Đọc thơ Hồ Xuân Hương, tản mạn
về
Trong dòng Ngân Hà lấp lánh
muôn ngôi sao khổng lồ của văn minh nhân loại, nhiều ngôi sao Việt xuất hiện, mỗi
người một bản sắc riêng nhưng họ đã mang lại cho nền văn hóa phương Đông những
áng thơ văn bất hủ. Bên cạnh những áng văn gắn liền với những biến cố thăng trầm
của lịch sử, thì đây là lúc âm giai của thân phận con người, kiếp nhân sinh gắn
bó với những tư tưởng khai phóng cho văn hóa nhân loại được cất tiếng. Có Nho,
có Phật, có Lão và có cả những quy luật vũ trụ mà Thần Phật đã đặc định cho con
người như là Đạo Đức dân gian. Đó là tiếng khóc, là nụ cười chen nhau. Đó là những
đam mê làm cho con người khổ lại chồng chất thêm khổ não. Đó là những bất chợt
được giác ngộ được phá Mê để minh triết những vấn đề cốt lõi mà Thần Phật đã
khuyên dạy con người giải Mê, thoát khổ, đến với cảnh giới khác.
Cuộc đời với bao nhiêu nghịch
cảnh trái ngang. Biển khổ không chỉ nằm ở cuộc bể dâu của “bao phen thay đổi
sơn hà” mà bể luân hồi vỗ sóng trong mỗi con người, mỗi thân phận. Cánh mày râu
viết về phái nữ để nói cuộc nhân sinh và gửi gắm tâm sự của chính mình thật là
nhiều. Nguyễn Du lạc vào” cõi người ta “trong thân phận bầm giập Thúy Kiều; Đặng
Trần Côn chiêm nghiệm thân phận ở cái thời cuộc “Thiên Địa phong trần” đọa đầy
Chinh phụ khiến “hồng nhan đa truân”… Nhưng để có một tiếng nói từ một
người đàn bà, chiết luyện trong nỗi đau tâm não của người phụ nữ thì chỉ có Hồ
Xuân Hương là cho ta thấy rõ nhất. Tâm trạng day dứt không yên, nhãn quan nhìn
cuộc sống, lời yêu thương nồng nàn hay bi ai tuyệt vọng … hầu như có đủ trong
những bài thơ ít ỏi nhưng cực kỳ cô đúc, cực kỳ tự nhiên của bà. Thơ Đường luật
với bao nhiêu quy phạm nhưng Hồ Xuân Hương đã làm cho người ta không hề có một
cảm giác quy phạm nào. Tôi cho rằng, đó là Thiên Tài tầm cỡ…
Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài
ba ở nước ta vào cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Bà là người xã Quỳnh Đôi,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ngoài tập “Lưu Hương kí” bà còn để lại khoảng
50 bài thơ Nôm, phần lớn là thơ đa nghĩa, vừa có nghĩa thanh vừa có nghĩa tục.
Một số bài thơ trữ tình đằm thắm, thiết tha, buồn tủi… thể hiện sâu sắc thân phận
người phụ nữ trong xã hội cũ, với bao khao khát sống và hạnh phúc tình duyên.
Thơ của họ Hồ không phải là lục bát, không gần với ca dao hò vè, không có khả
năng cho các nghệ sĩ đàn bầu, đàn cò ngồi ở ngã ba đường, ở những lều nát góc
chợ ò e như “Phụ tử tình thâm, Công thầy nghĩa mẹ.. “. Thơ của bà phần lớn là
THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT, một thể thơ bác học, thường rất trang trọng giành
cho giới chủ lưu, thượng lưu trong xã hội. Ấy vậy mà, kỳ lạ thay, thể thơ bác học
ấy lại được Dân gian tiếp nhận và lưu truyền trong quảng đại nhân gian. Đây là
điều có lẽ Đỗ Phủ, Lý Bạch khó có thể làm. Người Trung Quốc coi Bạch Cư Dị là
nhân vật thứ Ba sau hai đỉnh núi không ai với tới. Nhưng ngay cả ngọn Thái Sơn
Đỗ Phủ, ngọn núi Kính Đình Lý Bạch cũng phải mơ ước với đỉnh Côn Luân mây bay
ngũ sắc đầy lời ca tiếng hát dân gian. Đó là thi ca họ Bạch. Nhà thơ này thường
chinh phục mọi người bằng thơ Ngũ Ngôn. Và Đỗ Phủ muốn vào nhân dân cũng phải
qua con đường này.
Đọc Hồ Xuân Hương, tản mạn về
cái mê cái tỉnh của người xưa, tôi muốn các bạn đọc bài thơ nổi tiếng của bà có
tiêu đề “Tự Tình”:
Đêm khuya, văng vẳng trống
canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Bối cảnh là ban đêm, sự kiện
là tiếng trống cầm canh. Ngày xưa, khi chưa có đồng hồ Tây đánh chuông treo
trong nhà Nghị Quế thì cha ông chúng ta thường phân thời gian MỀM hơn. Đêm có
năm canh, ngày có sáu khắc. Một thời thần ngày xưa là gần với 2 giờ đồng hồ hôm
nay. Vị chi là một ngày chỉ có 12 thời thần ứng với 12 con giáp. Ông ngoại tôi
trước đây, đúng ngày Khuất Nguyên nhảy tắm sông Mịch La là cho bọn trẻ đúng giờ
Ngọ nhảy xuống sông La tắm gội rồi mới về ăn bánh trái cúng một người ái quốc
và chính trực. Người ta không có đồng hồ, nhìn mặt trời mà ước lượng. Ai đó chê
bai ngày xưa là lạc hậu, là không có phương tiện khoa học… Tôi ưa những giá trị
xưa!
Không phải tất cả đều là Thần
an bài cả sao? Mặt Trời rụng nở cũng rất chính xác, cũng là an bài .Vũ trụ thăm
thẳm kia chuyển động một cách TOÀN CƠ và bí ẩn đến mức Newton phải thốt lên đầy
cảm khái tấm lòng kính ngưỡng Thượng Đế cũng là sự an bài. Ngày xưa, cả Đông lẫn
Tây đều có những cách thức để báo thời gian. Chỉ có Khoa học khi thâm nhập vào
đời sống con người thì thời gian mới chi li để một phần tỷ giây. Nó tương thích
với những tiện nghi với tốc độ các thiết bị và tốc độ sống. Hóa ra, cái hệ thời
gian chi ly nó kết duyên với Khoa học. Và con người không tương thích với nó
nghĩa là mâu thuẫn với khoa học. Vâng, cứ bình tĩnh, bình tâm suy nghĩ đi. Khoa
Học mà chúng ta đang mê tín nó như một Tôn Giáo liệu có phải là cho con người sống
được hạnh phúc trong sự dung hòa của Thiên, Địa, Nhân?.
Tôi đã từng viết, từng dạy
trò mình nhiều lần. Bài nào cũng mục to, mục nhỏ. Bài nào cũng phải là logic.
Khoa học thâm nhập vào cái gọi là Khoa Học Xã hội để băm vằm một bài thơ bài
văn. Kể từ khi tôi thấy cần tôn trọng hơn những giá trị truyền thống, tôi thấy
cha ông xưa đã đi theo một thứ khoa học khác. Họ cũng sáng tạo nghệ thuật tuyệt
đỉnh, cũng thù tạc và thưởng thức nghệ thuật vô cùng tinh tế. Thử đọc VĂN TÂM
ĐIÊU LONG của Lưu Hiệp xem, ông rất quan tâm tới những yếu tố tín ngưỡng trong
hành vi sáng tạo cũng như thưởng thức nghệ thuật. Chúng ta hiện nay quá sùng
bái khoa học phương Tây, cách tiếp cận văn chương theo Tây. Bây giờ mà nói với
mọi người những từ ngữ vô cùng phong phú trong thẩm định nghệ thuật như: ” tứ,
thần, tâm, tính, khí, lực, phong thái, cốt cách… “Nhiều người thấy xa lạ, thậm
chí cười mỉa mai to thành tiếng. Đáng tiếc là những gì tinh túy, là chân lý của
vũ trụ chúng ta lại dùng khoa học thực chứng, là cái Mê nhất của con người, để
loại bỏ nó.
Vì thế, bàn về câu thơ “Đêm
khuya, văng vẳng trống canh đồn”, tôi đã đi sai quy trình khoa học. Tôi cố ý
như vậy mong có một ai đó đồng tình. Thời nay, khoa học thực chứng là hơi thở,
là cơm nước hàng ngày không ai dám bỏ nó. Nhưng hy vọng con người hãy nhìn nó ở
chiều khác để tránh Mê, để làm người tỉnh táo. Và hưởng thụ những giá trị thực
sự khi đặt mình vào sinh mệnh TỰ NHIÊN NHƯ NHIÊN của vũ trụ.
Ngày xưa, ban ngày Sáu khắc,
ở nhà mình, đã có cái HỒ nhỏ và cái bình làm bằng ĐỒNG đựng cát, hoặc nước cho
nó chảy ra HỒ. Ta có Đồng Hồ. Nhưng ban đêm có chòi canh, có những người lính lệ
thức đêm để đánh trống báo hiệu thời gian của đêm. Về cách đo đếm thời gian của
người xưa, chúng ta cũng được nghe nhắc đến các khái niệm “Khắc lậu”, “Giọt rồng”,
“Giọt đồng”, “Thủy lậu” và “Sa lậu”. Một số khái niệm được nhắc đến trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du:
Ðêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng tàn ngậm gương
(câu 1121 và 1122)
Giọt rồng canh đã điểm ba
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm
(câu 1865 và 1866)
Gió cây trút lá trăng tàn ngậm gương
(câu 1121 và 1122)
Giọt rồng canh đã điểm ba
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm
(câu 1865 và 1866)
Để đo lường thời gian, người
xưa chỉ dùng một ít dụng cụ thô sơ. Dụng cụ đó là “đồng hồ thái dương” (mặt trời)
được coi như xuất hiện trước nhất do tinh thần sáng tạo mộc mạc của con người
lúc bấy giờ. Vật này gồm có một cái trụ đứng thẳng giữa một cái khung bán
nguyệt bằng phẳng gọi là nhựt quỹ, có chia từng gạch. Mỗi gạch là một giờ. Mặt
trời chiếu xuống trụ và bóng trụ ấy rọi xuống nhựt quỹ, rồi người ta căn cứ vào
đó mà định giờ. Cố nhiên, cái “đồng hồ thái dương” này chỉ có thể dùng ban ngày
và khi trời tốt, có bóng mặt trời. Tuy nhiên, vì nhu cầu đời sống bắt buộc, con
người vốn luôn luôn có óc sáng tạo nên phải tìm một vật khác- có tiến bộ hơn- để
tiện lợi trong việc đo thời gian, phân định giờ lẫn ngày và đêm. Ðó là cái “khắc
lậu” hay cũng gọi là “thuỷ lậu”. “Thuỷ lậu” là nước rỏ xuống từng giọt. “Khắc lậu”
là giọt nước rỏ thành khắc. Ðồng hồ là một cái hồ bằng đồng, trong đựng nước.
Dưới có lỗ nhỏ để nước rỏ từng giọt ra ngoài. Mỗi khắc đồng hồ qua thì nước
trong hồ vơi đi một ít. Muốn cho có vẻ mỹ thuật, người ta chạm hình đồng hồ này
thành một con rồng, hoặc chạm chỗ vòi rỏ nước xuống. Do đó mới gọi là “giọt rồng”
hay “giọt đồng” vì cái hồ bằng đồng. Cũng dựa trên cách làm này, người ta
sáng chế thêm là làm một quả tròn và bộng bằng đồng có xoi một lỗ nhỏ. Quả này
được thả nổi trong một chậu nước. Nước chui vào quả tròn bộng này, và khi quả
tròn đầy nước tất chìm xuống chậu. Khi nhìn thấy hoặc nghe tiếng kêu thì người
ta vội vớt trút nước ra, rồi đặt lại trên mặt nước như cũ. Cứ mỗi lần như vậy
là một giờ hay một thì. Ðồng hồ nước này (khắc lậu hay thuỷ lậu) cũng có nhiều
bất tiện. Vì ở miền hàn đới, trời quá lạnh, nước đọng thành giá tất đồng hồ nước
này mất hiệu lực. Do đó, người ta phải nghĩ tìm cách khác là không dùng nước mà
dùng cát. Ðồng hồ này gọi là “sa lậu”. “Sa lậu” hình giống như hai con vụ giao
đầu nhọn lại nhau. Cát chảy từ phần trên xuống phần dưới thông qua một cái lỗ
nhỏ. Mỗi khi hết thì có cách lật ngược trở lên. Tuy vậy cũng có điều bất tiện
là không có tiếng kêu, phải có người tốn công trông chừng.
Tiếng trống mà Xuân Hương
nghe rất có thể là cầm canh Bốn canh Năm. Bởi nhà thơ biết “Đêm khuya”. Có thể
mô phỏng câu thơ Xuân Diệu: “Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya” để viết lại:
“Tiếng trống canh văng vẳng dồn dập tới báo hiệu đêm đã khuya”. Hóa ra không cần
có tiếng trống thì Nữ nhân vật trữ tình này đã biết đêm khuya. Thức lâu ngần ấy.
Ý thức sự hiện diện của mình trong bóng đêm lâu ngần ấy thì tiếng trống cầm
canh vang lên chỉ là xác nhận cho Xuân Hương biết rằng “đêm đã khuya”. Trống
cầm canh thì luôn đơn điệu và vô hồn. Nó từ xa vọng lại khi rõ khi không nên
“văng vẳng”. Đáng nói là cái động từ “”dồn” gấp gáp, xô đẩy, dồn nén rất bất ngờ,
bất thường ở một thứ âm thanh vốn dĩ nó không như vậy.
Cái mà những người làm
nghiên cứu văn học hay nói ấy là Khách thể trở thành Chủ thể. Đây là hoạt động
Tâm lý ” khách thể hóa” đối tượng để chia cái tôi ra hai, ba bản ngã khác nhau.
Điều này xảy ra khi tâm lý, tình cảm của con người bị xáo động ghê gớm.
Khoa Học Thần Kinh, đặc biệt
là các nhà phân tâm học theo trường phái Freud hay Jung đã khoa học hóa nó. Các
nhà Xuân Hương học Việt Nam cũng lõm bõm một thứ đầu voi đuôi chuột để giải
thích thơ ca của bà có tính Dâm là do hành vi, kinh nghiệm và nhận thức của con
người phần lớn được định hình bởi các xung năng bẩm sinh và phi lý. Những xung
năng này mang bản chất vô thức. Họ cho rằng cái dục tính tình dục là cái tiềm
năng dữ dội của con người. Cần giải phóng thì mới là người thường. Đây là tiền
đề cho cái gọi là Giải phóng tình dục ở phương Tây và những hành vi này âm thầm
nhưng phát dục một cách đồi trụy ở phương Đông.
Phật Thích Ca từng giảng thế
giới càng nhiều dục vọng càng nhiều Mê. Cái điều mà ta tưởng như rất khoa học về
khách thể và chủ thể được Đức Thích Ca gọi là Tùy Tâm Nhi Hóa. Nó có quan hệ hết
sức phức tạp của cái thế giới còn phức tạp hơn vũ trụ này của chúng ta là SINH
MỆNH CON NGƯỜI. Nếu cứ cắm đầu mà tin cái ông Charles Robert Darwin rằng con
người bắt đầu từ loài vượn thì mãi mãi con người vẫn là bí mật của chính cõi Mê
con người. Chỉ nội trong hệ Ngân hà vốn chỉ là hạt bụi bé tý tẹo của Tầng vũ trụ
Thứ Nhất trong vô số vũ trụ mênh mang hơn, con người thừa nhận chỉ mới biết được
chừng 4%. Còn lại là vật chất Tối, năng lượng Tối. Trong 4% con người nói biết
chỉ là bề mặt. Cấu trúc của Nguyên tử chúng ta mới biết cách đây chưa tới 200
năm. Khám phá thêm nữa lại có hạt này, hạt kia. Giờ đây, đang dừng lại ở các hạt
như các quark, lepton (electron, positron, neutrino. ..). Với một vị Phật, thì
hành trình mà loài người đi đến khám phá thế giới vi mô, vĩ mô là BẤT KHẢ TƯ
NGHÌ. Thành thử, ai đã bước vào Tu luyện, họ sẽ có những cánh cửa khác để
nhìn thế giới. Con người ngày xưa, cho dù không thực sự là Phật Tử, là tu Đạo
gia nhưng họ sống với cái trường năng lượng Đạo đức ấy, họ có những trí huệ
tiên thiên của Thần Thánh ban cho nên những trạng thái tâm hồn của họ rất khác
với con người mà chúng ta vẫn tự hào cho là hiện đại hôm nay.
“Trống canh dồn” báo hiệu
đêm sắp tàn, đêm đã khuya lắm rồi. Ngày mới, ban mai sắp rạng rỡ phải chăng
đang phát ra những tín hiệu tích cực? Câu thơ hình như không muốn cho ta cái
thông báo ấy. Nó cho thấy cái bối rối, thậm chí cái hoảng hốt của một người
phát hiện thời gian trôi đi, kiếp người đang trôi đi mỏi mòn không có cơ hội trở
lại. Cảm thức thời gian cũng là cảm thức về thân phận mình đang mất dần tinh lực
sống, tinh lực tuổi trẻ. Quả thế, nhà thơ thấy mình cô đơn:
Trơ cái hồng nhan với nước
non
“Hồng nhan bạc mệnh” là một
thành ngữ và là chủ đề cho hầu hết những tác phẩm như Kiều, Cung Oán ngâm,
Chinh Phụ ngâm … Xác định mình đã là hồng nhan, ắt là bạc mệnh nên “vật hóa”
mình bằng từ “CÁI” thật cay đắng. Cái hồng nhan ấy dường như nó ngoại thân, nó
không phải là mình. Nữ sỹ nhìn nó mà chẳng có chút cảm tình. Cái hồng nhan ấy
nó trơ trơ. Nó trơ tráo, trơ trẽn. Nhưng ở phương diện khác lại là khẳng định,
thách thức. Cái hồng nhan này trơ như đá, vững như đồng không dễ người khác làm
biến dịch, biến di tâm tính của Nó. NƯỚC NON trong câu thơ dễ thấy trong cái
thành ngữ THỆ HẢI MINH SƠN, thề non nước của người xưa. Cái hồng nhan ấy vẫn
không nguôi lời thề với một người đã kết giao nguyện ước!
Chén rượu hương đưa say lại
tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Người phụ nữ thức trong đêm
là khách phong lưu. Có thể tưởng tượng cô đang ngồi độc ẩm ngắm trăng như Lý Bạch
ngày xưa:
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
(Cất chén mời trăng sáng,
Mình với bóng là ba)
Đối ảnh thành tam nhân.
(Cất chén mời trăng sáng,
Mình với bóng là ba)
Xưa nay, những bậc thượng
lưu, chính nhân quân tử dùng rượu để luận anh hùng, độc ẩm để giải sầu muộn. Một
người phụ nữ đa tình, đa tài, đa cảm hẳn nhiên khi uống rượu là có điều sầu khổ
riêng tư rất khó nói phải dồn nén trong tâm. Thường đó là trạng thái tương tư,
nhớ nhung dằn vặt. Đây là bi kịch, là khát vọng thường vượt xa cái thực tại mà
mình đang đối diện. Đây là tâm sự, tâm trạng của những Hăm lét, của những Từ Hải
muốn tháo cũi sổ lồng khi nhìn thấy cái phi lý của cả một hệ thống quan niệm cản
trở khát vọng nhân văn. Xuân Hương muốn bứt phá cái quy luật hồng nhan bạc mệnh.
Bà thấy phi lý sự phân chia giới tính lại tạo nên những khổ đau oan trái giành
cho nữ giới. Trăn trở này là khát vọng nhân văn. Nó không tầm thường như ai đó
cố dung tục khát vọng bản năng con vật trong bài thơ thuần khiết, đạo đức này!
Chữ HƯƠNG ở đây là hương thơm của hơi rượu. Nhưng nó đồng âm với tên của nữ sỹ.
Vậy có thể có cách hiểu: Chén rượu Hương đưa cho Hương khiến say rồi tỉnh lại.
Ai đó đã nói: “Khi ta say đến trở thành rất tỉnh” quả là một quy luật kỳ lạ
nhưng có thật trong thế giới con người. Vật cực tất phản cũng là quy luật của
Vũ trụ!.
Đạo gia dùng rượu đế đánh mê
Chủ nguyên thần. Họ cho rằng, con người Mê rất khó độ nên đành cứu Phó nguyên
thần vậy. Ở trong Mê của Danh, Lợi,Tình mà phát hiện những giá trị ấy giả tạm
thì ở mức độ nào đó con người ấy đã giải Mê, giải độc của Thế gian. Bởi vì, nó
thường đem đến phiền muộn và các phản ứng tiêu cực.
Nhìn bề ngoài ta thấy có hai
Xuân Hương đang thù tạc tri âm cùng nhau. Cái số hai ấy làm cho cái số một, cái
lẻ loi còn tăng gấp bội. Nhưng, theo tôi, trong nội hàm của nó. Đây chính là phần
Tỉnh đang đánh thức phần Mê của mình để cả Hai cùng tỉnh. Đây là ý nghĩa và
cũng là hành động tích cực, chủ động mà Xuân Hương nói với chúng ta. Thật thấm
thía, thật sâu sắc. Vâng, những quan ải trong cuộc đời mình hãy cố gắng dùng
trí huệ của mình mà vượt. Truy cầu bên ngoài là mình đang đầu hàng chính mình!
Câu thơ sau nói về Trăng. Chỉ
đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du ta thấy Trăng với người xưa là biểu tượng của hạnh
phúc.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng, một lời song song
Đinh ninh hai miệng, một lời song song
Khi mà cái hạnh phúc bị xâu
xé bởi Thúc Sinh, Hoạn Thư, Thúy Kiều thì Nguyễn Du viết:
Một VÀNH trăng khuyết, ba
sao giữa trời.
Hồ Xuân Hương nhìn Trăng khi
đêm khuya, ở một góc trời xa xôi: “Vầng trăng bóng xế”. Và không thản nhiên
chút nào. Bà nhận xét rằng, vầng trăng ấy “khuyết chưa tròn”. Đến đây thì ta đã
hiểu tại sao nhà thơ lại gọi Trăng là VẦNG một cách trang trọng như thế. Đây là
Trăng Thượng Huyền hình con thuyền đang lướt sóng. Câu thơ hàm chứa những năng
lượng tích cực. Hoàn cảnh thực tế bi đát. Nhưng cái Tâm Chí của nhà thơ không
thừa nhận hoàn cảnh ấy.
Hai câu Luận có đặc điểm rất
rõ của hai câu thực. Xuân Hương dùng cái Thực để bình luận, ẩn dấu cái Tâm Chí
mạnh mẽ vượt hoàn cảnh của mình. Ta có thể hình dung người phụ nữ ấy đã ngồi
bên án độc ẩm với mình cho tới đêm khuya. Buồn nhưng không bi quan, đầu hàng số
mệnh. Nhìn Trăng để có thêm hy vọng. Rồi cô đã đứng lên, đã ra ngoài đài trang
gương lược trong nhà để đến bên hòn Non Bộ. Cô nhìn thấy trong các đám rêu thảm
rêu nhưng thân rêu bèo bọt nhỏ xíu như tóc đang bừng bừng sự sống. Thật hiếm ai
mà tả rêu, một biểu tượng của thân phận dưới đáy lại kỳ lạ như nhà thơ nữ họ Hồ.
Nghệ thuật đảo ngữ đã phát huy hiệu quả thật tích cực. Rêu tự thân, chủ động khẳng
định mình. Câu thơ đáng lẽ viết:
Từng đám rêu xiên ngang mặt
đất
Nhưng thật sống động khi Hồ
Xuân Hương viết đảo lại :
Xiên ngang mặt đất rêu từng
đám
Câu tiếp theo cũng vậy. Đáng
lẽ là:
Mấy hòn đá đâm toạc chân
mây.
Thì Xuân Hương lại viết :
Đâm toạc chân mây đá mấy
hòn.
Hóa ra “Trơ cái hồng nhan”
như đá kia không phải là trơ lạnh, trơ tráo ngẩn ngơ. Mà là định vị kiên trinh
một tính cách. Chủ ý thức rất mạnh mới có bản lĩnh ấy. Cảnh được miêu tả hình
như ở hòn non bộ nhưng nếu đọc qua, rất nhiều người cảm giác đó là không gian
Nước Non khoáng đạt rộng rãi ngoài kia. Cái đáng nói là rêu đang cố tạo chiều
ngang, tạo trục Hoành; đá đang vút lên theo chiều dọc, tạo trục Tung. Cả hai dường
như đang bứt phá và phối hợp với nhau cái tư thế, tâm thế Tung Hoành ngang dọc
của Đấng trượng phu, nam nhi chi Chí. Thật ngoạn mục. Người phụ nữ ấy đã đứng
ngoài định kiến xã hội, đã phủ định cái gọi là HỒNG NHAN BẠC MỆNH của thân phận
cây rêu, cái kiến kêu gì được oan.
Hai câu kết không tránh nỗi
ngậm ngùi. Cái lạ là nữ sỹ không so sánh với một người phụ nữ nào đó hạnh phúc
để thấy mình bất hạnh mà là đặt mình vào một đối tượng to lớn, vô hình nhưng
cũng rất thực thể. Đó là Cao Xanh, con Tạo, là mùa Xuân vĩnh cửu mà họ sáng tạo.
Nữ sỹ dường như đứng ngoài mà mỉa mai, mà thầm chất vấn:
Tại sao quy luật tạo hóa là
vĩnh viễn, nhưng không cho cuộc đời, cho hạnh phúc con người là bất tử? Con người
là sống với Tình. Không có chữ Tình tầng thứ của nhân loại không tồn tại. Nhưng
cũng chính vì thế mà con người Mê. Trước những điều khó hiểu của Luật Nhân quả,
con người thường khó hiểu và không dám thừa nhận nó. Vậy mới khổ. Nguyễn Du
than:
Nỗi hờn kim cổ Trời khôn hỏi
Và càng hiện đại, con người
càng tuyệt vọng, càng rối rít đề xuất ra lối sống Vội Vàng . Dù có giải thích
đó là sống có ý nghĩa, sống đích thực ra sao, trong cái nhìn minh triết cổ xưa
từ Phật, Lão đó là Mê:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân
đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân
sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi
cũng mất.
(Xuân Diệu)
Cũng từng chứng kiến quy luật
Tạo hóa ấy nhưng Mãn Giác Thiền sư là người tu luyện. Ông biết cái thở dài của
Nguyễn Du, Xuân Hương, Xuân Diệu… lẽ ra không đáng có. Khi người ta chứng ngộ,
có những thế giới khác mỹ diệu hơn đang chờ đón chúng ta. Xin được đọc bài thơ
của ông qua bản dịch của Ngô Tất Tố:.
Xuân ruổi trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.
Một nhành mai Xuân xin dâng
tặng nữ thi sỹ họ Hồ. Bài thơ của bà cũng đang nở sắc xuân trong lòng người hôm
nay. Nỗi buồn của Xuân Hương thánh thiện, lạc quan làm sao. Đó là nỗi buồn tịnh
hóa tâm hồn, là nỗi buồn vượt lên nghịch cảnh, là sự tỉnh của cơn mê trong cõi
hồng trần. Chỉ có thể có tâm thế này, con người mới bảo tồn được Đạo Đức. Và
đây chính là nhân tố khiến loài người gìn giữ văn minh của mình, là bệ phóng để
đi tiếp con đường thần thánh không oán trời, không trách đời mà biết gánh chịu
những thập tự giá cùng các Đại Giác Giả độ nhân.
Tiểu mục Văn thơ là bức ký họa
thơ ca, tản văn, âm nhạc mà chuyên mục Văn hóa Thời báo Đại Kỷ Nguyên muốn dành
tặng cho độc giả, để tìm về với nơi thuần khiết sâu thẳm nhất của chính mình,
như một nốt lặng trầm quý giá trong bản nhạc cuộc sống thường nhật ồn ào, sôi động.
La Vinh
máy bay eva air
book vé máy bay đi mỹ
lịch bay của korean airlines
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich