Thuyền
viễn xứ của Phạm Duy phổ từ bài thơ của một cô gái
bacsiletrungngan
Thuyền Viễn Xứ - Vương Dzung, Hoàng Anh Thư
Trong những ca khúc
đầy tâm trạng hoài hương, mang nỗi buồn man mác như: Làng tôi (Chung Quân),
Hướng về Hà Nội (Hoàng Dương), Quê mẹ (Thu Hồ), Làng tôi (Văn Cao), Ngày về
(Hoàng Giác)… thì Thuyền viễn xứ của Phạm Duy dù có buồn nhưng giai điệu khác
hẳn: lạ hơn, sang trọng hơn…
“Chiều nay sương
khói lên khơi. Thùy dương rũ bến tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời. Sóng Đà
Giang thuyền qua xứ người. Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần qua dạt bến lau
thưa. Hò ơi, giọng hát thiên thu. Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về…”
Thế nhưng, nhiều người
chỉ biết Thuyền viễn xứ là của Phạm Duy chứ chẳng mấy ai để ý
rằng đây là một ca khúc phổ nhạc, dù trên bìa bản nhạc (thời đó, từ đầu thập
niên 1940 cho đến 1954 trong toàn quốc, cả Cao Miên, và từ 1954 đến 1975 ở miền
Nam, những bản nhạc được xuất bản dưới hình thức in rời bằng giấy cứng khổ lớn
in 2 mặt, gấp lại ở giữa), Thuyền viễn xứ được cả hai nhà xuất bản Tinh Hoa và
Á Châu ấn hành đều ghi rõ: nhạc: Phạm Duy, thơ: Huyền Chi.Huyền Chi là bút danh
của Hồ Thị Ngọc Bút, sinh năm 1934 tại Từ Sơn (Bắc Ninh), theo gia đình vào Nam
từ trước năm 1954. Lúc mới vào Nam (1948-1949), cô ở với chị gái tại Đà Lạt,
sau đó về Sài Gòn (1950) vừa đi học vừa phụ mẹ trông nom sạp vải ở chợ Bến
Thành. Bài thơ Thuyền viễn xứ là một trong 22 bài thơ nằm trong tập thơ Cởi mở
của Huyền Chi xuất bản năm 1952, trong thời gian cô sinh hoạt với một nhóm văn
nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa soạn chuyên trách mục thơ cho Tạp chí Phụ Nữ của
bà Nguyễn Thị Lan Phương. Và đây là nguyên văn bài thơ Thuyền viễn xứ,
mà tác giả là một cô gái 18 tuổi:
Đây là 24 câu lục bát
của bài thơ “Thuyền Viễn Xứ“:
“Ra khơi sương khói
một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu
điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men
lòng
Mây trời pha ráng lụa
hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà
Giang
Một lần dạt bến qua
ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn
xưa
Ngân lên trong một
chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước,
tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ
phàng
Bến sông quay lại,
hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông
Đà
Mái đầu sương tuyết
lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ
xuống hồn
Bao nhiêu sương khói
chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt
rồi
Tần Yên đã nổi bốn
trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân
hành
Dặm trường vó ngựa
đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ
cho vừa
Gửi về phương ấy mịt
mờ quê hương
Chiều nay trên bến
muôn phương
Nhà thơ
Huyền Chi năm 18 tuổi
Duyên văn nghệ
Tuy lời thơ có vẻ… cổ
phong (vốn là chuẩn mực vào thời đó) nhưng vẫn toát lên một nỗi buồn man mác.
Bố cục bài thơ cũng rất “chắc tay”, hồn thơ tinh tế. Tập thơ vừa in xong tại
nhà in Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo thì tình cờ Huyền Chi gặp nhạc sĩ Phạm
Duy khi ông đến thăm bà Đào (chủ nhà in). Cô ký tặng nhạc sĩ tập thơ Cởi mở.
Cũng nghĩ là chút duyên văn nghệ thế thôi, bởi đó là lần gặp gỡ duy nhất giữa
hai người. Vậy mà người được tặng tập thơ đã chọn một bài thơ lục bát rất…
truyền thống trong tập thơ ấy để phổ thành ca khúc. Điều đáng nói là nhạc sĩ
Phạm Duy đã trổ tài “phù thủy” khiến trong ca khúc phổ thơ của ông, khó ai tìm
thấy bóng dáng của thể loại lục bát. Đã vậy, đoạn giữa được chuyển qua âm giai
trưởng nghe vừa xa vắng, vừa rạo rực mênh mang: “Nhìn về đường cố lý, cố lý xa
xôi. Đời nhịp sầu lỡ bước, Bước hoang mang rồi. Quay lại hướng làng, Đà Giang
lệ ướt nồng. Mẹ già ngồi im bóng. Mái tuyết sương mong con bạc lòng…”.
Trong quyển Hồi
ký Phạm Duy (tập 3, ấn bản 2008), tác giả viết: “Gần hai năm đã trôi
qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền Bắc vào miền Nam, lo ổn định
nơi ăn chốn ở và thu xếp công kia việc nọ ở Sài Gòn… Vào thời điểm này (trước
cuộc di cư 1954), Huyền Chi, một cô em bán vải ở chợ Bến Thành đưa cho tôi phổ
nhạc bài thơ nhan đề Thuyền viễn xứ. Bài thơ này nói lên tâm trạng một người
Bắc Việt phải rời bỏ bến Đà Giang để vào sinh sống tại miền Nam. Phổ nhạc xong
bài thơ nhớ miền viễn xứ, trong tôi lại nổi dậy sự viễn mơ của bài Bên cầu biên
giới năm xưa, tôi bèn soạn bài Viễn du…”.
Huyền Chi lập gia đình
với giáo sư Trần Phụng Tường vào năm 1954, và theo chồng ra Phan Thiết, nơi ông
đang dạy Pháp văn ở Trường trung học Phan Bội Châu. Ở đây bà mở hiệu sách Bút
Hoa và dạy Anh văn.
Nguyễn Phước Thị Liên,
một cựu học sinh của Trường trung học Phan Bội Châu, đã “vẽ lại” chân dung của
Huyền Chi như sau: “Huyền Chi là một phụ nữ đẹp, tài sắc vẹn toàn. Cô có nước
da trắng khỏe, dáng người cao, gương mặt tươi, miệng cười hiền hậu dễ mến, tà
áo dài màu thiên thanh đài các trong những chiều lộng gió, khi thầy cô sánh vai
giữa thành phố Phan Thiết, đã làm xao xuyến bao tâm hồn nữ sinh lúc bấy giờ…”
(Kiến Thức Ngày Nay số 768 tháng 12.2011).
Tác giả “Thuyền
Viễn Xứ” nói đến tập thơ đầu tay của bà mang tựa đề “Cởi Mở“, với 22
bài thơ ký bút hiệu Huyền Chi, do nhà in Sống Chung ấn hành. Bà kể lại: Sinh
năm 1934 tại Từ Sơn, Bắc Ninh, bà theo gia đình rời nguyên quán vào Nam khi còn
là một nữ sinh trung học, thoạt đầu ở Đà Lạt với chị, sau đó về Sài Gòn ở với
mẹ, vừa đi học vừa giúp mẹ trông nom sạp bán vải ở chợ Bến Thành. Lập gia đình
năm 1954, bà theo chồng ra Phan Thiết, mở hiệu sách, dạy Anh ngữ, rồi làm việc
cho cơ quan MAC-V, và sau biến cố 1975 bà cùng gia đình dời về lại Sài Gòn. Phu
quân của bà, giáo sư Trần Phụng Tường đã tạ thế năm 2010. Trong 7 người con của
ông bà, 4 người hiện ở ViệtNam, 3 người ở Hoa Kỳ.
Bà kể lại, cùng với
những bài thơ khác trong tập “Cởi Mở“, bài “Thuyền Viễn Xứ” được
sáng tác vào năm 1952, thời gian bà sinh hoạt với một nhóm văn nghệ sĩ trẻ và
làm thư ký tòa soạn chuyên trách mục thơ cho tạp chí Phụ Nữ ở Sài Gòn. Tình cờ
gặp gỡ tại nhà in Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo, cô nữ sinh 18 tuổi ký
tặng một ấn bản của tập thơ đầu tay còn thơm màu mực mới cho một nhạc sĩ thành
danh, lúc đó đang ở Sài Gòn để sắp xếp công việc cho gia đình vừa từ Bắc vô
Nam. Đó là lần duy nhất tác giả bài thơ gặp tác giả bản nhạc.
Rồi thời gian tiếp tục
trôi đi… Đất nước lại trải qua thêm một cuộc bể dâu… Những ấn bản của tập thơ “Cởi
Mở” đã bị thất lạc từ năm 1975 lúc tác giả cùng gia đình di chuyển về Sài
Gòn, và đến bây giờ thì chính nữ sĩ Huyền Chi cũng không còn nhớ trọn vẹn từng
bài thơ trong đó nữa.
Bà hiện vẫn còn sống
Sài Gòn, còn chồng bà – ông Trần Phụng Tường mất năm 2010. Trong 7 người con
của hai ông bà có 4 người hiện ở Việt Nam, 3 người ở nước ngoài. Chắc chắn
những người con ở xa quê này cũng sẽ có tâm trạng như mẹ của mình vào hơn nửa
thế kỷ trước, khi: “Chiều nay gửi tới quê xưa. Biết là bao thương nhớ
cho vừa. Trời cao chìm rơi xuống đời. Biết là bao sầu trên xứ người. Mịt mờ
sương khói lên hương. Lũ thùy dương rủ bóng ven sông. Chiều nay trên bến muôn
phương. Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường…”
Album: Thuyền Viễn Xứ
Người đăng: oo0serenade0oo |
Nghệ sĩ: Nguyễn
Thái Cường |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét