏ, cục đạn cu li, mấy củ khoai nóng hổi còn mặn bụi tro… Đôi khi nó giả bộ nhắm mắt ngủ để rình coi mặt bà tiên, nhưng tiên biết nó thở làm sao mới là ngủ thiệt. Ngủ giả thì tiên ghé làm gì.
Tôi lặng nhìn Phiên đẹp qua tuổi thơ bận rộn của nó. Buổi sáng đi dài xóm ngửi mùi khói bếp coi nhà nào có đồ ăn ngon nó sẽ ghé chơi. Sau đó tới giờ radio ca cải lương nó sẽ nghe với Thơ khùng, sẽ đứng một chân hay đứng bằng cả bốn chân tay, tùy hôm đó cả hai là vịt hay chó. Ngủ trưa lang chạ ở đâu đó, bất cứ giường nào võng nào của bất cứ ai, thức dậy nó sẽ tới chòi chơi với ông Sáu. Trên đường di chuyển giữa chỗ này qua chỗ nọ, gặp nhãn lồng chín nó ngoẹo đầu đớp ăn luôn trên cây như chim trao trảo, khỏi phải thò tay hái mắc công. Nó thử coi ổi chua hay không cũng bằng cách này, nhá cái răng chó nhọn hoắc lên những trái vẫn đang lủng lẳng trên cành, thấy vừa thì ăn, còn chát sẽ bỏ đó chờ thêm ít bữa. Vừa ta bà ăn chơi vừa ngó trời, thấy chuyển mưa nó chạy về nhà giúp tôi gom củi đem cất trong bếp, bắt mấy con gà con vô nhà.
Có khi nhìn thằng Phiên nằm ngủ, mấy con gà con cũng khoanh tròn trên bụng nó, tôi tự hỏi có gì đẹp hơn vậy. Có gì đẹp như trẻ con, gà con, như mạ vừa nhú lên, cỏ vừa vượt đất. Xanh lấm tấm. Xanh chưa thẳm. Mong manh.
Phiên càng mong manh. Nó thường ngoái lại cái chợ chúng tôi vừa rời khỏi, hí hửng xài luôn tiếng chửi thề vừa mới học ở đó, “má nó, cục kẹo này ngon tàn bạo…”. Phiên thích ríu ran kể những chuyện giang hồ nó nghe được từ những chiếc ghe hàng bông tấp vô Cồn nấu cơm hay tránh giông, nó thường đứng dưới những cây bần quỳ già cỗi, ngó về bên kia bờ, đã thấy lốm đốm những mái nhà thay cho màu xanh của những bờ lá rậm. Ở đó có đứa con gái hay theo mẹ qua đây mua đồ rẫy về bán lại, con nhỏ lanh chanh, hay nhỏng nha nhỏng nhảnh kêu Phiên, “quỡn đứng đó làm gì, xách giùm cái này coi...” Thằng Phiên lúng búng chạy mất, nhưng lén ngó theo khi xuồng họ đã buông bờ.
Nó thấy cái cồn Bần này dường như không đủ. Nó cô đơn, và không thể che giấu điều đó, giống như tôi.
10. “Đồng cỏ bạn đang dạo chơi một ngày kia sẽ biến mất. Dòng sông bạn đang tắm một ngày kia sẽ biến mất. Tiếng chim hót ban mai một ngày kia sẽ biến mất. Những người thân yêu của bạn một ngày kia sẽ biến mất. Bạn có muốn giữ lại tất cả những gì mà bạn nghĩ là đẹp nhất, tinh tế nhất, quý giá nhất của thế giới này? Hãy tới làm việc với chúng tôi…”. Mẫu rao tuyển nhân viên vừa đa cảm vừa bí ẩn của Viện di sản thiên nhiên và con người khi đến tay tôi là một mảnh giấy gói thuốc Bắc, phảng phất mùi cam thảo. Tôi cất rất kỹ. Vào năm thứ ba làm việc ở Viện, có nhiều đêm tôi lấy ra đọc đi đọc lại, như nuốt trộng chúng, lục cục ở cổ họng, thấy đau.
Đó là quãng thời gian tôi sắp làm chuyên đề về thời thơ ấu của con người. Tôi muốn dõi theo một đứa trẻ từ khi sinh ra, khi toan tính, cám dỗ, vật chất chưa làm phai đi chất thánh thiện của nó. Tôi viết đề cương sau một thời gian đi xa hơn mọi cuộc đi xa. Tôi đón bất kỳ chiếc xe nào, vì những chuyến xe rời thành phố không mang anh theo nữa. Tôi cười nhiều hơn, và khi gặp anh bởi những chuyện buộc phải gặp, thấy cái nhìn ngạo nghễ đã hao hớt bởi sự dằn vặt, tôi buồn. Vì tôi đã giỡn với anh, hơi vô duyên khi một hôm nào nói, anh ơi, mình có con rồi.
Một mối tình có trăm kiểu bắt đầu, cũng nhiều cách kết thúc, một trong những cách đó là cô gái nói, anh ơi, anh sắp làm cha đó nghen. Tình yêu chấm hết ở một cái vẫy tay không hẹn gặp, ở một phòng khám sản khoa kín đáo, hay ở một đám cưới bỡ ngỡ, vội vàng. Khi tôi nói câu đó, tôi giả đò rất bâng quơ, nhẹ nhỏm, nhưng rủi quá, đang nai nịt máy móc để lội qua suối Nang Oi sùng sục nước, nên trong lúc quàng chéo sợi dây dù lên vai, tôi kịp thấy vẻ bất an, bối rối và bàng hoàng, đến nỗi tôi nghĩ, mình vừa nói mất cánh rừng nào sao ta, một người sinh ra tương đương với một mảnh rừng bị mất? Tôi tính khi qua bờ bên kia sẽ ôm bụng ngặt ngẽo cười, “người ta nói giỡn mà có người tưởng thiệt, haha …”.
Nhưng lúc qua suối tôi gặp một tai nạn, gọi là nhỏ vì tôi chưa chết, gọi là lớn vì tôi suýt chết, nước đã dìm trôi một quãng, rồi quăng quật vào một gờ đá nổi bên bờ. Tôi thấy đau đớn rã rời, người ướt ròng, khóc như vắt nước mắt. Không phải vì sợ hãi, không phải vì mớ máy móc chuyên dụng đắt tiền đã ướt mèm, tôi khóc vì đã sang bờ nhưng không thể cười và nói em giỡn anh ơi….
Anh không dỗ, vơ vất ngó quanh vì anh biết lý do tôi khóc.
Chúng tôi chia tay nhau.
Thành phố mừng húm, nó níu tay anh lại. Những cuộc gặp thưa vắng đã làm an ủi cả hai. Lần cuối cùng gặp anh là hôm tôi trình bày đề cương “thơ ấu đời người…”. Tôi gõ vào cánh cửa và đẩy nhẹ nó, thấy buồn, khi đây không phải là cánh cửa quen mở ra căn phòng quen gặp một người quen. Nó không có tiếng kêu kèn kẹt đầy bí hiểm như sắp mở ra một kho báu tuyệt vời. Phòng viện trưởng rộng hơn, sang trọng hơn với những chiếc ghế bọc nhung, lạnh lẽo, ngăn nắp, đèn nhiều hơn và Anh cô đơn hơn. Khi biết địa chỉ đứa trẻ tôi chọn để làm chuyên đề, Anh tần ngần:
- Em hy vọng gì khi tới đây? Có thể sẽ rất buồn…
- À, em có vài thắc mắc ở đó…
Tôi bỏ lửng vì thấy nó hơi riêng tư, liên quan tới tình yêu của mẹ tôi mà. Anh không hỏi nữa. Không biết dự cảm nào mà hôm đó anh bắt tay tôi rất chặt, làm tôi đau quá. Tôi tự hỏi sao khi đi giữa dòng suối ngầu sôi kia, khi thấy tôi chới với, anh đã chụp tay tôi rồi, cũng chặt như vầy, nhưng anh đã buông, anh thả những ngón tay anh cũng nhanh như khi nắm vậy. Tôi đã chìm ngay lúc ấy, dù sau đó anh sực tỉnh rướn theo, chới với tìm. Giữa dòng nước hung hăng, có con nhỏ chết trôi. Vào khoảnh khắc đó anh đã nghĩ gì, nghĩ gì, nghĩ gì? Tôi tự đưa ra nhiều giả thuyết, nhưng kiểu nào cũng có chút liên quan tới lời nói đùa kia, nó giống như sương mù làm con đường anh đi trở nên mù mịt. Anh mất bình tĩnh, muốn vùng vẫy rũ bỏ.
Giờ tự tôi khép tôi lại. Vừa kịp đón chuyến xe chiều đi tới một vùng đất đỏ, một quán nước quen, nơi có bé trai vừa chào đời, đứa em cùng cha khác mẹ với tôi.
11. Tôi thấy Phiên lần đầu khi nó mới hai mươi hai ngày tuổi. Tay chân nó ngắn khụi, tóc ít, da đầu mịt vảy cứt trâu. Nó ngủ nhiều, bú nhiều, bụ bẫm căng tròn, chân tay như mấy đoạn củ sen gắn lại, nhìn đâu cũng thấy ngấn đầy.
Tôi ghi lại hình ảnh mụ bà dạy Phiên cười nhoẻn trong giấc ngủ. Nó đái bổng lên trời. Nó mơn man vú mẹ. Trán nó lấm tấm rôm sẩy. Cổ nó bị hăm đỏ. Nó nhảy mũi hoài. Tôi thu tiếng khóc của nó lúc nửa đêm, tiếng nó mút sữa…
Tôi ở lại luôn nhà của cha tôi, gọi ông là chú Tư. Giữa kỳ làm chuyên đề, có lúc tôi đi công tác một nơi khác, lúc quay lại, ông hay hỏi “ba má cô cũng mạnh giỏi?”. Tôi gật đầu. Ông vui khi biết một viện tầm quốc gia chọn thằng nhỏ con mình làm nhân vật của họ. Trong ký ức ông không còn hình ảnh nào của tôi, đã đứt bằn bặt. Tôi không lấy điều đó làm buồn, vì năm đứa con gái lớn lên bên ông mà đôi khi còn bị lẫn lộn tên. Ông không yêu con gái, ông bà nội tôi cũng không yêu con gái, họ sinh con gái để chăm chút ông, cho ông cưỡi chơi, bắt nạt, trút những giận hờn. Họ khâu nút áo khi ông đánh nhau bị đứt, họ chịu đòn vì đã để ông trèo cửa sổ đi chơi. Ông không bao giờ là người có lỗi, vì ông là đứa con trai duy nhất của nhà buôn gạo nổi tiếng. Cả khi sự sản đó tàn rụi cũng không phải vì ông tiêu xài hoang phí, họ đổ lỗi cho thời cuộc. Tôi chắp vá những lời kể thảng hoặc, bất chợt từ những người sống quanh ông, cố hiểu tại sao ông lại dè sẻn tình thương từng giọt từng giọt một.
Ông dành dụm và chờ đợi. Phiên ra đời, ông xô ngang mọi trò vui chơi, suốt ngày luẩn quẩn loanh quanh chỗ Phiên nằm, ngây ngất nựng nịu, ngây ngất hôn hít, ngây ngất nói chỗ nào nó cũng giống ông, coi, tới nhảy mũi cũng giống… Những lúc đó tôi nghĩ, bữa nắn mình chắc mụ bà làm giữa chừng thì hết đất, hoặc làm đến đấy thôi thì bà đi ăn cơm, xong quên phứt luôn. Phải cố thêm nữa, chỉ cần gắn chút đất nhỏ xíu như trái ớt, tôi sẽ thành một đứa bé trai. Cha tôi sẽ ở lại. Tôi sẽ lớn lên trong vòng tay ông. Như cha Phiên thường ôm ghì nó, dụi mặt vào bụng nó, vào nách nó, trầm trồ đôi môi đỏ của nó.
Phiên dần lớn mà tôi vẫn chưa bớt ưu phiền. Những lúc lượn lờ quanh nó với chiếc Saisomat chuyên dụng, tôi thường chua chát nghĩ, không ai còn giữ chút ký ức nào về thời bé bỏng của tôi. Mẹ, ngoại tôi đã chết rồi, cậu mợ thì lườm nguýt cái hoang thai từ khi nó còn nằm trong bụng. Họ hàng, làng xóm xiêu lạc từ khi xóm nhỏ ngoại ô trở thành phố xá. Không ai nhớ da thịt tôi đã từng ấm mùi lửa than và thơm dậy sữa, không ai nhớ tôi đã đẹp như thế nào khi nằm mút tay và mằn chơi những ngón chân mình. Tôi có từng ăn đất không? Có từng đái dầm? Hay khóc mớ?
Tôi đã trôi đi không tăm tích giữa cuộc đời này, thỉnh thoảng có ai đó níu lấy rồi buông bỏ. Giờ tôi lại đi dành dụm một ký ức rực rỡ cho Phiên. Mỗi tháng cha nó nhờ tôi chụp cho tấm ảnh, “để sau này nó lớn nó coi, chà, chắc nó mắc cười dữ lắm…”. Những mẫu tôi làm ông nhờ tôi in sang thêm một bản. Phiên lên một tuổi, cái quán nhỏ kiêm ngôi nhà chật chội đó vẫn còn không khí hội hè, một bà vợ vui vì không bị buộc phải sinh con, không phải tự è ạch đi bộ tới nhà bảo sanh bởi lỡ chửa em bé gái; mấy đứa con vui không bị đánh chửi, la rầy vì lỡ làm con gái.
Tôi gần gủi hết thảy tụi nó, trừ Trang. Chỉ vì Trang nhỏ hơn tôi ba tuổi. Chỉ vì cha bận bồng ẳm Trang nên không thèm quay về xóm Chiếc với tôi. Trang không làm gì tôi hết, nó còn không biết tôi là ai, nhưng khi nhìn nó tôi hơi giận. Hai mươi bốn tuổi, Trang dẫn đầu một bầy con gái chưa chồng. Cha nó coi đó như một gánh nặng, và ông trút vào Trang. Hàng ngày ông xúc xiểm cái mũi xẹp “như cục bột quăng lên mặt cái phẹp”, ông chì chiết nụ cười nó “vô duyên vô dùng”, ông căm ghét mớ tóc xoăn của nó “lúc nào cũng rối bời như con khùng, ai dám lấy…”, như thể nó chắc chắn sẽ ế chồng.
Trang bỏ nhà đi ngay trong đêm chuẩn bị thôi nôi thằng em út. Cha tôi vẫn tỉnh bơ hối vợ ông nấu xôi chè, tỉnh bơ bưng thằng nhỏ Phiên đòng đưa trên võng, nhẹ nhỏm như ông vừa mất con gà, hay thua một ván bài. Có sao đâu. Người đàn ông này chưa từng trãi qua cảm giác mất mát.
Ngồi tiếp một tay đãi mớ đậu trắng tôi nghe cay đắng đầy ứ miệng. Tôi hầu như không nuốt nổi chúng. Tôi thấy mình ở đây thiệt vô lý hết sức nói. Tại sao tôi chọn thằng nhỏ nhà này để làm chuyên đề khi có hàng ngàn đứa trẻ khác? Tôi tìm kiếm, hy vọng gì ở đây?
Một bữa tôi gởi toàn bộ máy móc, những mẫu mình có về Viện bằng đường bưu điện, cả những mẫu thô chưa xử lý, lọc âm thanh... Lẫn lộn trong mớ đó hẳn có tiếng đập muỗi lép bép và tôi rủ, “buồn quá, chị ẳm Phiên đi chơi nghen…”.
Thiên nhiên trừng phạt con người bằng cách biến mất, tôi chưa bao giờ quên Anh từng nói vậy. Tôi cũng bắt đầu hành trình biến mất, cùng Phiên.
Tháng Bảy năm đó mưa nhiều. Mấy bà già chung chuyến xe nói cử này ở trên trời có cặp vợ chồng gặp lại nhau nên họ khóc tối tăm trời đất. Họ hỏi tôi, “mưa gió vầy bồng con đi đâu vậy bây?” Tôi cố giải thích thằng nhỏ này là em trai tôi, họ cũng ờ ờ nhưng chẳng có vẻ gì tin. Tuổi chúng tôi cách biệt quá lớn, mặt tôi lại đầy uẩn khúc. Tôi nghĩ, chuyện để Phiên làm con tôi cũng tốt cho việc bỏ trốn. Lúc đầu nựng nó kêu con ơi con mà mắc cỡ muốn chết, mà tê tái muốn chết, mình sẽ làm mẹ kiểu gì đây.
Có lần Phiên hỏi, hồi mẹ đẻ con chui ra chỗ nào, sau khi thấy chó vện đẻ mấy con chó con, lũ gà mái đẻ ra mấy cái trứng… tôi cười, nói tôi đẻ ngang hông, nó cứ rờ bụng tôi tìm sẹo. Tôi thương nó bằng những người đàn ông tôi thương cộng lại, dù đôi lúc tôi không phân biệt được, tôi mang Phiên đi cho cha tôi biết đau, hay vì giữ gìn vẻ đẹp trong veo của nó không cho nó trở thành bản sao của ông, không để những cám dỗ của cuộc đời làm tha hóa chất người, hay tôi mang Phiên đi để cho anh thấy quyền lực cũng mong manh lắm, vui cho buồn người ta lấy lại cho người khác, bằng chứng là Anh sẽ bị rầy rà lên xuống dù người gây tội chỉ là một nhân viên nhỏ nhoi của Anh.
Ở xóm Cồn không ai một lần nghi ngờ chuyện tôi là mẹ Phiên, ngay ngày đầu tiên ẳm nó đi ngang qua đám giỗ đó người ta gọi, “trời đất, hai mẹ con sao lạc tới xứ hoang vu này?”. Tôi có quên Phiên ở nhà họ thì chỉ nhận lời trách cứ nhẹ nhàng, “cái cô này hồn vía không biết bỏ đâu…”
Chưa bao giờ có ai hỏi như gã đàn ông xa lạ kia hỏi:
- Thằng nhỏ này là con em, thật sao?
12. Cho tới khi chiếc xáng cơm rướn vào nằm thở khói ở bãi cồn, thì mảnh đất này chính thức nói lời mất mát. Tôi đã từng coi nó như khu bảo tồn của những vẻ đẹp, quý giá hơn những gì được lưu trữ ở Viện di sản thiên nhiên và con người. Bởi tất cả đang sống và đang thở.
Mười bốn năm, nhiều gia đình dọn tới rồi đi, họ coi như chốn nương náu tạm bợ. Vì tạm bợ nên họ không quay quắt vun vén, tranh giành. Đất ai lấy được của lau lách nấy trồng. Cửa để thả, suồng sã với gió và nắng trời, mùa mưa tới chỉ che hờ hững cái rèm bằng cao su rẻ tiền, hết mùa rách nát. Chị Thiện này nhận được món quà của thời gian - sự quên lãng - hớn hở về nhà, thì có chị Thiện khác chạy giạt tới, cũng thường nhón ngó về quê.
Ở đây, một nồi chè đậu xanh cũng múc cho cả xóm. Đi qua nhà sẽ có người ới lên trong sương sớm, “mới bửng sáng thím (hay cô) đi đâu vậy?”, thật ra đó chỉ là một câu chào theo kiểu xóm giềng quan tâm nhau. Tôi thích kiểu chào kỳ lạ này, cảm động như ngày xưa thằng bán vé số kêu bớ con Di. Tôi mê sự đáo để của thím Tư Đình, bữa chú uống rượu say, thím bóp nát trái chuối chín lòn vô giữa đùi chú, lúc tỉnh dậy chú nghe lạnh chỗ đó, sượng trân túm hai ống quần nhảy ào xuống sông. Tôi thích chị Thắm những ngày sực nức mùi xà bông thơm, cười ỏ ẻ khoe, “bữa nay rằm, bà lớn đi chùa, ông chồng hứa qua chơi…”. Tôi đếm từng ngày để chờ ba Thơ khùng ra thăm con, ông dắt anh ra mé cồn, tắm rửa kỳ cọ, lục cục kể chuyện nhà trong khi thằng con trai cứ ngoái nhìn cái radio đặt ở một chỗ khô ráo gần đó, “con Bé Út lấy chồng rồi, phải bây đừng có khùng thì tao cưới nó cho bây, giờ con nít chạy đầy nhà…”. Ở đây, tôi thấy bình yên những khi ngồi câu trong chòi ông Sáu, đôi lúc nằm ngủ quên ở đó, để tóc và hơi thở chảy tràn quanh ông, có khi gác tay lên đầu gối ông mà không gợn lên chút nhục dục nào.
Kẻ ông già căm giận đã nằm sâu dưới ba tấc đất. Ông vẫn ở lại đất Cồn, có lúc tôi nghĩ, biết đâu vì hai mẹ con tôi. Những khi ông trút cá vào xô đựng của tôi, hay chơi xích đu lơ với thằng Phiên, bò ra bắn đạn cu li, làm diều cho nó thả… tôi hình dung Phiên sẽ cô đơn đến mức nào nếu không có người này. Mọi trò chơi trẻ con đều cần đến hai người. Đá dế cũng cần tay vỗ, mới vui.
Nhưng hơn ai hết, tôi biết không có gì vĩnh viễn. Sự biết này làm tôi hay buồn, khi ta ngồi cạnh nó, ta ở trong nó, cùng với nó, nghe thấy, chạm được nó, nhưng ta cũng đang mất nó, từ từ.
Ta không bao giờ mong muốn nhưng lại có cảm giác chờ đợi, vì biết nó đang đến. Người đàn bà mặn mà của xóm Cồn tắm xà bông thơm thường hơn, gọi Thơ khùng tới chơi thường hơn, và anh chàng ràng cái radio kè kè bên lổ tai có bữa nằm ngửa xãi lai dang rộng chân tay nói, “tui đang làm con chồng học tiếng người”. Ba anh Thơ hết hồn, dọn anh đi tới một chỗ hoang dã khác, chỗ yên tĩnh để anh làm con gì cũng được, miễn đừng làm con chồng, tổn hao sức khỏe.
Đất Cồn vắng đi một người đẹp. Một tâm hồn miển nhiễm với những vui buồn, tranh đua, khao khát. Người không thêm không bớt, vui vẻ với thế giới của mình trong chiếc radio, với một nửa trí khôn. Phiên nhớ Thơ, cuộc đi đó làm nó bắt đầu ngửi được mùi mất mát. Nó hay đứng xơ lơ bìa cồn ngó mênh mông. Trong tầm mắt nó, những chiếc xáng bắt đầu ngược xuôi gào rú, hút cát từ lòng sông, bất kể đêm ngày. Dòng chảy thay đổi đã ăn mòn đôi bờ, sông càng mênh mông. Đất cồn bị nước nuốt chửng từng mảng, sóng đánh vỡ tan bờ lá, đất lở mang theo những cây bần đã cho cồn cái tên Bần.
Và căn chòi của ông Sáu lặng lẽ biến mất trong một tối tháng ba lặng gió. Nó mang theo ông già rắn rỏi giỏi lặn lội. Tôi đau nhói bởi ý nghĩ, ông đã để mình chìm. Chiều hôm trước, một đám người tắm sông gần chỗ chúng tôi ngồi câu, ai đó chớt nhả với tôi, “em ơi, ở chung với ông già thì em làm đàn bà sao được, xuống đây với anh đi…”. Tôi thấy ngọn câu của ông chao đảo. Mà tôi không biết nói gì với họ, mười mấy năm sống đất Cồn, tôi dường như không dùng tới những từ ngữ bốp chát, nặng nề. Sượng câm, tôi đứng lên về, và hình ảnh cuối cùng về ông Sáu mà tôi có khi ngoái lại là lưng ông bỗng cong khẳm, cảm giác hình như vai ông đổ xuống, run run.
Thằng Phiên khóc mướt, trong mớ nước mắt đó, tôi biết nó khóc cho những cổ tích đã chết rồi. Những bà tiên cũng chết ngắc. Nó đã khẩn cầu mấy ngày đêm liền, không tiên nào mang ông Sáu với anh Thơ khùng quay lại.
Tôi thấy mình đang mất Phiên. Mất từng ngày, khi cơ thể Phiên bắt đầu thay đổi, nó bể tiếng, nhổ giò. Nó choáng váng, ngây ngất với những khám phá trên người mình, từ chính mình. Nó không còn tắm truồng nữa, ngượng ngập và cô độc. Trên cồn, cả con chó xà mâu cũng có bạn tình, Phiên chỉ một mình. Một vài đứa trẻ đã theo cha mẹ đến đây, kết bạn kết bè với nó. Bỗng một sáng người ta nhổ nhà đi mất, nhổ đám trẻ theo cuộc đi mù mịt.
Trong nỗi thiếu thốn, khi chiếc xáng cơm khai thác cát sông ghé qua, thả những gã đàn ông xa lạ lên bờ, họ nấu nướng, tắm giặt, họ treo võng ngủ, họ nhậu nhẹt hát ca... Phiên nhanh chóng gắn bó với họ. Nó tò mò nghe họ nói chuyện đàn bà, chuyện những thành phố không bao giờ tắt đèn. Nó xuống xà lan chơi cát ướt, biểu diễn tài lặn lâu trong nước, tài treo ngược trên cây. Và một bữa đòng đưa thân mình trên nhánh ô môi, nó kể họ nghe về cha mình, sau đó khóc nức nở khi thấy họ bò lăn ra cười.
Đã thưa vắng những câu hỏi mẹ ơi mẹ à, thằng Phiên lẳng lặng tìm hiểu tại sao những gì tôi nói đều không đúng. Nó ngoáy tai liên tục. Và tôi cũng liên tục để cơm khét, cá cháy. Tôi làm bể chén. Tôi thấy mình nghèo quá, mình chỉ có tình thương. Tôi chỉ có thể hứa những lời hứa nghèo, chừng nào hái bí mẹ mua cho con bộ đồ mới, chừng nào con lớn mẹ sẽ cho đi chơi thành phố, chừng nào kiếm nhiều tiền mẹ mua chiếc xe đạp cho con chạy lòng vòng cồn chơi. Hoặc lời hứa mịt mù kiểu như “nghe lời mẹ rồi mẹ thương…”.
Nhưng gã đàn ông trải đời trên chiếc xáng, người có mấy cái răng bịt vàng và nụ cười chói lóe nhăn nhở chỉ cần nói, “Ê nhóc, mai qua chợ nhậu không, bên đó có mấy đứa con gái hết sẩy…”, ngay lập tức những hứa hẹn của tôi đã giảy chết. Chúng quá giản dị, tẻ nhạt và đơn điệu. Tôi thấy mình hơi tuyệt vọng khi làm bộ ngang qua đó, giận dữ nói, “thằng con tôi còn con nít khờ ịt, mấy anh đừng làm hư nó. Phiên, về!”. Trong một khoảnh khắc khi gã đàn ông vuốt ánh mắt trên cổ mình, tôi nhận ra mười bốn năm qua tôi vẫn là đàn bà. Và đẹp.
Lần đầu tiên tôi căm ghét mình. Gã bắt đầu tới lui ve vãn. Chiếc xáng tạt qua cồn thường hơn, rủ rê nhiều xáng cơm, xà lan khác. Dân xóm Cồn hớn hở bưng rau trái ra bán. Chị Thắm hớn hở tắm xà bông thơm, ngồi ngoài sân tỉa chân mày, chị tỏ ra buồn lòng khi chủ chiếc xáng ngậm cái tăm chỉ dừng lại nói mấy câu ởm ờ, rồi vượt qua đám sậy thưa tới nhà tôi. Có đôi lần ghé lại, gã đã hỏi em nhớ tôi không, với ánh nhìn tràn đầy hy vọng. Tôi ước gì có thể trả lời, hoặc ngọt ngào rằng, em nhớ muốn chết, hoặc hứ nguýt xa xôi, sao không đi luôn đi… Và gã sẽ bớt nhẫn tâm.
Nhưng tôi không còn gì cho gã hết, dù là giả đò. Gã vẫn tin có ngày tôi khuất phục, vì gã điều khiển được thằng nhỏ Phiên, bởi những hứa hẹn hấp dẫn, đầy ma lực và cám dỗ. Gã biết đứa con trai mới lớn muốn gì, biết đứa con là điểm yếu của bà mẹ. Một bữa gã phát hiện ra tôi có điểm yếu khác, từ tờ giấy báo lót dưới đáy rương giữ gìn những kỷ vật của gia đình gã. Tôi ở đó, nằm xẹp dưới mớ đầu tóc mượn, bộ răng xương.
Gã đến tìm tôi.
13. Chiếc xáng tháo ra khỏi cồn rồi, Phiên về đứng dựa cửa ngó tôi lui cui trong bếp:
- Chú Sở kêu gã mẹ cho ổng.
- Vậy sao?
- Con nói mẹ con ghét chú. Ổng nói, mấy ngày nữa chú quay lại là mẹ thương liền.
Rồi Phiên hỏi, thiệt không mẹ. Tôi nói không, chú đó giỡn chơi thôi. Rồi thấy mắc nghẹn, ứa nước mắt. Phiên giờ hay dùng ba chữ “thiệt không mẹ?”. “Người ta nói con không có ba, thiệt không mẹ?”, “Người ta nói trên đời này không có tiên, thiệt không mẹ?”…nghe nhói lên sự hoài nghi, ngờ vực. Lòng tin vào tôi đã hao hớt.
Bữa cơm chiều bỗng lặng đi trong tiếng đũa khua, tiếng muỗng cạo nhói đít nồi. Trên mâm chỉ có cá rô kho khô mặn quắt với vài ngọn bí luộc. Cơm nhảo như cháo. Chỉ vì khi vo gạo, tôi nhìn thấy mình trong lu nước chênh chao. Tôi không còn là đứa con gái trên bài báo nằm nơi túi áo. Mười bốn năm dài hơn tôi cảm thấy. Những người cùng có mặt trong bài báo đó, có còn không?
Cha tôi còn sống không, còn mỏi mòn tìm kiếm và hy vọng, hay đến lúc chết vẫn không biết được con trai ông đã bị bắt đi bởi con gái ông. Tôi đọc bài viết cũ lần thứ hai, thứ ba, và nhận ra Anh không hé lộ gì về nhân thân của tôi hết. Rừng cần anh giữ bí mật đó để giữ chúng. Lỗi quản lý không nghiêm để nhân viên phạm tội nhỏ hơn lỗi tạo điều kiện để nhân viên phạm tội.
Phóng viên chụp ảnh Anh tiều tụy ngồi ở bàn làm việc của mình, mực phai nhòe nhoẹt. Tôi nhớ, phía lưng Anh có tấm bản đồ tự nhiên rất lớn, choán hết cả một bức tường. Anh có bao giờ đứng trước nó và nghĩ tới tôi như tôi vẫn nhớ Anh từ cái chấm nhỏ nhoi trên đường kẻ ngoằn ngoèo màu lam - màu của những dòng sông. Tôi ngày ngày ngồi ở đó buông cái lưỡi câu chữ i và đôi khi thấy mình đang đợi, trời ơi sao người ta không tới tìm mình, còng tay, trói gô lại, dí súng vào đầu mình? Nhưng có một sự thật khiến tôi không đưa Phiên qua bên sông và la làng giữa chợ, “thằng nhỏ này tôi bắt cóc nè, bớ bà con ai rảnh rỗi bắt tôi giao cảnh sát giùm”, sự thật là không ai tìm tôi cả, họ chỉ tìm thằng nhỏ tên Phiên, nó mới là điều họ cảm thấy mất mát, không phải tôi.
Nên tôi giữ rịt Phiên ở chỗ đìu hiu này. Nên tôi không ngạc nhiên khi thấy nước mắt cha tôi ràn rụa trên mảnh báo. Phóng viên kể lại câu nói duy nhất của ông, “tôi chỉ cần thằng nhỏ, tôi sẽ đổi bằng tất cả gia tài của tôi, mạng sống của tôi…”. Rủi là lúc đó tôi ẳm thằng Phiên trốn chui trốn nhủi, tờ báo không đến tay, phải đọc được biết đâu tôi đã đưa nó về và nói, thưa ông, tôi chỉ cần một lời xin lỗi.
Mảnh báo trong túi áo cựa quậy nhói ran, chừng ngó lại thì gạo ngâm lâu trong nước rã nát.
Ngoài sông, những chiếc xà lan vẫn chà đi xát lại làm xây xước mặt nước, vẫn kêu rú khoái trá, tục tằn man rợ khi sục những cái vòi vào thân thể sông, hút mòn xương máu nó, phơi tan hoang lòng nó. Làm xói lỡ bờ bến cuối cùng, lấy đi của tôi những thương yêu cuối cùng. Tôi không thể để tôi cũng mất. Tôi đặt mảnh báo cũ trước mặt Phiên, và kể cho nó nghe một câu chuyện. Tôi không muốn bất cứ ai kể và nó chạy về mếu máo hỏi, thiệt không mẹ, thiệt không?
- Người này là cha tụi mình - Tôi chỉ vào tấm ảnh lem luốc. Phản ứng duy nhất của Phiên là câm lặng. Khoảnh khắc đó tôi nhận ra em trai tôi cũng khiếm khuyết, tật nguyền. Phiên gần như không biết biểu lộ sự giận dữ, bàng hoàng, đau đớn… dù trong nó có tất cả cảm giác đó, bị chúng quăng quật trong lòng. Tôi không dạy nó cách đương đầu với những sự thật phũ phàng, thậm chí nó còn không biết cuộc đời này có thể tồn tại điều gì, ai đó xấu xa giống như tôi.
Thằng Phiên bỏ đi tìm ai đó có thể giúp nó biết giận dữ, phẩn uất như một con người đúng nghĩa. Ngoài kia vẳng lại tiếng khạc nhổ, tiếng nói cười ánh ỏi, tôi biết Phiên sẽ tìm được người, một người rất sẵn lòng nói cho nó biết nó đã bị tôi tước đoạt đi nhiều như thế nào. Một mái nhà yên ấm đông đúc với người cha hết lòng cưng chiều, những ngôi trường, những món đồ chơi hấp dẫn, những đứa con gái dễ thương, một cuộc sống tiện nghi hiện đại với những quán net, tiệm game dập dìu trên đường… Cái thế giới bên kia sông mà Phiên đã bỏ lỡ mười bốn năm đó mới thật sự là thiên đường. Và tôi đánh cắp.
Tôi biết trong bóng tối rập rờn trên những gương mặt người, gã đàn ông thua cuộc sẽ dồn cả sự giận dữ của mình vào Phiên, làm nó chật căng, nổ tung. Phiên của tôi đang nghĩ cách nào trừng phạt người chị nhẫn tâm của nó. Nhưng Phiên không biết điều đó cũng làm nó trở nên nhẫn tâm. Tôi không cam lòng, vẻ đẹp thiên thần mà tôi giữ gìn mười bốn năm qua không thể mất bằng cách như người đời thường đánh mất.
Quờ quạng trong bóng tối như một người mù, va đập vào trống không đau điếng, tôi lần dò vào bếp, bắc ấm nước lên cái cà ràng và nhóm lửa. Tôi chụm rất nhiều củi, chờ nước kêu ấm, nghĩ gió thổi hướng này chắc Phiên không thể nào bắt mùi được những nếp lá mục bắt đầu le lói cháy. Tôi đứng trong khói và tự hỏi, làm sao giữ được vẻ đẹp lộng lẫy này của khói, với mùi trứng kiến cháy cùng những con mối ú mềm, mùi lửa bén vào chiếc trái khế con rụng xuống nằm khô trong máng nước, mùi lửa liếm láp lên chiếc lông gà, cái quạt tàu cau giắt trên vách, chiếc chiếu đã đứt mất mấy sợi dây trân, và khói bắt đầu sẽ sàng bén vào những sợi tóc…
Khói này, là món quà cuối cùng tôi tặng em tôi. Nhưng khi nắm chúng lại, tôi chỉ nghe những ngón tay mình xỏ vào lòng tay của chính mình.
Nguyễn Ngọc Tư
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nhà văn Anh Đức như tôi đã biết Nhà văn Anh Đức bị đột quỵ cách đây hơn mười năm, bị hôn mê sâu đến 20 ngày. Nhờ các bác sĩ tận tình cứu...