Thơ cổ nhất còn lưu bản thảo đến được thời ta là
thơ đời Lý. Thơ đời Lý mạnh ở chủ đề triết học, con người đối diện với hư vô,
thơ thường do các nhà sư viết hay bàn về cái mất còn bản thể luận. Bút pháp ưa
dùng là bút pháp tổng hợp, khái quát, rất ít miêu tả cụ thể. Muốn tìm trong thơ
dấu vết phong tục tập quán ăn tết của tổ tiên ta thời Lý thì khó lắm.
Nói đến thơ xuân thời Lý, người ta hay nhắc đến bài Có
bệnh bảo mọi người (Cáo tật thị chúng) của thiền sư Mãn Giác (tên thật
Lý Trường 1052-1096). Bài thơ chỉ nói quy luật lạnh lùng của thời gian và ý chí
vượt lên của con người:
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Thơ cho thấy một ý tưởng hơn là thấy một cảnh sống.
Nhưng hình ảnh cành mai sáng thanh khiết ở cuối bài đã lưu lại ấn tượng xuân sắc
của thơ ca đời Lý.
Đến đời Trần, chuyện đánh giặc cứu nước, hào khí
cha ông, cho đến khung cảnh làng mạc đời thường đã ít nhiều có mặt trong thơ,
dù vẫn còn nhiều ước lệ. Trần Nhân Tông (1258-1308), ông vua anh hùng, ông vua
thi sĩ và vị tổ thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm, viết khá nhiều
thơ xuân, thán phục lẽ lớn của tạo vật nhưng cũng bộc lộ những quan sát đời thực
đầy cảm hứng.
Bài thơ Sáng xuân (Xuân hiểu) với hình ảnh
đôi bướm trắng phần phật cánh bay sấn đến với hoa cho thấy niềm cảm mến trần thế
của tác giả. Âm hưởng hạnh phúc tạo nên chất thơ đã nảy sinh từ nội tâm tác giả,
Ông thấy là bướm bay sấn đến chứ không chỉ là bay đến với hoa. Cái vồ vập ấy là
của người, truyền cho tạo vật.
Cuối đời Trần, đọc đến thơ Phạm Nhữ Dực, người sống
cùng thời với Nguyễn Phi Khanh, thì chất liệu sinh động của đời sống tràn vào
thơ đã thay nhiều cho ước lệ. Trong bài Lập Xuân đã thấy công việc đồng
áng, lễ tiết: cuối tháng chạp hai vụ đã xong, đồ lễ tiết lập xuân có con én bằng
giấy màu và con trâu đất nặn, mong ước lớn nhất của người dân là mong được mùa.
Đây cũng là khuynh hướng phát triển chung của thơ: tiến đến đời sống thực cả chất
liệu lẫn chủ đề. Sau này, đến thời hiện đại, mỗi lần cách tân là một lần thơ
tìm cách xâm chiếm hiện thực rộng hơn, đậm đặc hơn, đến mức phá bỏ cả vần điệu,
nhất là ở giai đoạn đầu của các cuộc cách tân, để mở rộng sức ôm vào hiện thực.
Sang đến Nguyễn Trãi (1380-1442), đời sống thế sự lặn
vào nội tâm con người và thơ đã diễn đạt tới mức tinh tế, sâu sắc. Hai câu thơ
Nôm Nguyễn Trãi viết đêm giao thừa là một dẫn chứng:
Chong đèn trực tuổi đau con mắt
Đốt trúc khua na đắng lỗ tai.
Thức khuya đợi giao thừa thì cay mắt. Nhưng nghe
pháo trúc nổ để xua tà ma mà đắng tai thì quả mới thấy ở Nguyễn Trái. Cay, đắng
dóng vào nhau thành lập ý: mỗi năm sống, nỗi đời cay đắng lại thêm một lần thấm
vào giác quan ta. Thơ xuân thời xưa thường buồn. Cái buồn của năm tháng, dâu bể,
nhưng lại ngấm vào cảnh vật, vào thời tiết gió bấc mưa phùn, đồng nội hoang vu,
khói sương mờ ảo của tiết xuân. Nguyễn Trãi nhìn cái bến đò ngoài trại, thấy cỏ
xanh như khói, thấy đồng nội hoang vu người đi ít, thấy con thuyền nằm trên cát
ngủ suốt ngày. Thuyền nằm trên cát, là thuyền đã kéo lên bờ, do mùa hanh khô nước
sông cạn lắm. Sau Nguyễn Trãi năm thế kỷ, Nguyễn Bính cũng thấy con thuyền trên
cát ấy. Khung cảnh thành một nét xuân cố hữu bền chắc của đồng bằng Bắc Bộ, thấy
thân thuộc quá:
Có chiếc thuyền nằm trên cát mịn
Có đàn trâu trắng lội ngang sông.
Đã nghe trong thơ Nguyễn Trãi, bài Mộ xuân tức
sự, tiếng cuốc cuối xuân kêu gấp giục hoa xoan nở. Chi tiết ấy còn thấy
trong thơ làng quê của Anh Thơ, Nguyễn Bính sau này.
Nguyễn Du là nhà thơ trữ tình lớn. Cảnh của thơ ông
là cảnh của tâm trạng. Ông coi trọng hiện thực tâm hồn hơn hiện thực ngoại cảnh.
Thơ Nguyễn Du buồn. Thơ xuân như lại càng buồn. Tết nhất người ta đoàn tụ thì
ông tha hương, bệnh tật. Đêm đầu xuân mở cửa thấy trời đất tối đen nhà thơ hỏi
ánh thiều quang ở đâu? Mùa xuân với ông là Giọt lệ dưới đèn của người nhiều
năm lữ thứ (Ky lữ đa niên đăng hạ lệ) là Nỗi lòng trên vầng trăng của
kẻ nghìn dặm xa nhà (Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm). Bài thơ viết ở Thái Bình, giai đoạn ông
tá túc nhà ông anh vợ ở Quỳnh Côi, nhưng trong bài thơ ông lại nghe vang một tiếng
sóng lạnh của sông Lam tít tận quê nhà, tiếng sóng tiễn đi cả kim lẫn cổ. Thơ
xuân mà buồn sâu thẳm như thế chưa thấy ở ai. Nỗi buồn ấy khó tả rõ, bạn đọc lắng
lòng lại mà cảm nghe tâm hồn Nguyễn Du đêm ấy:
Nước sông Lam phía ngoài thôn Nam Đài,
Một phiến sóng lạnh tiễn đưa kim cổ.
(Nam Đài thôn ngoại Long Giang thủy
Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim).
Lùng mãi trong thơ xuân tết Nguyễn Du, mới gặp một
nét xuân làng mạc thời đó:
Ông già hàng xóm loanh quanh ở miếu đầu thôn
Uống hết be rượu, ăn hai quả cam, say chưa về
(Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu
Đẩu tửu song cam, túy bất hồi).
Nhân vật ông hàng xóm ấy đúng là người của tết nhất,
vui đâu chầu đấy, cái miếu đầu thôn ngày tết thời ấy là chỗ mấy ông trong làng
quanh năm tất bật bây giờ được hào hứng gặp nhau. Chỉ một nét thôi mà thấy ấm
áp văn hóa làng xã một thời xa.
Thơ tết Hồ Xuân Hương điển hình nhất có lẽ lại là
bài thơ về một trò chơi ngày tết: đánh đu. Cái đu tám cột bằng tre tươi, nơi
thu hút đông nhất trai làng gái làng thời xưa. Họ đến để đánh đu, và xem người ta
đu, họ đến để xem nhau. Thú là thú thị giác. Chỗ tập trung của bài thơ, bốn câu
giữa, chính là một bức tranh. Đường nét mềm mại, màu sắc tươi tắn. Những chỗ
đáng vẽ đều vẽ rất đẹp. Tranh rất động, nào đu nào uốn, gối hạc lưng ong, bốn mảnh
quần hồng, hai hàng chân ngọc… rất sang trọng và gợi cảm. Hai câu kết của bài
thơ nói đúng vào tình thế hậu trò chơi của đu. Nhưng lời khuyên là cho chuyện
khác. Ai cũng thấy nhưng quả khó nói. Cái lời khuyên ấy bây giờ văn minh lại
hóa ra càng thời sự:
Chơi xuân có biết xuân chăng tá
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không.
Đến Nguyễn Khuyến (1835-1909) thì cảnh sắc nông
thôn, phong tục tâm lý người dân quê ăn tết đón xuân đã hiện rõ lắm. Đọc thơ
như được sống trong không gian, thời gian thuở ấy. Giở giời mưa bụi còn hơi
rét. Cái thời tiết mưa phùn gió bấc, phiên chợ tất niên chợ làng họp ngoài cánh
đồng:
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không?
Giọng thơ nghe chơi vơi tâm trạng người tha hương
hoài niệm một tập tục của quê nhà. Nguyễn Khuyến rất giỏi chi tiết. Chi tiết
ông chọn như dấu ấn của thời cuộc lại như những ấn tượng không thể quên của đời
người:
Hàng quán người về nghe xáo xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Ở bài Khai bút cái tiếng trống ình ịch ẩm
hơi mưa bụi cũng rất tinh tế:
Ình ịch đêm qua trống các làng
Hình ảnh thơ lưu giữ một tư thế khai bút của nhà
thơ:
Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén
Bút mới xô tay thử một hàng.
Rượu thì nhắp giọng từ tốn. Bút thì xô tay hào hứng.
Tư thế tài tử và tài hoa. Rồi, ngoài lũy trong ao. Có cả tên người cụ thể, cụ tổng,
thầy nhang. Người địa phương đọc chắc thích lắm. Cung cách ăn tết này giờ không
còn, càng thấy quý chất tư liệu cụ Tam nguyên Yên Đổ lưu giữ. Nhưng quý hơn là
cái chất tâm hồn ông đại khoa về ở ẩn. Nguyễn Khuyến cũng có nỗi khắc khoải như
Nguyễn Du:
Nhìn xem phong cảnh đều như cũ
Đố biết thiều quang ở chỗ nào.
Nguyễn Khuyến mang nỗi đau buồn người trí thức mất
nước. Ngày xuân thấy các con vui với xuân, ông nhẹ nhàng trách: Ta lẩn thẩn
không biết lấy gì đền cho năm tháng trôi đi. Mà sao các con đàn hát say sưa thế.
Trong cái đêm ba mươi tết sang tuổi năm mươi nhăm, tóc bắt đầu bạc, mắt đau nặng
hơn, Nguyễn Khuyến ngồi dưới bóng đèn, lặng lẽ rót rượu uống một mình. Ông nhận
xét: người nghèo chỉ có đêm nay là không phải lo. Không phải lo vì không có gì
để kiếm và cũng không bị ai hành hạ, người ta còn bận đón xuân. Nhưng lòng ông
thì đầy nghĩ ngợi cho năm tháng đời mình. Câu thơ kết đúng là thơ của đêm giao
thừa:
Một câu thi hứng kéo liền hai năm.
(Nhất cú liên niên hứng vị cùng)
Không thể kể hết dù chỉ riêng thơ xuân tết của các
nhà thơ cổ điển, bài viết xin được khép lại bằng bài thơ Bài ca chúc tết
thanh niên, viết năm 1927 của Phan Bội Châu (1867-1940), người đỗ giải
nguyên năm 1900. Thơ Phan Bội Châu mang thể cách cổ điển, nhưng phẩm cách lại
thuộc vào những tư tưởng mới của thời đại. Bài thơ chúc tết này là bài thơ đánh
thức, lay gọi tuổi trẻ:
Dậy! Dậy! Dậy! (…)
Xuân ơi xuân! Xuân có biết cho chăng
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng.
Ông mang nỗi thẹn buồn tủi của người mất nước và
mang cả nỗi chua với xót của hai mươi năm bôn ba mà chưa đến đích, để kêu gọi
thanh niên xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn. Lời chúc tết thống thiết lòng yêu
nước và cũng sôi nổi ý chí chiến đấu. Ông già Bến Ngự chân tình khuyên nhủ tuổi
trẻ những việc cụ thể để rèn luyện ý chí, sống cuộc sống có ích cho dân nước:
Đừng ham chơi, ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc để đánh tan sắt lửa.
Bài thơ năm mới kết thúc bằng lời chúc đổi mới, thật
sự đổi mới của ông già tuổi đã sáu mươi:
Mới thế này là mới hỡi chư quân
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân!.
Vũ Quần Phương
vé máy bay eva air
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu
ve may bay hang korean air
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich