Vang bóng một thời - Nguyễn Tuân
Trong nền Văn Học Việt Nam, Nguyễn Tuân
(1910-1987) được mệnh danh là người viết tùy bút xuất sắc nhất. Tác phẩm đầu
tay “Vang bóng một thời” của ông do nhà in Tân Dân Hà Nội xuất bản năm 1940, vừa
phát hành đã được giới văn nghệ sĩ và người đọc hết sức tán thưởng, khen ngợi.
Tác giả ngay lập tức trở thành nhà văn nổi tiếng, “Vang bóng một thời” được
trao tặng giải thưởng Gia Long, kiêu hãnh đứng ngang hàng với “Hồn Bướm Mơ
Tiên” của Khái Hưng, “Đôi Bạn” của Nhất Linh. Từ năm 1940 cho đến nay “Vang
Bóng Một Thời” đã tái bản nhiều lần, và vẫn được công chúng thân ái đón nhận.
Là cây bút tài hoa bậc nhất của văn đàn Việt Nam từ năm 1938 đến năm 1987 và là
người có kiến thức uyên bác, Nguyễn Tuân không chỉ sính văn chương, am tường hội
họa, âm nhạc, điêu khắc, mà còn hiểu biết rất rõ hoàn cảnh chính trị, thời cuộc
thuở ấy. Ông thích lãng du giang hồ, từng bị chính phủ bảo hộ Pháp bắt giam, vì
dám đi Bangkok dù không có giấy thông hành. Cá tính của ông thật đặc biệt,
không giống bất cứ ai, có vẻ “hách xì xằng,” ngạo mạn, bất cần đời; nhưng thực
sự Nguyễn Tuân là người nhân ái, độ lượng, hết sức cảm thông với mọi người, vì
ông hiểu rõ nguồn cơn bối rối của mỗi một cảnh đời.
Mặc dù đầu đề là tập truyện, nhưng “Vang Bóng
Một Thời” được xem như thiên tùy bút tuyệt vời của Nguyễn Tuân. Toàn bộ tác phẩm
gồm mười hai đoản văn, xếp theo thứ tự: “Chém Treo Ngành (Bữa Rượu Máu), Những
Chiếc Ấm Đất, Thả Thơ, Đánh Thơ, Ngôi Mả Cũ, Chữ Người Tử Tù, Ném Bút Chì, Chén
Trà Trong Sương Sớm, Một Cảnh Thu Muộn, Báo Oán (Khoa Thi Cuối Cùng), Trên Đỉnh
Non Tản.” Ngòi bút tài hoa và văn tài lỗi lạc của Nguyễn Tuân đã mô tả
chi tiết những cảnh đời rất thực, những cảnh đời hư ảo, những chữ tình thanh
cao, những oán khí cuồng nộ. Mỗi một đoản văn là một tâm cảnh, một ván cờ bày
trắng bông đào, một thế sự du du nại lão hà [*] khiến người đọc cảm động chung
chia nước mắt ngậm ngùi, chung chia một tiếng cười vui với từng nhân vật.
“Chén Trà Trong Sương Sớm” như bức tranh nghệ
thuật, bàng bạc nét đẹp của hồn dân tộc, mời gọi người đọc tham dự nghi thức uống
trà tuy thanh đạm nhưng vô cùng thành kính của cụ Ấm: “Trời rét như cắt. Không
kể tiểu hàn, không kể cả đến đại hàn, buổi sớm mùa đông nào cụ Ấm cũng dậy từ
lúc còn tối đất… La liệt trên chiếc cói cạp điều đã sờn cạnh, cụ Ấm đã bày lên
đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ Mai Hạc kêu vang
lên một hồi rất giòn, rất đều. Khói thuốc lào đặc sánh lại bao trùm lấy ánh
sáng yếu ớt của một ngọn đèn dầu. Rồi làn khói loãng dần biến ra màu nhờ nhờ
như làn hơi nước sủi. Sau màn khói, ẩn hiện một ông già chống nạnh bên gối xếp,
cặp mắt lim dim như một nhà sư nhập định. Vẻ nghiêm trang lặng thinh của ông
già, muốn làm ngừng cả áng khói trắng hiếu động đang trôi trong không khí gian
nhà gạch. Ba gian nhà, chỉ có một người thức.”
Khung cảnh liêu trai chí dị của trường thi
trong “Báo Oán,” khiến người đọc tưởng như nhìn thấy linh hồn của người phụ nữ
tài sắc nổi tiếng một thời, trở về đòi món nợ tiền kiếp, khi người lính bắc ống
loa hô trong đoạn:“- ‘Báo oán giả tiên nhập. Báo ân giả thứ nhập. Sĩ tử thứ thứ
nh…ập.’
Có lẽ đoạn khấn này là khoản chú trọng nhất của
lễ tam sinh và đã được quỷ và thần chứng giám. Người lính tuần mặc áo nẹp đỏ vừa
được lệnh đổ chén rượu cúng xuống tàn lửa đống vàng đang hoá dở, thì những đầu
ngọn cỏ may im lìm nơi bãi trường thi đều rung lên một nhịp và theo một chiều.
Người ta, hồi nãy sống một cơn mơ giữa khoảng ban ngày u uất, bây giờ trông thấy
một cơn mơ đang tàn dần. Một thứ gió u hiển thổi thốc mãi vào bãi trường, nghe
lào xào như có tiếng người chen chúc và chạy vào choán chỗ. Những cây nến cháy
vạt ngọn bỗng tắt phụt hết. Không gì xa vắng bằng cái động đậy trong đìu hiu của
muôn loài…Tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh. Ông Đầu Xứ Anh nghe tiếng
hô, mặt nhợt nhạt, luôn luôn nhìn trộm em…” Hai anh em ông Đầu Xứ nổi tiếng
hay chữ nhất vùng Sơn Nam hạ, đành ngậm ngùi ca thán thi không ăn ớt thế mà cay
[2], khi nàng hầu của cha họ thề báo oán.
Ngoài “Vang Bóng Một Thời,” nhà văn
sinh trưởng ở xã Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận
Thanh Xuân, Hà Nội, còn có những tác phẩm nổi tiếng khác, như: “Ngọn Đèn Dầu Lạc
-1939,” “Chiếc Lư Đồng Mắt Cua -1941,” “Tàn Đèn Dầu Lạc – 1941,” “Một Chuyến Đi
– 1938,” “Tùy Bút -1941,”…v.v…Cho dẫu viết dưới chủ đề nào, tác phẩm của Nguyễn
Tuân vẫn đẹp như tranh vẽ, vẫn đầy chất thơ, chẳng khác gì cuộc đời phiêu lãng
rất nghệ sĩ của ông. Những buổi chiều máu lửa chém treo ngành; những hình ảnh
hư thực gợi giấc mơ hoài cổ theo giòng suy tưởng về cái ấm đất, về chén trà
trong sương sớm; cảnh nước nhược non bồng trên đỉnh non Tản, không khí ma
quái trong báo oán; thú chơi thư pháp tao nhã đã khiến viên quan cai ngục khiêm
tốn kiên nhẫn, xin cho được chữ người tử tù… Nguyễn Tuân thinh lặng làm sống dậy
một giai đoạn nhiều biến động trong lịch sử, để công chúng tự đọc, tự suy nghĩ,
tự nhận xét, tự phê bình về một thời vang bóng.
[*]. “Thuật Hoài.” Của Đặng Dung.
[1]. “Mai Mà Tớ Hỏng.” Của Trần Tế Xương.
[1]. “Mai Mà Tớ Hỏng.” Của Trần Tế Xương.
Hoàng Nhất Phương
Theo http://baotreonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét