Hành trình về cái đẹp
Trường ca Hàn Mặc Tử ra mắt quần chúng vào những ngày cuối năm 1993. Về hình thức thì đây là một tổ hợp những ca khúc Phạm Duy phổ thơ Hàn Mặc Tử. Nhưng người nghe có thể hình dung được chủ đích của tác giả tổ khúc này không phải chỉ là phổ nhạc một số bài thơ lẻ của một nhà thơ như ông vẫn thường làm. Trường ca Hàn Mặc Tử có thể xem là một bản diễn giải bằng nhạc toàn bộ cuộc hành trình nghệ thuật của tâm hồn Hàn Mặc Tử.
Trường ca Hàn Mặc Tử ra mắt quần chúng vào những ngày cuối năm 1993. Về hình thức thì đây là một tổ hợp những ca khúc Phạm Duy phổ thơ Hàn Mặc Tử. Nhưng người nghe có thể hình dung được chủ đích của tác giả tổ khúc này không phải chỉ là phổ nhạc một số bài thơ lẻ của một nhà thơ như ông vẫn thường làm. Trường ca Hàn Mặc Tử có thể xem là một bản diễn giải bằng nhạc toàn bộ cuộc hành trình nghệ thuật của tâm hồn Hàn Mặc Tử.
Hành trình nghệ thuật của Trường ca Hàn Mặc Tử
Trường ca Hàn Mặc Tử được bố cục làm ba phần mang tựa đề như sau: (1) Tình quê;
(2) Trăng sao; (3) Ave Maria. Mỗi phần gồm có ba phân khúc nhạc được hình thành
là từ phổ một bài thơ hoặc từ tập hợp một số các trích đoạn thơ, có khi lại chỉ
là phổ một trích đoạn của một bài thơ mà thôi.
Phần I - Tình quê - gồm ba phân khúc: Tình quê, Ðây thôn Vỹ Giạ, và Ðà lạt
trăng mờ. Ðấy là những phân khúc nhạc phổ từ ba bài thơ Hàn Mặc Tử làm từ những
ngày còn trẻ (1).
Nhạc mở đầu phân khúc một là những âm thanh ngân nga êm ả nhưng rất lãng mạn.
Chất nhạc đã được kĩ thuật hòa âm làm bật lên tính cách đặc trưng của nhạc chiều
(serenade) quen thuộc trong nhạc cổ điển phương Tây, tất cả quyện vào nhau để tạo
nên một khung cảnh thanh bình từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
Phân khúc hai là nhạc phổ toàn bài thơ Ðây thôn Vỹ Giạ. Nhạc mở đầu gợi tả một
không gian u tịch, vắng lặng như những buổi hoàng hôn nơi đồng quê những thuở
thanh bình: tiếng côn trùng kêu vẳng, hoàng hôn uốn lượn xa vắng như tiếng phi
lao rì rào trong gió, như tiếng gió thì thầm lúc chiều tà. Không gian âm nhạc
thật trữ tình. Nhạc và hòa âm của phân khúc này chuyển sang nét u uẩn, gợi tả
những cảm giác bâng khuâng man mác mà ta vẫn gặp trong những ngâm khúc của văn
học cổ điển. (Không gian nghệ thuật trong phân khúc này gợi lên ấn tượng về những
bài thơ Ðường của trường phái biên tái, hoặc giả những phân cảnh người tình
trong truyện Kiều tha thẩn đi tìm hương cũ nơi vườn xưa quạnh vắng).
Từ nét buồn u uẩn mênh mang, nhạc chuyển sang phân khúc ba với tựa đề Ðà lạt
trăng mờ. Phần nhạc dạo tạo ngay cảm tưởng về một sự thiêng liêng huyền nhiệm của
không gian qua cảm nhận của nhà thơ. Nhạc đề của phân khúc là nỗi đắm say trong
tiếng gọi ảo huyền của cái Ðẹp mà nhà thơ đã cảm thán rằng phút thiêng liêng đã
khởi đầu. Ðã thoáng hiện những băn khoăn khắc khoải khi tiếng nhạc vút lên niềm
u uất rền rĩ như nỗi đơn côi của người nghệ sĩ. Nhạc đã có sức đồng cảm cao đối
với một cảm thức tế vi của nhà thơ.
Khởi đầu từ hành âm êm ả thanh thoát đến vắng xa u ẩn, rồi chuyển sang sâu lắng.
Nhạc gợi lên hình ảnh con người đi trên hành trình từ hồn nhiên của tuổi nhỏ đến
xôn xao tình trẻ, rồi đến tiếng gọi kín nhiệm của nội tâm đã biết thao thức kiếm
tìm. Không gian nhạc là không gian chiều tà đi vào đêm.
Phần II - Trăng sao - gồm ba phân khúc mang tựa đề: Trăng sao rớt rụng, Hồn là
ai, và Trút linh hồn. Mở đầu phân khúc một là đoạn tán thán về sự mầu nhiệm của
ánh trăng. Tính cách của nhạc ở đây là tính cách thánh ca, nhưng đối tượng của
lời tán thán không phải là một hình ảnh siêu nhiên mà chỉ là ánh trăng. Nhà thơ
bị trăng mê hoặc và tắm đẫm hồn mình trong ánh trăng. Ðấy là khởi điểm của những
xúc cảm thơ trong Thơ Ðiên-Ðau Thương, tập thơ Hàn Mặc Tử làm từ khi phát bệnh
phong. Hành âm của phân khúc lần lượt đi qua bốn biến điệu: vầng trăng -->
chơi với trăng --> trăng tự tử --> rượt trăng. Có lẽ đây là lần đầu tiên
tâm trạng khúc mắc của Hàn Mặc Tử được thể hiện một cách cụ thể qua hình tượng
gợi tả của âm nhạc: hình tượng âm nhạc tăng cường độ xúc cảm dần qua từng biến
điệu, cho đến cuối biến điệu thứ tư. Nhạc vờn múa như một cơn say, trong một kết
cấu đẹp. Nhạc đi những bước ma quái làm nổi bật xúc cảm của người nghệ sĩ trước
nỗi cô đơn vì cảm nhận vẻ Ðẹp mê hồn mà nhân gian dường như khó có thể cảm và
hiểu được,
Phân khúc hai mở đầu bằng tiếng sáo Mèo rền rền, để rồi sẽ đeo đẳng mãi suốt
phân khúc. Nhạc chuyển qua những kết cấu đầy kịch tính để diễn tả cảnh người
nghệ sĩ vừa thoát hồn để dẫn hồn mình đi qua suốt một đêm, lúc thì cười như điên
sặc sụa cả mùi trăng, lúc thì cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình, lúc thì
dìm nhau xuống một vũng trăng êm, lúc thì lặng yên trong thổn thức, lúc thì bay
lên cho tới một hành tinh... Tâm sự nhà thơ trong tập Thơ Ðiên-Ðau Thương được
thể hiện bằng những hình tượng âm nhạc phức tạp về giai điệu và hòa âm, gợi tả
nỗi u ẩn hoang mang của tâm hồn thơ.
Phân khúc ba có thể xem như một thoái trào của đợt sóng âm nhạc trong phần II.
Ba biến điệu nối tiếp nhau nặng nề như cảnh tha ma mộ địa, lẩn khuất tiếng sáo
Mèo nghẹn ngào như tiếng cú đêm khuya. Hình tượng âm nhạc cũng dàn trải như khoảng
trống mênh mông của không gian tịch lặng. Nhạc đi êm và nhẹ mà sao vẫn vương vấn
nỗi thê lương. Lời thì thầm của nhà thơ là lời bộc bạch về tâm tình ông dành
cho cuộc đời thân mến. Ba trích đoạn thơ ghép lại thể hiện được tâm sự khắc khoải
đau đớn trong giai đoạn sáng tác Thơ Ðiên-Ðau Thương.
Nghệ thuật phát triển hình tượng âm nhạc trong phần II này là nghệ thuật ba
lan: cảm xúc dâng lên từng đợt như sóng tràn. Không gian là đêm tối mênh mang.
Phần III - Ave Maria - cũng gồm ba phân khúc: Lạy Bà là đấng tinh truyền thánh
vẹn, Hỡi sứ thần thiên chúa Gabriel, và Phượng Trì, Phượng Trì.
Phân khúc một là lời xưng tụng đấng tinh truyền thánh vẹn. Nhạc bắt đầu bằng đoạn
hợp xướng nghiêm trang, thánh thiện. Toát ra toàn thể phân khúc là vẻ đẹp thuần
khiết của hình tượng người nữ trong nghệ thuật muôn thuở. Nhạc trở về giai điệu
thanh thản an hòa.
Sau phần tán tụng vẻ Ðẹp trinh nguyên, phân khúc hai chuyển sang lời cảm thán về
hình tượng thiên thần bằng một biến điệu khác: nhạc trở nên xa vắng như lời thì
thầm trong kinh cầu nguyện có tác dụng như những lời phản tỉnh nội tâm, những
nét nhạc trầm lắng như e sợ làm kinh động sự im lặng, hay như nỗi ngây ngất của
người nghệ sĩ trước vẻ đẹp mong manh như gió như sương huyền diệu, bước đi sẽ đứt
động hờ sẽ tiêu. Người nghệ sĩ đã hát bao nhiêu lần về Mẹ rồi, vậy mà những âm
thanh về hình tượng người Mẹ trong phân khúc này vẫn quyến rũ với một giai điệu
láy lả lướt vẻ đẹp dân ca.
Phân khúc ba -Phượng Trì, Phượng Trì- láy trở lại hành âm của phân khúc một để
làm viên mãn một chu trình. Bốn câu thơ đã ngân vang âm hưởng lời cảm thán vẻ Ðẹp
thánh thiện của Nàng Thơ. Hình tượng âm nhạc toát ra tính cách trữ tình, rất
người mà vẫn trong suốt như vẻ đẹp thiên thần.
Trọn phần III là một bài thơ dài được phổ thành nhạc. Không gian vẫn là không
gian của dạ khúc, nhưng tính cách đã thay đổi hẳn qua màu sắc ấm áp huy hòang của
âm thanh và ánh sáng. Nhạc đề là sự xưng tụng vẻ Ðẹp thánh thiện được biểu hiện
qua hình tượng một Người Nữ nguyên mẫu: khi thì là Ðức Bà, khi thì hóa thân làm
Phượng Trì. Nghệ thuật biểu hiện là nhạc nhà thờ, vừa có đồng ca vừa có độc thoại.
Bao trùm lên toàn thể là vẻ đẹp rực rỡ của thế giới bình an mà tâm hồn người
thơ về nương náu.
Trường ca Hàn Mặc Tử đã phát triển nhạc đề để thể hiện diễn biến tâm tình của
nhà thơ quá cố: từ chất thơ mộng trong sáng buổi đầu, nhạc chuyển sang những biến
điệu đầy kịch tính ở phần hai, trước khi chuyển sang nét nhạc thanh thoát của vẻ
Ðẹp thiên thần. Ðấy cũng là hành trình thơ Hàn Mặc Tử.
Hành trình thú đau thương của người nghệ sĩ
Kể từ khi nhà thơ qua đời đến nay đã hơn 50 năm. Nhiều người đã viết sách và
bài báo, nỗ lực phân tích tâm sự nhà thơ bằng nhiều ngả: có người đã dựa vào
căn bệnh hiểm nghèo của thi sĩ mà nói về những tâm trạng điên loạn bất thường của
Hàn Mặc Tử trước khi nương náu tâm hồn trong ánh sáng tôn giáo. Có người đã
dùng con mắt phân tâm học để diễn dịch tâm hồn Hàn Mặc Tử qua những biểu hiện
phức tạp của những ức chế tâm lí. Trường ca Hàn Mặc Tử của Phạm Duy là một nỗ lực
hiếm hoi của người nghệ sĩ âm nhạc nhằm diễn giải bằng âm thanh hành trình nghệ
thuật của nhà thơ.
Trong lời dẫn giải về tác phẩm Trường ca Hàn Mặc Tử, Phạm Duy cho biết rằng ông
đã từng làm quen với thơ Hàn Mặc Tử từ thuở còn đi học. Ông nêu ra những chủ đề
thơ Hàn Mặc Tử mà ông cảm nhận được: tình yêu, tình dục, sự đau khổ, sự đau
thương, sự điên dại, cái chết, Ðạo, Thượng Ðế, Thiên Chúa (2). Ðiều này cho thấy
mối đồng cảm sâu sắc của tâm hồn người nhạc sĩ đối với tâm hồn nhà thơ. Những nếp
gấp tâm tình của Hàn Mặc Tử được thể hiện dần qua suốt những hành âm của nhạc,
cứ thế nhạc phát triển qua ba phần với ba phân khúc, như từng đợt sóng xô cao
thấp khác nhau. Có thể xem Trường ca Hàn Mặc Tử là tấm bản đồ tâm hồn thơ Hàn Mặc
Tử. Bố cục ba phần của Trường ca Hàn Mặc Tử rất tương ứng với ba giai đoạn biến
chuyển trong tâm sự thơ Hàn Mặc Tử:
(1) Thời thanh xuân lãng mạn đẹp ngời của thời kì Tình Quê rất tương ứng với phần
I (Tình quê) của bài trường ca của Phạm Duy, cũng thơ mộng trữ tình và tràn trề
tình yêu thương;
(2) Thời điên loạn, đau đớn vì thể nghiệm nỗi đau thương của thân phận, cũng là
thời kì nhà thơ sáng tác Thơ Ðiên-Ðau Thương, rất sát hợp với phần II (Trăng
sao), với những nét nhạc vật vã kêu gào và ma quái;
(3) Thời kì Hàn Mặc Tử sáng tác Xuân Như Ý trở về sau là thời kì ông tìm được sự
nương náu tâm hồn trong Thiên Chúa, được hình tượng hóa ở phần III (Ave Maria)
là phần nhạc chuyển sang sự yên ổn trong thế giới của cái Ðẹp vĩnh hằng được hiện
thân qua nàng thơ Phượng Trì.
Con đường thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử khi hóa thân vào trong bài trường ca đã trở
thành một biểu tượng của hành trình một nghệ sĩ ở giữa cuộc đời này. Ba phần của
trường ca này là ba dáng vẻ của cuộc đời được phả vào nghệ thuật trong đó có
tình yêu sôi nổi mà e ấp của một thời hoa niên lãng mạn, có những đau khổ của một
đoạn đời lận đận vì những nghiệt ngã hay những dằn xóc khác nhau, để rồi khép lại
với tình yêu tìm thấy trong thế giới vĩnh hằng trong suốt một vẻ Ðẹp tinh tuyền.
Có thể tóm gọn một câu về hành trình của người thơ là một hành trình từ Thú Ðau
Thương đến cái Ðẹp.
Con tim yêu thương bao la của người nghệ sĩ rung lên những nhịp điệu tình ca
muôn thuở của thơ tình. Ðã có nhiều công trình phân tích những dáng vẻ tình yêu
trong thơ Hàn Mặc Tử. Nhưng bản phân tích của Phạm Duy thể hiện những nét đẹp của
tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử: sự dâng hiến trọn tình , sự e ấp trộn lẫn với nỗi
rạo rực, nỗi đắm say trước vẻ Ðẹp thuần khiết của tình yêu. Phần I của trường
ca là sự thể hiện bằng hình tượng âm nhạc những tính cách đó trong thơ Hàn Mặc
Tử.
Thế nhưng người nghệ sĩ không chỉ dành cho trái tim vô số của mình cho những
con người yêu dấu chung quanh mà thôi. Trong đáy sâu thẳm của con tim, anh nghe
ra tiếng thì thầm vượt lên khỏi bình diện nhân gian. Ở đây cần nhắc đến một bài
viết của Hàn Mặc Tử sẽ rất có ý nghĩa khi muốn tìm hiểu về tâm sự thơ của
ông.Trong bài Quan niệm thơ, Hàn Mặc Tử cho rằng thơ là tiếng kêu rên thảm thiết
của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô
thỉ vô chung với những hạnh phúc bất tuyệt. Nói cách khác, thi sĩ đã sống cô độc
đời mình giữa cuộc thế lao xao, và làm thơ là để tìm người tri kỉ. Làm thơ là một
sự ham muốn vô biên của những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách
biệt (3) Người nghệ sĩ là những người may mắn (hay bất hạnh ?) nghe được những
tiếng nói mầu nhiệm vượt lên khỏi chiều kích trần thế. Sự nhạy cảm tột cùng dẫn
đưa con đường sáng tạo của người nghệ sĩ qua những cơn hoan lạc với thú đau
thương.
Ở điểm này, Hàn Mặc Tử không phải là người lữ hành cô đơn. Dường như những con
người nghệ sĩ chân chính thường vẫn cảm nhận nỗi cô đơn. Và họ gặp nhau ở nỗi
cô đơn đó, như thể những người nòi tình cùng thương người đồng điệu. Hình tượng
chàng Cuội trong một vở kịch của Vũ Khắc Khoan là một biểu tượng cho tâm thức
người nghệ sĩ đó: người ta cứ bảo Cuội nói dối, nhưng kì thật Cuội đã nhìn thấy
những gì mà cái đám người đồng thời với nó, cái đám người vừa quay cuồng trên
sân khấu, không nhìn thấy. Và tự nhiên thằng Cuội phải mang nặng cái số kiếp
điêu linh của những con người đầu tiên cảm thông với chân lí (4). Trong khi mọi
người yên hàn sống với cuộc đời bình dị, người nghệ sĩ lại bận tâm về những
chuyện rất riêng tây xa lạ với mọi người. Ðó có thể là nỗi ngậm ngùi về những
hoang phế của những vàng son đã mất (Vũ Ðình Liên, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng
Chương), đó cũng có thể là lời độc thoại triền miên của người tình trẻ bên đời
hiu quạnh (Trịnh Công Sơn), hoặc giả là lời tự tình của người tình già nghe tiếng
gọi nghìn thu (Phạm Duy)...
Thế thì sao lại không có thể có một Hàn Mặc Tử điên dại trong nỗi đau của thân
phận vui buồn của con người? Ý nghĩa của trường thơ Loạn mà Hàn Mặc Tử và các
bạn ông dựng lên tại Qui nhơn là một cách thế nổi loạn của nhóm các nhà thơ trẻ
lúc bấy giờ, là dấu chỉ của một niềm khao khát về một sự quân bình mới. Nỗi đau
về phận người có khiến thơ ông đẫm máu lệ, vang vang nỗi đau hận pha lẫn cùng
niềm hoan lạc trong một thứ tình yêu thánh hóa. Thơ điên của Hàn Mặc Tử phản
ánh nỗi bi phẫn về phận người khốn khó, mà sự đau khổ của đời này thì muôn hình
vạn trạng. Người nghệ sĩ đau nỗi đau nhân thế và sáng tác là mang thập giá thay
cho chúng ta chứ có phải đâu chỉ là người ca nhân làm mõ cho những cuộc tình
đôi lứa như người đời vẫn nghĩ. Một nhân vật của Dostoievsky đã bảo rằng: cả
trái đất, từ vỏ vào trong ruột, đều ướt đẫm nước mắt con người. Thế cho nên khi
người nghệ sĩ hát về nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh hoặc giả hát lên cảm thức về
tiếng gọi của càn khôn, của thinh không, thì chẳng phải là lúc anh ta đã xa
cách đại chúng, trừ phi đại chúng muốn giam hãm nghệ sĩ như giam hãm những tên
tù trong vũng lầy nghệ thuật nô dịch.
Ở trên có nói rằng Trường ca Hàn Mặc Tử là mối đồng cảm giữa hai tâm hồn nghệ
sĩ. Từ những ngả đường khác nhau, xuất phát từ những thân phận khác nhau, tác
phẩm của hai người đều là tiếng lòng mình trước những hoan lạc cùng những khổ
nhục của kiếp người. Thêm một lần nữa, Phạm Duy với Trường Ca Hàn Mặc Tử lại chứng
thực cho một qui luật của văn nghệ: Nghệ thuật -nói cho cùng- chỉ là những tiếng
kêu bất bình của người nghệ sĩ trước những hệ lụy của cuộc đời. Ðôi mắt của nghệ
sĩ nhìn sâu thẳm vào suốt phận người trong sáu cõi, tấm lòng của người nghệ sĩ
rung động những phận người suốt nghìn đời (5). Người thấy gì ? Một thời vàng
son của Ðào nguyên đã vĩnh viễn xa rồi ư ? Ðời ta chỉ còn là một chuỗi ngày
thương nhớ nơi trần gian khổ lụy, hát như chưa biết buồn phiền chi dù cho đường
về quê nhà đã khuất nẻo khơi chừng (Văn Cao). Nơi thành cổ rêu mốc của không
gian đời người, ta vẫn đi về một cõi quạnh hiu cùng hai vầng nhật nguyệt trĩu
hai vai (Trịnh Công Sơn)...
Trước thân phận mang tính chất bi kịch của đời người, người ta có thể phản ứng
một cách khác nhau: có người an nhiên lặng lẽ đi về một cõi tịch lặng và chấp
nhận hạnh phúc trong nỗi đau tuyệt vọng (Trịnh Công Sơn), có người không nguôi
hoài tưởng một thiên đường không bao giờ trở lại (Văn Cao), có người lại dấn
mình vào cuộc hiện sinh với chính những vinh và nhục của cuộc đời mà bật lên những
tiếng tâm tình trước mọi cảnh huống của phận người. Hàn Mặc Tử và Phạm Duy đồng
cảm với nhau ở điểm này. Trường ca Hàn Mặc Tử là tiếng hát của người nghệ sĩ về
những ràng buộc của cuộc đời, là sự thăng hoa những khổ đau và hạnh phúc của phận
người thành âm nhạc và thơ.
Hành trình nghệ thuật của Hàn Mặc Tử bắt đầu từ những hoa mộng thời trẻ hồn
nhiên đến những đau khổ điên loạn vì những nhục nhằn, và khép lại với tình yêu
thanh khiết trong thế giới vĩnh hằng của vẻ Ðẹp tinh tuyền. Phần 3 của Trường
ca Hàn Mặc Tử phát triển nhạc đề nhất quán với tâm sự Hàn Mặc Tử khi ông trở về
an lạc trong Ðức Tin và của sự cứu rỗi. Lồng trong những giai điệu an hòa là
hình tượng âm nhạc về Ðức Bà tinh truyền thánh vẹn, về Phượng Trì ! Nhạc ở đây
là lời hân hoan của người thơ khi đã nhận được ơn phước cả. Ðã hơn một lần các
nhà phê bình bàn về Ðức Tin của nhà thơ Hàn Mặc Tử. (6) Phạm Duy dường như
không bận tâm với câu hỏi: Hàn Mặc Tử tìm được cứu rỗi trong Ðức Tin tôn giáo
hay trong Nghệ Thuật? Người nghệ sĩ trong ông đã cho dòng cảm xúc nhạc phơi phới
cùng Ðức Mẹ,về Mẹ Sầu Bi. Giai điệu và nhạc hứng của phần 3 này cho thấy Phạm
Duy đã phổ bài Ave Maria (hay là Thánh nữ Ðồng Trinh) không theo cùng cách cảm
nhận như của một nhạc sĩ thiên chúa giáo Hải Linh trước kia. Ông tước bỏ phần đầu
của bài thơ mà Hải Linh đã dùng để phát triển nhạc đề cho bài hợp xướng mang đậm
màu sắc nhạc tôn giáo: Như song lộc triều nguyên ơn phước cả... Phổ nhạc bài
thơ này, Phạm Duy vẫn tiếp tục quan niệm của ông trước đây khi phổ thơ Phạm
Thiên Thư: vẻ đẹp quyến rũ trong thơ Phạm Thiên Thư là của sự nguyên trinh
thánh thiện, là cái Ðẹp của thế giới nghệ thuật trong đó -trong cõi tuyệt đối
vô cùng- không gian và thời gian không còn tuổi nữa. Phạm Duy đã chẳng từng tâm
đắc với chính mình rằng những bài hát ông phổ thơ Phạm Thiên Thư là những bài
hát thanh cao nhất của thời đại đấy ư? (7) Hát lên tiếng hát xưng tụng một
Thiên Thần là một cách thế của người nghệ sĩ ngợi ca cái Ðẹp Nguyên Mẫu. Ở đây
là Ðức Bà nguyên tuyền thánh vẹn, là Phượng Trì, là Mẹ Sầu Bi. Ở trong một số
bài thơ khác, có thể là hình tượng Ni Cô (8). Ngôn từ ở đây chỉ là chiếc bè giả
tạm để chuyên chở một cảm nhận về một thế giới vĩnh cửu của Mĩ thể. Mĩ thể là
điểm đi tới và cũng là điểm quay về của nghệ thuật.
Phạm Duy tâm sự rằng nguyên ủy của ý định sáng tác Trường ca Hàn Mặc Tử là ông
muốn tiếp tục góp phần vào hóa giải chuyện oan khiên to lớn của cuộc đời Việt
Nam sau nửa thế kỉ chiến tranh và hận thù; người nghệ sĩ thiết tha với niềm tin
tưởng rằng nghệ thuật có thể tiếp cận với Ðạo trong công việc siêu hóa mọi sự
(9). Hiểu như thế thì Hàn Mặc Tử trở thành một hình tượng nghệ thuật để biểu tượng
cho thân phận dân tộc Việt Nam chúng ta trong một thời oan khổ dài dằng dặc. Âu
cũng là một cao vọng đáng trọng của người nhạc sĩ già một đời muốn chia sẻ tiếng
khóc câu cười với nước non. Nỗi trăn trở của Phạm Duy về đất nước gần đây đã được
tô đậm qua một trường ca gây nhiều xúc động (Bầy Chim Bỏ Xứ - 1990). Trong một
trang viết gần đây, ta cũng gặp một lần nữa những trăn trở về nỗi nhục nhằn của
người trí thức văn nghệ Việt Nam (10). Nhưng cứ như sự phát triển nhạc đề của
trường ca thì ý nghĩa của tác phẩm đã tự nó có sức nặng của một tác phẩm nghệ thuật phản ánh những cảm xúc về phận
người biểu hiện qua thân phận một người nghệ sĩ. Cũng gần gũi với thời gian viết
trường ca về Hàn Mặc Tử, Phạm Duy tâm tình rằng đối với ông, chỉ có ba điều
quan trọng: tình yêu, đau khổ và cái chết (11). Ðó là những chủ đề phổ quát của
văn học nghệ thuật. Những chủ đề đó cũng rất đậm trong Trường ca Hàn Mặc Tử.
Nếu quả thật Phạm Duy vẫn canh cánh lòng sắt son với đất nước như ông vẫn từng
son sắt nửa thế kỉ vừa qua, thì ở trường ca này, tình non nước đã nâng lên một
cấp độ khác. Ông đã hát về thân phận dân tộc ông trong bối cảnh bao trùm hơn:
Con Người với những nỗi bi hoan nghìn đời của nó. Khóc cười theo mệnh nước sao
đành khi chính địa cầu này cũng nổi trôi và tràn đầy nước mắt? Bốn mươi năm
trước ông hát cho lịch sử dân ta luống nghẹn ngào (Con đường cái quan), nay ông
hát dâng lời cảm tạ phò nguy, cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế (Trường ca Hàn
Mặc Tử). Nghệ thuật và đối tượng của nó là cái Ðẹp đã trở thành sự cứu chuộc
cho phận người.
Một tác phẩm thơ phổ nhạc lớn trong sự nghiệp Phạm Duy
Trong kho tác phẩm đồ sộ của Phạm Duy, thơ phổ nhạc có một chỗ đứng đáng kể. Phải
thừa nhận một điều rằng nhạc của Phạm Duy đã làm bất tử một số bài thơ, và ngược
lại thơ cũng đã gợi hứng cho ông viết nên những giai điệu ca khúc mượt mà quyến
rũ nhiều thế hệ người nghe. Từ ca khúc đầu tay Cô hái mơ (1942) cũng là một bài
thơ phổ nhạc, đến Trường ca Hàn Mặc Tử là một quá trình nghệ thuật miệt mài
công phu. Trường ca này là một công trình thơ phổ nhạc rất khác so với những
bài trước kia thường chỉ là những đoản khúc hoàn chỉnh riêng rẽ, dù có đặt
chúng vào một tập hợp (như Ðạo ca, Ngục ca, Hoàng Cầm ca).Ðây là một công trình
dài hơi và cũng dài ngày -nếu chứ chỉ tính từ khi bài Tình quê xuất hiện như một
phụ bản xinh xắn trên tập san văn nghệ Thế Kỷ Hai Mươi (1961) tại Sài gòn.
Ngoài Phạm Duy, trước kia còn có Hải Linh và Viết Chung cũng phổ nhạc vào thơ
Hàn Mặc Tử. Mỗi người một phong cách khác nhau. Nhưng cũng chỉ với Phạm Duy mới
thấy một khối lượng phổ nhạc thơ Hàn Mặc Tử đồ sộ bằng một số những kĩ thuật đa
dạng và một phong cách đặc sắc. Ðăc biệt là phong cách thơ phổ nhạc của Phạm
Duy là giàu có về giai điệu và giữ trọn vẹn chất thơ của bài thơ được phổ nhạc.
Trong Trường ca Hàn Mặc Tử có đủ các kĩ thuật phổ nhạc mà Phạm Duy thường vẫn sử
dụng: lắp giai điệu vào nguyên lời thơ, biến thể các giai điệu để phát triển nhạc
đề, và chọn những giai điệu thích hợp với cảm hứng từ chất thơ.
Kĩ thuật lắp giai điệu vào lời thơ là thủ pháp quen thuộc thường thấy ở thơ phổ
nhạc. Bài Cô hái mơ gần như phổ nguyên lời thơ Nguyễn Bính. Bài Chiều đông phổ
thơ bài Khoác kín của Cung Trầm Tưởng là một thí dụ khác. Phải nói ngay là Phạm
Duy ít khi phổ nguyên toàn bộ lời một bài thơ, vì đòi hỏi của cấu trúc câu nhạc
cũng có, mà vì sự chọn lọc lời ca của ông cũng có. Ở đây thì tài năng âm nhạc
là yếu tố quyết định của bài thơ phổ nhạc. Bài thơ phổ nhạc của Phạm Duy thường
là những bài phong phú về giai điệu và có giá trị gây ấn tượng cao qua những kết
hợp kĩ thuật. Bài thơ phổ gần như nguyên vẹn trong Trường ca Hàn Mặc Tử là bài
Ðây thôn Vĩ giạ (gồm ba khổ thơ bảy chữ) thật ra cũng phải tôn trọng cấu trúc của
giai điệu mà lời thơ được kết cấu lại như sau: đoạn một của bài hát gồm khổ thơ
thứ nhất và thứ nhì của bài thơ; đoạn hai gồm khổ thơ thứ nhất và thứ ba. Sự
láy lại khổ thơ đầu là nghệ thuật gây ấn tượng bằng sự láy lại nhạc đề của phân
khúc nhạc.
Kĩ thuật biến thể các giai điệu để phát triển rộng nhạc đề là thủ pháp đã được
dùng để phổ bài Em lễ chùa này của Phạm Thiên Thư, và trong khi phổ bài Tình
quê. Ông đã bố cục bài hát làm hai đoạn lớn có giai điệu không xa nhau lắm, và
nối chúng lại với nhau bằng bản lề rất khéo là hai câu thơ ngũ ngôn trong bài
thơ phổ thành hai biến điệu khác nhau cho phù hợp với hành âm của câu nhạc. Sự
tròng tréo các giai điệu trong hai đoạn có tác dụng nghệ thuật đặc sắc cho bài
hát.
Kĩ thuật thường được Phạm Duy sử dụng là kĩ thuật chuyển ý thơ thành giai điệu
mà không nhất thiết bám chắc vào nguyên lời thơ. Ðây là một kĩ thuật đòi hỏi khả
năng cảm thụ văn học ngõ hầu có thể nắm bắt được ý nghĩa của câu thơ, đoạn thơ
và cả bài thơ. Ðây là kĩ thuật cao diệu nhất trong việc phổ nhạc vào thơ. Phạm
Duy đã sử dụng kĩ thuật này mà hoàn thành những tác phẩm bất hủ như Tiếng sáo
thiên thai, Vần thơ sầu rụng, Hoa rụng ven sông... Trong Trường ca Hàn Mặc Tử,
phần phổ nhạc nhóm những đoạn thơ về Trăng là phần rất công phu nhờ Phạm Duy đã
tổ hợp các đoạn thơ từ nhiều bài thơ khác nhau cùng chung đề tài về trăng, theo
một thứ tự mà ông cho là sát hợp với tâm trạng trong thơ. Phân khúc nhạc này là
hiệu quả của sự hội thông sâu sắc của người nhạc sĩ khi ông cho giai điệu biến ảo
đầy kịch tính, theo những âm trình rất xa nhau, làm bật lên trạng thái tâm hồn
trong cơn vật vã của nhà thơ.
Cũng như thế, phần ba của trường ca là phần phổ nhạc bài thơ Ave Maria đã cực tả
sự thanh thoát mầu nhiệm của ý thơ. Bài thơ gồm ba phân khúc với những giai điệu
phong phú cách khác nhau, cho thấy tính cách tài hoa của bài thơ phổ nhạc Phạm
Duy. Trọn phần ba của trường ca dẫu có tính cách nhạc nhà thờ, giai điệu của nó
lại giàu tính cách trữ tình. Phong cách phổ nhạc ở đây đã phản ánh phong cách
con người của tác giả.
Bao trùm lên các kĩ thuật vừa kể là nghệ thuật gây ấn tượng âm nhạc để diễn đạt
chất thơ. Ðây cũng chính là một bí quyết thành công của thơ phổ nhạc Phạm Duy.
Bài Vần thơ sầu rụng phổ thơ lục bát của Lưu Trọng Lư đã gây ấn tượng mạnh về
vòng quay của guồng tơ, bài Tiếng sáo thiên thai phổ bài lục bát của Thế Lữ lại
gây ấn tượng mạnh về giai điệu và tiết điệu vui nhộn của những nàng tiên. Những
bài thơ phổ nhạc thành công chính là những bài lột tả được chất thơ và gây được
ấn tượng sâu sắc cho người nghe. Toàn bộ trường ca này đã triệt để khai thác
nghệ thuật này. Ấn tượng về phần một là sự êm ả, sự vắng lặng, và sự mầu nhiệm
mà ba phân khúc nhạc đã tạo nên. Ấn tượng về phần hai là sự vật vã, khắc khoải.
Phần ba là sự an hòa trong sự cứu rỗi. Làm sao bắt được nhạc đề của bài thơ phổ
nhạc, hoàn toàn thuộc về sự bén nhạy của tư duy nghệ thuật của người nhạc sĩ. Nếu
những bài thơ hay là những bài thơ có thần thì những câu thơ phổ nhạc của Phạm
Duy cũng là những giai điệu có cái thần của chúng, tạo nên khí vị nhất quán khi
nghe riêng từng bài hay lúc nghe toàn thể chín phân khúc. Ma lực cuốn hút của
những phân khúc thơ phổ nhạc trong Trường ca Hàn Mặc Tử là ở những đợt cảm xúc
xô đẩy tới lui như những đợt sóng khác nhau dào dạt đuổi bắt nhau không ngừng.
Trường ca Hàn Mặc Tử là một kết tinh những đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của
Phạm Duy: nó thể hiện tính cách sáng tạo trong nghệ thuật phổ nhạc vào thơ, nó
cho thấy những cảm thông sâu sắc giữa hai tâm hồn nghệ sĩ với những hành trình
nội tâm gần gũi. Nếu thơ phổ nhạc thành công là một gạch nối đặc biệt giữa văn
học và nghệ thuật âm nhạc, thì Trường ca Hàn Mặc Tử còn có ý nghĩa một phác họa
chân dung một nhà thơ bằng âm nhạc. Giá trị của tác phẩm như vậy là đa dạng.
Hãy chỉ nhìn tác phẩm trong địa hạt âm nhạc thôi, Trường ca Hàn Mặc Tử cũng đã
là một tác phẩm đồ sộ: giai điệu phong phú, hòa âm tân kì. Tác phẩm để lại dư vị
ngất ngây và những bâng khuâng không dứt về thân phận người thi sĩ quá cố mà
cũng là của mỗi chúng ta. Ðạt được như thế không thể không có một khí lực âm nhạc
dữ dội.
(1) Bài thơ Tình quê đã in trong tập thơ đầu của Hàn Mặc Tử, Gái Quê, 1936.
(2) Phạm Duy, Về các bài thơ phổ nhạc - Về Trường Ca Hàn Mặc Tửø, Hợp Lưu số 15
(th.2/3.94), tr. 161-170
(3) Hàn Mặc Tử, Quan niệm thơ trong tập Chơi giữa mùa trăng. An Tiêm xb, 1972,
tr 31-40.
(4) Vũ Khắc Khoan, Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948), màn kết.
(5) Mượn lời của Mộng Liên Ðường chủ nhân khi đề tựa bản khắc Ðoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du.
(6) Xem: Ðặng Tiến, Ðức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử, Văn số 179 (1971), Võ
Long Tê, Lexpérience poétique et litinéraire spirituel de Hàn Mặc Tử và Quách Tấn,
Ðôi nét về HMTử. Paris: Quê Mẹ, 1988.
(7) Phạm Duy, Hồi Ký 3. CA: Phạm Duy Cường Musical Pub., 1992, tr.300
(8) Xem bài thơ Huyền Ảo và Cao Hứng
(9) Phạm Duy, Về các bài thơ phổ nhạc - Về Trường ca Hàn Mặc Tử, bđd, tr.164
(10) Phạm Duy, Hồi Ký 3, sđd, tr. 307.
(11) Phạm Duy, Hồi Ký 3, sđd, tr. 123.
Ðồn Xuân Kiên
đại lý vé máy bay eva tại tphcm
đặt vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay korean air
mua vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch