Bà Huyện Thanh Quan,
người đi dọc những Đèo
Ngang
Bà Huyện Thanh Quan là người không chỉ bị cuốn
hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy được cả vẻ đẹp của suy tàn. Điều này thường trực
trong thi phẩm đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một xung năng vô thức mạnh
mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos).
1. Năm 1802, sau khi thống nhất cả nước, Nguyễn
Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long mất địa vị
đầu não của đất nước về chính trị và văn hóa. Thậm chí, chữ long trong tên gọi
Thăng Long vốn là rồng, biểu tượng vương quyền và lý do chọn đô của Lý Thái Tổ,
cũng bị đổi thành chữ long là thịnh.
Sự hạ thấp này hẳn làm đau lòng dân chúng Bắc
Hà, nhất là các sĩ phu, những người từng ăn lộc nhà Lê như Nguyễn Du, Phạm Quý
Thích, thầy học của Nguyễn Lý, thân sinh Bà Huyện Thanh Quan. Nỗi đau ấy, về
sau, hẳn còn gia tăng khi cố đô Thanh Long bị đổi thành tỉnh Hà Nội vào năm
Minh Mệnh thứ 12 (1831): Kinh thành ngày ấy tỉnh bây giờ!
Năm 1813, trên đường đi sứ Trung Hoa, qua
Thăng Long, chứng kiến những đổi thay nơi mình đã từng sống suốt tuổi hoa niên,
Nguyễn Du cảm khái:
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một ố cung
(Nhà lớn nghìn năm thành đường cái
Một mảnh tân thành mất cung xưa)
Nhìn Thăng Long bây giờ, thi nhân nhớ về một
Thăng Long ngày xưa. Một nỗi nhớ với từng chi tiết cụ thể, đối lập nhau như
nhà/đường, thành/cung, mới/xưa. Và nỗi nhớ càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu thì
càng chứng tỏ nỗi đau mất biểu tượng ấy lớn bấy nhiêu. Đó là nguồn gốc và cũng
là nội dung của một tâm thức chung về sau được gọi là tâm sự hoài Lê mà một lớp
người đã từng sống với hoàng triều đeo đẳng.
2. Bà Huyện Thanh Quan (1) là người Thăng
Long chính gốc, dù bản thân chưa từng sống với nhà Lê, nhưng hít thở cái tâm thức
chung ấy của thời đại, hẳn cũng không tránh khỏi cái tâm sự hoài Lê. Một lần,
Qua chùa Trấn Bắc (2), thi nhân thấy:
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Một tòa sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi như rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. (3)
Trấn Bắc là một hành cung cũ đời Hậu Lê, xưa
chúa Trịnh thường đem văn võ bá quan, hoặc cung nữ, tới thưởng ngoạn cảnh Hồ
Tây và bày những trò vui nhộn. Vậy mà nay đã trở nên tiêu điều, vắng vẻ, cỏ dãi
dầu. Từ đó, thi nhân chạnh nghĩ về nhà Lê Trịnh, như một niềm cố quốc. Chữ chạnh
ở đây chỉ là nhân mà nghĩ, do điều gì đó gợi ra mà nghĩ chứ không phải lúc nào
cũng đau đáu như những cựu thần nhà Lê. Hơn nữa, thi nhân cũng không nghĩ về
chính cái nước cũ ấy, mà chỉ nghĩ đến nó như một niềm, một tâm sự.
Đọc thơ Thanh Quan, nhiều người thắc mắc, sao
thi nhân đang sống trên đất nước mình mà lại luôn luôn nói về cố quốc ("Chạnh
niềm cố quốc nghĩ mà đau"), luôn nhớ nước ("Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc")? Có vẻ như có một mâu thuẫn logic nào đó. Thực ra, về mặt xã hội, Bắc
Hà (Đàng Ngoài) luôn được coi như một "nước" so với Nam Hà (Đàng
Trong) (Xem Hoàng Lê nhất thống chí). Hơn nữa, về mặt tâm lý, cùng một thực tại
mà không cùng một khoảnh thời gian thì thực tại đó chưa hẳn đã như nhau. Bởi thế,
Nguyễn Bính mới "ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên".
Và, cũng bởi thế, Bà Huyện Thanh Quan nhìn hiện
tại mà nhớ đến quá khứ. Thậm chí, nỗi nhớ làm con người như rơi vào ảo giác.
Thi nhân thấy quá khứ: một toà sen thơm hơi hương vua còn rớt và năm thức mây
lưu lại nếp áo chầu. Sự hoài niệm đã xáo trộn thời gian, biến quá khứ thành hiện
tại. Đây là một nét đậm, một nhịp mạnh trong thơ Thanh Quan. Nó không chỉ tạo
ra một cảm hứng thế sự, mà còn tạo ra cái nhìn thế giới và cái nhìn nghệ thuật
trong thơ bà.
Bà Huyện Thanh Quan sống trong một thời đại
(lớn) đầy biến động. Nhà Lê/Mạc, chúa Trịnh/Nguyễn, Tây Sơn/Nguyễn Ánh liên tiếp
xuất hiện và liên tiếp sụp đổ. Nguyễn Du, một chứng nhân của thời đại ấy, đã phải
thốt lên: "Cổ kim bất kiến thiên niên quốc" (Xưa nay chưa từng thấy
triều đại nào tồn tại nghìn năm cả). Bà Huyện Thanh Quan cũng sống trong một không
gian nhiều đổi thay. Đó là Thăng Long. Theo quy luật động học văn hóa, trung
tâm bao giờ cũng thay đổi nhanh hơn và nhiều hơn ngoại biên. Hơn nữa, ở Việt
Nam, mỗi triều đại mới lên ngôi thường phá hủy những công trình của triều đại
trước để làm lại từ đầu. Trong một không - thời gian biến dịch như vậy, từ một
cảnh quan cụ thể là chùa Trấn Bắc, Bà Huyện Thanh quan dễ khái quát lên thành một
quy luật xã hội:
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Quy luật này không chỉ chi phối một cảnh quan
nào đó của Thăng Long, mà Toàn bộ Thăng Long và qua đó toàn bộ non sông đất nước.
Đây là sự thăng hoa của thơ Thanh Quan và càng ở những bài thơ sau thì sự thăng
hoa này càng lớn. Vì thế, trong Thăng Long thành hoài cổ, tâm sự hoài Lê trong
Bà Huyện Thanh Quan đã trừu tượng hóa thêm một bậc nữa:
Tạo hóa gây chi cuộc Lý Trường?
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Thi nhân trách con tạo (gây chi) biến cuộc đời
thành sàn diễn của những đổi thay. Thoạt tiên vẫn những đối lập xưa/nay ấy: Xưa
là lối xe ngựa đi về nhộn nhịp thì nay chỉ có cỏ thu phủ dày; xưa là lâu đài đường
bệ mà nay chỉ còn trơ lại nền cũ dưới ánh chiều tà. Rồi xuất hiện thêm một đối
lập khác nữa tự nhiên/nhân tạo. Ngày tháng (tuế nguyệt) trôi đi kéo theo những
đổi thay (tang thương), nhưng đó là những đổi thay của thế giới nhân tạo, thế
giới người, còn tự nhiên (đá, nước) thì vẫn bất biến (trơ gan, cau mặt). Soi
vào tấm gương vĩnh hằng của tự nhiên, đời sống nhân tạo từ xưa đến nay (kim cổ)
càng trở nên giả tạm và thoáng chốc. Con người đối diện với cảnh tượng này (cảnh
đấy, người đây) được thức nhận, tỉnh táo hơn so với con người ảo giác ở chùa Trấn
Bắc. Nhưng, vì thế, cũng đau khổ hơn. Và cô đơn hơn.
Đến đây, có thể nói, cái chữ tâm sự hoài Lê ở
Bà Huyện Thanh Quan, nếu có thì cũng đã dần dần trở nên rỗng nghĩa, mất nội
dung cụ thể. Thăng Long thời Lê chỉ còn là một biểu tượng của một quá khứ vàng
son đã một đi không trở lại. Thậm chí chỉ còn là biểu tượng của một dĩ vãng
chung chung một hoài niệm, một nỗi nhớ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ cấp hai này tạo
thành nội dung sống của Bà Huyện Thanh Quan.
3. Được gọi vào Huế làm Cung Trung Giáo Tập,
Bà Huyện Thanh Quan giã từ Thăng Long. Những tưởng rằng sự thay đổi không gian
sẽ làm thay đổi thời gian. Van lạy không gian xóa những ngày (Hàn Mạc Tử).
Nhưng hóa ra phong cảnh không lay chuyển được tâm cảnh, mà, ngược lại, còn bị
tâm cảnh nhuộm màu. Điều này có thể thấy rõ khi thi nhân Qua Đèo Ngang:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác ven sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cảnh Đèo Ngang thật khác xa với cảnh Thăng
Long. Nhiều thiên nhiên hơn, ít nhân tạo hơn. Nhìn gần, thi nhân thấy thiên
nhiên cũng chen chúc. Một mặt, cái hữu sinh (cỏ cây) lấn át cái vô sinh (đá), mặt
khác, trong giới, hữu sinh, cái thô lậu hơn (lá) lại lấn át cái tinh tế hơn
(hoa). Còn nhìn xa: vạn vật thu nhỏ như trong hòn non bộ. Con người thì nhỏ
nhoi, cực nhọc (Lom khom dưới núi tiều vài chú), nơi "vui như chợ",
"đông như chợ" thì cũng lại thưa thớt (Lác đác ven sông chợ mấy nhà).
Thật khác xa với cảnh chen chúc của thiên nhiên. Thực ra, cảnh Đèo Ngang rất
hùng vĩ, nhưng trong con mắt tâm trạng của nhà thơ đã trở thành cảnh mọn, thậm
chí tiêu điều. Chẳng khác gì sự tiêu điều của Thăng Long. Nội tâm đã chi phối
ngoại cảnh.
Đứng trên đỉnh Đèo Ngang, nghe tiếng cuốc
kêu, Bà Huyện Thanh Quan nhớ đến nước; nghe chim da da (đa đa, bát cát quả cà,
bắt cô trói cột...) kêu, thi nhân thấy thương nhà. Niềm hoài cổ luôn chờ chực sẵn,
còn sự đồng âm kia (cuốc là chim và quốc là nước, da da là chim và gia là nhà)
chỉ là một cái cớ. Đến đây, thiên nhiên vốn chen chúc tạo thành một hợp thể ở
chân đèo, rã ra thành những yếu tố riêng rẽ: trời, non, nước. Và con người cũng
trở thành một yếu tố đơn lẻ, ngậm một mảnh tình riêng mà chỉ biết chia sẻ với
chính mình (ta với ta).
Bà Huyện Thanh Quan, như vậy, đã vượt qua được
một Đèo Ngang địa lý mà không qua nổi một Đèo Ngang tâm lý. Tâm tình hoài cổ vẫn
là hành trang của bà trên đường vào Huế. Thậm chí, hành trang ấy càng đi xa
càng trở thành một gánh nặng. Nỗi nhớ Thăng Long, nhớ về nỗi nhớ Thăng Long đè
nặng tâm hồn người lữ thứ, trở thành nỗi nhớ nhà mỗi khi chiều về trên con đường
thiên lý:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Chiều hôm nhớ nhà là một tâm trạng cố hữu,
thường hằng của động vật, của con người. Mỗi khi ngày hết, mọi sinh linh đều tìm
về nhà, tổ ấm, chốn nương thân để được che chở nghỉ ngơi. Bằng những động tác dứt
khoát, sảng khoái (gác mái, gõ sừng), ngư ông và mục tử ra về. Và tuy là bến xa
(viễn phố) và thôn lẻ (cô thôn), nhưng họ còn có nơi để mà về. Còn con người lữ
thứ kia, giống như con chim bạt gió, mặc dù đang dồn bước nhưng không có nhà để
mà về. Chỉ có sự nhớ nhà, sự nhớ về sự nhớ nhà. Bởi thế, đường đi không bao giờ
kết thúc. Bởi thế lữ khách trở thành một trường lữ, một người đi.
4. Nếu lâu đài ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương được
xây dựng bởi những động từ chỉ hành động, tính từ chỉ phẩm chất, và trạng từ chỉ
cách thức và mức độ thì tháp (ngà) thơ Bà Huyện Thanh Quan lại chỉ được kiến tạo
bằng những danh từ mà phần lớn lại là danh từ Hán Việt: tạo hóa, hý trường,
tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường,
cố quốc, phế hưng, hoàng hôn, ngư ông, mục tử, viễn phố, cô thôn, chương đài, lữ
thứ, khoáng dã, bình sa... Nhiều câu thơ của Thanh Quan dường như chỉ là sự
ghép lại của những danh từ:
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Danh từ chỉ sự vật ở cấp độ khái niệm. (Ví dụ,
nói đến từ bàn, ta hình dung đó là một mặt phẳng, có chân, được dùng để làm gì
đó. Còn nếu biết cái bàn đó như thế nào thì phải thêm vào những định ngữ như
cái bàn vuông, màu xanh, bằng gỗ, để viết...). Làm thơ bằng những danh từ,
nghĩa là Bà Huyện nhìn sự vật ở những bản chất của nó, bỏ qua tất cả những gì
là cụ thể, sông động. Một người như thế là giữ một khoảng cách với cuộc sống,
xa lánh cuộc đời, lẩn trốn hiện tại. Khoảng cách đó ở nhà thơ còn được nhân lên
một lần nữa, bởi các danh từ của Thanh Quan toàn là danh từ Hán Việt.
Cùng chỉ một loài thực vật, nhưng cỏ (thuần
Việt) và thảo (Hán Việt) gieo vào tâm trí bạn đọc những cảm xúc và tưởng tượng
khác nhau. Cỏ bao giờ cũng gợi nhắc đến một thứ cỏ cụ thể nào đó. Nó đánh thức
trong ta những kỷ niệm. Còn thảo thì chỉ là một âm vang xa xôi, trang trọng và
nhoè nghĩa. Như vậy, sự khác nhau giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt không đơn
thuần ở sắc thái ngữ nghĩa, ở độ âm vang của con chữ, mà còn ở một cách nhìn.
Bà Huyện Thanh Quan thường nhìn cảnh vật vào
mùa thu: Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, bằng tấm-lòng-con-mắt-thu: Ngơ ngẩn lòng
thu khách bạc đầu. Thậm chí, ngay cả khi thi phẩm không có chữ thu nào, thì bạn
đọc vẫn cảm nhận được cảnh ấy, vật ấy đang thu: cỏ dãi dầu, toà sen rớt, thức
mây phong, ngàn mai gió cuốn, dặm liễu sương sa, còi mục thét trăng, chài ngư
tung gió... Một hồn thu ngấm trong từng con chữ phả vào hồn người đọc: Hơi thu
lạnh lẽo khí thu loà (Đỗ Phủ).
Cảnh thu ấy còn được thi nhân nhìn vào buổi
chiều, trong bóng chiều tà. Trong 5 bài thơ chắc chắn là của Bà Huyện Thanh
Quan thì có đến 4 bài có những từ khác nhau chỉ bóng chiều tà:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
(Qua Đèo
Ngang)
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long thành hoài cổ)
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Vàng tỏa non tây bóng ác tà
(Nhớ nhà)
Với tần số xuất hiện cao như vậy, lại ở vào một
vị trí đặc biệt (hầu hết đều ở cuối câu mở đầu thi phẩm), có thể nói, bóng chiều
tà chính là từ-chìa khóa để mở vào những tòa lâu đài thơ Thanh Quan. Bóng chiều
tà chính là lăng kính để thi nhân nhìn cuộc đời. Dưới bóng chiều tà, cảnh vật
mùa thu vốn đã tiêu điều đổ nát càng thêm đổ nát tiêu điều. Nhưng cũng trong
ánh chiều tà ấy, sự vật lại bừng sáng lên lần cuối cùng cái huy hoàng của tàn tạ,
để rồi vĩnh viễn lịm tắt.
Bà Huyện Thanh Quan không chỉ giữ một khoảng
cách với cuộc đời, mà còn giữ khoảng cách với cả chính mình. Khi trên đỉnh Đèo
Ngang, thi nhân nói với ta với ta là đã có sự phân thân. Ta tự chia ta thành một
cái ta khác để chia sẻ mảnh tình riêng cho bớt cô đơn. Nhưng dẫu sao chữ ta này
cũng vẫn là nhân xưng ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, điều này chỉ diễn ra một lần,
khi cảm xúc của thi nhân lên đến đỉnh điểm. Còn ở tất cả những trường hợp khác,
Bà Huyện Thanh Quan đều tự gọi mình ở ngôi thứ ba số ít. Một cách tự xa lạ hóa
mình. Đó là người ("Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường"); "Kẻ
chốn Chương Đài người lữ thứ"), kẻ ("Mấy kẻ tình chung có thấu
là...", đặc biệt là khách ("Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu";
"Dặm liễu sương sa khách bước dồn"; "Dặm liễu bâng khuâng khách
nhớ nhà").
Tự nhận mình là khách, Bà Huyện Thanh Quan
không chỉ gián cách mình với mình, mà, quan trọng hơn, gián cách mình với cuộc
đời. Bà khẳng định mình chỉ là một người khách đến với cuộc đời này. Đến rồi đi
không có gắn bó gì hết. Nhất là ở đây và bây giờ. Điều này còn được thể hiện rõ
một lần nữa qua nhan đề các bài thơ của thi nhân. Hai nhan đề có từ qua (Qua
Đèo Ngang, Qua chùa Trấn Bắc), hai có từ nhớ (Chiều hôm nhớ nhà, Nhớ nhà), một
có từ hoài (cổ), cũng là nhớ (Thăng Long thành hoài cổ). Như vậy, khoảng cách
giữa thi nhân và cuộc đời được thiết lập ở cả ba cạnh khía: qua : không gian;
hoài cổ: thời gian và nhớ nhà: tâm lý. Nghĩa là, người lữ khách ấy chỉ có đi
qua cuộc đời, không ghé lại đây để rồi chỉ có nhớ, hoài, nhớ hoài, hoài nhớ.
5. Mùa thu là mùa tàn của một năm. Chiều tà
là giờ tàn của một ngày.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan là thơ mùa thu và chiều
tà. Thời gian tàn tạ ấy lại gắn với không gian đổ nát: một tòa thành cổ, một
ngôi chùa hoang vắng, lối xưa nền cũ của những lâu đài cung điện, một cảnh đèo
heo hút, hoang vu, một bến sông xa, một bãi cát rộng, một con đường... Cảnh vật
trong không - thời gian ấy đều hướng tới một sự suy tàn, tiêu vong. Mặc dù buồn
về những cảnh tượng như vậy, nhưng thi nhân vẫn thấy được vẻ đẹp của sự tiêu
vong. Thậm chí, càng tàn tạ càng bừng lên một vẻ đẹp khó hiểu. Tâm trạng này
cũng giống như cái nhìn của Tản Đà sau này: "Lá sen tàn tạ trong đầm/Lặng
mang giọt lệ âm thầm khóc hoa" (Cảm thu tiễn thu). Tâm lý như vậy hẳn ẩn
sâu bên trong một xung năng vô thức nào đó.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn là sự lặp đi lặp
lại dài dài những vấn đề tư tưởng nghệ thuật ở cả phương diện vĩ mô lẫn phương
diện vi mô. Trước hết là sự trùng lặp về chủ đề: cả 5 bài thơ đều là sự hoài niệm
quá khứ. Cảnh tượng, phong cảnh đều là mùa thu và chiều tà. Tâm cảnh đều là sự
nhớ nước, thương nhà. Nhân vật trữ tình bao giờ cũng là người đi. Sau đó là sự
lặp lại của từ ngữ như thu, bóng xế tà, kim cổ (gương cũ soi kim cổ chuông hồi
kim cổ), cỏ (cỏ dãi dầu; cỏ cây chen đá)...
Đặc biệt là sự lặp lại với tần số cao những từ
chỉ tâm trạng của tác giả: niềm cố quốc, nhớ nước, thương nhà, nỗi hàn ôn, kẻ
tình chung, mảnh tình riêng... Như vậy, Bà Huyện Thanh Quan là người không chỉ
bị cuốn hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy được cả vẻ đẹp của suy tàn. Điều này
thường trực trong thi phẩm đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một xung
năng vô thức mạnh mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos).
Đến đây, người ta bỗng thấy ý nghĩa sâu xa,
nhiều tầng lớp trong nỗi buồn, sự hoài niệm quá khứ, sự cách vời cuộc sống hiện
tại của Bà Huyện Thanh Quan. Căn cốt của nỗi buồn đó là sự cuốn hút của thi
nhân về phía thanatos, sự nghỉ ngơi vĩnh cửu, sự yên tĩnh đời đời. Còn nỗi buồn
về thế sự đổi thay, mọi thứ đều giả tạo, mong manh, thoáng chốc chỉ là "bản
chất hàng hai", nói theo ngôn từ của triết gia Trần Đức Thảo. Như vậy, cái
"tâm sự hoài Lê" kia chỉ là tấm áo khoác, là duyên cớ, hay "bản
chất hàng ba", cái trên cùng, bề mặt.
6. Như vậy, với sự hướng về bản năng chết,
Thanh Quan càng là một đối tượng của Hồ Xuân Hương. Sự đối trọng trên mọi cấp độ.
Thơ Xuân Hương, như đã nói, được kiến tạo bằng những động từ chỉ hành động, thậm
chí hành động cơ bản nhất của con người như đạp, móc, xuyên..., bằng tính từ chỉ
phẩm chất, trạng từ chỉ cách thức và mức độ cùng cực. Hồ Xuân Hương, bởi thế,
là người áp sát với đời sống, người không khoảng cách với cuộc đời, người nhìn
cuộc đời trong sự chuyển động, sự vận động không ngừng của nó, trong màu sắc,
hình khối, kích thước, âm thanh của nó. Đó là một thi nhân yêu sự sống, tôn
sùng sự sống. Hồ Xuân Hương là người có một bản năng sống (éros) mạnh mẽ.
Hồ Xuân Hương, bởi thế, không chịu nằm yên
trong khuôn khổ thơ Đường, một thể loại thơ trang nghiêm, hài hòa đến tuyệt đối.
Thi nhân đưa vào thơ mình vô vàn những chi tiết tỉ mỉ, cụ thể, thậm chí sống
sít của đời sống, những từ láy đôi láy ba hết sức thừa thãi, những từ vận hiểm
hóc, thách đố, đặc biệt những cặp câu thực và luận, mặc dù đối vần rất chỉnh,
nhưng ít nhiều đã ngả sang đối xứng để ám chỉ những chuyện tính giao nam nữ
như:
Trai đu gốc hạc khom khom cột
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
(Đánh đu)
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đêm ngang thich thích mau
(Dệt cửi)
Toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương nhìn chung, vừa
tuân theo những nguyên tắc, luật lệ của thơ Đường vừa chống lại nó. Bà đã phá vở
tính đơn giản, kiệm từ, trang trọng cách vời của nó. Tuy nhiên, đó chỉ là sự
phá vỡ cái hài hòa cục bộ, tức nội bộ bài thơ, để sau đó lại thiết lập nên một
hài hòa mới, rộng hơn, giữa bản thân bài thơ và vũ trụ quanh bài thơ đó. Vì thế,
Hồ Xuân Hương đã sáng tạo ra một thứ thơ Đường luật mới. Đó là tinh thần éros.
7. Bà Huyện Thanh Quan, ngược lại, vẫn trung
thành với thể thơ luật Đường chính thống. Thơ Thanh Quan được làm bằng những danh
từ, lại là danh từ Hán Việt, nên tạo ra được một sự sang trọng, cách vời, thấm
chí uy nghi đường bệ. Thơ bà hoàn toàn không có các nối từ, "từ nước",
mà toàn những từ "đặc". Phép tính lược được vận dụng đến mức tối đa.
Không gian và thời gian thống nhất với nhau. Con người và vũ trụ thống nhất với
nhau. Mỗi bài thơ là một thế giới thống nhất, biệt lập, tự trị. Năm bài thơ
cũng tạo thành một thế giới thống nhất biệt lập và tự trị. Một Ngũ Hành Sơn
trên cánh đồng thơ Việt.
Thơ Đường Bà Huyện Thanh Quan, điều quan trọng
là vẫn giữ được hồn Đường. Đây là điều ít nhà thơ đạt được, kể cả những thi
nhân Trung Hoa sau Đường. Bởi vậy, nếu nói về việc làm thơ nôm Đường chuẩn nhất,
Đường nhất ở Việt Nam thì thứ nhất phải kể đến Bà Huyện Thanh Quan. Sự Việt hóa
thơ Đường ở thi nhân, nếu có, chính là việc nhà thơ kín đáo để lộ nữ tính của
mình vào bài thơ. Thi nhân nói nhiều đến mai, liễu vốn là những từ chỉ phụ nữ
trong thi liệu Đông phương.
Nguyễn Du đã từng khen chị em Thuý Kiều là
mai cốt cách tuyết tinh thần, rồi Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh. Đặc biệt
hơn, Bà Huyện Thanh Quan khi dùng chữ kẻ chốn Chương Đài thì đã nói về liễu
Chương Đài, về người phụ nữ. Ngoài ra, thơ Thanh Quan cũng nói nhiều đến cỏ, thứ
thực vật rất gần với thân phận phụ nữ. Chính nữ tính này của thi nhân đã làm mềm
hóa, thân mật hóa thể thơ Đường luật vốn trang nghiêm, đôi lúc đến lạnh lùng.
Nét riêng nữa của thơ Đường Thanh Quan là xuất
hiện thực hiện người lữ thứ. Người đi đường chứng kiến kể lại những "điều
trông thấy" của mình, cảm xúc của mình, nỗi buồn nhớ của mình bằng một giọng
điệu tâm tình, thủ thỉ, thỉnh thoảng lại xen tiếng thở dài, nhưng cũng không hiếm
khi có sự nồng ấm của thân xác (như khi gọi niềm tâm sự của mình là nỗi hàn
ôn!). Thơ Đường, do ảnh hưởng của Thiền học, vốn là một thứ mỹ học tĩnh. Nhưng
với sự xuất hiện con người lữ thứ, thơ Đường Thanh Quan đã bắt đầu có sự chuyển
dịch, tuy còn rụt rè về phía động. Đó là ảnh xạ của ý thức cá nhân đã bắt đầu
thức tỉnh trong lớp người tài tử đương thời.
Tuy số lượng bài để lại không nhiều, nhưng,
có thể nói, thơ Thanh Quan là những dấu son của thơ Việt Nam trung đại. Nghĩ đến
Bà Huyện Thanh Quan tôi cứ nghĩ tới bức chân dung Người đàn bà xa lạ của họa sĩ
Nga Kramskoi; ngồi bất động trên xe ngựa và sau lưng là kinh thành Peterburg mù
sương. Cũng đẹp một vẻ đẹp sang trọng, đài các và cách vời như thế. Còn nghĩ đến
thơ bà, tôi mường tượng đến một chiều thu, khi mặt trời đã tắt, nhưng còn hắt
lên nền trời những dải sáng vàng rực, thuần khiết, và người thợ trời nào đã cắt
dải sáng đó thành những bài thơ Bà Huyện Thanh Quan.
Chú thích:
1. Bà Huyện Thanh
Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuật, cạnh Hồ Tây
Hà Nội bây giờ. Không rõ năm sinh và năm mất. Nhưng căn cứ vào năm sinh và năm
mất của chồng bà là Lưu Nguyên Ôn 1804 - 1847 thì có thể đoán chắc một điều là
bà sống vào thời Thăng Long nhà Nguyễn, thậm chí khi Thăng Long đã đổi thành tỉnh
Hà Nội.
2. Thơ Bà Huyện
Thanh Quan còn lại không nhiều. Theo nhiều học giả thì gồm những bài sau.
1. Thăng long thành
hoài cổ
2. Qua chùa Trấn Bắc
3. Qua Đèo Ngang
4. Chiều hôm nhớ nhà
5. Nhớ nhà
6. Tức cảnh chiều
thu
7. Cảnh đền Trấn Võ
8. Cảnh Hương sơn
Theo chúng tôi thì 4
bài đầu là hoàn toàn chính xác của Bà Huyện Thanh Quan bởi có sự thống nhất từ
tư tưởng đến phong cách nghệ thuật, bài thứ 5, Nhớ nhà, như là một dị bản của
Chiều hôm nhớ nhà, hai bài 6, 7, xét từ phong cách thì không giống phong cách
Bà Huyện Thanh Quan mà giống phong cách Hồ Xuân Hương nên chúng tôi cho là của
Bà Chúa Thơ Nôm (xem thêm chuyên luận Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực của
chúng tôi), cuối cùng bài 8 cũng không giống với tư tưởng và phong cách Bà Huyện
Thanh Quan.
3. Câu này nhiều bản
chép là Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu, nhưng chúng ta thấy nó mang không khí của
Hồ Xuân Hương, còn Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu thì không chỉ hợp với phong
khí của bài thơ mà còn hợp với phong cách của Bà.
Tháng 9/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét